7 ĐIỀU KHIẾN NGƯỜI EQ CAO LUÔN “GIẢI QUYẾT ÊM” MỌI XUNG ĐỘT MÀ KHÔNG AI TỔN THƯƠNG

Gieo Mầm Ơn Gọi

7 ĐIỀU KHIẾN NGƯỜI EQ CAO LUÔN “GIẢI QUYẾT ÊM” MỌI XUNG ĐỘT MÀ KHÔNG AI TỔN THƯƠNG

  1. Họ không tấn công, họ mô tả cảm xúc

Thay vì: “Anh lúc nào cũng vô tâm!”, họ sẽ nói: “Khi anh quên điều đó, em cảm thấy mình không được quan trọng”. Họ tách hành vi khỏi con người – để không biến mâu thuẫn thành đổ lỗi.

  1. Họ để người kia giải thích trước khi kết luận

Người EQ cao luôn cho người khác cơ hội để giải thích. Họ không phán xét qua biểu hiện bên ngoài. Họ biết có những nỗi mệt mỏi không ai nhìn thấy.

  1. Họ không lấy chuyện cũ ra để gây thêm áp lực

Không có câu “Anh nhớ lần trước không?”. Người EQ cao không dùng quá khứ để vùi dập hiện tại. Họ tôn trọng thời điểm này, và muốn giải quyết ngay những gì đang xảy ra.

  1. Họ không phủ nhận cảm xúc, dù lý do có vẻ “ngớ ngẩn”

Người EQ cao hiểu: cảm xúc không cần phải hợp lý mới được công nhận. Dù người kia đang lo lắng vì một việc nhỏ, họ vẫn lắng nghe và phản hồi bằng sự thấu hiểu.

  1. Họ dùng ánh mắt và giọng nói để xoa dịu, không căng thẳng thêm

Không chỉ lời nói, EQ cao nằm ở ánh mắt dịu lại, giọng nói chậm lại, và cơ thể thả lỏng. Một người đang giận, khi đối diện với năng lượng bình tĩnh, sẽ khó mà giận lâu được.

  1. Họ biết lúc nào cần lùi lại một chút

EQ cao không cãi để thắng. Họ không cố “giải quyết ngay và luôn” nếu cảm xúc của cả hai còn quá nóng. Họ dừng đúng lúc – để có thể tiếp tục sau đó một cách chín chắn hơn.

  1. Họ tìm cách hiểu – chứ không cần đồng ý ngay

“Anh chưa chắc đã đồng ý, nhưng anh muốn hiểu vì sao em cảm thấy như vậy” – một câu nói đơn giản nhưng thể hiện sự trưởng thành. EQ cao không ép người khác thay đổi quan điểm, họ chọn thấu hiểu trước.

St


 

NGHỊ SĨ BANG MINNESOTA VÀ CHỒNG BỊ BẮN CHẾT (BBC)

BBC News Tiếng Việt

 NGHỊ SĨ BANG MINNESOTA VÀ CHỒNG BỊ BẮN CHẾT

Một nữ nghị sĩ bang Minnesota và chồng bà đã bị bắn chết tại nhà riêng vào sáng sớm thứ Bảy (tức chiều ngày 14/6 theo giờ Việt Nam), trong một vụ việc mà Thống đốc Tim Walz gọi là “hành vi bạo lực chính trị có chủ đích”.

Bà Melissa Hortman, 55 tuổi, cựu Chủ tịch Hạ viện bang và là thành viên Đảng Dân chủ, cùng chồng đã thiệt mạng tại Brooklyn Park, một thành phố gần Minneapolis.

Thượng nghị sĩ bang John Hoffman, 60 tuổi, cũng thuộc Đảng Dân chủ, và vợ ông đã bị nhắm mục tiêu trong một vụ xả súng có liên quan tại nhà riêng ở Champlin, gần đó.

Cả hai vợ chồng ông Hoffman đều bị bắn nhiều phát và đã trải qua ca phẫu thuật; Thống đốc Walz cho biết ông “lạc quan một cách thận trọng” về khả năng họ sẽ sống sót.

Cảnh sát hiện đang truy lùng một nghi phạm giả danh cảnh sát.

#BBCTiengViet

Star Tribune via Getty Images/Minnesota State Senate

Các nghị sĩ Melissa Hortman (trái) và John Hoffman (phải)


 

 

 “AI BẢO NGƯỜI ĐIÊN KHÔNG CÓ TÌNH NGƯỜI ?”

Xuyên Sơn

 Tôi về nước để thăm gia đình…!

Mỗi lần đi ngang qua đây,

gần Tòa Thánh, tôi cũng thấy hắn cứ đứng đó, đầu ngửa mặt nhìn lên bầu trời…? Mà chẳng hiểu vì sao…?

Hắn chỉ mặc bộ đồ lấm lem, dơ bẩn, chân không mang dép, toàn thân da đen sạm, đầu tóc rối bù, không có nón…

Tôi không biết hắn là ai, có gia đình hay không…?

Hắn từ đâu tới và tới từ bao giờ…?

Tôi dừng xe, thử hỏi chuyện hắn…

Hắn nhìn tôi trong chốc lát không biểu lộ cảm xúc gì, rồi lại nhìn lên bầu trời và tôi thấy hắn nở nụ cười…!

Tôi vào chợ và mua một bộ quần áo thể thao bình thường, một quần short với một đôi dép tổ ong trắng  kèm thêm cái nón kết. Con trai tôi mua thêm một hộp bánh quy, chai nước suối và một ổ bánh mì thịt nữa…

Tôi và con trai đưa tới cho hắn..

Hắn không cầm và cũng chẳng nói gì cả…

Tôi và con trai tôi để vào góc tường,

nơi hắn hay ngồi, rồi lên xe chạy đi.

Xe chạy hơn hai mét, tôi liếc mắt nhìn vào kính hậu, thật bất ngờ và ngạc nhiên khi thấy hắn nhìn theo cha con tôi và miệng nở nụ cười lộ hàm răng rụng hai ba cái.

Hình như từ đôi mắt hắn,

có gì đó loang loáng nước mắt…!

Cứ ít ngày, tôi lại đưa đồ ăn cho hắn,

và như vậy hắn cũng quen sự có mặt của tôi. Hắn vẫn không dùng quần áo mà tôi đã cho…?

Hôm nay, bận công việc, tôi tới muộn một tiếng đồng hồ, tôi thử xem hắn như thế nào nên dừng xe đứng xa xa,

nơi ngả Tư gần góc tường nhìn hắn….

Hắn cứ nhìn về hướng tôi hay tới….

Có chút gì đó bồn chồn lo lắng thì phải… Hắn ngồi xuống, ôm cái bịch đồ tôi đưa và rút đôi dép xỏ vào chân, rồi lại cất vào…!

Tôi thấy hắn lại ra đứng ngửa mặt nhìn trời…!

Khi nghe thấy tiếng nói của tôi,

hắn quay qua thật nhanh và… ôi trời…!

Tôi đã nhìn thấy và nghe được:

“NỤ CƯỜI ĐÃ CÓ TIẾNG PHÁT RA…! của hắn:

lộ vẻ mừng rỡ và thật sự hiền lành…!

Trước khi rời Việt Nam, tôi nhắc các con làm tiếp những gì tôi đã làm cho hắn… Các con tôi nghe lời và làm tròn trách nhiệm tôi giao…!

Khuya nay, con trai gọi video call cho tôi vừa báo tin dữ:

Hắn đã qua đời…!

Trên phường đưa xuống một chiếc quan tài, họ đã mặc cho hắn bộ đồ thể thao ấy và bỏ những gì hắn có trong bịch đồ của hắn vào trong ấy…!

Hắn đã ra đi thật xa…! Thật xa rồi…! Nhưng khuôn mặt và nụ cười hiền lành của hắn, tôi vẫn nhớ mãi…!

Ai bảo người điên không có tình người…!

Hãy an nghỉ Anh nhé…!

Một kiếp người thật khổ, thật buồn..!

Mà cũng có thể là cách để…. giải thoát cho Anh !

  Nguồn fb Đinh Trực


 

CHA FELIPE GÓMEZ, S.J. – NGƯỜI CHIẾN SĨ THẦM LẶNG TRONG CHÚA – Trần Đỉnh, S.J.

Trần Đỉnh, S.J. 

Không ai chọn nơi mình sinh ra, nhưng có những người dám chọn nơi để gắn bó cả cuộc đời. 

Cha Felipe Gómez Gonzalo, SJ hay như nhiều người Việt quen gọi là cha Ngô Minh, không sinh ở Việt Nam, nhưng ngài đã sống như thể được sinh ra để phục vụ mảnh đất này. 

Cha Felipe Gómez sinh tại Tây Ban Nha vào năm 1935, vào Dòng Tên năm 1953, giữa những năm hậu chiến đầy biến động.  Nhưng không phải châu Âu mời gọi trái tim ngài.  Không phải giảng đường, cũng không phải những vinh quang học thuật.  Nhưng đó lại là một đất nước nhỏ tại vùng trung Đông Nam Á, nơi người ta còn đang học cách cầu nguyện bằng tiếng mẹ đẻ, với phong trào bình dân học vụ thời ấy.  Và đó mới chính là nơi mà Thiên Chúa kêu gọi và mời cha đến.

 Năm 1960, cha đặt chân đến Việt Nam.  Không ai biết cha sẽ ở lại bao lâu, cũng không ai biết ngài sẽ âm thầm gieo những hạt giống gì.  Ngài bắt đầu bằng việc học tiếng Việt, rồi dạy tiếng Latinh, tiếng Hy Lạp cho lớp tập sinh đầu tiên của Dòng Tên Việt Nam.  Từng chữ cái, từng dấu sắc huyền ngã nặng, ngài kiên nhẫn lượm lặt như thể đang học chính ngôn ngữ của đức tin tại một vùng đất mới. 

Ngày 29 tháng 4 năm 1966, tại Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, cha được truyền chức linh mục.  Từ đó, ơn gọi của ngài không chỉ là tu sĩ, mà là một linh mục truyền giáo, trao truyền Chúa Ki-tô nơi các thừa tác vụ bí tích. 

Ngài là người góp phần dịch các văn kiện Công đồng Vaticanô II sang tiếng Việt, một công việc âm thầm nhưng mang chiều sâu thần học và ảnh hưởng lâu dài đến đời sống Giáo hội tại Việt Nam.  Những năm làm bề trên Học viện Dòng Tên, rồi Khoa trưởng Phân khoa Thần học tại Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X Đà Lạt (1971–1975), cha đã hiện diện như là người thầy, người bạn, người chứng nhân trong những chuyển giao của thế hệ, của thời cuộc như một ngọn đèn không rực sáng, không ồn ào, nhưng bừng cháy lặng lẽ và liên lỉ. 

Từ năm 1971 cho đến khi qua đời, cha vẫn tiếp tục đọc, viết, dạy, nghe và yêu mến Giáo hội Việt Nam bằng tiếng Việt.  Cha đã xuất bản nhiều tác phẩm thần học bằng tiếng Việt: từ Chúa Ba Ngôi đến Kitô học, từ Truyền Giáo học đến Thánh Mẫu Học, rồi đến những tác phẩm về Kinh Tin kính, về Chúa Thánh Thần trong Thần học và Linh đạo.  Ngôn ngữ cha chọn trình bày chính là ngôn ngữ của người bản địa để nói với người bản địa, vừa cố gắng giữ được những triết lý và học thuyết cao siêu, vừa có thể diễn giải để nhiều người có thể hiểu được. 

Khi nhìn lại cuộc đời và ơn gọi của mình nhân dịp kịp niệm 50 năm linh mục, ngài từng nói: “Ơn gọi của tôi không chỉ là đi tu.  Mà là đi truyền giáo.” 

Ban đầu, cha xin đi truyền giáo tại châu Mỹ và Trung Hoa, nhưng Bề trên không đồng ý.  Và cuối cùng, cha đến Việt Nam, không theo tính toán và dự định của mình, nhưng theo điều mà cha gọi là “sự quan phòng dịu dàng của Thiên Chúa.”  Cha nói: 

“Chúa luôn có cách của Người.  Nhìn lại cuộc đời, tôi chỉ có thể thốt lên lời cảm tạ.”

 Với những ai hỏi cha làm sao để truyền giáo, cha trả lời bằng sự đơn sơ của người từng sống trọn đời giữa những người chưa biết Chúa:

 “Đừng giảng giáo lý. Hãy kể cho họ nghe niềm hy vọng của bạn.”
“Hãy để Lời Chúa tự lên tiếng.  Còn chúng ta, cứ làm phần của mình, phần còn lại… để Chúa lo.”

 Có những người truyền giáo bằng tài giảng thuyết của mình, cũng có những người truyền giáo bằng cả một đời sống trung tín và kiên cường trong những điều nhỏ bé.  Nơi cha Gómez, người ta tìm thấy một nhà giảng thuyết và một vị tông đồ trung tin, một người tìm Chúa nơi một đất nước không phải của mình, nhưng cuối cùng lại trở thành quê hương của tâm hồn mình.

 Cha Felipe Gómez Gonzalo, S.J. thực sự là một nhà truyền giáo Tây Ban Nha với một trái tim Việt Nam, người kể về Chúa cho người Việt Nam.  Giữa thời đại mà người ta dễ mỏi mệt với những lời mời gọi “ra đi,” đời sống của cha nhắc nhở chúng con rằng ra đi không có nghĩa là bỏ lại, nhưng là quyết sống trọn vẹn ở một nơi không quen thuộc, cho một dân tộc không phải ruột thịt, và bằng một tình yêu không hề ép buộc.

 Nguyện xin Chúa là Đấng ngài từng hết lòng yêu mến và phục vụ, đón nhận ngài vào nơi bình an vĩnh cửu.  Và xin tiếp tục gửi đến cho Giáo Hội chúng con những chứng nhân của các nhà truyền giáo bằng tình yêu, sự trung tín, niềm vui và hy vọng.  Xin cho chúng con cũng học cách sẵn sàng ra đi, học ngôn ngữ mới, yêu những con người mới, và trao dâng cả cuộc đời như một chứng tá sống động cho Tin Mừng.

 Trần Đỉnh, S.J.

Nguồn: https://dongten.net

From: Langthangchieutim

CON ĐỐT Ô TÔ BA CÓ NHẬN ĐƯỢC KHÔNG ? Truyen ngan VUI

Công Tú NguyễnChuyện tuổi Xế Chiều

Đọc được bài này ý nghĩa quá, cảm ơn tác giả. 

CON ĐỐT Ô TÔ BA CÓ NHẬN ĐƯỢC KHÔNG ?

(Tại trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người ).

Vong linh một vị tướng quân đội nhập vào cô cháu gái, cười ha hả, mà giọng nói rất to, trầm hùng, lại pha chút khôi hài của vị tướng quân quen “ăn to nói lớn” nơi chiến trận.

Anh con trai (quân hàm thượng tá) hỏi:

– Con đốt tiền biếu cho ba, ba có nhận được không?

– Nhận được!

– Con đốt quần áo biếu cho ba, ba có nhận được không?

– Nhận được!

– Con đốt ôtô biếu ba, ba có nhận được không?

– Ôtô hả, mi đốt cả hai lần tao đều nhận được cả!

Cả gia đình mừng mừng, tủi tủi vì không những được giao lưu trực tiếp với cha mình (tính tình giọng nói vẫn thế) mà ba còn nhận được quà biếu của con cháu nữa. Đột nhiên vị tướng chuyển sang giọng trang nghiêm và khôi hài:

– Nhưng mà bọn mi đã hại tao!

– Sao hả ba?

– Khi nhận được ôtô, khoái chí quá, tao đẩy ra đường chạy thử thì khởi động mãi mà máy không nổ! Hoá ra không có xăng (cả gia đình cười). Chềnh hềnh ra đường mãi, nên công an đến tuýt còi bắt nộp phạt vì “cản trở giao thông”. Loay hoay và lóng ngóng mãi mà không đánh xe vào rìa đường được, công an lại hỏi: “xin cho kiểm tra bằng lái”, tao làm gì có bằng lái, và lại phải nộp phạt lần thứ hai (cả gia đình lại cười). Chưa hết đâu, khi bọn mi gửi ôtô lần thứ hai, tao chán quá chả thèm đi nhận, thì tháng sau tao lại nhận được một “trát” bắt nộp tiền “phạt phí lưu kho lưu bãi” (cả gia đình lại cười như nắc nẻ).

– Như vậy vẫn còn may đấy, nếu tao mà đi từ Sài Gòn bằng chiếc ôtô bọn mi biếu thì ba ngày nữa chưa chắc ra được Hà Nội, vậy thì hôm nay giao lưu làm sao được đây?

– Thế ba đi mây về gió à?

– Nhanh hơn cả đi mây về gió! Chỉ cần nghĩ về đâu là đến đó liền. Nhưng bọn mi có thực lòng biếu ôtô cho tao không?

– Chúng con thật lòng mà ba

– Chiếc ôtô thứ hai khá cầu kỳ, bọn mi mua 700.000 đồng ở Hàng Mã đúng không?

– Vâng, sao ba biết tường tận như thế!

– Thì lúc đó tao đang đứng cạnh đó mà. Nếu bọn mi có lòng hiếu thảo, thì hãy mua cho tao một chiếc ôtô thật khoảng 700 triệu thôi mà.

– Nhưng ba có cần đi ôtô của trần gian đâu

– Thì tao tặng cho các đồng đội của tao trong hội cựu chiến binh để họ chở nhau đi chơi, được không

Mấy người con gãi đầu gãi tai tỏ ra lúng túng, vị tướng quân lại cười ha hả và nói: “Ôtô thật sao không biếu, mà chỉ biếu ô tô giấy 700.000 đồng thôi, lại còn cứ khấn “ba phù hộ cho con thăng chức ba nhé”, ôtô giấy mà thay cho lòng hiếu thảo được à?”

Vị tướng lại nói tiếp:

– Bọn mi khi đi may quân phục có đo không?

– Phải đo đến ba lần chứ ạ.

– Thế sao bọn mi mua quần áo mã mà chẳng đo gì cả, biết “người âm” gầy hay béo, cao hay thấp mà mua? Mặc không vừa thì vứt bãi rác à?

– Con nghĩ là sẽ có phép biến hoá mà ba

– Đã có phép biến hoá thì cớ sao phải mua đồ giấy để đốt đi cho phí, sao không mua đồ thật, rồi đặt lên cúng, tao vẫn chứng nhận được mà, sau đó đem quần áo ấy tặng cho các đồng đội của tao, nói rằng “ba cháu gửi biếu các bác” thì có hơn không?

– Vâng chúng con xin làm theo lời ba

– Lại còn cái vụ tiền mã nữa.

Có 4 lý do mà không nên mua đồ mã ?

– thứ nhất là các nguyên liệu làm tiền mã, đồ mã đều từ các thứ vật liệu dễ cháy, bẩn thỉu, tanh hôi.

– Thứ hai là khi gia công, đàn bà con gái, chó mèo nhảy qua nhảy lại còn gì là thanh tịnh.

– Thứ ba là bọn mi đi lấy tiền ngân hàng, có đếm không? Đếm đến ba lần ấy chứ. Nhưng khi đi mua tiền mã, có đứa nào đếm không? Chẳng bao giờ chứ gì. (cả gia đình sững sờ). Nhưng nếu có đếm thì chẳng bao giờ đủ đâu. Như vậy trong tư duy của bọn làm tiền mã, hàng mã đã chứa đầy tư tưởng đại khái và giả dối rồi, sự giả dối và bất tịnh này đã tàng trữ trong đồ cúng. Thế mà lại nheo nhẻo khấn rằng “chúng con lòng thành dâng lên tịnh tài tịnh vật” hay saoThanh tịnh cái nỗi gì !

– Thứ tư là: “thống đốc ngân hàng” của thế giới tâm linh đâu có cho phép lưu hành đồng tiền do các cõi giới khác in hộ? Đồng tiền phải có mệnh giá chứ, có thể chế nào mà lại chấp nhận cho hàng nghìn hàng vạn hãng in tiền không? Rồi ai cũng tự in thì tiền có giá trị gì không?… Vậy nên, nếu các con có cúng thì hãy cúng tiền thật, sau đó mang số tiền đó nhân danh ba mà giúp đỡ đồng đội của ba thì đó mới là cúng thật.


 

Những ngày cuối ở bên cha – HOANG LE

 HOANG LE

Viet cho ngay father day

Một tháng  trước ngày Father day , ba bị stroke phải gọi xe cấp cứu đưa vào phòng ICU . Tạ ơn Chúa và Đức Mẹ , ba được cứu sống ra khỏi bệnh viện, họ đưa ba qua Rehab để điều trị tiếp và tập cho ba đi trở lại. 

Cứ mỗi buổi chiều sau khi tan sở,  tôi đến thăm ba khu rehabilitation ở thành phố Sugarland. Hôm đó là ngày thứ Bảy tôi được về sớm có thời giờ ở với ba nhiều hơn.  Tôi đẩy xe lăn cho ba ra ngoài ngồi hưởng không khí trong lành ngắm cây cảnh trong khu vườn nhỏ dành cho các bệnh nhân. 

“ Ba thấy hoa nở đẹp không ba? ” . Vừa hỏi tôi vừa chỉ tay phía trước có hai cây crape myrtles đang nở những chùm hoa màu hồng đậm và màu trắng đong đưa trong nắng chiều của hoàng hôn. Ba gật đầu nhẹ vì cổ họng đã bị tê liệt  không nói được sau khi bị stroke.  

Không ngờ ngày đó cũng là ngày cuối cùng ba được nhìn thấy hoa của cây crapes myrtle nở trên dương thế. 

Có lẽ rất nhiều người đã nhiều lần đi dự đám tang của bạn bè và của người thân nhưng rất ít ai trong số đó chứng kiến cảnh cuối cùng của một người hấp hối, giây phút mà tâm hồn của một con người đang lìa khỏi xác. Riêng tôi, đó là những giây phút trải nghiệm buồn đau hằn sâu trong ký ức để nhắc nhở cho tôi biết đời là phù du, hãy yêu thương nhiều đi, tha thứ mau đi. 

Khi ông bác sĩ  Michael là người trực tiếp nhận ca của ba tôi chuyển từ khu Rehab đến phòng cấp cứu nói với tôi rằng chắc chắn là ba tôi sẽ không qua khỏi trong vòng hai mươi bốn tiếng nữa, thì thần kinh tôi bỗng bị tê liệt và tim tôi bấn loạn, tôi nắm tay vào thành giường của bệnh nhân để khỏi bị ngã quỵ.  Mỗi buổi tối, tôi đều đọc kinh Chết Lành chung với nhóm Con hẹn gặp Chúa trong nhà thờ nhưng tôi vẫn thấy cái chết chắc là xa lắm. Lúc này tôi mới cảm nghiệm được cái chết thật rất gần và linh hồn thật là vô giá. Tôi cầu nguyện với Chúa cho tôi lấy lại bình tĩnh để có thể làm được gì cho linh hồn của ba tôi đang hấp hối . Linh mục của bệnh viện không có ở đây. Bây giờ mới là chín giờ sáng . Tay của tôi run rẩy tìm số điện thoại của Linh mục Tiến trong Giáo xứ .  Linh mục đang trên đường đi họp nhưng ông nói sẽ hủy bỏ cuộc họp để đến bệnh viện xức dầu Thánh cho ba tôi.  Trong lúc chờ Linh mục đến, tôi cầm xâu chuỗi đọc kinh Lòng thương xót Chúa. Đang cầu nguyện thì một cô gái mang cây đàn guitar bước vào phòng tự giới thiệu tên là Stephanie , music therapist,  hỏi tôi có muốn cho ba tôi nghe hát không?  Tôi có một chút ngạc nhiên vì trong bệnh viện cũng có dịch vụ này rồi gật đầu đồng ý vì biết ba tôi cũng rất thích nghe nhạc. 

Cô hát bài Amazing grace, tôi nghe não nề nát ruột nát gan . Thấy tôi khóc, cô hỏi tôi có muốn cho ba tôi nghe hát tiếp không, tôi quay qua nói với cô: “ Stephanie, tôi đã từng nghĩ ông ấy sẽ sống với tôi đến ngày Giáng Sinh nhưng ông đã ra  đi sớm hơn . Bạn có thể đàn và hát chung với tôi bài Silent Night và O Holy Night để xem như ba tôi đã sống với tôi đến Giáng Sinh được không? “Cô ta đồng ý dạo đàn và chúng tôi cùng hát . Sau đó , Stephanie lấy máy recording thâu lại nhịp tim của ba tôi đang đập để sau này mổi lần nhớ ba, tôi có thể nghe và cảm nhận ba vẫn bên tôi. Tôi tiếp tục đọc kinh Lòng thương xót Chúa và lần chuỗi kính Mân côi . Vừa đọc kính vừa khóc nhìn khuôn mặt đau đớn với những nếp nhăn trên trán của ba đang vật lộn với tử thần,  tôi lo lắng tột độ , cầu xin Chúa và Đức Mẹ giữ linh hồn ba tôi lại cho đến khi Linh mục tới. Ba vẫn nghe được tôi đang khóc, hai giọt nước mắt của ba chảy ra từ đôi mắt nhắm nghiền. Huyết áp của ba tôi đã xuống rất thấp 70/ 45  nhưng rồi lên trở lại từ từ 86/57. Rất may Linh mục đã đến kịp lúc. Linh mục đọc những lời nguyện và kinh đặc biệt cho người sắp chết rồi xức nước Thánh lên trán và hai tay của ba. Vừa nhận phép xức dầu xong, tôi nhìn thấy khuôn mặt ba thanh thản ngay tức khắc . Con số nhịp tim trên máy xuống thấp dần. Ba sống thêm mấy phút  chờ mẹ tôi đến để được nắm tay mẹ tôi rồi mới trút hơi thở cuối cùng. Ba đã ra đi lúc 1h15 pm nhanh hơn là bác sĩ đã dự đoán. 

Năm nay ngày Father’s day tôi không còn cha để đến thăm. Năm ngóai cũng ngày này tôi đã đến thăm ba trong Rehabilitation. Ba đang tập đi với một người Physical therapist , tên anh là Kevin. Tôi đã đến cổ vủ cho ba tôi đi những bước đầu tiên sau khi bị liệt nửa người . Tôi đã ôm chúc ba: “ Happy Father day, ba của con. Ba ráng tập đi để về nhà với mẹ và con nha ba.” Tôi cũng chúc anh Kevin “ Happy Father day.” Mặt anh đang rạng rỡ bổng biến sắc,  anh  trả lời tôi giọng lạnh như băng: “ Tôi còn thậm chí không biết ba tôi là ai.” Lúc đó tôi  cảm thấy thương cảm cho anh và nói lí nhí xin lỗi anh. 

Vâng, trên thế giới này có rất nhiều đưa trẻ mồ côi cha từ rất nhỏ hoặc có nhiều người không được may mắn hưởng được tình yêu của người cha. Tôi ước gì họ biết được vẫn còn có một người Cha trên Trời vẫn luôn yêu thương và quan tâm đến họ .  Nhìn hoa crape myrtles đua nhau nở trên các đại lộ doc theo freeway trong mùa hè tháng Sáu , tôi lại nhớ đến những ngày cuối cùng được ngồi cùng với ba ngắm hoàng hôn buông xuống . Mặc dù tôi đã mất một người cha trên dương thế nhưng tôi biết tôi vẫn còn có một người Cha trên trời luôn hằng thương tôi che chở  và bảo vệ tôi . Tôi cũng tin tưởng ba tôi giờ đã ở với Cha trên trời và đang nở một nụ cười bình an mãn nguyện. 

  HOANG LE


 

NÓNG: MỘT NGƯỜI SỐNG SÓT TRONG VỤ RƠI MÁY BAY

BBC News Tiếng Việt 

NÓNG: MỘT NGƯỜI SỐNG SÓT TRONG VỤ RƠI MÁY BAY

Một người quốc tịch Anh sống sót trong vụ tai nạn máy bay ở Ấn Độ.

GS Malik, Giám đốc cảnh sát thành phố Ahmedabad, nói với hãng thông tấn ANI rằng có một người sống sót khi chiếc Boeing 787-8 Dreamliner rơi.

Phát biểu với hãng thông tấn Ấn Độ ANI, Malik cho biết người sống sót “đang được chữa trị”.

Vị khách may mắn sống sót này ngồi ở ghế 11A, tên là Vishwash Kumar Ramesh, người Anh.

Truyền thông Ấn Độ cho biết họ đã nói chuyện với Vishwash trong bệnh viện.

Vishwash đã cho xem thẻ lên máy bay của mình, trong đó có tên và số ghế 11A của anh.

Truyền thông dẫn lời Vishwash nói: “Ba mươi giây sau khi cất cánh, có tiếng động lớn và sau đó máy bay bị rơi. Mọi chuyện diễn ra quá nhanh.”

Hindustan Times

#BBCTiengViet


 

Thư Viết Từ Chân Núi – Vĩnh Chánh

Kimtrong Lam

 Vĩnh Chánh

Hầu như sau những trận đánh lớn, đơn vị thường được di chuyển về sau chiến tuyến, dưỡng quân, bổ túc quân số, tân trang quân dụng, chỉnh đốn chiến thuật, chờ đến phiên tái lâm chiến, trong nay mai. Để tưởng nhớ đến cuộc chiến đã chấm dứt 50 năm, Lá Thư Viết Từ Chân Núi xin ghi lại những nỗi niềm của người lính cùng niềm tin, hy vọng và tình yêu qua chiều dài của cuộc chiến tại Miền Nam Việt Nam.

Các anh đi, ngày ấy đã lâu rồi

Các anh đi, đến bao giờ trở lại

Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ trông (Các Anh Đi – Nhạc sĩ Văn Phụng)

Bạn thân mến!

Tất cả chúng ta đã trải qua những giai đoạn khác nghiệt trong chiến tranh và hậu chiến, khi Miền Nam Việt Nam phải chống trả sự xâm lăng khát máu của CS Miền Bắc. Hình ảnh của những xuôi ngược hiểm nguy trong bước đường chinh chiến, những hy sinh hào hùng của người lính chiến – những mất mát chết chóc, những đau thương tủi nhục, những thảm cảnh do pháo kích bừa bãi của Việt Cọng vào các thành phố, những lần chạy giặc, Biến Cố Mậu Thân, Đồi 31 Hạ Lào, Đại Lộ Kinh Hoàng, Trận Đánh Đồi Charlie, Tử Thủ An Lộc, Hải Chiến Hoàng Sa, những di tản triệt thoái không lối thoát, những kinh hãi trong vượt biên vượt biển, những đọa đày trong ngục tù CS, và những bôn ba, những cố gắng phi thường khi làm lại cuộc đời trên xứ người.

Một số không nhỏ anh em chúng ta đã bỏ mình cho Tổ Quốc, một số lớn khác đã mang những thương tật trên thân thể và những vết sẹo trong tâm hồn, và hầu như tất cả chúng ta còn lại cùng gia đình và bao người thân quen đều cùng phải gánh chịu những hư hao  gãy đổ phi lý, những điêu tàn cơ cực trong khói lửa binh đao. Sau ngày gãy súng trong trại tù tủi nhục. Khi lênh đênh trên biển. Khi làm lại cuộc đời trên xứ người. Hay đành tiếp cuộc sống bạc đãi trong nhà tù lớn tại quê hương …      

Bạn ơi!

Có cuộc chiến nào mà không có đau thương tàn phá, mà không có tao loạn phong trần. Có cuộc chiến nào mà không có chết chóc chia phôi, mà không có máu lửa và nước mắt. Tuy nhiên, bên cạnh nguy hiểm thường trực của chiến tranh, phải chăng chúng ta vẫn luôn mang một hy vọng sống còn về lại với người thân, hay một tình yêu trong lòng, một hạnh phúc thầm kín và một giấc mơ hiền hòa khi thanh bình. Vì vậy, trong gian truân nguy hiểm, trong địa ngục trần gian, trong sóng gió cuộc đời, phải chăng chúng ta đã luôn cầu nguyện xin Ơn Trên cứu giúp chúng ta vượt thoát và đưa chúng ta về chốn bình an. Và phải chăng lồng vào giữa đời người lính luôn có sự hiện diện của tình yêu. Vì tình yêu mới có thể giúp đỡ, cưu mang và nuôi dưỡng người cầm súng quên đi bao gian khó, bất chấp bao nguy hiểm thường trực, để vươn lên trong thử thách bão lửa, và sống sót. Cho dù đó là tình yêu quê hương xóm làng, tình đồng đội sống chết bên nhau, tình nghĩa vợ chồng của đôi chinh phu chinh phụ, là cuộc tình thơ mộng hay tình sầu giữa chàng lính chiến và em gái hậu phương, hoặc một chuyện tình đắm đuối trong lần về phép rồi dở dang oan trái vì hai phương trời cách biệt.

        Tình yêu đó như thể một cánh hoa mọc giữa sườn đá. Một hơi ấm giữa cơn mưa rừng. Một cứu cánh bên bờ vực chết. Một vị ngọt giữa cái đắng, thần dược của nỗi đau trong đời chiến chinh. Một cái dù bao la che chở khi ta bị thương tật. Và một ánh sáng chớp vào tim trước khi nhắm mắt trút hơi thở cuối cùng

        Ôi! Người lính, tình yêu và nỗi chết. Thử hỏi người trai nào sống trong thời chiến mà chưa một lần biết đến những nỗi niềm trên! Có người lính nào mà không một lần nghĩ đến thân phận khi dấn thân vào sương gió?! Và còn gì tuyệt đẹp hơn khi tình yêu đến trong địa ngục biển lửa, nơi mà sự nguy hiểm, thử thách kề cận bên cái chết càng thôi thúc lòng tin yêu, nỗi nhung nhớ đến tuyệt hảo. Vì trong tiếng thì thầm của tình yêu thời chiến đã có sẵn chữ hy sinh. Vì khi tình yêu vừa len nhẹ vào đời người lính nó đã mang theo mầm mống của lo sợ tan vỡ, của mất mát chia ly và chết chóc. Trong thử thách, gần với nỗi chết, tình yêu nơi người lính càng sáng ngời hoa mộng, mang đầy từ tâm. Là nơi bám víu giữa những lằn chớp của bom đạn. Là nhung nhớ lơ lửng giữa nguy hiểm. Là bao nhiêu lần mơ đến em là bấy nhiêu lần nguyện cầu khi không biết phải làm gì hơn. Là cảm nhận hạnh phúc tuyệt vời dù chỉ với lá thư tình dấu kín trong ba lô, hay một tin nhắn của người yêu từ phương xa. Hoặc đơn giản là những bộc lộ thiết thực khi cảm nhận thiếu vắng em, những ao ước được dạo phố bên em, những cơn mê thèm ôm em. Ngay giữa những tiếng nổ. Giữa những đêm khuya trắng mắt. Trong những cơn say chưa đủ say. Khi không biết ngày mai sẽ ra sao:

“Mấy tháng rồi tao chưa thấy Sài Gòn

Mấy tháng rồi tao không được ôm em

Tao thèm làm tình như tao thèm sống

Tao thèm hôn em, hôn liên miên…” 

(Mưa và Nỗi Chết ở An Lộc/ Tác giả Nguyễn Tiến Cung}

        Song song với cuộc chiến là những câu chuyện về những người lính xông pha nơi chiến trường có những người yêu để lại đằng sau. Là những tình cảnh dạt dào thắm thiết của chàng nơi sương gió thương nhớ em ở làng xa, “chiều chiều ngoài biên cương, nhìn ra khơi ngàn sóng biếc mơ đến em bên bến sông buồn trông chờ” Là những thơ tình trang tải nổi nhớ nhung của nhau. Những hẹn hò quý báu trong những ngày nghỉ phép ngắn ngủi. Những thầm kín, những mơ mộng, những tâm sự, những dự tính, những ôm choàng, những nụ hôn hay những gắn bó thể xác, những hiến dâng tự nguyện. Để nhiều khi, những cuộc tình ấy đơm hoa kết nụ theo tháng ngày chinh chiến, cho dù về sau chàng là “bại tướng cụt chân”; hay cuộc tình vụt tan khi tin em sang ngang đến giữa tiếng bom đạn. Và đôi khi cuộc tình bị chém ngang tim với tin dữ chàng vừa gục ngã nơi một tiền đồn không tên, rơi nhẹ vào chốn miên viễn không hận thù, bỏ lại cuộc đời trai trẻ và “người tình còn đó anh nhớ không anh”.

        Bạn thân mến, trong thời gian chờ ra đơn vị, tại BV Đỗ Vinh, tôi tình cờ đọc lại cuốn truyện dịch “Một Thời Để Yêu, Một Thời Để Chết”. Một câu truyện về người lính, tình yêu và sự chết xẩy ra như bao câu chuyện tương tự trong cuộc chiến hiện tại, nhưng không hiểu vì lý do gì cuốn truyện này đã để lại bấy giờ cho tôi một ấn tượng sâu đậm. Có thể vì đó là thời gian tôi đang chơi vơi đeo đuổi mối tình đầu đời ở tuổi hai mươi sáu. Giữa những giường bệnh, giữa những tiếng rên đau, chưởi thề, nghiến răng của thương binh, trong mùi ẩm ướt của sàn nhà, mùi bông băng thấm máu và của thuốc men, tôi chứng kiến bao nụ cười hạnh phúc của các đồng đội thương binh kề cận, do những người mẹ, người chị hay em, hoặc người tình đem đến. Là những thức ăn quen thuộc do nhà nấu, trái cây tươi mát đưa tận miệng. Là những e ấp nắm tay, những an ủi trìu mến. Là những ánh mắt thương cảm, ưu buồn lo lắng khi nhìn thấy vết thương nặng của người thân. Là những thăm hỏi, hay đôi khi chỉ là những câu nói bâng khua, dù ngồi hằng giờ bên cạnh giường. Là những gói thuốc lá, ly cà phê đá, những chiếc khăn tay, những cuốn truyện từ tay các em gái hậu phương…

        Câu truyện “Một Thời Để Yêu, Một Thời Để Chết” của tác giả Erich M. Remarque chọn bối cảnh nước Đức trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Anh lính Đức Erust Graeber về thăm nhà lần đầu tiên sau 2 năm ở chiến trường Miền Đông. Dưới khung cảnh đổ nát của thị trấn mình liên tục bị Đồng Minh oanh kích, anh tìm thấy được tình yêu với nàng Elizabeth Kruse, một người quen xưa của gia đình. Một tình yêu mãnh liệt giữa 2 con người không còn gì để phải sợ mất mát thêm đã nảy mầm giữa tiếng bom đạn và chết chóc rồi mãnh liệt vươn lên, trong âu lo mơ mộng, ngọt ngào khắc khoải, nồng nàn ân ái, hy vọng mơ mộng, bàng bạc mong manh trong nỗi buồn miên man vô định của có nhau hôm nay, xa nhau ngày mai, rồi mất nhau. Thay vì đào ngũ, Erust quyết định trở lại đơn vị để rồi gục ngã bởi hòn đạn từ chính những tên du kích Nga anh vừa thả ra, khi tay anh đang cầm lá thư của vợ báo tin có thai con mình. Truyện được kết thúc bằng một câu ngắn gọn “Đôi mắt chàng khép lại”, thế nhưng tôi lại liên tưởng đến một khép kín của cả một khung trời, của nguyên cả một giấc mơ nhẹ nhàng bình dị vụt biến khi cái chết đến quá nhanh và phi lý. Một cái chết quá dửng dưng. Không một dấu than. Không một dấu hỏi. Mà chỉ một dấu chấm hết. Như tiếng hát Soprano đang vút cao bỗng chợt ngưng. Mong manh thay cho một cuộc tình tuyệt đẹp của thời chiến, đến nhanh và tan nhanh, mà trong đó bao hình ảnh của thủa tình tự bên nhau, bao lời yêu thương, bao cảnh âu yếm tuần tự quay diễn nhanh trước khi đôi mắt khép kín rồi tất cả tan biến vào hư vô.

        Đọc truyện người để nhìn lại thực tế cuộc chiến tranh chống CS xâm lăng của ta, cảm thương người lính của ta, trân quý tình yêu của họ. Người lính chiến vẫn làm bổn phận người trai khi đất nước cần, tình yêu vẫn giống nhau trên danh nghĩa, và cái chết vẫn là cái chết dưới mọi hình thức, bình đẳng cho cả quan lẫn quân, bình thản như trong một giấc ngủ, hay hung bạo với thân thể nổ tung, xác người bầm dập không toàn thây, hoặc một cái chết từ từ trong đau đớn mang đầy thương tích loang máu đào.

        Bạn ơi! Vậy người lính của chúng ta là những ai? Phải chăng đó là những người trai trẻ theo tiếng gọi non sông, kẻ động viên hay đôn quân, người tình nguyện nhập ngũ; là những người con của thế hệ, kẻ trước người sau, xa rời mái trường, quê nhà và người thân lên đường tòng quân bảo vệ đất nước. Họ thuộc mọi thành phần của xã hội tự do Miền Nam, đến từ mọi nẻo đường, từ những chốn xa xôi hẻo lánh hay đô thị đông người, suốt từ Đông Hà Quảng Trị khô cằn tuyến đầu ngang qua Cố Đô Huế rồi đến Duyên Hải nắng đẹp Miền Trung, lên tận Cao Nguyên rừng xanh âm u, quanh quẩn Thủ Đô Sàigòn-Gia Định mến yêu, xuyên qua những mảnh đất phì nhiêu màu mở của Đồng Bằng Cửu Long đến tận cùng Cà Mâu, bao gồm mọi tôn giáo, với đầy đủ giọng nói ba miền Nam Bắc Trung, đồng một lòng sát cánh chiến đấu bên nhau. Họ xuất thân từ các trường Đại Học Quân Sự Hải Lục Không Quân, từ trường Thiếu Sinh Quân hay các Trung Tâm Huấn Luyện quốc gia Thủ Đức, Quang Trung Đồng Đế, Dục Mỹ, TT Huấn Luyện Nhảy Dù… và của các địa phương. Họ là những:

“Người lính trẻ đã một thời giong ruổi

Đem tình người tình lính trấn biên cương

Vẫn một lòng chung thủy với quê hương

Dù oan nghiệt rẽ đời qua trăm hướng” (Huy Văn)

        Những người lính ấy đồng thời cũng là anh em trong cùng một gia đình, là con chú con dì trong dòng họ, cùng làng xóm phố phường, là bạn học cùng trường, từng quen biết nhau hay xa lạ nhưng cùng một lý tưởng, tình nguyện gia nhập quân đội VNCH để chống kẻ thù xâm lăng. Họ là những người con ưu tú của đất nước trong mọi binh chủng mà tổ quốc luôn ghi ơn khi họ đền nợ nước.

“Xin tạ lỗi với đời trai khói lửa

Những địa danh ngang dọc bước quân hành

Đoàn tráng sĩ qua sông lần vĩnh biệt

Tưởng đang còn cuộc rượu lúc tàn canh

(Xin Một LầnTạ Lỗi – Trần Ngọc Nguyên Vũ)

        Còn những người yêu của lính hoặc những cô gái mà người lính đeo đuổi si tình là ai? Phải chăng là em gái của thằng bạn nối khố, là người con gái lớn lên trong cùng xóm, trong một thị trấn, ở làng bên cạnh, cùng một quận lỵ, một trường tiểu trung học, trên thềm đại học, cùng chung nhóm bạn. Là người quen biết trong gia đình. Là em thím Tư, là cháu mợ Ba, là bạn thân của nhỏ em, con gái ông Thượng Sĩ trong trại gia binh. Là những o thôn nữ mộc mạc đơn sơ trong các áo bà ba trắng xanh đỏ tím vàng gặp trên đường chinh chiến khi ta dừng chân uống nước ở ven đường; Đó cũng là những nữ sinh môi đỏ má hồng vùng Cao Nguyên hay các nữ sinh trong đồng phục áo trắng hay đầm hồng, jupe xanh với áo sơmi trắng tung tăng trên các đường phố …

“Thấy em xỏa tóc ngả nghiêng bên trời

Ta cầm một sợi lên chơi

Ai dè suốt cả một đời lao đao”   (Nguyên Miên Thảo)

           Em là người con gái ta chưa quen biết nhưngchợt thấy giữa nhóm bạn cùng trang lứa trong quán chè, quán kem, quán phở quán hủ tiếu, đang ăn vụng bò bía, phá lấu nước mía ở góc đường, hoặc là những thiếu nữ dung dăng dạo phố Nguyễn Huệ, Thương Xá Tax mà ta muốn tìm quen theo về tận nhà. Họ cũng là người em hậu phương đến choàng vòng hoa chiến thắng “trong ánh vinh quang rộn ràng, anh bước hiên ngang về làng”, là người mà ta tình cờ bắt gặp có một đôi mắt long lanh thơ ngây, đôi má hây hây và một nụ cười hồn nhiên khiến ta bỗng vương vấn trong một chiều rực nắng. Đó là một mái tóc mây hồng ngiêng sau vành nón trên cầu Trường Tiền khiến ta mê mẩn dù lời nói khó hiểu” mô tê răng rứa – anh đừng đi gần tui mà tui ốt dột. Mạ tui thấy la tui đó!” Hay là một cô bé tóc ngắn có dáng nghịch ngợm chạy xe honda với câu nói thật ngộ “Tui hổng chịu đâu – Dzậy sao?!” Là một tà áo tím nên thơ với giọng nói nhẹ như gió thoảng của “cô em Bắc Kỳ nho nhỏ”…Là bao nỗi nhớ. Bao chờ mong. Bao vấn vương. Bao mộng ảo. Bao diệu kỳ không nên lời…Là con suối nhẹ nhàng đi qua tim ta. Là cơn đau nhức nhối trong nỗi thương nhớ

“Nếu một mai bé nhìn hoa dù nở

Lời tỏ tình anh gởi đó nghe cưng

Hoa dù tròn như nguyện ước yêu thương

Anh lơ lửng giữ dòng đời vạn biến…”

        Chuyện tình của họ như thế nào? Cũng ngập ngừng, cũng lo sợ, lãng mạn và say đắm. Cũng liều lĩnh, bất chấp, đột ngột lâng lâng đến, để rồi nhanh chóng đi vào thương đau. Cuộc tình lính chiến như một cơn “gió thoảng xa xôi, gió nào rung động tim tôi, hay là dư âm suốt đời!” Hay nhẹ nhàng buông thả trữ tình, ngay sau lần đầu gặp nhau “chưa nắm tay em mà lòng đã yêu, chưa uống môi em mà tình đã say!” Với người lính, cuộc tình thường long đong ray rứt, yêu trong vô vọng, yêu trong cuồng si, yêu trong chớp nhoáng, dù chỉ để đổi lấy một phút bên em rồi cả đời vĩnh viễn mất nhau. Đó cũng là một cuộc tình chớp nhoáng, đam mê mạo hiểm, bất chấp ngày mai, thuộc loại tình lính là “tính liền” với đám cưới trong ba ngày phép trước khi ra lại đơn vị.

 “Hôn em mà đất trời say, Môi không ướp rượu mà ngây ngất buồn”.

Tuy chai sạn trong phong sương, nhưng người lính rất mềm yếu, ngây ngô, dễ rung động và non nớt trong tình trường “Đôi khi muốn nói yêu em nhưng ngại ngùng đành lãng phai!” Người lính thường xin chịu phần thua thiệt, lo sợ cho sự xa mặt cách lòng, cạm bẫy và cám dỗ của đèn màu đô thị, nhưng tình yêu đã nuôi dưỡng họ, cho phép họ thơ thẩn giữa những thực tế khắc nghiệt của chiến tranh. Tình yêu cho họ thêm ý chí và tinh thần chiến đấu. Vì vậy tình yêu của lính cao thượng, biết chấp nhận sầu ly, biết thông cảm cho tình cảnh của người hậu phương, “đường vào ngày mai sỏi đá, thôi, em về, quên hết đi ngày xưa!” Nhận thư Má viết ngắn gọn “con Tú qua thăm Má và khóc, nói nó không thể đợi con được. Tuần sau nó sẽ lấy chồng, là thầy giáo gần nhà”, người lính hoa mắt, đông đá, sau một vài câu chửi thề, xách súng bắn một tràng chỉ thiên. Nổ nghe như pháo ngày cưới. Ông Thầy cũng đành lắc đầu. Thế là xong! Còn với ông Thầy “tử thương” vì tình thì sao? Thầy và đám đệ tử tụm lại làm vài chầu ngất ngư để quên sầu hay tưởng như quên sầu, rồi lầm lì để sau đó tình nguyện lãnh nhiệm vụ nguy hiểm nhất cho đơn vị trong lần đánh tới. Càng yêu và khi được yêu, người lính càng lúc càng nghiệm rõ tình yêu mang đến sức sống, niềm hy vọng, giúp họ tự tin và quyết chí xông xáo, xong nhiệm vụ để được sớm đi phép thăm em. Tình yêu là nắng ấm giữa giông tố đời lính. Nuôi nấng ta khi ta bị thương tật. Nâng ta dậy khi ta bị chà đạp. Là nơi bám víu khi ta sa cơ thất thế. Là ân tình của hạnh  phúc cuối  đời.

Bạn thân mến!

Phải chăng em yêu anh vì yêu dáng phong trần hiên ngang của anh, yêu luôn cả mũ đỏ thiên thần và bộ đồ hoa dù. Yêu cái nhìn nồng nàn, đôi mắt rực lửa, nụ cười rạng rỡ với tiếng cười sảng khoái của anh. Yêu sự chìu chuộng săn đón của anh, yêu con đường mình cùng chung lối, yêu vòng tay siết chặt, nụ hôn nóng bỏng mang theo mây trời và giông bão vào đời em. Là mong đợi những thư tình đơn sơ gởi từ KBC xa lạ. Là thích nghe anh kể chuyện đời quân ngũ, chuyện xông pha ngoài trận tuyến. Thương anh, em đành thương luôn cả đầu tóc húi cao carré, làn da đen thui khét nắng và luôn cả mùi ẩm mốc của bộ lính trận. Và từ khi em là người yêu của lính, em biết yêu nhạc lính, yêu màu tím hoa sim, biết lo sợ thấp thỏm đợi chờ tin anh, biết cầu nguyện Ơn Trên gìn giữ anh và theo dõi bước chân anh qua những đêm trằn trọc khó ngủ. Yêu anh là chấp nhận những ngày cô đơn xa anh, những chiều dạo phố một mình, ráng làm quen với tên xa lạ của những nơi anh bước qua, là đến thăm anh trong quân y viện. Làm vợ anh là chấp nhận thương đau thua thiệt, chắt chiu với tiền lính nuôi đàn con dại, là đếm những ngày xa anh, là tạm ở tại hậu cứ trong căn phòng nhỏ lợp tôn, hay nay đây mai đó theo đơn vị anh và đành phó mặc tương lai cho số phận. Là lỡ làng đời em. Ai trong chúng ta đã không một lần ngậm ngùi trước hình ảnh chẳng thể quên của người cô phụ trẻ tuổi phủ phục bên cạnh quan tài chồng, tay xoa xoa lá cờ che kín nắp hòm, thì thầm những lời yêu đương giữa những nức nở.

Xin tạ lỗi với ai người chinh phụ

Đã hóa thân nàng Tô Thị trông chờ

Đứng sừng sững giữa hai vầng nhật nguyệt

Nhỏ xuống dòng lệ máu bốc thành thơ

Xin tạ lỗi cùng em người hiền phụ

Đã vì ta lận đận suốt một thời

Cùng ngụp lặn trôi theo dòng sinh mệnh

Tấm gương đời cuối thế kỷ hai mươi (Trần Ngọc Nguyên Vũ)

           Bạn thân mến!

Có tình yêu hay chưa có tình yêu, người lính vẫn dũng cảm xông pha trận tuyến, làm tròn bổn phận giao phó. Thương tật hay chết chóc là chuyện không ai mong muốn nhưng vẫn chấp nhận khi trời gọi ai nấy dạ. Cái chết đôi khi đơn độc trong tiểu đội khinh binh, đôi lúc vài ba mống cùng một lúc khi trung đội tiến chiếm mục tiêu. Có khi đi đong luôn gần cả nửa đại đội vì bom bạn thả lầm,hay nhiều hơn nữa khi tiểu đoàn bị tràn ngập…Có cái chết đến nhanh sau một tiếng nổ lớn, có cái đến từ từ, quằn quại trong đau đớn. Có cái chết thật tức tưởi oan nghiệt, có cái vì can đảm đỡ đạn cho đồng đội bên cạnh. Người lính chết trong từng hố cá nhân, hay chung với nhau trong các đợt xung phong với xác quan và quân sát bên nhau, rải rác đây đó trên các nẻo đường đất nước. Chết toàn thây hay thân xác nổ tung? Chết mất tích trong bụi bờ, trên đường di tản, hay được chở về tận nhà trong hòm nhôm? Trong giây phút tử thương, “nằm chết như mơ” ấy, người lính trận trẻ tuổi có kịp chăng kêu lên Mẹ ơi, như anh đã từng làm khi đau ốm hay trong rủi ro? Có đủ chăng anh thì giờ nhớ đến người vợ bé bỏng luôn trông ngóng chờ đợi anh nơi hậu cứ? Hay có kịp thấy chăng anh nụ cười ánh mắt của người em nhỏ anh thầm yêu mà anh đành giã từ nơi ngôi làng xa trên bước đường chinh chiến?!

Mày nghĩ, tụi mình như cánh gió

Ai đi nhốt gió được bao giờ  (Lá thư Pleime – Lê Anh Tuyến)

         Người chết trận chính thức giã từ vũ khí. Họ thật sự là những anh hùng đã đi vào huyết sử của dân tộc, là hồn thiêng của sông núi. Họ là những cứu tinh của đơn vị, là huyền thoại của đất nước. Chết trận là chết không một than vãn. Không một ai oán. Không có lấy một lời trăn trối cho người yêu, không kịp một lời xin lỗi với vợ dại con thơ ở nhà.

Những ai đã chết vì sông núi

Sẽ sống muôn đời với núi sông. (Trần Trung Đạo)

Khi người lính nhắm mắt buông xuôi, tình yêu vẫn luôn hiện hữu trong ánh sáng vĩnh cửu của tin yêu, trong tình thương nhớ vô vàn của đồng đội và gia đình

“Anh đi mãi, không bao giờ trở lại! Tôi viết vần thơ của thời hoang dại. Những vần thơ hoài niệm nhớ thương anh. Và đêm nay, trong khóe mắt long lanh giọt lệ buồn…Tôi khóc anh vĩnh biệt!”  (Hồ Sĩ Duy)

            Khi một người buông tay. Một người ngã. Một thoáng yêu nhau, Một thoáng ngậm ngùi, thì các bạn thân mến ơi, là những người sống sót qua cuộc chiến nay tạm dừng bước nghỉ ngơi dưới chân núi, chúng ta cần phải ngồi gần bên nhau, xích sát vào nhau hơn nữa. Xin đừng hững hờ. Chớ xa lánh nhau. Và xin đừng quên nhau. Hãy nhớ: những người sống sót, bại trận như chúng ta đây vẫn còn nợ những người tử trận. Mãi mãi không quên!!

Bạn ơi!

Xin hãy cùng nhau thắp nén nhang lòng, cầu xin cho anh linh các tử sĩ được vinh hiển chốn ngàn thu.  Xin cho tình đồng đội chúng ta vẫn trung tín. Cho khí thế vẫn dũng mạnh. Để tiếp tục đồng hành với nhau và chung sức giữ đời cho nhau. Trong tinh thần anh em đoàn kết một nhà. Cùng tham gia sinh hoạt cộng đồng chống CS, làm nghĩa vụ giúp đỡ anh em thương phế binh của ta ở quê nhà, đồng thời góp thêm bão lửa và sức sống cho các tù nhân lương tâm, xem đó như một trách nhiệm chung. Mong các thế hệ hậu sinh thấu hiểu về tinh thần chiến đấu bất khuất cùng lịch sử của VNCH và tiếp tục dương cao ngọn cờ tự do.

Chúng ta học hỏi từ quá khứ đau thương để rút kinh nghiệm sống được thực tế hơn. Nhưng đồng thời chúng ta phải nhìn thẳng vào tương lai với tất cả sự nhiệt tình và lòng trung kiên còn lại, để tiếp tục nuôi nấng ý chí trong hoài bão rằng, một ngày không quá xa, quê hương sẽ sớm thoát xiềng xích của CS, và dân lành sẽ được sống trong một chính thể mới, thật sự có tự do, bình đẳng và bác ái.

Viết cho tháng 4, 2025

Vĩnh Chánh


 

Thiếu niên người Ý qua đời năm 15 tuổi được phong thánh

 Ba’o Nguoi-Viet

June 13, 2025

VATICAN (NV) – Thiếu niên người Ý qua đời năm 15 tuổi sẽ được phong thánh vào Tháng Chín, trở thành vị thánh thế hệ “millenial” (sinh từ năm 1981 tới 1996) đầu tiên của Giáo Hội Công Giáo, Vatican loan báo hôm Thứ Sáu, 13 Tháng Sáu, theo New York Times.

Ban đầu, lễ phong thánh cho em Carlo Acutis được lên kế hoạch cho ngày 27 Tháng Tư nhưng phải hoãn lại do Đức Cố Giáo Hoàng Francis qua đời sáu ngày trước.

Hình ảnh và đồ lưu niệm về em Carlo Acutis bán trong cửa hàng ở Assisi, Ý, hôm 25 Tháng Ba. (Hình minh họa: Christopher Furlong/Getty Images)

Em Acutis là người Ý gốc Anh, chết vì bệnh bạch cầu (leukemia) năm 2006. Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, em Acutis dùng tài năng về máy điện toán để lan truyền đức tin Công Giáo bằng cách mở trang web lưu lại những chuyện kể về điều kỳ diệu.

Với biệt danh “người ảnh hưởng của Chúa” (God’s influencer), em Acutis được những người quen biết em mô tả là cực kỳ thông minh và rành Internet. Em cũng là người có nhiều đức tin, đi lễ hằng ngày, và làm vô số điều thiện lành, theo tiểu sử của em cũng như lời kể của những người kêu gọi phong thánh cho em.

Hôm Thứ Sáu, Vatican cho biết, sau khi họp với các hồng y, Đức Giáo Hoàng Leo XIV sẽ phong thánh cho em Acutis vào ngày 7 Tháng Chín, cùng với một vị thánh trẻ tuổi khác, anh Pier Giorgio Frassatti, qua đời lúc 24 tuổi vào năm 1925.

Buổi lễ đó sẽ là lễ phong thánh đầu tiên do Đức Giáo Hoàng Leo XIV, giáo hoàng người Mỹ đầu tiên, làm chủ tế. (Th.Long) [qd]


 

Tin Cập Nhật, chiến tranh Do Thái – Iran: Phóng tên lửa đạn đạo vào thủ đô Tel Aviv của Do Thái

Theo báo Bưu Điện Hoa Nam và thông tấn xã AFP
Người ta nghe thấy tiếng nổ ở Tel Aviv và Jerusalem khi còi báo động vang lên khắp Israel vào đêm thứ sáu sau khi người phát ngôn quân đội nước này cho biết đó là vụ bắn tên lửa từ Iran.

Hãng thông tấn nhà nước Iran IRNA cho biết hàng trăm tên lửa đạn đạo đã được phóng để trả đũa các cuộc tấn công lớn nhất từ ​​trước đến nay của Israel vào Iran, phá hủy cơ sở hạt nhân ngầm khổng lồ của Iran tại Natanz và tiêu diệt các chỉ huy quân sự hàng đầu của nước này.

Quân đội Israel cho biết Iran đã bắn chưa đến 100 tên lửa, phần lớn trong số đó đã bị đánh chặn hoặc không trúng đích.

Tên lửa phóng từ Iran bị đánh chặn khi nhìn từ Tel Aviv, Israel, vào thứ sáu. Ảnh: Reuters

Người phát ngôn quân đội Israel nói tiếng Ả Rập Avichay Adraee cho biết trong một bài đăng trên mạng xã hội rằng: “Một số lượng hạn chế các tòa nhà đã bị ảnh hưởng, một số trong số đó là do mảnh đạn từ các hoạt động đánh chặn”.

Quân đội Hoa Kỳ đã giúp bắn hạ tên lửa của Iran, hai quan chức Hoa Kỳ cho biết. Một trong những quan chức, nói với điều kiện giấu tên, cho biết hiện tại các vụ đánh chặn của Hoa Kỳ đã được thực hiện bởi các hệ thống trên mặt đất. Quan chức này cho biết máy bay chiến đấu và tàu chiến vẫn chưa được sử dụng cho đến nay.

Nhân viên an ninh phản ứng tại hiện trường vụ tấn công ở Tel Aviv sau vụ tấn công bằng tên lửa của Iran vào thứ sáu. Ảnh: Reuters
Nhân viên an ninh phản ứng tại hiện trường vụ tấn công ở Tel Aviv sau vụ tấn công bằng tên lửa của Iran vào thứ sáu. Ảnh: Reuters

Lực lượng cứu hộ Israel cho biết có bảy người bị thương vào thứ sáu ở miền trung đất nước, ngay sau khi Iran bắn một loạt tên lửa vào Israel. “Các đội cứu hỏa đang xử lý một số vụ việc lớn, chủ yếu ở khu vực Dan” xung quanh Tel Aviv, một tuyên bố cho biết, đồng thời nói thêm rằng “lính cứu hỏa đang làm việc trong một tòa nhà cao tầng để giải cứu những người bị mắc kẹt và dập tắt đám cháy, cũng như ứng phó với hai địa điểm phá hủy khác”.