Về một danh xưng ‘Văn Học Miền Nam 1954-1975’-Trần Doãn Nho/Người Việt

Ba’o Nguoi-Viet

March 19, 2025

Trần Doãn Nho/Người Việt

KENNEDALE, Texas (NV) – Mới đây, tôi được đọc bài phỏng vấn của một nhà báo với nhà nghiên cứu văn học Trần Hoài Anh, “Văn Học Nghệ Thuật Miền Nam Trước 1975 – Bước Hòa Hợp Mới,” đề cập đến hai văn bản, một là “Đề Án 15-ĐA/BTGTW” và hai là “Nghị Định 144/2020/NĐ-CP,” liên quan đến hai lãnh vực: văn học và “nghệ thuật biểu diễn” (âm nhạc) thời Việt Nam Cộng Hòa.

Cuộc hội thảo về “Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam 1954-1975” lần đầu tiên được tổ chức tại tòa soạn nhật báo Người Việt hôm 6 Tháng Mười Hai, 2014, và tòa soạn nhật báo Việt Báo hôm 7 Tháng Mười Hai, 2014, do nhật báo Người Việt, nhật báo Việt Báo, báo mạng Tiền Vệ, báo mạng Da Màu tổ chức. Trong hình, hội thảo tại nhật báo Người Việt. (Hình: Người Việt)

Theo ông Trần Hoài Anh, qua “Đề Án 15-ĐA/BTGTW,” chính quyền Cộng Sản Việt Nam “đã có một cách nhìn mới quan trọng về văn học miền Nam trước 1975 qua việc thay đổi danh xưng.”

Trước đây, nền văn học này “bị/được gọi là bộ phận ‘văn học đô thị miền Nam’ hay ‘văn học đồi trụy, phản động,’” thì nay được chính thức được tôn vinh là “di sản văn học nghệ thuật dân tộc.” Danh xưng mới mẻ này khiến ông “vô cùng cảm kích” vì nó tránh được những “mặc cảm” và hiểu lầm không cần thiết của các nhà văn, nhà nghiên cứu, lý luận phê bình văn học đã từng sống, sáng tác ở miền Nam, trong đó có nhiều người hiện đang định cư ở hải ngoại.

Dựa theo đó, ông Trần Hoài Anh đề nghị kể từ nay, tất cả các công trình nghiên cứu, các giáo trình, sách giáo khoa trong nước nên dùng nhóm chữ “di sản văn học nghệ thuật miền Nam 1954-1975” thay vì “văn học đô thị miền Nam.” Một danh xưng như thế mới có thể đáp ứng với “nhân vị” của dòng văn học đó trong nền văn học nước nhà, theo ông.

Đối với “Nghị Định 144/2020/NĐ-CP” liên quan đến hoạt động nghệ thuật biểu diễn (tức là âm nhạc), ông Trần Hoài Anh nhận xét đây là một quyết định đúng đắn phù hợp với nhu cầu và thị hiếu thẩm mỹ của mọi tầng lớp nhân dân, từ giới bình dân” cho đến giới bác học.

Nhờ đó, theo ông, “âm nhạc miền Nam trước 1975 như được chắp thêm đôi cánh để tiếp tục lan tỏa vào đời sống,” điều mà người ta “có thể nhìn thấy qua các chương trình biểu diễn ca nhạc như: ‘Tình Khúc Vượt Thời Gian,’ ‘Những Khúc Vọng Xưa’ trên sóng của đài phát thanh và truyền hình trung ương và địa phương.”

Ông cho biết, các chương trình thi giọng hát Bolero của đài Truyền Hình Vĩnh Long, đài Truyền Hình Việt Nam với nhiều chủ đề khác nhau của các nhạc sĩ sáng tác trước 1975 như Lam Phương, Lê Dinh, Minh Kỳ, Thanh Sơn, Anh Bằng, Song Ngọc, Y Vân, Hoàng Trọng, Nguyễn Văn Đông, Tuấn Khanh, Phạm Duy, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng. Vũ Thành An, Hoàng Thi Thơ… đã thu hút nhiều người tham gia, đặc biệt là những người trẻ sinh trưởng từ sau 1975 ở các tỉnh phía Bắc. Các sáng tác của họ là nghệ thuật chân chính, và “nghệ thuật chân chính [thì] không có giới tuyến,” theo ông.

Có thể nói, những phát biểu nêu trên cũng như nhiều công trình nghiên cứu văn học khác về văn học miền Nam của ông Trần Hoài Anh vừa chính xác lại vừa có cái nhìn tích cực đối với nền văn học nghệ thuật thời Việt Nam Cộng Hòa. Ông đã nghiên cứu văn học này bằng một cái nhìn khách quan, nếu không muốn nói là đầy thiện cảm, hoàn toàn thoát hẳn ra khỏi nhãn quan thiên kiến của những nhà nghiên cứu văn học miền Bắc trước đây.

Ông cũng không đồng ý ngay cả với một danh xưng khác nghe có vẻ như khá khách quan là “văn học đô thị miền Nam” với dụng ý thay thế cho các nhóm chữ đầy tính cách bôi bác trước đây là “văn học thực dân mới,” “văn học đồi trụy.”

Có lẽ là ông đồng ý với quan điểm của Nhật Tiến, khi nhà văn này phúc đáp nhà thơ Hoàng Hưng vào Tháng Bảy, 2014, nhân khi ông được mời tham dự tiết mục viết về văn học miền Nam trên “Văn Việt,” một tạp chí mạng do các thành viên của Văn Đoàn Độc Lập trong nước điều hành.

Nhà văn Nhật Tiến khẳng định rằng không bao giờ có cái gọi là “văn học đô thị miền Nam.” Theo ông, “Trong suốt chiều dài của hơn 20 năm lịch sử Việt Nam (1954-1975), nước Việt Nam bị chia cắt thành hai quốc gia hoàn toàn khác biệt: Ở miền Bắc là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và ở miền Nam là Việt Nam Cộng Hòa, bao gồm mọi đất đai kể cả nông thôn lẫn thành thị, trải dài từ sông Bến Hải đến mũi Cà Mâu và các vùng núi non lẫn hải đảo. Trong suốt thời gian ấy, chúng tôi, các học giả, các vị trí thức, các thầy cô giáo và các văn nghệ sĩ… đã góp công tạo dựng một nền văn hóa của miền Nam trong đó có bộ phận văn học vẫn thường được gọi là ‘Văn Học Miền Nam 1954-1975.’ Không bao giờ tồn tại cái gọi là ‘văn học đô thị miền Nam’ (mà) chỉ có ‘toàn bộ ngành sáng tác văn học nghệ thuật của Việt Nam Cộng Hòa trên khắp lãnh thổ, từ nông thôn tới đô thị’ mà thôi. Vậy xin minh xác để mọi người cùng rõ.”

Tôi ghi nhận thiện chí của nhà nghiên cứu Trần Hoài Anh, nhưng theo tôi, danh xưng “di sản văn học nghệ thuật miền Nam 1954-1975” vẫn nghe có gì không ổn. Nếu bảo là di sản thì nền văn học nào trong quá khứ chẳng là di sản, kể cả cái được gọi là “văn học cách mạng” hay “văn học giải phóng.”

Thêm hai chữ “di sản” vào một nền văn học vốn đã từng bị khước từ và bôi nhọ trong một thời gian dài là không cần thiết. Vẫn còn nghe có cái gì phân biệt đối xử.

Vả lại, trong thực tế, nền văn học miền Nam chưa và không hề “chết.” Tuy bị tiêu hủy và triệt phá ở trong nước, nó vẫn được duy trì, tồn tại và thậm chí phát triển ở ngoài đất nước qua những cây bút vốn đã góp công hình thành nền văn học đó, đồng thời được nối dài bởi các thế hệ đi sau cho đến bây giờ, tạo nên nền “văn học hải ngoại” hiện nay.

Ngoài ra, không thể phủ nhận là văn học miền Nam, ở một khía cạnh nào đó, cũng ít nhiều gây ảnh hưởng vào văn học trong nước. Theo nhà thơ Hoàng Hưng, “Sự tiếp xúc với văn học miền Nam trước 1975 đã tạo bước ngoặt quyết định về khuynh hướng tư tưởng cho không ít tác giả của nền văn học ‘chính thống’ miền Bắc. Tinh thần tự do, nhân bản và cách tân của nó đã dần dần ‘tẩy rửa’ thói quen ‘tự kiểm duyệt’ và ‘phục vụ chính trị,’ giáo điều ‘hiện thực xã hội chủ nghĩa’… vốn ngấm sâu vào tâm trí của thế hệ cầm bút ‘chống Pháp chống Mỹ.’ Chắc chắn nó đã khởi hứng cho những ý tưởng thay đổi mạnh mẽ của vài nhà lãnh đạo văn nghệ cuối thập niên 1970 như Trần Độ, Nguyên Ngọc… và của nhiều cây bút thành công từ sau khi có chính sách ‘đổi mới’ cuối thập niên 1980. Hầu hết những cây bút trẻ hiện nay ở Việt Nam đang đi theo tinh thần ấy.”

Cuộc hội thảo về “Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam 1954-1975” lần đầu tiên được tổ chức tại tòa soạn nhật báo Người Việt hôm 6 Tháng Mười Hai, 2014, và tòa soạn nhật báo Việt Báo hôm 7 Tháng Mười Hai, 2014, do nhật báo Người Việt, nhật báo Việt Báo, báo mạng Tiền Vệ, báo mạng Da Màu tổ chức. Trong hình, hội thảo tại nhật báo Việt Báo. (Hình: Người Việt)

Riêng tôi, đọc các bài viết về văn học miền Nam của ông Trần Hoài Anh, tôi nhận thấy cách viết và các nhận định của ông chứng tỏ ông không hề nghiên cứu nó như một “di sản,” mà ngược lại, như một cái gì đang tồn tại, đang vận động.

Chỉ đọc qua các tựa đề, ta có thể nhận ra tính cách này, chẳng hạn như: “Khuynh hướng lý luận – phê bình văn học ảnh hưởng tư tưởng Phật Giáo ở miền Nam trước 1975,” “Nhất Linh trong sự tiếp nhận của văn học miền Nam 1954 -1975,” “Thơ Mới và sự hiện hữu trong văn học miền Nam 1954 -1975,” “Từ lý luận – phê bình văn học miền Nam trước 1975 nghĩ về sự đổi mới lý luận – phê bình văn học dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa,” “Quốc văn trung học đệ nhị cấp ở miền Nam trước 1975,” “Bùi Giáng trong cái nhìn của các nhà phê bình văn học ở miền Nam trước 1975”…

Đi xa hơn, ông còn cho nó là một nền văn học “không vĩ tuyến:” “Rõ ràng qua những tư liệu này có thể xác quyết trong giai đoạn 1954-1975, cho dẫu đất nước bị chia cắt bởi vĩ tuyến 17, nhưng trong văn học miền Nam hình như không có ‘vĩ tuyến’ đó. (…) Đây là một vấn đề cần được khẳng định trong văn học miền Nam 1954-1975 mà dường như lâu nay đã bị ‘chôn vùi’ bởi những định kiến thiển cận về văn học miền Nam ở một thời không xa khi cho rằng, đây là bộ phận văn học ‘đồi trụy’ ‘phản động’ mà không thấy được ‘Tinh hoa của văn học dân tộc’ vẫn tiềm ẩn trong bộ phần văn học này.”

Theo tôi, danh xưng duy nhất chính xác, khách quan và đơn giản nhất để chỉ nền văn học này là “Văn Học Miền Nam 1954-1975,” nhóm chữ mà chúng tôi thường dùng và chính Trần Hoài Anh cũng lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần trong các bài viết của ông. Không cần vinh danh, không cần nghị định, không cần đề án, văn học miền Nam là văn học dân tộc, là văn học Việt Nam.

Không thể khác! (Trần Doãn Nho) [qd]

Được xem 4 lần, bởi 4 Bạn Đọc trong ngày hôm nay