TTKh. và những khám phá về thân thế tác giả-Lưu An-Vũ Ngọc Ruẩn/SGN

Ba’o Nguoi-Viet

August 2, 2024

Lưu An-Vũ Ngọc Ruẩn/SGN

Ðã gần bảy thập niên, kể từ khi bốn bài thơ độc đáo của TTKh được phổ biến trên hai tạp chí Tiểu Thuyết Thứ Bẩy và Phụ Nữ Thời Đàm ở Hà Nội. Giới văn chương, báo chí cũng như những người yêu thích thơ văn tiền chiến đã tốn khá nhiều bút mực, công lao để tìm hiểu về thân thế và con người thật ngoài đời của bà, nhưng đến nay vẫn còn nhiều mù mờ!

Gần đây đã có vài khám phá đáng mừng, dù vậy văn học sử vẫn còn cần thời gian để kiểm chứng mức độ chính xác của nó.

Trong suốt thời gian dài vừa qua, biết bao nhiêu những dữ kiện được thêu dệt rất lãng mạn liên quan đến tác giả bởi những người yêu thơ của bà cũng như những nhà làm văn nghệ… Vài người còn tưởng tượng hay đưa ra những chứng minh tự nhận mình là người yêu của bà.

Trong bài này, chúng tôi thu gom một số tài liệu từ xưa đến nay viết về TTKh cũng như đề cập đến nguyên nhân mà những bài thơ của bà đã được xuất hiện trên thi đàn. Ðây cũng chỉ là công việc sắp xếp những tài liệu đó cho có thứ tự với hy vọng cung ứng một vài kiến thức cho những người thích thơ văn tiền chiến và nhất là thơ của TTKh mà thôi.

1.Sự xuất hiện TTKh. trên thi đàn tiền chiến

Vào khoảng giữa năm 1937, trên tạp chí Tiểu Thuyết Thứ Bẩy xuất bản ở Hà Nội có đăng một truyện ngắn ”Hoa Ti-gôn” của ký giả Thanh Châu. Ðây là một truyện khá bi đát, trong đó mô tả truyện tình của một họa sĩ trẻ vừa ra trường tên Lê Chất. Trong một lần đạp xe đi tìm phong cảnh để vẽ ở một làng quê ven Hà Nội, ngẫu nhiên khi đi qua một căn biệt thự cổ Lê Chất nhìn thấy một cô gái rất đẹp, mặc áo ngắn tay bằng lụa đang đứng trên chiếc ghế cao níu lấy một cành hoa ti gôn mầu đỏ.

Sắc đẹp của người thiếu nữ nổi trội lên giữa giàn hoa ti gôn đỏ đã làm cho người hoạ sĩ mẩn mê đứng nhìn… Rồi từ hôm đó, ngày nào anh ta cũng tìm cách quanh quẩn gần căn biệt thự để được nhìn cô gái và ngược lại cô gái cũng thấy anh ta. Nhưng chỉ được vài lần, rồi không biết lý do gì người con gái không còn xuất hiện nữa.

Thời gian qua đi, mang thành công và danh vọng đến cho người hoạ sĩ, nhưng anh ta vẫn không bao giờ quên hình bóng người con gái đẹp dưới giàn hoa tigôn mầu đỏ mà anh ta đã gặp gỡ ngày còn nghèo khổ xa xưa .

Rồi ngẫu nhiên, chín năm sau, trong lần đi tìm đề tài sáng tác ở miền Nam Trung Quốc, anh ta được mời tham dự buổi dạ vũ trong toà lãnh sự Pháp tại Vân Nam. Lê Chất gặp lại cô con gái ngày xưa, nhưng trong nhiều oái oăm, muộn màng. Chồng của cô gái là một viên chức cao cấp của toà lãnh sự, người chồng mà cô ta không hề yêu thương. Trong lần tái ngộ đó, họ khiêu vũ, tâm sự với nhau, và tiếp theo mối tình của họ được tiếp nối trong vụng trộm. Ðến một lần, họ dự tính bỏ lại đằng sau tất cả để tìm cách trốn đi Nhật sinh sống với nhau.

Nhưng đến giây phút cuối, người thiếu phụ gửi cho chàng họa sĩ một lá thư, kèm một chùm hoa tigôn mầu đỏ máu, nàng từ chối ra đi vì không đủ can đảm từ bỏ danh dự và tai tiếng của gia đình cũng như sự khinh bỉ của gia đình chồng.

Buồn đau vì ý định không thành, người họa sĩ vẫn ra đi Nhật Bản một mình trước khi trở về Hà Nội. Rồi, ngẫu nhiên, bốn năm sau, anh ta nhận được lá thư từ người chồng của cô gái báo tin nàng đã mất! Lê Chất sang Vân Nam viếng mộ người xưa với một chùm dây hoa tigôn, loại hoa kỷ niệm mối tình của họ. Cũng từ đó cho đến suốt cuộc đời, cứ vào mua hoa tigôn nở, Lê Chất không bao giờ quên mua những chùm hoa tigôn để trang hoàng trong phòng làm việc như để tưởng nhớ đến người yêu xa xưa vắn số của mình .

Mấy ngày sau khi câu truyện ngắn trữ tình đó xuất hiện trên báo, có một thiếu phụ khoảng 20 tuổi, dáng dấp nhỏ bé, thùy mị, nét mặt u buồn mang đến toà báo, đưa tận tay người chủ bút một phong thư dán kín. Trong đó có một bài thơ rất hay với đề tựa ”Hai sắc hoa tigôn”  được ký tên tác giả là T.T.Kh.

Bài thơ não lòng, lột tả được tất cả cái đau xót của người con gái đã phải xa người mình yêu, người đã cùng mình gắn bó thề ước dưới giàn hoa tigôn để đi lấy chồng, người mà mình không hề yêu:

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài trong lúc thấy tôi vui
Bảo rằng: hoa dáng như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!

Nỗi đau buồn đó đã theo hết cuộc đời của nàng trong sự hững hờ của gia đình chồng vì biết nàng vẫn còn tưởng nhớ đến tình nhân xa cũ:

Từ đấy thu rồi thu lại thu
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ.

Cái ray rứt, cái đau khổ vì nghĩ mình là kẻ phụ bạc vẫn theo dầy vò người thiếu phụ, làm cho nàng sợ những buổi chiều thu nhạt nắng, sợ bóng dáng ai kia vẫn còn nhớ đến chùm hoa kỷ niệm đỏ tựa máu hồng:

Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ
Chiều thu hoa đỏ rụng chiều thu
Gió về lạnh lẽo, chân mây vắng
Người ấy sang sông đứng ngóng đò
Nếu biết rằng tôi đã có chồng
Trời ơi, người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng!

Khi bài thơ ”Hai sắc hoa tigôn” vừa cho lên mặt báo đã gây xôn xao trong giới yêu văn chương. Nhiều nhà phê bình đã không ngần ngại cho rằng đây là một kiệt tác. Trong không khí sôi động đó, toà báo lại nhận thêm được một bài thơ khác cùng tác giả, qua đường bưu điện với đề tựa ”Bài thơ thứ nhất.” Bài thơ này cũng với những câu thơ buồn đau đầy nước mắt, giải thích, mô tả kỹ lưỡng hơn về mối tình dang dở của cặp tình nhân gặp nhau rồi yêu nhau và cuối cùng không biết vì lý do nào đó người đàn ông rời xa, người đàn bà ở lại yêu kỷ niệm cho đến ngày lấy chồng:

Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa, nắng lướt mành
Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa, lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác!

Người con gái đã tưởng rằng, cuộc tình dang dở của mình đã đi vào dĩ vãng. Thời gian và ngăn cách cũng làm đổi thay nơi cố nhân để giúp nàng quên được mối tình xa xưa, lỡ dở đó. Nhưng oái oăm thay, người xưa vẫn còn nặng lòng, tưởng nhớ đến nàng, đến chòm hoa tigôn mầu đỏ hình tim kỷ niệm:

Ðang lúc lòng tôi muốn tạm yên
Bỗng ai mang lại cánh hoa tim
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Rỏ xuống thành thơ khóc chút duyên!
Ðẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
Ðã bọc hoa tàn dấu xác xơ!
Tóc úa giết lần đời thiếu phụ
Thì ai trông ngóng chẳng nên chờ.

Khi Bài thơ thứ nhất được đưa lên báo, có người thắc mắc tại sao bài thơ Hai sắc hoa Tigôn lại được gửi đăng báo trước Bài thơ thứ nhất?

Người ta cho rằng, tác giả đã làm Bài thơ thứ nhất, than khóc cho mối tình lỡ dở của mình từ lâu nhưng vì một lý do nào đó không gửi đăng báo. Nhưng sau đó, ngẫu nhiên đọc câu truyện ngắn Hoa Tigôn của ký giả Thanh Châu, cảm động với câu truyện và nhất là tìm thấy nhiều dữ kiện tương đồng với mối tình ngang trái của chính mình, tác giả đã làm bài thơ Hai sắc hoa Tigôn rồi gửi ngay cho toà báo. Chính vì thế bài thơ thứ nhất được phổ biến sau bài Hai sắc hoa tigôn:

Buồn quá hôm qua xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như mầu máu thắm pha

Cũng ở tuổi ngây ngô lúc mới gặp nhau thì làm sao hiểu được ý nghĩa của những tiếng thở dài của người yêu?!

Thuở đó nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly
Cho nên cười đáp mầu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biết suy!

Sau khi bài thơ thứ nhất được đăng trên báo Tiểu Thuyết Thứ Bẩy, giới văn nghệ càng bàn tán nhiều hơn nữa. Bao nhiêu những tưởng tưộng,thêu dệt với những tình tiết lâm ly về hình dạng, thân thế và cả mối tình buồn đau lãng mạn của tác giả được đưa ra báo chí.

Vẫn trong cái không khí xao động, bàn tán lung tung vì hai bài thơ vừa đăng báo đó, tạp chí Phụ Nữ Thời Đàm ở Hà nội lại nhận được bài thơ ”Ðan áo cho chồng” của cùng tác giả qua bưu điện. Bài thơ này cũng vẫn với giọng điệu buồn đau, nhưng có vẻ than van, oán trách thân phận mình nhiều hơn. Nàng mô tả như bị tù tội trong cuộc sống với người chồng không yêu nhưng vẫn mong đợi bóng dáng người xưa:

Tháng ngày miễn cưỡng em đan
Kéo dài một chiếc áo len cho chồng
Như con chim hót trong lồng
Tháng ngày mong đợi ánh hồng năm nao!
Ngoài trời mưa gió xôn xao
Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm?
Ai đem lễ giáo giam em?
Sống hờ trọn kiếp trong duyên trái đời…

Bài thơ đan áo cho chồng vừa ra mắt thì toà báo Tiểu Thuyết Thứ Bẩy lại qua đường bưu điện nhận được bài thơ thứ tư với đề tựa: Bài thơ cuối cùng.

Ðúng như đề tựa của nó, sau bài thơ này, làng thơ không bao giờ còn nhận được thêm bài nào nữa, TTKh hoàn toàn biến mất trên thi đàn! Cũng từ đó trong lịch sử văn thơ tiền chiến phải nhận lấy sự bí mật về một tác giả mà chỉ có vỏn vẹn bốn bài thơ nhưng đã tạo được chỗ đứng rất vững trãi trong nền văn học Việt Nam.

Ý tứ của bài thơ cuối cùng hơi khác ba bài thơ trước, nó than van, mô tả nhiều hơn về nỗi xót xa của mối tình dang dở nhưng lại đượm đầy giọng trách móc cố nhân, đã vì hư danh mà rao bán bài thơ đan áo mà nàng đã tặng riêng cho chàng:

Chỉ có ba người được đọc riêng,
Bài thơ đan áo của chồng em
Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem…

Nàng hờn dỗi:

Từ đây, anh hãy bán thơ anh
Còn để yên tôi với một mình
Những cánh hoa lòng, hừ! đã ghét
Thì đem mà đổi lấy hư vinh!

Nhưng giận thế nào được khi lòng nàng vẫn còn đầy rẫy nhớ thương? Bóng dáng người xưa vẫn luẩn quẩn đâu đây trong tim và trí nhớ nàng?

Tôi biết làm sao được hỡi trời
Giận anh, không nỡ! Nhớ không thôi!
Mưa buồn, mưa hắt trong lòng ướt…
Sợ quá đi anh…Có một người !…

Bài thơ cuối cùng xuất hiện vào giữa năm 1938, trong giới văn chương vẫn không giảm xút những lời bàn tán, thêu dệt về thân thế và cuộc tình buồn bã của tác giả, đã thế nhiều nhà báo, nhà thơ có tên tuổi đương thời đã đưa ra những chứng cớ để cố nhận người thi sĩ tài năng đầy bí ẩn đó là người yêu của mình.

(Hình: Wikipedia.org)

2.Những dữ kiện liên quan đến thân thế của TTKh.

Như trên đã đề cập đến cái độc đáo của bài thơ kèm theo ý tứ của một mối tình buồn bã, lãng mạn… thêm vào đó sự bí mật về thân thế thi nhân càng làm cho người ta tò mò muốn biết về tác giả. Ðến nay đã gần 70 năm rồi, người ta vẫn phải nhận lấy những điều mù mờ về thân thế và cả những thêu dệt vô căn cứ về người nữ sĩ tài danh đó! Sau đây là một vài sự kiện đã gây ra những xáo động dư luận trong giới thơ văn. Ðúng hay sai, tưởng tượng hay là một lối tìm nguồn thi hứng của những người làm văn nghệ… Ðến nay vẫn chỉ là những dấu hỏi mù mờ mà thôi.

a.Dư luận với ký giả Thanh Châu: Như phần trên đã viết, truyện ngắn Hoa Tigôn của Thanh Châu trên báo Tiểu Thuyết Thứ Bẩy đã là nguyên nhân xuất hiện những bài thơ diễm tình, lãng mạn bất tử của TTKh trong làng thơ tiền chiến.

Nếu xét những diễn tiến cũng như tâm trạng buồn đau của người con gái trong truyện ngắn Hoa Tigôn và trong bốn bài thơ của TTKh, nhất là bài Hai sắc hoa Tigôn, người ta thấy nội dung hai bài gần như giống hệt nhau. Cũng vẻ ngây thơ của người con gái thủa ban đầu gặp gỡ người yêu, cũng bóng dáng người nghệ sĩ làm cho nàng nhớ mãi không quên dưới giàn hoa Tigôn kỷ niệm:

Thuở trước hồn tôi phơi phới quá
Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương
Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại
Êm ái trao tôi một vết thương

hay :

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài trong lúc thấy tôi vui
Bảo rằng: hoa giống như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi .

Rồi những câu thơ tả người thiếu phụ luôn luôn tưởng nhớ đến cố nhân, phải miễn cưỡng kéo dài cuộc sống nhàm chán bên người chồng luống tuổi mà mình không yêu… Tất cả những dữ kiện đó đã lột tả gần như hòa hợp rất khắng khít với cốt truyện ngắn của Thanh Châu.

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạnh lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết từng thu chết
Vẫn dấu trong tim bóng một người

Chính vì vậy ngay khi mấy bài thơ xuất hiện trên báo chí, ký giả Thanh Châu đã khẳng định với dư luận, TTKh chính là người con gái trong căn biệt thự ở ngoại ô Hà Nội, là người yêu của ông. Sự xác định này đã quấy lên những xáo trộn nghì ngờ cũng có, tin tưởng cũng có trong làng thơ văn lúc bấy giờ.

b.Dư luận với Nguyễn Bính: Có lẽ Nguyễn Bính cũng bị chinh phục bởi những vần thơ trữ tình, lãng mạn pha cảm giác đau buồn vì khắt khe của lễ giáo, danh dự gia đình của người thiếu phụ hoa Tigôn. Hình ảnh đau xót, lạnh lùng của người đàn bà đã phải chịu đựng suốt cuộc đời với người chồng mà nàng không yêu, nhưng vẫn giữ được tấm lòng son sắt, chung tình với cố nhân làm cho ông cảm động. Nguyễn Bính cũng nhập cuộc với cái xôn xao của làng thơ, ông cho rằng TTKh là ”người tình vườn Thanh” xưa cũ của mình!

Theo thi sĩ thì ngày ông còn trẻ, ở lứa tuổi còn thích giang hồ, đi Bắc, về Nam để tìm cảm hứng làm thơ. Có lần gặp buổi trời mưa lớn, ông ghé vào căn nhà trọ một vùng quê ở Thanh Hóa, căn nhà có một thửa vườn rất đẹp và ông gọi là vườn Thanh (Thanh Hóa). Cũng nơi đây ông đã gặp gỡ và yêu si một cô gái quay tơ xinh đẹp. Nhưng vì biết mình vẫn còn mang nặng kiếp giang hồ, thi sĩ đã không dám nghĩ đến việc nhân duyên, để rồi lại ra đi theo tiếng gọi của sông nước, tìm thi hứng cho thơ văn.

Rồi nhiều năm sau đó khi có dịp trở lại vườn Thanh, thi sĩ được người lão bộc kể cho nghe một thiên tình hận! Ngày nhà thơ bỏ ra đi đã làm lỡ dở mối tình của người thiếu nữ quay tơ, sau đó nàng phải bước sang ngang với một người chồng già tuổi, không yêu:

Tơ duyên đến thế thì thôi,
Thế là uổng cả một đời tài hoa
Ðêm đêm bên cạnh chồng già
Và bên cạnh bóng người xa hiện về…

Với thời gian, thi sĩ Nguyễn Bính tưởng rằng đã quên được mối tình hận năm xưa, nhưng khi đọc mấy bài thơ của TTKh. đã kéo ông lại với quá khứ! Nhà thơ tìm thấy mối tình của TTKh. mô tả trong mấy bài thơ giống y hệt như mối tình vườn Thanh của mình. Nhất là trong bài thơ thứ nhất tả cảnh cố nhân tiễn ông ra đi rồi trở về vườn Thanh để sống với nỗi cô đơn trong gió lạnh:

Thổi tan âm điệu du dương trước
Và tiễn người đi bến cát xa
Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió lạnh lúc tàn canh
Yêu bóng chim xa, nắng lướt mành.

Với cái cảm xúc có được từ hình ảnh đầy thi tứ, buồn thương đó, Nguyễn Bính đã làm một bài thơ khá dài ”Giòng Dư Lệ ” ông đề tặng riêng cho TTKh., người mà ông chắc chắn là cô gái quay tơ đã một lần thi sĩ gặp gỡ, yêu si. Trong bài thơ này ông mô tả tất cả những diễn tiến của cuộc tao ngộ lần đầu gặp nhau cho đến lúc ông xót đau than khóc khi đọc những bài thơ tâm sự của TTKh.

 Tuổi nàng năm ấy còn thơ
Còn bao hứa hẹn đợi chờ một mai
Rồi đây bao gió bụi đời
Tôi quên sao được con người vườn Thanh.

Ðể rồi thi sĩ chẳng ngại ngần gì xác quyết TTKh. là người yêu vườn Thanh xa xưa của mình:

Chuyện xưa hồ lãng quên rồi,
Bỗng đâu xem được thơ người vườn Thanh
Bao nhiêu oan khổ vì tình
Cớ sao giống hệt chuyện mình ngày xưa?
Phải chăng mình có nên ngờ
Rằng người năm cũ bây giờ là đây?

3.Dư luận với thi sĩ Thâm TâmVới thi sĩ Thâm Tâm (Nguyễn Tuấn Trình, 1917-1948) có những dữ kiện và chứng minh rất hấp dẫn nói đến sự liên hệ tình cảm của ông với TTKh. có vẻ như vững trãi hơn và đáng tin tưởng hơn so với ký giả Thanh Châu và thi sĩ Nguyễn Bính. Tuy nhiên nếu suy nghĩ kỹ lưỡng ngườI ta cũng không thể coi là hoàn toàn xác thực để cho vào văn học mà không có những dấu chấm hỏi nghi ngờ được!

Dữ kiện đầu tiên từ bút hiệu TTKh. đã là một dấu tích thuận lợi cho nhà thi sĩ Thâm Tâm tuyên bố với nhân gian là TTKh người yêu của mình vì đó là sự gán ghép hai tên Thâm Tâm và Khánh, tên của cô gái, người yêu của ông mà thành.

Nhưng Phạm Thanh tác giả cuốn Thi Nhân Việt Nam Hiện Ðại lại cho rằng, đó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên và tưởng tượng vu vơ của Thâm Tâm mà thôi. Thật ra TTKh. chẳng phải là người yêu của ông nào cả. Nữ sĩ chính là Trần Thị Khánh (TTKh), một nữ sinh ở phố Sinh Từ, Hà nội, cô ta yêu tha thiết một thanh niên, nhưng vì bị ép buộc của gia đình phải lấy một người đàn ông khác nhiều tuổi hơn, tên là Nghiêm.. Ðơn giản chỉ có thế mà thôi!

Dư luận lúc đó cũng chẳng biết đúng sai ra sao vì sau khi ”Bài thơ cuối cùng”’ được đăng báo vào giữa năm 1938 , TTKh. biệt tích trên thi đàn. Nhưng mãi đến năm 1940 nhà thơ Thâm Tâm mới nhảy vào để nhận là người yêu của nàng. Ông làm một bài thơ khá dài với đề tựa là ”Trả lời của người yêu” dành tặng riêng cho TTKh., trong đó ông đã gọi tên nữ sĩ là Khánh, một bài thơ rất hay, rất não nùng bằng những câu thơ có tí phiền giận tác giả TTKh., người yêu của ông:

Khánh ơi, còn hỏi gì anh
Ái tình đã vỡ, ái tình lại nguyên
Em về đan nốt tơ duyên
Vào tà áo mới đừng tìm mối xưa
Bao nhiêu hạt lệ còn thừa
Dành ngày sau khóc những giờ vị vong!

Hay:

Giờ hình như gió thổi nhiều
Những loài hoa máu đã gieo nốt đời
Tâm hồn nghệ sĩ nổi trôi
Sá chi cái đẹp dưới trời mong manh
Sá chi những chuyện tâm tình
Lòng đau, đau chứa trong bình rượu cay!

Sau đó Thâm Tâm còn viết hai bài thơ khác nữa tặng riêng cho TTKh., bài ”Mầu máu Tigôn” và bài ”Dang dở.” Đây là những bài thơ rất hay và rất cảm động của Thâm Tâm trong năm 1940.

Suốt mấy mươi năm sau đó nhiều người làm văn hóa vẫn cố tìm tòi thân thế thực của TTKh. để xóa đi bóng tối bí mật của người nử sĩ tài năng đó, nhưng những cố gắng đó cũng chẳng đến đâu ! Mãi sau này tờ báo Nhân Dân ra ngày Chủ Nhật 23 Tháng Bảy năm 1989, ký giả Hoàng Tiến đã đưa ra một dữ kiện khác, trong đó ông ta cùng với hai thi sĩ đương thời là Trần Lê Văn và Tú Sót, cả ba người cho biết đã trực diện nghe nhà thơ Lương Trúc (tên thật là Phạm Quang Hòa, thuộc thế hệ cùng thời và là bạn thân của Thâm Tâm, Nguyễn Bính và Trần Huyền Trân) nói về sự liên hệ tình cảm giữa Thâm Tâm và TTKh.

Nhà thơ Lương Trúc cho biết năm 1985, ông có gặp TTKh., bà tên thật là Trần Thị Khánh, người yêu của Thâm Tâm. Theo ông, Thâm Tâm và cô Khánh yêu nhau nhưng không lấy được nhau, vì danh dự của gia đình cho nên họ hứa với nhau giữ kín mối tình đó. Rồi ngẫu nhiên cô Khánh đọc được truyện ngắn Hoa Tigôn của Thanh Châu trong Tiểu thuyết thứ bẩy số báo Tháng Chín năm 1937, cô ta xúc động với tình tiết của câu truyện và làm ra bài thơ Hai sắc hoa tigôn gửi đi đăng báo. Bài thơ đã làm xáo động trong làng thi văn, rồi nàng gửi thêm Bài thơ thứ nhất với mục đích giải thích cho bài thơ Hai sắc hoa Tigôn.

Ngoài ra TTKh. còn viết tặng riêng cho Thâm Tâm bài thơ Ðan áo cho chồng. Thâm Tâm cảm động với ý tứ bài thơ và nhất là muốn chứng minh với dư luận đang ồn ào, TTKh. chính là người yêu của mình, ông đã gửi bài thơ đến tâp san Phụ Nữ Thời Đàm để phổ biến.

TTKh. không vừa ý với hành động đó của Thâm Tâm, vì thế cô ta viết một bài thơ khác lấy tên là Bài thơ cuối cùng, nói lên sự hờn trách người yêu đã vì hư danh mà đem quảng bá bài thơ mà nàng tặng riêng cho ông ra cho nhân gian biết. Nhưng trong những câu thơ hờn trách đó nàng vẫn không dấu được lòng yêu thương cố nhân:

Tôi biết làm sao được hỡi trời
Giận anh không nỡ! Nhớ không thôi
Mưa buồn, mưa hắt trong lòng ướt…
Sợ quá đi anh…Có một người !

Dù với lời xác nhận của nhà thơ lão thành Lương Trúc nhưng vẫn chưa thật sự làm thỏa mãn dư luận được vì trong đó vẫn còn rất nhiều điểm mù mờ về thân thế, tên tuổi… của người nữ thi sĩ bí mật đó!

d.Khám phá mới nhất về TTKh: Vào năm 1994 trong một tài liệu không lưu tên tác giả đã tiết lộ một tin tức mới nhất, được coi là đầy đủ nhất về thân thế của TTKh. Nhưng có lẽ người ta vẫn cần thời gian để xác nhận mức độ xác thực của tiết lộ này. Theo tài liệu cho biết một người đàn bà dấu tên D.T.L. đã cho nhà văn Thế Nhật biết như sau:

4.Bốn chữ TTKh có ý nghĩa như sau:

– Chữ T đầu tiên là TRẦN, là tên họ của nữ thi sĩ Trần Thị Chung tác giả của bốn bài thơ bất tử đó, nhưng thường gọi là Trần Thị Vân Chung, bà sinh ngày 25 Tháng Tám năm 1919 tại thị xã Thanh Hóa, nhưng trưởng thành ở Hà Nội trong một gia đình quan lại. Bà Vân Chung hay là TTKh. có một người anh cả, hai người em gái và một người em trai út. Năm 1934 qua mối mai của gia đình bà kết hôn với luật sư Lê Ngọc Chấn của VNCH, sau năm 1975 ông Chấn bị chết trong trại cải tạo.

Hiện nay bà cùng con cái sống ở một thị xã nhỏ miền nam nước Pháp, bà vẫn tiếp tục viết văn làm thơ với nhiều bút hiệu khác nhau như Vân Nương, Tơ Sương…

-Chữ T thứ hai, có nghĩa là Thanh, để chỉ tên ký giả Thanh Châu, tác giả truyện ngắn ”Hoa Tigôn.” Cốt truyện đã mang đến cho bà sự cảm xúc tột cùng với mối tình đầy lãng mạn, chung thủy, đã cho bà thi hứng để làm được những bài thơ tuyệt vời mang đầy cảm giác giận hờn, thương đau và cao thượng.

-Chữ Kh có nghĩa là khóc! Bà khóc thay cho mối tình dang dở với những trái ngang làm cho người thiếu phụ phải sống trọn cuộc đời với người chồng mà mình không yêu nhưng cũng không thể quên được người tình xưa cũ của mình.

Nếu tiết lộ trong tài liệu này là đúng thì tất cả những sự kiện liên quan đến tên tuổi, thân thế của TTKh. trong nhiều thập niên qua, cũng như những thêu dệt lâm ly, trữ tình của ký giả Thanh Châu, thi sĩ Nguyễn Bính, Thanh Tâm và cả thi sĩ J. Leiba chỉ còn là những tưởng tượng vu vơ, mà những người làm văn nghệ cần đến nó để dìm mình vào thế giới mộng ảo cho việc tìm cảm hứng để sáng tác mà thôi.

Kết luận:

Bản chất của thơ văn là tưởng tượng và hư cấu. Khi bước vào thơ văn để thưởng thức cái hay, cái cảm của một áng văn, một bài thơ… Người ta phải biết trải rộng tâm hồn mình ra tiếp nhận những cảm xúc đưa đến từ bài thơ, bản văn đó. Ðiều đó có nghĩa là người ta phải sống và hoà nhập vào nội dung của tác phẩm, phải biết vui buồn, đau khổ hay hoan lạc, giận hờn với những hoàn cảnh éo le của nhân vật trong tác phẩm. Có được những cái đó trong khi thưởng thức thì coi là ”đạt” vậy! Người ta cần biết thân thế hay cuộc đời riêng tư của tác giả để làm gì? Ðôi khi sự tìm tòi, tò mò đó chẳng có lợi ích gì cho cái thú thưởng lãm của người đọc mà còn mang đến cho người đọc có cái nhìn sai lệch vì chủ quan, thành kiến với cá nhân tác giả nữa.

Với cái quan niệm đó, người ta nên nghĩ rằng bốn bài thơ của TTKh. đã quá đủ để làm cho người đọc ngẩn ngơ vì cái hay, cái xúc tích biết bao nhiêu cảm giác đau buồn, thương nhớ, giận hờn… đôi lúc đã làm người đọc phải lịm người mà nước mắt ướt mi… Như vậy là đủ rồi! Chúng ta cần gì phải thắc mắc TTKh. là ai làm gì nhỉ? Nàng là cô nữ sinh Trần Thị Khánh ở phố Sinh Từ, Hà Nội. Nàng là Trần Vân Chung hay Trần Thị Vân Chung cô gái đất Thanh Hoá… Nàng là ai cũng thế mà thôi! Ðiều quan trọng mà chúng ta biết rất rõ, những bài thơ của TTKh. là những bài thơ rất hay, sẽ mãi mãi bất tử trong thi đàn Việt Nam. Thế là đủ rồi !

Cũng nhân tiện trong bài viết có lẽ chúng ta cũng nên biết sơ qua về loài hoa Tigôn mà nó đã là đề tựa cho bốn bài thơ của TTKh. ra đời. Hoa Tigôn là một loại hoa leo, có hai loại, loại cho ra hoa mầu trắng và loại cho ra hoa mầu đỏ hay hồng tươi, có thể mọc ở toàn cõi Việt Nam. Lá Tigôn mầu xanh, hình tim như lá trầu nhưng nhỏ cỡ ba ngón tay. Hoa Tigôn nhỏ bằng đầu chiếc đũa ăn cơm, mọc thành chùm, hoa tigôn có năm cánh hình trái tim, hai cánh nhỏ ở trong và ba cánh lớn hơn chụm vào nhau bao ở ngoài. Khi gặp gió hay mưa hoa rụng từ cuống hoa, rơi xuống đất nhưng vẫn còn nguyên cả bông hoa chứ cánh hoa không tách rời ra tơi tả như TTKh. mô tả trong thơ của bà:

Thuở đó nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly!


 

Được xem 1 lần, bởi 1 Bạn Đọc trong ngày hôm nay