20 năm và 50 năm vẫn nguyên vẹn giá trị Việt Nam Cộng Hòa

Ba’o Nguoi-Viet

April 23, 2025

Trần Doãn Nho/Người Việt

KENNEDALE, Texas (NV) – Như nhiều người cùng thế hệ, tôi đã sống trọn 20 năm trong lòng chế độ Việt Nam Cộng Hòa (1955-1975) và cảm thấy tự hào là người Việt Nam. Nhìn trở lại, với tôi, đó là một quá khứ thân thuộc, êm đềm, sinh động.

Đường phố Sài Gòn trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa vào Tháng Mười Một, 1968. (Hình: Terry Fincher/Daily Express/Hulton Archive/Getty Images)

Hai mươi năm ấy và 50 năm sau, biết bao nước chảy qua ghềnh, qua thác, qua suối, qua cầu, qua sông, qua biển… Trong khoảng thời gian vừa ngắn lại vừa dài dằng dặc đó, tôi trải qua ít nhất là bốn cuộc đời: như một công dân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), như một tù nhân trong trại tù Cộng Sản, như một công dân Việt Nam hạng chót (nếu tôi nhớ không lầm, thì là hạng thứ 14 quy cho những ai bị đi tù “cải tạo”) và sau cùng, như một người lưu vong.

Hai mươi năm đầu: giữa chiến tranh và hòa bình, giữa hận thù, nhiễu nhương và hoa mộng, tươi vui, giữa tuyệt vọng và hy vọng.

Năm mươi năm sau: cuộc đời lộn ngược. Nhiều lần. Đối với tôi mà cũng là đối với vô số người. Xem như cộng nghiệp!

Giá trị VNCH

Trong một lần gặp gỡ bà con, một người cháu thuộc thế hệ của những người trưởng thành trong nước sau năm 1975, giáo viên về hưu, thành thật hỏi tôi: “Tại sao đã gần nửa thế kỷ trôi qua rồi mà các chú các bác ở ngoài đó [hải ngoại] vẫn còn giữ mãi thái độ không thân thiện với nhà nước hiện nay vậy?”

Tôi cười, trả lời: ở nước ngoài, chuyện “không thân thiện” hay nói cho rõ ra, chống đối nhà cầm quyền, là chuyện “thường ngày ở huyện,” một sinh hoạt vô cùng bình thường như mọi sinh hoạt khác trong xã hội. Trong chế độ dân chủ, cứ phải tâng bốc, ca tụng nhà cầm quyền hay im lặng trước những sai trái của họ mới là điều lạ. Các ông tổng thống, thủ tướng hay các dân biểu nghị sĩ hay bất cứ quan chức nào đương nhiệm vẫn bị dư luận và báo chí phê phán, chỉ trích, thậm chí rủa sả hàng ngày về đủ thứ chuyện (thực cũng như bịa), nhưng chẳng ai bị lên án là phản động, là bán nước hay phá hoại. Người cầm quyền chỉ có một quyền duy nhất: phản bác lại, cũng qua báo chí, hay kiện ra tòa, chứ tuyệt đối không quy chụp và bắt bớ dựa trên các lời phát biểu.

Người cháu gật gù, tỏ ra hiểu. Tôi đoán: hiểu nhưng chưa chắc đã thông. Không sao. Người cháu sống thời của cháu: chịu đựng và làm quen với chịu đựng trở thành một nếp sống, một quán tính sinh tồn. Đụng chạm đến nhà nước, dù đúng hay sai, đều là “taboo,” điều cấm kỵ.

Còn tôi, tôi sống thời của tôi. Vâng, thời của tôi! Hai mươi năm và 50 năm với những quãng đời đứt đoạn, chập chờn nổi trôi giữa cuộc thăng trầm.

Trong chế độ VNCH, tôi được học hành vui chơi, được mơ ước, được phục vụ, được hưởng thụ và không những thế, tham gia tranh đấu chống lệ thuộc ngoại bang, chống bất công, chống đàn áp, đòi hỏi bầu cử tự do, dân chủ. Và đã từng ăn cơm nhà tù vài lần. Có bênh có chống.

Với tôi, VNCH không hoàn hảo, nhưng rộng mở, có chỗ cho thế hệ chúng tôi mở mang kiến thức đa dạng, có chỗ cho kẻ sĩ và người lương thiện, không cần phải nhịn nhục, bợ đỡ và hô khẩu hiệu để được sống yên thân.

Những ưu điểm đó làm nên cái mà tôi gọi là “giá trị VNCH.” Còn nhớ, sáng 30 Tháng Tư, 1975, đứng trên đường Trương Minh Giảng, Sài Gòn, nhìn những chiếc xe tăng bộ đội Cộng Sản chạy vào từ hướng phi trường Tân Sơn Nhất, tôi bàng hoàng nghe như cả bầu trời sụp xuống. Trời nắng mà tràn đầy bóng tối. Trong phút chốc, VNCH biến mất. Tưởng đã vĩnh viễn đi vào hư vô.

Nhưng không!

Khác với các triều đại ngắn ngủi trước đây, tuy chế độ thì không còn nữa, nhưng giá trị VNCH không biến mất, vẫn tiếp tục kéo dài đến ngày nay, 50 năm sau. Ở hải ngoại, đã đành, mà còn lan tỏa vào trong nước dưới nhiều khía cạnh khác nhau.

Khởi đầu, do những đợt ra đi liên tục làm chấn động lương tâm nhân loại sau năm 1975. Từ đó, dù vì chính trị hay kinh tế, bằng cách vượt biên hay có giấy tờ, dù định cư ở Hoa Kỳ, Úc, Pháp, Anh hay các nước khác ở Âu Châu, Phi Châu, Á Châu, những người rời bỏ đất nước mang theo tấm lòng của những người sống trong, sống với và yêu mến các giá trị đó. Nói như nhạc sĩ Ngô Thụy Miên trong “Em Còn Nhớ Mùa Xuân,” đó là những “hôm qua” và những “mai sau” trong tâm thức “hồi hương:”

“Những thành phố em sẽ đi qua
Đây Ba-Lê, đây Luân Đôn, đây Vienne
Nhưng có đâu bằng Sài Gòn hôm qua
Nhưng có đâu bằng Sài Gòn mai sau
Em có mơ ngày hát câu hồi hương”

“Ra đi” này kéo theo “ra đi” kia. “Ra đi,” cuối cùng, không còn có nghĩa là “bỏ đi” mà là để trốn thoát, để gìn giữ và để nối dài. Tôi thích nhóm chữ “VNCH nối dài” của sử gia Tạ Chí Đại Trường. Vâng, có một VNCH nối dài. Đó là sự “nối dài” đầy ý nghĩa của một mô thức xã hội, vừa có tính thừa kế những giá trị có sẵn, vừa được bổ sung thêm những giá trị mới từ văn minh Tây phương. Nó đánh dấu sự tồn tại những nét son của phe thua cuộc.

Người miền Nam ra đi kéo theo người miền Bắc (cũng tìm cách) ra đi. Những đợt ra đi “không có phép” được nối tiếp với những cuộc ra đi “có phép.” Cho đến nay, người ta vẫn tiếp tục ra đi, dưới dạng này hay dạng khác. Trong số đó, không thiếu những người đã từng hoạt động cho Cộng Sản và con cháu của họ, kể cả con cháu của nhân vật cao cấp trong chính quyền. Nối dài và nối dài và nối dài…

Những “nối dài” đó khiến cho cộng đồng Việt Nam, trong 50 năm qua, từ những nhóm người tị nạn tả tơi, rách nát trong quá khứ cho đến hiện nay, bành trướng ra, lớn mạnh hơn, có mặt hầu như trên khắp thế giới, hình thành nên một hiện thực chưa hề có trong lịch sử nước nhà: Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại.

Hai chữ “hải ngoại” vừa là một khái niệm địa lý lại vừa đồng nghĩa với một cái gì “khác hẳn” – và trong một số trường hợp, “đối lập” – với (nhà cầm quyền) trong nước. Hiểu cách nào thì hải ngoại cũng là một chỗ dựa, là chỗ bù đắp cho những gì thiếu vắng, thiếu thốn hay bị cấm đoán – cả tinh thần lẫn vật chất – ở trong nước. Hải ngoại động viên, dung chứa, lưu giữ và phổ biến, không những nền văn hóa dân tộc đa dạng, mà còn những tiếng nói phản biện mọi mặt từ trong nước ra toàn thế giới bằng cách thực hiện các cuộc phỏng vấn, phát hành ca khúc, xuất bản các tác phẩm văn chương, các sách biên khảo xã hội và chính trị của họ. Hải ngoại trở thành một đối trọng (contre-poids) cần thiết, góp phần thúc đẩy tiến bộ và cải cách đất nước.

Thương xá Phước Lộc Thọ ở thành phố Westminster, California, ngay trung tâm Little Saigon – “thủ đô” của người Việt tị nạn. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Little Saigon – căn cước của một VNCH nối dài

Ở một mặt nào đó, có thể nói hải ngoại là một thực thể Việt Nam khác, phong phú, cởi mở và tự do hơn. Nhất là ở Hoa Kỳ. Với tổng dân số được ước tính hiện nay hơn 2.2 triệu người, cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ chiếm khoảng một nửa số người Việt trên toàn thế giới, với một cái tên mà cũng là một nơi chốn đã trở thành biểu tượng để hướng về: Little Saigon.

Little Saigon – “thủ đô” của người Việt tị nạn – bây giờ là ID (căn cước) của một VNCH nối dài. Tuy không phải là một chính quyền, một tổ chức, một cơ cấu, nhưng Little Saigon hoàn toàn mang không khí và hơi thở của những tháng năm VNCH ngày cũ, từ chợ búa, truyền thanh, truyền hình, báo chí cho đến văn chương, âm nhạc và, tất nhiên, lá cờ vàng, bây giờ được xem là “Lá Cờ Tự Do và Di Sản” (Vietnamese Freedom and Heritage Flag) của người Mỹ gốc Việt.

Little Saigon – Sài Gòn Nhỏ – tượng trưng cho sự tồn tại của một Sài Gòn Lớn, vốn là thủ đô của VNCH, đã bị đổi tên. Cứ nhìn những ứng cử viên người Việt ra ứng cử các chức vụ hành pháp và lập pháp (trung ương hay địa phương) trong các cuộc bầu cử Tháng Mười Một, 2024, tại Little Saigon là thấy rõ sự kiện đó: ứng cử viên, dù thuộc đảng nào, cũng đều nêu bật những giá trị VNCH để thu hút sự ủng hộ của cử tri.

Sự lớn mạnh và ảnh hưởng của nó về nhiều mặt khiến Little Saigon trở thành đề tài nghiên cứu cấp đại học. Chẳng hạn như tiểu luận “Creating a Sense of Place: The Vietnamese-Americans and Little Saigon” của Sanjoy Mazumdar, Shampa Mazumdar, Faye Docuyanan và Colette Marie McLaughlin. Theo các tác giả, ở Hoa Kỳ, hầu hết những nhóm người mới đến định cư đều có nhu cầu phải diễn tả căn cước cộng đồng của họ bằng cách tạo ra một không gian và nơi chốn riêng của họ. Chẳng hạn “Chinatown” (Khu Phố Tàu), “Polish enclave” (Cộng Đồng Ba Lan), “Lebanese enclave” (Cộng Đồng Li-Băng/Lebanon), Germantown (Khu Phố Đức), “Little Havana” (Tiểu Havana/cho người Cuba).

Tương tự, các tác giả cho biết: “Kinh nghiệm của người Việt Nam là câu chuyện về sự đau đớn và mất mát, mất nước, mất nhà, mất gia đình, mất văn hóa và căn cước.” Cho nên, Little Saigon xuất hiện như là “trung tâm của căn cước và sự gắn bó của cộng đồng.” Nó đã trở nên, “không chỉ là trung tâm thương mãi mà còn là trọng điểm xúc động của cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ.”

Vì thế, những người Việt nào không cư trú ngay tại Little Saigon, thì đến “Little Saigon giống như thực hiện một cuộc hành hương. Đối với họ, đó là một ngôi nhà thay thế, một ngôi nhà cách xa nhà (a home away from home), một nơi chốn họ có thể dễ dàng đến để có được một chuyến về thăm nhà. (…) Đối với một cộng đồng người tị nạn đã mất quê hương, trong đó có thủ đô Sài Gòn, việc thành lập Little Saigon tượng trưng cho niềm hy vọng từ ‘không nhà’ (homeless) trở thành ‘có nhà’ trở lại (a ‘home’ again). Cuối cùng, chính sự hiện diện của Little Saigon đã truyền tải một cách đầy biểu tượng đến xã hội sở tại khao khát của cộng đồng di dân Việt Nam muốn bám rễ thường trực trên vùng đất tạm dung mới (trong đất Mỹ) trong lúc vẫn duy trì được bản sắc dân tộc riêng của họ thông qua sự chuyển dịch thành công tôn giáo, văn hóa và doanh nghiệp của họ.”

Điều thú vị là, Little Saigon này làm phát sinh ra những Little Saigon khác.

Hiện nay, đã có khá nhiều Little Saigon hiện diện tại nhiều địa phương, ở Hoa Kỳ cũng như ở một vài nước khác. Cái tên dễ thương này đã trở thành – hoặc đang được vận động để trở thành – chính thức, như Little Saigon San Jose (California), Little Saigon San Francisco (California), Little Saigon Sacramento (California), Little Saigon Houston (Texas), Little Saigon Vancouver (Canada), Little Saigon in Sydney (Úc), Little Saigon Plaza Bankstown (Úc).

Ở những nơi mà cộng đồng người Việt nhỏ bé hơn, lại sống tản mác, không có đại diện trong chính quyền địa phương để vận động đặt tên, cư dân Việt vẫn tự gọi khu sinh hoạt hay khu thương mại địa phương mình cư trú là Little Saigon. Dần dà, dưới mắt người Mỹ, Little Saigon đồng nghĩa với “Khu Phố Việt.” Tại các khu phố này, có nơi tuy chỉ thu gọn trong một vài cơ sở thương mại (đôi khi chỉ là một cái chợ nhỏ), mọi mặt sinh hoạt hằng ngày của chúng đều đậm nét quê hương, hình thành những thỏi nam châm thu hút và quy tụ đồng hương.

Nhật báo Người Việt đón Tết. Tờ báo ra đời ngày 15 Tháng Mười Hai, 1978, là một trong những tờ báo tiếng Việt lớn nhất tại hải ngoại. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

“Nền” văn học, báo chí riêng

Nối kết các khu phố Việt rải rác trên toàn thế giới là âm nhạc, báo chí và văn chương, những phương tiện xuyên quốc gia hữu hiệu trong thời đại điện tử. Các nhóm chữ “âm nhạc hải ngoại,” “báo chí hải ngoại” hay “văn chương hải ngoại” để chỉ các hoạt động văn hóa của người Việt trên toàn thế giới đã trở thành từ vựng chính thức trong ngôn ngữ Việt Nam hiện nay. Hoạt động của các trung tâm hay cơ sở này quá đa dạng và quá nhiều đến nỗi, chưa người viết nào có đủ điều kiện để tìm biết và liệt kê đầy đủ.

Về mặt âm nhạc và báo chí, ngoài những cái tên vô cùng quen thuộc như Thúy Nga, Asia, Vân Sơn hay Người Việt, Viễn Đông, Việt Báo, Thời Luận, vân vân, nằm ngay trong Little Saigon “thủ đô,” còn có nhiều cơ sở âm nhạc và hàng trăm, hàng ngàn tạp chí hay tuần báo, nguyệt san khác (vừa giấy vừa mạng) nằm rải rác trong tất cả các Little Saigon “địa phương,” cung cấp món ăn tinh thần cho hàng triệu người Việt.

Về mặt văn chương, tuy không sôi động và gây ảnh hưởng tức thời như hai lãnh vực trên, cộng đồng người Việt hải ngoại đã tạo nên được một “nền” văn học riêng (cả tiếng Việt lẫn Anh hay tiếng Pháp) vô cùng phong phú với một số lượng tác giả, tác phẩm và tạp chí văn chương dồi dào. Đó là một tổng hợp của nhiều dòng văn chương khác nhau: Văn Chương Miền Nam trước 1975, Văn Chương Miền Nam “nối dài,” văn chương của những cây bút mới xuất hiện ở hải ngoại, văn chương của những nhà văn phản kháng hay bất đồng chính kiến, vân vân và vân vân.

Có rất nhiều tạp chí văn chương, giấy cũng như mạng: Làng Văn, Ngôn Ngữ, Da Màu, Thư Quán Bản Thảo, Diễn Đàn Thế Kỷ, Gió-O, Đàn Chim Việt, Diễn Đàn Forum, Thất Sơn Châu Đốc, Tân Hình Thức, Tiền Vệ, T. Vấn & Bạn Hữu, Phố Văn, Phạm Cao Hoàng, Trần Thị Nguyệt Mai… Cũng có khá nhiều nhà xuất bản: Tiếng Quê Hương, Văn Mới, Văn Nghệ, Nhân Ảnh, Văn Học Press, Thế Kỷ 21, Da Màu Press, Người Việt Books, Nhà Xuất Bản Trẻ, Anh Thư, Tân Thư, Thư Ấn Quán, Literary Hub…

Các tạp chí và nhà xuất bản này, ngoài việc đăng tải hay tái bản các tác phẩm của Văn Học Miền Nam trước 1975, xuất bản các tác phẩm của các tác giả hải ngoại, còn xuất bản hàng trăm tác phẩm bị cấm của những cây bút, hoặc đã qua đời hoặc còn ở trong nước hay đã thoát ra ngoài như Vũ Thư Hiên, Nguyễn Viện, Phạm Đoan Trang, Nguyễn Bình Phương, Bùi Ngọc Tấn, Tô Hải, Tiêu Dao Bảo Cự, Hoàng Hưng, Trần Đĩnh, Huy Đức…

Đặc biệt nhất, một số tác giả và tác phẩm văn chương của họ đã đi vào lãnh vực quốc tế (do được viết bằng ngoại ngữ hoặc được chuyển dịch từ tiếng Việt) như Nguyễn Thanh Việt, Ocean Vương (Mỹ), Kim Thúy (Canada), Dương Thu Hương, Trần Thị Hảo (Pháp)… Văn chương hải ngoại, với sức sống mạnh mẽ của nó, hiện đã trở thành một dòng văn học với sắc thái riêng biệt, nhất định sẽ chiếm một vị trí xứng đáng trong lịch sử văn học Việt Nam.

Mẹ và con đi chợ Tết. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Người ngoại quốc gọi Tết là “Tết!”

Một điều lý thú khác cũng cần được ghi nhận, đó là ngôn ngữ. Qua một thời gian dài sống chung với nhiều nền văn hóa khác nhau, ngôn ngữ Việt Nam dần dà phổ biến, do đó, một số từ ngữ Việt Nam như “banh mi” (bánh mì), “pho” (phở), “ao dai” (áo dài), “tet” (Tết) trở thành từ vựng có tính cách quốc tế, được đưa vào một số tự điển tiếng Anh, trong đó có Merriam-Webster, Cambridge Dictionary, Oxford English Dictionary, Collins Dictionary, Dictionary.com, vân vân.

Dictionary.com định nghĩa “banh mi” là “a Vietnamese sandwich on a crisp baguette spread with mayonnaise, typically containing pork or chicken and pâté, with pickled vegetables, cucumber, and cilantro” (Một loại bánh mì giòn có phết sốt mayonnaise kẹp thịt heo hoặc thịt gà và pa-tê kèm thêm rau, dưa leo và ngò).

William-Webster định nghĩa “ao dai” là “the traditional dress of Vietnamese women that consists of a long tunic with slits on either side and wide trousers” (Trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam gồm áo dài xẻ hai bên và quần ống rộng).

Riêng chữ “Tet,” trước đây, người nước ngoài đã biết đến và sử dụng nó, nhưng để chỉ biến cố Tết Mậu Thân 1968: “Tet Offensive.” Bây giờ, chữ Tết với nghĩa phổ thông hơn, cũng đã chính thức được ghi vào tự điển tiếng Anh. Xin ghi lại định nghĩa về chữ “Tet” trong hai tự điển tiếng Anh nổi tiếng:

-Tự điển Merriam-Webster: Tet (noun) là “the Vietnamese New Year observed during the first several days of the lunar calendar beginning at the second new moon after the winter solstice” (Tết là Lễ Mừng Năm Mới của người Việt được tổ chức vào những ngày đầu tiên của âm lịch bắt đầu từ ngày trăng non thứ hai sau ngày đông chí).

-Tự điển Dictionary.com: Tet (noun) là “the Vietnamese New Year celebration, occurring during the first seven days of the first month of the lunar calendar” (Tết là Lễ Mừng Năm Mới của người Việt, diễn ra vào bảy ngày đầu tiên của Tháng Giêng Âm Lịch).

Tết Việt Nam, như thế, đã được tách hẳn khỏi Tết Tàu, “Chinese New Year.”

Xét cho cùng, theo tôi, đó cũng là một thành tựu. Nhưng không chỉ là thành tựu về mặt ngôn ngữ.

Thành tựu đó gắn liền với nỗ lực bảo vệ truyền thống của mọi người Việt Nam khi bị buộc phải xa rời cội nguồn, chủ yếu là qua hình thức ẩm thực và lễ hội. Trong suốt 50 năm ở xứ người, năm nào cũng như năm nào, ở đâu có người Việt cư ngụ là ở đó có hội Tết, dù nhỏ dù lớn. Tha hương, buồn thì buồn, nhớ thì nhớ, nhưng vẫn ăn mừng: “Ăn” và “Mừng.” “Ăn” Tết, “Mừng” Xuân là mang quê hương đến với mình. Đồng thời, cột chặt mình với quê hương. Có Tết là có quê hương. Không kể Little Saigon, nơi mà không khí Tết rộn ràng và rực rỡ mà cao điểm là các cuộc Diễn Hành Tết và Hội Chợ Tết, ở các vùng khác, sinh hoạt Tết đều diễn ra hằng năm, cũng thấm đẫm màu sắc quê hương không kém.

Gia đình tôi sang định cư ở một thành phố nhỏ miền Đông Bắc nước Mỹ, nơi mà Tết bao giờ cũng rơi vào lúc cao điểm của mùa tuyết. Không có Tết nào là vắng tuyết, thậm chí có năm, bão tuyết lớn rơi vào đúng đêm Giao Thừa với lượng tuyết lên đến 10-15 inch. Chữ “Tết,” vô hình trung, gắn với và nằm trong chữ “T(uy)ết.”

Tết trong tuyết, tuyết trong Tết! Tết và tuyết chỉ cách nhau một bước chân: bước vào, Tết, bước ra, tuyết! Có năm, cúng Giao Thừa xong, muốn cắm một cây nhang ở ngoài trời cũng không được, vì toàn là tuyết và tuyết. Không sao! Dù chỉ là những ngày cuối năm “giả thuyết,” những chiều 30 “bịa đặt,” những Giao Thừa “tự chế” (biến), những ngày đầu năm “hư cấu,” thế nhưng, năm nào gia đình tôi cũng lấy một hay vài ngày nghỉ phép (nghỉ làm, nghỉ học) để “ăn Tết.” Mứt bánh thiệp chúc mừng quà cáp tiền lì xì cúng ông Táo cúng Tất Niên đi chợ Tết đi chùa hái lộc đi thăm bạn bè… Có đủ.

Ngoài Tết nhà, là Tết chợ. Không khí Tết dồn vào trong ba, bốn cái chợ, tọa lạc ở những khu riêng biệt, cách xa nhau. Dẫu vậy, đối với cộng đồng Việt Nam nhỏ bé ở đây, chợ là hình ảnh của một quê nhà thu nhỏ. Không thiếu thứ gì: chậu mai, chậu đào, phong pháo, bánh chưng, bánh tét, mứt dừa, mứt khoai, mứt gừng, mứt bí, hạt dưa, bao lì xì, dưa hành, câu đối, lịch coi ngày, hương đèn, hoa quả, nhạc xuân, báo Tết…

Đi chợ cũng là một cách ăn Tết: người người mua sắm, tiếng cười đùa, trò chuyện râm ran hòa cùng với tiếng hát vang vang từ băng nhạc Xuân: “…Đón Xuân này tôi nhớ Xuân xưa một chiều Xuân tôi đã hẹn hò… bên mái tranh nghèo ngồi quanh bếp hồng trông bánh chưng chờ trời sáng”… Ngậm ngùi lắng nghe tuổi thơ, lắng nghe quê nhà, lắng nghe xóm giềng qua tiếng trò chuyện lao xao của đồng hương chen chúc, lắng nghe những đói nghèo, lắng nghe những ước mơ đơn sơ và mộc mạc ngày cũ. Quá khứ quê nhà trộn lẫn với hiện tại tha hương.

Ngoài “Tết chợ,” là “Tết chùa” hay “Tết nhà thờ,” nơi mà tối 30 và ngày Mùng Một, các cơ sở tôn giáo này đều có những chương trình đặc biệt dành trọn cho các sinh hoạt Tết, cũng múa lân, hái lộc, cho tiền lì xì, đốt pháo… Và xôm tụ nhất là “Tết Cộng Đồng.” Đây là một lễ hội truyền thống (với đủ thứ sinh hoạt: hội chợ, đánh bài, thi áo dài, thi tiếng Việt, chợ hoa, xổ số, hái lộc, múa lân, đốt pháo…) diễn ra ở nơi công cộng, dành cho không những tất cả cư dân Việt trong vùng, mà còn mở rộng ra chào đón cư dân các sắc tộc khác, với sự tham dự của các viên chức hành pháp và lập pháp địa phương như thị trưởng hay nghị viên Hội Đồng Thành Phố.

Tết Cộng Đồng, một mặt, duy trì và chuyển tải truyền thống văn hóa cho các thế hệ sau và một mặt, giới thiệu và giao thiệp văn hóa Việt Nam với các cộng đồng sắc tộc bạn. Đặc biệt lúc nào cũng có các “ca sĩ Cali” trong chương trình văn nghệ. Sự hiện diện của họ vừa để giúp vui, lại cũng vừa để Little Saigon “địa phương” chia sẻ phần nào không khí rộn ràng của Little Saigon “thủ đô.”

Trong suốt hàng chục năm gia đình tôi cư ngụ ở vùng tuyết giá này, mùa Xuân không lúc nào vắng mặt. Đã ấm áp tình đồng hương, lại còn được sống trọn mùi vị và cảnh sắc quê nhà, từ bàn thờ tổ tiên, áo quần truyền thống cho đến mứt, bánh, hoa, pháo, bao lì xì, múa lân và đặc biệt nhất là được sống lại không khí thanh bình tươi vui của một miền Nam trước 1975 với bàn thờ tổ tiên, áo dài, khăn đóng, cờ xí, nhạc lính, nhạc tình, nhạc Xuân… Chẳng thế mà, đám con cháu tôi, dù đa phần sinh trưởng ở xứ người, nhưng vẫn còn rất là Việt Nam. Một niềm an ủi lớn! (Trần Doãn Nho) [qd]


 

Được xem 6 lần, bởi 6 Bạn Đọc trong ngày hôm nay