KHÔNG THỂ TRỐN CHẠY – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Hãy đi, và cũng hãy làm như vậy!”.

“Chỉ tìm kiếm các thú vui hoặc thu tích của cải đều là ‘những nỗ lực hoài hơi’ nhằm chạy trốn những nỗi đau dai dẳng! Triệu phú cô đơn hơn người nghèo; vua hài bất hạnh hơn khán giả! Bạn không thể trốn chạy cô đơn, nếu không biết yêu thương!” – J. O. Sanders.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay chứng thực nhận định của J. O. Sanders. Đó là câu chuyện dài của Giôna, cùng lúc, câu chuyện ngắn của người Samaritanô. Điều thú vị là dù vùng vằng hay mau mắn, hai nhân vật này vẫn ‘không thể trốn chạy’ yêu thương!

Chuyện dài của Giôna mở đầu với việc Chúa sai ông đi Ninivê, một thành tội lỗi, “Hô cho dân thành biết sự gian ác của chúng”. Giôna bất tuân lệnh Chúa! Thay vì lên Ninivê, hướng đông; ông xuống tàu qua Tarshish, hướng tây. Chúa không để yên, Ngài theo ông đến cùng! Người ta ném Giôna xuống biển; một con cá chực sẵn, nuốt ông, nhả lên bờ. Chúa gọi ông lần hai! Cuối cùng, vì ‘không thể trốn chạy’ và cô đơn mãi, Giôna đến Ninivê, mang thông điệp sám hối; họ ăn năn và được thứ tha. “Bạn có thể né tránh bổn phận trong một thời gian, nhưng bạn không thể thoát khỏi nó mãi mãi!” – Dwight L. Moody.

Nếu Giôna chạy trốn Chúa để khỏi yêu thương kẻ xấu, thì người Samaritanô đã nghe ‘tiếng Trời’ mà phục vụ kẻ thù – một người Do Thái hấp hối bên đường. Nếu Giôna là sứ giả ‘bất đắc dĩ’ cho Ninivê, thì người này là sứ giả ‘tình nguyện’ cho ‘quân cắt bì’. Dụ ngôn này là câu trả lời của Chúa Giêsu cho chất vấn của một luật sĩ, “Ai là người thân cận của tôi?”. Và để kết thúc, Ngài nói với ông, “Hãy đi, và cũng hãy làm như vậy!”.

Chính Chúa Giêsu đã đi và làm như vậy! Người Samaritanô, một ngoại giáo đại diện cho Ngài; và nạn nhân, đại diện cho cả nhân loại, trong đó có chúng ta. Khi con người – trầy trụa, ghẻ lạnh vì tội lỗi – không thể tự cứu, Con Thiên Chúa đã bỏ trời xuống thế để cứu nó. Chúng ta ‘sống dở, chết dở’ hay đã ‘chết một nửa’ khi lửa trong tim đã tắt, lây lất ‘sống qua ngày, đợi qua đời’ lúc không còn một chút nhiệt huyết cho bất cứ điều gì; thì chính trong tình trạng đó, Chúa Giêsu vực chúng ta lên, đưa chúng ta ra khỏi huyệt. Thật thâm trầm, “Lạy Chúa, Ngài đã đưa con lên khỏi huyệt để con được sống!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Anh Chị em,

“Hãy đi, và cũng hãy làm như vậy!”. Điểm chung của Giôna, người Samaritanô và chính Chúa Giêsu, là không thể mãi quay lưng trước tiếng gọi của tình yêu. Một người thì vùng vằng, một người thì mau mắn, và ‘Một Người’ thì hiến thân trọn vẹn. Nhưng cuối cùng, tất cả đều cho thấy: ‘không thể trốn chạy’ cô đơn, trừ khi chúng ta cúi xuống với tha nhân! Không ai có thể trốn chạy khỏi ơn gọi yêu thương, bởi đó là con đường duy nhất dẫn đến tự do và niềm vui đích thực. Vậy, thay vì tránh né, bạn và tôi được mời gọi dấn thân – để yêu thương, tha thứ, và phục vụ – vì ở đó, Chúa Giêsu đang chờ mỗi người!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, bao lần con cô đơn khi trốn chạy. Dạy con ‘cúi xuống’, ‘cùng đau’, ‘cùng xót’ để làm một điều gì đó cho anh chị em con; nhờ vậy, con có thể hạnh phúc hơn mỗi ngày!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

**********************************************

Lời Chúa Thứ Hai Tuần XXVII Thường Niên,

Ai là người thân cận của tôi ?

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 10,25-37

25 Khi ấy, có người thông luật kia muốn thử Đức Giê-su mới đứng lên hỏi Người rằng : “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp ?” 26 Người đáp : “Trong Luật đã viết gì ? Ông đọc thế nào ?” 27 Ông ấy thưa : “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.” 28 Đức Giê-su bảo ông ta : “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống.”

29 Tuy nhiên, ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng : “Nhưng ai là người thân cận của tôi ?” 30 Đức Giê-su đáp : “Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. 31 Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy nạn nhân, ông tránh qua bên kia mà đi. 32 Rồi một thầy Lê-vi đi tới chỗ ấy, thấy thế, cũng tránh qua bên kia mà đi. 33 Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường, tới chỗ nạn nhân, thấy vậy thì động lòng thương. 34 Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu xức vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. 35 Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói : ‘Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.’ 36 Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp ?” 37 Người thông luật trả lời :“Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy.” Đức Giê-su bảo ông ta : “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.”


 

 Thánh Maria Faustina sứ điệp của lòng thương xót Chúa- Cha Vương

 Hôm nay 05/10, Giáo hội mừng kính Thánh Maria Faustina sứ điệp của lòng thương xót Chúa, ước mong bạn cảm nhận được tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm bổn mạng nhé.

Cha Vương

CN : 05/10/2025.  t5 – 23

Khi vị thánh nữ này cất tiếng khóc chào đời tại Ba Lan ngày 25 tháng Tám năm 1905, thì song thân thánh nữ đã đặt tên cho ngài là Helen. Trong cuộc đời ngắn ngủi tại thế, Helen đã thực hiện một sứ vụ quan trọng là dạy cho thế giới biết về Lòng Thương Xót của Đức Chúa Giêsu. Ngay từ lúc lên 7, Helen đã muốn sống cuộc đời tận hiến cho Thiên Chúa như một nữ tu. Khi được 25 tuổi, Helen vào tu trong dòng Chị Em Con Đức Mẹ Thương Xót, và nhận tên là sơ Maria Faustina.

    Công việc của sơ Maria Faustina thật giản dị. Sơ nấu ăn, làm vườn và giữ cửa cho tu viện. Chỉ có sự tốt bụng, trầm lặng và hồi tâm là đáng lưu ý. Và ít có người biết được những chiều sâu đích thực về đời sống tâm linh của sơ Faustina. Thiên Chúa đã chúc lành cho sơ Faustina Maria bằng nhiều ân sủng đặc biệt, kể cả ơn thị kiến, ơn tiên tri và ơn được nhận năm Dấu Thánh cách vô hình.

    Trong một thị kiến mà sơ Maria Faustina nhận được, Chúa Giêsu đã hiện ra trong y phục màu trắng. Người giơ cao một tay để chúc lành và tay kia thì chạm vào Thánh Tâm Người. Có hai tia sáng phát ra từ Thánh Tâm Chúa Giêsu, một màu đỏ và một màu nhạt. Tia sáng đỏ tượng trưng cho Máu cứu chuộc của Chúa Kitô, còn tia xanh nhạt biểu trưng nước thanh tẩy trong bí tích Rửa tội. Chúa Giêsu nói: “Con hãy cho vẽ lại bức ảnh như con xem thấy Cha, kèm theo dòng chữ: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa!” Chúa Giêsu đã nói với sơ Maria Faustina rằng Chúa nhật sau lễ Chúa Phục Sinh sẽ được gọi là Chúa nhật kính Lòng Thương Xót.

     Sơ Maria Faustina đã viết nhật ký, chép lại mọi điều Chúa Giêsu muốn cho thế giới biết về Lòng Thương Xót của Người. Trong đó, Maria Faustina đã viết những lời cầu nguyện thật dễ thương, biểu lộ mối tương quan rất mực thân thiết đối với Đức Chúa Giêsu. Và Đức Chúa Giêsu nói với Maria Faustina rằng thánh nữ chính là thư ký nhỏ của Người. Chính công việc đặc biệt của thánh nữ Maria Faustina đã khích lệ nhiều người tin tưởng vào Lòng Thương Xót vô hạn lượng của Thiên Chúa.

    Chúa Giêsu hứa ban ơn tha thứ và ân sủng dư tràn cho bất cứ ai tôn sùng lễ kính Lòng Thương Xót Chúa. Tận hiến cho Lòng Thương Xót Chúa bao gồm tin tưởng vào lòng nhân hậu Chúa, yêu thương tha nhân, năng lãnh nhận bí tích Hòa giải để luôn ở trong tình trạng có ân sủng và rước lễ ngày Chúa nhật kính Lòng Thương Xót Chúa.

    Chỉ sau 13 năm sống trong bậc tu trì, sơ Maria Faustina Kowalska đã về trời vào ngày mùng 5 tháng Mười năm 1938 vì bệnh lao phổi, vừa tròn 33 tuổi.

    Chúa Giêsu đã nói với thánh nữ Maria Faustina Kowalska: “Cha mong muốn con hãy luôn bày tỏ lòng thương xót ra khắp mọi nơi. Con không thể tự biện minh gì về điều này!” Phương thế tốt nhất để chứng tỏ chúng ta tin cậy vào Lòng Thương Xót của Đức Chúa Giêsu là biết tỏ bày lòng thương xót và luôn tha thứ cho những người xúc phạm đến chúng ta. Chúng ta có sẵn lòng cùng nhau thực hiện như vậy không? Vậy hôm nay mời bạn dành thời gian lần chuỗi Lòng Thương Xót Chúa để đền tội mình và tội lỗi của toàn thế giới. Sau đây là câu nói của ngài:

(1) Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh! Bao nhiêu lần hít thở, bao nhiêu lần nhịp tim đập, bao nhiêu lần dòng máu luân chuyển trong cơ thể con là bấy nhiêu ngàn lần con muốn tôn vinh Lòng Thương Xót Chúa. (Thánh Faustina)

(2) Chúa Thánh Thần không nói với một linh hồn chia trí và lắm lời. Chúa Thánh Thần nói qua những soi động lặng lẽ của người với một linh hồn tịnh tâm, một linh hồn biết giữ thinh lặng. (Thánh Faustina)

Câu nào đánh động bạn nhất? 

From: Do Dzung

***********************

DÒNG NHẠC THÁNH CA LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA | Những Tuyệt Phẩm Thánh Ca Về Lòng Thương Xót Chúa

VỀ GIÀ

 Xuyên Sơn

Về già, là khi ta có một đôi mắt mờ đi nhưng lại nhìn cuộc đời rõ hơn trước.

Vì có những thứ không thể nhìn bằng mắt thịt, và cũng có những điều không thể nghe bằng tai trần.

Về già, là khi đôi chân mỏi mệt khi đã bị kéo lê gần hết quãng đường đời nhưng khi ngoái đầu lại ta dường như mới là đứa trẻ ngày hôm qua.

Bây giờ ta bước chậm hơn trước, chắc hơn trước và cũng trân trọng hơn từng cái chạm đất, vì có thể ngày mai ta không còn bước đi được nữa.

Về già, là khi ta dùng đôi tai điếc của mình để nghe thiên hạ đang xôn xao về chuyện đời và ta biết rằng hơn một nửa trong số ấy không là thật.

Bây giờ, âm thanh êm dịu duy nhất chỉ có tiếng chim tiếng gió và những âm thanh còn đọng lại trong lòng ta, của những người ta từng trân quý nhưng bây giờ không còn thể gặp lại nữa.

Về già, là khi ta nhận ra rằng ta đã may mắn như thế nào khi từng được hít thở không khí một cách thoải mái, vì bây giờ, mỗi hơi thở là một thước đo của sự sống.

Ta thở ra nhưng ta không thể biết có thể hít vào một lần nữa được hay không?

Về già, là khi những người tri kỷ ta còn ngồi lại cùng ta hoài niệm về một thời xa xưa, tuy là không nhiều.

Âu đó cũng là quy luật tự nhiên, khi ta không còn giá trị, những bằng hữu sẽ rời xa ta, người còn ở lại nhất định ta phải trân quý.

Về già, là khi ta nếm đủ ngọt bùi đắng cay của cuộc đời.

Những thứ làm ta say đắm ngẫm lại vui sướng không là bao nhưng đau khổ lại rất nhiều.

Có những thứ ta cứ tưởng nắm chặt trong tay rồi thì ngày mai lại trôi đi mất.

Cuộc đời như một trò đùa mộng mị mà người chơi phải trả bằng cả tuổi thanh xuân của mình, bây giờ ngẫm lại chỉ toàn là hối tiếc…

Suốt đời quý nhất cũng chỉ là hai tiếng bình yên.

Hạnh phúc cũng không phải là điều gì quá xa vời, nhưng có những người gần lúc cuối đời mới nhận ra được điều đó.

(sưu tầm)


 

BỐN ĐIỀU THÁNH FAUSTINA DẠY TÔI VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT- Joseph Nguyễn Tro Bụi chuyển ngữ


Thánh Maria Faustina Kowalska là một khí cụ khiêm nhường của Chúa, thánh nữ đã khát khao đời sống tu trì từ khi chỉ mới bảy tuổi.

Có thể bạn sẽ nghĩ: Lúc bảy tuổi, tôi còn đang đổi bánh Nilla Wafers lấy Oreo ở sân chơi, chứ chưa hề nghĩ về ơn gọi của mình.  Nhưng với Faustina, vai trò trong gia đình đã khiến cô trưởng thành sớm.  Đến năm 16 tuổi, Faustina đã chăm sóc và hỗ trợ cho chín người em như một quản gia của gia đình.

Dù rất vâng lời theo mong muốn của cha mẹ là ở nhà, Faustina thường tìm kiếm Chúa Giê-su trong bí tích Thánh Thể, mang trong lòng khát khao gia nhập tu viện từ khi còn trẻ.  Năm 1924, Faustina có thị kiến đầu tiên về Chúa Giê-su, Người đã bảo Faustina rời nhà để vào tu viện ở Warsaw, Ba Lan.  Faustina sau đó đã gia nhập Hội Dòng Nữ Tử của Đức Mẹ Thương Xót và tuyên khấn lần đầu làm nữ tu vào năm 1928, khi mới 22 tuổi.

Thánh Faustina nổi tiếng với việc ghi chép lại những thị kiến của mình về Chúa Giê-su trong một cuốn nhật ký.  Bạn có thể đã quen thuộc với hình ảnh Chúa Giê-su là Vua của Lòng Thương Xót, mặc áo trắng với những tia sáng đỏ và nhạt phát ra từ trái tim.  Hình ảnh này lấy từ một trong những thị kiến của thánh Faustina.  Từ các thị kiến này, Lễ Kính Lòng Thương Xót cũng đã được thiết lập (khi Chúa Giê-su cho biết Người muốn hình ảnh Lòng Thương Xót được “làm phép trọng thể vào Chúa Nhật đầu tiên sau Lễ Phục Sinh”), cùng với Chuỗi Kinh Lòng Thương Xót, một kinh nguyện chuyển cầu dùng trên tràng hạt Mân Côi để tưởng nhớ đặc biệt cuộc Khổ nạn của Chúa.

Học theo đường thương xót

Nhờ có các thánh như Faustina, chúng ta hiểu rõ hơn về trái tim đầy thương xót của Chúa Giê-su và tìm cách thực hành lòng thương xót ấy trong cuộc sống của mình.  Tôi muốn chia sẻ với mọi người cách mà câu chuyện nhỏ của thánh Faustina đã biến đổi trái tim bình thường của tôi ra sao, với hy vọng rằng câu chuyện cũng sẽ truyền cảm hứng cho nhiều người.

1.Thiên Chúa không bủn xỉn với lòng thương xót của Ngài

Lòng thương xót của Thiên Chúa được ban tặng cách nhưng không, chứ không phải là điều chúng ta xứng đáng đạt được.  Lựa chọn của Thiên Chúa khi khiêm nhường sai Con của Ngài xuống trần gian, chịu chết trên thập giá vì chúng ta, là minh chứng rõ ràng nhất cho trái tim đầy thương xót của Ngài.  Hết lần này đến lần khác, Ngài tự hiến mình mỗi khi chúng ta tham dự bí tích Thánh Thể trong Thánh lễ.

Lần tới khi bạn dự Lễ, hãy đếm xem có bao nhiêu lần bạn đọc các lời nguyện xin Chúa thương xót.  Mặc dù Ngài luôn ban tặng lòng thương xót ấy, chúng ta vẫn ý thức rằng lòng thương xót của Ngài là cần thiết và vô cùng quan trọng cho đời sống thiêng liêng của mình.

2.Đau khổ có thể làm cho chúng ta trở nên thánh thiện hơn

Trong một đoạn nhật ký của mình, Thánh Faustina viết: “Đau khổ là một ân sủng lớn lao; qua đau khổ, linh hồn trở nên giống Đấng Cứu Thế; trong đau khổ, tình yêu trở nên trong sáng; đau khổ càng lớn, tình yêu càng tinh khiết” (#57, trang 29).

Nói cách khác, khả năng chịu đựng đau khổ, dù lớn hay nhỏ, đang giúp chúng ta trở nên giống Chúa Giê-su hơn.  Thật lòng mà nói, không ai muốn đau khổ.  Nhưng, thánh Faustina mời gọi chúng ta xem những thử thách này như cơ hội để dựa vào tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa.

Chúa Giê-su mong muốn ở gần chúng ta.  Ngài mời gọi ta mở rộng trái tim để đón nhận sự gần gũi ấy và tin tưởng rằng Ngài đang hoạt động trong tâm hồn ta, bất kể hoàn cảnh nào.  Thánh Faustina cũng chia sẻ: “Khi thấy gánh nặng vượt quá sức mình, tôi không suy xét hay phân tích nó, mà chạy đến với Thánh Tâm Chúa Giê-su như một đứa trẻ và chỉ thốt lên một lời: ‘Ngài có thể làm mọi sự’” (#1033, trang 392).

3.Lòng thương xót là cốt lõi của cộng đoàn

Lần đầu tiên tôi đọc Chuỗi Kinh Lòng Thương Xót là cách đây vài năm, cùng với nhóm các nhà truyền giáo của chương trình Life Teen.  Một trong các nhà truyền giáo có ý cầu nguyện cho người thân bị bệnh.  Không chút do dự, tất cả chúng tôi đã cùng nhau vào nhà nguyện với tràng hạt trong tay để cầu nguyện.

Chuỗi Kinh Lòng Thương Xót thường được đọc trong những lúc cầu nguyện cho người bệnh và người hấp hối.  Chuỗi Kinh cũng thường được đọc sau khi chúng ta lãnh nhận Thánh Thể trong Thánh lễ.  Qua nhiều lần tỏ mình, Chúa Giê-su đã khẳng định rằng Chuỗi Kinh này không chỉ dành cho người đang đọc mà còn dành cho toàn thế giới.  Thánh Faustina kết thúc lời nguyện trong một đoạn nhật ký bằng câu “vì cuộc khổ nạn đau thương của Ngài, xin thương xót chúng con” (#475), và đoạn tiếp theo được sửa đổi thành “xin thương xót chúng con và toàn thế giới” (#476).

Tôi suy ngẫm về sự thay đổi này và vì sao Chúa Giê-su nhấn mạnh đến điều đó.  Dù lời cầu nguyện chung này chủ yếu dành cho những ai sắp lìa đời, tôi nghĩ rằng Chúa Ki-tô có ý dành cho bất kỳ ai cần đến lòng thương xót của Chúa (tất cả chúng ta!).  Cùng nhau cầu nguyện bằng những lời kinh này sẽ mang lại sức mạnh và lòng can đảm, xin ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn không chỉ cho riêng chúng ta mà cho toàn thế giới.

4.Sự tha thứ của chính chúng ta là cần thiết cho lòng thương xót

Nói thì dễ hơn làm, phải không?  Đối với tôi, lời dạy khôn ngoan này của thánh Faustina thực sự là một thử thách lớn.  Cũng như Thiên Chúa ban cho chúng ta lòng thương xót vô tận của Ngài, ta cũng được mời gọi thực hành lòng thương xót đó với người khác.  Điều này có thể thể hiện qua lòng kiên nhẫn với đứa em đang làm ta khó chịu, tha thứ cho một người bạn mà ta cảm thấy đã làm mình tổn thương, hoặc thậm chí là lòng thương xót đối với chính bản thân mình khi ta nhận ra những thiếu sót trong tình yêu và niềm tin vào Chúa Giê-su.

Thành thật mà nói, tôi không nghĩ mình luôn là một người bạn tốt.  Đôi khi, tôi chìm đắm trong sự tự trách và đổ lỗi cho bản thân về mọi điều mình có thể đã nói hay làm sai.  Lúc khác, tôi đổ hết trách nhiệm lên người khác.  Nhưng chính trong những lúc như vậy, tôi được mời gọi không chỉ đón nhận lòng thương xót của Chúa mà còn được mời gọi chia sẻ lòng thương xót ấy: “Ai biết tha thứ sẽ chuẩn bị cho mình nhiều ân sủng từ Thiên Chúa.  Mỗi khi nhìn lên thập giá, tôi sẽ tha thứ với cả trái tim mình” (#390, trang 175).

Bước theo đường thương xót

Cuộc đời của Thánh Faustina chứng minh rằng Chúa Giê-su có thể biến điều bình thường thành phi thường.  Dù chúng ta có thể không trải nghiệm những hình ảnh sâu sắc như vậy về Chúa Giê-su trong cuộc sống hàng ngày, nhưng chúng ta có thể nhìn vào thánh Faustina như một khí cụ của sự khiêm nhường và lòng tín thác hoàn toàn vào Chúa.

Nếu bạn thấy cuộc đời của Thánh Faustina khó hiểu hoặc thậm chí quá khó tin, hãy tự hỏi tại sao.  Hãy mời Thánh Faustina cầu nguyện cùng bạn và xin Chúa mở tâm trí bạn cho những tiềm năng về lòng thương xót và tình yêu của Ngài.  Như Thánh Faustina nhắc nhở chúng ta, tất cả những gì ta cần làm là chạy đến với Chúa như một đứa trẻ và chỉ thốt lên một lời: “Ngài có thể làm mọi sự.”

Maddy Bass

Joseph Nguyễn Tro Bụi chuyển ngữ từ https://lifeteen.com

From: Langthangchieutim

CỠ HẠT CẢI – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

CỠ HẠT CẢI – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải, thì dù có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển mà mọc’, nó cũng sẽ vâng lời anh em!”.

“Lời mời của Chúa để bạn cộng tác với Ngài luôn đòi hỏi bạn phải có đức tin. Nhưng thật mỉa mai, Ngài chỉ cần nó lớn cỡ hạt cải!” – Anon.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay mở đầu khá bất ngờ, “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con!”. Câu trả lời của Chúa Giêsu lại bất ngờ hơn, “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải…!”, nghĩa là chỉ cần một niềm tin ‘cỡ hạt cải!’.

Con người thường chuộng ‘cái lớn’: nhà lớn, xe lớn, sự nghiệp lớn. Nhưng điều cần lớn nhất – niềm tin vào Chúa – lại bị coi nhẹ. Thật ra, đức tin lớn không phải ở kích cỡ, nhưng ở chỗ nó có được áp dụng vào cuộc sống? Khabacuc than trách, “Cho đến bao giờ, lạy Đức Chúa, con kêu cứu mà Ngài chẳng đoái nghe?”. Lời than trách ấy biểu lộ một niềm tin mong manh, nhưng thật sống động; vậy mà Thiên Chúa lại thích cái ít ỏi đó; và Ngài hứa, “Cứ đợi chờ, vì thế nào nó cũng đến, chứ không trì hoãn đâu!”. “Những điều vĩ đại không được tạo nên bởi những bùng nổ to tát, nhưng bởi chuỗi những việc nhỏ được gắn kết lại!” – Van Gogh.

Với bài Tin Mừng, Chúa Giêsu kể dụ ngôn người đầy tớ đi cày về; anh chỉ làm phận sự. Thay vì tìm lời khen, người ấy chỉ tỏ lòng biết ơn. Cũng thế, đức tin ‘cỡ hạt cải’ luôn đi kèm sự khiêm tốn khi biết rằng tất cả là hồng ân, và niềm vui lớn nhất là được cộng tác, thi hành ý muốn của Chúa. Phaolô nhắn nhủ Timôthê, “Anh đừng hổ thẹn làm chứng cho Chúa”, nghĩa là hãy dùng hết khả năng, dù nhỏ bé – bài đọc hai. Thánh Vịnh đáp ca mời gọi, “Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa!”. “Đức khiêm nhường đích thực không phải là nghĩ mình kém cỏi, nhưng là nghĩ về mình ít đi!” – C.S. Lewis. Một tâm hồn mềm mỏng, biết lắng nghe không bao giờ lo lắng về niềm tin nhỏ bé của mình.

Niềm tin ấy không đặt trọng tâm nơi thành quả hay phần thưởng, nhưng nơi chính Đấng đã kêu gọi. Khi biết mọi việc mình làm, dù nhỏ bé, đều có giá trị vĩnh cửu trước mặt Chúa, chúng ta có thể nhẹ nhõm và sống an vui. Chính sự bé nhỏ ấy lại mở ra sức mạnh, chính sự khiêm tốn và trung thành trong những việc rất thường ngày, bạn đang để Chúa thực hiện những việc phi thường. Đó là sự kỳ diệu của hạt cải tưởng chừng vô nghĩa, nhưng lại vươn thành cây, mang bóng mát và hoa trái cho muôn người. “Đừng khinh thường những khởi đầu bé nhỏ, bởi cây sồi vĩ đại cũng từng chỉ là một hạt sồi tí hon!” – Anon.

Anh Chị em,

Đức tin không cần phải ‘to tát’ mới sinh hoa trái. Chúa Giêsu trấn an chúng ta: đừng lo lắng nó lớn hay nhỏ; chỉ cần biết ơn vì bất cứ niềm tin nào chúng ta có, dù nhỏ nhoi vì Ngài mới là Đấng làm cho hạt nhỏ ấy nảy mầm và lớn lên. Chỉ cần phó thác, khiêm nhường, và kiên trì bước đi. “Điều vĩ đại không nằm ở những gì chúng ta làm, nhưng ở cách chúng ta để Thiên Chúa hành động qua chính mình!” – Henri Nouwen.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, niềm tin của con nhỏ bé mong manh, xin gieo nó vào lòng thương xót của Ngài!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

***************************************************

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XXVII THƯỜNG NIÊN, NĂM C

Phúc Âm: Lc 17, 5-10

“Nếu các con có lòng tin”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, các Tông đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con”. Chúa liền phán rằng: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: ‘Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển’, nó liền vâng lời các con.

“Ai trong các con có người đầy tớ cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở về, liền bảo nó rằng: ‘Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa’, mà trái lại không bảo nó rằng: ‘Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi mới ăn uống’. Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không? Thầy nghĩ rằng: Không. Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: ‘Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm'”.

Ðó là lời Chúa. 


 

Thánh Phanxicô Átxidi (Assisi) – Cha Vương

Hôm nay 04/10 Giáo Hội mừng kính thánh Phanxicô Átxidi (Assisi). Mừng lễ Bổn Mạng đến những ai nhận thánh Phanxicô làm quan thầy nhé. Nguyện cho bình an của Chúa toả lan trên khắp thế giới hôm nay.

Cha Vương

Thứ 7: 04/10/2025.  t6-24

 Thánh Phanxicô sinh khoảng năm 1181, tại thành phố Átxidi nước Ý. Thánh Phanxicô Átxidi chỉ sống cuộc đời trần thế có 45 năm. Nhưng cuộc đời của Ngài là cả một bài ca. Một bản nhạc với những dòng nhạc, với những cung bậc, hòa nên một bản trường ca tình yêu tuyệt vời. Người ta trong nhiều thế kỷ đã không ngớt ca ngợi thánh nhân vì con người lạ lùng của thánh nhân giữa cuộc đời. Ngay anh em trong Dòng cũng không nhận ra Ngài có gì đặc biệt mà sao lạ lùng thu hút mọi người. Thánh nhân đã rất khiêm nhượng, sự khiêm tốn của một tâm hồn thánh thiện đã nhìn ra con người đầy khiếm khuyết, đầy tội lỗi của mình và có làm được gì là do ân huệ nhưng không của Chúa, đã biến cái tầm thường nên cái phi thường,đã biến cái đơn sơ,nhỏ bé nên cái vĩ đại khôn lường. Vì thế, tình yêu của Phanxicô Átxidi là một tình yêu mang tính cụ thể, thánh nhân yêu mọi người, mọi vật, Ngài biến mọi sự vật,mọi thụ tạo nên sinh động và có nhân tính. Ngài yêu tất cả vì Ngài thấy Thiên Chúa nơi tất cả mà trung tâm là Chúa Giêsu. Thánh nhân yêu thương mọi người với tất cả con tim của mình, với cả cuộc đời mình vì chính Chúa đã chết cho nhân loại trong đó có cả Phanxicô Átxidi. Tình yêu của Phanxicô Átxidi là tình yêu mang tính vui tươi, thoải mái,  Ngài sống trong niềm vui vì lúc nào Ngài cũng mang Chúa trong con người của mình, Ngài đồng hóa mọi sự và nhân cách hóa tất cả để tất cả ca ngợi Chúa trong niềm vui.

      Thánh nhân sinh ở Átxidi khoảng năm 1182. Cha Ngài là ông Bênađô là một thương gia tơ sợi nổi tiếng và mẹ Ngài là bà Pica, một người đạo đức, thánh thiện đã hun đúc Ngài nên một vị thánh thời danh. Cuộc nổi loạn của những người lê dân chống lại những nhà quí tộc. Thánh nhân bị bắt và bị giam cầm trong suốt một năm trời ròng rã. Ngài bị một căn bệnh hiểm nghèo và được Chúa cứu chữa, Ngài được khỏi bệnh và Chúa đã cảm hóa Ngài với câu:” Lạy Cha chúng tôi ở trên trời “. Năm 1206, thánh nhân quyết định rũ bỏ bụi trần,từ bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu, dù rằng bị người cha già hết sức phản đối, thánh nhân rất thương cha nhưng không dám làm trái ý Chúa. Thánh nhân phân phát tất cả của cải mình có cho những người nghèo, Ngài chỉ giữ lại một chiếc áo choàng cũ kỹ, rồi ra đi rao giảng Tin Mừng. Ðược Chúa thúc đẩy, soi sáng, thánh nhân đã lập Dòng anh em hèn mọn. Thời gian sau đó, Ngài lui về Alverne, một nơi thật cô liêu phía Bắc Átxidi để ăn chay, cầu nguyện và sống tình thân với Thiên Chúa. Chúa yêu thương Ngài cách đặc biệt, nên trong lúc Ngài xuất thần, Ngài nhìn thấy Tổng Lãnh Thiên Thần Séraphim và một ảnh chuộc tội. Tỉnh dậy, Ngài đã được Chúa in năm dấu thánh trên người lúc đó là năm 1224. Chỉ hai năm sau đó, Ngài lâm trọng bệnh. Trước khi ra đi về với Chúa, thánh nhân khuyên nhủ anh em trong Dòng giữ đức khó nghèo tuyệt đối và trung thành với Giáo Hội Chúa Kitô. Thánh nhân qua đời vào ngày 4.10.1226. Ðức Thánh Cha Grêgoriô đã tôn Ngài lên bậc hiển thánh.

 (Nguồn: SimonDalat) 

Nói đến Thánh Phanxicô thì chúng ta nghĩ ngay đến Kinh Hòa Bình. Có thể nói, từ những tư tưởng này, ngài được mệnh danh là Sứ giả hòa bình bởi vì chúng là điểm qui chiếu cho đời sống an hòa nơi ngài. Vậy hôm nay mời Bạn dành thời gian để suy niệm Kinh Hòa Bình nhé: Lạy Chúa, xin hãy dùng con / Như khí cụ bình an của Chúa / Để con đem yêu thương vào nơi oán thù / Đem thứ tha vào nơi lăng nhục / Đem tin kính vào nơi nguy nan / Đem trông cậy vào nơi thất vọng / Dọi ánh sáng vào nơi tối tăm / Đem niềm vui đến chốn ưu sầu. / Lạy Chúa, xin hãy dạy con / Tìm an ủi người hơn được người ủi an / Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết / Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu / Vì hiến thân chính là nhận lãnh / Tha thứ cho người chính là được thứ tha / Cam lòng chịu chết là được sống muôn đời. 

Câu nào đánh động bạn nhất? Mời bạn hãy đưa câu đó áp dụng vào trong cuộc sống hàng ngày. Đối với mình thì câu, “Đem yêu thương vào nơi oán thù.”

From: Do Dzung

****************************

KINH HÒA BÌNH – Thánh Phanxico thành Assisi – Nhạc: Lm Kim Long

Mẹ Tôi Người Vợ Lính Miền Nam – Đ.Văn- Truyen ngan HAY

Mẹ tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu có, ông bà ngoại là điền chủ ruộng cò bay thẳng cánh ở miệt Phú Xuân Nhà Bè. Mẹ được ăn học ở thành phố, sau thời trung học ở trường Gia Long rồi đến Đại học Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt. Ba tôi lại sinh trưởng trong gia đình nông dân nghèo khó, gia đình lại đông anh em, nhưng được cái Ba tôi học giỏi, hiền lành và rất có hiếu. Cũng vì gia đình bên ngoại ngăn cản nên Ba tôi “thất tình”, đăng lính dù cổng trường Đại học Văn Khoa, Sư Phạm đang rộng mở. 

Bà Ngoại làm mối cho Mẹ nhiều người nhưng Mẹ đều lắc đầu. Khi Ba tôi học xong khóa sĩ quan Thủ Đức 16 và được thăng cấp bậc Đại Úy, và Mẹ tôi thì cũng “chưa có ai” khi tuổi gần ba mươi. Có thể vì vậy mà bà ngoại tôi xiêu lòng và đồng ý cho Ba Mẹ tôi lấy nhau vào những ngày cuối năm 1969.

Dù bị ngăn cản từ đầu và phải qua nhiều khó khăn, thử thách, Ba Mẹ tôi mới đến được với nhau, nhưng sau đó, Ba tôi lại là người con rể được bà Ngoại yêu quý nhất.

Cưới xong là Ba tôi ra mặt trận, đi khắp các chiến trường miền Nam từ Quảng Trị, Khe Sanh đến Long Giao, Long Khánh, Bình Long, Phước Long. Ngày tôi chào đời, Ba tôi còn chiến đấu tận bên Lào, bên Cam Bốt. Ôi! Những người vợ lính thời chiến!

Chiến tranh leo thang trong giai đoạn 70-74 thật khốc liệt. Mùa hè đỏ lửa 72, những trận đánh dữ dội ở Khe Sanh, Bình Giã, Đồng Xoài…, tin tử trận dồn dập về từng giờ, từng ngày. Mẹ như ngồi trên đống lửa. Mẹ vừa đi làm ở Tòa Đô Chánh vừa nuôi dạy chúng tôi và trông ngóng tin tức của Ba ngoài mặt trận, đứng ngồi không yên.

Ngày mất miền Nam, Ba tôi đi tù. Mẹ bụng mang dạ chửa, một mình sinh nở. Thằng em tôi ra đời vào tháng Sáu năm đó, đúng lúc gia đình đau thương và túng quẫn nhất. Mẹ một thân một mình, mấy đứa con còn nhỏ xíu, không tiền bạc. Với cái lý lịch “ngụy quyền” và có chồng đi “học tập cải tạo” không còn nơi nào dám nhận Mẹ vào làm. Mẹ xoay sở mọi cách để chúng tôi có cái ăn hàng ngày, đồ đạc trong nhà lần lượt ra đi đến khi không còn gì có thể bán được, Mẹ phải đi bán hàng rong cực nhọc đủ điều, nhưng Mẹ không có nửa lời than van.

Tôi còn nhớ, mỗi lần tết đến, vì không có tiền mua quần áo mới cho chúng tôi, Mẹ ngồi cắt từng chiếc áo dài của Mẹ khi xưa để may cho chúng tôi những bộ đồ mới đi chúc Tết họ hàng. Mẹ không muốn chúng tôi buồn và tủi thân, một mình Mẹ cam chịu.

Sau vài năm bặt tin của Ba, gia đình nhận được tin về người ở tận trại tù vùng Hoàng Liên Sơn Yên Bái, mẹ tôi lại lo khăn gói lên đường thăm Ba. Thời đó, từ Nam ra Bắc quả là “gian khổ chập chùng”, phải đổi bao nhiêu chuyến tàu, chuyến xe, băng rừng lội suối mới tới chỗ Ba tôi bị giam giữ. Thân trong lao tù, nhưng Ba luôn an ủi khích lệ gia đình, cứ mỗi độ xuân về Ba lại gởi cho chúng tôi những bài thơ Ba làm, khuyên nhủ dạy bảo chúng tôi.

Re-Education Camp in Vietnam. Hit Song - YouTube

Suốt tám năm ròng, Mẹ tôi tảo tần nuôi con, nuôi chồng không quản thân mình. Có thời ngăn sông cấm chợ, Mẹ phải gởi chúng tôi cho bà Nội, đi buôn chuyến Sài Gòn Phan Thiết. Sau mấy lần bị tịch thu hàng, Mẹ tôi không còn vốn liếng đi buôn nữa nên tiếp tục việc chạy hàng rong ngoài chợ. Tôi cũng ôm thùng cà-rem ngồi bán ở góc đường đầu ngõ cùng mấy thứ bánh kẹo lặt vặt bán cho mấy đứa con nít trong xóm để kiếm thêm ít tiền phụ mẹ phần nào.

Khi tới mùa lúa, Mẹ tôi về Nhà Bè làm ruộng với gia đình cô tôi để được chia chút gạo trắng cho chúng tôi có những bữa cơm không độn khoai mì, bo bo. Từng là tiểu thư thành phố, có ăn có học, nhưng công việc nặng nhọc đã cướp đi vẻ quý phái của Mẹ tự khi nào. Nhìn mái tóc điểm sương, đôi tay thô ráp, gương mặt hằn nỗi nhọc nhằn sớm tối của Mẹ, chúng tôi thấy thương Mẹ vô cùng.

Hàng đêm trước khi ngủ, mấy mẹ con trên một chiếc giường chật như nêm nhưng chúng tôi rất thích, không ai chịu đi ra chỗ khác ngủ. Chúng tôi lớn dần theo những câu chuyện cổ tích của Mẹ kể. Mẹ tôi đã bươn trong rác rưởi đọa đày mà đi, nhưng Mẹ vẫn dành cho chúng tôi những niềm vui trẻ thơ, con cái vẫn là tài sản quý giá và quan trọng nhất đối với Người. Mẹ muốn chị em chúng tôi biết yêu thương nhau, biết hy sinh chia xẻ cho nhau; có ký ức tốt đẹp về tuổi thơ của mình; có kỷ niệm về gia đình êm ấm. Mẹ nói “Con người ta nghèo nàn về vật chất không sao, nhưng ai nghèo nàn về tâm hồn và tâm linh thì đáng tiếc lắm các con ạ. Mẹ muốn các con dù trong hoàn cảnh hiện tại khó khăn đói nghèo, nhưng tâm hồn mình không nghèo nàn”. Mẹ là người đi góp nhặt từng niềm vui, tiếng cười cho chúng tôi trong những hoàn cảnh bi thương nhất của cuộc đời.

Cuối cùng, sau bao nhiêu năm mỏi mòn trông ngóng, Ba tôi trở về từ trại tù. Nhưng gia đình chúng tôi đoàn tụ chẳng bao lâu thì Ba tôi từ trần, khi Mẹ mới vào cái tuổi bốn mươi hai. Nhiều tai nạn dồn dập đổ xuống gia đình tôi, nhưng một lần nữa, vì chúng tôi, Mẹ không ngã gục.

Sau khi chúng tôi tới được đất Mỹ, một lần nữa, vì con cháu, Mẹ đành bỏ lại quê hương, nơi Mẹ đã sống gần bảy mươi năm; sang một đất nước xa xôi, lạ lẫm, bất đồng ngôn ngữ, văn hóa. Lòng Mẹ đau đáu nhìn về nơi chôn nhau cắt rốn, đau xót; nơi ấy Ba tôi đã nằm xuống, mồ im mả lạnh.

Cuộc đời của Mẹ tôi, cũng như của tất cả những bà Mẹ Việt Nam cùng thời, buồn nhiều hơn vui. Thời chiến thì mất chồng, mất con, sống trong cảnh đạn bom khói lửa và những cuộc di cư lánh nạn triền miên; đến “thời bình” thì bị giam cầm, nghèo khổ trong trại tù lớn là cả quê hương Việt Nam. Sang đến Mỹ, một đất nước giàu có, tự do thì lại làm những công việc chân tay cực khổ, nuôi con ăn học. Nhưng khi con khôn lớn, lập gia đình, thì cũng chỉ một mình mẹ trong căn nhà trống vắng.

Những bài thơ về chữ Hiếu, stt báo hiếu cha mẹ

Trong mùa lễ Vu Lan, tôi tự hứa với lòng mình là sẽ làm mọi thứ để giữ nụ cười và chút niềm vui còn sót lại trên gương mặt đã già nua và hằn những vết đau khổ của Mẹ.

Cầu mong cho những tháng ngày còn lại của các bà mẹ được yên bình, vui vẻ bên cháu con.

Trang Diệp

Share Lại Người Lính Già TQLC

 From Tu – Phung

Câu chuyện: Già “khú đế” – BS Đỗ Hồng Ngọc

Những Câu Chuyện Thú Vị – Nguyen Minh

  Ngạc nhiên vì bài viết của BS Đỗ Hồng Ngọc được nhiều người tán thưởng…ngẫm ra độc giả …đa số đều già nên thấm thía những gì ông viết…

Mời các bạn đọc tiếp nhé :

Câu chuyện: Già “khú đế”

BS Đỗ Hồng Ngọc

  1. “Già khú” là giai đoạn một, thêm một bước nữa thì gọi là “già khú… đế”. Khú, Từ diển tiếng Việt bảo là “để thâm lại và có mùi hôi”, thí dụ dưa khú, tức là một thứ dưa để lâu quá, sắp hư. Khú đế là “vua” của khú, hơn hẳn các khú!

Thật là một sai lầm lớn khi ta nghĩ rằng già sẽ đến từ từ, cứ từ từ mà thích nghi, mà giải quyết mọi chuyện lần lượt. Không đâu. Già nó xồng xộc trên trời rơi xuống, dưới đất vọt lên. Không những xồng xộc nó còn gia tốc, tàn bạo như cơn sóng vỗ vào bờ đá, vội vã để mau chóng nhập vào dòng nước cuồn cuộn đuổi theo sau. Nó mạnh mẽ và tàn nhẫn, tung tóe, tan tác, lắng chìm, không một chút xót thương. Nó lãnh đạm bởi nhiệm vụ nó phải thế. Nó thú vị bởi nó không phân biệt. Giàu nghèo sang hèn, da trắng, da đen… Còn ta, ta chần chờ, chểnh mãng, làm ngơ… Hãy đợi đấy. Đi đâu mà vội… Không đâu! Một hôm già bỗng chuyển hệ sang già…khú, rồi khú đế đột ngột làm đảo lộn mọi thứ tính toan. Quên tuốt những ký ức, lẫn lộn điều nọ với điều kia, thứ này với thứ khác, tai không nghe rõ, nói không trôi chảy, mắt không nhìn tinh… như làn sóng đã bắt đầu tung tóe!

Già đến đột ngột và tàn bạo. Như một cơn động đất, không cần phải hỏi han, không cần báo trước. Như một cơn bão dữ, thổi ào qua, cuốn tất cả không thương tiếc. Khi nó khú đế, nó sẵn sàng làm ta trở nên lố bịch, buồn cười, ngớ ngẩn, đáng thương. Khi nhìn quanh những người già khú đế mà… còn khỏe, ta nghĩ ta chắc cũng sẽ như họ. Còn lâu. Số người như vậy rất hiếm.

Nhưng, như vậy phải chăng làm ta sẽ nhìn đời bi quan ? Không đâu. Trái lại. Nó làm cho cuộc sống của ta có chất lượng hơn, có ý nghĩa hơn. Người ta không cảm nhận được thời gian vì thực ra chẳng có thời gian.

  1. Thỉnh thoảng gặp người bạn thân lâu ngày chưa gặp lại, thấy bạn sao mà nhăn nheo, già khú, hỏi mới biết còn nhỏ hơn mình vài tuổi! Bạn kể cho nghe chuyện đôi khi gặp lại « người xưa » của bạn, tưởng tình ngỡ đã quên đi như lòng cố lạnh lùng, người ngỡ đã xa xăm bỗng về quá thênh thang… Ai dè không vậy. Đôi mắt huyền xưa, chiếc mũi dọc dừa… bây giờ khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang; vai gầy guộc nhỏ, từng ngón xuân nồng bây giờ chuối ngự…. Còn ta thì sao? Nguyên Sa bảo ta chỉ có thể đo đếm tuổi mình qua ánh mắt cố nhân. Thử nhìn vào gương. Có gì khác lạ đâu nào? Ấy là bởi mình quen nhau quá rồi nên chẳng kịp thấy đổi thay. Thế nhưng, đã không còn những dấu chân chim ở khóe mắt mà hằn sâu như vạn lý trường thành… Khóe miệng thì nặng nề trễ xuống như bị sức hút của quả đất. Ở một nơi không có trọng lực chắc không đến nỗi?

Bạn nhắc toàn chuyện nửa thế kỷ trước… Nào đi cắm trại Suối Lồ Ồ với Nguiễn Ngu Í, Lê Phương Chi, Hồ Xích Tú, Nguyễn Công Thuần, Quách Giao…, nào lang thang chợ sách vỉa hè Saigon, “truy lùng” sách quý, nào cà phê chiều tím, chiều nhớ thương ai… Mấy đứa cháu nội mười bảy mười tám ra vòng tay chào bác, chào bác… Bạn quắc mắt: “Ông” chớ sao lại bác! Thấy chưa, tụi nó gọi ông bằng ông nội mà gọi tui bằng bác, thấy chưa?

Bạn có khoảng đất rộng chơi cây kiểng một thời. Cả một vườn mai vàng rực cho những ngày Tết nay đà xơ xác. Căn nhà rộng đã nhường cho các con, cất một mái nho nhỏ bên cạnh như một cái am cốc, một tủ sách, một cái TV, và nhất định không xài điện thoại di động, vi tính… Đủ rồi đó, nay mai, sẽ dọn dần về những căn nhà nhỏ hơn, nhỏ hơn nữa. Rồi cùng mà cười. Bạn nói đã làm xong di chúc. Và cũng đã căn dặn, rải xuống sông Soài Rạp, quê nhà.

Phone cho người bạn ở tận miền Trung xem bạn đã khú ra sao. Bạn đi vắng. Không biết đi đâu. Chị càu nhàu. Hỏi “tình hình” sao rồi? Chịu hổng nổi ổng. Chị nói. Tôi chỉ muốn “cắn” ổng mấy cái! Ấy, chớ, đừng. Đừng cắn. Chị mà cắn ổng người ta tưởng chị “mê” ổng lắm đó. Tục ngữ có câu: “Yêu nhau lắm cắn nhau đau” mà, nhớ không? Hồi xưa hai ông bà mê nhau như điếu đổ! Anh bạn làm thầy giáo, một nhà thơ rất dễ thương, lấy bút hiệu con gái để dễ đăng những bài thơ mượt mà trên các báo thời đó. Giờ anh đi lai rai chỗ bạn bè, em cháu, những chốn chùa chiền…

  1. Nhân có bác sĩ Thịnh ở Mỹ về, chúng tôi ơi ới gọi nhau rôm rả ở một quán hải sản thành phố. Theo lời một anh bạn, quán hải sản có cấu trúc mỗi phòng như một khoang thuyền để mọi người lắc lư cùng sóng gió.

Thiệt là tay bắt mặt mừng. Nhiều khi ngớ ra. Biết mặt mà quên tên. Biết tên mà quên mặt. Học chung với nhau dưới mái trường y khoa Saigon đằng đẵng bảy năm trời, không thể không quen, vậy mà đôi lúc cũng ngỡ ngàng, chưng hửng! Người thì hom hem… người thì béo ị… người bạc trắng, người cà khêu… Ôi cái thời sinh viên y khoa hào hoa phong nhã, tếu táo vung trời! Có lẽ do cái sự học y dài lâu và nghiệt ngã, tiếp cận bao nỗi con người… nên bọn y khoa nổi tiếng là tiếu lâm hạng nhứt, mặc dù học hành nghiêm túc chẳng ai bằng!

Nhớ thời đó, ai vào y khoa cũng bị đặt cho một cái “biệt danh”, cái “hỗn danh”, cái “tục danh” chịu hổng nổi, rồi chết cứng với tên gọi đó suốt đời. Bạn bè gặp nhau chỉ cần kêu một tiếng thì cả một dĩ vãng ùa về…! Tên có thể quên chớ tục danh thì khó mà không nhớ. Thịnh, là Thịnh Văn Chương, “Chương còm”. Qua Mỹ mất tên, còn họ, “Doctor Thịnh”! Tại sao còm? Bởi còn có Chương “chuột”, rồi Cầm “chim”, Sơn “gà”…Tại sao chuột? Nhìn nó… chuột, thế thôi. Còm nay đã hết còm, chuột nay không còn chuột. Thế mà cái “tục danh” còn đeo đẳng mãi làm nhớ cái anh ốm nhom, lòm còm mà nhanh nhẹn, cái anh thấp lùn mà lém lĩnh, thông minh…. Còn anh bạn Mai cao nhòng, ngất ngưỡng, hình như có lúc làm ban đại diện lớp, được gọi là “Mai vói” (phát âm theo giọng Nam bộ!), bởi ai muốn nói chuyện với anh cũng phải vói lên một chút!. Rồi bạn C – có lẽ vì nghiêm trang, ít khi đùa giỡn – nên được gọi là “ C bặt”. Nhưng chuyện của anh bây giờ là một tấm gương luôn được bạn bè nhắc tới. Anh bị đủ thứ bệnh, toàn bệnh nặng, biến chứng tùm lum, mấy phen tưởng đã xong, thế rồi anh quyết định tự xây cho mình một cái kim tĩnh… Từ đó anh khỏe hẳn ra, không thèm bệnh, không thèm chết nữa!

Bỗng có bạn hỏi, Lộc bây giờ ở đâu? Lộc nào? Lộc nào? Nhao nhao lên. Lộc “tr” hả? Đang ở Úc, rồi Q heo, rồi H “nám”, để khác với H “Rhade”, H “mù”, H “con”… Rồi Cường “sùi”, Thăng “lùn”, Bá… kẻ còn người mất. Cả đám bác sĩ vào trường y nửa thế kỷ trước bây giờ đều trên dưới bảy mươi không mấy ai là không bệnh tật! Đã bệnh thì toàn thứ dữ. Bác sĩ mà! Nhồi máu cơ tim, nong, stent, by pass… tai biến mạch máu não, tiểu đường, thận, khớp,…

Nhưng thật lạ lùng, bạn bè cũ cứ ngồi với nhau một lúc nhắc những chuyện xưa bỗng dưng ai nấy đều trẻ lại không ngờ. Trẻ như không hề có thời gian.

Muốn tìm lại tuổi trẻ,

Cứ đi kiếm bạn già!

Chuyện xưa như pháo nổ,

Tuổi trẻ về tà tà

Thân người dùng quá đát,

Bệnh tật tới phà phà!!!

Chữa đây, nẩy ra đó?

Bực mình cười ha ha.

Chẳng chữa, xây kim tĩnh!

Quên quá, thì cứ khà,

Tụ tập khú và đế,


 

 Bhutan

  Bhutan

Bhutan là đất nước nhỏ nhắn nằm cheo leo trên những triền núi của dãy Hymalayas hùng vĩ. Được mệnh danh là đất nước hạnh phúc nhất thế giới, ở Bhutan không có sự phân biệt giàu nghèo, họ không coi trọng vật chất mà lấy thước đo tinh thần làm chỉ số đánh giá hạnh phúc trong cuộc sống. Người Bhutan luôn duy trì niềm vui trong cuộc sống và nụ cười mãn nguyện luôn nở trên môi.

Ở Bhutan, trẻ con không được hỏi rằng “Hôm nay con được mấy điểm?”, mà là “Hôm nay con có khiến ai mỉm cười không?”

Người Bhutan dạy con không phải bắt đầu từ những bài học về toán hay tiếng Anh, mà bắt đầu từ việc cúi đầu chào một cụ già, chia đôi bánh với bạn và buông tha cho một con kiến đang tìm đường về tổ.

Trong mỗi bữa ăn, họ nhắc con thầm cảm ơn người đã nấu, người đã gieo trồng, người đã gánh gạo qua núi rừng…

Lòng biết ơn ấy thấm dần thành sự tử tế không cần điều kiện.

Họ không trừng phạt khi con nổi giận, họ ngồi bên và nói:

“Con buồn phải không? Mình cùng thở nhé.”

Chỉ vậy thôi, cơn giận bé lại như một đám mây tan trên đỉnh núi.

Ở nơi ấy, lòng từ bi không phải điều cần dạy, mà là điều cần sống cùng mỗi ngày.

Từng cái nắm tay, từng cái ôm, từng lời nói dịu dàng – chính là mảnh đất để hạt giống yêu thương lớn lên trong con trẻ.

Có lẽ, ta không cần dạy con trở thành người giỏi nhất lớp.

Chỉ cần con biết không giẫm lên hoa, không cười khi bạn khóc, và biết xin lỗi khi lỡ làm ai buồn.

(Theo Những Câu Chuyện Nhân Văn)

 From: haiphuoc47 & NguyenNThu

BẢN DI CHÚC KỲ LẠ CỦA MỘT TỶ PHÚ

Xuyên Sơn

 Chừng 33 năm trước, vợ của một thương nhân ở Washington (Mỹ) đã bất cẩn đánh rơi chiếc túi da trong bệnh viện vào một buổi tối mùa đông.

Thương nhân vô cùng sốt ruột đi ngay trong đêm đó để tìm.

Bởi vì trong túi da không chỉ có 100.000 đô la mà còn có bản thông tin thị trường vô cùng cơ mật…

Khi người thương nhân đến bệnh viện đó, ông liền trông thấy ở một hành lang vắng lặng, lạnh giá của bệnh viện có một cô bé gầy gò đang co ro rét run bần bật ngồi dưới sát bức tường.

Thứ cô bé đang giữ chặt trong lòng chính là chiếc túi da mà vợ ông đánh mất.

Thì ra cô bé có tên là Siada này đến bệnh viện để trông nom người mẹ đang mắc trọng bệnh.

Hai mẹ con dựa vào nhau mà sống,gia cảnh rất nghèo, đã bán đi tất cả đồ đạc trong nhà, số tiền gom góp được vẫn chưa đủ chi phí thuốc men chữa bệnh trong một đêm.

Không có tiền ngày mai biết làm thế nào bây giờ?

Tối hôm đó, Siada bất lực đi đi lại lại trong hành lang bệnh viện, cô thành kính cầu Thượng Đế bảo hộ, có thể gặp được người hảo tâm cứu mẹ cô.

Bỗng nhiên một phụ nữ từ trên tầng đi xuống, khi đi qua hành lang thì chiếc túi da dưới nách cô rơi xuống.

Có lẽ do dưới nách cô vẫn còn vật gì khác nên khi túi da rơi mất mà cô vẫn hoàn toàn không phát hiện ra.

Khi đó hành lang chỉ có một mình Siada. Cô chạy lại nhặt chiếc túi lên và vội vàng chạy ra ngoài cửa đuổi theo người phụ nữ kia, nhưng người phụ nữ đó đã bước lên một chiếc xe con và phóng đi.

Siada trở về phòng bệnh. Khi cô mở túi ra, hai mẹ con cô kinh ngạc vì những tờ giấy bạc xếp thành từng xấp. Lúc đó trong lòng hai mẹ con đều hiểu rõ, dùng số tiền này có thể chữa khỏi bệnh mẹ. Nhưng mẹ cô lại bảo cô đem túi da quay trở lại hành lang, đợi người đánh mất đó quay lại lấy.

Mẹ của Siada nói:

-“Người mất tiền nhất định rất lo lắng. Trong cả cuộc đời con người thì việc đáng làm nhất chính là giúp đỡ người khác, lo lắng nỗi lo lắng của người khác. Việc không được làm nhất là tham lam tiền tài bất nghĩa, thấy tiền tài mà quên đạo nghĩa”.

Người thương nhân sau khi tìm lại được chiếc túi, cảm kích vô cùng, đã dốc hết sức mình giúp đỡ.

Nhưng mẹ của Siada vẫn để lại đứa con gái cô độc một mình mà ra đi mãi mãi.

Hai mẹ con Siada không chỉ đã giúp người thương nhân có lại được 100.000 đô la mà quan trọng hơn là lấy lại được thông tin thị trường cơ mật bị mất đó.

Nhờ thông tin này mà thương nhân đã làm ăn như diều gặp gió, rất nhanh chóng đã trở thành một triệu phú lớn.

Sau này, Siada được triệu phú nhận nuôi.

Sau khi học xong đại học, cô trở lại giúp cha nuôi của mình quản lý việc kinh doanh.

Việc kinh doanh rất phát đạt và người triệu phú nọ đã nhanh chóng trở thành một tỷ phú.

Tuy ông không ủy nhiệm cho Siada bất kỳ chức vụ thực tế nào nhưng bởi được rèn luyện trong thương trường lâu dài, lại được học hỏi rất nhiều từ cha nuôi, Siada đã trở thành một nhân tài kinh doanh đầy triển vọng.

Đến khi cha nuôi cô tuổi cao, sức yếu, rất nhiều ý kiến đều tham vấn Siada.

Tới khi vị tỷ phú lâm chung, ông đã để lại một bản di chúc khiến người ta ngạc nhiên:

“Trước khi tôi quen biết 2 mẹ con Siada, tôi đã là người có rất nhiều tiền rồi. Nhưng khi tôi đứng trước mặt 2 mẹ con nghèo khổ bệnh tật hiểm nghèo, nhặt được số tiền lớn mà không lấy, tôi đã phát hiện ra họ mới là những người giàu có nhất, bởi vì họ đã giữ được chuẩn mực cao nhất làm người.

Đây chính là điều mà những thương nhân như tôi lại thiếu nhất.

Tiền bạc của tôi dường như đều là có được từ việc lừa dối, đấu đá tranh giành.

Hai mẹ con họ đã khiến tôi hiểu ra được vốn liếng lớn nhất của đời người chính là phẩm hạnh.

Tôi nhận nuôi dưỡng Siada không phải bởi vì cảm tạ báo ơn, cũng không phải vì cảm thông với hoàn cảnh của cô bé, mà đó là thể hiện sự kính trọng với một tấm gương làm người.

Có cô bé ở bên, trên thương trường tôi luôn từng giờ từng phút ghi nhớ điều gì nên làm, điều gì không nên làm, tiền nào nên kiếm, tiền nào không nên kiếm.

Đây chính là nguyên nhân căn bản giúp sự nghiệp của tôi sau này hưng thịnh phát đạt, trở thành tỷ phú.

Sau khi tôi qua đời, toàn bộ tài sản hàng tỷ đô la của tôi đều để lại cho Siada thừa kế.

Đây không phải là tặng, mà là để cho sự nghiệp của tôi càng phát triển thịnh vượng huy hoàng hơn nữa.

Tôi hoàn toàn tin tưởng, đứa con trai thông minh của tôi sẽ hiểu dụng tâm của cha nó”.

Khi người con trai của tỷ phú từ nước ngoài trở về đã xem kỹ di chúc của cha, lập tức không do dự ký tên vào bản Giao kết thừa kế tài sản.

Anh ta viết:

“Tôi hoàn toàn đồng ý Siada kế thừa toàn bộ tải sản của cha tôi.

Tôi chỉ thỉnh cầu Siada có thể làm phu nhân của tôi”.

Siada đọc những dòng chữ con trai tỷ phú viết, trầm ngâm một lúc rồi cầm bút viết:

“Tôi xin tiếp nhận toàn bộ tài sản của cha nuôi để lại – bao gồm cả con trai ông”.

Bản di chúc kỳ lạ của một tỷ phú: Vốn liếng lớn nhất đời người là phẩm hạnh.

Theo Helino


 

Sách cũ miền nam 1954 -1975- Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

03/10/2025

Đã định tâm như thế rồi. Cho nên, khoảng 6 tháng trước khi về Sàigòn để thăm lại bạn bè, bà con mình, tôi đã nhờ bạn bè bên ấy tìm cho tôi những sách mà tôi muốn tìm. Thật ra ít có ai có thì giờ và có lòng để đi làm một công việc vô bổ như thế. Biết bao nhiêu phần đời tôi, biết tìm cái gì, biết mua ra sao…

…Rất may là tôi còn những người bạn có lòng để tâm giúp đỡ, tên anh là Hồ Công Danh. Đó không phải là đi mua sách cũ mà là một việc truy lùng, sục sạo, mò mẫm đầy bất trắc và may rủi, nhưng cũng đầy thú vị và mủi lòng.

Bởi vì sách vở thời ấy, số phận nó như số phận người. Nó cũng phải trốn chạy, chui rúc, ẩn náu. Chúng cũng rơi vào cảnh mồ côi cha mẹ, cảnh lạc đàn, cảnh tan nát, cảnh tan hoang mất còn. Vận người dân miền Nam thế nào, vận chúng như thế. Đứa may trốn thoát. Tôi có đứa cháu trai, hồi đó, 6, 7 tuổi. Khi đi di tản năm 1975, cháu chỉ mang cặp sách của cháu và nhặt một cuốn sách giáo khoa tâm lý học tôi viết thời đó. Sang sau vài năm, cháu đưa lại cho tôi. Kể cũng mừng và cũng buồn cười. Đứa yểu tử thì làm mồi cho cuộc phần thư. Đứa không may làm giấy gói xôi buổi sáng. Đứa bất hạnh làm giấy chùi đít. Đó là cuộc trốn chạy vô tiền khoáng hậu mà những kẻ đi truy lùng chỉ là các trẻ con lên 12, 13 tuổi. Các cháu ngoan bác Hồ. Họ xô những đứa trẻ con vô tội đó ra đường. Chúng quàng khăn đỏ hô hoán, reo hò như trong một vụ đi bắt trộm, hay đi bắt kẻ gian. Chúng lục soát tận tình, chúng đánh trống, chúng hát hò như một cuộc ra quân của một đoàn quân chiến thắng.

Gia đình nào cũng sợ hãi cái quang cảnh đó nên kẻ mà phải hy sinh đầu tiên chính là sách vở.

Sách vở gì cũng sợ nên sách gì cũng phải tẩu tán. Sách vở bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, mặc dầu chúng là người ngoại quốc, mặc dầu chả dính dáng gì đến chuyện chính trị hay chiến tranh Việt nam, chúng cũng chịu chung số phận. Tôi cũng có khá nhiều sách vở bằng tiếng Pháp, nhưng tôi biết rằng, trước sau gì tôi sẽ không bao giờ dùng đến chúng nó nên lôi ra bán ve chai mà không thương tiếc. Sách nhỏ bán trước, sách lớn bán sau, cuối cùng là bộ Bách Khoa tự điển bằng tiếng Anh tuần tự rơi vào tay các ông bà bán ve chai. Ở nơi ấy, chẳng mấy khi mà Aristote gặp được Kant. Cũng chẳng ai ngờ được Bùi Giáng gặp mặt được Heideigger.

Sách cũ đối với tôi là một ám ảnh mời gọi tìm về. Trong đó đặc biệt có truyện sưu tập tài liệu triết cũ. Cũng từ những sách cũ đó mà trước đây tôi lớn lên, được nuôi dưỡng và phát triển về trí năng mỗi ngày. Nếu cơm gạo miền Nam cho tôi lớn lên thì sách miền Nam nuôi dưỡng tôi thành người thông tuệ.

Đi truy lùng lại sách cũ là tìm lại một phần bản thân tôi vậy.

Nhưng khi tôi nói sách cũ thì không có nghĩa là sách cổ, mà là sách của miền Nam xuất bản trước 1975. Sách mà theo báo cáo của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng tại kỳ họp thứ nhất của Quốc Hội, ngày 26 tháng 6, năm 1976 là: “Việc xây dựng nền Văn Hóa mới đuợc tiến hành trong cuộc đấu tranh quét sạch những tàn dư mà Mỹ đã gieo rắc ở miền Nam. Đó là thứ Văn Hóa ‘nô dịch’, lai căng, đồi trụy, cực kỳ phản động..” [I].

Để thực hiện nghị quyết trên, họ đã làm mọi cách: tịch thu, tàng trữ và đốt sách và coi sách vở báo chí miền Nam chỉ là thứ rác rưởi. Phần tôi, tôi dám gọi đó là đống rác tinh thần, tài sản của tất cả trí thức, nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà phê bình, nhà khoa học miền Nam trong vòng hai mươi năm đã bị đốt. Tóm lại, đó là đống rác thân yêu của miền Nam, cho người miền Nam gìn giữ lấy.

A.- Tình hình sách cũ hồi 1975.

Cộng chung số sách đã bị tịch thâu, hay bị đốt theo là bao nhiêu. Hình như chưa có ai hỏi câu hỏi đó và cũng chưa bao giờ có câu trả lời. Có thể chẳng ai biết được. Chỉ tính theo đầu sách thôi, các số liệu cũ của Bộ Thông Tin cho thấy, vào tháng 9-1972, theo Ủy Hội Quốc Gia Unesco, Việt Nam Cộng Hòa trung bình đã cấp giấy phép cho 3000 đầu sách được xuất bản một năm. Cộng chung từ năm 1954 đến 1975, đã có khoảng từ 50.000 – 60.000 đầu sách đủ loại được xuất bản, thêm vào đó 200.018 đầu sách ngoại quốc được nhập cảng. Giả dụ mỗi đầu sách in tối thiểu 3000 cuốn. Sẽ có 180 triệu cuốn sách tiếng Việt bị tiêu hủy. Đây chỉ là một lối tính ước chừng. Và như vậy số sách bị tịch thâu, bị đốt, bị bán ra vỉa hè hay ve chai là khoảng 180 triệu cuốn trên khắp miền Nam. Miền Nam theo nghĩa từ Bến Hải vào đến Cà Mâu.

Con số này đã không còn đúng nữa khi ta đọc một bài viết của ông Vũ Hạnh, một nhà văn thời VNCH và là một đảng viên cộng sản trong bài: “Mấy ý nghĩ về Văn Nghệ thực dân mới đăng trong tuần báo Đại Đoàn kết: Từ 1954 đến 1972, có 271 ngàn loại sách lưu hành tại miền Nam, với số bản là 800 triệu bản.” Trong khi đó sách của ông Trần Trọng Đăng Đàn đưa ra con số 357 ngàn loại. Và ông Đàn dám cả gan nói: Như vậy là con số của Vũ Hạnh gần như khớp với con số chúng tôi tìm được. Thưa ông Trần Trọng Đăng Đàn, con số cách nhau gần một trăm ngàn mà ông dám bảo là khớp thì tôi chịu ông. Các ông đã bao giờ biết nói thật chưa.

Cũng vậy, tờ Tin Sáng số ra ngày 1 tháng 8, năm 1976 tính rằng: Từ năm 1962 về sau, tại Nam Việt Nam đã xuất bản 208 bộ sách chưởng, gồm 850 quyển, con số phát hành này ước tính 5 triệu bản, bằng số sách giáo khoa trung học xuất bản cùng thời gian. [ii]

Con số này, xin nhờ những vị chuyên gia về Kim Dung cho biết xem thực hư ra sao. [iii]

Độc giả thân mến, xin ghi nhận những thống kê của Ủy Hội Quốc Gia Unesco VN là tài liệu đáng tin cẩn. Tôi chỉ xin nói một điều, nước Pháp hiện nay mỗi năm xuất bản khoảng 1000 đầu sách tiểu thuyết mới. Làm sao VNCH có thể xuất bản mỗi năm hơn 20 chục ngàn đầu sách một năm. Những con số của ông Vũ Hạnh hay gì khác là một thổi phồng đến phi sự thực. Tôi không dám bảo là ông ấy nói láo khoét. Hãy trả lại các ông ấy những gì các ông ấy viết. Chỉ cần so sánh con số dự đoán giữa ông và Trần Trọng Đăng Đàn đưa ra cũng cách nhau cả gần một trăm ngàn đầu sách. Điều đó muốn nói với chúng ta điều gì.

Nay tất cả những sách đó đều ra tro. Đây là một chính sách man rợ và xuẩn động của nhà cầm quyền Hà Nội. Dĩ nhiên, người ta đã không đốt hết mà mang bán, chính vì thế nay còn rơi rớt lại một số nhỏ nơi các tiệm bán sách.

Vì sợ hãi nên người ta mang sách vở tài liệu ra chợ bán ký, đó là thứ hàng vô dụng và nguy hiểm nhất trong lúc ấy. Người ta đốt những sách nào liên quan đến chính trị, nhất là sách vở chống Cộng. Người ta đốt những nhà văn nào liên quan đến chính trị như Nguyễn Mạnh Côn. Nhã Ca, Phan Nhật Nam v.v… Người ta cũng đốt tài liệu, hình ảnh cũ, giấy tờ, huân chương, bằng khen. Đó cũng là thứ mà những người chủ mới không muốn nó có mặt.

Người ta đốt tất cả những kỷ niệm, dù đẹp nhất của đời mình.

Mọi người phải tự hiểu rằng, phải đốt tất cả những gì cần đốt, không phải chỉ đốt những kỷ niệm mà tất cả những gì liên quan đến đời sống đó. Một đời sống mà tự nó đã là một điều xấu, một bản án.

Muốn sống yên, người ta phải đốt tất cả quá khứ đời một người cùng với những kỷ niệm, những sự nghiệp từ quá khứ đó mà ra.

Sách không đốt thì được bày bán lén hoặc công khai. Sự bầy bán sách vở như thế coi như dân chúng bắt mạch được thâm ý người chủ mới muốn gì. Nhưng trong số vạn người bán, vạn người mua, vẫn có những người nhà buôn bất đắc dĩ mà đặc loại là một số nhà văn, nhà giáo chế độ cũ nắm được cái chìa khóa của nhu cầu và ý nuốn của người đọc. Họ tìm ra giữa những kẽ hở để thấy được trong hàng tấn sách báo thải loại, cái nào là thứ hàng có giá trị, có giá đối với người chủ mới. Nạn chợ đen, nạn săn tìm sách cũ cho một thị trường mới nhờ thế càng phát triển.

Một cách nào đó, chính những nhà giáo, nhà văn, những kẻ bán sách lề đường, những tên lái sách trở thành những người bảo tồn Văn hóa miền Nam.

Sách phản động càng cấm, càng có giá. Đó là phản ứng ngược chiều ở thời điểm đó. Trên báo Đại Ðoàn Kết, ngày 10-11-1982, Đinh Trần Phương Nam thú nhận một thực tế phũ phàng như sau: “Các hoạt động của chúng ta vừa qua thật rầm rộ, thật phong phú và đa dạng, song các loại sách báo phản động đồi trụy, đã bị quét hết chưa. Xin thưa ngay là chưa.” Số Tiền Phong ngày 23-9-1985 cũng than thở “Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện nhiều đợt bài trừ sách báo xấu, nhưng hiện nay hiện tượng mua bán và cho thuê các loại sách báo xấu vẫn còn tồn tại.” [iv]

Những sách càng bị cấm lại càng có giá trên thị trường đen. Trên vỉa hè phố, những sách từ ngoài đó được phép bầy bán nằm chống mốc, cong queo ít được ai ngó tới. Người ta bầy những sách trên để che mắt mà thôi. Người mua sách sành điệu chỉ cần hỏi tên một tác giả nhà văn Ngụy. Năm phút sau, chạy đi một lúc có liền.

Lại một thách đố nữa cho người chủ nhân ông mới.

Sách Ngụy trở thành một thách đố chính quyền mới, thách đố ai hơn ai chứ không phải ai thắng ai.

Thách đố mang tầm vóc văn học, giá trị nghệ thuật dựa trên nhu cầu người đọc. Sách hay thì tìm đọc, sách tuyên truyền thì không đọc.

Đài phát thanh thành phố ra lệnh phải thu nộp tất cả các sách vở, báo chí, phim ảnh, tài liệu in ấn trước ngày 30 tháng tư được coi là đồi trụy. Nhiều người tiếc rẻ đem bán kilô. Các gói xôi bán buổi sáng, nay có tên Nguyễn Thụy Long, Nhã Ca, Thanh Tâm Tuyền. Vừa ăn, vừa đọc kể cũng vui. Nhiều chỗ mang sách vở cũ ra đốt. Mà phải đốt lén vào ban đêm.

Nhưng sau đó ai cũng thấy đốt là phí phạm. Không đốt thì sách vở đó đi đâu? Không ai biết nữa. Nhiều người nhắc nhở đến tên Tần Thủy Hoàng. Nhưng chẳng ai để ý đến có mối liên hệ gì giữa chuyện xưa và chuyện nay.

Tại sao lại dị ứng với văn học như thế? Không lẽ tất cả đều là phế liệu, tàn dư Mỹ Ngụy hết sao?

Sách nào là phản động, đồi trụy?

Vì thế sách cũ ở đây được đồng hóa với sách cực kỳ phản động, không phản động thì đồi trụy, không đồi trụy thì lai căng. Mấy chữ trên như những khẩu lệnh bao trùm và truy chụp hầu như bất cứ tác giả nào và bất cứ quyển sách nào.

  • Trước hết, các nhà xuất bản sách thiếu nhi bị cấm toàn bộ.

Đó là các nhà xuất bản như Tuổi Thơ, Nắng Sớm, Tuổi Hoa Niên, Sách Đẹp, Viễn Du, Hùng Dũng, Hoa Hồng, Hoa Hướng Dương, Hoa Mai.

  • Các dịch giả Kiếm Hiệp sau đây cũng bị cấm: Kim Dung, Cổ Long, Trần Thanh Vân, Nam Kim Thạch, Từ Khánh Phụng, Phan Cảnh Trung, Long Đức Nhân.
  • Các tác giả có sách bị cấm toàn bộ như: Bùi Giáng, Chu Tử, Dương Nghiễm Mậu, Duyên Anh, Doãn Quốc Sỹ, Đinh Hùng, Nguyễn Mạnh Côn, Hoàng Hải Thủy, Lệ Hằng, Mai Thảo, Nguyên Sa, Nguyễn Đình Toàn, Thế Uyên, Thanh Nam, Võ Phiến, Văn Quang, Vũ Hoàng Chương, Vũ Tài Lực, Nguyễn Mộng Giác, Thảo Trường, Nguyễn Thị Hoàng..

Nhận xét:

– Những nhà xuất bản sách thiếu nhi này ấn hành đặc biệt các truyện dành cho thiếu nhi. Những sách đó có tính cách giáo dục, giải trí, hay nêu gương tốt cho các em thiếu nhi. Nội dung lành mạnh và có chất lượng giáo dục. Những nhà xuất bản này thường bất vụ lợi, có sự tài trợ đằng sau của những tổ chức tôn giáo, hay những nhà xuất bản có lòng như trường hợp ông Khai Trí. Vậy mà tội tình gì cũng bị cấm. Cứ cấm là cấm, cấm một cách trùy dập vô tội vạ và vô ý thức.

Các trẻ em miền nam tự nhiên mù chữ vì không có sách đọc.

Về các dịch giả truyện Kiếm Hiệp cho thấy đây là những sách dịch vô tội vạ, vô thưởng vô phạt xét về mặt luân lý, giáo dục. Chủ đích của người dịch trước hết có thể là giải trí người đọc. Ai đọc truyện kiếm hiệp chả thấy hấp dẫn và hay, đọc để giải trí. Sau đó mới nói tới những chủ đề tình yêu, y học, võ thuật, nhân vật truyện, chất hài, chất ghen tuông, chất giang hồ, kiếm pháp trong các truyện kiếm hiệp ấy. Sách phải được coi là bổ ích và nó là bộ phận không nhỏ trong sinh hoạt Văn học miền Nam.

Trẻ đọc, già đọc, bình dân đọc, trí thức đọc… Mỗi người tìm ra được cái thích thú cho riêng mình.

Đến có thể nói, một trong những nét đặc thù trong sinh hoạt Văn Học miền Nam là sách của Kim Dung.

Kim Dung tên thật là Trà Lương Dung. Truyện võ hiệp đầu tay là Thư Kiếm Ân Cừu, xuất bản ở Hương Cảng, từ đó có bút danh Kim Dung. Năm 1957 ra bộ Anh Hùng Xạ Điêu, 1969 ra Lộc Đỉnh Ký. Cho mãi đến 1978 Đài Loan mới rút lệnh cấm tác phẩm Kim Dung và 1986, sau khi tiến lên 4 Hiện Ðại Hóa ở Trung Quốc mới xuất hiện Kim Dung. Truyện chưởng Kim Dung “độc bá quần hùng” trong sinh hoạt văn học ở miền Nam thời ấy. Vào năm 1968, khi xuất hiện Tiếu Ngạo Giang Hồ trên tờ Minh Báo thì có đến 44 nhật báo ở Sàigòn đều tranh nhau dịch và đăng lại. Tình trạng mê Kim Dung đến như thế, và kéo dài cho đến 1972-1974 khi bộ Lộc Đỉnh Ký ra đời. Và đây là lời Vũ Đức Sao Biển, tốt nghiệp Đại học Văn Khoa, Sàigòn, ban Hán Văn: “Tôi học cách làm người, cách đối xử nhân thế, đắc thủ được những kiến thức hoàn toàn không có trong giáo trình đại học từ các tác phẩm của một nhà văn nước ngoài chưa hề biết mặt.”

Với lượng tác phẩm đồ sộ như thế, với số người đọc đông như thế, không thể không tìm hiểu văn học miền Nam nhất là văn học dịch mà bỏ qua tác giả Kim Dung. Người ta có thể bàn về bất cứ vấn đề nào của con người, của xã hội. Có thể từ tình yêu, bạo lực, đạo đức, tâm lý hay sự đánh tụt giá của chủ nghĩa bạo lực trong truyện Kim Dung. Từ vấn đề nghệ thuật, cách xây dựng nhân vật tiểu thuyết, chất thơ, chất hài… đến chứng cứ kiếm pháp, Võ và Hiệp, cho đến những vấn đề có thể trở thành tranh luận văn học như hư cấu nhân vật, hư cấu lịch sử. Kim Dung đã hư cấu lịch sử Trung Hoa cách đấy ba thế kỷ mà vẫn hay với cấu trúc tiểu thuyết liên hoàn. Vương Sóc, nhà văn-nhà phê bình Trung Hoa (mà nghĩ đến ông tôi bắt nghĩ đến Trần Trọng Đăng Đàn của Việt Nam), đã gọi tiểu thuyết Kim Dung là một trong “tứ đại tục” bởi đã hư cấu méo mó hình tượng người Trung Hoa. Từ đó đã gây thành những tranh luận lớn khắp Hoa Lục. Lại còn vấn đề tôn giáo, giáo phái trong tiểu thuyết. Luận về anh hùng và những nhân vật biểu tượng như Kiều Phong, một đại trí, đại dũng lại rất giầu tình cảm và lòng nhân ái vời vợi? Trương Vô Kỵ, Lệnh Hồ Xung, tài trí hơn người, hành xử quang minh lỗi lạc, tốt bụng hơn người? Dương Quá, Địch Vân, Hồ Phỉ… Rồi còn nhân vật nữ, những mỹ nhân như Hân Tố Tố, Nhậm Doanh Doanh, Triệu Minh, Tiểu Siêu, Song Nhi, v.v… mỗi người mỗi vẻ, mỗi người một thông điệp. Không có những nhân vật nữ đó, tiểu thuyết Kim Dung còn gì?

Vấn đề tâm đắc đối với tôi: Vấn đề chính hay tà, vấn đề thị phi trong cuộc đời, giữa Hiệp nghĩa và xã hội đen, giữa danh môn chính phái và ma giáo. Ai chính, ai tà. Tà chính khác nhau chỗ nào? Đọc Kim Dung sẽ thấy sự phân biệt Chính và Tà là vô thực. Trong Kim Dung, có một cố gắng đánh tụt giá những người tự nhận là Chính Nghĩa, và qua họ, những giá trị mà họ tượng trưng. Sự sa đọa xuống tới sự bất nhân, sự dâm loạn, sự ngu xuẩn của những đệ tử phái Toàn Chân thì còn ai tin gì ở Chính Nghĩa?

Chuyện đã hay, cơ man nào nhân vật, cơ man nào tình tiết chòng chéo lôi kéo người đọc. Kim Dung phải là người kiến thức rộng, đọc nhiều, dùng Quan Thoại, một thứ ngôn ngữ trong sáng, lại kế thừa truyền thống của những nhà văn như Lâm Ngữ Đường, Tào Ngu, Lỗ Tấn… đã biến những chuyện võ hiệp tầm thường thành những tác phẩm để đời. Đã vậy, có những dịch giả như Hàn Giang Nhạn chuyển ngữ tài tình làm say mê độc giả VN.

Hễ hay thì người đọc, dở thì bị người bỏ quên.

– Về các tác giả, các nhà văn bị xóa sổ cho thấy tính cách tổng quát hóa và khái quát hóa đồng loạt. Tỉ dụ thơ của Vũ Hoàng Chương như Hoa Đăng, Thơ Say, Tâm Sự Kẻ Sang Tần thì tại sao cấm. Gìn Vàng Giữ Ngọc và Giòng Sông Định Mệnh của Doãn Quốc Sỹ thì chỗ nào là phản động, chỗ nào là đồi trụy. Duyên Anh với Hoa Thiên Lý, Sa Mạc Tuổi Trẻ, Ngựa Chứng Trong Sân Trường, Dấu Chân Sỏi Ðá thì chẳng những không đồi trụy mà còn có tác dụng giáo dục nữa. Thơ Nguyên Sa, Gõ Ðầu Trẻ, Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ thì hoặc là có tác dụng giáo dục, hoặc đặt ra những vấn đề tranh luận trong văn học. Hầu hết người ta không biết hoặc quên rằng Nguyên Sa còn có tập thơ “Những năm 1960”, trong đó là thứ thơ dấn thân, nhập cuộc. Thảo Trường với Người Ðàn Bà Mang Thai Trên Kinh Đồng Tháp thì có giá trị tố cáo sự tàn bạo của chiến tranh. Bùi Giáng với Mưa Nguồn, Đi Vào Cõi Thơ là những chất ngọc nào phải thứ đồi trụy rẻ tiền.

Có vẻ nhà cầm quyền lúc đó muốn truy chụp tác giả hơn là tác phẩm. Vũ Hoàng Chương, Mai Thảo, Duyên Anh, Đinh Hùng, Hoàng Hải Thủy, Nguyên Sa, Chu Tử, Thanh Tâm Tuyền, Nhã Ca, Võ Phiến, Văn Quang, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mạnh Côn, Tạ Tỵ có viết gì cũng vẫn bị coi là thứ biệt kích văn nghệ.

Xin lấy trường hợp Vũ Hoàng Chương làm điển hình. Ai đã gặp Vũ Hoàng Chương rồi thì đều thấy đó là một thi sĩ gầy ốm tong teo, nói năng nhỏ nhẹ, lúc nào cũng ăn mặc rất chải chuốt, tươm tất, đầu chải mượt với cà rà vạt. Tác phẩm thì tóm gọn trong hai chữ mà thôi: Thơ Tình. Cả đời chỉ biết làm thơ. Và chỉ biết có thơ. Nhưng dù chỉ làm thơ cũng bị coi là người bội phản. Ông đã đi tù như một số nhà văn khác như trường hợp Hồ Hữu Tường. Khi ra khỏi tù được vài ngày thì ông chết.

Mai Thảo dù chỉ viết truyện thuần túy văn chương như Người Thầy Cũ, Mười Ðêm Ngà Ngọc, Căn Nhà Vùng Nước Mặn hay Bầy Thỏ Ngày Sinh Nhật cũng vẫn bị coi là tên biệt kích văn nghệ hàng đầu của miền Nam. Thanh Tâm Tuyền dù siêu thực hay lãng đãng bí hiểm như Tôi Không Còn Cô Ðộc, Bếp Lửa, Cát Lầy cũng là kẻ cấy mầm độc tư tưởng ngoại lai thoái hóa. Hủy diệt các niềm tin thì đã có Thanh Tâm Tuyền, Phạm Công Thiện. Duyên Anh có viết Dấu Chân Sỏi Ðá, Hoa Thiên Lý, Thằng Khoa, Gấu Rừng, Giặc Ô Kê cho trẻ con cũng vẫn là tên đầu sỏ văn nghệ nguy hiểm.

Người ta nhắm đánh vào người, nhắm thái độ lập trường chính trị để đánh giá tác phẩm của tác giả. Vì nhắm tác giả nên có nhiều nhà văn tự nhiên được sót tên một cách cố ý. Đó là những nhà văn một mặt nào đó có thể không chịu xếp hàng trong xã hội miền Nam cho dù thực sự họ cũng xếp hàng như mọi người. Có nghĩa là xét về mặt tác phẩm thì những nhà văn này cũng chẳng khác gì các nhà văn vừa kể ở trên. Có gì phân biệt được về phong cách viết giữa Bình Nguyên Lộc với Lê Xuyên hay với Võ Phiến. Nhưng Bình Nguyên Lộc được tha. Giữa Nguyễn Văn Trung và Lý Chánh Trung mà đôi khi ta tưởng hai người có cùng một lập trường, cùng một quan điểm và cùng một đường lối. Nhưng sách vở thì lại bị phân biệt đối xử khác nhau.

Trong số những người sót tên trong sổ đen phải kể đến Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Vũ Hạnh, Lý Chánh Trung, Lữ Phương, Nguyễn Trọng Văn, Thích Nhất Hạnh.

Sự đánh phá và truy chụp đó nói cho cùng là một sự muốn xóa trắng Văn học miền Nam. Xin trích dẫn vài tư liệu làm bằng cớ trong sách Văn Học VN dưới chế độ Cộng Sản của Nguyễn Hưng Quốc, trang 200: “Theo Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức, trong Nhà Văn VN, từ 1954-1975 có 286 bài viết nhằm vu khống, xuyên tạc văn học miền Nam. Chỉ thị của Lê Duẩn sau giải phóng, kỳ họp Quốc Hội khóa 5: Sau ngày giải phóng nhân dân ta đã làm rất nhiều việc nhằm quét sạch những dấu vết và di hại của thứ văn hóa ấy. Công việc này cần được tiếp tục một cách kiên trì, tích cực và triệt để.”

Về những bài viết, xin kể vài bài: Tiếp tục đấu tranh xóa bỏ tàn dư văn hóa mới. Nọc độc văn hóa nô dịch. Những tên biệt kích cầm bút. Lại bàn về nọc độc văn học thực dân mới Mỹ ở miền Nam những năm 1954-75.

Tên những người viết đó là: Trần Trọng Đăng Đàn, Lê Đình Ky, Trần Văn Giàu, Nguyễn Huy Khánh, Thạch Phương, Phan Đắc Lập, Bùi Công Hùng và cả Lữ Phương.

Miền Nam có thể thua cuộc. Nhưng cái văn học đó không có lý do gì bị xóa trắng oan uổng như thế. Bởi vì trong 20 năm sinh hoạt văn học đó, nó xác định cho thấy chỗ đứng của nó với sắc thái và cá tính của một nền Văn học đích thực. Một nền văn học mà sản phẩm của nó là kết quả của tự do suy nghĩ, tự do sáng tác. Đấy là cái ưu vượt của sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam mà trong suốt mấy chục năm chia cắt và cả sau mấy chục năm thống nhất đất nước rồi, người ta vẫn chưa thực hiện nổi một điều đơn giản đó.

Đặc biệt các giáo sư Triết, dù bị phê phán vì rao truyền chủ nghĩa Hiện Sinh, nhưng sách vở của họ lại không bị cấm lưu hành toàn bộ như Lê Tôn Nghiêm, Trần Thái Đỉnh, Trần Văn Toàn, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung và các lớp giáo sư trẻ như Đặng Phùng Quân, Nguyễn Trọng Văn. Trừ một trường hợp đặc biệt, dù là giáo sư triết, nhưng viết văn nên cấm lưu hành toàn bộ như sách của Huỳnh Phan Anh và Nguyễn Xuân Hoàng.

Phần tôi nghĩ rằng, thời kỳ sau 1975, đó là thời kỳ Văn Học bất hạnh cho toàn miền Nam

Bất hạnh vì sách bị tịch thu, bị thiêu hủy. Bất hạnh vì hơn 200 nhà văn, nghệ sĩ bị đưa đi cải tạo. Bất hạnh theo suốt cả đời họ. Vì kể từ đó, họ bị khước từ là nhà văn, bản án tù cứ thế kéo dài mãi mãi vì họ không bao giờ còn có cơ hội để viết. Và kể từ đó đến sau này, ta không còn bắt gặp lại mảnh đất miền Nam với những cây trái văn học nữa, cùng lắm có những cây trái đau khổ, đọa đầy và hủy diệt.

Và cái người bất hạnh nhất, tiêu biểu nhất có lẽ là nhà văn Nguyễn Thụy Long mà người ta quen gọi là nhà văn ‘Loan mắt nhung’. Sau 1975, ông lê kiếp số phận nhà văn như một con chó đói, một loài chuột chui nhúc để kiếm sống.

Hãy nghe ông kể: “Tôi về sống với mẹ già ở Ấp Đông Ba Gia Định sau ngày ‘giải phóng’, bên này Cầu Bông, sau khi bị phía nhà vợ thuộc gia đình Cách mạng đuổi ra khỏi nhà… Tôi ngậm đắng nuốt cay bước ra khỏi nhà sau khi bị vu bao nhiêu là thứ tội, kể cả tội ăn cắp tài sản của chính mình, suốt nhiều năm cầm bút tạo thành… Mất nhà, mất vợ chẳng nói làm gì, vì đã cạn tầu ráo máng rồi, nhưng mất con tôi mới đau.” Sau khi hồ Con Rùa trên đường Duy Tân bị nổ, ông cùng nhiều trí thức, văn nghệ sĩ bị bắt vì vụ này. Xin đọc tiếp: “Những câu chuyện vặt trong phòng giam bỗng im bặt, khi tiếng nói thật lớn thật to ở phòng giam tử tội cuối hành lang cất lên: Chào tất cả các anh em bạn tù, chúng tôi ba người mang án tử hình, sẽ bị xử bắn vào sáng sớm ngày mai, chúng tôi có lời chào vĩnh biệt tất cả các anh em còn ở lại. Tôi là Nguyễn Xuân Hùng, tự Ali Hùng, hai người bạn tôi, một là linh mục, một là chiến sĩ. Tôi là một người Việt Nam lai da đen, xứ Phi Châu Sénégalais, mẹ tôi là người Việt Nam, vậy tôi xin nhận nơi này làm quê hương, vì mẹ Việt Nam của tôi đã nuôi tôi khôn lớn và thành người. Trong phòng giam của tôi, vị linh mục đang quỳ dâng mình cho Chúa, người bạn chiến sĩ thì đang huấn nhục. Tôi có giọng khỏe, xin được hát thân tặng lại tất cả những anh em còn ở lại. Những bài hát thấm đượm tình quê hương của Phạm Duy mà tôi rất ngưỡng mộ.”

Chúng tôi đã mất Sàigòn thật rồi. [v]

Sau này, theo bs Trần Ngọc Ninh viết lại trên tờ Khởi Hành, tháng 9-2005, ông từ chối không cho nhà xuất bản sửa dù một chữ những tác phẩm của ông: “Tôi còn gì để mất ngoài liêm sỉ, thà chết đói chứ tôi không sửa văn tôi viết trước kia được.”

Chính ông cũng kể lại về trường hợp có nhà xuất bản cho người đến đề nghị in lại cuốn Kinh Nước Ðen với điều kiện nó phải được sửa chữa lại. Ông đã từ chối không chịu.Nay thì tờ Khởi Hành đang tiến hành giải văn chương năm nay dành cho ông. Thực tế trước mắt là ông sẽ nhận được một số tiền để sinh sống ra khỏi kiếp chó đọa đầy.

B.- Tình hình sách cũ hiện nay.

Về Sàigòn hôm nay, chỉ ở Sàigòn thôi mà không ở Hànội, tôi tìm lại xem trong đống tro tàn đó còn lại được gì. Không còn bao nhiêu. Tôi thấy họa hiếm mới còn sót lại một vài cuốn truyện. Và càng ngày, số lượng nó càng ít đi, vì mua vào mà không bán ra hoặc theo thời gian bị tiêu ma vì không có thư viện bảo quản. Chỉ còn lại một số rất ít mà trên lý thuyết vẫn là sách cấm lưu hành, bất hợp pháp, nhưng lại được bày bán công khai như thể hợp pháp. Hơn thế nữa, các loại ‘sách cũ’ thuộc loại sách chưởng, kiếm hiệp, mặc dầu vẫn là sách cấm lưu hành lại được in lại, sách cũ trở thành ‘sách mới’, bày bán công khai và hợp pháp. Chẳng hạn những sách của Vũ Đức Sao Biển như Kim Dung Giữa Ðời Tôi gồm các quyển Kiều Phong, Khát Vọng Tự Do, quyển thượng, Thiên Hạ Ðệ Nhất Mỹ Nhân, quyển trung, Từ AQ Ðến Vi Tiểu Bảo, quyển hạ và Thanh Kiếm Và Cây Ðàn, quyển kết thì đã được Nhà xuất bản Trẻ in ấn và phát hành đoàng hoàng. Gần như toàn bộ các loại sách kiếm hiệp được in lại. Sách của nhóm Tự Lực Văn Đoàn cũng vậy. Sách Triết cũng được in lại rất nhiều với các tác giả Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm.

Thế thì những bá cáo chính trị suốt bao nhiêu năm cũng như những văn kiện, nghị quyết của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung Ương Ðảng Cộng sản phải chăng chỉ còn có giá trị như những tấm giấy lộn.

Để hiểu rõ thêm về phần sách cũ này, tôi có một nhận xét như sau: Kể từ 1975 đến 1985, Sàigòn hay miền Nam có hai bộ mặt sinh hoạt văn học: Mặt nổi và mặt chìm. Mặt nổi bao gồm những sách báo in ấn chính thức từ miền Bắc gửi vào. Đó là một thứ văn học Cộng Sản mà tự nó mang tính chất đồng phục, tính chất hợp pháp và giáo điều buồn nản và tầm thường. Tôi còn nhớ trên vỉa hè phố Sàigòn những cuốn sách dịch in trên giấy xấu đến khó coi cả từ bề ngoài đến tựa đề. Đọc lên nghe tức anh ách như: Mười Ngày Của Bôcaxiô. 10 ngày gì mới được chứ. Thằng Cười, dịch V.Hugô. Cửa Hàng Vì Hạnh Phúc Các Bà của E. Zôla… Dịch lạ quá, tôi đi tìm sách của nhà văn này, nhưng đành chịu không kiếm ra cái tựa đề Cửa Hàng Vì Hạnh Phúc Các Bà ở đâu. Trăm Năm Cô Ðơn của G. Market. Tuổi Thơ Mãi Mãi Cùng Ta của M. Karim, Đất Vỡ Hoang của M. Sôlôkhốp, Thời Gian Ðể Sống Và Ðể chết của E. Rơmacơ. Ông Già Và Biển Cả của E. Hemingway, Đồi Gió Hú của E. pônti. Cả ba cuốn này đều đã được dịch ở trong Nam trước đó rồi. Đốt Đỉnh Gió Hú, đốt Lão Ngư Ông Và Biển Cả, đốt Thời Gian Ðể Sống Và Ðể Chết của miền Nam mà chất lượng dịch đã hẳn là bảo đảm hơn miền Bắc để mang nguyên con những thứ đó vào miền Nam với phẩm chất không bảo đảm và giấy thì thật xấu. Để làm gì?

Vì thế dân chúng trong Nam vẫn chịu khó tốn công, tốn tiền đi tìm sách báo cũ để đọc, chuyền tay nhau để đọc. Bởi vì, chính những sản phẩm văn hóa đó đã làm nên họ, là của họ, là bản thân họ và trở thành biểu tượng của những giá trị quá khứ cần được nâng niu giữ gìn. Và như thể, nếu không có những thứ văn hóa phẩm đó được nuôi dưỡng thì họ không còn là họ nữa, khô chồi và thui chột.

Nhưng một phần thì sinh hoạt văn học miền Nam dừng lại ở đó, bằng lòng với tất cả những thứ đến từ dĩ vãng, quá khứ và trong tương lai sẽ mỗi ngày mỗi thưa vắng đi, bởi vì không có người làm công việc sáng tác nữa. Đó là thứ văn học không có tương lai mà chỉ còn mở ra một sinh lộ: Quay lại quá khứ của chính mình để nhớ, để thương và để sống lại. Nếu ở Hải ngoại thời đó người ta gọi VHHN là thời kỳ văn học lưu vong. Trong nước phải gọi là thời kỳ văn học của quá khứ, vang bóng một thời.

Từ một nền văn học đồng phục, bị động, nghèo nàn với những sách vở lưa thưa và chưa định hình. Sách báo miền Nam cũ vẫn có mặt mà chưa có kế thừa và thay thế. Kể từ đó, sau ngày 30-4, sách báo miền Nam vỉa hè, giống như số phận của chính nền văn học ấy, thực sự trở thành sinh động chỉ nhờ vào sách báo cũ. “Điều đáng chú ý là đa số chủ nhân các tụ điểm văn hóa này là những người có học. Không thể nói là họ không am hiểu nội dung và tác hại của thử sách ra. Lạ một điều là bất chấp mọi hậu quả, họ cứ thản nhiên bày bán, những thứ rác rưởi văn hóa đó, ngày này qua ngày khác. Cứ mỗi độ chiều về, ở những điểm này, người bán kẻ mua tấp nập.” [vi]

Không có gì lạ. Cái lạ là các ông không hiểu gì về nếp sống, nếp nghĩ, sinh hoạt văn học miền Nam cả. Những thứ mà quý ông gọi là rác rưởi thì dân miền Nam lại coi là thứ rác quý, rác hiếm.

Sau 30-4, miền Nam có nhiều thứ rác lắm. Những thứ rác có thể đốt. Nhưng đốt thứ rác sách vở, báo chí văn học nghệ thuật miền Nam, các ông đã đụng chạm đến tinh thần và niềm tự hào của cả một miền đất nước thân yêu của họ. Điều đó khó mà tha thứ được.

C.- Những người có công với sách cũ của Sàigòn.

Sách vở, báo chí miền Nam trở thành món ăn tinh thần là do công sức của các nhà văn, nhà phê bình, giáo sư đến các học giả. Điều hiển nhiên là thế. Nhưng sức bật, sự tác động để phổ biến những văn hóa phẩm ấy là nhờ vào một số lớn nhà xuất bản có công với Văn Học. Họ là những nhà xuất bản như Trình Bày, Nam Sơn, Nguyễn Đình Vượng, Văn Hóa Á Châu, Diên Hồng, Xưa nay, Khai Trí, Lá Bối, An Tiêm. Những nhà xuất bản này đã đóng góp vào việc xuất bản 200 triệu cuốn sách trong 20 năm. Con số thật không nhỏ.

1.- Ông Khai Trí:

Chẳng mấy ai biết tên thật của ông, thành ra thương hiệu nhà sách KT, 62 Lê Lợi được đồng hóa vào tên ông. Thật ra tên ông là Nguyễn Hùng Trương, với hai tay trắng làm nên sự nghiệp. Ông vừa là một doanh gia, vừa là người làm văn hóa. Ông biên soạn khoảng 15 cuốn sách như Thơ Tình Việt Nam và Thế Giới Chọn Lọc, Chánh Tả Cho Người Miền Nam… và chủ trương tuần báo Thiếu Nhi cùng với Nhật Tiến.

Sau giải phóng, nhà sách Khai Trí là nạn nhân của nạn hôi của, đốt phá. Sách vở tung toé khắp nơi từ trong nhà sách ra ngoài đường. Tôi đã chính mắt chứng kiến cảnh ấy trong nỗi bất lực, bất lực của một người tự xếp hàng vào người thua cuộc. Tôi không biết lúc bấy giờ ông Khai Trí đứng ở đâu. Đứng ở đâu thì cũng cùng tâm cảnh đau xót đó thôi. Khi đã chứng kiến cảnh này rồi thì đừng bảo tôi có thể nghĩ hay cho những người mới đến. Họ không hiểu được điều đó vì quá hăng say trong men chiến thắng hay họ chưa bao giờ biết nghĩ tới người dân muốn gì, nghĩ gì. Tiếp theo đó là hai kho sách lớn cũng bi trưng thâu. Hằng vài trăm ngàn cuốn sách ra khỏi kho, rồi biến mất dạng.

Ông trắng tay sau bao nhiêu năm tốn công gây dựng.

Sau này, ông ở Mỹ về VN một lần nữa, mang theo hy vọng làm được một chút gì cho đất nước. Ông đã mang về 2000 đầu sách để tiếp tục làm Văn hóa. Sách bị tịch thâu với lý do: in trước 75. Theo Nguyễn Thụy Long, phần lớn sách bị tịch thâu là các loại sách Học Làm Người, báo chí quý hiếm trước 1954, như bộ Loa rất nổi tiếng. Sách ông mang về ai cũng biết là sách về giáo dục, sách hiền, sách tốt cả. Mà dại gì ông mang sách dữ, mà làm gì kiếm ra đâu được sách dữ. Nó chỉ có một cái tội: Tội đã in trước 1975.

Trước 75 là xấu, vi phạm luật. Sau 75 là tốt.

Ông đau lòng vì sách, ôm đơn đi kiện. Kết cục chẳng đi đến đâu.

Trước khi ông mất, người ta đã không quên đặt tên ông cho một con phố nhỏ. Đúng như ông thày TQ nhận xét: Hôm qua nó giết mình, hôm sau nó mang vòng hoa đến phúng điếu.

…Ông ra đi lúc 5h15 ngày 11/3/2005, linh cữu quàn tại nhà riêng (237 Điện Biên Phủ, quận 3, TP HCM), lễ động quan lúc 6h ngày 14/3, hỏa táng tại Bình Dương. Nguyện vọng của gia đình là gửi tiền phúng điếu vào quỹ từ thiện thành phố.

Cụ Toan Ánh, năm đó 91 tuổi, trong bữa đưa đám ma ông Khai Trí than thở: tại sao mình sống lâu như thế, ông Khai Trí mới có 80 tuổi.

2.- Nhà Lá Bối:

Nhà Lá Bối do nguyên Đại đức Từ Mẫn, tên thật là Võ Thắng Tiết trông nom. Sau ông hoàn tục. Ông là người có lòng, để việc phụng sự văn học nghệ thuật lên trên tiền bạc. Từ Mẫn đã giúp các nhà văn có nơi xuất bản những đầu sách có giá trị và người đọc có cơ hội đọc những cuốn sách trang nhã, chăm sóc từng chút trong việc trình bầy ấn loát và cả đến nội dung sách. Tất cả sách của Nhất Hạnh đều từ đây mà ra. Nếu không có Lá Bối, những Chiến Tranh và Hòa Bình, Chiến Quốc Sách, Sử Ký Tư Mã Thiên, Kiếp Người của Sommerset Maugham, Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay và Lối Thoát Cuối Cùng của V. Georghiu sẽ nằm ở đâu? Nếu không có Lá Bối, nhiều sách chắc gì đã có cơ hội ra mắt bạn đọc. Nhất là bộ Chiến Tranh và Hòa Bình của Léon Tolstoi. Sách in tốn vài ba triệu thời bấy giờ, bao giờ lấy lại vốn. Sau này, ở hải ngoại, ông tiếp tục làm công tác văn học với nhà xuất bản Văn Nghệ. Nếu cần một vinh danh gì cho 20 năm Văn học dịch nói riêng và Văn học nói chung, có cần nên nhắc đến Võ Thắng Tiết không? Kẻ lót đường cho Văn học miền Nam.

3.- An Tiêm Thanh Tuệ:

Tôi chỉ xin trích dẫn hai bài viết lúc mà Thanh Tuệ nằm xuống để thấy được rằng nhà xuất bản An Tiêm với Thanh Tuệ có lòng với văn chương như thế nào.

– Tiếc Văn Chương, thương chữ nghĩa, Trần Thị Lai Hồng.

Biết là vô thường, nhưng vẫn không khỏi tiếc thương. Tôi tiếc thương người An Tiêm Thanh Tuệ hiền hòa đã đành, mà nỗi tiếc Thương Văn Chương chữ nghĩa còn trĩu quá nặng.

Thôi từ nay, còn ai khổ công lặn lội tìm tòi đãi lọc để phổ biến văn chương như đã từng với Tuệ Sĩ, Bùi Giáng, Sao Trên Rừng, Nguyễn Đức Sơn. Thôi từ nay còn ai trân quý nâng niu bảo trọng chữ nghĩa như đã từng với Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Mười Hai con Mắt… Đêm Nguyệt Động, Cái Chuồng Khỉ và còn nhiều, rất nhiều công lao với văn học đã, đang và chưa thực hiện được.

– Với nhà văn Lê Thị Huệ:

Rồi bỗng nhiên nghe tin Ông chết. Đặng Ngọc Loan hôm trước rủ đi uống cà phê với Ông một lần, gọi điện thoại nói với tôi: Tin gì kỳ cục. Sao người vậy mà chết nghe kỳ cục quá.

4.- Doanh nghiệp sách Thành Nghĩa, Sàigòn:

Có lẽ phải nói đây là một ông Khai Trí thứ hai. Trong một dịp đi dự một buổi phát giải thưởng, do cái TTNCBTVPHVHDT. Viết tắt thế để quý vị khỏi mất thời giờ với cái Trung Tâm đó. Tôi có gặp anh Võ Thành Tân, Tổng giám đốc nhà sách Thành Nghĩa và nhất là anh Vũ Quang Trình, trợ lý TGĐ trong bữa ăn trưa đó. Gốc gác các anh đều là dân Quảng Nam, Quảng Ngãi mà người dân gọi đùa là: Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Quảng Nam, Đà Nẵng. Gọi như thế để thấy cái dân ngoài đó đi theo đảng nhà nước tận tình. Nay sau 30 tháng tư, họ, những người dân miền ấy có mặt khắp nơi, nhất là trong ngành báo chí, xuất bản. Các báo lớn như Tuổi Trẻ, Thanh Niên v.v… đều có người của họ. Chẳng hạn báo Thanh Niên có Nguyễn Công Khế, Tuổi Trẻ có Hùng Sơn Phước, Công An thành phố Trần Trữ Loang, Sàgòn Time có Võ Như Lanh, Kinh Tế VN có Cung Văn, Nhất Ánh..

Võ Thành Tân, sau 75 đang còn học Văn Khoa. Với cái vốn liếng ấy đâm ra hữu dụng, anh làm nghề mua bán sách cũ. Biết sách nào quý, biết sách nào giá trị là sở trường của một người mua bán sách cũ. Có tý vốn rồi, anh mua lại một cái ki ốt bán sách lẻ ở đường An Dương Vương. Kịp đến thời mở cửa, 1986… Theo lời anh Trình, các anh liên kết với các nxb của nhà nước để in sách. Họ đứng tên, cho giấy phép rồi họ mặc cho mình muốn làm gì thì làm. Một cuốn sách mới đầu ít vốn in 1000 cuốn thăm dò. Bán chạy thì in lại, bán tiếp. Một năm mới đầu xuất bản 4, 5 đầu sách, rồi cứ thế tăng dần. Đến năm 2004 thì đã cho xuất bản đến 3000 đầu sách đủ loại. 2005 tăng lên 3500 đầu sách một năm.

Nay thì các anh trở thành tỉ tỉ phú trong ngành xuất bản. Ngoài ra, các anh còn mở ra 18 cửa hàng bán sách với 2000 nhân viên. Hỏi sao có nhiều nhân viên như thế. Trả lời là để trông chừng những khách hàng ăn trộm đồ trong tiệm sách.

Có những tiệm sách lớn có đến 40 chục ngàn đầu sách đủ loại.

Làm gì còn có những Thanh Tuệ, những Từ mẫn nữa. Làm gì còn có Lá Bối, An Tiêm, Nam Sơn nữa. Làm gì còn có ‘Loan Mắt Nhung’ nữa.

Thôi chào vĩnh biệt sách cũ Sàigòn. Chào những đứa con tinh thần sinh trước 1975 còn sót lại.

Và như trong một số bài viết của tôi, tôi luôn luôn đòi hỏi nhà cầm quyền đương thời một điều, một điều thôi. Trước khi nói hoà giải, trước khi nói tình nghĩa, trước khi kêu gọi Việt kiều về nước, trước khi nói đến khúc ruột ngàn dặm v.v. và v.v… Yêu cầu các ông một lời xin lỗi chúng tôi, xin lỗi những người lính VN Cộng Hòa, xin lỗi các nhà văn, nhà trí thức, xin lỗi các bà vợ, xin lỗi người mẹ, xin lỗi trẻ con miền Nam và cuối cùng xin lỗi sách vở miền Nam. Xin lỗi tất cả.

Không làm thì hãy khoan nói đến truyện gì khác.

Nguyễn Văn Lục

_____________________

[i] Trích Văn Hoá, Văn Nghệ. Nam Việt Nam 1954-1975, Trần Trọng Đăng Đàn, trang 779, nxb Văn Hóa Thông Tin Hànội- 2000.
[ii] Trích lại trong Văn Hóa Văn Nghệ Nam Việt Nam 1954-1975 của Trần Trọng Đăng Dàn, trang 502, nxb Văn Hóa Thông tin.
[iii] Trích lại trong Văn Hoá, Văn Nghệ, Nam Việt Nam 1954-1975 của Trần Trọng Đăng Đàn. Nxb Văn Hóa Thông tin. Trang 502.
[iv] Trích Văn Học Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản, Nguyễn Hưng Quốc, trang 226, nxb Văn Nghệ, 1991
[v] Trích Ký ức về tiếng hát của người tử tù, Nguyễn Thụy Long, tạp chí Khởi Hành số tháng 9-2005, trang 23.
[vi] Trích SGGP, ngày 15-2-1987. Trong Văn Học VN dưới chế độ Cộng Sản của Nguyễn Hưng Quốc, trang 228. nxb Văn Nghệ.


 

LÝ DO VUI MỪNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời!”.

John Wesley – nhà truyền giáo người Anh – trước khi qua đời ở tuổi 88, đã ngồi dậy, nhìn những người thân yêu bên giường và nói, “Sao lại khóc, hãy vui mừng chứ? Điều tuyệt vời nhất cũng là lý do vui mừng nhất là Chúa ở cùng chúng ta!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Nói rằng, “Chúa ở cùng chúng ta!” hay nói, “Tên anh em đã được ghi trên trời!” có chung một ý nghĩa. Đó là ‘lý do vui mừng’ mà cả Wesley và Chúa Giêsu nói với những người thân yêu.

Tin Mừng hôm nay cho biết, sau chuyến truyền giáo tốt đẹp, các môn đệ trở về, lòng đầy hân hoan, “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con!”. Tốt! Nhưng với Chúa Giêsu, có một điều gì đó quan trọng hơn: tên của họ được ghi trên trời! Ngài không phủ nhận sự thành công của họ, nhưng Ngài tập trung vào một điều lớn hơn – mối quan hệ của họ với Thiên Chúa. Đây mới là nguồn vui đích thực! Chính điều này làm cho công việc của họ có kết quả; và đó là lý do tại sao Ngài tiếp tục nói, “Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy!”. “Thành công thật không phải ở điều ta làm, mà ở mối hiệp thông yêu thương ta có với Chúa!” – C.S. Lewis.

Điều đáng mừng hơn là các môn đệ ‘đã thấy, đã nghe’ và nhất là nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Thầy mình. Họ cảm nhận một mối gắn kết đặc biệt của Ngài với Chúa Cha và họ đã để mình ‘được lôi kéo’ vào mối quan hệ đó. Tin Mừng nhắc nhở chúng ta rằng, sự chia sẻ của chúng ta trong mối hiệp thông của Chúa Giêsu với Chúa Cha mới là niềm vui và là kho tàng đích thực, và đó là ‘lý do vui mừng’ lớn nhất chứ không phải là thành công về những gì chúng ta làm.

Chính hồng ân chia sẻ mối quan hệ này cho phép chúng ta nhìn và nghe những điều mà nhiều tiên tri và vua chúa mong ước được thấy được nghe. Ngay cả khi công việc của chúng ta ngừng lại – thậm chí là thất bại – vì bất cứ lý do gì, dù là tuổi tác, sức khoẻ kém hay thiếu cơ hội… thì hồng ân chia sẻ mối hiệp thông của Chúa Giêsu với Thiên Chúa Cha vẫn tồn tại. “Niềm vui được tìm thấy khi chúng ta nhận ra mình thuộc về ai!” – Henri Nouwen.

Anh Chị em,

“Hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời!”. Chúa Giêsu không quan tâm những chiến thắng trước Satan hay những gì khác kể cả những chiến công hiển hách. Điều quan trọng với Ngài là “Chúa ở cùng chúng ta” và “chúng ta ở cùng Chúa” hôm nay và mai ngày. Niềm vui đích thực phát xuất từ mối tương quan sống động khi chúng ta cảm nhận sự hiện diện của Ngài trong từng hơi thở, từng bước đường đời. Và như thế, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta có lý do để vui mừng, vì kho tàng lớn nhất đã ở trong tay chúng ta. “Ở cùng Thiên Chúa biến những khoảnh khắc đời thường thành lễ hội; chiến thắng có thể phai nhạt, nhưng sự gần gũi của Chúa vẫn tồn tại!” – Madeleine L’Engle.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con hiểu, mọi chuyện đều là phụ tuỳ; và thành công của con trước hết và trên hết là sống thân tình với Chúa!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

***************************************************

Lời Chúa Thứ Bảy Tuần XXVI Thường Niên, Năm Lẻ

Hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 10,17-24

17 Khi ấy, Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói với Đức Giê-su : “Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con.” 18 Đức Giê-su bảo các ông : “Thầy đã thấy Xa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống. 19 Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em. 20 Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời.” 21 Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giê-su hớn hở vui mừng và nói : “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.

22 “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.”

23 Rồi Đức Giê-su quay lại với các môn đệ và bảo riêng : “Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy ! 24 Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết : nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe.”