Tính chính trị của tin đồn
Ở Việt Nam, hầu như lúc nào cũng có tin đồn này nọ. Mới nhất và có lẽ cũng hấp dẫn nhất là các tin đồn liên quan đến đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ quốc phòng Việt Nam. Thoạt đầu, người ta đồn ông Thanh bị ám sát ở Paris; sau đó, đồn ông chết vì bệnh ung thư phổi. Tin đồn lan rộng và lan mạnh đến độ hãng thông tấn DPA của Đức cũng tin là thật khiến đại diện Bộ quốc phòng phải lên tiếng cải chính. Đến lúc ông Thanh bay từ Pháp về Việt Nam, được chụp hình và đăng báo, người ta vẫn không tin: so sánh chiều cao và gò má của người trong bức ảnh với các ảnh cũ của Phùng Quang Thanh, người ta cho đó chỉ là người giả. Rồi Phùng Quang Thanh xuất hiện trong chương trình văn nghệ “Khát vọng đoàn tụ” được phát hình trong cả nước, người ta vẫn khăng khăng cho đó chỉ là người giả. Chưa hết. Sau khi ít nhiều nhìn nhận ông Thanh còn sống, người ta lại tung ra tin đồn khác: ông Thanh bị quản thúc tại trụ sở Bộ quốc phòng! Gắn liền với tin đồn ông Thanh bị quản thúc là tin đồn về các vụ đấu đá trong nội bộ giới lãnh đạo Việt Nam, chủ yếu giữa phe thân Tàu và phe thân Mỹ.
Nhớ, cách đây năm bảy tháng, người ta cũng từng đồn đãi rất nhiều về khối lượng tài sản kếch sù của Phùng Quang Thanh và con trai của ông, đại tá Phùng Quang Hải: Cả hai có cả hàng chục biệt thự ở Việt Nam, hơn nữa, còn có cả biệt thự ở Mỹ nữa.
Tất cả những tin đồn ấy có gì xác thực không?
Thật ra, câu hỏi ấy có thể áp dụng cho tất cả các loại tin đồn chứ không chỉ nhất thiết dành cho các tin đồn chung quanh Phùng Quang Thanh. Tin đồn, tự bản chất, là một thứ diễn ngôn (discourse) gắn liền với thông tin nhưng lại không phải là thông tin chính thức. Tin đồn nào cũng dựa trên một số sự kiện cụ thể nhưng nó đưa ra một tự sự (narrative) và một cách diễn dịch khác với các tự sự và diễn dịch chính thống, hay nói theo chữ của Prashant Bordia và Nicholas DiFonzo, trong bài “Problem Solving in Social Interactions on the Internet: Rumor As Social Cognition” (2004), là một “diễn trình giải thích tập thể” (collective explanation process). Bởi vậy, tin đồn chỉ đặc biệt nở rộ khi các tự sự và diễn dịch chính thống không có hoặc không đủ hoặc không đáp ứng được sự tò mò của quần chúng. Nhận định này giải thích tại sao, dù tin đồn hiện hữu khắp nơi và mọi lúc, chúng chỉ thực sự phổ biến ở những nơi các nguồn tin chính thức và chính thống hoặc ít ỏi hoặc bị xem là đáng nghi ngờ. Nói cách khác, tin đồn bộc phát mạnh mẽ ở những nơi thiếu tính minh bạch nhất, nghĩa là, ở những nơi thiếu dân chủ nhất.
Trong ý nghĩa như thế, ngay cả những tin đồn ấy chỉ là đồn thổi, không bám vào một sự kiện chính xác nào cả, vẫn có thể đúng: Nếu chúng không đúng ở sự kiện thì chúng cũng đúng ở ý nghĩa vì chúng phản ánh được những mơ ước âm thầm của quần chúng. Không phải ngẫu nhiên mà đọc những bài viết liên quan đến các tin đồn về cái chết của Phùng Quang Thanh bao giờ chúng ta cũng bắt gặp có sự hả hê nào đó của những người loan tin hoặc bình luận. Ông Thanh có thể không chết: điều này chứng tỏ tin đồn là sai. Nhưng ngay cả như vậy, có một yếu tố vẫn đúng: rất nhiều người mong ông chết. Sự mong ước này không xuất phát từ những ác ý chung chung mà chủ yếu xuất phát từ điểm: người ta cho là ông thân Trung Quốc, hơn nữa, là tướng mà lại có thái độ sợ hãi và hèn hạ trước Trung Quốc.
Tin đồn không những gắn liền với sự thiếu minh bạch mà còn gắn liền với những thời điểm bị khủng hoảng. Thời thái bình an lạc, không ai cần chú ý đến tin đồn làm gì. Thời mọi người chia sẻ với nhau những niềm tin mãnh liệt vào tương lai, người ta cũng không thèm mặn mà với các tin đồn. Chỉ những lúc người ta bị khủng hoảng về niềm tin, không biết chuyện gì sẽ xảy ra, sắp xảy ra, người ta mới bám víu vào các tin đồn. Tin đồn, như thế, có chức năng trám vào những khoảng trống trong lý trí của quần chúng. Điều này giải thích tại sao không phải chỉ có quần chúng bình dân mới bị lôi cuốn bởi các tin đồn. Ngay cả giới trí thức cũng vậy: đối diện với các tin đồn, óc phê phán cố hữu của họ rất dễ bị tê liệt. Họ cũng theo dõi, cũng tiếp tay phát tán, và một cách âm thầm, tận trong vô thức, cũng tin vào các tin đồn ấy.
Với hai đặc điểm nêu trên, từ xưa đến nay, tin đồn bao giờ cũng gắn liền với chính trị hoặc có ý nghĩa chính trị. Những người cầm quyền hoặc những người có tham vọng cầm quyền, thường sử dụng tin đồn để tự huyền thoại hoá mình hầu thu phục nhân tâm. Mà không phải chỉ có giới làm cách mạng hay làm chính trị. Ngay cả trong giới văn nghệ sĩ cũng như những người được gọi là nhân vật của cộng đồng (public figures), nhiều người cũng thích dùng tin đồn để tự huyền thoại hoá mình như vậy. Tất cả những thứ chúng ta gọi là “giai thoại” hiện nay, thoạt kỳ thuỷ, đều là những tin đồn.
Tin đồn không những có chức năng xây dựng, nó còn có chức năng phá hoại, hay, nói chính xác hơn, chức năng giải hoặc (demystification): Nó làm cho người ta tin vào câu chuyện và khi tin vào câu chuyện, không còn tin vào các huyền thoại được những người có quyền lực nuôi dưỡng. Có thể nói nếu tin đồn bùng phát rộng rãi nhất vào những thời điểm có khủng hoảng, chúng không có chức năng giải quyết khủng hoảng, chúng chỉ làm khủng hoảng trầm trọng thêm; và bằng cách đó, chúng có thể dẫn tới những sự thay đổi.
Với chức năng giải hoặc, tin đồn là một thứ vũ khí của những người yếu. Yếu thì bao giờ cũng là yếu. Nhưng khi những người bị cho là yếu đó là một đám đông, họ lại trở thành một sức mạnh. Quá trình lan rộng để những người yếu ấy trở thành đám đông tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng ở vào thời điểm hiện nay, có một yếu tố vô cùng thuận lợi: internet.
Xưa, phương thức tồn tại chủ yếu của tin đồn là truyền miệng từ người này sang người khác; sau, ngoài truyền miệng, các phương tiện truyền thông đại chúng như báo chí, truyền thanh và truyền hình cũng góp phần quảng bá tin đồn. Hiện nay, phương tiện chính là internet; trên internet, hình thức chính là các trang facebook: ở đó, số lượng người đọc rất đông và mức độ lan truyền cũng rất mau lẹ đến độ một số học giả ví chúng giống như bom (rumor bomb).
Đó là lý do tại sao gần đây các nhà nghiên cứu về chính trị học bắt đầu quan tâm đặc biệt đến ý nghĩa của các tin đồn vốn trước chỉ lôi kéo được sự chú ý của các nhà tâm lý học và xã hội học.