TUYÊN BỐ VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO QUỐC GIA VIỆT NAM CỦA CÔNG DÂN VÀ CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ VIỆT NAM

From facebook:   Hoa Kim Ngo‘s post.
 
Image may contain: 9 people, crowd and outdoor

Hoa Kim Ngo with Paul Trần Minh Nhật and 8 others.

 

ĐỢT 3 ĐÃ CÓ 10 TỔ CHỨC VÀ 248 NGƯỜI KÝ TÊN . ĐÃ DỊCH RA 4 NGÔN NGỮ: ANH – PHÁP – TRUNG QUỐC- ĐỨC.

*Xin ký tên ủng hộ bản Tuyên bố này qua địa chỉ biendongtuyenb[email protected].

TUYÊN BỐ VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO QUỐC GIA VIỆT NAM
CỦA CÔNG DÂN VÀ CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ VIỆT NAM (dịch sang các tiếng Anh, Pháp, Trung và Đức; cập nhật đợt 3: 10 tổ chức, 248 cá nhân ký tên)

Ngày 27 tháng 6 năm 2017

Lần đầu tiên, một lãnh đạo Trung Quốc sang Việt Nam – tướng Phạm Trường Long – đã tuyên bố công khai, trực tiếp với lãnh đạo Việt Nam, rằng “vùng lãnh hải Biển Đông là thuộc chủ quyền Trung Quốc từ thời cổ đại”, điều mà Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã phát biểu tại Singapore sau khi rời Việt Nam, mà không dám nói khi còn ở Việt Nam. 

Phạm Trường Long, đại diện lập trường bành trướng của Trung Quốc, đã tiến thêm một bước khiêu khích mới, đe dọa chủ quyền Việt Nam, đồng thời Trung Quốc tiến hành manh động gây hấn ở lãnh hải và một số điểm trên đất liền của Việt Nam.
Dù yêu chuộng hòa bình hữu nghị, và đã từng trải qua chiến tranh, nhân dân Việt Nam không sợ hãi và kiên quyết chống lại cuộc xâm lấn của nhà cầm quyền Bắc Kinh, như đã từng thể hiện qua lịch sử mấy ngàn năm chống giặc Tàu xâm lược. 
Chúng tôi, các công dân Việt Nam và các hội đoàn xã hội dân sự Việt Nam, long trọng tuyên bố:

1) Phản bác và lên án các hành vi xâm lược lãnh hải, lãnh thổ Việt Nam của nhà cầm quyền Bắc Kinh đang diễn ra. Dù bất cứ tình huống nào, sự đánh trả của nhân dân Việt Nam để bảo vệ đất nước là tất yếu. 

2) Nhân dân Việt Nam đồng lòng, đoàn kết, gác bỏ mọi khác biệt và ủng hộ tất cả các Nhà nước của Quốc gia Việt Nam ở mọi thời kỳ, trong cùng lập trường bảo vệ chủ quyền quốc gia, chống mọi hành động xâm lược. 

– Tại Hội nghị quốc tế San Francisco – Mỹ, 1951, Thủ tướng Chính phủ Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu đã khẳng định quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa thuộc Việt Nam, và được hội nghị công nhận. 

– Chính phủ VNCH (Miền Nam), 1974, đã chiến đấu quyết liệt chống quân Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa, tuy thất bại nhưng tinh thần không khuất phục. 

– Chính phủ CHXHCN Việt Nam, sau khi thống nhất đất nước, dưới thời Tổng Bí thư Lê Duẩn 1979 đã tiến hành cuộc đánh trả oanh liệt cuộc xâm lăng 6 tỉnh miền Bắc Việt Nam. Tuy Việt Nam chưa giành lại được 6 đảo ở Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa còn bị Bắc Kinh chiếm đóng, nhưng năm 2011 trước Quốc hội Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt Nam về Hoàng Sa và Trường Sa.

Chính phủ Việt Nam cũng có những tuyên bố khác có nội dung thống nhất như trên. Và Quốc hội Việt Nam đã công khai thừa nhận là Việt Nam chưa hoàn thành nhiệm vụ lịch sử khôi phục sự toàn vẹn lãnh thổ.

Lập trường của nhân dân Việt Nam và sự nhất quán của các Chính phủ của Quốc gia Việt Nam đã rõ ràng trong suốt chiều dài lịch sử. Tham vọng ngông cuồng, lạc thời đại của bè lũ Bành trướng Tập Cận Bình – Phạm Trường Long không tránh khỏi sự thất bại thảm hại.

3) Nhân dân Việt Nam luôn ghi nhận và tri ân các thế hệ quân đội thuộc các thời kỳ, đã chiến đấu và hy sinh vì Tổ quốc, để chống các loại giặc ngoại xâm bất cứ từ đâu đến và dưới màu sắc nào. 

4) Cải thiện nội trị là điều khẩn thiết để có nội lực hùng mạnh bảo vệ Tổ quốc chống ngoại xâm. Các tầng lớp nhân dân đang phấn khích, ủng hộ và theo dõi xu thế làm trong sạch bộ máy nhà nước, và cải tổ về mọi lãnh vực: kinh tế, y tế, giáo dục, quốc phòng, tư pháp. Đặc biệt, canh tân quân đội, từ bỏ sự sa đà vào lợi ích nhóm bất chính, chấn chỉnh hệ thống hành chánh quan liêu, diệt trừ tham nhũng. Và quan trọng hơn hết là từ bỏ hệ tư tưởng lạc hậu ảo tưởng, sửa Điều 4 Hiến pháp nhằm hiệu chính vai trò của Quốc hội, tăng cường sức mạnh đoàn kết của nhân dân, thực thi nền dân chủ cho kịp đà tiến của thời đại. 

Tổ quốc là trên hết, gác lại quá khứ, chấp nhận khác biệt. 

Chúng tôi kêu gọi các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội dân sự, các thành viên trong bộ máy nhà nước, cùng đồng bào Việt Nam ở nước ngoài, ủng hộ tuyên bố này.
Chúng tôi kêu gọi nhân dân các nước ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa, bảo vệ chủ quyền quốc gia Việt Nam theo công ước quốc tế, góp phần bảo dưỡng môi trường tài nguyên vùng biển, đảm bảo tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông.

Xin ký tên ủng hộ bản Tuyên bố này qua địa chỉ [email protected].

Chinese version
越南公民及民间组织关于越南水域与岛屿主权之声明
胡志明市六月27/6/2017

日前,中国共产党中央军事委员会副主席范长龙访问越南时竟对河内越南领导人发表如下声明:“南中国海诸岛自古以来属于中国”。即使是中国国家主席习近平也不敢在越南如此造次,他是在离开我国后于新加坡才发表了类似言论。
作为中国霸权主义的代表之一,范长龙在挑衅和威胁越南主权方面迈出新的危险的一步。与此同时,中国正在蓄谋攻击越南大陆架部分地区和越南部分国土。
即使历经诸次战争,但依旧热爱和平与友谊!不过,越南人民将万众一心坚决反对中国领导人所进行的各种侵略行为,千年历史也不断证明越南人民具有坚定抵制中国侵略的顽强意志和能力。
我们,越南公民及民间组织在此作出以下庄严声明:
1.我们反对和谴责目前北京领导人对越南水域和领土所进行的语言侵略行为。在任何情况下,我们都将为维护国家主权而进行斗争,这是毋庸置疑的!
2.越南人民团结一致,放下内部矛盾,支持在历史上所有时代为维护越南主权而进行斗争的越南政府。
– 1951年,在美国旧金山举办的国际会议上,越南共和国(南越)总理陈文有发表声明,明确黄沙群岛与长沙群岛归属越南,并且得到所有与会代表的支持和大会公认。
– 1974年,越南共和国(南越)在黄沙进行了一场英勇反击中国侵略之战,虽没有成功,但其不屈精神将被世代铭记。
– 1979年,在南北统一之后,越南社会主义共和国在总书记黎笋的领导下,顽强抵制中国在北越与中国接壤的6省所进行的侵略。
迄今为止,黄沙群岛和长沙群岛中的六座岛屿仍被中国占领,但2011年越南总理阮晋勇在国民议会前已明确越南在黄沙群岛与长沙群岛的权利。随后的各种声明都不断强调了这一立场。此外,国民议会已正式承认越南尚未完成恢复完整领土的历史责任。
越南人民及历届越南政府在领土问题上的立场将不会不变。习近平 – 范长龙之妄想与不明形势的野心肯定会遭到挫败!
3.无论隶属何派, 越南人民对为抵抗外来势力侵略、维护祖国完整领土而斗争与牺牲的历代军队表示诚挚的感谢与永久的怀念!
4.内部团结是加强国防军队力量、抵抗外侵的必要条件。越南人民在不同层面热切关注和坚定支持国家政策、经济体制、卫生体制、国民教育、国防、司法等方面的改革与透明化进程。尤其是军队改革,革除特殊利益团体,重组内部体制,清理腐败。其重中之重乃是放弃不切实际的幻想,摒弃落后的意识形态,修改宪法第四条,恢复国民议会的权利,加强民族团结,实现民主,赶上时代。
我们在此大声呼吁:请以国为先,大局为重,搁置历史遗留,求同存异!
我们恳请全体群众、民间社会团体,国家机关成员以及生活在越南境外的越南同胞,支持这份正义的声明。
我们还呼吁世界各国支持我们进行按照国际法维护越南主权、保护环境、保护自然资源、保障南中国海海域及空域自由航行的正义斗争。
如果您支持这些声明,请通过以下电子邮件地址提供您的联系信息(姓氏和名字,职业,居住地点)[email protected].
Deutsche Version

ERKLÄRUNG VON BÜRGERN UND ZIVILGESELLSCHAFTLICHEN ORGANISATIONEN VIETNAMS ÜBER DIE HOHEITLICHE SOUVERÄNITÄT ÜBER VIETNAMESISCHE GEWÄSSER UND INSELN

Ho-Chi-Minh-Stadt, den 27. Juni 2017

Anläßlich eines Staatsbesuchs in Vietnam hat ein chinesischer Staatsmann, General Fan Changlong, zum ersten Mal gegenüber der vietnamesischen Staatsführung offiziell erklärt, dass “das Ostmeer seit Altertum zu China” gehöre. Das war eine Aussage, die nicht einmal der chinesische Präsident Xi Jinping in Vietnam auszusprechen wagte, sondern erst im Anschluss in Singapur, nachdem er Vietnam verlassen hatte.
Als Vertreter der chinesischen Expansionspolitik machte Fan Changlong einen neuen Schritt in Richtung Provokation und Drohung gegen die vietnamesische Souveränität. Gleichzeitig greift China an verschiedenen Orten im Meeres- und im Landesgebiet Vietnams an.
Das fried- und Freundschaft liebende, kriegsleidgeprüfte Volk Vietnams ist furchtlos und entschlossen, auf diese Expansion der chinesischen Machthaber zu antworten, was sich in der tausendjährigen Geschichte des Widerstands gegen die chinesische Aggression mehrfach bewährt hat.
Wir, die Bürger und zivilgesellschaftlichen Organisationen Vietnams, erklären hiermit feierlich:
1. Wir protestieren und verurteilen die gegenwärtigen aggressiven Aktivitäten der Pekinger Machthaber zu Wasser und zu Lande gegen Vietnam. Ein Antwort unsererseits zur Verteidigung des Landes wird unter allen Umständen erfolgen.
2. Zu jeder Zeit und über alle Differenzen hinweg steht das vietnamesische Volk einträchtig hinter allen Regierungen Vietnams im Kampf um die nationale Souveränität und gegen die Aggressoren.
– Auf der Friedenskonferenz von San Francisco im Jahr 1951 bekräftigte Trần Văn Hữu, Ministerpräsident der Republik Vietnam, die Position, dass die Paracel- und Spratly-Inselgruppe zu Vietnam gehören, und fand Anerkennung von der Konferenz.
– Die Republik Vietnam führte 1974 einen unbeugsamen, jedoch erfolglosen Kampf gegen die Annexion der Paracel-Inseln durch China.
– Nach der Wiedervereinigung hat die Sozialistische Republik Vietnam unter Generalsekretär Lê Duẩn im Jahr 1979 einen heldenhaften Verteidigungskrieg gegen den chinesischen Überfall auf 6 nördliche Provinzen geführt. Obwohl die 6 Paracel- und Spratly-Inseln noch immer von China annektiert sind, bekräftigte Premierminister Nguyễn Tấn Dũng im Jahr 2011 vor der Nationalversammlung die Hoheitsrechte Vietnams über die Paracel- und Spratly-Inselgruppe. Diesen Standpunkt bestätigt später die vietnamesische Regierung in verschiedenen Erklärungen. Auch die Nationalversammlung gibt offiziell zu, dass Vietnam immer noch unter seiner geschichtlichen Schuldigkeit zur Wiederherstellung der territorialen Integrität leidet.
Der Standpunkt des vietnamesischen Volkes und die andauernd konsequente Position respektiver Regierungen ist von historischer Konstanz. Der größenwahnsinnigen, zeitentrückten Begierde von den Expansionisten Xi Jinping, Fan Changlong und ihren Lakaien wird eine jämmerliche Abfuhr widerfahren.
3. Stets anerkennt das vietnamesische Volk in Dankbarkeit die Aufopferung der Armeen unterschiedlicher Zeiten, die das Vaterland gegen die Aggressoren gleich woher und unter welcher Flagge verteidigen.
4. Um die Verteidigungskräfte des Landes gegen Aggressionen zu verstärken, ist eine innenpolitische Konsolidierung unaufschiebbar. Alle vietnamesischen Bevölkerungsschichten beobachten gespannt und unterstützen die Bemühungen um die Säuberung des Staatsapparates und die Reformen in allen Bereichen wie Wirtschaft, Gesundheits- und Bildungswesen, Landesverteidigung, Rechtssystem, insbesondere die Neugestaltung der Armee, die Beseitigung irregulärer Gruppeninteressen, die Reorganisation des bürokratischen Verwaltungssystems, die Bekämpfung der Korruption. Vor allem geht es um die Überwindung der rückständigen, illusorischen Ideologie, die Überholung des Artikels 4 der Verfassung, um dadurch die Rolle der Nationalversammlung zu rektifizieren, die nationale Eintracht zu steigern und die Demokratie mit der zeitgemäßen Entwicklung Schritt halten zu lassen.
Vaterland über alles – in diesem Sinne lassen wir die Vergangenheit beiseite und akzeptieren die Differenzen.
Wir appellieren an alle Bevölkerungsschichten, zivilgesellschaftlichen Organisationen, Personen der Staatsorgane und Auslandsvietnamesen, dass Sie diese Erklärungen unterstützen.
Wir appellieren an die Menschen aller Länder, dass Sie unseren gerechten Kampf für die Verteidigung der nationalen Souveränität im Einklang mit dem Völkerrecht, für den Schutz der Ressourcen aus dem Meer, für die Sicherung freier See- und Luftwege durch das Ostmeer unterstützen.
Unterstützen Sie diese Erklärungen mit Ihrer Unterschrift per E-Mail [email protected]

DANH SÁCH KÝ TÊN
I. Hội đoàn tổ chức xã hội dân sự

Đợt 1
1. Ban Vận động thành lập Văn đoàn Độc lập Việt Nam do nhà văn Nguyên Ngọc đại diện
2. Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng do ông Lê Thân, Chủ nhiệm Câu lạc bộ, đại diện
3. Diễn đàn Xã hội Dân sự do TS Nguyễn Quang A đại diện
4. Người Bảo vệ Nhân quyền (Defend the Defenders) do ông Vũ Quốc Ngữ đại diện
5. Mạng lưới Các Tổ chức Xã hội Dân sự Độc lập (Vietnam Independent Civil Society Organizations – VICSON) do ông Vũ Quốc Ngữ đại diện 
6. Câu lạc bộ Phan Tây Hồ do TS Hà Sĩ Phu và cán bộ cộng sản Tiền khởi nghĩa Đoàn Nhật Hồng đại diện
7. Diễn đàn Bauxite Việt Nam do GS Phạm Xuân Yêm và GS Nguyễn Huệ Chi đại diện
Đợt 2
8. Tổ chức Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam tại Úc, Hoa Kỳ và Canada do ông Trần Đông, Tổng Giám Đốc & Sáng lập viên đại diện
9. Ban Hỗ Trợ Nạn Nhân Ô Nhiễm Biển Môi Trường Biển Giáo Phận Vinh. Đại diện: Linh Mục Giuse Phan Sĩ Phương, Trưởng ban
10. Ban Công Lý và Hòa Bình Giáo Phận Vinh. Đại diện: Linh mục Ant Nguyễn Văn Đính, Trưởng ban

II. Cá nhân
Đợt 1
1. Nguyễn Quang A, TSKH, nguyên Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
2. Hồ An, nhà báo, Sài Gòn
3. Vũ Hồng Ánh, nghệ sĩ, Sài Gòn 
4. Lại Nguyên Ân, nhà nghiên cứu độc lập, Hà Nội
5. Nguyễn Trọng Bách, kỹ sư động lực, Nam Định
6. Trần Văn Bang, kỹ sư, cựu chiến binh chống Trung Quốc xâm lược, Sài Gòn
7. Nguyễn Nguyên Bình, Nhà văn, Hà Nội
8. Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
9. Nguyễn Huệ Chi, GS, hưu trí, Hà Nội
10. Nguyễn Kim Chi, nghệ sĩ, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn 
11. Tống Văn Công, nguyên Tổng Biên tập báo Lao Động, Hoa Kỳ
12. Ngô Thị Kim Cúc, nhà văn, nhà báo, Sài Gòn
13. Tiêu Dao Bảo Cự, nhà văn tự do, Đà Lạt
14. Nguyễn Trung Dân, nhà báo, Sài Gòn
15. Nguyễn Đắc Diên, bác sĩ, Sài Gòn 
16. Nguyễn Xuân Diện, TS, Hà Nội
17. Hoàng Dũng, PGS TS, Sài Gòn
18. Nguyễn Duy, nhà thơ, Sài Gòn
19. Lê Công Định, luật sư, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
20. Trần Tiến Đức, nhà báo độc lập, đạo diễn truyền hình và phim tài liệu, Hà Nội
21. Phạm Nam Hải, Hà Nội
22. Nguyễn Trần Hải, cựu sĩ quan Hải quân Nhân dân Việt Nam, Hải Phòng
23. Chu Hảo, Viện trưởng Viện Phan Châu Trinh, Hội An, Quảng Nam
24. Đặng Thị Hảo, TS, hưu trí, Hà Nội
25. Nguyễn Thị Thanh Hằng, dược sĩ, Pháp
26. Vũ Thư Hiên, nhà văn, Pháp 
27. Bùi Hiền, nhà thơ, Canada
28. Ngô Kim Hoa (Sương Quỳnh), nhà báo tự do, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
29. Đoàn Nhật Hồng, nguyên Giám đốc Sở Giáo dục Lâm Đồng, thành viên Câu lạc bộ Phan Tây Hồ, Đà Lạt
30. Lại Thị Ánh Hồng, nghệ sĩ, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn 
31. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh
32. Nguyễn Đăng Hưng, GS Danh dự Đại học Liège, Bỉ, cư ngụ tại Sài Gòn
33. Hoàng Hưng, nhà thơ, dịch giả, Sài Gòn
34. Đoàn Thị Thu Hương, nội trợ, Sài Gòn 
35. Lê Phú Khải, nhà báo, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn 
36. Lê Xuân Khoa, GS, Hoa Kỳ
37. Mai Thái Lĩnh, nhà nghiên cứu, thành viên Câu lạc bộ Phan Tây Hồ, Đà Lạt
38. Lê Khánh Luận, tiến sĩ toán, nhà thơ, nguyên GV ĐH KT Tp.HCM
39. Phan Đắc Lữ, nhà thơ, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
40. André Menras – Hồ Cương Quyết, nhà giáo Pháp-Việt, Pháp
41. Gioan Baotixita Huỳnh Công Minh, linh mục Giáo phận Sài Gòn
42. Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Sài Gòn giải phóng, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn 
43. Nguyên Ngọc, nhà văn, Hội An
44. Nguyễn Đình Nguyên, TS Y khoa, Australia
45. Nguyễn Quang Nhàn, cán bộ hưu trí Đà Lạt, Câu lạc bộ Phan Tây Hồ, Đà Lạt
46. Ý Nhi, nhà thơ, Sài Gòn
47. Hồ Ngọc Nhuận, nhà báo, dân biểu đối lập thời VNCH, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của thành phố Hồ Chí Minh, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
48. Phan Hoàng Oanh, giảng viên đại học, Sài Gòn 
49. Bùi Oanh, giáo viên, đã nghỉ hưu, Sài Gòn 
50. Hà Sĩ Phu, TS, thành viên Câu lạc bộ Phan Tây Hồ, Đà Lạt
51. Huỳnh Sơn Phước, nhà báo, Hội An
52. Tô Lê Sơn, kỹ sư, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn 
53. Trần Ngọc Sơn, kỹ sư, Pháp
54. Võ Văn Tạo, nhà báo, Nha Trang 
55. Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, Sài Gòn
56. Phạm Thành, nhà báo, nhà văn, Hà Nội
57. Trần Minh Thảo, viết văn, thành viên Câu lạc bộ Phan Tây Hồ, Bảo Lộc, Lâm Đồng
58. Lê Thân, cựu tù chính trị Côn Đảo, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
59. Đào Tiến Thi, nhà nghiên cứu văn học và ngôn ngữ, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội
60. Võ Văn Thôn, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TP HCM, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
61. Đào Công Tiến, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế TpHCM
62. Đoàn Văn Tiết, nhà giáo, Sài Gòn
63. Mạc Văn Trang, tiến sĩ tâm lý học, Hà Nội
64. Nguyễn Thị Khánh Trâm, hưu trí, Sài Gòn 
65. David Tran, GS, Hoa Kỳ
66. Phạm Đình Trọng, nhà văn, Sài Gòn
67. Phạm Nguyên Trường, dịch giả, Vũng Tàu
68. Trần Ngọc Tuấn, nhà văn, nhà báo, Praha, Czech
69. Hà Quang Vinh, hưu trí, Sài Gòn
70. Nguyễn Ngọc Xuân, làm vườn, đã nghỉ hưu, Bà Rịa – Vũng Tàu
71. Phạm Xuân Yêm, GS, hưu trí, Paris
Đợt 2
72. Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, Sài Gòn.
73. Hạ Đình Nguyên, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
74. Cao Lập, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
75. Lê Anh Hùng, nhà báo tự do, Hà Nội
76. Đoàn Đức Phương, giáo viên, Sài Gòn
77. Nguyễn Đình Ấm, nhà báo, Hà Nội
78. Nguyễn Thu Giang, hưu trí, nguyên Phó Giám đốc Sở Tư pháp TP Hồ Chí Minh
79. Phạm Hữu Tình, luật sư, Bình Dương.
80. Khổng Hy Thiêm, kỹ sư Điện, Khánh Hòa.
81. Bùi Thị Minh Hằng, cựu tù nhân lương tâm, Vũng Tàu
82. Phạm Khiêm Ích, nghiên cứu khoa học, Hà Nội
83. Lê Tuấn Huy, TS, TPHCM
84. Nguyễn Thế Hùng, GSTS, Phó Chủ tịch Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam
85. Nguyễn Văn Đức, lao động tự do, Sài Gòn
86. Nguyễn Ngọc Dũng, công dân Việt Nam, TPHCM
87. Đinh An, kỹ sư Chế tạo máy, Hà Nội
88. Nguyễn Văn Tiên, kỹ sư Tư vấn Môi trường, Bình Dương
89. Vinh Anh, cựu chiến binh, Hà Nội
90. Mã Lam, Nhà thơ, Sài Gòn
91. Nguyễn Lệ Uyên, nhà văn, Sài Gòn
92. Phạm Gia Minh, TS Kinh tế, Hà Nội
93. Nguyễn Thượng Long, giáo viên hưu trí, Hà Nội
94. Bùi Minh Quốc, nhà báo, Đà Lạt
95. Hồ Quang Huy, kỹ sư đường sắt CTCP đường sắt Phú Khánh, TP Nha Trang
96. Nguyễn Văn Lượm, nghề nghiệp tự do, TP Nha Trang
97. Chu Sơn, công dân Việt Nam, TPHCM
98. Nguyễn Thị Kim Thoa, công dân Việt Nam, TPHCM
99. Nguyễn Văn Sơn (Son Nguyen), về hưu, Hoa Kỳ
100. Huỳnh Nhật Hải, hưu trí, Đà Lạt
101. Huỳnh Nhật Tấn, hưu trí, Đà Lạt
102. Nguyễn Đăng Quang, Đại tá, nguyên cán bộ Bộ Công an, Hà Nội
103. Trần Thiện Kế, dược sĩ, Hà Nội
104. Hoàng Ngọc Đính, cựu sĩ quan QLVNCH, Đà Lạt
105. Đào Minh Châu, Hà Nội
106. Nguyễn Lạc, doanh nhân, Hội Sinh viên Sài Gòn Gia Định
107. Nguyễn Tiến Đức, nghỉ hưu tại TPHCM
108. Nguyễn Trọng Cương, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
109. Trần Thanh Vân, kiến trúc sư, Hà Nội
110. Đồng Quang Vinh, hưu trí, Nha Trang, Khánh Hòa
111. Phạm Minh Đức, kỹ sư Cơ khí, Hà Nội
112. Nguyễn Đào Trường, hưu trí, Hải Dương
113. Nguyễn Văn Lịch, hưu trí, Hà Nội
114. Hoàng Quý Thân, PGSTS, hưu trí, Hà Nội
115. Phạm Văn Chung, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội
116. Trần Viết Tuyên, kiến trúc sư, nghỉ hưu, Hamburg, CHLB Đức
117. Trần Thế Tuấn, Đại học Sư phạm, Đại học Quốc gia Việt Nam, Hà Nội
118. Ngô Kim Dung, bác sĩ, Pháp
119. Phan Quốc Tuyên, kỹ sư Tin học, Genève, Thụy Sĩ
120. Phạm Vương Ánh, kỹ sư Kinh tế, cựu sĩ quan QĐNDVN, Nghệ An 
121. Doãn Mạnh Dũng, kỹ sư, Phó Chủ tịch, Tổng thư ký Hội Khoa học Kỹ thuật và Kinh tế Biển TPHCM
122. Lê Quỳnh, nhà báo, Sài Gòn
123. Nguyễn Huy Canh, giáo viên hưu trí, Hải Phòng
124. Hoàng Thị Như Hoa, bộ đội xuất ngũ, Hà Nội
125. Tô Oanh, giáo viên đã nghỉ hưu, TP Bắc Giang
126. Nguyễn Văn Hồng, giáo viên đã nghỉ hưu, Bắc Ninh
127. Hà Văn Thùy, nhà văn, TPHCM
128. Lê Văn Ngọ, cán bộ hưu trí tại Nha Trang
129. Uông Đình Đức, hưu trí, TPHCM
130. Phan Châu Danh, thạc sĩ Quản lý Kinh doanh & Quản lý Chất lượng, kinh doanh tự do tại Bỉ
131. Hoàng Xuân Sơn, nhà thơ, Canada
132. Lý Đăng Thạnh, Người chép Sử, Sài Gòn
133. Trần Minh Quốc, nguyên giáo sư chuyên khoa Sử-Địa trước năm 1975, Sài Gòn
134. Trương Thế Kỷ, München, CHLB Đức
135. Cao Xuân Lý, nhà văn, Australia
136. Hoàng Thanh Linh, thạc sĩ, Sài Gòn
137. Nguyễn Trọng Hoàng, bác sĩ, Pháp
138. Trần Văn Hoàng, Canada
139. Nguyễn Văn Nghi, TS, Hà Nội
140. Lê Mai Đậu, kỹ sư, Hà Nội
141. Phan Văn Quý, kiến trúc sư, Sài Gòn 
142. Nguyễn Diễm Quyên, kinh doanh, TPHCM
143. Đỗ Quốc Minh, Thủ Đức, Sài Gòn
144. Nguyễn Thị Xuyến, Bình Dương
145. Ngô Trường Hải, Buôn Ma Thuột
146. Huỳnh Thanh Thương, công dân Việt Nam, Sài Gòn
147. Trần Đình Sử, GSTS, Hà Nội
148. Nguyễn Phúc Thành, dịch giả, Sài Gòn
149. Nguyễn Đức Quỳ, cựu giáo chức, Hà Nội
150. Phùng Hoài Ngọc, thạc sĩ, An Giang
151. Đặng Đăng Phước, giáo viên, Đăk Lăk
152. Lê Phước Nhất Sang, kế toán, Sài Gòn
153. Trần Đình Tuấn, nghiên cứu văn hoá dân gian độc lập, Hà Nội
154. Hà Thúc Huy, PGSTS Hóa học, Sài Gòn
155. Vũ Ngọc Lân, kỹ sư Luyện kim, Hà Nội
156. Trần Quốc Túy, kỹ sư Hóa, đã nghỉ hưu, Hà Nội.
157. Anh N Tran, giáo chức, hưu trí, Hoa Kỳ
158. Bùi Hồng Mạnh, biên dịch tự do, cử nhân Hóa học, cựu sĩ quan “79”, QĐNDVN, Munich, CHLB Đức
159. Lê Hải, nghệ sĩ nhiếp ảnh, Đà Nẵng
160. Nguyễn Chính, luật gia, nhà báo, Nha Trang 
161. Lê Thăng Long, kỹ sư, doanh nhân, Sài Gòn
162. Tống Hồ Huấn, Mục sư nhà thờ, Auckland, New Zealand
163. Nguyễn Thu Hoà, kế toán viên, Auckland, New Zealand
164. Nguyễn Rose Hồng, Truyền đạo Hội Thánh Elim, Auckland, New Zealand
165. Nguyễn Khánh Việt, cán bộ hưu trí, Hà Nội
166. Trần Hữu Khánh, hưu trí, TPHCM
167. Jane Nguyen, Hoa Kỳ
168. Hồ Hữu Nghị, kỹ sư dự án, TPHCM
169. Hồ Sĩ Phú, kỹ sư cơ khí, Quy Nhơn
170. Hồ Trọng Đễ, giáo viên nghỉ hưu, TPHCM
171. Trần Đình Sơn, giảng viên Toán, Anh Quốc
172. Uông-Nguyễn Thị Xuân Hương, Thụy Sĩ
173. Tư Đồ Tuệ, Canada
174. Trần Đông, Tổng Giám Đốc & Sáng lập viên Tổ chức Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam tại Úc, Hoa Kỳ và Canada
175. Bùi Tiến An, cựu tù Côn Đảo, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
176. Thiều Thị Tân, cựu tù Côn Đảo, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn 
177. Nguyễn Thúy Hạnh, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
178. Ant. Nguyễn Thanh Tịnh, Linh mục quản xứ Cồn Sẻ, Giáo phận Vinh.
179. Giuse Phan Sĩ Phương, Linh mục quản hạt Cửa Lò, Giáo phận Vinh
180. Giuse Nguyễn Công Bắc, Linh mục quản hạt Cầu Rầm, Giáo phận Vinh
181. Ant. Nguyễn Văn Đính, Linh mục quản hạt Thuận Nghĩa, Giáo phận Vinh
182. GB. Bùi Khiêm Cường, Linh mục quản xứ Đông Sơn, Giáo phận Vinh
183. GB. Nguyễn Đình Thục, Linh mục quản xứ Song Ngọc, Giáo phận Vinh
Đợt 3
184. Đặng Hữu Nam, Linh mục Giáo phận Vinh
185. Paul Nguyễn Minh Sáng, Linh mục Giáo xứ Phù Kinh, Giáo phận Vinh
186. Fx. Nguyễn Hồng Ân, Linh mục Giáo phận Vinh 
187. Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng Thư ký Hội Trí thức yêu nước TP HCM, Chủ tịch danh dự CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
188. Lê Công Giàu, hưu trí, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
189. Huỳnh Tấn Mẫm, bác sĩ, cựu Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước năm 75, cựu ủy viên MTTQ TP HCM, cựu Tổng Biên tập báo Thanh Niên, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
190. Liệt Kha, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
191. Nguyễn Phục Hưng, kỹ sư Điện, TPHCM
192. Vũ Giang, Hoa Kỳ
193. Nghiêm Hồng Sơn, nghiên cứu viên cao cấp, Đại học Công nghệ Queensland, Australia
194. Trương Chí Tâm, cựu chiến binh chiến trường Campuchia, cử nhân y khoa, Sài Gòn
195. Lê Thị Lệ Hằng, nội trợ, Sài Gòn
196. Triệu Sang, thương phế binh VNCH, Sóc Trăng
197. Nguyễn Ngọc Tâm, kinh doanh tự do, Nghi Lộc, Nghệ An
198. Lê Thị Kiều Oanh, Sài Gòn
199. Nguyễn Văn Trợ, TPHCM
200. Hồ Sỹ Hải, cựu chiến binh, kỹ sư, nghỉ hưu, Hà Nội
201. Đaminh Lê Thanh Trưởng, Linh mục Giáo phận Xuân Lộc
202. Phê rô Nguyễn Đức Manh, sinh viên Đại học Huế, Quảng Bình
203. Phê rô Nguyễn Đạo, sinh viên Đại học Đà Nẵng, Quảng Bình
204. Nguyễn Văn Vinh, hưu trí, Hà Nội
205. Trần Kim Thập, giáo chức, Australia 
206. Hanh.M.Tran, Australia
207. Chi To, Australia
208. May Dang, Australia
209. Thao Nguyen, Australia
210. Hoa Nguyen, Australia
211. Jane Pham, Australia
212. Jasmine Tran, Pháp
213. Tallys Tran, Pháp
214. Trần Quốc Hùng, TPHCM
215. Nguyễn Ngọc Tâm, Giáo xứ Trang Cảnh, hạt Cửa Lò, Giáo phận Vinh
216. Hoàng Văn Khẩn, TS Sinh Hoá học, Thụy Sĩ
217. Phạm Ngọc Kỳ, TS, kiến trúc sư, Berlin, CHLB Đức
218. Trần Văn Tân, kỹ sư, Berlin, CHLB Đức
219. Đặng Quốc Tuấn, lao động tự do, Hà Nội
220. Đinh Đức Long, TS, bác sĩ, Sài Gòn
221. Chu Quốc Khánh, kỹ sư Điện tử, cử nhân Kinh tế, Hà Nội
222. Hoàng Minh Cảnh, Quảng Bình
223. Nguyễn Duy Oai, giáo dân giáo xứ Trang Nứa, Giáo phận Vinh
224. Nguyễn Đăng Cao Đại, Th.sĩ Quản lý Dự án, Sài Gòn 
225. Võ Trường Phú, kỹ sư Xây dựng, Hà Tĩnh
226. Nguyễn Tiến Đạt, hỗ trợ kỹ thuật FPT, Sài Gòn
227. Vinh Nguyễn, Hoa Kỳ
228. Kimdzung Nguyễn, Hoa Kỳ
229. Trần Xuân Huyền, công dân tự do, Anh Quốc
230. Nguyễn Peng, công tác xã hội, Sài Gòn
231. Quan Vinh, chuyên viên tin học, Italy
232. Lê Đình Hồng, kế toán, Canada
233. Lê Thị Nhân, nội trợ, Canada
234. Phan Văn Song, cựu giáo viên, Australia
235. Phạm Anh Tuấn, kỹ sư, Australia
236. Tri Nguyen, Australia
237. Kim Anh Hoang, Australia
238. Nguyễn Sỹ Kiệt, TS Khoa học Kỹ thuật, cán bộ hưu trí, T HCM
239. Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), nguyên thư ký Bí thư Thành ủy TPHCM Mai Chí Thọ, hưu trí, Sài Gòn
240. Lê Kim-Song, TS, Australia
241. Nguyễn Thị Hạnh, hưu trí, TpHCM.
242. Lê Văn Oanh, kỹ sư Xây dựng, Hà Nội
243. Vu Dinh Bon, TS, kỹ sư Công chánh, Hoa Kỳ
244. Đặng Viết Trường, nhà báo, Hà Nội
245. Phạm Ngọc Thái, nhà thơ, Hà Nội
246. Trần Hưng Thịnh, kỹ sư, đã nghỉ hưu, Hà Nội
247. Vũ Trọng Khải, chuyên gia Kinh tế Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, TPHCM
248. Paul Trần Minh Nhật, cựu tù nhân lương tâm, Đà Lạt, Lâm Đồng

Được xem 1 lần, bởi 1 Bạn Đọc trong ngày hôm nay