Tóm tắt chính sách đối ngoại của Tổng thống Ronald Reagan -Trần Trung Đạo

Ba’o Tieng Dan

Trần Trung Đạo

11-3-2025

LGT của Tiếng Dân: Có nhiều điều về Tổng thống Ronald Reagan được người dân Mỹ nhớ tới, nhưng có lẽ dân Mỹ và thế giới luôn nhớ đến ông là vị tổng thống thời Chiến Tranh Lạnh đầu tiên, chủ trì tám năm hòa bình không bị phá vỡ và là người đầu tiên đạt được thỏa thuận cắt giảm vũ khí hạt nhân với Liên Xô, qua việc đề xuất Hiệp ước cắt giảm vũ khí chiến lược (START) năm 1982.

Người dân Liên Xô và các nước cộng sản cũng sẽ nhớ đến ông Reagan là vị tổng thống Mỹ đã giúp Tổng thống Liên Xô Gorbachev có thể bắt đầu quá trình tái cấu trúc xã hội Liên Xô, cùng với hành động của những người Đông Đức thời đó, để rồi chính dân Đông Đức đã phá vỡ bức tường Berlin ngày 9-11-1989, dẫn đến sự sụp đổ của khối Cộng sản ở Đông Âu không lâu sau đó. Sau đây là bài viết của nhà văn Trần Trung Đạo về vị tổng thống thứ 40 của Mỹ.

***

Ronald Wilson Reagan, tổng thống thứ 40 của Mỹ, sinh ngày 6 tháng 2 năm 1911 và qua đời ngày 5 tháng 6 năm 2004. Ông xuất thân như một xướng ngôn viên cho các chương trình thể thao tại Iowa trước khi di chuyển California để bắt đầu nghề nghiệp đóng phim.

Ronald Reagan nguyên là đảng viên đảng Dân Chủ và xem TT Franklin D. Roosevelt như một anh hùng của nước Mỹ trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế và Thế Chiến Thứ Hai. Ông ủng hộ TT Harry Truman trong chiến dịch tái tranh cử tổng thống 1948.

Năm 1962 ông thay đổi từ đảng Dân Chủ sang đảng Cộng Hòa và ủng hộ các chiến dịch tranh cử tổng thống của Dwight Eisenhower năm 1952 và Richard Nixon năm 1960.

Năm 1966, ông thắng cử chức vụ thống đốc tiểu bang California. Năm 1976, ông tranh cử ứng cử viên tổng thống đảng Cộng Hòa. Ronald Reagan chống lại chính sách đối ngoại hòa hoãn với LX của ứng cử viên Gerald Ford nhưng thất cử sít sao trước Gerald Ford. Gerald Ford, sau đó, thất cử trước ứng cử viên đảng Dân Chủ Jimmy Carter.

Năm 1980, Reagan tranh cử tổng thống lần nữa. Sự thất bại kinh tế và các chính sách đối ngoại sai lầm của TT Jimmy Carter đã tạo điều kiện cho Thống đốc Ronald Reagan trở thành tổng thống thứ 40 của Mỹ.

Học thuyết Reagan (Reagan Doctrine)

Theo tài liệu lưu trữ tại Bộ Ngoại giao Mỹ, “Học thuyết Reagan” được dùng để mô tả chính sách của chính quyền Reagan (1981-1988) nhằm hỗ trợ các lực lượng chống Cộng ở bất cứ nơi nào họ có thể đến. Trong bài phát biểu về Tình hình Liên bang năm 1985, Tổng thống Ronald Reagan đã kêu gọi Quốc hội và người dân Mỹ đứng lên chống lại Liên Xô, nước mà trước đây ông gọi là “Đế chế Ác quỷ”.

Ông phát biểu: “Chúng ta phải đứng về phía tất cả các đồng minh dân chủ của mình. Và chúng ta không được phép phản bội lòng tin của những người đang liều mạng sống của mình—trên mọi lục địa, từ Afghanistan đến Nicaragua—để thách thức sự xâm lược do Liên Xô hậu thuẫn và bảo vệ các quyền mà chúng ta đã có từ khi sinh ra” — (Reagan Doctrine, 1985, US Department of State, Archive).

Với quan điểm đó, học thuyết Reagan còn được gọi là lý thuyết “phục hồi” (Rollback).

Nhắc lại, đối phó với sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản từ sau Thế Chiến Thứ Hai, hai chiến lược đối ngoại quan trọng của Mỹ gồm “bao vây” (containment) và “phục hồi” (rollback). Chiến lược “bao vây” được biết đến lần đầu tiên vào tháng 2 năm 1946 khi George F. Kennan, nhân viên ngoại giao làm việc cho tòa đại sứ Mỹ tại Liên Xô, gởi Bộ Ngoại giao Mỹ một bản phân tích qua hình thức một điện tín dài 5.500 chữ tới Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Chính sách đối ngoại chỉ đạo của Mỹ đặt cơ cở trên những phân tích của George Kennan, được gọi là “ngăn chặn” (containment).

Lý thuyết “phục hồi” không thay đổi hay thay thế lý thuyết “ngăn chặn” nhưng tích cực và chủ động hơn. Hai lý thuyết cùng một gốc này chế ngự chính sách đối ngoại của Mỹ trong và cả sau chiến tranh lạnh, tùy thuộc hoàn cảnh chính trị tại mỗi quốc gia mà một hay cả hai chính sách được áp dụng.

Mục đích của “phục hồi” nhằm đánh bại hay đưa về vị trí cũ tại những nơi bị Cộng sản chiếm được trước hết nhắm đến các quốc gia Cộng sản chư hầu của Liên Xô tại Đông Âu và “ngăn chặn” sự bành trướng của Cộng sản tại các nước mầm mống độc tài vừa phát sinh như tại Afghanistan, Nam Mỹ.

Người cổ võ mạnh mẽ nhất cho lý thuyết này là cố Ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles và được Tổng thống Ronald Reagan khai triển thành Chủ thuyết Reagan.

Về mặt quốc phòng, Reagan Doctrine chủ trương chạy đua vũ trang. Ông thuyết phục quốc hội chuẩn chi ngân sách quốc phòng khổng lồ để xây dựng một bộ máy quân sự hùng mạnh nhất thế giới với những võ khí tiên tiến như Stealth Technology của Không Quân, M-1 Abrams tanks. Tổng thống Reagan còn có công trong việc phục hồi niềm tin và danh dự của quân đội Mỹ sau chiến tranh Việt Nam (Tom Bowman, Reagan guided huge buildup in arms race, Baltimore Sun, Jun 08, 2004).

Nhưng để học thuyết được thành công, bản thân ông chưa đủ, Tổng thống Reagan cần (1) một nội các gồm những chuyên gia lỗi lạc về mọi lãnh vực, nhất là đối ngoại, (2) liên kết chặt chẽ với các đồng minh Châu Âu, nhất là Anh và Đức, (3) lôi kéo sự đồng tình ủng hộ của khối chống Cộng thuộc Thế giới Thứ Ba nhất là các “sân sau” ở Nam Mỹ. Ông biết, cuộc đấu tranh chống lại thế giới Cộng sản là cuộc đấu tranh tổng hợp và toàn diện.

Trước hết, Tổng thống Reagan thành lập một nội các gồm những nhà chính trị tài năng và chuyên nghiệp

Tổng thống  Reagan không mang vào tòa Bạch Ốc những người mới, thiếu kinh nghiệm, theo ông từ California hay những người không đủ khả năng nhưng trung thành, mà là những chuyên viên lỗi lạc có sẵn trên đất nước.

Ngoại trưởng đầu tiên của Tổng thống Reagan là tướng bốn sao trẻ nhất của quân đội Hoa Kỳ Alexander Haig. Tướng Haig có một quá trình phục vụ cho đất nước Mỹ dài hơn rất nhiều chính trị gia. Đại tướng Haig từng là Tổng Tư lịnh Quân đội Hoa Kỳ tại Châu Âu và có một vốn hiểu biết rất dày về sức mạnh quân sự của Liên Xô. Alexander Haig từng là Tham mưu trưởng của Tổng thống Nixon và Tổng thống Ford.

Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Caspar Weinberger vốn là một viên chức cao cấp phục vụ 30 năm dưới thời các Tổng thống Nixon và Tổng thống Ford.

Giám Đốc CIA William Casey từng là nhân viên Sở Tình Báo Chiến Lược OSS từ Thế Chiến Thứ Hai và các thời Tổng thống Nixon, Ford.

George Shultz, người kế vị Alexander Haig trong chức vụ Bộ trưởng Ngoại Giao là nhà kinh tế, chính trị đầy kinh nghiệm. Từ năm 1955, ông đã là Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Kinh tế của Tổng thống Dwight Eisenhower. Giống như Tổng thống Reagan, mục tiêu ưu tiên cần giải quyết của Tiến sĩ George Shultz là Liên Xô.

Tổng thống Reagan không quan tâm những người ông mời vào nội các từng phục vụ các đối thủ chính trị của ông trong đảng Cộng Hòa. Ông không mang vào tòa Bạch Ốc những người chỉ biết thừa hành, mà là những người có cùng một tầm nhìn giống ông về tương lai của nước Mỹ và thế giới.

Thứ hai, Tổng thống Reagan liên kết chặt chẽ với các đồng minh Châu Âu

Để đánh bại khối Cộng sản đứng đầu là Liên Xô hùng mạnh, Tổng thống Reagan biết trước hết liên minh với các lãnh đạo Châu Âu chống Cộng.

Ý định này của ông được ghi lại trong tài liệu tối mật của Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ (CIA) được giải mật ngày 5 tháng 6 năm 2013, trong đó TT Reagan nhấn mạnh: “Hoa Kỳ phải xây dựng lại uy tín cho cam kết chống lại sự xâm phạm của Liên Xô vào lợi ích của Hoa Kỳ và các đồng minh và bạn bè của mình, đồng thời hỗ trợ hiệu quả các quốc gia Thế Giới Thứ Ba sẵn sàng chống lại áp lực của Liên Xô hoặc phản đối các sáng kiến thù địch của Liên Xô với Hoa Kỳ, hoặc là mục tiêu đặc biệt của chính sách Liên Xô” — (US Relations with the USSR, CIA, Declassified 2013/06/05).

Ngày 12 tháng Sáu, 1987, Tổng thống Reagan đứng cách bức tường phân chia Đông và Tây Đức một quảng không xa, đọc diễn văn nhân dịp kỷ niệm 750 năm thành lập thành phố Berlin. Trong diễn văn, Tổng thống Reagan thách thức Tổng Bí thư Gorbachev “Hãy Phá Bỏ Bức Tường Này” (Tear Down This Wall). Câu nói của Tổng thống Reagan được xem là điểm khởi đầu cho một chuỗi những thay đổi của Châu Âu, dẫn đến sự sụp đổ toàn bộ khối Cộng sản Châu Âu.

YouTube player

Đồng minh giữa Tổng thống Reagan và Thủ tướng Anh Margaret Thatcher là một mối quan hệ đặc biệt. Họ bước vào chính trường trong cùng thời điểm và đối diện với một thế giới tự do đang trên đà suy giảm ảnh hưởng. Họ là bạn nhiều năm trước khi trở thành lãnh đạo quốc gia. Cả hai chia sẻ tầm nhìn về phương pháp đối nội cũng như đối ngoại.

Tổng thống Reagan đánh giá cao vai trò của NATO

Nhân dịp kỷ niệm 35 năm thành lập liên minh quân sự này, Tổng thống Reagan ra một bản tuyên bố: “Vào tháng 5, Hoa Kỳ sẽ tổ chức cuộc họp mùa xuân của các bộ trưởng ngoại giao NATO tại Washington. Đây sẽ là cơ hội đặc biệt để kỷ niệm 35 năm thành lập liên minh chung của chúng ta và xem xét những thách thức trong tương lai mà quan hệ đối tác xuyên Đại Tây Dương phải đối mặt. Tôi kêu gọi Quốc hội và người dân Hoa Kỳ cùng tôi bày tỏ sự ủng hộ của chúng ta đối với một mối quan hệ đã phục vụ chúng ta rất tốt trong nhiều năm qua và sẽ tiếp tục là yếu tố thiết yếu đối với phúc lợi của chúng ta trong tương lai” — (Proclamation 5158 – 35th Anniversary of NATO. March 6, 1984, by the President of the United States of America).

Thứ ba, Tổng thống Reagan tích cực yểm trợ các nước nhỏ trên con đường dân chủ hóa

Tháng 2 năm 1985, Tổng thống Ronald Reagan phát biểu: “Chúng ta phải ủng hộ tất cả các đồng minh dân chủ của Mỹ. Và chúng ta không được phép phá vỡ niềm tin với những người đang mạo hiểm mạng sống của họ—trên mọi châu lục, từ Afghanistan đến Nicaragua—để thách thức sự xâm lược do Liên Xô hậu thuẫn và bảo vệ các quyền mà chúng ta đã có từ khi sinh ra” — (Reagan Doctrine, 1985, US Department of State, Archive).

Ngoài Liên Xô, Tổng thống Ronald Reagan còn là người đã thấy rõ dã tâm của Trung Cộng và là người cương quyết bảo vệ Đài Loan. Các tổng thống trước ông và sau ông đều nói, nhưng Tổng thống Reagan có ra văn bản rõ ràng. Văn bản được gọi là Sáu Bảo Đảm (Six Assurances) được xem như văn bản chỉ đạo của hành pháp cho các chính sách đối với Đài Loan. Dù nội dung đã đươc biết rộng rãi, mãi cho tới tháng 9 năm 2020, bản điện tín gốc của văn bản “Sáu Bảo Đảm” vẫn còn là “tài liệu tối mật”.

Khi quan sát chính sách đối ngoại của Tổng thống Reagan, người ta thường nghĩ ông đặt quan tâm quá lớn đối với Liên Xô và Nam Mỹ. Thật ra ông có quan tâm tương xứng dành cho Á Châu chỉ khác là ưu tiên hóa từng mục tiêu trong mỗi thời kỳ.

Khi cuộc đàm phán về một thông cáo chung giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng, vấn đề “bán vũ khí cho Đài Loan” gặp phải bế tắc. Thay vì nhân nhượng, tổng thống Reagan chủ trương thừa nhận bế tắc và hứa hẹn sẽ được giải quyết sau.

Dù sao, đoán trước sự lo lắng của Tổng thống [Đài Loan] Tưởng Kinh Quốc, Tổng thống Reagan chỉ thị James Lilley, Giám Đốc Viện Hoa Kỳ tại Đài Loan, tương tự như chức vụ Đại Sứ Mỹ tại Đài Loan, trao cho tổng thống Đài Loan văn bản, ngày nay được gọi là “Sáu Bảo Đảm”, vào ngày 14 tháng 7 năm 1982, tức khoảng một tháng trước khi có thông cáo chung ra đời. Tổng thống Reagan cũng đồng ý để chính phủ Đài Loan công bố nội dung của điện tín.

Thứ tư, TT Reagan chinh phục tình cảm của người dân các nước Cộng sản

Trong tác phẩm “Three Days in Moscow”, ký giả Bret Baier kể lại, khi vừa đến Moscow sau chuyến bay dài vào cuối tháng 5 năm 1988, thay vì nghỉ ngơi, Tổng thống Ronald Reagan đã cùng phu nhân dành thời gian ngoài nghị trình viếng thăm chính thức để ra phố thăm những người dân Nga bình thường.

Tổng thống Ronald Reagan có thể là vị tổng thống Mỹ đã bị bộ máy tuyên truyền Liên Xô bôi đen hơn nhiều tổng thống khác vì năm năm trước đó ông đã gọi chế độ Cộng sản Liên Xô là “đế quốc tội ác” (The evil empire). Thông tấn xã TASS tức khắc trả đũa. Qua nhiều bài bình luận TASS gọi Tổng thống Reagan là người “chống Cộng điên cuồng”. Nhưng thay vì bị khinh thường, sỉ vả hay thờ ơ, chiều 31 tháng 5 năm 1988, vị tổng thống thứ bốn mươi của Mỹ đã được dân chúng Moscow hoan hô nồng nhiệt.

Sau bảy mươi năm tranh đấu trong âm thầm, trong chịu đựng, nhận thức của người dân Nga cuối cùng đã thắng bộ máy tuyên truyền Cộng sản. Trước mặt họ Tổng thống Reagan không phải là người “chống Cộng điên cuồng” như hãng tin TASS bôi nhọ, mà là lãnh đạo của một cường quốc tự do, dân chủ, được người dân các quốc gia Cộng sản yêu mến và kính trọng.

Ánh sáng tự do đã thắng bóng tối độc tài và đó là tín hiệu cuộc cách mạng dân chủ đang đến. Thật vậy, chỉ một năm sau, hệ thống toàn trị Cộng sản rạn nứt và ba năm sau chế độ Cộng sản chính thức cáo chung.

Trong phần kết luận của diễn văn đọc trước hội nghị toàn quốc hàng năm của Hội Truyền Giáo Phúc Âm (The Annual Convention Of The National Association Of Evangelicals) tổ chức tại Orlando, Florida, USA ngày 8 tháng 3 năm 1983, Tổng thống Ronald Reagan phát biểu:

“Tôi tin chúng ta sẽ đáp ứng được thử thách. Tôi tin rằng chủ nghĩa Cộng sản là một chương buồn, kỳ quái trong lịch sử loài người mà những trang cuối cùng đang được viết ngay trong thời điểm này. Tôi tin điều này bởi vì nguồn sức mạnh trong nỗ lực mưu cầu tự do của con người không phải là vật chất mà là tinh thần. Và bởi vì nguồn sức mạnh đó không giới hạn, làm khiếp sợ và cuối cùng sẽ thắng những kẻ nô lệ hóa chính đồng bào họ”.

Tổng thống Reagan không chỉ là tổng thống Mỹ, mà còn là nhà lãnh đạo của thế giới tự do.


 

Được xem 4 lần, bởi 4 Bạn Đọc trong ngày hôm nay