Nếu tôi chọn suy nghĩ hạnh phúc, tâm trạng của tôi sẽ hạnh phúc

Lời Hay Ý Đẹp 

Nếu tôi chọn suy nghĩ hạnh phúc, tâm trạng của tôi sẽ hạnh phúc sướng vui. Nếu tôi chọn suy nghĩ tiêu cực, tâm trạng của tôi sẽ trở nên tồi tệ. Suy nghĩ của tôi tạo ra tâm trạng. Điều đó thật đơn giản, hãy thử bạn nhé.

Đừng nghĩ mãi về quá khứ. Nó chỉ mang tới những giọt nước mắt. Đừng nghĩ nhiều về tương lai. Nó chỉ mang lại lo sợ. SỐNG Ở HIỆN TẠI VỚI NỤ CƯỜI TRÊN MÔI. Nó sẽ mang lại niềm vui cho bạn.

Đừng mơ trong cuộc sống…mà hãy sống cho giấc mơ.

Cuộc sống không có nghĩa là dễ dàng. Nó luôn luôn biến động.

Đôi lúc hạnh phúc, có lúc lại khổ đau… Nhưng với tất cả những bước“THĂNG TRẦM” trong cuộc sống, bạn lại học được những bài học làm cho bạn MẠNH MẼ LÊN.

Đôi lúc bạn đối mặt với khó khăn không phải vì bạn làm điều gì đó sai mà bởi vì bạn đang đi đúng hướng.

Những điều tốt đẹp đến với ai tin tưởng, những điều tốt hơn đến với ai kiên nhẫn và… những điều tốt nhất chỉ đến với người không bỏ cuộc.

Không quan trọng quá khứ bạn khắc nghiệt thế nào, bạn luôn luôn có thể bắt đầu lại.

Sưu Tầm


 

 LŨ KHÔNG TỪ TRỜI, MÀ TỪ NGƯỜI

Việt Tân

Năm nào cũng có lũ. Năm nào dân cũng leo lên mái nhà để trốn nước. Và năm nào, người ta cũng thấy lãnh đạo “lội nước thăm dân”, “trao quà động viên”. Nhưng sau tất cả những hình ảnh ấy, là nỗi đau, là mất mát một mình dân gánh chịu.

Lũ lụt không còn là thiên tai đơn thuần. Đó là hậu quả của một hệ thống quản trị yếu kém và phát triển thiếu tầm nhìn. Rừng đầu nguồn bị chặt phá để làm thủy điện, đất bị bê tông hóa để xây khu du lịch, lòng sông bị lấn để dựng khu đô thị. Khi nước không còn đường thoát, thì chính người dân là những là nạn nhân của các chính sách ấy.

Trách nhiệm ấy thuộc về ai, nếu không phải là những người cầm quyền? Không thể mãi đổ lỗi cho thiên nhiên trong khi rừng bị bán, sông bị lấp, và ngân sách lại dành hàng ngàn tỷ để dựng tượng đài thay vì hệ thống thoát nước.

Người dân không cần những chuyến “thăm hỏi giữa nước”, họ cần những chính sách thật, hành động thật, để không còn phải sống trong cảnh phập phồng lo sợ mỗi khi mùa lũ về.

Bao giờ thì chính quyền mới đứng ra chịu hậu quả do chính mình gây ra? Bao giờ thì mới chịu trách nhiệm trước thiên nhiên mà họ tàn phá, và nhận tội trước nhân dân của mình?

Hiểu Lam


 

Sự cố hai tấm bảng tên “Ngài Pete Hegseth” và “Ông Hùng Cao”…

Nhật Ký Yêu Nước

Sự cố hai tấm bảng tên “Ngài Pete Hegseth” và “Ông Hùng Cao” tại buổi tiếp đón Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ là một vết nhơ khó rửa. Một bên được tôn xưng “Ngài” đầy đủ, bên kia chỉ là “Ông” cộc lốc, dù cả hai đều cùng cấp bậc. Hành chính Việt Nam lại lộ rõ bản chất hình thức, quan liêu: loay hoay với chữ nghĩa bề ngoài mà quên mất nội dung cốt lõi là sự tôn trọng đối tác. Một hệ thống như vậy không chỉ thiếu chuẩn mực mà còn tự hạ thấp mình trước bạn bè quốc tế.

Trong ngoại giao, chi tiết nhỏ chính là danh dự lớn. Một chữ sai, một danh xưng thiếu, một bảng tên lệch cấp đều đủ để đối phương nhận ra sự cẩu thả, thiếu chuyên nghiệp. Với ông Hùng Cao – người Mỹ gốc Việt, cựu sĩ quan Hải quân, thứ trưởng Bộ Quốc phòng – cách gọi “Ông” thay vì “Ngài” không chỉ là lỗi kỹ thuật, mà là sự cố tình hạ thấp. Họ sợ ghi “Ngài Hùng Cao” vì cái tên ấy gợi nhớ đến người Việt tị nạn, đến VNCH năm xưa, đến những thành tựu mà chính quyền hiện tại không bao giờ muốn công nhận. Đó là thù hằn kiểu khỉ rừng: nhỏ mọn, nhớ dai, ghen tị với chính đồng bào mình.

Nửa thế kỷ trôi qua, vết thương cũ vẫn rỉ máu trong lòng một bộ phận quan chức. Ông Hùng Cao là người Mỹ thực thụ, nhưng gốc Việt, thành công bằng chính nỗ lực của mình trên đất Mỹ. Vậy mà về nước, lại bị đối xử như kẻ thù. Đừng tưởng người Mỹ không hiểu tiếng Việt hay không nhận ra sự bất thường. Cái cách viết bảng tên này không chỉ làm mắc cở cho người Việt Nam, mà còn phơi bày một xã hội bị lòng tiểu nhân của cộng sản chi phối: kỳ thị người cũ, ganh ghét người mới, tự ái Bắc cụ, thiếu phong độ của một quốc gia biết nhìn xa.


 

HÃY BẮT ĐẦU BẰNG VIỆC DẸP BỎ LỰC LƯỢNG DƯ LUẬN VIÊN CHỬI BẬY ĐI.

Song Chi is with Anh Thai Dinh.

KỶ NGUYÊN MỚI, CẢI CÁCH CÁC THỨ? HÃY BẮT ĐẦU BẰNG VIỆC DẸP BỎ LỰC LƯỢNG DƯ LUẬN VIÊN CHỬI BẬY ĐI.

Dạo này lực lượng dư luận viên làm việc hăng kinh. Hết “phong sát” bất cứ ai, nhất là dân nổi tiếng, dám buồn hoặc dám không bày tỏ lòng “yêu nước” ồn ào trong các ngày lễ chiến thắng của đảng CSVN, lại lôi các nhân vật lịch sử như Vua Gia Long, Tả Quân Lê Văn Duyệt, Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông cố vấn Ngô Đình Nhu …ra bôi nhọ, thóa mạ, lôi chế độ VNCH đã chết cách đây nửa thế kỷ ra mà bịa đặt không nói có, có nói không v.v…Rồi bất cứ chỗ nào có ai viết câu gì phản biện thì nhảy vào chửi, không nói được câu nào cho đàng hoàng, không có lý lẽ lập luận gì, chỉ auto chửi, với tất cả ngôn từ bẩn thỉu, đê tiện nhất.

Một chính quyền, một đảng chính trị đã nắm hết mọi thứ từ công an, quân đội, quốc hội, tòa án, truyền thông…và sinh mệnh của hơn 100 triệu dân trong tay mà phải sử dụng một đội ngũ dư luận viên vô học chỉ biết chửi, thì thiếu tự tin đến mức nào. Đó chính là tâm trạng của một đảng chính trị không do dân thực sự bầu lên, khộng bao giờ phải cạnh tranh thi thố với các đảng phái khác, nên mới thiếu tự tin như vậy.

Mới đây trang FB Tạp chí Thế Kỷ Mới của mình và một vài anh chị văn hữu, mà mình tự thấy quan điểm cũng rất là ôn hòa, cũng bị đám dư luận viên vào hăm dọa đòi rút 1,2 bài, không thấy mình phản ứng gì, sau đó bèn report để Facebook remove. Mình đang báo cáo chuyện này với FB và hy vọng họ hành xử đúng đắn.

Nói thật với tất cả những ai đang tràn đầy hy vọng vào ông Tô Lâm rằng đây sẽ là một nhân vật “cải cách”, rằng VN sẽ thay đổi bước vào “kỷ nguyên người” gì đó, cá nhân mình chỉ đơn giản nghĩ thế này: Bỏ qua những màn trình diễn ngoại giao, mỵ dân, chừng nào ông Tô Lâm và chính phủ này làm được những điều đơn giản như sau: 1) Thả hết người bất đồng chính kiến, dân oan, cả những tử tù oan sai. 2) Chấp nhận tự do ngôn luận, tự do báo chí 3) Cho phép các tổ chức xã hội dân sự được hoạt động trong những lĩnh vực như môi trường, bảo vệ nhân quyền, hoạt động từ thiện…4) Cải tổ giáo dục để có một nền giáo dục độc lập, nhân bản, khai phóng. 5) Có những chính sách hòa giải hòa hợp dân tộc cụ thể bằng hành động chứ không phải bằng lời nói.

Chỉ cần bao nhiêu đó thôi, chưa cần nói đến chuyện đa nguyên đa đảng, tôi sẽ tin là ông Tô Lâm hay bất cứ ông nào và cái đảng CS này thực sự muốn thay đổi, vì dân vì nước. Còn đàn áp người bất đồng chính kiến, còn đối xử với dân tệ hại, còn xua đám dư luận viên đi chửi càn cắn bậy trên mạng thì quên đi, mọi thứ chỉ là trình diễn mà thôi.

Không lẽ chúng ta sống với chế độ độc tài do ĐCS lãnh đạo bao nhiêu năm rồi mà vẫn chưa tỉnh ngộ, vẫn dễ tin đến thế hay sao?

Còn với đám dư luận viên thì tôi không muốn nói. Họ lãnh lương để chửi, để phá, thì họ phải làm sao để xứng đáng với đồng lương đó thôi.


 

CÔ GÁI BỊ MẤT TÍCH 25 NĂM – Truyện ngắn HAY

Tony Nguyễn

Cô ấy biến mất khỏi xã hội vào năm 1876—khi cảnh sát tìm thấy cô ấy 25 năm sau đó, cô ấy chỉ nặng 55 pound và chưa từng nhìn thấy ánh sáng mặt trời kể từ khi mẹ cô ấy khóa cửa nhốt cô ấy lại.

Mùa xuân năm 1876. Poitiers, Pháp (*). Blanche Monnier, 25 tuổi, xinh đẹp, hoạt bát, xuất thân từ một gia đình quý tộc giàu có—đột nhiên biến mất khỏi tầm mắt công chúng.

Gia đình Monnier không đưa ra bất kỳ lời giải thích nào. Khi những người quen biết trong xã hội hỏi, họ nhận được những câu trả lời mơ hồ, né tránh. Cô ấy không khỏe. Cô ấy đang đi du lịch. Cô ấy thích sự riêng tư hơn bây giờ.

Cuối cùng, mọi người ngừng hỏi. Blanche Monnier đơn giản là biến mất khỏi ký ức—một phụ nữ trẻ khác từng xuất hiện trong các buổi tiệc tùng và phòng khách nhưng đã biến mất vào số phận không mấy nổi bật của một người phụ nữ độc thân hoặc bị bệnh tật.

Không ai nghi ngờ sự thật.

Blanche không hề rời đi. Cô ấy không bị ốm ở nơi khác. Cô ấy không chọn cuộc sống ẩn dật.

Cô ấy ở trên gác mái. Trong chính ngôi nhà của gia đình mình. Bị nhốt trong một căn phòng trên gác mái.

Trong 25 năm.

Tội Lỗi Của Tình Yêu Sai Trái

Trước khi biến mất, Blanche đã phạm một tội lỗi không thể tha thứ trong mắt mẹ cô: cô ấy đã yêu nhầm người.

Anh ta lớn tuổi hơn. Anh ta là một luật sư, nhưng nghèo—không phải là người chồng giàu có mà Louise Monnier mong muốn cho con gái mình. Anh ta không có địa vị xã hội, tài sản, mối quan hệ quý tộc phù hợp để phản ánh đúng địa vị của gia đình Monnier.

Khi Blanche từ chối chấm dứt mối quan hệ, mẹ cô đã đưa ra một quyết định sẽ định đoạt phần đời còn lại của Blanche.

Louise Monnier—quý tộc, thành viên được kính trọng trong xã hội Poitiers, trụ cột của cộng đồng—đã nhốt con gái mình trong một căn phòng nhỏ trên gác mái và bỏ mặc cô ấy ở đó.

Không phải vài ngày. Không phải vài tuần. Thậm chí không phải vài tháng.

Mà là 25 năm.

Căn Phòng

Không gian gác mái nơi Blanche bị giam cầm rất nhỏ—khoảng 75 feet vuông. Cửa sổ bị đóng đinh chặt, chặn hết ánh sáng mặt trời. Căn phòng không bao giờ được dọn dẹp. Chất thải tích tụ. Thức ăn thừa thối rữa. Chuột bọ tràn lan khắp nơi.

Blanche chỉ nhận được lượng thức ăn tối thiểu—vừa đủ để giữ cho cô ấy sống sót về mặt thể chất. Không được chăm sóc y tế. Không có đồ dùng vệ sinh. Không có bất kỳ sự tiếp xúc nào với con người ngoài những khoảnh khắc ngắn ngủi khi thức ăn được mang đến.

Cô ấy nằm trên đống rơm bẩn thỉu không bao giờ được thay. Cơ thể cô ấy teo tóp. Tâm trí bà ta tan vỡ dưới sự cô lập và bóng tối. Răng bà ta bị mục nát. Da bà ta bị bệnh.

Trong 25 năm, Louise Monnier và con trai Marcel vẫn sống cuộc sống bình thường – tham dự các buổi tiệc xã giao, duy trì vị thế đáng kính trong xã hội Poitiers, thể hiện mình là những công dân gương mẫu.

Trong khi đó, ở tầng trên, Blanche từ từ chết dần mà không chết hẳn.

Lá Thư Nặc Danh

Tháng 5 năm 1901. Tổng chưởng lý Paris nhận được một lá thư nặc danh. Cho đến ngày nay, không ai biết ai đã gửi nó.

Lá thư viết:

“Thưa ông Tổng chưởng lý: Tôi có vinh dự thông báo cho ông về một sự việc vô cùng nghiêm trọng. Tôi đang nói về một người phụ nữ độc thân bị giam giữ trong nhà bà Monnier, gần như chết đói, và sống trong bẩn thỉu suốt 25 năm.”

Các nhà chức trách tỏ ra hoài nghi. Những lời cáo buộc như vậy dường như quá cực đoan, quá kinh khủng để có thể là sự thật. Và gia đình Monnier là một gia đình đáng kính, giàu có, nổi bật.

Nhưng họ vẫn điều tra.

Ngày 23 tháng 5 năm 1901, cảnh sát đến nhà Monnier tại số 21 đường de la Visitation ở Poitiers. Louise Monnier đón tiếp họ với thái độ tức giận của một người thuộc tầng lớp quý tộc. Không có gì để xem cả. Sao họ dám tin vào những lời vu khống như vậy.

Cảnh sát vẫn kiên quyết. Họ lục soát nhà.

Và họ tìm thấy cánh cửa gác mái bị khóa.

Sự Phát Hiện

Những gì cảnh sát tìm thấy khi phá cửa vào bên trong thật kinh hoàng đến nỗi các sĩ quan bước vào khó có thể mô tả một cách mạch lạc trong báo cáo của họ.

Mùi hôi thối xộc vào mũi họ đầu tiên – chất thải người, thức ăn thối rữa, sự phân hủy, bệnh tật. Một mùi hôi thối nồng nặc của sự bỏ bê lâu dài.

Rồi họ nhìn thấy bà ấy.

Một người phụ nữ – hay đúng hơn là những gì còn lại của một người phụ nữ – nằm trong đống bẩn thỉu trên đống rơm mục nát. Gầy trơ xương. Toàn thân phủ đầy chất thải và vết côn trùng cắn. Tóc bà ta dài, bết lại, bẩn thỉu. Cơ thể bà ta chỉ nặng khoảng 55 pound (khoảng 25 kg).

Bà ấy 49 tuổi. Bà ấy trông như một bà lão.

Khi cảnh sát cố gắng nói chuyện với bà ấy, bà ấy hầu như không thể trả lời. Bà ấy phát ra những âm thanh nhưng không thể nói thành lời mạch lạc. Bà ấy che mặt lại trước ánh sáng – bà ấy đã không nhìn thấy ánh sáng mặt trời trong 25 năm. Việc đột ngột tiếp xúc với ánh sáng gây đau đớn về thể chất. Một sĩ quan sau đó đã viết: “Người phụ nữ bất hạnh nằm hoàn toàn trần truồng trên một tấm nệm rơm mục nát. Xung quanh bà ta là một lớp vỏ bẩn thỉu được tạo thành từ phân, mảnh vụn thịt, rau, cá và bánh mì thiu. Chúng tôi cũng thấy vỏ sò… Không khí quá ngột ngạt, mùi hôi thối bốc ra từ căn phòng quá nồng nặc, đến nỗi chúng tôi không thể ở lại lâu hơn để tiếp tục điều tra.”

Blanche Monnier—người phụ nữ trẻ trung, hoạt bát đã biến mất vào năm 1876—đã bị biến thành thảm cảnh này.

Hậu Quả

Louise Monnier ngay lập tức bị bắt giữ. Bà ta không hề tỏ ra hối hận hay xấu hổ. Bà ta khăng khăng rằng mình không làm gì sai. Blanche đã chống đối bà ta, và đây là hình phạt thích đáng.

Louise chết 15 ngày sau khi bị bắt—trước khi kịp ra tòa. Nguyên nhân chính thức là suy tim. Có lẽ là do cú sốc khi bị phanh phui. Có lẽ chỉ đơn giản là do tuổi già. Chúng ta sẽ không bao giờ biết liệu bà ta có bao giờ cảm thấy hối hận hay không.

Marcel Monnier, anh trai của Blanche, cũng bị bắt vì tội đồng lõa. Anh ta sống trong nhà. Anh ta biết chuyện. Anh ta đã tham gia vào việc giam cầm.

Anh ta bị xét xử, ban đầu bị kết tội, nhưng sau đó được tuyên bố trắng án trong phiên phúc thẩm – được tuyên bố là không đủ năng lực tâm thần để hầu tòa. Anh ta đã tham gia vào 25 năm tra tấn, nhưng hệ thống pháp luật xác định rằng anh ta không thể bị buộc tội.

Blanche được đưa đến bệnh viện, sau đó chuyển đến một cơ sở tâm thần. Các bác sĩ đã cố gắng giúp cô hồi phục, nhưng những tổn thương – cả về thể chất và tâm lý – đều không thể phục hồi.

Cô bị giam cầm từ năm 25 đến 49 tuổi. Toàn bộ quãng đời giữa của cô – những năm mà hầu hết mọi người xây dựng sự nghiệp, thiết lập các mối quan hệ, nuôi dạy gia đình, trải nghiệm thế giới – đã bị đánh cắp.

Cô không bao giờ phục hồi được khả năng trí tuệ của mình. Cô không bao giờ lấy lại được cân nặng hoặc sức khỏe đã mất. Cô không bao giờ nói rõ ràng về những gì mình đã phải chịu đựng nữa.

Cô qua đời tại bệnh viện tâm thần vào ngày 13 tháng 10 năm 1913, ở tuổi 64 – sau khi trải qua 12 năm sống trong viện tâm thần sau 25 năm bị giam cầm. Chỉ có 12 năm tự do thực sự giữa tuổi 25 và cái chết.

Tại Sao Sự Kinh Hoàng Này Lại Có Thể Xảy Ra

Việc giam cầm Blanche Monnier không phải là một trường hợp cá biệt. Đó là một ví dụ cực đoan về một điều đáng lo ngại phổ biến: các gia đình – đặc biệt là các gia đình giàu có – có quyền lực gần như tuyệt đối đối với con gái và các thành viên gia đình “khó bảo.”

Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20:

Phụ nữ có quyền pháp lý hạn chế và hầu như không có cách nào chống lại các quyết định của gia đình

Các gia đình có thể đưa những người phụ nữ “khó bảo” vào viện tâm thần với sự giám sát tối thiểu

Các gia đình giàu có có đủ sự riêng tư và quyền lực đến nỗi không ai đặt câu hỏi

Áp lực xã hội để duy trì “danh dự” gia đình có nghĩa là phải giữ im lặng về các vấn đề gia đình

Louise Monnier không giấu Blanche ở một địa điểm bí mật. Bà ta giữ cô ở tầng trên trong nhà của họ, giữa một thành phố, trong 25 năm – bởi vì bà ta biết rằng sẽ không ai kiểm tra, không ai thách thức quyền lực của bà ta đối với con gái, không ai tin rằng một người phụ nữ quý tộc đáng kính lại có thể làm những điều như vậy.

Và bà ta gần như đã đúng. Nếu bức thư nặc danh đó không được gửi đi, Blanche có thể đã chết trong căn phòng đó, và không ai sẽ biết chuyện gì đã xảy ra.

Người Hùng Giấu Mặt

Chúng ta vẫn không biết ai đã gửi bức thư đó cho chính quyền.

Một người hầu không thể giữ im lặng nữa? Một người hàng xóm đã nghe thấy điều gì đó? Một người bạn của gia đình nghi ngờ? Ai đó có mối thù với gia đình Monnier?

Bất kể đó là ai, người đó đã cứu mạng Blanche—hoặc ít nhất là chấm dứt sự tra tấn của cô ấy, ngay cả khi họ không thể khôi phục lại những gì đã bị đánh cắp.

Người vô danh đó đã làm những gì mà bạn bè, hàng xóm và xã hội Poitiers đã không làm được trong 25 năm: họ đặt câu hỏi và yêu cầu câu trả lời.

Hãy nhớ đến Blanche Monnier:

Hãy nhớ rằng cô ấy biến mất vào năm 1876 ở tuổi 25 vì cô ấy yêu một người mà mẹ cô ấy không chấp thuận.

Hãy nhớ rằng cô ấy bị giam cầm trong một căn phòng trên gác mái trong 25 năm—một phần tư thế kỷ trong bóng tối, đói khát và bẩn thỉu.

Hãy nhớ rằng khi cảnh sát tìm thấy cô ấy vào năm 1901, cô ấy chỉ nặng 55 pound và hầu như không thể nói được.

Hãy nhớ rằng mẹ cô ấy không hề hối hận và đã chết trước khi phải đối mặt với công lý.

Hãy nhớ rằng anh trai cô ấy được tuyên bố trắng án trong phiên phúc thẩm mặc dù đã tham gia vào việc tra tấn cô ấy.

Hãy nhớ rằng cô ấy không bao giờ hồi phục và đã chết trong một viện dưỡng lão 12 năm sau khi được giải cứu.

Và hãy nhớ rằng điều này không xảy ra vào thời trung cổ mà là vào đầu thế kỷ 20, trong một xã hội châu Âu “văn minh,” trong một gia đình giàu có, trong một thành phố nơi mọi người sống cuộc sống hàng ngày mà không hề biết rằng một người phụ nữ đang chết dần chết mòn trên gác mái trong nhà của một gia đình đáng kính.

Câu chuyện của Blanche Monnier là một câu chuyện kinh dị kiểu Gothic có thật. Nhưng nó cũng là một lời nhắc nhở về quyền lực, sự kiểm soát và việc lạm dụng có thể dễ dàng che giấu đằng sau vẻ ngoài đáng kính như thế nào.

Mẹ cô ấy đã giam cầm cô ấy trong 25 năm vì bà ta có thể—vì xã hội đã trao cho cha mẹ, đặc biệt là cha mẹ giàu có, quyền lực gần như vô hạn đối với con gái.

Người viết thư nặc danh đó đã làm những gì mà tất cả những người khác đã không làm được: họ đã thách thức quyền lực đó và phơi bày sự kinh hoàng mà nó đang che giấu.

Blanche đã sống sót 25 năm trong những điều kiện lẽ ra phải giết chết cô ấy trong vòng vài tháng. Bản thân sự sống sót đó đã là phi thường.

Nhưng sống sót không giống như sống. Người phụ nữ trẻ bước vào căn phòng đó vào năm 1876 chưa bao giờ thực sự rời khỏi nó—không thực sự. Người xuất hiện vào năm 1901 chỉ còn thoi thóp, bị tổn thương không thể phục hồi. Người phụ nữ từng làm rạng rỡ xã hội Poitiers đã chết hai lần: một lần khi mẹ bà khóa cánh cửa đó lại, và một lần nữa khi cơ thể bà cuối cùng không còn chịu đựng nổi vào năm 1913.

Câu chuyện của bà đặt ra cho chúng ta câu hỏi: Có bao nhiêu người khác đã – hoặc đang – bị mắc kẹt trong hoàn cảnh tương tự, phía sau những cánh cửa mà không ai nghĩ đến việc mở ra?

____________

(*) Poitiers là một thành phố nằm bên sông Clain ở miền trung tây nước Pháp. Đây là một xã, thủ phủ của tỉnh Vienne, thuộc vùng Nouvelle-Aquitaine của Pháp, và là trung tâm lịch sử của tỉnh Poitou. Năm 2021, thành phố có dân số 90.240 người. Khu vực đô thị của nó có 134.397 cư dân vào năm 2021 và là trung tâm hành chính của một khu vực đô thị với 281.789 cư dân. Đây là một thành phố nghệ thuật và lịch sử, vẫn được biết đến phổ biến với tên gọi “Thành phố trăm tháp chuông” (“Ville aux cent clochers”).

Với hơn 30.000 sinh viên, Poitiers là một thành phố đại học lớn kể từ khi trường đại học được thành lập vào năm 1431, từng là nơi sinh sống của nhiều nhân vật và nhà tư tưởng nổi tiếng thế giới như René Descartes, Joachim du Bellay và François Rabelais, cùng nhiều người khác. Quảng trường của thành phố rất đẹp; các con phố chủ yếu giữ được kiến ​​trúc lịch sử và những ngôi nhà nửa gỗ, đặc biệt là các công trình tôn giáo, thường từ thời kỳ Romanesque. Trong số đó nổi bật là nhà rửa tội Saint-Jean (thế kỷ thứ 4), nhà nguyện ngầm Merovingian Hypogeum of the Dunes (thế kỷ thứ 7), Nhà thờ Notre-Dame-la-Grande (thế kỷ 12), Nhà thờ Saint-Porchaire (thế kỷ 12) hoặc Nhà thờ chính tòa Poitiers (cuối thế kỷ 12) cũng như Cung điện Poitiers, cho đến gần đây là tòa án (thế kỷ 12), cung điện cũ của các Bá tước Poitou, Công tước xứ Aquitaine, nơi Nữ hoàng góa phụ của Pháp và Anh Eleanor xứ Aquitaine tổ chức “Tòa án tình yêu” của mình.

Lịch sử thành phố gắn liền với hai trận chiến lớn diễn ra trong khu vực này. Trận chiến đầu tiên, vào năm 732, còn được gọi là Trận chiến Tours (để tránh nhầm lẫn với trận chiến thứ hai), chứng kiến ​​quân đội Frankish do Charles Martel chỉ huy đánh bại quân đội viễn chinh của Đế chế Umayyad do tướng Hồi giáo Abd al-Rahman al-Ghafiqi lãnh đạo. Trận chiến thứ hai, vào năm 1356, là trận chiến Poitiers, một trong những trận chiến then chốt của Chiến tranh Trăm năm. Trận chiến này chứng kiến ​​sự thất bại của quân đội hoàng gia Pháp đông hơn trước quân đội Anh và việc vua John II của Pháp bị Hoàng tử xứ Wales Edward bắt giữ.

Khu vực đô thị Poitiers, nằm giữa Paris và Bordeaux, là nơi đặt trụ sở của khu công nghệ Futuroscope, bao gồm các công ty công cộng (CNED, Canopé, v.v.) và tư nhân lớn tầm quốc gia, cũng như các phòng thí nghiệm nghiên cứu hàng đầu châu Âu. Với hai triệu lượt khách tham quan mỗi năm, Futuroscope là địa điểm du lịch hàng đầu ở vùng Nouvelle-Aquitaine và là công viên giải trí nổi tiếng thứ ba ở Pháp sau Disneyland Paris và Puy du Fou.


 

Tiền nhiều để làm gì?-Trúc Phương/Người Việt

Ba’o Nguoi-Viet

November 3, 2025

Trúc Phương/Người Việt

Trong khán phòng, khán giả vỗ tay rần rần, trừ tỷ phú Mark Zuckerberg ngồi đơ mặt. Đó là quang cảnh buổi lễ trao Music Innovator Award cho ca sĩ Billie Eilish 23 tuổi (trong khuôn khổ Wall Street Journal Magazine Innovator Awards), tổ chức tại Viện Bảo Tàng Nghệ Thuật Hiện Đại New York, đêm 29 Tháng Mười.

Nữ ca sĩ Billie Eilish tại buổi lễ trao giải Music Innovator Award ở New York, hôm 29 Tháng Mười. (Hình: Angela Weiss/AFP via Getty Images)

Nếu các vị là tỷ phú, làm tỷ phú để chi vậy?

Loan báo đóng góp từ thiện $11.5 triệu trong đêm nhận giải Music Innovator Award, Billie Eilish kêu gọi lòng trắc ẩn của giới tỷ phú: “Có vài vị ở đây nhiều tiền hơn tôi. Nếu các vị là tỷ phú, làm tỷ phú chi vậy. Không thù ghét gì cả nhưng mà làm ơn cho bớt tiền đi, các vị ơi” (… “If you’re a billionaire, why are you a billionaire? No hate, but yeah, give your money away, shorties”).

Sự kiện Billie Eilish ngay lập tức trở thành bản tin nóng trên loạt tờ báo, ở thời điểm mà số lượng tỷ phú toàn cầu tiếp tục tăng nhưng đóng góp từ thiện của họ kém hơn bao giờ hết. Theo báo cáo vào Tháng Giêng, 2024, của Oxfam International mang tựa đề “Takers Not Makers,” năm 2024 có thêm 204 tỷ phú mới, và tài sản của họ tăng nhanh gấp ba lần so với năm 2023. Oxfam dự báo có ít nhất năm người sẽ trở thành “ngàn tỷ phú” (trillionaire) trong thập niên tới.

Wall Street Journal cho biết thêm, tính đến giữa năm 2025, nước Mỹ có 1,135 tỷ phú, với tổng tài sản lên tới $5.7 nghìn tỷ – một con số khổng lồ; tuy nhiên, họ mới chỉ “cho đi” vỏn vẹn khoảng $185-201 tỷ trong khoảng chục năm qua. Liệu có phải thế giới đang chứng kiến một xu hướng “ích kỷ” hơn trong giới siêu giàu, hay chí ít là một sự thiếu tương xứng giữa giàu có và trách nhiệm xã hội?

Năm 2010, khi lập ra chương trình “Giving Pledge,” Warren Buffett và Bill Gates đã đưa ra lời kêu gọi gửi đến các đồng đạo trong nhóm 1% người giàu nhất thế giới: Hãy cho đi một nửa tài sản. Hàng chục người đã hưởng ứng. Nhiều tên tuổi lớn ở Thung Lũng Silicon cam kết tặng 99% giá trị tài sản ròng của họ cho các hoạt động/tổ chức thiện nguyện. Tuy nhiên, 15 năm sau, tính đến giữa năm 2025, báo cáo từ Viện Nghiên Cứu Chính Sách (Institute for Policy Studies, IPS) cho thấy chỉ… một trong 57 người ký tên đầu tiên đã cho đi một nửa tài sản kể từ khi họ cam kết “Giving Pledge.”

Nhiều tỷ phú ở vùng Vịnh San Francisco, những người từng được ca tụng là “ngọn hải đăng” mở đường cho nhân loại và cho mô hình thiện nguyện mới, trong thực tế chỉ cho đi chưa đến 20% tài sản. Một gia đình danh tiếng ở Thung Lũng Silicon thậm chí chưa đến 1%. Cùng lúc, tài sản của những tỷ phú trong danh sách ký “Giving Pledge” những ngày đầu tiên cách đây 15 năm đã tăng nhanh với tốc độ chưa từng có.

Những người đầu tiên ký “Giving Pledge” gồm nhiều nhân vật lớn ở Silicon Valley: Mark Zuckerberg (CEO Meta) và vợ Priscilla Chan; Jeffrey Skoll (chủ tịch sáng lập eBay); Dustin Moskovitz (đồng sáng lập Facebook) và vợ Cari Tuna. Tính đến nay, hơn 250 cá nhân, cặp vợ chồng và gia đình từ hơn 60 quốc gia đã ký cam kết “Giving Pledge.” Tuy nhiên, như nói ở trên, báo cáo IPS cho thấy 57 người ký đầu tiên vẫn còn rất xa đích. Hai cặp tỷ phú vùng Vịnh xa mục tiêu nhất cũng chính là những người tăng tài sản nhanh nhất: vợ chồng Mark Zuckerberg-Priscilla Chan và vợ chồng John-Ann Doerr thuộc công ty đầu tư mạo hiểm Kleiner Perkins.

“Có những người thực sự dũng cảm và thẳng thắn trong ‘Giving Pledge,’ và cũng có những người hèn hạ đan xen lợi ích cá nhân với nghĩa vụ thiện nguyện,” báo cáo IPS viết.

Theo báo cáo, Zuckerberg và Chan, hiện là những người giàu nhất trong nhóm ký ban đầu, tính đến nay chỉ cho đi vỏn vẹn $9.8 tỷ, trong tổng số tài sản hiện có là $235 tỷ. Cần nhắc lại, năm 2015, vợ chồng Mark Zuckerberg từng cam kết hiến tặng 99% cổ phần Facebook! Trong 15 năm qua, tài sản Mark Zuckerberg đã tăng 4,244%.

Tương tự, tài sản vợ chồng John-Ann Doerr tăng 617% kể từ năm 2010 và họ cho đi chỉ $101 triệu, trong đó có $34 triệu được chuyển vào quỹ riêng của họ, Beneficus Foundation. Năm 2022, John Doerr từng tuyên bố hiến $1.1 tỷ cho Đại Học Stanford nhưng đến nay mới chỉ giải ngân một phần nhỏ.

Đáng chú ý nhất, 79% số tiền quyên góp ($158 tỷ/$201 tỷ) không đến tay các tổ chức từ thiện hay đại học mà chảy vào… các quỹ tư nhân của chính các tỷ phú – như trường hợp tổ chức Beneficus Foundation của John Doerr nói ở trên. Nói cách khác, các tỷ phú đã rất “thông minh” khi “làm từ thiện” bằng cách bỏ tiền của họ vào túi của họ.

Như được tiết lộ từ báo cáo IPS, những quỹ từ thiện tư thường chỉ chi ra 5%, còn phần lớn tiền vẫn nằm yên trong két sắt, vừa mang lại ưu đãi thuế, vừa giúp họ được ca ngợi là “nhà từ thiện vĩ đại.” Điển hình nhất của trò láu cá này là vợ chồng Mark Zuckerberg. Họ dành 98% khoản “hiến tặng” chuyển cho tổ chức Chan Zuckerberg Initiative của chính họ.

Vấn đề ở chỗ, các quỹ từ thiện tư có thể thay đổi mục tiêu bất cứ lúc nào, khiến những tổ chức nào đang hóng tiền tài trợ của họ, như đã được hứa, cuối cùng chẳng nhận được đồng nào. Cụ thể, khi Chan Zuckerberg Initiative “thay đổi định hướng,” hàng chục tổ chức phi lợi nhuận ở Bay Area đã mất nguồn tài trợ; ít nhất một tổ chức thậm chí phải tạm ngừng hoạt động.

Với Elon Musk, đương sự từng cam kết đóng góp từ thiện vào năm 2012 nhưng gần như không cho gì đáng kể cho đến năm 2021, khi ông bán 15.7 triệu cổ phiếu Tesla trị giá hơn $16 tỷ và “tặng” $5.7 tỷ cho… quỹ riêng. Nhờ chiêu này, Elon Musk tránh được khoảng $4.6 tỷ thuế!

“Nếu các tỷ phú tiếp tục cho tiền vào quỹ riêng như hiện nay,” Bella DeVaan thuộc IPS cảnh báo, “chúng ta sẽ chứng kiến những quỹ gia tộc khổng lồ, được miễn thuế, trị giá hàng nghìn tỷ đô la – điều chưa từng có trong lịch sử từ thiện.”

Điều đáng nói nhất là tất cả những điều này xảy ra trong bối cảnh giới tỷ phú xài tiền rất mạnh cho các cuộc bầu cử chính trị để đổi lại được hưởng các chính sách ưu đãi từ chính phủ liên bang. Đó không khác gì hơn là hình thức tham nhũng, tạo nên hiện tượng mới gọi là “broligarchy” (từ chữ “bro” – tiếng lóng chỉ “anh em,” “bồ bịch; và “oligarchy” – chế độ đầu sỏ).

Những người tốt còn lại

Tuy nhiên, nước Mỹ với văn hóa hảo tâm và trắc ẩn vẫn còn đó. Không phải ai cũng giống Elon Musk, Mark Zuckerberg, Jeff Bezos, Sundar Pichai hay Tim Cook – những người sẵn sàng chi ra hàng triệu đôla để xây phòng khiêu vũ ở Chái Đông Tòa Bạch Ốc.

Trong danh sách 100 nhân vật đóng góp từ thiện nổi bật nhất năm 2025 của báo Time (TIME100 Most Influential People in Philanthropy 2025), người ta thấy có những gương mặt quen thuộc.

Một trong những người được Time nhắc là cựu thị trưởng New York Michael Bloomberg. Tính đến nay, Bloomberg đã quyên góp hơn $21 tỷ cho các lĩnh vực từ biến đổi khí hậu, giáo dục cho đến nghệ thuật. Chỉ riêng năm 2024, Bloomberg đã tặng $3.7 tỷ, trở thành nhà tài trợ cá nhân lớn nhất năm 2024.

Những khoản tài trợ đáng chú ý của Michael Bloomberg gồm $1 tỷ cho Đại Học Johns Hopkins – ngôi trường cũ của ông – giúp miễn học phí cho hầu hết sinh viên y khoa và tăng hỗ trợ tài chính cho sinh viên điều dưỡng và y tế công cộng; cùng $600 triệu tài trợ cho các trường y thuộc bốn đại học và cao đẳng da màu (HBCU – Historically Black Colleges and Universities). Cần nói thêm, đầu năm 2025, Bloomberg Philanthropies công bố kế hoạch hỗ trợ những nỗ lực giúp nước Mỹ thực hiện các cam kết trong Hiệp Định Paris về khí hậu, sau khi chính quyền Trump rút khỏi thỏa thuận này…

Người nữa cần kể là Oprah Winfrey. Tính đến nay, Oprah Winfrey đã quyên góp hơn $500 triệu cho từ thiện. Winfrey từng tâm sự rằng việc chứng kiến những học sinh tốt nghiệp từ học viện lãnh đạo dành cho nữ sinh Oprah Winfrey tại Nam Phi, được thành lập năm 2004, là “một trong những phần thưởng lớn nhất đời mình.” Trong đại dịch COVID-19, bà quyên góp $20 triệu để cung cấp thực phẩm. Bà cũng đóng góp $24 triệu cho Viện Bảo Tàng Lịch Sử và Văn Hóa Người Mỹ Gốc Phi thuộc Viện Smithsonian; tặng hàng chục triệu để hỗ trợ tái thiết sau các vụ cháy rừng ở Maui (Hawaii) năm 2023 và Los Angeles vào Tháng Giêng, 2025…

Và đó là những Melinda French Gates (vợ cũ của Bill Gates) và MacKenzie Scott (vợ cũ của Jeff Bezos). Từ cuối năm 2019 đến nay, MacKenzie Scott đã tặng $19.25 tỷ cho hơn 2,400 tổ chức. Phương pháp của Scott rất khác: không cần hồ sơ xin tài trợ, không yêu cầu báo cáo hằng năm, cũng không đặt ra vấn đề cụ thể cần giải quyết. Thay vào đó, bà và nhóm của mình chủ động tìm đến những tổ chức âm thầm làm công việc giúp những người bị gạt ra ngoài lề xã hội, trao cho họ khoản tài trợ từ $1 đến $50 triệu. Một báo cáo năm 2025 của Trung Tâm Hiệu Quả Từ Thiện (Center for Effective Philanthropy) gọi chiến lược của Scott là mang tính cách mạng.

Đó là K. Lisa Yang. Sinh viên các trường đại học hàng đầu nước Mỹ không lạ gì K. Lisa Yang, bởi tên bà được đặt tại các trung tâm khoa học ở Harvard, MIT và Cornell. Là cựu viên chức ngân hàng, Yang đã đóng góp tổng cộng $74.5 triệu chỉ riêng năm 2024, và là nhà tài trợ lớn cho các nghiên cứu học thuật nhằm bảo tồn hệ sinh thái hành tinh và hỗ trợ những người gặp khó khăn về thể chất hoặc nhận thức.

Tháng Hai, 2025, bà tặng Harvard $30 triệu để thành lập Trung Tâm Brain-Body. Năm 2024, bà tặng $35 triệu để xây Trung Tâm Sức Khỏe Động Vật Hoang Dã tại Đại Học Cornell và $28 triệu để khởi động Trung Tâm Kỹ Thuật và Nghiên Cứu tại MIT – một phần trong sáu trung tâm nghiên cứu trị giá $200 triệu mà Yang bắt đầu hỗ trợ từ năm 2017. Báo Time cho biết, các khoản đầu tư nghiên cứu của bà K. Lisa Yang – từ khoa học thần kinh, liệu pháp y học, mô hình tính toán đến sinh học nhân tạo – đã bắt đầu mang lại kết quả.

Trong khuôn khổ giới hạn, không thể liệt kê hết. Tất cả cho thấy lương tri và trắc ẩn vẫn còn đó. Nó nhắc rằng sự “vĩ đại” của một tài sản đôi khi rất nhỏ bé, nếu ông chủ tầm thường của nó không có lòng “quảng đại” và không biết thẹn khi nghe người ta hỏi “làm tỷ phú để chi vậy?” [kn]


 

SỰ CHẾT – Lm. Nguyễn Tầm Thường, S.J  

 Lm. Nguyễn Tầm Thường, S.J  

Khi tôi được sinh ra là khởi điểm tôi bắt đầu đi về cõi chết.  Làm gì có sự chết nếu không có sự sống.  Làm gì có ngày người ta chôn tôi nếu không có ngày tôi chào đời.  Như thế, cuộc sống của tôi là chuẩn bị cho ngày tôi chết.

Ngay từ trong bào thai của mẹ, bắt đầu có sự sống là tôi đã cưu mang sự chết rồi.  Kết hợp và biệt ly ở lẫn với nhau.  Trong lớn lên đã có mầm tan rã.  Khi vũ trụ chào đón tôi, thì cùng một lúc, tôi bắt đầu từ giã vũ trụ từng ngày, từng giờ.

Mỗi ngày là một bước tôi đi dần về sự chết.  Bình minh mọc lên, nhắc nhở cho tôi một bước cận kề.  Hoàng hôn buông xuống, thầm nói cho tôi sự vĩnh biệt đang đến.

Không muốn nghĩ về sự chết tôi cũng chẳng tránh đuợc sự chết.


Tôi có thể không muốn nghĩ về sự chết nhưng tôi có ghét sự chết được không?  Tôi ghét sự chết là tôi ghét chính tôi.  Chết ở trong tôi.  Tôi đang đi về cõi chết nên ngay bây giờ sự chết đã thuộc về tôi rồi.  Sự sống của tôi hàm chứa sự chết, nên tôi yêu sự sống thì tôi cũng phải yêu sự chết.  Vì vậy, cuộc đời có ý nghĩa vẫn chỉ là cuộc đời chuẩn bị cho ngày chết.

Trong dòng đời, tôi không sống một mình.  Cuộc sống của tôi là tấm thảm mà mỗi liên hệ yêu thương là một sợi tơ, mỗi gắn bó quen biết là một sợi chỉ, anh em, cha mẹ, người yêu.  Sự chết xé rách tung tất cả để tôi ra đi một mình.  Chẳng ai đi với tôi.  Vì thế, chết mang mầu ly biệt.

Sống là hướng về tương lai.  Tương lai là cái tôi không nắm chắc trong tay, vì vậy, tôi hay nhìn về tương lai bằng nỗi sợ bấp bênh.  Càng bấp bênh thì tôi càng tìm kiếm vững chãi, càng tích lũy.  Nhưng tích lũy xong, xây đắp xong, vất vả ngược xuôi để rồi ra đi trắng đôi tay thì đời tôi thành đáng thương hại.  Nếu tôi không đem theo được những gì tôi tích lũy, thì những gì tôi ôm ấp hôm nay chỉ làm tôi thêm đau đớn, nuối tiếc.  Nếu không muốn vậy thì chúng phải là phương tiện để chuẩn bị cho giờ ra đi của tôi.

Tích lũy cho tương lai có thể là dấu hiệu khôn ngoan đề phòng những bất trắc có thể xẩy ra.  Mà cũng có thể là một thứ nô lệ.  Nếu suốt đời tôi lo âu tìm kiếm danh vọng, quá tham lam tiền bạc, lúc nào cũng bị vây khốn, băn khoăn thì đâu là niềm vui, tận hưởng.

Mà tận hưởng là gì?  Đâu là ý nghĩa của sự tìm kiếm?  Tích lũy?

Kinh Thánh kể:

Có người trong đám dân chúng nói với Đức Kitô: “Thưa Thầy, Thầy bảo anh tôi chia gia tài với tôi.”

Ngài đã nói cùng họ: “Hãy coi chừng!  Hãy lo giữ mình tránh mọi thứ gian tham, vì không phải ai được sung túc, là đời sống người ấy chắc chắn nhờ của cải.”

Ngài nói cùng họ một ví dụ rằng: “Có người phú hộ, ruộng nương được mùa, nên suy tính với mình rằng: ta phải làm gì?  Vì ta không còn chỗ nào mà tích trữ hoa mầu nữa.  Đoạn người ấy nói: Ta sẽ làm thế này: phá quách các lẫm đi, mà xây những lẫm lớn hơn, rồi chất cả lúa mạ, và của cải vào đó, rồi ta nhủ hồn ta: Hồn ơi! mày có dư thừa của cải, sẵn đó cho bao nhiêu năm; nghỉ đi! ăn uống đi! hưởng đi! Nhưng Thiên Chúa bảo nó: Đồ ngốc! ngay đêm nay, người ta sẽ đòi ngươi trả lại hồn ngươi, mọi sự ngươi đã sắm sửa, tích góp kia sẽ về tay ai? (Lc 12,13-21).

Không ai sống hộ tôi.  Không ai chết thay tôi.  Không ai đi cùng tôi.  Tôi sẽ ra đi lẻ loi.  Họ sẽ quên tôi cũng như tôi đã quên bao người.  Có thể đôi khi họ nhớ tôi.  Cũng như đôi khi tôi nhớ người này, kẻ kia.  Nhưng nỗi nhớ chỉ là của riêng tôi, còn kẻ đã ra đi vẫn ra đi miền miệt.  Thì cũng thế, chẳng ai làm gì được cho tôi lúc tôi ra đi không trở lại.

Chết là mất tất cả.  Nhưng thánh Phaolô lại tuyên tín rằng chết là chiến thắng (1Cor 15,54).  Chết là đi về sự sống vĩnh cửu.  Chết là gặp gỡ.  Gặp Đấng tạo nên mình.  Như vậy, chết là cánh cửa im lìm được mở ra để tôi về với Đấng thương tôi.  Chết là điều kiện để sống.

Chúa ơi, chết là đi về với Chúa sao con vẫn lo âu?

Phải chăng nỗi lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con sợ con có thể không gặp Chúa.  Vì sợ không gặp nên chết mới là bản án nặng nề.  Mà tại sao con lại sợ không gặp Chúa?  Chúa luôn mong mỏi, đợi chờ con cơ mà.  Như thế, muốn gặp Chúa hay không là do ý của lòng con.  Con có quyền quyết định cho hạnh phúc của mình.

Chúa ơi, vì biết mình sẽ chết nên con băn khoăn tự hỏi bao giờ thì chuyến tầu định mệnh đem con đi.  Hôm nay hay ngày mai?  Mùa thu này hay mùa xuân tới?  Con âu lo.  Nhưng vì sao phải lo âu?

Phải chăng lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con chưa chuẩn bị đủ, là hồn con còn ngổn ngang.  Có xa Chúa thì mới sợ mất Chúa.  Sợ mất Chúa thì mới xao xuyến băn khoăn.  Con biết thế, con biết rằng vì không sẵn sàng, vì không chuẩn bị nên mới hồi hộp, mất bình an.  Con biết thế, con biết sau khi chết là hạnh phúc hay gian nan, là núi cao với mây ngàn cứu rỗi, hay vực sâu phiền muộn với đau thương.  Nhưng chuẩn bị cho giờ ra đi không đơn giản Chúa ơi.  Chúa biết đó, con đi tìm Chúa nhưng là đi trong lao đao.  Bởi yêu một vật hữu hình thì dễ hơn lắng nghe tiếng gọi từ nơi xa thẳm.  Giầu có và danh vọng cho con hạnh phúc mà con có thể sờ được.  Còn hạnh phúc của đức tin thì sâu thắm quá.

Chung quanh có biết bao mời mọc.  Kinh nghiệm cho con thấy rằng đã nhiều lần con bỏ Chúa.  Như vậy biết đâu con lại chẳng bỏ Chúa trong tương lai.  Nếu lúc đó mà giờ chết đến thì sao?

Chúa có nghĩ rằng khi con phải phấn đấu chối từ những rung cảm bất chính để sống theo niềm tin là thánh giá của con không.  Chối từ tiếng gọi của tội lỗi đã là một thánh giá.  Nhưng có khi lo âu vì không biết mình có từ chối được không còn là một thánh giá khác nữa.  Chính đấng thánh của Chúa mà còn phải kêu lên: “Ôi! những điều tôi muốn làm thì tôi chẳng làm, những gì tôi muốn trốn tránh thì tôi lại làm” (Rom 7,15-16).  Chúa thấy đó, vị tông đồ lớn của Chúa mà còn như thế, huống chi con, một kẻ mang nhiều đam mê, yếu đuối thì đường về với Chúa gian nan biết bao.

Để khỏi chết khi con chết, thì con phải chết trước khi con chết.

Cái chết đó là đóng đinh đời con vào thập giá.  Con không biết con can đảm đến đâu.  Con chỉ xin sao cho con tiếp tục đi mãi.  Đi xiêu vẹo vì yếu đuối của con, nhưng vẫn tiếp tục đi.

Thập giá nào thì cũng có đau thương.

Con không muốn thập giá.  Vì thập giá làm con mang thương tích.  Chúa cũng đã ngã.  Nhưng nếu sự sống của con mang mầm sự chết, thì trong cái chết của thập tự nẩy sinh sự sống.  Chúa đã chết.  Chúa hiểu nỗi sợ hãi của sự chết.  Con vẫn nhớ lời Chúa cầu nguyện: “Lạy Cha, con xin phó hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).  Hôm nay con cũng muốn nói như vậy đó, với Chúa.  Cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa dạy con rằng chẳng có sự sống nào mà không phải qua sự chết.  Chết thì sợ hãi, nhưng nếu con yêu sự sống thì con phải yêu sự chết.

Con muốn chết để được sống.

Con sẽ đóng đinh đời con vào thập tự.  Chúa ơi, Chúa có cho những lo âu của con là dấu chỉ tình yêu của một tâm hồn yếu đuối, đang thao thức đi tìm Chúa vì sợ mất Chúa không.

Lạy Cha, trong tay Cha con xin phó thác đời con.

Lm. Nguyễn Tầm Thường, S.J

– Trích trong Nước Mắt và Hạnh Phúc

 From: Langthangchieutim

TIỆC ĐỜI ĐỜI – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Phúc thay ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa!”.

“Có hai loại người trong các bữa tiệc – những người muốn về nhà sớm và những người muốn là người cuối cùng ra về. Vấn đề là họ thường kết hôn với nhau!” – Anon.

Kính thưa Anh Chị em,

 

Lời Chúa hôm nay nói đến một bữa tiệc mà chẳng ai muốn ra về. Vì chỉ có ‘Tiệc Đời Đời’ của Thiên Chúa mới giữ được con người ở lại mãi mãi – trong yêu thương, trong ánh sáng, và trong chính Ngài.

“Tiệc” – nơi gia đình bạn bè và những người thân yêu quây quần để mừng vui và tận hưởng hạnh phúc, tình thân, quanh một bàn ăn. Hình ảnh này nói lên sự thân mật giữa chúng ta với Thiên Chúa, Đấng đã chuẩn bị từ đời đời mọi thứ cho con người. Ngài mời chúng ta vì “cỗ bàn đã sẵn”, Ngài muốn chúng ta ở bên Ngài mãi mãi. “Bữa ăn là một hành động của tình yêu; đó là lời mời hiệp thông hữu hình của Thiên Chúa!” – Henri Nouwen.

Nhưng trước hết, bạn phải muốn, phải khao khát đến! Và mặc dù biết khá rõ thiên đàng là nơi chúng ta có thể ở lại với trạng thái tốt nhất, nên ở lại vĩnh viễn, vượt trên những ước vọng cao cả nhất – “Điều mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe, và lòng người chưa hề nghĩ tới” – thì tất cả chúng ta đều có khả năng từ chối lời mời, vĩnh viễn bỏ lỡ bữa tiệc trọng vọng đó. “Bi kịch của tội lỗi không phải là Thiên Chúa khước từ con người, mà là con người khước từ bàn tiệc của Thiên Chúa!” – Henri de Lubac.

Thật không may, trên thực tế, chúng ta thường đánh đổi Thiên Chúa để lấy bất cứ thứ gì ‘kém hơn’ Ngài! Đó có thể là một “mảnh ruộng”; cũng có thể là mấy “đôi bò!”. Bạn và tôi sẵn sàng đánh đổi Thiên Chúa và lời mời của Ngài để lấy điều gì? Thiên Chúa ‘hèn’ đến mức chúng ta có thể thay Ngài bằng bất cứ ‘thứ’ gì sao? Ngược lại mới phải! Chúng ta cần đáp trả sự hào hiệp của Ngài bằng lời xin vâng, đầy lòng biết ơn và sự ngưỡng mộ. Phaolô nói, “Anh em hãy vui mừng vì có niềm hy vọng!” – bài đọc một. Hy vọng gì? Hy vọng được ở bên Chúa! Thánh Vịnh đáp ca thật sâu lắng, “Hồn con xin Chúa giữ gìn, nép mình bên Chúa an bình thảnh thơi!”.

Anh Chị em,

“Phúc thay ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa!”. Bàn tiệc Nước Chúa không chỉ đợi bạn và tôi ở thiên đàng, nhưng khởi sự ngay hôm nay, trong lòng người biết mở ra cho Ngài. “Bữa tiệc vĩnh cửu đã được dọn ra trong Thánh Thể rồi!” – Bênêđictô XVI. Mỗi khi yêu thương, tha thứ hay cúi xuống phục vụ, là chúng ta đã nếm trước hương vị của bữa tiệc muôn đời. Thiên đàng không ở xa, mà ở nơi trái tim biết ở lại trong tình yêu; nó không chỉ là ‘nơi’ để đến, nhưng là ‘tình yêu’ để sống. Ai sống trong tình yêu thì đã ở trong “bữa tiệc của Chúa” – ‘tiệc đời đời’; còn ai vẫn khước từ yêu thương, thì dẫu có được mời, người ấy cũng sẽ thấy bữa tiệc ấy thật xa lạ. “Trong mỗi hành động yêu thương, tiệc thiên quốc đã được bắt đầu!” – Von Balthasar.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, khi con mải mê với “mảnh ruộng” “đôi bò” riêng của mình, xin lay con dậy, đến với bàn tiệc của Ngài – nơi tình yêu vẫn đợi con trong thinh lặng!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)  

***************************************

Lời Chúa Thứ Ba Tuần XXXI Thường Niên, Năm Lẻ

Hãy ra các ngả đường, ép người ta vào đầy nhà cho ta.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 14,15-24

15 Khi ấy, một trong những kẻ đồng bàn nói với Đức Giê-su rằng : “Phúc thay ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa !” 16 Người đáp : “Một người kia làm tiệc lớn và đã mời nhiều người. 17 Đến giờ tiệc, ông sai đầy tớ đi thưa với quan khách rằng : ‘Mời quý vị đến, cỗ bàn đã sẵn.’ 18 Bấy giờ mọi người nhất loạt bắt đầu xin kiếu. Người thứ nhất nói : ‘Tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm ; cho tôi xin kiếu.’ 19 Người khác nói : ‘Tôi mới tậu năm cặp bò, tôi đi thử đây ; cho tôi xin kiếu.’ 20 Người khác nói : ‘Tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được.’

21 “Đầy tớ ấy trở về, kể lại sự việc cho chủ. Bấy giờ chủ nhà nổi cơn thịnh nộ bảo người đầy tớ rằng : ‘Mau ra các nơi công cộng và đường phố trong thành, đưa các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt vào đây.’ 22 Đầy tớ nói : ‘Thưa ông, lệnh ông đã được thi hành mà vẫn còn chỗ.’ 23 Ông chủ bảo người đầy tớ : ‘Ra các đường làng, đường xóm, ép người ta vào đầy nhà cho ta. 24 Tôi nói cho các anh biết : Những khách đã được mời trước kia, không ai sẽ được dự tiệc của tôi’.”


 

Thánh Martinô Porres—1579-1639 – Cha Vương

Mến chào, hôm nay 3/11 Giáo hội mừng kính Thánh Martinô Porres—1579-1639 (St. Martin de Porres) Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy. 

Cha Vương

Thư 2: 03/11/2025


Thánh Martin sinh ngày 09 tháng 12 năm 1579 tại Peru, Lima. Ngài là đứa con bất hợp pháp của một nhà quý tộc Tây Ban Nha ở Lima, Peru và một phụ nữ Panama. Martin giống mẹ nên có nước da ngăm ngăm, và điều này làm cha ngài khó chịu, do đó mãi tám năm sau ông mới chịu nhận Martin là con. Sau khi sinh đứa thứ hai, ông bỏ rơi gia đình. Martin lớn lên trong cảnh nghèo nàn, thuộc giai cấp bần cùng của xã hội Lima. Lúc 12 tuổi, mẹ ngài cho theo học nghề cắt tóc và giải phẫu, nên ngoài việc cắt tóc, ngài còn biết cách lấy máu (sự chữa trị rất phổ thông thời ấy), biết chăm sóc vết thương và biết chích thuốc. Sau vài năm hành nghề, Martin xin vào dòng Ða Minh làm “người giúp việc,” vì ngài cảm thấy không xứng đáng để làm thầy dòng. Sau chín năm, gương mẫu đời sống cầu nguyện và hãm mình, bác ái và khiêm nhường của ngài khiến cộng đoàn phải yêu cầu ngài khấn trọn. Ngài cầu nguyện hằng đêm và sống khắc khổ; công việc hàng ngày của ngài là chăm sóc bệnh nhân và người nghèo. Ngài coi mọi người như nhau, bất kể mầu da, sắc tộc hay địa vị xã hội. Ngài là cột trụ trong việc thành lập cô nhi viện, chăm sóc người nô lệ từ Phi Châu và trông coi việc bố thí của nhà dòng. Ngài trở nên nổi tiếng trong nhà dòng cũng như ngoài thành phố, dù đó là vấn đề “chăn màn, quần áo, đèn nến, bánh kẹo, phép lạ hay lời cầu nguyện!” Khi nhà dòng bị nợ quá nhiều, ngài nói với cha bề trên, “Con chỉ là một đứa con lai nghèo hèn. Cha hãy bán con đi. Con là sở hữu của nhà dòng. Hãy bán con đi để trả nợ.”

     Ngoài những công việc hàng ngày như nấu ăn, giặt giũ và chăm sóc bệnh nhân, Thiên Chúa còn ban cho ngài những ơn sủng đặc biệt: được xuất thần bay bổng trên không, căn phòng rực sáng khi ngài cầu nguyện, ơn lưỡng tại (ở hai nơi cùng một lúc), ơn hiểu biết cách lạ lùng, ơn chữa bệnh và chế ngự các thú vật cách tài tình. Lòng bác ái của ngài còn nới rộng đến các thú vật ở ngoài đồng hay chó mèo trong phố và ngay cả chuột bọ trong bếp.

      Nhiều tu sĩ thời ấy coi ngài như vị linh hướng, nhưng ngài vẫn tự coi mình là “người nô lệ nghèo hèn.” Ngài còn là bạn của Thánh Rosa ở Lima. Ngài qua đời ngày 3 tháng 11 năm 1639. Tất cả dân chúng thành phố Lima, từ vị Phó vương đến những người ăn xin đều sững sốt và buồn bã khi nghe tin ngài từ trần. 

     Ngài được Đức Giáo Hoàng Pius IX tôn phong Chân Phúc năm 1873. Thủ tục phong thánh rất chậm chạp, mãi cho đến ngày 19 tháng 5 năm 1962 Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII mới tuyên phong thầy Martin lên hàng hiển thánh và là vị thánh da đen đầu tiên của Châu Mỹ, quan thầy của những người tranh đấu cho công bình xã hội.

     Lạy Thánh Martino rất khiêm nhường, lòng thương yêu nồng nhiệt của Người chẳng những che chở các anh em túng nghèo, mà lại cả những thú vật ngoài đồng, thật là gương huy hoàng của đức bác ái, chúng tôi kính mừng và cầu khấn Người. Từ tòa cao Người ngự, xin đoái thương nhậm lời anh em túng nghèo kêu xin, để chúng tôi được bắt chước nhân đức Người mà yên vui trong địa vị Chúa đã đặt, và được mạnh mẽ, can đảm vác Thánh Giá theo chân Chúa Cứu Thế và Mẹ Sầu Bi, sau hết được về nước Thiên Ðàng. Vì công nghiệp Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng tôi – Amen. 

(Kinh Thánh Martinô Porres) 

From: Do Dzung

***********************

Thánh Martinô – Tôi hiền của Chúa

Elon Musk đánh mất nửa nước Mỹ, bài học nhãn tiền-Trúc Phương/Người Việt

Ba’o Nguoi-Viet

November 2, 2025

Trúc Phương/Người Việt

Nửa năm sau khi chiếc cưa máy của Elon Musk được xếp xó, hậu quả màn phá phách của đương sự đã được phân tích kỹ lưỡng với công trình dài đến 27 trang của nhóm nghiên cứu Đại Học Yale (“The Musk Partisan Effect on Tesla Sales”) vừa công bố vào Tháng Mười.

Hình ảnh Elon Musk với cái cưa máy hồi Tháng Hai làm rúng động dư luận. (Hình minh họa: Saul Loeb/AFP via Getty Images)

Câu chuyện Elon Musk, dù cá biệt, nhưng rõ ràng là một tiền lệ mà bất kỳ người “siêu thông minh” và “siêu láu cá” nào cũng có thể gặp phải nếu dính vào một cú “dại một giờ” dù trước đó từng “khôn ba năm.”

Cú rơi lịch sử của Tesla

Năm 2020, Tesla là hiện thân của tương lai.

Một hãng xe điện phá vỡ mọi quy tắc, thách thức các tập đoàn xe hơi trăm năm tuổi và biến Elon Musk thành biểu tượng toàn cầu của công nghệ xanh. Với giới trung lưu đô thị Mỹ, đặc biệt là tầng lớp có khuynh hướng chính trị theo đảng Dân Chủ, lái một chiếc Tesla đồng nghĩa với việc tham gia vào một sứ mệnh “cứu lấy hành tinh.”

Chỉ sau vài năm, hình ảnh đó sụp đổ. Đến giữa năm 2025, Tesla đã trải qua hai năm liên tiếp sụt giảm doanh số, ngay cả khi tổng thị trường xe điện Mỹ vẫn tăng trưởng. Nguyên nhân, theo nghiên cứu mới của bốn giáo sư Đại Học Yale (“The Musk Partisan Effect on Tesla Sales”) đề cập ở trên, không nằm ở giá pin, nguồn cung hay cạnh tranh. Thủ phạm là chính Elon Musk chứ chẳng ai khác.

Công trình mang tên The Musk Partisan Effect on Tesla Sales – do Kenneth Gillingham, Matthew Kotchen, James Levinsohn và Barry Nalebuff thực hiện – cho thấy những phát ngôn, hành động và lập trường chính trị của Musk đã khiến Tesla mất từ một đến 1.26 triệu xe bán ra trong vòng 30 tháng, tương đương 67-83% doanh số thực tế. Nếu không có “hiệu ứng đảng phái của Musk,” Tesla sẽ bán được cao hơn 67-83% trong giai đoạn từ Tháng Mười, 2022 đến Tháng Tư, 2025.

Từ giữa năm 2022, sau thương vụ mua lại Twitter (nay là X), Elon Musk bắt đầu thay đổi, không chỉ về phong cách điều hành, mà cả lập trường chính trị. Với phong cách ngổ ngáo lấc cấc, Elon Musk sa thải hàng loạt nhân viên, nới lỏng kiểm duyệt cho các tài khoản cực hữu, quyên góp $300 triệu cho ứng viên Cộng Hòa Donald Trump trong mùa bầu cử 2024, và sau khi Trump tái đắc cử, Musk đảm nhiệm vai trò người lãnh đạo “Bộ Hiệu Quả Chính Phủ” (Department of Government Efficiency – DOGE).

Từ một biểu tượng công nghệ mang tính toàn cầu, Musk trở thành nhân vật chính trị phân cực nhất nước Mỹ. Và thương hiệu Tesla, vốn gắn liền với hình ảnh cá nhân ông, phải chịu đòn phản ứng dây chuyền. Nghiên cứu của nhóm Yale sử dụng dữ liệu đăng bộ xe mới trên toàn nước Mỹ (từ Tháng Ba, 2020 đến Tháng Tư, 2025), kết hợp với tỷ lệ cử tri Dân Chủ-Cộng Hòa trong hai kỳ bầu cử 2020 và 2024.

Các nhà nghiên cứu nhận thấy trước Tháng Mười, 2022 – thời điểm Musk hoàn tất thương vụ Twitter – các khu vực “xanh” (Dân Chủ) mua Tesla nhiều hơn rõ rệt, và xu hướng đó tăng dần. Nhưng sau mốc đó, đồ thị đảo chiều: doanh số Tesla sụt mạnh ở các khu vực Dân Chủ, trong khi các khu vực “đỏ” (Cộng Hòa) chỉ tăng nhẹ, không đủ bù đắp.

Để tách riêng ảnh hưởng của Musk khỏi các yếu tố khác như cạnh tranh, mẫu xe hay chính sách ưu đãi, nhóm nghiên cứu sử dụng các mô hình Difference-in-Differences (DiD) và Triple Difference (DiDiD) – công cụ kinh tế thường dùng để đánh giá tác động chính sách. Kết quả như sau.

-Không có Musk, doanh số Tesla mỗi tháng cao hơn khoảng 150%.

-Có Musk, Tesla mất trung bình 0.2 xe trên mỗi 10,000 xe đăng bộ  ở các khu vực Dân Chủ mỗi tháng – một con số nhỏ nhưng lũy tiến theo thời gian thành hàng triệu xe.

Hiệu ứng thay thế gần như hoàn toàn: Cứ mỗi chiếc Tesla không bán được, có một chiếc xe điện hoặc hybrid của hãng khác được mua thay thế. Nói cách khác, người Mỹ không rời bỏ xe điện. Họ chỉ rời bỏ Elon Musk.

Các khảo sát song hành với dữ liệu bán hàng minh họa rõ rệt mức độ phản ứng của công chúng. Loạt thăm dò NBC News (2021-2025) cho thấy, tỷ lệ người Dân Chủ có cái nhìn tiêu cực về Musk tăng từ 28% lên 92%. Trong khi đó, tỷ lệ người Cộng Hòa có cái nhìn tích cực về ông tăng từ 30% lên 75%. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh, dân Cộng Hòa lâu nay không khoái xe điện. Tin rằng chẳng có chuyện hiệu ứng nhà kính hay trái đất nóng dần gì cả, dân Cộng Hòa chỉ thích dùng xe xăng và còn miệt thị xe điện.

Một khảo sát YouGov (Tháng Ba, 2025) cho thấy: 71% cử tri Dân Chủ nói rằng Musk là lý do khiến họ không muốn mua Tesla. Chỉ 3% cử tri Cộng Hòa nói rằng Musk khiến họ muốn mua Tesla. Vì thế, tổng hiệu ứng là tiêu cực tuyệt đối. Musk mất đi nhiều khách hàng Dân Chủ hơn gấp hàng chục lần số ông có thể thu hút từ phe Cộng Hòa. Kết luận của nhóm nghiên cứu: “Elon Musk là minh chứng sống động cho việc một CEO có thể tự làm giảm doanh số công ty chỉ bằng hành động và phát ngôn chính trị cá nhân.”

Khi thương hiệu bị định danh bằng tên tuổi một người

Trong suốt hơn một thập niên, hình ảnh Tesla gắn chặt với Elon Musk. Ông là “nhà sáng lập thiên tài,” “người của những giấc mơ điên rồ nhưng vĩ đại”…; tuy nhiên, chính sự đồng nhất đó khiến công ty dễ tổn thương. Chỉ cần một cú trượt trong hình ảnh cá nhân, thương hiệu sụp đổ cùng ông. Giáo Sư James Levinsohn, đồng tác giả nghiên cứu, nhận xét: “Thương hiệu của Musk từng là ‘người dẫn đường cho tương lai.’ Giờ nó là ‘biểu tượng của một phe.’ Và thị trường ghét điều đó.”

Ở cấp độ xã hội học, nghiên cứu cho thấy Tesla không còn là sản phẩm tiêu dùng thuần túy mà trở thành biểu tượng chính trị: lái Tesla bây giờ đồng nghĩa với việc thể hiện lập trường; và điều từng là lợi thế, nay trở thành gánh nặng. Hệ quả của “hiệu ứng Musk” không chỉ dừng lại ở Tesla. Nó ảnh hưởng đến thị trường xe điện nói chung và chính sách khí hậu của Mỹ.

Nghiên cứu cho thấy: doanh số các hãng khác (Ford, Hyundai, Toyota, Rivian, Kia,…) tăng 17-22% kể từ khi Musk mua Twitter – nhờ làn sóng khách hàng rời bỏ Tesla. Riêng tại California, nếu không có “hiệu ứng tiêu cực Elon Musk,” tiểu bang này đã đạt được mục tiêu 35% xe không phát thải vào năm 2026. Thực tế, doanh số xe điện giảm khiến California hụt 139,700 xe trong quý I/2025, kéo lùi tiến trình chuyển đổi xanh.

Tác giả Matthew Kotchen nhận định: “Một cá nhân có thể vô tình làm chệch hướng chính sách công bằng hành vi ngôn ngữ và chính trị – điều mà trước đây chúng ta chưa từng chứng kiến trong quy mô thị trường lớn như vậy.”

Khái niệm “CEO activism” – khi lãnh đạo doanh nghiệp công khai lập trường chính trị – thật ra không mới. Nhiều người từng thể hiện tương tự, từ Tim Cook (Apple) đến Howard Schultz (Starbucks). Nhưng họ thường chọn các vấn đề mang tính giá trị phổ quát: quyền con người, môi trường sống, bình đẳng xã hội. Elon Musk đi theo hướng ngược lại: biến chính trị thành sân chơi cá nhân, gắn thương hiệu với một phe, một chiến tuyến. Trong lĩnh vực marketing, đây là điều tối kỵ. Michael Jordan từng nói: “Người Cộng Hòa cũng mua giày thể thao.” Câu nói ấy giờ được trích ngay trong nghiên cứu Yale như một lời cảnh tỉnh: khi thương hiệu chọn phe, nó đánh mất nửa thị trường.

Các nhà nghiên cứu ước tính rằng đến quý I/2025, nếu không có “hiệu ứng tiêu cực Musk,” doanh số Tesla hàng tháng sẽ cao hơn 150%. Ngược lại, doanh số xe điện và hybrid khác sẽ thấp hơn khoảng 25%. Tính tổng cộng, Tesla mất 1.26 triệu xe, trong khi các đối thủ thu về gần tương đương – một “hiệu ứng chuyển dịch hoàn hảo.”

Dù vậy, nhóm tác giả cho rằng đây mới chỉ là khởi đầu. Khi hình ảnh của Musk ngày càng gắn với chính quyền Trump, xu hướng sụt giảm ở các khu vực Dân Chủ tiếp tục tăng tốc – và có thể lan sang các thị trường ngoài Mỹ, nơi “phong cách chính trị” của ông không được ưa chuộng, thậm chí bị khinh ghét.

Bài học lớn cho thời đại thương hiệu cá nhân

Trong nền kinh tế truyền thông xã hội, ranh giới giữa con người và thương hiệu ngày càng mong manh. Elon Musk là hình mẫu thành công nhờ thương hiệu cá nhân nhưng cũng là minh chứng cho nguy cơ khi cá nhân đó bị chính trị hóa.

Tesla trở thành nạn nhân của chính chiến lược mà nó từng hưởng lợi: xây dựng “thần thoại” quanh người sáng lập. Như nhóm tác giả kết luận: “Khi hình ảnh cá nhân trở thành thương hiệu, rủi ro của con người trở thành rủi ro của công ty. Và khi con người sa vào chính trị, công ty sẽ phải trả giá.”

Câu chuyện “hiệu ứng đảng phái” của Musk vượt ra ngoài khuôn khổ kinh tế học. Nó phơi bày cách tiêu dùng và chính trị đang hòa làm một trong xã hội Mỹ phân cực: chọn một sản phẩm cũng là chọn một bản sắc. Elon Musk, trong nỗ lực khẳng định bản ngã, đã chia đôi chính khách hàng của mình. Từ một biểu tượng đổi mới, ông trở thành phép thử trung thành chính trị.

Và Tesla – thương hiệu từng đại diện cho tương lai – giờ bị kẹt trong hiện tại đầy chia rẽ. Trong một thế giới mà niềm tin quan trọng không kém công nghệ, câu chuyện của Musk là lời nhắc lạnh lùng: thương hiệu không thể là chiến tuyến.

Elon Musk ít nhiều đã “né” chính trị từ sau cú ngã đau thấu trời khi lăng xăng “tham chính” nhưng đến nay, những hoen ố gây ra vẫn còn in đậm trên thương hiệu Tesla. Uy tín cá nhân Elon Musk vẫn chưa được khôi phục. Và một thực tế phũ phàng nữa là dân Cộng Hòa nói chung và MAGA nói riêng vẫn chưa bao giờ là nhóm khách hàng ưa thích Tesla, cho dù họ từng khoái chiếc cưa máy của Elon Musk. [kn]


 

Kinh Hòa Bình – Phương Anh- (Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời)

Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.

Kinh Hòa Bình – Phương Anh

Lạy Chúa từ nhân!

Xin cho con biết mến yêu

Và phụng sự Chúa trong mọi người.

Lạy Chúa xin hãy dùng con

Như khí cụ bình an của Chúa,

Ðể con đem yêu thưong vào nơi oán thù,

Ðem thứ tha vào nơi lăng nhục,

Ðem an hòa vào nơi tranh chấp,

Ðem chân lý vào chốn lỗi lầm.

Ðể con đem tin kính vào nơi nghi nan,

Chiếu trông cậy vào nơi thất vọng,

Ðể con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm,

Ðem niềm vui đến chốn u sầu.

Lạy Chúa xin hãy dạy con:

Tìm an ủi người hơn được người ủi an,

Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết,

Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu.

Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh,

Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân,

Vì chính khi thu tha là khi được tha thứ,

Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.

Ôi Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con,

Xin thương ban xuống

Những ai lòng đầy thiện chí ơn an bình