Vào năm 2021, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã phổ biến khẩu hiệu biểu thị việc Trung Quốc dự kiến sẽ thay thế Mỹ trở thành cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới: “Phương Đông đang trỗi dậy, phương Tây đang suy thoái”.
Trung Quốc năm đó đã phần lớn ngăn chặn được đại dịch Covid-19 và tiếp tục ghi nhận mức tăng trưởng nhanh nhất trong một thập kỷ, trong khi Mỹ phải vật lộn với những đợt bùng phát liên tục của Covid và lạm phát gia tăng.
Trước cuộc gặp trực tuyến với Tổng thống Biden tại hội nghị thượng đỉnh Châu Á Thái Bình Dương vào mùa thu năm đó, Tập chính thức được tôn vinh là nhà lãnh đạo quyền lực nhất của Trung Quốc trong một thế hệ. Còn tổng thống Biden vẫn lao động dưới cái bóng của nỗ lực thất bại trong việc tiếp nối sứ vụ của người tiền nhiệm.
Cảnh một trung tâm mua sắm của Evergrande bị bỏ trống ở Trung Cộng vào tháng 9/2023. Ảnh của Andy Wong cộng tác viên.
Khi Tập và Biden chuẩn bị gặp nhau tại một hội nghị thượng đỉnh Châu Á Thái Bình Dương khác , lần này là gặp trực tiếp tại San Francisco, ngôn từ của Tập bắt đầu có vẻ bớt kiêu ngạo. Nền kinh tế Trung Quốc đang bị bao vây bởi nhiều thách thức, từ bong bóng bất động sản xì hơi và các khoản nợ khó quản lý của chính quyền địa phương cho đến niềm tin sụt giảm và giảm phát . Trong khi đó, Mỹ vừa ghi nhận quý mạnh nhất trong gần 2 năm trong khi lạm phát giảm dần. Tổng sản phẩm quốc nội của Trung Quốc, có quy mô bằng 75% của Mỹ vào năm 2021, đã giảm xuống 64% trong quý 3, gần bằng mức của năm 2017.
Điều gì đã xảy ra trong hai năm? Các quốc gia không đột nhiên thay đổi hướng đi. Thay vào đó, những vấn đề nhức nhối kéo dài ở Trung Quốc đã nổi lên bề mặt, và các chính sách của Tập Cận Bình, các chuyên gia phương Tây kết luận, đã khiến chúng trở nên tồi tệ hơn. Trung Quốc không thực sự suy thoái, nhưng tham vọng dẫn đầu nền kinh tế toàn cầu của nước này đã bị đẩy lùi, có lẽ là vô thời hạn.
Logan Wright, giám đốc nghiên cứu thị trường Trung Quốc tại Rhodium Group, cho biết: “Bắc Kinh sẽ không bao giờ có thể đưa ra tuyên bố đáng tin cậy về vị trí dẫn đầu kinh tế toàn cầu”. Ông nói, một ngày nào đó GDP của Trung Quốc có thể đạt 90% hoặc thậm chí 100% của Mỹ, nhưng không có kịch bản thực tế nào có thể đạt tới 150% hoặc 200%.
Tuy nhiên, kết luận về chiến thắng của Mỹ bây giờ sẽ còn quá sớm giống như tình trạng dẫn đầu của Trung Quốc vào năm 2021.
Trong thời gian tới, mức tiêu dùng của Mỹ có thể sẽ chậm lại và tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc, dường như đã ổn định khi người tiêu dùng có dấu hiệu phục hồi, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc vẫn sẽ vượt mức tăng trưởng của Mỹ trong nhiều năm cũng như trong thập kỷ tới. Quan trọng hơn, trong khi 3/4 nền kinh tế Trung Quốc phải đối mặt với những cơn gió ngược, thì một phần tư không như vậy, đó là về ngành sản xuất, nó sẽ khiến Trung Quốc trở thành mối đe dọa kinh tế và quân sự đối với phương Tây trong tương lai gần – ngay cả khi tăng trưởng tổng thể trở nên mờ nhạt.
Giảm tốc rõ nét hơn
Tăng trưởng của Trung Quốc, đạt mức trung bình 10%/năm từ năm 1980 đến năm 2012, hiện nay luôn có xu hướng chậm lại do dân số già đi, lượng di cư từ nông thôn ra thành thị ít hơn và cơ hội bắt kịp các nước giàu có hơn ngày càng giảm.
Nhưng sự chậm lại đã rõ ràng hơn dự kiến. Ngân hàng Thế giới hiện kỳ vọng tốc độ tăng trưởng hàng năm của Trung Quốc trong hai năm tới sẽ đạt trung bình 4,5%, chậm hơn khoảng 1 điểm phần trăm so với dự kiến một thập kỷ trước. Quỹ Tiền tệ Quốc tế dự đoán mức tăng trưởng trung bình chỉ là 3,9% trong 5 năm tới.
Một số vấn đề của Trung Quốc là hình ảnh tương phản với các vấn đề của Mỹ. Sự tăng trưởng của Trung Quốc từ lâu đã được thúc đẩy bởi đầu tư, còn của Mỹ là nhờ tiêu dùng, tạo nên bức tranh biếm họa biểu tỏ những người Trung Quốc có tầm nhìn xa trông rộng và những người Mỹ thiển cận.
Trong thập kỷ qua, công thức phát triển của Trung Quốc đã trở nên quá mức. Trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-09, Trung Quốc đã đưa ra một chương trình kích thích lớn nhằm vào cơ sở hạ tầng, nhà ở và sau đó là công nghệ. Chính quyền địa phương và các nhà phát triển đã tài trợ cho khoản đầu tư này bằng cách vay từ các ngân hàng và công chúng Trung Quốc, sử dụng các phương tiện tài chính mới để vượt qua các hạn hạn mức vay tín dụng do Bắc Kinh áp đặt.
Theo các nhà kinh tế Kenneth Rogoff và Yuanchen Yang, diện tích sàn nhà ở của Trung Quốc đã tăng gần gấp đôi từ năm 2010 đến năm 2021, vượt quá 400 feet vuông bình quân mỗi đầu người – ngang bằng với Anh và Pháp và gấp đôi con số của Nhật Bản.
Công trình xây dựng ở thành phố Thanh Châu, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc vào tháng 9/2023. ẢNH: CFOTO/NURPHOTO/ZUMA PRESS
Trong khi Mỹ có quá ít nhà ở và cơ sở hạ tầng thì Trung Quốc hiện có quá nhiều cả hai. Hàng triệu căn hộ đang bị bỏ trống. Quý Châu, một tỉnh tương đối nghèo, là nơi có 23 trong số 100 cây cầu cao nhất thế giới . Theo Rogoff và Yang, đường sắt cao tốc đang tăng trưởng nhanh hơn gấp đôi so với lượng hành khách.
Phần lớn khoản nợ tài trợ cho khoản đầu tư đó do các nhà phát triển và chính quyền địa phương phát hành cho các ngân hàng Trung Quốc hoặc Dân chúng, có nguy cơ vỡ nợ. IMF ước tính 30% nợ của chính quyền địa phương là không thể trả được. Doanh thu sụt giảm từ việc bán đất và thuế kinh doanh đã khiến chính quyền địa phương phải chịu mức thâm hụt lớn.
Một báo cáo tháng 8 của Rhodium do Wright đồng tác giả đã kết luận rằng Trung Quốc có ít dự trữ tài chính hơn nhiều so với những gì được nhiều người tin tưởng để tài trợ cho chính sách công nghiệp, quốc phòng và Sáng kiến Vành đai và Con đường cho các khoản vay cơ sở hạ tầng nước ngoài.
Một trong những lợi ích được cho là của hệ thống chuyên quyền của Trung Quốc là khả năng hành động dứt khoát, không bị ràng buộc bởi các cơ chế kiểm tra và cân bằng quyền lợi của hệ thống chính trị dân chủ. Tuy nhiên, Bắc Kinh vẫn chưa hành động dứt khoát đối với các khoản nợ địa phương và nợ xấu của ngân hàng bằng cách chuyển chúng sang bảng cân đối kế toán tương đối lành mạnh của chính quyền trung ương.
Thay vào đó, nó đang tái cơ cấu chúng từng phần. Gần đây họ tuyên bố sẽ vay số tiền tương đương 0,8% GDP để hỗ trợ tài chính cho chính quyền địa phương, đáp ứng một phần nhu cầu của họ . Điều này cho thấy Trung Quốc có thể rơi vào tình trạng sa lầy tài chính kéo dài nhiều năm giống như trường hợp của Nhật Bản vào những năm 1990. Ngược lại, khi bong bóng nhà ở Mỹ sụp đổ vào năm 2007-2008, chính phủ liên bang đã nhanh chóng huy động vốn để tái cấp vốn cho hệ thống ngân hàng.
Giống như vụ phá sản bất động sản, dân số giảm ở Trung Quốc là một vấn đề diễn biến chậm rồi đột ngột tăng tốc trong hai năm qua.
Các vấn đề về bất động sản và dân số của Trung Quốc có thể đang tác động lẫn nhau. Trong khi Hoa Kỳ có thể thoát khỏi tình trạng dư thừa nhà ở vào giữa những năm 2000 nhờ dân số và nhập cư ngày càng tăng thì Trung Quốc phải đối mặt với nhu cầu suy giảm về cơ cấu do dân số giảm và không có người nhập cư.
Trung Quốc cần một nguồn cầu mới để tiếp quản lĩnh vực đầu tư và bất động sản. Ứng cử viên rõ ràng nhất là người tiêu dùng, nhóm này chỉ chiếm tỉ trọng sản xuất là 37% GDP, so với 68% của Mỹ …
Tuy nhiên, bất chấp tất cả các căng thẳng về nhân khẩu học, tài chính và tài chính đối với Trung Quốc, lĩnh vực sản xuất của nước này, cho đến nay là lớn nhất thế giới, nó vẫn không hề suy giảm. Ngược lại: năm nay Trung Quốc đã thay thế Nhật Bản trở thành nước xuất khẩu ô tô lớn nhất thế giới .
Hãng xe điện © Ảnh được cung cấp bởi CarExpert.com.au
Các thương hiệu Trung Quốc có thể không tốt bằng các thương hiệu hàng đầu của phương Tây nhưng đủ tốt và rẻ hơn nên đang giành được thị phần trên toàn cầu. Cho đến nay, Mỹ đã cản trở khả năng sản xuất chất bán dẫn tiên tiến nhất của Trung Quốc. Tuy nhiên, đến năm 2026, Trung Quốc sẽ kiểm soát 42% công suất toàn cầu trong lĩnh vực chip kém tiên tiến, loại chip quan trọng trong các ứng dụng cho thiết bị gia dụng và ô tô, SEMI, một tập đoàn công nghiệp bán dẫn đã ước tính.
Cho dù ông Tập có quản lý yếu kém thì nền kinh tế rộng lớn hơn, năng lực sản xuất của Trung Quốc sẽ vẫn tồn tại nhờ những lợi thế cạnh tranh sẵn có: cơ sở sản xuất lớn, tích hợp và thích ứng, lực lượng lao động đáng tin cậy và được trả lương khiêm tốn cũng như bí quyết quản lý.
Điều này mang lại cho Trung Quốc một kênh ảnh hưởng toàn cầu quan trọng. Theo Abigail Dahlman và Mary Lovely của Viện Kinh tế Quốc tế Peterson, ngay cả khi chính quyền Biden tìm cách thu hút các nền kinh tế châu Á đến gần hơn thông qua Khung kinh tế Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, thì những nền kinh tế đó cũng đang ngày càng bị ràng buộc chặt chẽ hơn vào chuỗi cung ứng của Trung Quốc .
Năng lực sản xuất của Trung Quốc cũng là một tài sản quân sự đáng gờm. Các nhà máy đóng tàu khổng lồ và hiện đại hóa của nước này đã đóng 46% số tàu trên thế giới, cho phép nước này sản xuất một số tàu chiến và tàu ngầm mới mỗi năm.
Ngược lại, ngành đóng tàu của Hoa Kỳ, mặc dù đã có một thế kỷ bảo hộ, nhưng chỉ có chưa đến 1% công suất thế giới, khiến Hải quân chỉ dựa vào một số ít nhà máy đóng tàu thiếu lực lượng lao động cần thiết để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng. Việc giao hàng liên tục bị trễ và vượt quá ngân sách.
Sự chuyển hướng trong cuộc chiến sang các phương tiện không người lái, rẻ hơn cũng có lợi cho Trung Quốc, nhà sản xuất máy bay không người lái lớn nhất thế giới.
Một nhà máy ở thành phố Haian, tỉnh Giang Tô, miền đông Trung Quốc, vào tháng 9/2023. ẢNH: AGENCE FRANCE-PRESSE/GETTY IMAGES
Dan Wang , học giả thỉnh giảng tại Trung tâm Tsai China của Trường Luật Yale, người đã viết nhiều về ngành công nghệ Trung Quốc, cho biết Mỹ chủ yếu dẫn đầu về các công nghệ thâm dụng tri thức như trí tuệ nhân tạo và công nghệ sinh học hơn là các sản phẩm vật chất. “Hãy tưởng tượng một kịch bản trong tương lai khi các quốc gia này xung đột nghiêm trọng và ngừng giao thương, bạn muốn đặt cược vào ai: quốc gia có tất cả các mô hình ngôn ngữ lớn và phần mềm công nghệ sinh học và kinh doanh, hay quốc gia có cơ sở sản xuất lớn và thích ứng? Tiền của tôi sẽ đặt cược ở vế thứ hai.”
Một cách muộn màng, Mỹ đã nhận ra sự thiếu sót đó. Trong cái có thể được gọi là chủ nghĩa tư bản Trung Quốc theo đặc thù Mỹ, chính quyền Biden đang cung cấp các khoản trợ cấp và bảo hộ cho các ngành công nghiệp mục tiêu như xe điện và chất bán dẫn. Điều này đã tạo ra sự bùng nổ trong việc xây dựng nhà máy, nhưng vẫn chưa rõ nhu cầu sẽ thành hiện thực để giúp các nhà máy đó có lãi hay không.
Mỹ cũng đang thúc đẩy hoạt động liên kết : khuyến khích các công ty phương Tây xây dựng chuỗi cung ứng ở các nước thân thiện, từ đó đạt được nền kinh tế quy mô toàn cầu mà không cần phụ thuộc vào Trung Quốc. Xét cho cùng, GDP chung của “phương Tây” – Mỹ, Liên minh Châu Âu, Anh, Canada, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan – gấp khoảng ba lần quy mô của “Phương Đông” – Trung Quốc, Nga và các đối tác khác như như Belarus, Iran và Pakistan.
Và mối bận tâm của các đồng minh là viễn cảnh Donald Trump có thể tái đắc cử tổng thống vào mùa thu tới. Trong nhiệm kỳ cuối cùng của mình, Trump đã rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương gồm 12 quốc gia, áp thuế lên thép và nhôm của các đồng minh và đe dọa điều tương tự đối với ô tô. Khi mãn nhiệm, ông đã đặt câu hỏi về sự ủng hộ dành cho Ukraine, đề xuất mức thuế 10% đối với tất cả hàng nhập khẩu và ám chỉ việc rút khỏi NATO.
Huotari nói: “Châu Âu kỳ vọng rằng nếu Trump quay trở lại, ông ấy sẽ chuẩn bị tốt hơn và tinh vi hơn trong việc gây áp lực lên châu Âu”. Ông nói, Trung Quốc sẽ khai thác sự chia rẽ nảy sinh bằng các biện pháp khuyến khích kinh tế đối với bất kỳ đồng minh nào đang dao động của Mỹ. Đối mặt với một nước Mỹ mới theo chủ nghĩa biệt lập và gánh nặng hỗ trợ Ukraine chống lại Nga, Đức có thể quay trở lại với Trung Quốc vì “nước này không đủ khả năng để chiến đấu với tất cả mọi người”.
Không gì có thể đáp ứng dự đoán của Tập Cận Bình về một phương Tây đang suy tàn cách có hiệu quả hơn việc Mỹ quyết định rằng phương Tây, với tư cách là nhà tổ chức chính sách quân sự và kinh tế, tự làm cho mình không còn tồn tại nữa.