Hà Nội đã xa lầy sau chiến thắng và phản bội lại giới trẻ miền Nam đã hy sinh trong chiến tranh biên giới với Campuchia

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

24/07/2024

Chiến tranh trước sau rồi cũng chấm dứt cách này cách khác như chúng ta đã thấy. Nhưng sau 1975, sự  thật mới chính là sự thật được phơi bầy.

Trong chiến tranh, họ đã dẫn đưa đất nước vào một cuộc chiến tranh tàn phá vô tiền khoáng hậu. Con người trong XHCN những năm chiến tranh, theo nhà văn Nguyễn Khải chỉ biết có hai điều: Căm thù và Hy sinh.

Một cuộc chiến mà một bên dùng mọi kỹ thuật tân tiến nhằm đè bẹp đối thủ, khi không được thì rút lui. Một bên dùng mạng người đối chọi với vũ khí bằng mọi giá phải chiến thắng, phải hy sinh.

Lê Duẫn hãnh diện nói với người đại diện Trung quốc là nếu cần hy sinh một triệu người VN, ông cũng dám làm.

Võ Nguyên Giáp, trong dịp hội thảo tại Hà Nội về chiến tranh với người Mỹ mặc dầu nhìn nhận: “The most atrocious in human history“. Đó là một cuộc chiến tàn khốc nhất của lịch sử nhân loại. Nhưng mặt khác, Võ Nguyên Giáp để trả lời Mc Namara vẫn tự biện hộ như sau:

Lessons are important. I agree. However, you are wrong to call the war a  “tragedy”. Maybe it was a tragedy for you, but for us the war was a noble sacrifice. We đid not want to fight the United States, but you gave us no choice”.(Tôi đồng ý là những bài học qua cuộc chiến này thật quan trọng. Nhưng ông đã lầm khi gọi đó là một bi kich.  Nó có thể là bi kịch đối với các ông. Nhưng nó không phải là một bi kịch đối với chúng tôi. Phần chúng tôi, cuộc chiến ấy vẫn là một hy sinh cao cả, măc dầu chúng tôi không muốn chiến tranh với người Mỹ, nhưng chúng tôi đã không có chọn lựa nào khác).(3)

(3) Mc. Namara đã đến Hà Nội vào năm 1995 để gặp đại tướng Võ Nguyên Giáp. Những câu trích dẫn trên được phát biểu trong dịp này. Cuốn sách gây tranh luận nhiều nhất của ông là cuốn In retrospect- The tragedy and lessons of Viet Nam. Tôi đánh giá viên Bộ trưởng quốc phòng này là cực thông minh, nhưng thiếu tính chuyên nghiệp.

Phần nhận định của vị đại tướng về cuộc chiến thiếu hẳn tính nhân bản.

Người cộng sản thiếu sự chân thật và củng thiếu tính nhân bản. Đó là những đức tính  cần  có nơi bất cứ con người nào như tôi sẽ dần dần chứng minh sau này.. Trong những yếu tố làm người miền Nam trở thành kẻ thua cuộc, ngoài chính sách thay đổi của người Mỹ, tình trạng rối loạn chính trị những năm cuối còn một yếu tố đạo đức ít được ai nói tới: cái tình con người, cái tính nhân bản trong cuộc chiến và thể hiện rõ nét nơi các nhà văn miền Nam.

Chúng ta thua cuộc, bởi vì chúng ta chân thật chính trị và quá con người trong chiến tranh.

Sự chân thật không có trong thuật ngữ người cộng sản. Cho đến bây giờ, họ vẫn làm film ca ngợi trận Điện Biên Phủ trên không. Ai cũng biết rằng bom đạn Mỹ có thể biến Hà Nội trong 12 ngày đêm thành một Hisroshima thừ hai. Vậy mà nó đã không xảy ra. Bom đạn quả là không có mắt. Jane Fonda đã có thể không còn có mặt trên trái đất này. Nhạc sĩ Tô Hải đã không thể ngồi ung uống cà phê nghe nhạc ở Bờ Hồ Hoàn Kiếm. Chỉ vì ông thừa biết rằng không nơi nào an toàn hơn Hà Nội trong 12 đêm kinh hoàng ấy.

Bây giờ họ mạnh miệng nói như thế đốí với người Pháp, người Mỹ. Họ đã thắng. Nhưng họ lại dấu cái đã thua.

Nhưng nay với đầy đủ tài liệu về cuộc chiến tranh-nhìn từ trong cuộc-. Người ta mới thấy lộ ra cái yếu kém và sự lệ thuộc viện trợ của Trung Quốc của cộng sản Bắc Việt như thế nào. Các cuộc tiếp xúc của họ với Trung Quốc qua những nhân vật lãnh đạo như Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Hoàng Văn Thái, Hoàng Văn Hoan, Hoàng Tùng, Lê Đức Thọ, Xuân Thủy hành xử như những học trò, kẻ bề dưới đối với bề trên và họ thay nhau lần lượt nhiều lần sang cầu cạnh, bợ đỡ, xin xỏ, nhận lời chỉ giáo của Mao Trạch Đông của Đặng Tiểuu Bình, Chu Ân Lai, Trần Nghị.

Đọc những thảo luận, trao đổi với lãnh đạo Trung Quốc cho thấy họ hèn.(1)

Cuộc chiến ấy với sự hy sinh vô bờ bến sức người, sức của không hào hùng, không lý tưởng như người ta mong đợi! Nó có nhiều mặt trái của nó và người ta mới hiểu được cái hệ lụy lệ thuộc Tầu phải trả giá như thế nào với 9 lần Trung Quốc gây chiến tranh lớn nhỏ.

Chính quyền đả dấu nhẹm những cuộc xung đột này ..Dân chúng hoàn toàn mù tịt.

Năm 1990, Nguyễn Văn Linh, như một hàng thần nối lại quan hệ Việt-Trung, bình thường hóa quan hệ với người láng giềng Trung Quốc. Dù được nối lại, cái quan hệ ấy không bình thường. Nó có tính áp đặt, tính lệ thuộc,lúc nào cũng ở thế phải nhẫn nhục, chịu thiệt thòi như trong các cuộc đàm phán về biên giới đất và biển.

Họ có thể đã thắng được Mỹ, nhưng thua Tầu.

Cuối cùng thì cái giá đắt nhất mà người cộng sản phải trả sau 1975 là những món nợ đối với Trung Quốc!  Nợ không thể trả và trả không bao giờ là vừa.

Thế giới bên ngoài chỉ thấy họ đã thắng Pháp, thắng Mỹ. Người ta thấy họ đã làm nổi những điều “quá sức người” không ai làm được trong thời chiến. Trong thời bình, họ đã trả thù để bù đắp lại những hy sinh, những thiếu thốn mà họ họ đã chịu đựng trong thời chiến.

Trước chiến tranh, họ là những “chiến sĩ”. Sau chiến tranh, họ tự biến mình thành những kẻ ” hôi của”.

Cái giá của kẻ thua như người Mỹ phải trả đã là một nhẽ. Dù sao họ- người Mỹ- đã rút ra khỏi một cách an toàn. Kẻ thắng cuối cùng đưa đất nước vào chỗ mạt rệp. Hay nói nhẹ nhàng như Bùi Tín, thành tich thì ít mà lỗi lầm thì nhiều chẳng khác gì một phản bội. Phản bội ai? Phản bội những kẻ đã hy sinh, đã nằm xuống và phản bội cả môt thệ tuổi trẻ TNXP miền Bắc.

Phần bài viết này của tập sách đặt nặng vấn đề nhân bản trong chiến tranh và được xin kính tặng những người thanh niên, thiếu nữ miền Bắc. Vì họ là những người xác tín rằng cuộc chiến đã qua là một lý tưởng đời họ. Nhưng cuối cùng họ chẳng được gì. Họ thua thiệt và mất tất cả sau chiến tranh- nhất là mất tuổi trẻ-.

Cuộc chiến tranh thắng lợi ấy cuối cùng là một phản bội phũ phàng đối với tuổi trẻ miền Bắc. Thay vì  bắt tay xây dựng, đưa đất nước đi lên ngang tầm “chiến thắng thời đại”-. Họ dìm cả đất nước trong sự nghèo đói và một tương lai vô vọng trong suốt 11 năm triều đại Lê Duẩn.

Họ chỉ nhằm vơ vét và trả thù ở bình diện cá nhân và cả nhà nước. Cá nhân thì chiếm nhà, chiếm cửa. Nhà nước thu vén của cải ngân hàng, kho tàng, hãng xưởng, vật tư  ùn ùn chở về Bắc.

Nhưng việc trả thù Người miền Nam là đê tiện nhất. Người ta chỉ nói tới chuyện đi học tập của sĩ quan, công chức miền Nam.

Nói thế là chưa đủ.

Trong chiến tranh chống Mỹ, họ hy sinh và ” nướng” thanh niên, thiếu nữ miền Bắc.

Khi phát động chiến tranh sang Campuchia, họ đã xử dụng con em miền Nam như từ thành phố Hồ Chí Minh, chạy dài xuống Mỹ Tho, Long An, Trà Vinh, Long Xuyên vv.  Và Bùi Tín đã tiết lộ một cách bẽ bàng:

” Thì ra gánh nặng của cuộc chiến tranh này đè lên vai một tầng lớp xã hội nằm ngoài quyền lực ..! Con cái của các quan lớn nhỏ hình như không phải sinh ra để làm cái ” nghĩa vụ quốc tế cao cả này như chính cha anh họ không ngớt loan truyền ..”(2)

Đây là điều ít ai lưu tâm để ý tới. Sách vở trong và ngoài nước hầu như không nhắc tới tên cuộc chiến này cũng như những tổn hại mà nó gầy ra.

Sự tiết lộ của Bùi Tín cho thấy cái dã tâm của Hà Nội. Trong số 16 binh sĩ bị thương trên cùng chuyến bay khởi hành từ sân bay Pochentong về thành phố Hồ Chí Minh cùng với Bùi Tín. Tất cả đều  là con em các gia đình nông dân miền Nam ..

Không một ai là con đảng viên, cán bộ khác.

Chỉ 16 binh sĩ bị thương gốcc gác là miền Nam dĩ nhiên chưa đủ để kết đoán một điều gì.

Nhưng từ đó, người ta có quyền đặt vấn đề, tự hỏi có 52 ngàn liệt sĩ bị chết thảm và 200.000 bị thương tật trong cuộc chiến tranh làm “nghĩa vụ quốc tế” sang Campuchia với những mộ bia nằm rải rác từ Siêm Rệp đến Bat tam bang, ở Pai Lin, Xăm Lốt đến Bến Sỏi, Hồng Ngự, Long An, có bao nhiêu con em miền Nam đã làm vật hy sinh?

Có mộ bia nào của con cái cán bộ nằm ở phía Bắc? Tỉ lệ thiệt hại giữa binh đội cộng sản từ Bắc vào và binh lính mới tuyển mộ ở miền Nam là bao nhiêu?

Người miền Nam sau 1975 bị khai thác đến tuyệt sản, tuyệt gốc. Nếu người cha trong gia đình có chức tước thì đi tù cải tạo. Vợ con ở lại có nhiều phần bị lạm dụng, lấy làm bé quan chức, cán bộ miền Bắc. Con cái lý lịch ” ngụy” không được tuyển chọn vào lớp 10 trung học. Gia đình còn tiên của thì  bị đánh tư sản hay đổi tiền cho trăng tay luôn.

Đồng bằng sông Cửu Long mà dưới thời Pháp thuộc đã được Sơn Nam nhận xét như sau:

“Thiên nhiên ưu đãi, lương thực và thực phẩm có thừa, công việc nhàn rỗi, áo quần nhà cửa chữ nghĩa còn thiếu, nhưng so sánh với một số địa phương khác thì đồng bằng sông Cửu Long quả là nơi “lạc thô”.

” Nhiều dìa cá ở xa đường giao thông, cá nổi đầu lên như ” mù u chín rụng”, nhưng chẳng ai khai thác, gặp năm cá sụt giá. Tát nước, khiêng hoặc gánh cá tới bến nước để bán thì tốn, kém, lỗ tiềng công. Dìa ây” để dành cho người vùng trên đến mót, lượm, tát chia hai với chủ. Vịt nuôi không cần cho ăn, mùa hạn, dưới rạch, đầy cá nhỏ, vịt thả rong, chiều tối về chuồng”.(3)

Vậy mà chỉ sau 25 năm cuộc chiến, báo Đi Tới chạy dài một cái tít : 25 năm sau cuộc chiến, trẻ em đồng bằng sông Cửu Long vẫn chân ướt, chân không tới trường.

Tệ hơn nữa, các em bé gái 9, 10 tuổi thuộc các tỉnh dọc biên giới vơi Cao Mên bị bán sang Cam Pu Chia

Tôi cũng đọc Thiên Thần trong địa ngục, ký sự Cam Bốt của Ngô Tịnh Yên … để thấy rằng tất cả trẻ nữ bị bán sang làm nô lệ tình dục ở Siemrap đều từ các tỉnh biên giới VN với Cao Mên.

Việc xuất cảng gái sang làm vợ dân Đài Loan, Trung Quốc, Nam Hàn đều phần lớn là con dân miền Nam cả.

Còn lại những thành phần  tương đối khá giả, không thuộc điện bị truy dập, thành phần công dân bậc 2  nhà nước cộng sản qua Bô Nội vụ cho xuất cảng sang các nước thứ ba, bất kể sự sống chết của họ.

Viết đến đây thôi, tôi phải tự thú và nhận thấy rằng người miền Nam của VNCH đều ít nhiều là những con người tử tế, bị hy sinh.

Trước khi bàn đến vấn đề gì sau 1975 thì việc trước tiên là phải nói đến hậu quả của cuộc chiến kéo dài 21 năm ấy. Nó khủng khiếp nhiều lần hơn Điện Biên Phủ mà nghĩ lại đến rùng mình. Dân tộc đã phải hy sinh nhiều quá.

Sự hy sinh ấy ngày nay xét về nhiều lẽ là không cần thiết. Nhưng người ta không thể làm một điều gì để có thể thay đổi được quá khứ và nhất là chuộc cái tội làm hàng triệu người vì thế đã phải nằm xuống.

Trừ một điều là người chiến thắng làm mọi cách để cho đất nước lớn lên và người dân được an bình, hạnh phúc. Họ đã không làm được

Không làm được điều ấy thì chiến thắng nào đi nữa để làm gì? Đó là câu hỏi mà người cộng sản ngọng nghịu không trả lời được.

Biểu tượng trong chiến tranh là các thế hệ tuổi trẻ miền Bắc đã hy sinh trọn vẹn thông qua Nhật Ký Đặng Thùy Trâm và Nguyễn Văn Thạc (4) cũng như những trang hồi ký của thanh niên miền Bắc đã hy sinh để lại trên chiến trường .

NVT được gửi vào chiến trường miền Nam từ 9-4-1972.

Chỉ một năm sau, một mảnh đạn đã cắt ngang đùi trái của NVT, nhưng vì không đủ phương tiện cầm máu, Thạc hy sinh trong chiến trường Quảng Trị.

Tôi cũng có được một mảng Hồi Ký mang tên Journal du Viet Cong inconnu và Nhật ký của Lê Văn Minh do nữ ký giả người Ý Oriana Fallaci ghi lại trong cuốn La vie, La guerre et puis Rien .. Những nhật ký này mà phần chắc là tác giả của nó đã chết và được người Mỹ thu nhặt rồi được phân phối cho các ký giả.

Trong đó Lê Văn Minh, một người lính việt cộng viết những dòng cuối cùng vì biết chắc cái chết sẽ đến như sau|:

Quand je serai mort moi aussi. Parce que désormais il ne me reste plus rien, Tuyet Lan. Tout m’est égal, Tuyet Lan. Ils m’ont demandé d’aller en patrouille et j’y vais. Pour mourir” (Rồi anh cũng sẽ chết như em. Bởi vì đối với anh bây giờ chẳng còn gì hết. Tuyet Lan . Anh bất cần tất cả. Người ta vừa ra lệnh cho anh phải đi tuần tiễu, anh đi ngay .. Để chết).(5)

Những trang Nhật ký của Lê Văn Minh, sinh ngày 25/3/ 1942 tại tỉnh Quảng Bình do một đội tuần tiễu của sư đoàn 3 Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ tìm thấy ở Quảng Trị.

Đối với chính quyền cộng sản trong nước thì nhật ký Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc được coi là biểu tượng cao cả và hy sinh của cuộc chiến tranh này.  Nó trở thành như một làn gió mát quét nhẹ những lớp bụi bẩn đã làm hoen ố khuôn mặt đất nước. Nói riêng Đảng và nhà nước đều mát lòng, mát dạ. Hãnh diện ra mặt.

Hai người thanh niên, thiếu nữ trên được coi là những anh hùng nằm trong danh sách anh hùng đủ loại. Và đất nước này có một nhà máy không đâu có: nhà máy sản xuất anh hùng.

Anh hùng thì nhiều. Nhưng liệu trong cả nước hiện nay, chúng ta có thể tìm ra được một người- chỉ một người thôi- sống trong sạch, không ăn bẩn? Chắc là không.

Chỉ cần một nhà lãnh đạo thôi đủ để cứu đất nước này, nhưng tìm không ra, kiếm không thấy.

Vì thế, tôi đọc Nhật ký ĐTT, thay vì hãnh diện, tôi chỉ thấy ngượng cho những người lãnh đạo vì họ đã làm mất mặt Đặng Thùy Trâm.

Phần Đặng Thùy Trâm, tôi tội nghiệp cho sự hy sinh cao đẹp ấy và nay họ dùng nhật ký của cô như món hàng thế chấp tương lai cho chế độ. Tôi cũng chỉ nhận thấy sự bất nhẫn đối với con người, sự phản bội đối với tuổi trẻ miền Bắc đã bị hy sinh.

Khi cuốn sách của Đặng Thùy Trâm được xuất bản, tôi đã có một ý tưởng ngộ nghĩnh là mang đối chiếu nó với cuốn Bóng Đè của Đỗ Hoàng Diệu. (6)

Cả hai tác giả đều là những phụ nữ sinh ra và lớn lên ở miền Bắc. Đều còn trẻ. Đều khát vọng mãnh liệt. Chỉ khác một điều ĐTT là một phụ nữ sinh trong thời chiến tranh. ĐHD sinh ra sau chiến tranh.

Nhưng Đặng Thùy Trâm phải gánh chịu cả một “quá khứ phi phàm”, làm vật tế thần cho một cuộc hiến tế thần thánh cho lý tưởng ” giải phóng miền Nam”. Miền Nam có cần đến sự giải phóng đó không? Đó là câu hỏi thứ hai cần đặt ra trong lúc này.

Phần Đỗ Hoàng Diệu, thế hệ lớp sau phải gánh chịu “Cái tội tổ tông” của cha ông để lại. Đó là cái tội cộng sản, di sản để lại từ thời Staline, Mao Trạch Đông và mặt trái của các cuộc chiến thắng.

Nếu xét về mặt văn chương thì Đặng Thùy Trâm là người “đúc chữ”, thuộc bài còn Đỗ Hoàng Diệu là người”phu chữ”, sáng tạo.

Nếu ĐTT dấn thân không thắc mắc, tin tưởng thì Đỗ Hoàng Diệu lật ngửa vấn đề, bóc trần. Người ta gọi tên đó là dòng ” Văn Học tự vấn” bằng một thứ ngôn ngữ trần trụi, thông minh đến đểu cáng:

“Ông nội bị đấu tố hồi cải cách ruộng đất chết thảm trên tổ kiến lửa. Sáng mai bà nội chỉ tìm thấy vài cọng tóc ở nơi cột trói, xác không biết đi đường nào”.(7)

Thế cho nên cuộc chiến này phải được nhìn lại vừa bằng trái tim và vừa bằng cái đầu. Trái tim để chia sẻ và cái đầu để phân biệt thị phi.

 Chúng ta sẽ phải đương đầu với hai thực tại chiến tranh với sát hại và lý tưởng hòa bình tưởng như trái cựa làm lương tâm con người phải bối rối và bất an.

Bởi vì tự cội gốc cuộc chiến tranh này cho đến bây giờ cũng chưa dứt khoát đặt được tên nó là gì? Nó dựng lên nhiều chiêu bài, nó đánh lừa dư luận thế giới sau đó, nó phản bội kháng chiến miền Nam. Sau chiến tranh, nó xử sự như những tên thuộc địa kiểu mới. Tập sách này đi lại những chặng đường lịch sử như chuyện kể từng ngày, từng biến cố lớn nhỏ và những lời lên tiếng phản biện của những nhà văn, những người bất đồng chính kiến. Nó là những trang sử cần được bật mở chẳng khác gì bật mở tấm nắp ván thiên của chiếc quan tài quá khứ  mà không thể nào tránh khỏi những mùi xú uế xông ra.

Đã có hằng trăm, hằng ngàn những người chính trực, những người còn có lòng với đất nước lên tiếng mỗi ngày. Tôi xin nguyện làm người chuyển giao những những ý kiến ấy theo thứ tự thời gian.Tiếng phản kháng của họ và tiếng kêu của dân oan đã thấu tới Trời Xanh!!

Nhưng nói về hai chữ cộng sản thì sẽ không bao giờ là cùng.

Cùng nhau nhìn lại vì thế cho thấy có hai thế hệ nhà văn như ở trên. Một người hy sinh, phục vụ ” lý tưởng”.  Quên mình.  Đánh mất tuổi trẻ. Mà họa chăng trong muôn người may ra có một vài người.

Một người “sáng suốt”, can đảm dám sẵn sàng nhổ vào mặt mặt cái quá khứ ấy. Và có hàng ngàn người như ĐHD vẫn nhổ như thế đều đều mỗi ngày trên các báo mạng.

Đỗ Hoàng Diệu ngang tàng. Khinh bỉ. Đòi lại tuổi trẻ đã bị vùi dập.

Một bên là thứ sách hồng, một bên là sách đen. Một bên là tô hồng, lý tưởng, một bên bôi đen.

Bóng Đè của Đỗ Hoàng Diệu xuất hiện đá lăn chiêng những thần tượng dởm, mục rữa. Như một thứ văn chương ngược dòng. Nhà văn đào xới mồ mả quá khứ lên như một lời nguyền rủa.

Đỗ Hoàng Diệu viết như một trả giá, đòi một món nợ tinh thần mà xã hội ấy, lịch sử ấy đã một thời lừa dối, phỉnh gạt thế hệ thanh thiếu niên. Hơn 300 sinh viên cùng học với Thạc, tuổi 19 đôi mươi bị vứt ra chiến trường làm mồi cho bom Mỹ. Chính ước muốn viết lột trần xã hội, đánh tụt giá thị trường những điều phô trương phỉnh gạt của chính quyền cộng sản hiện nay mà Đỗ Hoàng Diệu viết Bóng Đè- Một chính quyền tự cho phép mình muốn làm gì thì làm- nhưng lại tự đóng cửa, tự bịt tai, bịt mắt, bất chấp  tiếng dân oan, chìm đắm trong sự tự cao vĩ cuồng và sự dốt nát.

Cho nên phần hồ sơ chiến tranh VN còn để lại nhiều điều nghi vấn, cần xét lại, cần khai quang vạch lối mở đường bằng sự cân bằng giữa lương tâm và lòng tự trọng trên nền tảng tôn trọng sự thật.

Cuộc chiến tranh ấy sau cùng bao giờ cũng để lại nhiều thứ, mà đa phần là những thứ thua thiệt và mất mát cả. Chiến tranh là hủy diệt mà kẻ yếu chết trước, chừa lại kẻ mạnh. Rồi người trẻ chết thay cho người già. Người dân giả chết thay cho kẻ làm chính trị và binh sĩ chết thay cho các viên tướng.

Chiến tranh cuối cùng là The Last resort, nơi hẹn hò của nhà làm chính trị và tướng lãnh. Chúng phởn phơ tự mãn và tự sướng với những thành quả gặt hái được. Chúng soi gương chỉ thấy có chính mình ..

Và họ đã quên những người đã nằm xuống.

Phải quên mới sướng được. Vì thế đã có một dòng nào, một chương nào trong những cuốn sách của tướng  Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Trà, Văn Tiến Dũng dành đôi chút tưởng niệm những kẻ đã hy sinh vì họ, cho họ ..

Trong khi mọi vinh quang cuối cùng dành cho các ông Hồ Chí Minh, ông Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn và đảng Cộng Sản.

Hãy cùng nhau nhìn lại cho thấy cuộc chiến tranh tàn bạo như thế nào từ hai phía và đồng thời rút ra được bài học cũng từ hai phía ..

Mất mát trong chiến tranh chủ yếu là về người sau đó về của, về xã hội, về đạo đức. Mất mát có thể cả về phía người thắng lẫn người thua. Chỉ tính bằng con số ít ra hơn 2 triệu người Việt cả hai phía đã chết mà phần lớn là dân chúng.

Dù sao, con số 2 triệu vẫn chỉ là những con số trừu tượng, nó không nói lên được điều gì. Nó không đủ sức gợi cho ta những thảm cảnh người chết đủ kiểu, đủ hoàn cảnh. Nó vô tình, vì nó chỉ là con số. Con số 01 và con số 2.000.000 xét về mặt toán học hay lượng tính thì lớn lắm như thể từ hai cực âm và dương.

Nhưng xét về mặt bản thể của cái chết như một bóng ma(ontological specters) thì một cái chết cũng đã đủ mang trọn vẹn ý nghĩa của cuộc nhân sinh như trong cảnh ma quái được diễn tả trong Chinh Phụ ngâm khúc là: Hồn tử sĩ gió vù vù thôi. 

Chinh Phụ Ngâm được coi như là tác phẩm “độc đáo” trong văn học Việt Nam nói về chiến tranh.

Nhưng đã có nhiều Chinh Phụ Ngâm khác trong cuộc chiến này.

Trước đây Bernard Fall với Hell in a very small place và nhất là Street Without Joy, Phố buôn hiu nói về trận Điện Biên Phủ trong đó 172.000 binh si bị thương hay để xác tại trận. Nó hao hao giống cái tâm cảnh Hồn tử sỉ gió vù vù thổi. Nó gợi nhớ đến những quang cảnh đồi trọc chỉ còn vương khói lửa đạn, những căn nhà cháy dở còn trơ trụi kèo cột, những khu phố, những con đường dẫn vào làng vắng bóng người, nhất là vắng tiếng nô đùa của trẻ thơ.

Nói cho cùng, dù viết dựa trên những con số và tài liệu, nó cho thấy hậu quả của chiến tranh vượt khỏi những tính toán của các nhà quân sự và sự bi thảm không thể nào tính toán hết được.

Đó là bi kịch của chiến tranh.

Khi viết những dòng này, tôi lần dở lại các bút ký chiến tranh-đặc biệt từ phía miền Nam như một cách bù khuyết cho những tài liệu vô hồn để trực diện với chiến tranh.

Và đọc những hồi ký này, tôi nhận ra tính nhân bản trong chiến tranh về phía  miền Nam- một điều đi ngược với tinh thần gây hận thù từ phía miền Bắc.

Trong nỗi khốn cùng, trong những chết chóc đau thương, trong khói lửa mịt mùng vẫn lóe lên tình người, tình đồng đội và tình đông loại mà việc giết đối thủ chỉ là điều bất đắc dĩ.

Trường hợp Phan Nhật Nam và các tác phẩm của ông.

Chẳng hạn trước tiên là nhật ký chiến tranh của Phan Nhật Nam. Trong Dọc đường số 1, viết trong lúc ở tù, PNN có tham vọng viết được một truyện dài chiến tranh như tầm cỡ cuốn À L’Ouest, rien de nouveau hay như một La vingt cinquième heure. Mục đích của PNN khi viết cuốn sách là để cho những người vô danh và cho những người lính dù, đặc biệt là người lính già. Tại sao lại là người lính già nhỉ ?

Nhật ký ấy nói về chiến tranh mà bàng bạc tính nhân bản khác hẳn Những trui rèn trong lửa đỏ đầy hận thù và khát máu của những người phía bên kia:

Người ta còn nhớ những viên đạn đích đáng của tuổi trẻ Sài gòn dành cho tên Từ Chung vào cuối năm 1965 và tên Chu Tử vào tháng tư/ 1966″.(8)

Vậy mà một người chưa bao giờ khoác áo chiến y như tôi đang đọc nghiền ngẫm để mà bất lực, mà chỉ để buồn, mà chia xẻ tâm trạng người lính nơi chiến trường.

Tôi đọc câu chuyện Đứa bé ở Đông Hà, từ trang 147 mà “Cha đi lính, mạ bị thương nằm ở Quảng Trị mà tác giả nhìn chiếc “áo trắng học trò cùng hai khuôn mặt ngây thơ ngơ ngác giữa một đám lính ồn ào lòng chợt nhói lên một sót thương se sắt”.

 Cái người lính VNCH dù thế nào đi nữa vẫn còn một con tim.

Nói về chiến tranh  mà thực ra PNN nói tới rất nhiều về tình tự con người- về người vợ lính, về một thành phố hư hại, về hững ngày dài trên quê hương…

 Nhưng chỉ ngay trang bên cạnh là cảnh trái ngược, một bộ mặt khác của chiến tranh cũng được PNN vẽ lại. Hai anh lơ xe đang ” hành hạ” một người phụ nữ đi xe nhờ :”

Xe chạy qua Đèo Cả lúc ba giờ sáng, ánh trang bạc thếch soi xuống lòng xe một khoảng nhỏ, dưới kia bãi Đại Lãnh đẹp như một cảnh thủy mạc.(…) Và tôi thức giấc không phải vì hơi gió lạnh luồn qua, nhưng vì tiếng nấc của ngươì đàn bà bị cưỡng ép phải làm tình quá độ, với tiếng cười khoái trá của hai gã lơ xe lực lưỡng.

-Đ..m, đĩ ở Quảng Ngãi chỉ có ba chục một cái, cho mày đi xe, tệ lắm cũng đỡ hai trăm, khóc cái con c…”.(9)

 Tôi cũng đọc PNN trong Mùa hè đỏ lửa nơi mà ông viết lại như sau:

Kinh khiếp hơn Ất Dậu, tàn khốc hơn Mậu Thân, cao hơn bão tố, phá nát hơn hồng thủy … Mùa hè năm 1972, mùa hè máu, mùa hè của sự chết và tan vỡ toàn diện, mùa hè cuối đáy điêu linh.

 Dân tộc ta sao nỡ quá đọa đầy… !!

Cộng quân chơi trò chơi máu, mở đầu những ngày hè đỏ lửa, trận cuối cùng đã kết thúc 12 năm chiến tranh ” giải phóng” đã cạn lực“(10)

Ở một chỗ khác, PNN mô tả cảnh tượng của cuộc chiến ở mức độ tàn bạo không bút mực nào tả xiết, nó vượt sự chịu đựng của con người. Ông viết:

Tôi đang ở cây số 9 từ Quảng Trị kể đến, vùng thôn Mai Đẳng, xã Hải Lâm. Không thể dùng một chữ, một tĩnh từ, không thể nói, khóc, la, trước cảnh tượng trước mặt, chỉ có thể im lặng, chỉ có thể nghiến răng, bặm môi, dù răng vỡ môi chảy máu tươi, tay luống cuống mắt mờ nhạt, mũi phập phồng.. (..) Tôi không còn là người đang sống vì sống là sống cùng với người sống, chia sẻ vui buồn, đau đớn lo âu với người sống. Chung quanh tôi, trước mặt chỉ còn một hiện tượng, một không khí – chết . Phải chỉ có sự chết bao trùm vây cứng. Chỉ có nỗi chết đang phơi phới bừng bừng che kín không gian” .(11)

Và tôi cũng cố gắng đọc tiếp trích đoạn lá thư của chị Nguyễn Thị Hàng, giáo viên ở Nghệ An viết gửi anh Lê Văn Hựu, địa chỉ là 271003 TB 04, thuộc cánh quân của  Trung Đoàn 124 phối hợp với đại đội 1/117 Trung đoàn 203 thiết giáp. Thư mở đầu:

“Anh ơi, xa anh đi, em nhớ lắm, em thương anh lắm, anh nói, anh cười, anh trìu mến thương, em làm sao quên được “.

  Nhưng người yêu Lê Văn Hựu của Nguyễn Thị Hằng đã chết, chết ngay trận đầu tiên sau sáu tháng vuợt Trường Sơn vào Nam giải phóng (12)

Tôi cũng không thể nào lợi dụng sự rộng lượng và sự kiên nhẫn của người đọc để trích dẫn hết những sách bút ký chiến tranh khác mà vì trách nhiệm người cầm bút tôi đã sưu tập đủ như Nhật Ký An Lộc, bác sĩ Nguyễn Văn Quý, Vượt Trường Sơn của Phan Nghị, Về R của Kim Nhật và nhất là bộ sách 5 cuốn của Xuân Vũ như Mạng người lá rụng,  Xương trắng Trường Sơn, Đến mà không đến(nằm trong bộ bốn cuốn Đường Đi không đến), Đồng Bằng gai góc và Đường Đi không đến.

Đọc những mẩu chuyện ghi của Xuân Vũ chỉ thấy tội cho những chiến binh miền Bắc biến thành vật hy sinh cho một chủ nghĩa giáo điều.

Tôi chỉ xin trích dẫn một câu trong muôn vàn ý tưởng trong bộ sách của Xuân Vũ qua nhân vật nữ tên Phương là:

Đêm nào anh nấu nước cho Phương ngâm chân, Phương cũng phàn nàn, càng ngày càng nặng lời và day dứt hơn. Một hôm Phương nói thẳng ra rằng, nếu dè như thế này thì Phương đã không đi. Phương đã nói rất thực lòng. Và đó cũng chính là nỗi lòng của hàng vạn người trên đường này. Nếu biết thế này thì chắc chắn không ai đi. Thà ở lại miền Bắc làm tên cán bộ mất tinh thần, làm tên lính đào ngũ còn hơn “.(5)

Ở chỗ khác, Ngạc, một binh lính trẻ đã tự tử :

Anh em chuẩn bị hành quân, Ngạc soạn ba lô lấy đồ mới ra mặc, bộ Đông Xuân Ngạc chưa xỏ tay chân vào lần nào. Anh em tưởng Ngạc phục thiện và tự nguyện tiếp tục hành quân, nào ngờ trong lúc anh em đang loay hoay nấu nướng thì ” đoàng”, Ngạc nằm thẳng trên võng, người mặc quân phục, cây AK và chỉ một viên, từ cằm trổ lên giữa sọ.

 Tôi và Thu đứng dậy tạm biệt anh lính, như tạm biệt một sự đau thương đã hóa thành người. Trời ơi! Trời đất ơi ! Sao lắm chuyện thế, mà chuyện nào cũng ghê rợn. .., oái ăm tàn tận, nghe như bịa chứ không có thật. Vậy mà vẫn là sự thật “.(13)

Những nỗi lòng như thế, những bi cảnh như thế những người lãnh đạo cộng sản có “máu lạnh” không hề biết tới và họ đã lừa cả một thế hệ thanh niên xông vào vòng lửa đạn và hứa rằng chiến trường chỉ kéo dài trong vài tháng hay cùng lắm là một năm.

Trước những thách đố của một cuộc chiến được gọi là “giải phóng” và một cuộc rút quân có chiến thuật của Hoa Kỳ ra khỏi cuộc chiến, miền Nam trước 1975 cũng sôi động lên vì chính sách “Việt Nam Hóa chiến tranh” kéo theo một số đông các thành phần có học như sinh viên,  giáo sư, nhà văn,  kỹ sư, các chuyên viên bị động viên.

Từ nay, chỉ còn là người Việt đánh người Việt.

Tôi nghĩ lại đây là giai đoạn tủi nhục và đau xót nhất cho người lính miền Nam.

Nhưng nhờ đó, chúng ta có dịp được đọc những vần thơ tiêu biểu cho giai đoạn đó, trong đó tâm trạng chán chường bắt đầu xuất hiện nơi nhừng người lính ” không chuyên nghiệp”.

Nó không có cái hào hùng, niềm hãnh diện hay tự hào tiêu biểu của những người lính tiểu đoàn dù 1 và tiểu đoàn 6 dù của PNN. Nó không có những địa danh tiêu biểu của chết chóc như Đồng Xoài, Bình  Giả, An Lộc, Khe Sanh, cổ thành Quảng Trị .

Trường hợp Nguyên Sa, Trần Bích Lan và những người lính trẻ.

Nó chỉ còn là những tâm sự, nỗi lòng của một người cầm súng không chuyên nghiệp như trường hợp nhà thơ Nguyên Sa Trần Bích Lan.

Nó tiêu biểu cho một thái độ khác về chiến tranh, một bộ mặt khác về chiến tranh không còn giống như trước nữa  mà không cần đặt vấn đề đúng sai, phải trái.

Nó đi vào văn chương một cách tự nhiên bởi vì họ là những người cầm bút, những nhà thơ. Chỉ có vậy.

Dù thế nào thì nó cũng là chứng tích chiến tranh của một giai đoạn sắp đến hồi chung cuộc.

Người đọc tìm thấy ở đây Số phận và sinh mệnh sống chết của người lính miền Nam cũng thật long đong và thật mong manh. Nó có cái long đong của xa lìa, mất mát, bất trung và mong manh vì mất mát. Nguyên Sa rơi bỏ tháp nhà làm thơ tình còn làm thơ nói về ngươi lính.

Những tình cảm như của một Nguyên Sa không thể nào tìm thấy được trong thơ văn chiến tranh ở miền Bắc.

Nó có thể cũng rất gần với chúng ta, với con người về cảm thức về chiến tranh. Nó rất thật và sống động và chỉ có thể rất hiếm hoi .

Nếu không viết lại ở đây thì không còn có cơ hội để mọi người được biết tới nữa:

 “Không nói tao sợ mày phiền

Nói ra với rượu tao buồn gấp hai

em mày đi lấy chồng rồi

 gặp tao ngoài ngõ ngậm ngùi nhìn nhau

tao nhìn tao thấy mày đau

Nó nhìn nó thấy trong tao có mày”.

Đáng nhẽ, tôi phải dành riêng một bài viết về Nguyên Sa mới phải. Cái thấm thía của ông về chiến tranh mặc dù chỉ là ” kinh nghiệm quân trường” cũng đủ làm ông thức tỉnh.  Xin trích bài thơ mang tên: Xin lỗi về những lầm lẫn dĩ vãng.

 – Bây giờ khẩu garang ta mang trên vai

Bây giờ khẩu trung liên bar ta mang trên vai

Ta mới biết rằng những thỏi sắt đó nặng như thế

Ta mới biết rằng trong cuộc đời dạy học ta là thằng dốt nát

Trong mười mấy năm ta làm bao nhiêu tội lỗi

Trong mười mấy năm ta không nói cho học trò ta biết

Anh em ta và quê hương ta

Vác những thỏi sắt nặng như thế

Từ bao nhiêu năm nay

Bây giờ nằm kích ở ven ruộng sương xuống ướt vai

Bây giờ đứng gác đêm ở rừng giá gió lạnh thấu xương

Ta mới biết rằng sương gió lạnh như thế

Ta muốn kêu to lên ta là một thằng dốt nát

Ta là một thằng dốt nát

Vì mỗi ngày trong mười mấy năm dĩ vãng

Ta không viết trên giấy trắng mực đen cho những người yêu thơ ta

Anh em ta và quê hương ta đã đứng như thế từ bao nhiêu năm!!(14)

Nhưng niềm đau hơn nữa khi có dịp đưa tiễn một người thân thiết như- anh em-bè bạn- chồng, con cái và có khi cả người tình với nước mắt tiễn đưa.

Đó là cảm nghiệm về những cái chết như thể. Nó không phải là những xung động từ bản năng sinh tồn của người lính ngoài mặt trận, cận kề cái chết ..

Nó những cảm nghiệm- có thể là một cảm nghiệm tôn giáo về cái chết, về sự bất lực như : Từ dưới vực sâu kêu lên Chúa tôi: De profundis clamavi ad te Domine.

 Nó gián tiếp gửi đến những thông điệp nhân bản- thông  điệp về nỗi đau của chiến tranh không phải từ người lính mà là tự người vơ, ngay cả người tình. Và có thể là nước mắt người tình trong đôi con mắt mệt lả với những sợi tóc buồn xõa che mặt hay có thể chỉ là những tiếng chửi thề  bực tức về sự phi lý cuộc đời kèm theo sự thương tiếc của bạn bè đồng đội:

Đây trước mắt chia lìa chất ngất

đứa quân trường đứa lính chiến một năm

 đứa lơ ngơ những ngày chờ chết

đứa vinh thăng dĩ vàng đâu màng.

Đồi Gia Hựu dài cơn đồng thiếp

thăm hỏi nhau mày còn mạnh giỏi

còn nguyên lành thân xác phàm phù

bao giờ giải ngũ bao giờ có phép

 lúc nào vào lính cho tao biết

vợ con mày mấy đứa ra sao

lũ tình nhân còn đầy nhân ngãi

bạn bè ta đứa nào còn đứa nào khuất

Nơi tao ở rừng cao tiếp núi

súng lăm le như cái chết cõi đêm chừng

chợt sáng sớm biết mình sống sót (15)

Và tâm sự của một người bạn trước cái chếtcủa bạn mình. Buồn và nỗi bất lực . Đành chửi thề.

Buổi chiều ở nghĩa trang Cà Đú

Thơ  Phạm Nhã Dự.

(Gọi linh hồn mày Tô Đình Sự)

Trở lại Phan Rang lần này nữa

Thăm mày, không biết ngắn hay lâu

Thăm mày, đù má mày đã chết.

Chiều nay sao gió nhiều mày nhỉ

gió nổi trong tao đến lạnh mình

đù má nhang mày sao chẳng cháy

đốt mãi que diêm đế cạn cùng….

Chẳng khóc được mày mà nước mắt tao rơi..

thăm mày đù má lòng buốt xót

ngó trời chỉ biết chửi thề thôi.(16)

Trong chiến tranh, nói về khát vọng hòa bình cũng là điề thiết thân, gần gũi. Tự thâm tâm, ai cũng mong đợi như thế:  về Hòa bình, về một ngày không chiến tranh.

Vì thế, tôi nhận ra trong thơ văn miền Nam, chiến tranh được nhìn trong một chiều kích không nhất thiết là phải chiến thắng, phải giết, phải sắt máu. Hãy đọc: mai mốt anh về không bằng chiến thắng. Bi kịch hơn nữa: Mai anh về trên đôi nạng gỗ, bại tướng về làm gã cụt chân.

Chỉ thấy khát vọng hòa bình như của một người mẹ trong bài Đêm Giáng sinh ở Việt  Nam của Hồ Minh Dũng:

Dù chỉ một ngày ngưng bắn đó con

cũng đem chiếc áo lành ra mặt

cũng ăn một bữa cơm cho no

cũng ngủ một giấc trên giường trên chiếu

khổ đau lúc này mẹ gói trong mo (17)

 Bộ mặt chiến tranh vì thế mang nhiều chiều kích, nhiều góc cạnh, ngay cả cả sự tình cờ và nó đên, nó mang đi không trừ một ai.

Nhiều cái chết đến như tình cờ không tiên đoán trước được từ nhiều phía trong chiến tranh. Đó có thể  là những người ngoại quốc từ một nơi xa xô nào đói đã đến đây và đã bỏ mình tại đây.

Những cái chết ngoài dự đoán và oan nghiệt. Những cái chết do sự trả thù của những người trong cuộc mà có thể tạm gọi là cái “trục của điều xấu”.

Thật vậy khi Trần Văn Đang, người đã đánh bom khách sạn Métropole rồi bị chính quyền VNCH  đem ra hành quyết. Trần văn Đang bị xử bắn  là việc liên quan đến Trần Văn Đang, liên quan đên hành vi tội phạm của anh .

Vậy mà cùng ngày hôm ấy, một binh sĩ Mỹ tên George Benneth cũng bị phia bên kia mang ra xử bắn. Giữa Trần Văn Đang và George Benneth có cùng một mẫu số chung để cái chết của người này là nguyên nhân cái chết của người kia.

Phải nói George Benneth đã chết oan uổng. Anh không đáng bị chết như thế vì anh không có tội già cả.

Cái chết của anh đơn giản là để trả thù ! Nó thể hiện đúng điều mà nhà văn Nguyễn Khải nói đến ở trên. Nó chỉ có hai mặt: Hoặc trả thù hoặc là phải hy sinh.

Khi tướng Thi ra lệnh bắn ba sinh viên Việt Cộng: Nguyễn Văn Lắm, Nguyễn Văn Châu và Phan Văn Cẩu thì đổi lại cộng sản trả đũa đem trung sĩ Kenneth Dorabach và đại úy Humbert Varsace hành quyết.

Đã thế, cái chết có thể đến với bất cứ ai và bất cứ lúc nào ngay cả những phóng viên nhà báo, không cầm súng, không giết người. Họ chỉ làm nhiệm vụ thông tin.

Tên của họ là: Pieter Kolenberg, tháng10, 1966. Huỳnh Thành Mỹ chết tại Cần Thơ, Dickic Chapelle, chết vì mìn ở Đà Năng. Charlie Chellapah rồi Sam Castan, Ronald Callagher, Felipha Schuler và nhất là nhà báo nổi tiếng Bernard Fall-tác giả nổi tiếng với Street Without Joy, (Phố buồn hiu) trúng mìn ở một khu rừng gần Huế ..

Vì thế, không lạ gì, mỗi ký giả lên máy bay quân sự đều phải trả lời một câu hỏi ra rất là “stupide” là trên một tờ khai tự ghi như sau: Khi cần thì xác của ông sẽ trao cho ai?(18)

Nói một cách triết lý như Graham Green viết là trong chiến phần lớn thời giờ là ta  chỉ biết ngồi chờ đợi một cái gì đến mà ta chưa biết trước được.

Câu hỏi đó làm khó chịu các nhà báo đi máy bay, nhưng nó lại là câu hỏi thực tế,  cần thiết trong một cuộc chiến không có tuyên chiến và không biên giới.

Tôi cũng nhân tiện đây nhắc nhở về môt bài Nhật ký hiếm hoi và kỳ cục ít ai biết  tới của nhà thơ Nguyên Sa mà nay ông đã quá vãng. Ông bị động viên sĩ quan Thủ Đức, ra trường với cấp bậc chuẩn úy. Thay vì được điều động ra chiến trường để đánh nhau thì oái ăm, ông được ưu đãi điều động về một nơi an toàn là tiếp nhận và chôn người chết ..Cơ quan Chung Sự Vụ.

 Nhưng chính ở nơi này mà ông từng ngày phải chứng kiến những cái chết bọc trong pông sô, nhiều cái đã thối rữa. Chắc hẳn có những cái chết không toàn thây, mất đầu, mất tay chân, sổ ruột gan như hàng vê mỗi ngày một nhiều ở Chung Sự Vụ ..Chưa kể  cạnh đó là thảm cảnh vợ con, cha mẹ người lính khóc than đến nhận xác chồng con.

Ở vai trò người trí thức, ở Nha Chung Sự Vụ, Nguyên Sa sẽ bị dày vò, khốn khổ từng ngày còn hơn ở ngoài mặt trận. Trong dịp này Nguyên Sa có viết một ký sự : Vài ngày làm việc ở Chung Sự Vụ, đăng trên tập san Hành Trình Từ số 17, thánh tư, năm 1971.

Trong tập nhật ký, Nguyên Sa đã phải kìm giữ, ngăn chặn những xúc động về những cảnh tượng đau lòng của thân nhân các tử sĩ. Ông cố gắng tỏ ra có “máu lạnh” mô tả  cảnh tang tóc như một thứ nghề chuyên môn với thứ ngôn ngữ đầy bi kịch tính. Ông gọi xác chết là hàng về. Gọi người chết là khứa. Nhìn cảnh những người vợ lính vừa khóc lóc nhìn cảnh liệm xác, vừa  phẫn uất chửi đổng ..Sau đây quang  cảnh và thủ tục liệm xác do Nguyên Sa ghi lại:

“Cài xong cái khuya áo. Chúng nó ở Sài Gòn ăn no ngủ kỹ, chúng nó xui anh đi ra nơi hòn tên mũi đạn, chúng nó đẩy anh vào chỗ chết, anh bỏ vợ bụng mang dạ chửa, anh ơi ..Tổ sư cha chúng mày ..

 Xong giây lưng. Bà này kỳ, bà chửi chúng con, chúng con cũng bị động viên, ăn cái giải rút gì.

 ” Nghe chưa”.

 Rồi, thằng Tâm sui. Bảo bà ấy chửi mấy thằng  to đầu đi. Kêu tên ra mà chửi. Bọn mình ăn nhằm gì”.

 Xong khuy quần, chải đầu chút chớ.

 ” Này, “

” Gì .”

” Khứa nào đấy

 Lược đây rồi.

 ” Quả phụ Binh nhất TâyHàng về hôm hăm hai. Mình phải siêu tần số đi Vũng Tàu đấy !!(19)

Lần đầu tiên, một thi si thay vì làm thơ tình, viết về cảnh liệm xác với giọng điệu đầy tính châm biếm để khỏa lấp, để xóa đi cái cảnh não nề ở nhà xác.

Số phận những người lính bất hạnh của miền Nam bị lao vào cuộc chiến là do sự khởi động chiến tranh xâm lược từ miền Bắc. Nhiều người trong số họ đã hy sinh và được chính phủ cho chôn cất tại Nghĩa Trang Quân Đội như một cử chỉ nhớ ơn họ.

Khi cộng sản miền Bắc chiếm trọn vẹn miền Nam thì số phận người sống đã đành được nói tới nhiều. Nhưng còn phần những người đã chết cũng không yên.

Đó là chính sách người sống đuổi người chết. Đó là chính sách cầm tù những xác chết năm ở Nghĩa Trang Biên Hòa, không cho ai ra vào, lai vãng tới, ngay cả thân nhân của người linh tử trận.

Họ lấy cớ để di dời các ngôi mộ ra khỏi thành phố như nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi,  Nghĩa địa Đô Thành, Bình Hưng Hòa mà không để lại một bia tưởng niệm .. .Riêng Nghĩa trang Quân Đội ở Biên Hòa thì giao cho quân khu 7 trông coi. Họ đóng cửa với bảng cấm : khu quân sự, cấm chụp hình cho một nơi chỉ có những mộ phần, nơi chôn cất 16 ngàn tử sĩ trong đó có các tướng như Đỗ Cao Trí nằm ngủ yên không hương khói ..Phải tới năm 2006, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mới ra quyết định:

” đồng ý chuyển mục đích xử dụng 58 hectare đất khu nghĩa địa sang xử dụng vào mục đích dân sự để phát triển kinh tế- xã hội “chỉ đạo việc quản lý khu nghĩa địa Bình An(tức Nghĩa trang quân đội Biên Hòa) bình thường như các nghĩa địa khác theo quy định của pháp luật“.(20)

 Câu chuyện Nghĩa trang quân đội năm 1975 nhắc nhở chúng ta lại một câu chuyện tương tự mà Jules Roy viết trong cuốn”Bataille de Dien Bien Phu,  nxb Julliard, 1963  Jule Roy viết:

” Ở đây, trước những mộ phần, cái biên giới thù nghịch không còn, sự kiêu hãnh cũng như cay đắng không còn, có chăng chỉ là những niềm thương của một người đối với người đã khuất”.

Jules vừa là nhà văn, vừa là đại tá trong quân đội Pháp. 9 năm sau trận Điện Biên Phủ, ông quay trở lại Việt Nam và đi tìm lại những đồng đội của mình đã năm lại ở đây trên các ngọn đồi Éliane, Béatrice thuở . Ở đấy, ông chỉ thấy có 500 ngôi mộ của nhừng ngưới línhcộng sản đã chết nằm chung bên cạnh đồi Éliane sau những trận đánh cuối cùng.

Ông phẫn nộ, ông cảm thấy bị xỉ nhục khi những người Pháp chết ở đây không có lấy một bia tưởng niệm. Ông cho đó là một xúc phạm đến quân đội Pháp và đi đến đâu, gặp ai ông cũng hỏi: Đâu là mồ của những người Pháp quanh các đồn lũy.

Không một câu trả lời.

” Cuối cùng Jules Roy yêu cầu “các ông” bỏ qua mối thù hận có thể có nuôi dưỡng trong thâm tâm các ông, và xin các ông dựng cho một cái đài kỷ niệm đơn giản thôi, cho tử sĩ Pháp. Thật vậy, các ông có quyền lên án cái lý tưởng của họ, nhưng cũng có bổn phận nghĩ đến các bà mẹ của họ. Đối với một người mẹ, không có lý tưởng tốt hay xấu, mà chỉ có những đứa con đã mất. Điều mà tôi xin các ông làm là tôi nhân danh tất cả các bà mẹ trên thế giới ..”.(21)

Sau 1975, câu chuyện của Jules Roy lập lại  cũng một cách như thế đối với người lính VNCH tại Nghĩa Trang Quân đội ở một mức tồi tệ hơn, mang tính cách trả thù.

Tượng người lính Thương tiếc ngay lối vào nghĩa trang đã bị giựt đổ sau hai tháng chiếm được miền Nam. Đầu anh cúi gục xuống đất trong thời giann mấy tuần lễ trước khi được chuyển đi nơi khác- Nơi đâu không biết. Anh- Tượng người lính thương tiếc-trở thành huyền thoại thương tiếc- anh đã từng ngồi ở đó một mình sau lưng anh là các đồng đội của anh đã chết và anh  không bày tỏ một ý nghĩa chính trị hay sự căm thù nào.

Đó chỉ là một bức tượng biểu hiện vong linh những người lính VNCH. Bức tượng trước sau chỉ là một bức tượng. Sự  hiển linh nếu có là do tấm lòng của những người còn ở lại. Phần tôi trước 1975,  thường đi lại con đường này mỗi tuần, mỗi lần nhìn bức tượng, lòng chợt buồn vì cũng có bạn bè tôi năm ở đó.

Chỉ có vậy. Nỗi buồn đó, nó nằm sâu trong tiềm thức của mỗi người dân VN.

Cùng lắm nó khơi dậy một nỗi buồn về thân phận con người đã nằm xuống. Càng ngày bức tượng Thương tiếc như có hiển linh, như linh hồn của 16 ngàn đồng đội anh mà mộ chí mỗi ngày thêm dài.

Ngày hôm nay Nghĩa Dũng Đài, Cổng Tam quan, Đền tử sĩ nay bỏ hoang phế cho cỏ mọc. 8 khu mộ đã bị đập phá, bể sứt, sập hầu hết như một thứ trả thù người đã chết.

Trong bài viết: Tướng Kỳ bị Nguyễn Tấn Dũng chặn đường về của Vũ Quí Hạo Nhiên có nhắc đên việc đại sứ Burghardt có đề nghị với chính quyền VN kết nối với cộng đồng VN tại Mỹ bằng cách:

” thậm chí mời cựu Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ về thăm quê hương “.

Lúc đó, theo công điện này, ” PTT Dũng phản ứng đầy xúc cảm, cho rằng các các viên chức chế độ Sài Gòn cũ phải gánh chịu trách nhiệm đã đưa 1 triệu lính Mỹ vào và gây chết chóc cho 3 triệu người Việt Nam, họ là ” tội đồ” và sẽ không bao giờ được chào đón trở về.

Sau này, khi tướng Kỳ đã được phép về VN, ngay từ lần đầu tiên, ông đã đề cập tới việc sửa sang Nghĩa trang Quân Đội, nhưng những người ông gặp đều không muốn làm chuyện này. Họ cho rằng việc làm này “quá nhạy cảm” đối với phái bảo thủ và quân đội . Khi đó, ông Kỳ đã nói với họ:

” Nếu các ông muốn hòa giải với Việt Kiều, các ông phải hòa giải với người đã chết, trước đã”.(22)

Sau quyết định của ông Nguyễn Tấn Dũng được đưa ra, có những nỗ lực của một số người Viêt hải ngoại như của quý ông Vũ Văn Lộc và IRCC, Inc nhiều lần đề nghị tôn tạo Nghĩa Trang, nhưng đều bị từ chối.

Cuối 2008, nhóm Quốc Gia Nghĩa tử Heritage trực tiếp về VN công khai làm đơn tu bổ quy mô Nghĩa Trang, Nhưng cũng bị khắp nơi từ chối.

Chắc còn phải nhiều năm, nhiều thế hệ để Hà Nội có thể làm một cử chỉ dẹp nhân đạo đối với các tử sĩ ở Nghĩa Trang Quân Đội.

Cũng theo Vũ Quý Hạo Nhiên, khi ông Nhất Hạnh về VN tổ chức ba buổi lễ cầu siêu trong đó có nội dung cầu siêu cho các nạn nhân đã” thiệt mạng vô duyên cớ” trong chiến tranh. Dự tính sẽ là nhắc dến người chiến binh Mỹ cũng như những người Việt Nam bị chết vì những tai họa khác kể cả trại tù cải tạo và người vượt biên.

Họ nhất định không cho nhắc đến lính Mỹ, cấm nhắc đến tù cải tạo, cấm nhắc đến thuyền nhân.

Quả thực, bóng ma người chết vẫn ám ảnh tâm trí người cộng sản. Họ sợ người sống đã đành, họ sợ cả bóng ma của người chết. Ai dám bảo người cộng sản vô thần, họ còn mê tín tôn giáo lắm đấy chứ !!

Cuối cùng thĩ ông thiền sư đành lòng phải nhắc chung chung là cầu siêu cho tất cả “nạn nhân hai miền Nam Bắc” và nói là 6 triệu người đã thiệt mạng trong chiến tranh thì đều đã “chết vô duyên cớ”.

Và chắc hẳn nhiều người Viêt hải ngoại chưa quên những tấm bia tưởng niệm thuyền nhân đã bỏ xác trên biển tại các nước như Mã Lai Á, Indonesia đã bị áp lực của chính quyền cộng sản Hà Nội phá bỏ.

Trong khi đó, oái ăm thay là tại một số tỉnh như Quảng Ninh, Lạng Sơn, người ta ghi nhận có những nghĩa trang dành cho” liệt sĩ Trung Quốc” với những dòng chữ :đời đời nhớ ơn liệt sĩ Trung Quốc !!

 Về số phận những người lính phía bên kia mà biểu tượng là Dương Thu Hương trong đoàn Thanh niên xung phong.

Số phận của kẻ thua trận thì đã nhận đủ thứ thiệt thòi từ kẻ chiến thắng .

Nhưng kẻ thắng trận mà “xương trắng Trường Sơn “, mà “mạng người như lá rụng” mà ” Đương đi không đến’ thì cái lẽ thắng thua chẳng hiểu còn có nghĩa lý gì!!

Thắng mà bằng cái giá phải trả bằng một đổi lấy 5 lần! Dù lạc quan cách mấy- dù không nói ra- Sự thiệt hại và tổn thất về người về phía cộng sản là lớn lao. Người ta không thể dấu được sự thiệt hại ấy. Tuy nhiên, mọi người đều đồng ý với nhau là không có cách nào tính được con số thương vong  chính xác của cả đôi bên.

Theo ước tính của tài liệu của Mỹ:

– Phía người Mỹ có 52.227 người Mỹ bị giết .(23.000 nhiều hơn trong thời kỳ chiến tranh Triều Tiên).

– Phía quân đội Sài Gòn, con số chính thức là 188.000 người bị chết và 430.000 bị thương.

-Phía Bắc Việt là: 920.000 người chết.

– Phía thường dân trong miền Nam là 350.000 bị giết và 950.000 bị thương

-Có 300.000 trẻ em mồ côi.(23)

Đã thế, không thiếu trường hợp chết mất xác dưới những cơn mưa bom đạn trải thảm rải trên đầu. Số phận của họ nào chết bom đạn, chết vì đói ăn, vì bệnh tật như sốt rét ngã nước hay suy dinh dưỡng.

Họ, những lính cụ Hồ mới là những người línhchết đủ kiểu: chết trong rừng già, bên bờ suối, bờ ruộng, trong hầm trú ẩn, trên đường mòn Hồ Chí Minh. Trên những địa danh như  Pleime, Dakto, Hạ Lao, Mậu Thân Huế, Quảng Trị, Khe Sanh.

Theo  Peter Brush trong bài The Battle of the Khe Sanh, 1968

– Pháo binh Mỹ đã rót 158.891 quả đạn sang phòng tuyến địch

-Máy bay chiến đấu của lực lượng không quân số 7 đã xuất hành 9.691 chuyến bay

và thả 14.223 tấn bom và đạn Rockets .

-Máy bay của thủy quân  Mỹ xuất hành 7.078 chuyến bay và thả 17.015 tấn bom

-Máy bay từ các Hàng không mẫu hạm xuất hành 5337 lượt và thả 7.491 tấn bom ..

-Máy bay B.52 xuất hành 2.548 lượt và thả 59.542 tấn bom và trang bị xuống Khe Sanh

– Số binh lính tử trận về phía cộng sản vào khoảng từ 10.000 đến 15.000n người  trong trận Khe Sanh.

Tổng cộng chung có 14 triệu tấn bom đã được xử dụng tại VN.

Nhà báo Oriana Fallaci đã đi quan sát trận địa Khe Sanh cho biết: toàn bộ sư đoàn 325, niềm tự hào của tướng Giáp đã biến mất dưới những trận mưa bom của Mỹ và được gọi là :” Điện Biên Phủ thứ hai”t!!

” Và nhóm 50 người đầu tiên của đại đội Delta đã tới được những giao thông hào và ở đó người ta tìm thấy hàng chục khẩu moóc chê để lại, những dàn phóng rốc két, rồi liên thanh hạng nặng, những cái nón do Liên Xô chế tạo, thùng còn đầy đạn, nhiều ba lô và 400 cái xẻng mới ..”.(24)

Nhìn cái cảnh “để lại tại trận Khe Sanh” như Oriana Fallaci vừa mô tả cho thấy chiến tranh vừa tàn bạo, vô tình đến dửng dưng, đến vô nghĩa không hiểu được.

Bài viết này xin đưa ra một số chứng từ tiêu biểu nhất về số phận những thành phần Thanh niên xung Phong trên tuyến đường Trường Sơn ,trong đó có trường hợp của nhà văn Dương Thu Hương ..

Đường mòn Hồ Chí Minh được xây dựng từ năm 1950. Nhưng kể từ năm 1959, có chiến dịch cho bộ đội Việt Minh xâm nhập vào Nam mỗi ngày một nhiều. Đường mòn HCM trở thành con đường huyết mạch vận chuyển người và võ khí vào miền Nam. Năm 1964 có 12.000 người và 33.000 vào năm sau. Từ 1966 đến 1971, con số lên tới 600.000 quân đội Bắc Việt được chuyển vào Nam qua đường mòn này.

Hàng vạn TNXP đã được điều động để xây dựng trên tuyến đường này. Sự tuyên truyền khéo léo, che dấu đã cho thấy nhiều thanh thiếu niên đã tình nguyện xông pha vào “cõi chêt” vì bom Mỹ bỏ ngày đêm.

Họ đã chết bỏ xác tại trận hay chết cho chính tương lai tuổi trẻ của họ sau này- không chút đền bù- như một đồ dùng phế thải.

Viết về họ là xót thương cho tuổi trẻ VN.

Claude de Groulat đã dành hẳn chương XVIII trong sách của ông để nói về con đường mòn này. Đây là con đường chiến lược vận chuyển người và vũ khí, dài khoảng 4000  cây số, chằng chịt những đường nhánh, có nơi chỉ rộng độ một thước, có nơi có thể cho hai đường xe qua lại. Thời gian thuận lợi nhất cho việc vận chuyển là từ các tháng giêng đến tháng tư.

Để đi trọn con đường mòn này, thời gian phải mất là từ 3 đến 5 tháng . Số  lượng tổn hại trên đường mòn là 15% hoặc hơn thế nữa do bom đạn Mỹ, bệnh tật và đào ngũ.

Hàng ngày có khoảng 380 lượt máy bay C-119, C-130 hoặc B.52 thả bom suốt dọc con đường này ..Trong đó có bom hóa  học để đốt cháy rụi cây rừng mà một ngọn cỏ cũng không mọc được. Chưa kể các tín hiệu điện tử được gọi là Igloo White thả xuống mỗi khi có tiếng động hoặc sư vận chuyển của chân người hay xe cộ đi qua sẽ báo động cho trung tâm ở phi trường. Hoặc hệ thống Pave way dùng các tia sáng laser. Khi mục tiêu bị phát hiện, máy bay bắt được tín hiệu thì hệ thống Pave way giúp máy bay thả bom theo sự chỉ dẫn của hệ thống tìm ánh sáng ..(25)

Họ những TNXP là những kẻ hy sinh nhiều nhất, kẻ thiệt thòi nhiều nhất, kẻ không được hưởng chút ân huệ nào của chính quyền cộng sản.(TNXP).

Phải nói họ là những con vật thí cho sự thử thách giữa tiến bộ kỹ thuật và sức chịu đựng và sức xây dựng của bàn tay của con người. Đường mòn là một thứ Holocaust của chiến tranh hiện đại. Tất cả con đường đều được xây dựng bằng tay và ở  hai bên vệ đường có trồng tre,  che khuất đến nỗi máy bay không thể nào khám phá ra được.

Họ là những người đi trước mà về sau .. Trước những trận đánh, họ luôn luôn đi trước để mở đường, xây dựng chiến tuyến, rồi trực tiếp tham gia chiến đấu, cuối cùng, họ lại chính là những người về sau thu dọn chiến trường, tải thương, chôn cất liệt sĩ”.(26)

Có nhiều người trong bọn họ rời nghế nhà trường ở tuổi 13, 15 tuổi, trở thành TNXP” Giải phóng miền Nam” mà độ tuổi từ 13 đến 24 tuổi. Phần đông họ là các cô gái học sinh, không kiến thức quân sự, chưa một lần xa nhà, ban đêm vẫn còn sợ ma đã được nhanh chóng ném ra chiến trường.

Có những đơn vị cấp tốc được thành lập, không được trang bị, ngay một đôi dép cũng không có, hoặc có không đúng cỡ, đi chân đất, bàn chân phổng rộp .. . Một số đội viên đã ngã xuống ngay từ  những ngày đầu ở chiến trường vì bom đạn Mỹ, hoặc do rắn cắn chết mà chưa có một ngày cống hiến.

Khẩu phần ăn rất thất thường mặc dù trên nguyên tắc phải được ăn uống đầy đủ.  Tiêu chuẩn là 24 kg/đầu người. Thực tế khắt khe của chiến trường do phải di chuyển để tránh bom Mỹ nên thường ở trong tình trạng thường xuyên thiếu thốn lương thực, thuốc men  và quần áo.

Tháng chỉ được phân phát 4kg/đầu người. Thay vì 24 kg.

Có khi khát quá, họ thấy một hố bom thì vội vã múc uống cho đã khát và cho vào bi đông. Nhưng đến khi nhá đèn Pin mới phát hiện nổi lềnh bềnh xác người chết đa thối rữa .

Sự hy sinh của đội quân TNXP mà tỷ lệ nữ chiếm một nửa hoặc 70 đến 85% ..

Sự hy sinh của họ là vô bờ bến, bất kể đến quy luật thể lý của người phụ nữ như thời kỳ kinh nguyệt vv..

Trong chiến tranh, không ai có thời giờ nghĩ tới cái tới cái băng vệ sinh của người phụ nữ khi có kinh nguyêt.

Các cô gặp phải các trường hợp tắt kinh hoặc rối loạn kinh nguyệt hoặc đau đớn trong hoàn cảnh thiếu thuốc men và băng vệ sinh. Băng vệ sinh chỉ là  một miếng vải mà thôi. Về vấn đề vệ sinh vùng kín của phụ nữ ít được đề cập đến và chẳng ai muốn rắc rối đặt thành vấn đề.

Da dẻ các cô nổi ghẻ, tóc trên đầu đầy chấy rận. Các bộ phận kín trong cơ thể ngứa ngáy đến phát điên. Các cô gái còn thường xuyên bị các loại bò cạp, nhện rừng gây ra những vết cắn, nhức, sưng tấy. Các loại  bọ “đen và to”, các loại côn trùng đủ loại tham lam hút máu người gây ngứa ngáy, sưng tấy trên da thịt.

Thân thể mỏi mệt và ẩm ướt nơi các vùng kín là nơi lý tưởng thu hút bày muỗi và ruồi vàng nhiều vô kể. Tất cả đã khiến cho cơ thể nhiễm các cơn sốt làm mỏi mệt và tàn tạ dần dần.

Họ luôn sống trong một thế giới bị đe dọa bởi thiên nhiên và sự đe dọa từ trên trời.

Không được thuốc men, không được thường xuyên tắm rửa, các vùng kín như háng, nách, kẽ bàn tay, ngay cả đầu vú trở thành chỗ cho các nấm mọc. Các vùng ẩm ướt   bị quấy rầy bởi đủ thứ bệnh ngoài da dần dần ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và tinh thần của các chiến binh.

Lãnh đạo Hà Nội “lo ngại”, nhưng những người lãnh đạo quân đội ở Hà Nội chỉ biết gửi thuốc đỏ để gửi cho họ. Thuốc đỏ nào có thể chữa trị được các nấm, các vùng da khô cháy nứt nẻ, các bệnh đường ruột và nhất là tinh thần căng thẳng đến kiệt sức.

Cái đói gặm mòn tuổi trẻ các cô gái. Đôi khi chỉ có cháo mà ăn. Muối đường thiếu và rau tươi thì hầu như không có. Họ phải tìm kiếm hái rau rừng. Vào mùa mưa thì măng rừng mọc rất nhiều trở thành nguồn rau chủ yếu.

Vậy mà Nguyễn Văn Đệ đã viết ca tụng về: Một thời oanh liệt của TNXP ..

Nhưng riêng Dương Thu Hương- kẻ trong cuộc, người đã nếm trải nghiệm đủ và viết như thế này:

” Tôi nằm xuống ván, gối đầu lên tay, đăm đăm nhìn kèo hầm. Dọc theo kẽ nứt của cây kèo, một đàn rệp béo mọng xếp hàng nằm nghỉ. Lũ rệp thời chiến là những ông Hoàng Bà Chúa. Chúng được tự do và luôn luôn no đủ. Người ta hiến máu cho chúng một cách vui vẻ, so với lệ phí của bom đạn thì đó chỉ là những khoản thuế còm” .(27)

Trường hợp 10 cô gái ở Đồng Lộc, tỉnh Hà Tĩnh đã bị hy sinh và được tôn vinh và được ghi lại như sau : ” Ngày 24 tháng bảy 1968, sau 18 lần địch đánh phá, một loạt quả bom đã thả trúng vào hầm, mười cô gái Đồng Lộc đã hy sinh vào lúc 5 giờ chiều, trong tư thế tay vẫn còn cầm dụng cụ sản xuất “.(28)

Hậu quả là đưa đến tình trạng là có mốt trong bọn họp hoặc tự tử, hoặc đào ngũ hay mất tích.

Người ta phỏng đoán có khoảng 300.000 vừa là TNXP, vừa là cán binh bộ đội đã đào ngũ hay mất tích hoặc chấm dứt đời sống.

 Bệnh tật như kiết lỵ, sốt rét đã nhanh chóng hoàn tất cuộc đời của họ mà chưa một ngày lâm trận. Thân xác chỉ còn là những bộ xượng lụi tàn, nằm chờ chết như một niềm an ủi cuối cùng ..

Cuối cùng  là một con số không kể xiết những người tự nguyện chấm dứt cuộc đời ..

Còn nếu không tự chấm dứt cuộc đời thì nhiều TNXP trở thành điên khùng, rồ dại như Dương Thu Hương viết trong tiểu thuyết Vô Đề:

Mấy cậu sốt rét ác tính điên rồ, cởi hết áo quần ra mà nhảy múa la hét” .

Phần ông Nguyễn Văn Đệ, trong Một thời oanh liệt của TNXP nhắc đến một tình huống dẫn đến Hội chứng sau đây:

“Có khi chị em đang xúm lại đọc một lá thư của gia đình gửi đến, bỗng một người xúc động khóc nấc lên, thế là cả tiểu đội, đại đội như có sự phản ứng kích động dây chuyền tất cả  đều la hét khóc toáng lên và cứ thế lan từ đại đội này sang đại đội kia. Họ khóc, họ kêu, họ chạy, họ nhảy, thậm chí trèo lên cây nói cười lảm nhảm hàng tiếng đồng hồ”.

Đó là hiện tượng cuồng điên tập thể . Võ Thị Hảo sau này đã viết truyện: Người xót lại của rừng cười ..

Sau chiến tranh, họ trở về  trong thân thể úa tàn, khô héo, da dẻ nhăn nhẻo, bệnh tật..và khuyết tập trong một tâm hồn đã đánh  mất tuổi thanh xuân và tuổi trẻ.

75% phần trăm số họ quay trở về nghề nông vì không có học thức, không có ngành nghề. và kéo lê cuộc sống không chồng, không nhà, không con, không chế độ và  sống đời sông độc thân vì không người đàn ông nào đoái hoài đến họ.

Vấn đề quan trọng nhất là giúp họ phục hồi lại nữ tính đã bị đánh mất trong những năm tháng trên đường Trường Sơn.

Nhưng đánh mất tuổi trẻ thì lấy gì phục hồi lại?

Nhưng ai cũng hiểu rằng điều đó chẳng bao giờ có cơ thực hiện nổi vì chế độ nay chẳng bao giờ quan tâm đủ đến họ.

Những chứng từ liên quan đến số phận các cô gái TNXP

Những phần viết sau đây hãy để cho họ cất lên tiếng nói- tiếng nói không hận oán- mà làm xao động lòng người. Trong cuộc chiến giữa đôi bên này, hãy khoan nói đến điều gì lý tưởng.

* Tiếng nói của Vụ Thi Vinh (29)

Cô là đại diện một trong số trên 10 ngàn TNXP tình nguyện đi công tác ở đường Trường Sơn. Trường Sơn làm nên cuộc đời cô. Cô đã nghĩ như thế. Đoàn của  chị Vinh được thành lập vào năm 1956. Nhiệm vụ của cô và các bạn là chặt cây, mở đường, làm đường và lấp đầy các hố bom và nguy hiểm hơn nữa làm nổ các quả bom đã rơi xuống mà chưa nổ.

Theo Vinh, chặt và đốn các cây rừng là một việc thập phần gian nan, vượt sức người (superhuman task). Trong trường hợp gặp cây lớn quá không cưa nổi, chúng tôi phải cho nổ mìn. Phải cần 20 người mới có thể cưa và chuyển dịch một cái cây lớn sang bên cạnh đường.

Tất cả đều làm bằng tay !!!

Phần lớn thì giờ làm việc là vào ban đêm. Ban ngày ngủ. Nhưng khi công việc khẩn cấp thì phải làm cả đêm lẫn ngày như lấp hố bom lại ..

Chẳng cần phải nói thì đời sống trong rừng là cực kỳ gian nan và vất vả . . Khi thiếu gạo thì phải tìm bất cứ cái gì có thể ăn được cho đỡ đói

*  Tiếng kêu của Nguyễn Thị Kim Chủy: We came home hairless with ghostly white eyes

Khi chúng tôi được trở về với gia đình thì đầu tôi đã rụng hết tóc và tròng mắt sâu hóm, trắng dã ..

Tôi đã tình nguyện đi lên Trường Sơn và đã ở đó trong 4 năm. Chúng tôi làm việc ở Quảng Bình, cửa ngõ đi vào Trường Sơn .. Chúng tôi hứng chịu nhiều bom đến độ có thể phân biệt được các loại bom qua tiếng nổ của nó.

Một lần, chỉ trong một ngày, chúng tôi hứng chịu 7 trận bom. Và thế là chúng tôi phải làm ngày, làm đêm để lấp các hố bom ..Người đội trưởng của tôi sai tôi đi xem xét nhóm TNXP khác ở cách chỗ chúng tôi làm khoảng 100 mét. Khi tôi gần đên chỗ họ thì tôi trông thấy những quả  bom đang rơi xuống trúng vào hầm tránh bom của đám bạn. Có 5 người thì 4 người chết, xác không toàn thây, không nhận diện được. Họ chỉ còn là một đống da thịt bầy nhầy. Chỉ có một người còn có thể nhận ra diện mạo. Cạnh đó có một bà chắc là đại diện chính quyền địa phương đến thăm chúng tôi. Bà cũng bị chết thảm trên tay bà còn nắm chặt một đứa bé khoảng hai tuổi. Chúng tôi đành chôn chung cả hai mẹ con.

Sau khi chôn cất mấy người xong .. Chúng tôi còn lại hai hố bom phải lấp .. Chúng tôi tiếp tục làm việc như thể không có việc gì xảy ra cả.

Khi còn ở nhà, tôi chưa hề bao giờ thức đêm cả. Nay công việc đòi hỏi phải làm ban đêm. Tôi mất ngủ và nhiều khi ngủ đứng, vừa đi vừa ngủ. Một lần, tôi ngủ như thê và ngã chúi vào một bụi cây, họ phải đến kéo tôi ra.

Sau chiến tranh tôi trở về quê ở ngoại ô Hà Nội. Tôi bị mắc bệnh sốt rét ngã nước như phần đông các đồng chí khác. Đầu rụng hết tóc, da bủng, đau nhức khớp xương. Và nhiều phụ nữ khác tuyệt đường sinh đẻ .

Tôi có người bạn trai ở cùng xóm, tôi biết rằng mình không còn đủ năng lục sức khỏe để lập gia đình, tôi đành xin chia tay anh .. Tôi rất buồn và đau khổ bởi vì nhà anh ở không cách xa nhà tôi lắm.

Nay, tôi chỉ cân nặng có 37 kí lô ..Tôi đã xin chị tôi một đứa con và nhận nó làm con nuôi .(30)

* Làng không chồng ở Tiên Hà

Riêng miền Nam thì kế thừa 200.000 con số do Hà Nội đưa ra gái mãi dâm mà miền Bắc không nhận. Cộng thêm một triệu quân nhân rã ngũ như những kẻ sống bên lề xã hội. Những vết thương chiến tranh đó chả bao giờ lành, nhất là trường hợp những sĩ quan bị đi học tập cải tạo nhiều năm. Đúng như lời viên chủ nhiệm báo Nhân Dân nói với Christine Pelzer White: “The war lasted thirty years, but it will take another twenty years before we will be able to overcome the legacy the problems it has left.” (Trích Christine Pelzer White, Interview with Nguyen Huu Tho, Journal of contemporary Asia, 1981, trang 130)

Mất mát đã là nhiều. Nhất là về mặt đạo đức, xã hội thì di sản để lại là khôn lường. Không tính bằng tiền được. Cũng không tính bằng con số được. Tang tóc khổ đau không lấy gì đo đếm được.

Người Mỹ đã dở sang trang khác. Nhiều người đã quên, nhất là những người làm chính trị.

Nhưng về phía người Việt nói chung. Mặc dầu giấy đã ngả màu, sờn rách. Họ không làm cách nào khác được nên vẫn dở đi, dở lại trang sách cũ. Chuyện cũ vẫn như nắm tro chấu ủ, âm ỉ và đôi lúc lại bùng cháy.

Có thể họ sẽ chẳng bao giờ quên, vì chính cái quá khứ ấy đã làm nên cuộc đời họ.

Nhưng những cơ may hàn gắn vết thương chiến tranh và phục hồi xứ sở lại do chính những người cộng sản đương quyền bỏ lỡ dịp may.
Ai đã nghĩ tới số phận những người này sau chiến tranh? Và nhất là số phận những tử sĩ và thương binh VNCH còn kẹt lại. Họ đã sống lê lất, vất vưởng bên lề một xã hội coi con người như cỏ rác.

Tương lại đã khép kín trước mặt họ và không một lối thoát nào mở ra cho họ.

Phần người Mỹ, tính đổ đồng có 2.8 lượt lính Mỹ đã từng chiến đấu ở VN trong hạn một năm. Nhưng nếu tính  binh lính và thủy thủ trên các Hàng Không mẫu hạm, trên các căn cứ quân sự hậu cần tại Thái Lan, Phi Luật Tân, đảo Guam thì ta phải cộng thêm 1. 2 triệu  nhân sự nữa.

Họ đã tìm đủ sách lược, bằng đủ mọi vũ khi thí nghiệm để Get in vào VN .. Như  xe bọc sắt M.113, súng cá nhân M.16, phản lực cơ Ạ.37, pháo đài bay B.52. Máy bay chuyên chở  C.119, C.130 và C.123. Rồi những Chopper H. 34, UH.I, Chinook. Một thứ Overwhelming fire power và họ đã hãnh diện về điều đó. Nhưng rõ ràng cho thấy rằng vũ khí chưa đủ trong cuộc chiến này

Quả thực cuộc chiến này không thể chỉ dựa trên sức mạnh quân sự và việc đếm xác chết mà thôi.

Mặc dầu vậy, người Mỹ, họ cũng đã đến chết ở đây.. Họ đã hy sinh xương máu và tuổi trẻ cho một lý tưởng VN độc lập, tự do và dân chủ .

Nhưng chỗ chôn họ lại ở một nơi nào khác. Họ có thể hy sinh, nhưng chỗ họ về để được tưởng nhớ thì lại ở một nơi nào đó trên nước Mỹ khác hẳn những người Pháp chết trong chiến tranh 1945-1954.

Người Pháp hy sinh ở đâu thì chôn ở đó.

Vì thế, ngày nay, không còn một dấu tích gì của người Mỹ trên mảnh đất miền Nam, dù chỉ là một tấm bia tưởng niệm.

Về thiệt hại vậtt chất thì 25 triệu mẫu đất trồng trọt bị bỏ hoang cầy xới lên vì bom đạn. Và phải mất bao nhiêu thời gian để lấy lên hết những tấn thuốc nổ nằm dấu đưới mặt đất? 12 triệu mẫu rừng bị tàn phá do 19 triệu tấn thuốc khai quang trải xuống. Chỉ nội B-52 thôi đã có 5000 lần xuất trận rải bom xuống An Lộc và Quảng Trị nhằm tiêu diệt quân đội Bắc Việt. Bà Marilyn B. Young viết tóm gọn trong The Viet Nam wars 1945-1990, trang 235, một câu: Nothing was left standing. Không còn thứ gì có thể tồn tại được nữa.

Đấy mới chỉ là nói thiệt hại về của.

Riêng người Mỹ, mỗi năm, họ bỏ ra từ 11 đến 17 tỉ mỹ kim chi phí cho chiến tranh Việt Nam, vào thập niên 1960, sau này cứ thế leo thang lên đến trên 20 chục tỉ, chiếm tỉ lệ 3% ngân sách. Nhưng vẫn không nhằm nhò gì khi họ phải chi ra 48% ngân sách cho chiến tranh thế giới thứ hai và 12% cho chiến tranh Triều Tiên.

9000 máy bay đủ loại bị bắn hạ trên chiến trường hai miền Nam- Bắc và Miên Lào. Riêng máy bay B-52, có 15 chiếc bị bắn hạ ở miền Bắc.

Về người thì có 879.000 trẻ mồ côi, 181.000 người bị thương tật, một triệu đàn bà góa. Nhưng dù sao, đây vẫn chỉ là những con số không nói lên được điều gì.

Riêng miền Nam thì kế thừa 200.000( con số do Hà Nội đưa ra) gái mãi dâm mà miền Bắc không nhận. Cộng thêm một triệu quân nhân rã ngũ như những kẻ sống bên lề xã hội. Những vết thương chiến tranh đó chả bao giờ lành, nhất là trường hợp những sĩ quan bị đi học tập cải tạo nhiều năm. Đúng như lời viên chủ nhiệm báo Nhân Dân nói với Christine Pelzer White: “The war lasted thirty years, but it will take another twenty years before we will be able to overcome the legacy the problems it has left.” (Trích Christine Pelzer White, Interview with Nguyen Huu Tho, Journal of contemporary Asia, 1981, trang 130)

Mất mát đã là nhiều. Nhất là về mặt đạo đức, xã hội thì di sản để lại là khôn lường. Không tính bằng tiền được. Cũng không tính bằng con số được. Tang tóc khổ đau không lấy gì đo đếm được.

Người Mỹ đã dở sang trang khác. Nhiều người đã quên, nhất là những người làm chính trị.

Nhưng về phía người Việt nói chung. Mặc dầu giấy đã ngả màu, sờn rách. Họ không làm cách nào khác được nên vẫn dở đi, dở lại trang sách cũ. Chuyện cũ vẫn như nắm tro chấu ủ, âm ỉ và đôi lúc lại bùng cháy.

Có thể họ sẽ chẳng bao giờ quên, vì chính cái quá khứ ấy đã làm nên cuộc đời họ. Ngoài những hoang tàn đổ vỡ do chiến tranh để lại, cạnh đó còn có một để lại rất quan trọng của người Mỹ và chính phủ VNCH sau 1975 mà cho đến nay ít người nhắc tới.

Những để lại như quà tặng

Cuộc chiến này rất là không bình thường. Không bình thường ngay cả khi rút lui. Có thể nói người Mỹ đã để lại toàn bộ tất cả những gì mang vào Việt Nam. Một sự để lại có chủ đích và có chiến lược? Vì thế, gần như toàn bộ cơ sở guồng máy chiến tranh của Mỹ còn nguyên vẹn đã được sang tay. (Trừ những máy bay F5 được yêu cầu bay sang Phi Luật Tân hoặc Thái Lan)

Một sự để lại làm chính những kẻ chiến thắng ngạc nhiên và thích thú. Trần Bạch Đằng, kẻ chiến thắng nay thừa hưởng tất cả những gì kẻ bại trận để lại. Ông ngồi trên xe hơi Mercedès-Benz do kẻ thua trận để lại, có tài xế lái. Chỉ có một điều khác biệt là nay có thêm điện thoại cầm tay. Ông ở một ngôi biệt thự gần tòa đại sứ Mỹ trước đây nay là cơ quan của tổng công ty dầu khí. Có hàng trăm ngàn căn nhà đủ loại để lại cho kẻ chiến thắng. Và họ thừa hưởng nguồn lợi từ những căn nhà đó mà có thể không cần phải tham nhũng. Đường bà Huyện Thanh Quan là nơi mà các quan chức lớn chiếm ngụ. Như nhà của cựu phó thủ tướng Vũ Đình Liệu, đối diện bên kia đường về phía tay phải là nhà của ông thủ tướng Dũng.

Ông Trần Bạch Đằng nói với ký giả Peter T. White như sau:

Trần Bạch Đằng
Nguồn: Vietnamnetvn

“The Amrericans left us a very good infrastructure, roads, bridges, a wonderful airport,” he says “Only now does Thailand have the infrastructure we had”. But it’s all gone to pot. “Our machines are rusty or gone, those with high skill in management and production have gone away. Now we must bring in Filipinos to help us train air controllers! Before, the Philipinos were trained by Vietnamese…”

(Trích Viet Nam, Hard to road to peace, Peter T. White, trong National geographic, trang 616)

Có thể vì thiếu chuyên viên không lưu ở phi trường Tân Sơn Nhất nên mãi đến ngày thứ ba 10/06/1975, đại sứ Pháp Merillon mới có chuyến bay thứ ba từ nước ngoài chở theo viên đại sứ và một số nhà ngoại giao còn sót lại.

Văn Tiến Dũng trong Đại thắng mùa xuân nhắc lại cái cảm tưởng của ông khi lái xe trên đường phố Sài Gòn, trên những đường phố lớn với những căn nhà và kho hàng rộng rãi. Những nhà băng, những tiền Đô la Mỹ, những khách sạn, những cửa hàng đồ sộ nối đuôi nhau như thể không ngừng.

Họ ngạc nhiên là phải. Để xây dựng bộ máy chiến tranh với con số nửa triệu quân Mỹ ở Việt Nam. Người Mỹ cần xây dựng các cơ sở hậu cần như kho chúa hàng, bến cảng cho tầu cập bến, phi trường tối tân cho các máy bay hạng nặng có thể đáp xuống, các căn cứ quân sự như Long Bình, Cam Ranh, v.v…

Không thể mở rộng cuộc chiến tranh quy mô nếu đường xá không đủ, doanh trại, kho hàng sân bay thiếu. Năm 1965, khi số lượng quân Mỹ vào Việt Nam gia tăng lên 184.000 binh lính. Hơn 120 con tàu chở đủ loại thiết bị chiến tranh phải nằm thả neo ở ngoài bến cảng Sài Gòn nằm chờ dỡ hàng trong nhiều tháng

Vì thế, chính quyền Mỹ đã quyết định ký các hợp đồng với các hãng như tập đoàn, tổ hợp RMK.BRG mà nhiều người Việt Nam, khoảng 11.000 người đã là nhân viên của tổ hợp này. Tổ hợp này đã nhận những hợp đồng xây cất lên đến 670 triệu đô la.

Cộng chung các căn cứ Long Bình, bến Tân cảng, phi trường Tân Sơn Nhất với các căn cứ quân sư như Cam Ranh, Đà Nẵng đã tiêu tốn một số tiền là 790 đô la khi hoàn thành.

Năm dự án vừa kể trên, dầu vậy cũng chỉ chiếm chưa đầy một nửa tổng số chi phí xây dựng mà Mỹ xây dựng để tiến hành chiến tranh ở Việt Nam. Vì vậy, cho đến khi mãn hạn hợp đồng, Viet Nam Builders (RMK-BRG đổi tên) đã đầu tư gần 2 tỉ đô la trải dài khắp miền Nam.

Kể từ đó, họ đã biến miền Nam thành một nơi có thể đủ sức tiếp tế với các cơ sở hậu cần để có thể chấp nhận 536.000 lính Mỹ vào cuối năm 1968. (Trích bài Kỳ tích xây dựng của Thập kỷ, tiến sĩ James M. Carter, BBC, 02/12/2008)

Tất cả những cơ cấu xây dựng hạ tầng trên nay để lại toàn bộ cho cộng sản vào tháng tư, 1975.

Văn Tiến Dũng còn ngạc nhiên không ít khi đến bộ Tông Tham Mưu quân lực VNCH với hệ thống máy vi tính hiện đại, tồn trữ đầy đủ danh bạ toàn thể sĩ quan và binh sĩ VNCH hàng triệu người, vẫn còn hoạt động. Tổng nha Cảnh sát quốc gia cũng còn để lại các hồ sơ cảnh sát mà nhiều hồ sơ có thể di hại cho những vị sĩ quan còn ở lại miền Nam.

Cộng sản sau này còn tiết lộ cho biết sau khi tiếp thu dinh Độc Lâp, họ thu tập được toàn bộ một tập hồ sơ mật, trong đó có 27 lá thư của TT Nixon gửi TT Nguyễn Văn Thiệu.

Ông Nguyễn Tiến Hưng trong The Palace File đã cho đăng lại toàn bộ những lá thư ấy, cộng thêm những lá thư của TT Ford với những lời chú thích viết tay của ông Thiệu với lời giới thiệu như sau:

T.T. Nguyễn văn Thiệu
Nguồn: vtc.vn

“The Palace File of letters, messages and proposals exchanged among President Richard M. Nixon, President Gerald R. Ford and President Nguyen Van Thieu from decmber 31, 1971 to March 22, 1975 was maintained by Thieu in his bedroom in the Independence Palace. The File is reproduced as Nguyen Tien Hung carried it from Saigon in 1975. There are 31 numbered letters from President Nixon to Thi, in which four are duplicates…

Hung did not imagine he would need copies of President Thieu’s letters to Nixon and Ford in his final appeal to The Congres, so he left them behind in the Palace, where they were captured by the North VietNamese. Some of the letter has been released by them, but Appendix A constitutes the full file Thieu personally guarded and entrusted to Hung. All the handwritten notes and marks were Thieu’s…

Tôi nghĩ đến điều này nhiều lắm và không thể trách người Mỹ được. Tôi tự hỏi tướng Kỳ mang theo được gì, tướng Cao Văn Viên, tướng Trần Thiện Khiêm và các ông Tổng bộ trưởng?

Trừ các cơ quan lệ thuộc Mỹ đã có kế hoạch di chuyển hoặc đốt bỏ các hồ sơ mật. Theo Vũ Quang Ninh, Giám Đốc đài phát thanh Tự Do của Mỹ, đài phát tuyến đặt tại Cồn Tề, cửa bể Thuận An có một đại đội địa phương giữ an ninh. Đài có 2 máy với công xuất cực mạnh 100 KHz. Đài có 8 tiếng phát thanh bằng tiếng Hoa, tiếng Pháp thì do Thanh Lan đọc, tiếng Mỹ do người Mỹ đọc. Vào ngày 22/03/75, người ta đã chuyển các máy móc của đài vào Sài Gòn tại số 7 Hồng Thập Tự. Riêng đài mẹ Việt Nam thiết lập năm 1972 thì còn nguyên vẹn, không kịp tháo gỡ. Các nhân viên trực thuộc đều được đưa trước ra đảo Phú Quốc.

Riêng ông Vũ Quang Ninh được tòa đại sứ Hoa Kỳ đưa vào tòa đại sứ Mỹ và rời Việt Nam ngày 29/04/1975.

Chỉ có toà Khâm sứ, do thư ký lúc bấy giờ là Đức ông Thụ, đã đóng thùng các hồ sơ và gửi về Roma, Ý gần một tháng trước khi mất miền Nam.

Chúng ta đã mất Sài Gòn. Nhưng là một Sài Gòn nguyên vẹn, nhìều khi đến vô trách nhiệm, trao cho lại cho chính quyền mới. Nhiều chỉ huy các cơ quan sau này đã trao trọn gói nhân sự, tổ chức, quyền hành cho những người đại diện đến từ miền Bắc và guồng máy hành chánh có thể hoạt động gần như bình thường.

Vì thế, không lạ gì, những đám cưới tổ chức sau 1975, người ta vẫn nhìn thấy những chiếc xe du lịch Plymouth Belvedere, đời 1958, mầu đỏ dài thòng của Mỹ. Bên cạnh chiếc xe Hoa kỳ là bảng hiệu chào mừng: Chào mừng ngày nhà giáo 20/01. Dinh Độc Lập chỉ bị hư cái cổng chính ra vào vì bị xe tăng cán xập. Cùng lắm, có một thay đổi nhỏ – thay lá cờ Quốc Gia bằng lá cờ MTGPMN trên nóc dinh Độc Lập. Hồ sơ, sổ sách trong dinh chắc còn nguyên vẹn. Thư từ tối mật còn để lại thì thứ gí được mang đi. Trừ những số tiền không biết là bao nhiêu đã được mang theo với ông Thiệu mà Frank Snepp đã nhận xét một cách có hậu ý: Khi di chuyển những chiếc valise lên máy bay, những chiếc valise nặng chĩu, nghe có tiếng lục cục, lạc cạc do sự va chạm của kim khí bên trong.

Khách sạn Majestic vẫn còn đó, nhưng khách hàng lúc bấy giờ là những người Liên Xô và từ các nước XHCN. Camp David của Mỹ cạnh trung tâm sân bay Tân Sơn Nhứt chỉ một chút tróc nóc nhỏ.

Căn cứ Cam Ranh, xây dựng từ tháng tư, 1967, được giao lại cho quân đội VNCH năm 1973, một tactical fighter base còn đó. Cộng sản chiếm miền Nam năm 1975. Và 4 năm sau, 1979, chính quyền cộng sản thỏa thuận cho Hải quân Sô Viết xử dụng Căn cứ Cam Ranh trong thời hạn 25 năm.

Xa lộ Biên Hòa còn đó.

Kết luận

Viết bài này nhắc nhở tôi đến một cuốn sách dịch cách đây gần nửa thế kỷ, cuốn Chúa đã khước từ. Truyện của Richard E. Kim, bản dịch của Lê Khắc Cầm.

Cuốn truyện nhắc nhở câu truyện một đơn vị quân đội Mỹ đóng tại Hán Thành (Seoul). Sự có mặt của quân đội Mỹ lúc bấy giờ là một phao cứu an toàn cho đám dân Thiên Chúa giáo tin tưởng và ăn mừng ca hát về ngày chiến thắng. Nhưng chỉ trong vòng một đêm, cả đội quân Mỹ hùng mạnh đã không báo trước rút đi một cách thầm lặng, để lại đám dân chúng tán loạn và mất tinh thần.

Đó là một kinh nghiệm đau thương về chiến tranh.

Nhưng kinh nghiệm đó được diễn tả lại trong câu truyện phải chăng là một lời cảnh báo cho bất cứ ai còn muốn đem vận mạng đất nước mình vào sự cam kết của người Mỹ ở Việt Nam.

Quả thực khi cần rút lui, họ có vô số gìải pháp như Việt Nam hóa chiến tranh. Và Hiệp định Ba Lê hoàn toàn không chấp nhận được. Ông Thiệu có lý để không chấp nhận Hiệp Định ấy, vì đó là cái thòng lọng treo cổ.

Chẳng hạn điều kiện rút quân thì Mỹ phải rút quân, còn quân đội của Bắc Việt thì không cần rút như Nixon giải thích trong No more Viet Nams, trang 152-153

“We knew there was no way to force them to concede this point (to maintain their troups in South Viet Nam). It is an axiom of diplomacy that one can win in the conference table what one could win on the battlefield… If we had stood firm in demanding North Vietnam’s withdrawal, there would have been no peace agreement by october 31.”

Để đạt được thỏa ước, Nixon không có con đường nào khác là hù dọa Bắc Việt và trấn an ông Thiệu bằng cách Nói dối. Ellsberg dành một chương trong cuốn sách của ông, điều mà ông gọi là “A lying machine”…

Cuộc chiến này đã bắt đầu như thế và đã chấm dứt như vậy ngoài mọi sự quyết định của người Việt Nam.

Điều mà chúng ta mong muốn là: No more Viet Nam.

  1. Xem thêm loạt tài liệu Wilson Center, trên web anhbasam.
  2. Trích Bùi Tín, Hoa xuyên tuyết, trang 3
  3. Trích Sơn Nam, Đồng Bằng sông Cửu Long, Nét sin h hoạt xưa, trang 36-37
  4. Cùng thời với Nhật ký Đặng Thùy Trâm còn có cuốn : Mãi mãi tuổi hai mươi, Nguyễn Văn Thạc, nxb Thanh niên. NVT, sinh viên trường Đại Học tổng hợp, Hà Nội. Trong một lá thư gửi cho gia đình, Thạc viết:” Đơn vị con toàn sinh viên và cán bộ giảng dạy. Hình như có cả một sư đoàn sinh viên. Trường Tổng Hợp đi hơn 300 người, chia thành 3 đại đội. Con nghe nói sắp lấy thêm một số nữa(khoảng 3 trung đội) ở trường và tháng 11-1971, lại tiếp tục thêm một đợt..”
  5. Trích Oriana Fallaci, La vie, la guerre et puis Fien.. trang 163
  6. Đỗ Hoàng Diệu gửi truyện ngắn đầu tay ra Hải ngoại là chuyện Tình chuột, đăng trên Hợp Lưu số 74. Truyện ngắn Tình Chuột đã xác định được phong cách nhà văn của  ĐHD. Nhưng đến Bóng Đè thì cô dứt khoát đươc xếp vào thế hệ các nhà văn sau  Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài.
  7. Trích Bóng Đè,  Đỗ Hoàng Diệu, trang 8
  8. Trích Trui rèn trong lửa đỏ, Thành đoàn TNCS thành phố Hồ Chí |Minh, trang 110
  9. Trích Phan Nhật Nam, Dọc đường số 1, trang 11 và Đứa bé ở Đông Hà trang 148-149
  10. Phan Nhật Nam, Mùa hè đỏ lửa, trang 7
  11. Phan Nhật Nam, Mùa hè đỏ lửa, trang  173
  12. Trích Phan Nhật Nam,  Mùa hè đỏ lửa,  trang 130
  13. Trích Xuân Vũ, Đường Đi không đến, trang 95 và trang 337
  14. Trích Những năm sáu mươi, Thơ, Nguyên Sa, nxb Trình Bày
  15. Trích Bài thơ Thân tín đời của Tô Đình Sự, anh TĐS làm trước khi chết được in lại trong tạp chí Đi Tới, số 82 Bô mới, tháng 4,5,6/2005)
  16. Trích Đi Tới Ibid
  17. Miền Nam trong thời kỳ chiến tranh, công trình sưu tập của Trần Hoài Thư.
  18. Nhưng tự nó trong chiến tranh là một điều phi lý rồi . Không ai muốn mất thí ` giờ tìm hiểu tại sao thế này tại sao thế kia.
  19. Trích Nguyên Sa, nhật ký Chung Sự Vụ, đăng trên tập san Trinh Bày, số 17 và tiếp theo, năm 1971
  20. Trích tài liệu Nghiã trang quân đội trên Wikipedia .
  21. Trích trong tạp chí Hành Trình, số tháng 2/1965 trong bài viết: Kinh cầu hồn cho chiến trận Điện Biên Phủ, bản dịch Nguyễn Vũ Văn.
  22. Trích Bí mật Việt Nam qua hồ sơ WIK LEAKS, Vu Quy Hao Nhiên, Người Việt xuất bản, trang 99-101
  23. Trích L’Aigle et le Dragon, Claude de Groulat, trang 293-294
  24. Trích Oriana Fallaci La vie, la guerre et puis rien …trang 241
  25. Trích L’Aigle et le Dragon, Claude de Groulat, nxb Rossel, các trang từ 246-250.
  26. Trích bài viết của  Francois Guillemot: Trực diện nỗi đau và cái chết, Trương Hòa dịch, Talawas 2010 .
  27. Dương Thu Hương, tiểu thuyết Vô Đề, Stanton, CA, Văn Nghệ, trang 68
  28. Trích bài viết của F. Guillemot : 10 cô gái Ngã ba thuộc ty Giao thông Hà Tĩnh, Anh hùng quê hương 1975.
  29. Patriots, The Viet Nam War,  Chistian G. Appy, trang  103
  30. Trích Patriots. The Viet Nam war, Christian G. Appy, tran106

 

Được xem 5 lần, bởi 5 Bạn Đọc trong ngày hôm nay