PHẠM QUỲNH (1892-1945)

Nguyễn Thủy Nguyên   HÀ NỘI NGÀY THÁNG CŨ

MTH- Năm 1992 ở Paris, tôi được đến dự buổi báo cáo luận án Tiến sĩ của bà Phạm Thị Viên, con gái học giả Phạm Quỳnh, về những đóng góp của ông với chữ quốc ngữ và trong lĩnh vực ngôn ngữ học. Phạm Quỳnh rất giỏi sử dụng tiếng mẹ đẻ, giỏi chữ Hán và tiếng Pháp, là người Việt Nam đầu tiên trong lịch sử diễn thuyết bằng tiếng Pháp trước Viện Hàn lâm Pháp Quốc khi ông mới 30 tuổi. Ông là người đi tiên phong trong việc quảng bá chữ Quốc ngữ và dùng tiếng Việt – thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp – để viết lý luận, nghiên cứu. Ông là tác giả câu nói nổi tiếng “Truyện Kiều còn tiếng ta còn. Tiếng ta còn nước ta còn”. Ông cho rằng tiếng nói gắn liền với vận mệnh dân tộc, tổ quốc. Nhờ giữ được nguyên vẹn tiếng mẹ đẻ trong suốt hơn nghìn năm Bắc thuộc mà dân tộc ta không bị Hán hoá và do đó không trở thành một dân tộc ít người của Trung Quốc. Ông viết: “Người Tàu cai trị ta hơn ngàn năm; văn hoá Tàu, ta đổi theo; phong tục Tàu, ta bắt chước; duy tiếng ta, ta nói; ta không nói tiếng Tàu.”

Phạm Quỳnh sinh tại số 17 phố Hàng Trống, Hà Nội; quê quán ở làng Lương Ngọc, tỉnh Hải Dương, một làng khoa bảng, có truyền thống hiếu học. Mồ côi mẹ từ 9 tháng tuổi, mồ côi cha từ khi lên 9 tuổi, Phạm Quỳnh côi cút được bà nội nuôi ăn học.

Phạm Quỳnh học giỏi, có học bổng, đỗ đầu bằng Thành chung, Trường trung học Bảo hộ (tức Trường Bưởi, nay là Chu Văn An ). Năm 1908, Phạm Quỳnh làm việc ở Trường Viễn Đông Bác cổ tại Hà Nội lúc vừa tuổi 16.

Từ năm 1916, ông tham gia viết báo cho một số tờ có uy tín đương thời; làm chủ bút kỳ cựu của Nam Phong tạp chí từ ngày 1 tháng 7 năm 1917 cho đến năm 1932; tuyên truyền cho tư tưởng “Pháp Việt đề huề”. Cũng trong thời kỳ 1924–1932, ông còn là giảng viên Trường Cao đẳng Hà Nội.

Ngày 2 tháng 5 năm 1919, ông sáng lập và là Tổng Thư ký Hội Khai trí Tiến Đức. Ông Trần Trọng Kim là Trưởng ban Văn học của Hội; và Hội trưởng Hội Trí tri Bắc Kỳ.

Năm 1922, với tư cách đại diện cho Hội Khai trí Tiến Đức, ông đã sang Pháp dự Hội chợ triển lãm Marseille rồi diễn thuyết cả ở Ban Chính trị và Ban Luân lý Viện Hàn lâm Pháp về dân tộc giáo dục.

Năm 1924, ông được mời làm giảng viên Khoa Bác ngữ học, Văn hóa, Ngữ ngôn Hoa Việt, Trường Cao đẳng Hà Nội, trợ bút báo France – Indochine.

Từ năm 1925–1928, Phạm Quỳnh là Hội trưởng Hội Trí tri Bắc Kỳ; năm 1926 ông làm ở Hội đồng Tư vấn Bắc Kỳ và đến năm 1929 được cử vào Hội đồng Kinh tế và Tài chính Đông Dương.

Năm 1930, Phạm Quỳnh đề xướng thuyết lập hiến, đòi hỏi người Pháp phải thành lập hiến pháp, để quy định rõ ràng quyền căn bản của nhân dân Việt Nam, vua quan Việt Nam và chính quyền bảo hộ.

Năm 1931, ông được giao chức Phó Hội trưởng Hội Địa dư Hà Nội.

Năm 1932, giữ chức Tổng Thư ký Ủy ban Cứu trợ xã hội Bắc Kỳ.

Ngày 11 tháng 11 năm 1932, sau khi Bảo Đại lên làm vua thay Khải Định, ông được triều đình nhà Nguyễn triệu vào Huế tham gia chính quyền, thôi không làm chủ bút Nam Phong tạp chí nữa. Tại Huế thời gian đầu ông làm việc tại Ngự tiền Văn phòng, sau đó làm Thượng thư Bộ Học và cuối cùng giữ chức vụ Thượng thư Bộ Lại(1942–1945).

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập. Ông lui về sống ẩn dật ở biệt thự Hoa Đường bên bờ sông đào Phủ Cam, Huế.

Trước đây, cũng có nhiều người cho rằng ông gắn bó với các chủ trương chính trị của thực dân Pháp. Ông bị coi là “ru ngủ” thanh niên trí thức trong cái “hồn nước” mơ hồ, khiến họ đi chệch khỏi chí hướng làm cách mạng chống Pháp. Trong một thời gian dài, quan điểm chính thống của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gọi ông là tay sai đắc lực của Pháp.

Ngày 25 tháng 8 năm 1945, Phạm Quỳnh bị Phan Hàm và Võ Quang Hồ bắt giữ theo lệnh khẩn của Mặt trận Việt Minh và áp giải ra khỏi Huế cùng với Ngô Đình Khôi (anh cùng cha khác mẹ với Ngô Đình Diệm) và Ngô Đình Huân (con trai của Ngô Đình Khôi). Ba người bị xử bắn không lâu sau đó.

Di hài ông được tìm thấy năm 1956 trong khu rừng Hắc Thú, và được cải táng ngày 9 tháng 2 năm 1956 tại Huế, trong khuôn viên chùa Vạn Phước.

Theo nhạc sĩ Phạm Tuyên – con trai của học giả Phạm Quỳnh, vào mùa thu năm 1945, Hồ Chí Minh đã nói với hai người chị của ông là Phạm Thị Giá và Phạm Thị Thức rằng: “Cụ Phạm là người của lịch sử, sẽ được lịch sử đánh giá lại sau này. Con cháu cứ vững tâm đi theo cách mạng”.

Phạm Quỳnh được coi là người đi tiên phong trong việc dùng tiếng Việt để viết lý luận. GS Dương Quảng Hàm đánh giá các công trình của ông là đã “luyện cho tiếng ta có thể diễn dịch được các lý thuyết, các ý tưởng về triết học, khoa học mới”.

Ông là tác giả và dịch giả nhiều bài viết và sách văn học, triết học, cách ngôn, ngụ ngôn, tuồng hát tiếng Pháp dịch ra tiếng Việt và tùy bút. Gần như toàn bộ các tác phẩm của ông đều đăng trên tạp chí Nam Phong. Nhiều bài sau đó in lại thành sách do Đông Kinh ấn quán ở Hà Nội xuất bản.

 

Các tác phẩm của ông có thể chia làm ba loại:

Dịch thuật

Bao gồm các tác phẩm luận thuyết, phương pháp luận, sách cách ngôn, kịch bản và thơ văn… Ông dịch các đoạn văn và tác phẩm từ tiếng Pháp, chủ yếu thiên về triết học, như triết học của Descartes. Tuy nhiên, ông cũng có dịch một số tác phẩm nghệ thuật như kịch của Corneille.

Khảo luận

Phần quan trọng nhất trong các tác phẩm của Phạm Quỳnh là các tác phẩm khảo cứu. Ông nghiên cứu trong các sách chữ Nho, sách tiếng Pháp, và viết lại những bài chuyên khảo bằng tiếng Việt. Có ba ngành ông chú trọng là:

Các học thuyết Âu Tây, như trong Văn minh luận, Khảo về chính trị nước Pháp, Lịch sử và học thuyết của Rousseau, Lịch sử và học thuyết của Montesquieu, Lịch sử và học thuyết của Voltaire, v.v…

Học thuật Á Đông, những bài về triết học và tôn giáo Á Đông như Phật giáo lược khảo, Cái quan niệm người quân tử trong triết học đạo Khổng, v.v…

Văn hóa Việt Nam, với chủ đề trải rộng từ Tục ngữ ca dao, tới Việt Nam thi ca, tới Văn chương trong lối hát ả đào.

Nhiều tác phẩm của ông liên kết những học thuật Âu Tây và phân tích, so sánh chúng với các khái niệm quen thuộc của người Việt Nam. Như trong bài Cái quan niệm người quân tử trong triết học đạo Khổng ông có phần phân tích và so sánh giữa quan niệm người quân tử của đạo Khổng và người “chính nhân” (là chữ ông dùng cho l’honnête homme) trong văn hóa Pháp. Hay như ông có những bài Văn hóa Pháp đối với tiền đồ nước Nam hoặc Công cuộc chấn chỉnh quốc gia ở nước Pháp và khôi phục cổ điển ở nước Nam.

Văn du ký

Ông viết nhiều du ký ghi lại những điều quan sát, nhận định, nghị luận trong các chuyến du lịch đi Pháp và đi các vùng đất Việt Nam như:

Mười ngày ở Huế (1918)

Một tháng ở Nam Kỳ (1919)

Pháp du hành trình nhật ký (1922)

Từ năm 2000, nhiều tác phẩm của Phạm Quỳnh đã được xuất bản tại Việt Nam:

Mười ngày ở Huế, Nhà xuất bản Văn học – 2001

Luận giải Văn học và Triết học, Nhà xuất bản Thông tin, 2003

Pháp du hành trình nhật ký, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2004

Thượng Chi văn tập, Nhà xuất bản Văn học, 2007

Du ký Việt Nam, Nhà xuất bản Trẻ, 2007

Phạm Quỳnh – Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp, Nhà xuất bản Tri thức, 2007 (gồm những bài diễn thuyết, bài báo ông viết bằng tiếng Pháp từ 1922 đến 1932)

Gia đình

Ông có một người vợ là bà Lê Thị Vân (1892-1953) và 16 người con (3 người mất từ nhỏ). Trong đó:

– Người con cả là Phạm Giao (sinh năm Tân Hợi 1911), kết hôn với bà Nguyễn Thị Hy, con gái ông Nguyễn Văn Ngọc (về sau bà Hy kết hôn với ông Trần Huy Liệu), sinh được hai người con, một gái, một trai.

– Phạm Thị Giá (sinh năm Quý Sửu 1913), vợ của quan Đốc học trường Thăng Long Tôn Thất Bình.

– Phạm Thị Thức (sinh năm Ất Mão 1915), vợ của Giáo sư Đặng Vũ Hỷ. Hai ông bà có người con trai là Đặng Vũ Minh, Giáo sư Tiến sĩ, Chủ tịch Viện khoa học và Công nghệ Việt Nam.

– Phạm Bích (nam, sinh năm Mậu Ngọ 1918), Tiến sĩ Luật đã mất ở Thụy Sĩ.

– Phạm Thị Hảo (sinh năm Canh Thân 1920), vợ Dược sĩ Phùng Ngọc Duy, hiện sống tại Washington D.C., Hoa Kỳ.

– Phạm Thị Ngoạn (sinh năm Tân Dậu 1921), Tiến sĩ Văn chương, vợ của nhà văn Hán Thu Nguyễn Tiến Lãng.

– Phạm Khuê (nam, sinh năm Ất Sửu 1925), cố Giáo sư, Nhà giáo nhân dân, nguyên Viện trưởng Viện Lão khoa, nguyên Chủ tịch Hội Người cao tuổi Việt Nam; Đại biểu Quốc hội khóa X.

– Phạm Thị Hoàn (sinh năm Mậu Thìn 1928), từng là ca sĩ. Chồng bà là nhạc sĩ Lương Ngọc Châu (cháu nội chí sĩ Lương Văn Can), tác giả những ca khúc như Tiếng hát lênh đênh, Một đi không trở về…

– Phạm Tuyên (nam, sinh đầu năm 1930, tuổi Kỷ Tỵ), nhạc sĩ, Chủ tịch Hội Âm nhạc Hà Nội.

– Phạm Thị Diễm (Giễm) (sinh năm Tân Mùi 1931) định cư tại Pháp.

– Phạm Thị Lệ (sinh năm Giáp Tuất 1934) định cư tại Pháp.

– Phạm Tuân (nam, sinh năm Bính Tý 1936) định cư tại Hoa Kỳ.

– Phạm Thị Viên (sinh năm Mậu Dần 1938) định cư tại Pháp

Ngày 28 tháng 5 năm 2016, hội đồng họ Phạm Việt Nam phối hợp cùng gia đình nhạc sĩ Phạm Tuyên tổ chức lễ khánh thành công trình trùng tu mộ phần và dựng tượng Phạm Quỳnh tại Thành phố Huế. Bức tượng bán thân Phạm Quỳnh do chính người cháu ngoại của ông là kiến trúc sư Tôn Thất Đại thiết kế với chiều cao 60 cm, bề ngang 50 cm, được đặt ở bục cao gần 2 m nằm ngay sau ngôi mộ ông ở trước chùa Vạn Phước (phường Trường An, Thành phố Huế). Phía trước bia mộ được ốp tấm bia đá đen khắc ghi câu nói nổi tiếng của ông: “Truyện Kiều còn tiếng ta còn. Tiếng ta còn nước ta còn”.

Phạm Quỳnh đánh giá tiếng Việt bình dân [ông gọi là tiếng Nôm, tiếng ta] rất phong phú về ngữ âm và từ ngữ. Ông viết: Người nào hay chê tiếng Việt là nghèo hãy về nơi dân thôn hay ra chốn chợ búa, nghe bọn phụ nữ nói năng. Tôi tưởng các bậc tu mi [đàn ông]phải ghê cái tài hùng biện của các bạn quần trồi [đàn bà]… [điều đó] đủ chứng minh rằng tiếng Việt ta giàu biết bao nhiêu. Hãy thử nghe hai người đàn bà nhà quê nói chuyện hay cãi nhau, từ đầu chí cuối toàn là phươngngôn tục ngữ cả, cứ từng hồi, từng tràng, như một bài diễn thuyết trường thiên. Trong quốc âm ta có nhiều tiếng rắp đôi hay lắm [ví dụ láo nháo, xoen xoét], hay vô cùng, tưởng không có tiếng nước nào bằng.

Văn tiếng Nôm thường là văn truyền khẩu trong dân gian; ông nhận xét: Tuy không có sách nào biên chép, nhưng tôi dám quyết đó là một thứ văn chương rấtphong phú, tưởng không nước nào có một cái văn chương truyền khẩu giàu như nước ta. Tiếng ta thật giàu có mà lại tinh tế nữa.

Ông mạnh dạn vạch ra sai lầm suốt mấy nghìn năm của giới trí thức nước ta –– coi thường ngôn ngữ mẹ đẻ, tức tiếng Nôm, văn Nôm; họ “chung kiếp học mướn viết nhờ” (suốt đời học đạo Khổng Mạnh, viết chữ Hán); người coi trọng văn Nôm như Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm quá ít. Các cụ ta ngày xưa vì say đắm chữ Tàu nên lãng bỏ tiếngNôm, để cho con cháu ngày nay khổ vì có nước mà không có văn. Ông kêu gọi: Các cụ đã xao lãng, bọn ta phải chăm chú. Ngày nay người nào chịu viết văn Nôm là làm một việc công đức; người nào chịu đọc văn Nôm là làm một việc nghĩa vụ vậy. Công đức, nghĩa vụ ấy, người có lòng có dạ với nước nhà, há lại chẳng nên vui vẻ mà làm ư? Quan điểm tiến bộ, yêu nước ấy của ông trái với quan điểm của nhiều trí thức Hán học và Tây học đương thời: coi thường văn tiếng Việt, sùng bái văn Tàu hoặc Pháp.

Phạm Quỳnh nhận định đúng về mặt mạnh của tiếng Việt là ngữ âm rất phong phú. Ngôn ngữ học hiện đại cho biết tiếng Việt có số lượng âm tiết không xét thanh điệu (tức “khuôn âm tiết”, syllable) nhiều gấp chục lần tiếng Hán (4312 so với 415), nhờ thế tiếng Việt thích hợp dùng loại chữ viết dễ học là chữ biểu âm (phonogaph), còn tiếng Hán thì không. Kết quả là từ giữa thế kỷ 17 dăm vị giáo sĩ người Âu đã thành công chuyển đổi chữ Nôm thành loại chữ biểu âm Latin hoá (về sau gọi là chữ Quốc ngữ). Trong khi đó ở Trung Quốc, chính phủ và toàn dân bỏ ra ngót 100 năm tiến hành Latin hoá chữ Hán mà bất thành, rốt cuộc đành phải bỏ dở (từ 1986).

Tiếng Việt cũng rất phong phú về từ ngữ, bởi lẽ khi dùng ngôn ngữ biểu âm, ai cũng có thể tự do chắp các ngữ âm lại thành từ ngữ mới. Còn Hán ngữ có kho chữ Hán làm sẵn từ mấy nghìn năm trước, tất cả mọi người chỉ được dùng trong phạm vi số chữ ấy, không được làm chữ mới.

Tuy bênh vực tiếng Nôm nhưng Phạm Quỳnh cho rằng Tiếng ta giàu về phần cụ tượng [hình tượng] mà nghèo về phần trừu tượng…Bởi vậy tiếng ta sở trường về lối vận văn [văn vần, như thơ ca, vè, hát nói], còn lối tản văn [văn xuôi] là văn nghị luận thuyết lý thì vụng lắm. Những danh từ về nghĩa lý nếu không mượn chữ Nho[tức từ Hán Việt] thì không đủ tiếng mà dùng… Nói đến nghĩa lý thì các cụ ta toàn dùng Hán văn cả, cho rằng tiếng nước nhà là nôm na thô thiển. Thành ra tiếng ta[hiểu là chữ Nôm] xưa nay không bao giờ được cái danh dự dùng làm văn tự [chữ viết] để truyền bá học thuật. Danh dự ấy toàn thuộc về chữ Hán. Thật là những nhận xét rất xác đáng về ngôn ngữ học. Đúng thế, văn học chữ Nôm chủ yếu là thơ ca, hiếm có tác phẩm văn xuôi. Tác phẩm nổi tiếng nhất trong lịch sử văn học nước ta – Truyện Kiều, là truyện thơ, mượn nội dung của Trung Quốc, chủ yếu hay ở ngôn ngữ.

Phạm Quỳnh cho rằng tiếng Việt có sức sống vô cùng lớn, vì có thể mượn từ ngoại lai để làm giàu kho từ ngữ của mình. Nhờ mượn chữ Tàu [hiểu là từ Hán Việt] mà tiếng Việt mỗi ngày một giàu thêm; mượn chữ Tàu thì mượn bao nhiêu cũng có thể tiêu hoá được… không kể ngày nay đôi khi có thể mượn thêm chữ Tây nữa. Đúng vậy, ngót nghìn từ Hán-Nhật do người Nhật đặt ra vào cuối thế kỷ 19, khi du nhập nước ta cũng được người Việt Nam tiếp nhận, sử dụng toàn bộ.

Phạm Quỳnh nhận thức rất đúng về tính chất ngôn ngữ Việt. 100 năm trước, ông viết: Tiếng Việt Nam ta là một thứ tiếng độc vận, khác với các tiếngÂu Mỹ là những tiếng liên vận. Độc vận là đọc rời từng vần một, mỗi chữ là một vần [tức âm tiết]… Tiếng ta và tiếng Tàu mỗi vần là một tiếng, mỗi tiếng là một chữ. Cách giải thích như thế thật mạch lạc, dễ hiểu, uyên bác.

Ngày nay ta biết rằng tiếng Việt và tiếng Hán thuộc loại ngôn ngữ đơn âm tiết (monosyllabic, ông gọi là độc vận), mỗi tiếng một âm tiết. Vì thế hai thứ tiếng này “ngốn” rất nhiều âm tiết. Như trên đã nói, tiếng Việt vốn dĩ giàu âm tiết, cho phép làm được chữ viết biểu âm. Tiếng Hán quá nghèo âm tiết, chỉ thích hợp dùng chữ biểu ý (ideograph). Phần lớn ngôn ngữ trên thế giới thuộc loại đa âm tiết (multisyllabic, ông gọi là liên vận), ví dụ từ tiếng Nhật “Bushido”, tiếng Anh “Potato”, tiếng Nga “Rodina” đều có 3 âm tiết ghép theo kiểu tổ hợp (chỉnh hợp), có thể làm ra rất nhiều âm đọc, vì thế thích hợp dùng chữ biểu âm.

Phạm Quỳnh đánh giá đúng: nước ta không tồn tại nhiều tiếng địa phương khác nhau quá xa: Cứ thực mà nói, dân Việt Nam ta thật được hơn các dân tộc khác là chỉ có một thứ tiếng trong cả nước, người Việt Nam đi đến đâu cũngcó thể nghe hiểu được không khó gì. Ấy là ta chưa có văn chương sách vở gì nhiều, nếu có nhiều sách vở văn chương thì tiếng nói còn nhất trí hơn nữa. (Trong khi đó, tại Trung Quốc đến cuối năm 2000 mới có 80% số dân dùng Tiếng Phổ thông thống nhất toàn dân).

Phạm Quỳnh nhận thức đúng về chữ Hán và mối quan hệ giữa chữ Hán với tiếng Việt: Chữ Hán tuy phát tích từ Tàu mà từ thượng cổ đã không phải là văn tự riêng của một dân tộc Tàu. Chính nước Tàu ngày xưa cũng không phải là một nước, thực là một “thế giới” gồm nhiều nước. Mỗi dân có một tiếng nói riêng, có dân độc lập rồi vẫn chịu ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa. Chữ Hán là khí cụ để truyền bá cái văn hoá ấy. Nó là một thứ chữ viết, không phải là một thứ tiếng nói, đem vào nước nào thì đọc theo thanh âm của nước ấy; chữ là chữ chung, nước nào cũng học chữ ấy mà đọc khác đi, nghe nhau không hiểu, phải viết ra chữ mới hiểu được.

Đúng thế, người Việt Nam, người Nhật, người Triều Tiên đều đọc chữ Hán theo âm của mình. Ông cho rằng nước ta chịu ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa lâu đời quá nên tiếng Việt có quan hệ mật thiết với chữ Hán, vì vậyAi muốn gây dựng tiếng ta thành một nền quốc văn xứng đáng thì không thể nào đoạn tuyệt được cái cổ điển của ông cha ta, mà cái cổ điển ấy, ngoài chữ Nho thì không kiếm đâu được. Người nước ta không thể bỏ chữ Nho [tức từ Hán Việt]. Văn kỹ thuật, văn nghị luận càng cần phải mượn từ Hán Việt, vì tiếng Nôm không đủ dùng; chớ nên vì ghét người Tàu về chính trị, kinh tế mà ghét cả từ Hán Việt có gốc chữ Tàu. Thật là một quan điểm sáng suốt!

Rõ ràng, từ Hán Việt chiếm khoảng một nửa vốn từ tiếng ta, vả lại ngày nay đã Việt Nam hoá tới mức khó phân biệt với từ thuần Việt, càng không thể bỏ được.

Phạm Quỳnh ra sức đề cao chữ Quốc ngữ và đi đầu phong trào dùng chữ Quốc ngữ. Ông nói chữ Quốc ngữ là công cụ kỳ diệu giải phóng trí tuệ của người Việt Nam, là cái bè cứu vớt chúng ta trong biển trầm luân. Học giả Dương Quảng Hàm đánh giá các bài viết bằng chữ Quốc ngữ của Phạm Quỳnh đã “luyện cho tiếng ta có thể diễn dịch được các lý thuyết, các ý tưởng về triết học, khoa học mới”. Rõ ràng, chữ Quốc ngữ tuy mới chính thức sử dụng được hơn 100 năm nhưng đã góp phần quyết định đưa nền văn minh Việt Nam lên một tầng cao chưa từng thấy, hoà nhập văn minh nhân loại, giành được những thành tựu bỏ xa mấy nghìn năm trước.

Cuối cùng, Phạm Quỳnh đưa ra đường lối đúng đắn phát triển ngôn ngữ Việt: xây dựng nền Quốc học Việt Nam trên cơ sở nền Quốc văn bằng tiếng Việt có kết hợp sử dụng đúng mức từ Hán Việt và từ Pháp văn. Ông nói nước ta tất phải có nền quốc học riêng của mình, có thế nước nhà mới thật là được độc lập về đường tinh thần. Ta xưa nay chưa có nền quốc học, đó là do Kẻ thượng lưu thì học mướn viết nhờ, chung kiếp làm nô lệ tinh thần cho người [người nước ngoài]. Kẻ bình dân thì để mặc cho tối tăm dốt nát, không hề được chịu cái ảnh hưởng giáo hoá của người trên, vì trên dưới cách biệt nhau, dường như không cùng nhau nói một thứ tiếng vậy.”

Đúng vậy, ngày xưa nước ta tồn tại tiếng nói của tầng lớp trên (kiểu “nói chữ”, bắt chước lối nói “văn ngôn” của người Hán, chỉ dùng từ gốc Hán, ai không biết chữ Nho nghe không hiểu), và tiếng Việt bình dân mà Phạm Quỳnh gọi là tiếng Nôm. Ông nêu ví dụ: Bài “Hịch tướng sĩ” của Trần Hưng Đạo rất hay, nhưng tiếc thay lại làm bằng chữ Nho, dẫu trong hàng tỳ tướng có lẽ cũng nhiều người không hiểu hết lời lẽ, nói chi đến trong dân gian. Nếu bài đó viết bằng tiếng [chữ] Nôm thì giọng văn hùng tráng đó lại còn thấm thía biết bao nhiêu, không những cảm các tỳ tướng mà lại cảm đến cả ba quân… còn cảm đến cả dân chúng nữa.

Đúng thế! Các học giả Việt Nam thời xưa rất ít viết bằng chữ Nôm. Đó là do Các cụ đời trước quá sùng thượng chữ Hán, không chịu viết bằng tiếng nước nhà. Văn thơ chữ Hán không phải là thứ của ta, phải dịch ra tiếng Nôm thì dân chúng mới hiểu. Vì thế ông chủ trương Muốn cho nước Nam có quốc học thì phải có quốc văn bằng tiếngNam, và kịch liệt phản đối quan điểm xây dựng nền quốc học trên cơ sở mượn dùng tiếng nước ngoài, bởi lẽ mượn tiếng người thì mượn cả tư tưởng của người, mượn cả học thuật của người rồi đến mượn cả tính tình phong tục của người nữa.

Dĩ nhiên, đã đề cao tiếng Nôm thì tất nhiên phải đề cao vai trò của văn chữ Nôm. Hàn Thuyên, tác giả đầu tiên của chữ Nôm, được ông ca ngợi “Vơ vẩn tơ vương hồn Đại Việt. Thanh tao thép lột giọng Hàn Thuyên”…Hai câu ấy thực là gồm cả các hy vọng tối thiết của bọn ta. Than ôi, vì sao mà ta khắc khoải trong lòng, băn khoăn trong dạ, vì sao ta mong mỏi mà tủi thương? Chẳng phải là từ xưa tới nay ta chưa từng được đem cái giọng Hàn Thuyên này mà diễn cái hồn Đại Việt kia ư? Khi được ngâm văn thơ Nôm, trong lòng ông có cái cảm vô hạn, tưởng như hồn xưa của đất Việt ta còn phảng phất đâu đây.

Chữ Nôm dù chưa được hoàn thiện do bị tầng lớp vua quan không thừa nhận, nhưng nhờ có chữ Nôm mà Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương v.v… đã viết nên một trang sáng ngời trong lịch sử văn học nước nhà. Không có chữ Nôm thì ta không thể biết tổ tiên mình mấy trăm năm trước nghĩ gì, nói thế nào, dùng từ thế nào. Hãy đọc mấy câu thơ chữ Nôm “Chơi cho liễu chán hoa chê, Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời….Trong như tiếng hạc bay qua, Đục như nước suối mới sa nửa vời.” thì đủ biết tiếng Việt ngày xưa đã rất phát triển, chẳng khác gì lắm tiếng Việt hiện nay. Cho nên phát minh chữ Nôm thực là một sáng tạo kiệt xuất về ngôn ngữ học của tổ tiên ta.

Tuy đề cao tiếng Việt nhưng Phạm Quỳnh chủ trương rất đúng là nên sử dụng thêm từ Hán Việt ở mức vừa phải. Ông phản đối quan điểm cực đoan vì muốn bảo tồn tiếng thuần Việt mà bỏ hết từ Hán Việt (ông gọi là chữ Nho). Ông nêu ví dụ: Nếu nói “Ông vua Việt Nam đi chơi Bắc Kỳ nay đã về kinh rồi”, nghe sống sượng quá… Nếu dùng mấy chữ Nho [hiểu là từ Hán Việt] mà nói “Hoàng thượng ngự giá Bắc Kỳ, nay đã hồi loan”, có phải là lời văn trang trọng biết bao!

Những khảo sát trên đây của chúng tôi dù còn chưa đầy đủ và sâu sắc nhưng cũng đủ chứng tỏ Thượng Chi Phạm Quỳnh đích thực là nhà ngôn ngữ học của nước ta, hơn nữa, là người đi đầu nghiên cứu ngôn ngữ Việt, đề cao ngôn ngữ Việt. Những tìm tòi, sáng tạo và quan điểm của ông trên lĩnh vực ngôn ngữ đáng để chúng ta nghiên cứu học hỏi.

(Tham khảo, trích dẫn Từ điển bách khoa, Nguyễn Hải Hoành (Nghiên cứu quốc tế) và các báo tạp chí tiếng Việt)

Hình 1- Học giả Phạm Quỳnh

Hình 3- Từ trái qua: Nhà văn Phạm Duy Tốn, học giả Phạm Quỳnh và học giả Nguyễn Văn Vĩnh tại Paris năm 1922.

Hình 2- 5 vị Thượng thư thời vua Bảo Đại, từ trái qua phải: Hồ Đắc Khải, Phạm Quỳnh, Thái Văn Toản, Ngô Đình Diệm, Bùi Bằng Đoàn.

(*) Bài và ảnh – Nguồn từ fb Minh Tran Hop


 

Đức, Pháp và Ba Lan bàn cách giúp Ukraine tiếp tục chiến đấu

Theo Báo Nhà Chính Trị – Politico

 

Paris và Berlin đã bất hòa trong những tháng gần đây về chiến lược phòng vệ ở Ukraine  của họ, khi lực lượng của Kyiv trên chiến trường phải gánh chịu sự thiếu quyết đoán của phương Tây và sự do dự bảo thủ của Mỹ trong việc tiếp tục tài trợ cho nỗ lực chiến tranh.

EU wants to ramp up ammunition production to help Ukraine

Macron ngày càng có những lời lẽ diều hâutăng cường bình luận của ông về một triển vọng gửi quân phương Tây tới Ukraine và nói rằng châu Âu không nên hành động như những ” kẻ hèn nhát ” trước sự xâm lược của Nga.

Mặt khác, Đức cáo buộc Paris đang nói chơi cho hay trong khi lại chi tiêu ít hơn các đồng minh của mình để giúp Kyiv – một tuyên bố mà Pháp đã phản đối mạnh mẽ .

Thủ Tướng Scholz cũng phải đối mặt với những lời chỉ trích vì từ chối gửi tên lửa Taurus của Đức tới Ukraine, trong khi Anh và Pháp đã gửi tên lửa hành trình Storm Shadow và SCALP tầm xa tương tự của họ.

Cả Pháp và Đức đều ký thỏa thuận an ninh với Ukraine vào tháng trước, cam kết giúp đỡ cuộc chiến chống lại cuộc xâm lược của Nga “trong chừng mực cần thiết” và hỗ trợ Kiev xây dựng năng lực phòng thủ hiện đại.

Trong thỏa thuận của mình, Pháp cho biết họ “cung cấp cho Ukraine viện trợ quân sự trị giá tổng cộng 1,7 tỷ euro vào năm 2022 và 2,1 tỷ euro vào năm 2023” và sẽ gửi “hỗ trợ bổ sung lên tới 3 tỷ euro” vào năm 2024. Scholz lưu ý rằng Đức đã có đã chi 28 tỷ euro kể từ khi bắt đầu chiến tranh.

Thủ tướng Ba Lan sẽ ngồi lại, vào thứ Sáu 15-3-2024, với Thủ tướng Đức Olaf Scholz và Tổng thống Pháp Emmanuel Macron để tổ chức cuộc họp định dạng “Tam giác Weimar” tại thủ đô nước Đức, tập trung vào cách châu Âu có thể giúp Ukraine đẩy lùi cuộc xâm lược toàn diện của nhà lãnh đạo Nga Vladimir Putin.

“Đoàn kết thực sự với Ukraine? Ít lời hơn, nhiều đạn hơn”, Tusk viết trên mạng xã hội vào buổi sáng hội nghị thượng đỉnh.

I Saw Ammunition Being Made for Ukraine - The New York Times

Nhà máy sản xuất đạn pháo cho Ukraine ở Mỹ. Hình của New York Times.

Các quan chức cấp cao của Đức và Pháp nói với POLITICO rằng cuộc họp “Tam giác Weimar” nhằm mục đích tạo ra sự đoàn kết hiếm hoi .

Bây giờ, câu hỏi đặt ra là liệu Tusk có thể đóng vai trò trung gian hòa giải giữa các nhà lãnh đạo Pháp và Đức đang cãi vã hay không.

Clea Caulcutt, Hans von der Burchard và Gordon Repinski đã đóng góp cho báo cáo này.

 Công an sang Thái Lan truy tìm người Thượng tị nạn

Ba’o Dat Viet

March 15, 2024

Trung tá công an Y Lương Niê (thứ hai từ phải) với người tị nạn ngày 14/3/2023

Chúng tôi mà về Việt Nam lúc đó là chúng tôi sẽ chết, không bao giờ chúng tôi có đường sống. Phía Việt Nam chỉ muốn bỏ tù chúng tôi thôi.”

Cộng đồng người Thượng đang xin tị nạn chính trị ở Thái Lan vô cùng hoang mang sau khi cơ quan an ninh Việt Nam tìm tới xóm trọ để thuyết phục cũng như đe dọa họ phải hồi hương, đồng thời truy tìm những người đang có lệnh truy nã liên quan đến vụ việc ở Đắk Lắk.

Một số người Thượng ở khu vực quận Bang Len, tỉnh Nakhon Pathom, cách Bangkok khoảng 60 km, cho biết vào sáng ngày 14/3, một toán công an Việt Nam được cảnh sát Hoàng gia Thái Lan dẫn đường vào nơi họ đang sinh sống.

Ban đầu, cảnh sát Thái gõ cửa các phòng trọ để buộc họ ra tập trung trước sân rồi một nhóm công an Việt Nam mặc thường phục đến nói chuyện.

Một người tị nạn muốn giấu tên vì lý do an ninh, nói:

“Ngày hôm qua tầm cỡ 10 giờ có cảnh sát Thái tập trung tại Bang Len, có công an Việt Nam xuống hỏi thăm bên khu vực Bang Len của người Thượng của chúng tôi, hỏi thăm về nơi ở, bên phát gạo, hỏi chúng tôi rất nhiều điều.”

Theo người này, đoàn an ninh Việt Nam có tất cả tám người, nhưng chỉ có hai người nói chuyện với người tị nạn, sáu người còn lại dùng điện thoại và camera để quay phim, chụp hình.

“Đầu tiên họ tự giới thiệu, ông Y Lương Niê nói ‘tôi là An ninh nội địa’ ở tỉnh Đắk Lắk. Ông ấy nói tiếng mẹ đẻ (Ê-đê) luôn. Còn người kia thì anh em Jrai nói với tôi là ông này là ông Rah Lan Lâm- Giám đốc Công an tỉnh Gia Lai,” người tị nạn giấu tên nói.

Người tị nạn ẩn danh kể lại:

“Họ thuyết phục chúng tôi về. Họ nói với chúng tôi là ‘ở đây làm gì, ở đây khổ, ở đây bất hợp pháp ở đây là không có gạo ăn, không có tiền xài. Thôi về đi, chúng tôi lo tiền xe, tiền ăn uống, tiền nhà. Tới Việt Nam chúng tôi lo hết tất tần tật’.”

Người này dự đoán ý định của phía công an Việt Nam:

“Họ nói xuống hỏi thăm chúng tôi nhưng mục đích là bắt chúng tôi hồi hương, nhất là những người có lệnh truy nã.

Chúng tôi mà về Việt Nam lúc đó là chúng tôi sẽ chết, không bao giờ chúng tôi có đường sống. Phía Việt Nam chỉ muốn bỏ tù chúng tôi thôi.”

Ông Đinh Ngân, một người dân tộc Bana đang tị nạn ở Bang Len kể:

“Rahlan Lâm nói là ‘nếu mà anh em muốn về thì tôi bảo lãnh cho nếu mà không về thì sẽ có công an bắt hoặc khó khăn đấy’.”

Ông Nay Phớt, một người tị nạn khác, cho biết phía công an xuống hai khu vực có người Thượng tị nạn sinh sống khuyên nhủ:

“Giám đốc Công an tỉnh Gia Lai Rahlan Lâm xuống khu Bang Len và Wat In, bảo anh em hãy về nước chính quyền sẽ khoan hồng cho và cho anh em đất đai, xe cộ hoặc những thứ gì người dân thiếu thì họ sẽ cho.

Họ đe doạ là nếu mà các anh không theo tôi về, sau này công an mà bắt các anh về chính quyền không tha thứ nữa.”

Cách đây 9 ngày, Bộ Công an Việt Nam ra thông báo xếp hai tổ chức MSFJ và Nhóm Hỗ trợ người Thượng” (Montagnard Support Group, Inc. hay MSGI) là tổ chức khủng bố, có liên hệ với vụ xả súng ngày 11/6/2023.

Một người tị nạn không nêu danh tính cho biết, trong lúc nói chuyện hai công an Việt Nam dò hỏi về ông Y Quynh Bdap và một số người Thượng đang bị truy nã khác, đồng thời cho xem hình ảnh và quyết định truy nã trong điện thoại của họ.

Ông Y Quynh Bdap, người đồng sáng lập tổ chức Người Thượng vì Công lý (MSFJ), bị quy kết là có liên hệ với vụ tấn công vào trụ sở Uỷ ban Nhân dân và Công an hai xã Ea Tieu và Ea Ktur ở huyện Cư Kuin (tỉnh Đắk Lắk) rạng sáng 11/6/2023 và sau đó bị kết án vắng mặt 10 năm tù giam về tội danh “khủng bố” trong phiên toà tháng 1 vừa qua.

Ông nói về hậu quả của việc an ninh Việt Nam viếng thăm khu người Thượng tị nạn.

“Những người chưa có quy chế tị nạn của Liên Hợp Quốc có khả năng cao bị trục xuất về Việt Nam trong khi những người hoạt động- là đối tượng truy nã của Nhà nước Việt Nam như bản thân tôi có thể họ sẽ tìm cách cùng với Chính phủ Thái để dẫn độ về.”

Ông biết thông tin an ninh Việt Nam sang Thái Lan từ trước, do vậy ông cùng một số nhà hoạt động đã lánh đến một nơi an toàn trong mấy ngày qua.

(Theo RFA)


 

Vì sao Võ Văn Thưởng sẽ phải rút lui khỏi chính trường?

Ba’o Tieng Dan

Lê Văn Đoành

15-3-2024

Triều đình cộng sản hiện đang rúng động! Thật khó tin khi mà trong một nhiệm kỳ, lại có hai Uỷ viên Bộ Chính trị ngồi ghế Chủ tịch nước, nhưng phải xin từ chức. Lại càng khó tin hơn khi mà trong vòng 13 tháng, tại khoá 13, lại có đến hai ông chủ tịch nước bị “ngã ngựa”. Nhưng chuyện khó tin này nay mai sẽ trở thành sự thật.

Ngày 13-3-2024, Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam nhóm họp. Tại đây, sau báo cáo của Ban Nội chính Trung ương, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và Bộ Công an, các ủy viên Bộ Chính trị dự họp, đã thảo luận “sâu sắc” và nhất trí “khuyên”, nhưng nói đúng ra là “buộc” Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng phải làm đơn xin thôi tất cả các chức vụ như: Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng An ninh, Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, Uỷ viên Trung ương đảng, Uỷ viên Bộ Chính trị khoá 13…

Ảnh: Võ Văn Thưởng trong ngày tuyên thệ nhậm chức chủ tịch nước. Nguồn: VTV

Vì sao nên nỗi?

Năm 2011, khi đang là Uỷ viên Trung ương khoá 11, Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn, Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Võ Văn Thưởng được điều động về làm Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Ngãi, thay cho Nguyễn Hoà Bình về nắm Viện trưởng Viện Kiểm sát Tối cao.

Năm 2012, Tập đoàn Phúc Sơn của Nguyễn Văn Hậu (con nuôi Trịnh Đình Dũng, Uỷ viên Trung ương khoá 11, bộ trưởng Bộ Xây dựng), trúng thầu dự án Tuyến đường bờ nam sông Trà Khúc, có vốn đầu tư lên đến 1000 tỷ đồng.

Các lãnh đạo tỉnh Quảng Ngãi sau đây đã đưa ra chủ trương, nghị quyết, liên quan đến quyết định đầu tư dự án trọng điểm này, gồm:

– Võ Văn Thưởng, sinh năm 1970, quê Măng Thít, Vĩnh Long, Uỷ viên Trung ương, bí thư Tỉnh uỷ Quảng Ngãi 2011-2014

– Cao Khoa, sinh năm 1954 quê Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, là Phó Bí thư Thường trực Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011-2014.

– Đặng Văn Minh, sinh năm 1966, quê Đức Phổ, Quảng Ngãi, Giám đốc Sở Giao thông – Vận tải, giai đoạn 2010-2015.

Ngày 8-3-2024, Bộ Công an đồng loạt khởi tố, bắt giam các quan chức lãnh đạo tỉnh Quảng Ngãi và Vĩnh Phúc, liên quan đến Tập đoàn Phúc Sơn.

Cũng hôm đó, ở tỉnh Quảng Ngãi, hai ông Cao Khoa, cựu chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi (nghỉ hưu năm 2014) và Đặng Văn Minh, Phó bí thư thành uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi, đã bị C03 Bộ Công an bắt giam, với tội danh “nhận hối lộ” theo điều 354 Bộ luật Hình sự. Ngay trong chiều ngày 8-3, hai ông Khoa và Minh bị di lý về Hà Nội để giam giữ, phục vụ điều tra.

Cùng lúc, tại tỉnh Vĩnh Long, Cơ quan điều tra Bộ Công an cũng bắt giam Đặng Trung Hoành, huyện uỷ viên, Chánh văn phòng Huyện uỷ Măng Thít, tỉnh Vĩnh Long. Có thông tin cho hay, Hoành là anh họ của ông Võ Văn Thưởng, đương kim chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam.

Đặng Trung Hoành, người nhà của Võ Văn Thưởng. Nguồn ảnh: Bộ Công an

Thông tin nội bộ mà chúng tôi có được, theo lời khai của Nguyễn Văn Hậu, chủ tịch Tập đoàn Phúc Sơn, năm 2012, Đặng Trung Hoành là người đã đứng ra môi giới cho Phúc Sơn nhận được dự án ngàn tỷ tại Quảng Ngãi. Hoành đã cầm của Hậu số tiền 60 tỷ đồng (thời điểm năm 2012).

Được biết, tại cơ quan điều tra, Đặng Trung Hoành nhận tội, nhưng chỉ nhận tội một mình, tuyệt nhiên ông ta không hề khai với cơ quan điều tra việc ông ta chia chác cho bất kỳ ai số tiền “lót tay” mà ông ta nhận được từ Tập đoàn Phúc Sơn.

Cái chết được báo trước

Như vậy, chỉ sau hơn một năm nhậm chức, thay thế ông Nguyễn Xuân Phúc ngồi vào ghế chủ tich nước, ông Võ Văn Thưởng sắp bị truất phế nửa chừng. Dư luận cho rằng, ghế chủ tịch nước có “dớp”, nên có quá nhiều chuyện không hay xảy ra khi ai đó ngồi vào.

Năm 2016, sau khi tái trúng cử Uỷ viên Bộ Chính trị khoá 12, từ bộ trưởng Bộ Công an, Trần Đại Quang nhảy lên ngồi ghế chủ tịch nước, nhiệm kỳ 2016-2021. Ngồi chưa được một năm, Trần Đại Quang phát bệnh, phải đi Nhật Bản chữa trị, nhưng y tế Nhật cũng đành “bó tay”. Nội bộ rò rỉ thông tin, chủ tịch Quang bị đầu độc phóng xạ. Trần Đại Quang đi theo Mác – Lê hồi tháng 8-2018. Ân huệ mà đảng dành cho Quang, cũng là cách mà đảng trang điểm bộ mặt, là em trai và con trai ông Quang được tiến thân trong guồng máy chính trị.

Tháng 10-2018, tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng thay Quang, “ôm” luôn chức chủ tịch nước. Sáu tháng sau, vào tháng 4-2019, Nguyễn Phú Trọng bị đột quỵ, suýt bỏ mạng trong chuyến kinh lý ở Kiên Giang.

Tháng 4-2021, sau đại hội 13, được làm “nhân sự đặc biệt” ngồi lại ghế tổng bí thư nhiệm kỳ thứ ba, Nguyễn Phú Trọng đã bàn giao chức chủ tịch nước cho Nguyễn Xuân Phúc.

Tháng 1-2023, trong cuộc tranh giành quyền lực triền miên, gia đình ông Nguyễn Xuân Phúc bị vướng vào đại án test kit Việt Á. Phe tấn công buộc ông Phúc phải viết đơn xin từ bỏ chức chủ tịch nước, cùng tất cả các chức vụ trong đảng, rời khỏi chính trường. Đổi lại, ông Phúc được bảo đảm tuyệt đối không hồi tố, cùng sự an toàn của vợ, con ông.

Tháng 2-2023, từ vị trí A5 – theo thứ tự quyền lực trong đảng – Võ Văn Thưởng được đưa lên A2, thay Nguyễn Xuân Phúc, tuyên thệ nắm chức chủ tịch nước. Có hai nhân sự được giới thiệu lấy phiếu thăm dò tại Bộ Chính trị là Tô Lâm và Võ Văn Thưởng. Tuy nhiên, đa số phiếu đã dành cho ông Thưởng. Kể từ ngày đó, nhiều thế hệ đảng viên cộng sản đánh giá ông Thưởng là “ngôi sao sáng giá”, xứng đáng tham gia cuộc đua, tranh vị trí A1 – Tổng bí thư – tại đại hội 14.

Thế nhưng…

Lúc mới nhậm chức Chủ tịch nước, Võ Văn Thưởng mời Tổng thống Nam Hàn Yoon Suk Yeol ngồi vào ghế sắp gãy, bây giờ chắc gãy thật rồi. Nguồn ảnh: VNE

***

Chuyện kể rằng, đầu năm 2016 tại một bàn trà, khi nhận tin đại hội 13 đã bầu xong, xướng tên “19 vì tinh tú” tham gia Bộ Chính trị, mọi người ồ lên khi Võ Văn Thưởng, 46 tuổi, có tên trong danh sách. Đại tá Nguyễn Văn Yên, Vụ trưởng vụ 1, Ban Nội chính Trung ương, ngồi cùng bàn, đã buột miệng “Mịa nó, tao suýt bắt nó năm 2013 rồi”! Nguyễn Văn Yên hiện nay là Phó Trưởng ban Nội chính Trung ương.

Trong một diễn biến gây chú ý, trong hai ngày 28 và 29-1-2024, Tô Lâm, bộ trưởng Bộ Công an, đi thăm các cựu lãnh đạo phía Nam là các ông Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, cùng các tướng lĩnh công an đã nghỉ hưu tại TPHCM. Tô Lâm đi vấn an hay báo cáo việc hệ trọng, không ai biết được. Những người am hiểu chính trường, lúc đó chỉ cảm nhận rằng có điều gì đó bất bình thường sắp xảy ra.

Tô đại tướng thăm cựu Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Nguồn: Báo ThanhNiên 

Đại tướng Tô Lâm thăm cựu Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết. Nguồn: Báo Thanh Niên

Tô đại tướng thăm các cựu lãnh đạo Bộ Công an đã nghỉ hưu. Nguồn: Báo Thanh Niên

Trong số hai trăm Uỷ viên Trung ương đảng, hầu như người nào cũng có “tì vết” với vô vàn tội danh, sai phạm như: Bảo kê, tham nhũng, nhận hối lộ, vi phạm điều lệ đảng, có vấn đề lý lịch, lập trường quan điểm không rõ ràng, tự diễn biến… Chỉ có điều, khi cần thêm “củi” để ném vô lò, hoặc cần hạ bệ ai đó trong cuộc tranh giành quyền lực, các “tì vết” của họ đã có trong quá khứ, sẽ bị những kẻ gọi nhau là “đồng chí” lôi ra để “thịt” lẫn nhau.

Dư luận xôn xao, bình luận sôi nổi về những biến động từ chính trường Việt Nam. Tuy nhiên, đây chỉ màn mở đầu cho cuộc quyết đấu tranh giành quyền lực trong đảng trước thềm đại hội 14. Ai sẽ ngồi vào cái ghế tổng bí thư để thay thế ông Nguyễn Phú Trọng, nắm chức vụ lãnh tụ tối cao của đảng, đó mới là đích ngắm cuối cùng của các phe phải. Từ bây giờ cho tới ngày đại hội chính thức diễn ra, sẽ còn nhiều màn trình diễn với đầy đủ các thể loại, dở khóc dở cười…


 

Y Khoa Cuối Tuần: Tình Trạng Ngưng Thở Khi Đang Ngủ

Tổng Hợp Báo Chí Y Khoa Medic và các báo khác

Hội chứng ngưng thở lúc ngủ là gì ?

 

Trong khi ngủ bệnh nhân mắc phải hội chứng ngưng thở khi ngủ phải chịu đựng tình trạng thanh quản hẹp lại do các cơ vùng hầu cũng “nghỉ ngơi” . Tình trạng này khiến cho khí lưu thông qua vùng hầu họng không dễ dàng và người bệnh sẽ ngáy để chống lại tình trạng trên. Nếu vùng hầu họng hoàn toàn khép lại, bệnh nhân sẽ ngưng thở trong một khoảng thời gian, hiện tượng này gọi là ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn.

Tình trạng này có thể kéo dài khoảng 10s hoặc hơn và lặp đi lặp lại nhiều lần trong đêm. Người bệnh hoàn toàn không nhớ gì về tình trạng này dù có những cơn vi thức giấc sau mỗi lần ngưng thở.

ngưng thở
Tình trạng thanh quản hẹp lại do các cơ vùng hầu cũng “nghỉ ngơi”

Bác sĩ Huỳnh Anh Tuấn – trưởng khoa tổng hợp Bệnh viện Hoàn Mỹ Cửu Long (TP Cần Thơ) – nhận định ở Việt Nam, hội chứng ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ là bệnh lý thường gặp nhưng ít người biết đến, nguy cơ tiềm ẩn mà nó mang lại rất lớn nếu không điều trị kịp thời.

Dấu hiệu nhận biết sớm

Người bệnh (hay người thân) có thể nhận biết từ biểu hiện sớm ban đầu của bệnh ngưng thở khi ngủ là tình trạng ngáy hoặc cảm giác nghẹt thở ban đêm khi ngủ. 

Theo thời gian, khi xuất hiện tình trạng ngưng thở, sức khỏe người bệnh sẽ bị suy giảm nhanh chóng và thậm chí còn có thể gây ra những biến chứng rất đáng tiếc như đột quỵ.

Theo bác sĩ Tuấn, nguy hiểm là người bị ngưng thở khi ngủ thường không thể tự nhận biết bệnh lý này của mình vì xảy ra khi đang ngủ. Chú ý triệu chứng ban đầu thường là buồn ngủ ban ngày, ngáy, nghẹt thở, thở hổn hển, thường đau đầu vào buổi sáng.

Thông thường, một số trường hợp người thân trong gia đình quan sát khi thấy những đợt thở ngắt quãng gắng sức khi ngủ thông qua tiếng ngáy, nên khuyến cáo  người bệnh đi khám bệnh để điều trị. 

Một số triệu chứng ít gặp hơn có thể là: giấc ngủ chập chờn, thức giấc nhiều lần, giấc ngủ không sâu, tiểu đêm, giảm trí nhớ, giảm khả năng tập trung, thay đổi tính tình trở nên cáu gắt, giảm ham muốn tình dục…

Một trường hợp người bệnh bị chứng ngưng thở khi ngủ đến điều trị mới đây là một ví dụ điển hình. Anh P.T.P. (42 tuổi, ngụ ở TP Cần Thơ) đến Bệnh viện Hoàn Mỹ Cửu Long khám và tư vấn, do thường ngủ ngáy nhiều, sáng dậy nặng đầu, buồn ngủ vào ban ngày và khó tập trung làm việc…

Qua thăm khám và thực hiện các cận lâm sàng, bác sĩ nhận thấy người bệnh có thừa cân; chẩn đoán ban đầu là mắc hen phế quản và hội chứng ngưng thở tắc nghẽn khi ngủ ở mức độ nặng. Các bác sĩ đã tư vấn về mức độ nguy hiểm của hội chứng ngưng thở khi ngủ và thuyết phục người bệnh điều trị.

Người bệnh được chỉ định thở áp lực dương liên tục khi ngủ, dùng thuốc điều trị hen phế quản và thăm khám điều trị ngoại trú trong 1 tháng. Sau 1 tháng điều trị, tình trạng hen phế quản cải thiện, người bệnh đã giảm số lần dùng thuốc cắt cơn hen, cảm nhận thở dễ dàng hơn, làm việc tập trung, không còn buồn ngủ ban ngày.

Đặc biệt người bệnh cảm thấy vui vẻ, thoải mái vì được ngủ ngon giấc mỗi đêm và theo người nhà thì khi ngủ không còn ngáy nhiều như trước nữa.

Điều trị sớm hiệu quả cao

Hiện nay, có nhiều phương pháp nhận biết và điều trị sớm hội chứng này. Khi người bệnh có triệu chứng nghi ngờ cần tầm soát bằng bảng câu hỏi, cùng các chỉ định xét nghiệm để chẩn đoán.

Tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán xác định hội chứng ngưng thở khi ngủ là phương pháp đo “đa ký giấc ngủ” – là một khảo sát dùng để chẩn đoán rối loạn giấc ngủ.

Phương pháp này ghi lại sóng não, nồng độ oxy trong máu, nhịp tim và lưu lượng khí, cũng như chuyển động ngực, bụng và chân trong quá trình khảo sát.

Theo bác sĩ Tuấn, phương pháp đo đa ký giấc ngủ giúp chẩn đoán chính xác các rối loạn giấc ngủ, mức độ nặng, từ đó có thể lên kế hoạch điều trị cho từng bệnh nhân cụ thể. Khi thực hiện người bệnh sẽ ngủ lại một đêm tại bệnh viện, được theo dõi liên tục trong đêm.

Sau khi có kết quả đa ký giấc ngủ, sẽ được bác sĩ chuyên khoa tư vấn chi tiết để xác định được phương pháp điều trị thích hợp.

Bác sĩ Huỳnh Anh Tuấn cho biết một số yếu tố nguy cơ của ngưng thở khi ngủ: nam giới trên 40 tuổi; béo phì (BMI ≥ 25); vòng cổ to (nam trên 40cm và nữ trên 39cm); thường xuyên sử dụng các chất kích thích như rượu, thuốc lá, hay mắc bệnh Parkinson, trầm cảm; 

Hoặc người có bất thường giải phẫu của đường hô hấp trên như: lưỡi to, vòm họng hẹp, phì đại amidan, cằm lẹm; thường xuyên có trào ngược dạ dày, viêm họng mạn; có tiền sử bị viêm mũi dị ứng, viêm xoang.

Một số phương pháp điều trị theo nguyên nhân gồm: béo phì điều trị giảm cân (dinh dưỡng hợp lý, thể dục); nguyên nhân khác như viêm amidan thì cắt amidan; vòm hầu thấp thì phẫu thuật khoét vòm hầu; chỉnh hình lưỡi…

Điều trị triệu chứng gồm: nằm nghiêng, tránh rượu bia, tránh dùng thuốc an thần, thuốc ngủ khi chưa được chỉ định, thở máy CPAP (áp lực dương), đeo dụng cụ hàm giả…

Ngưng thở khi ngủ lâu ngày sẽ gây giảm oxy máu, tăng nồng độ CO2 và gây ra những biến chứng rất nghiêm trọng. Thay vì được nghỉ ngơi, các tạng trong cơ thể sẽ phải làm việc nhiều hơn để bù trừ tình trạng thiếu oxy não.

Do đó có thể gây đột quỵ, suy tim, tăng huyết áp mất kiểm soát, rối loạn chuyển hóa, đái tháo đường mất kiểm soát… Vì vậy việc thăm khám để được tư vấn điều trị sớm rất cần thiết.

AI ChatGPT Copilot khuyên cách tránh bệnh ngưng thở trong giấc ngủ

Để điều trị ngừng thở khi ngủ, bạn có thể thực hiện các biện pháp sau đây123:

  • Dùng mặt nạ đặc biệt vào ban đêm (máy CPAP) để giữ cho đường thở không bị hẹp.
  • Dùng các thiết bị trợ thở.
  • Thay đổi hành vi của mình, ví dụ: giảm cân, tránh uống rượu và thuốc ngủ, thay đổi tư thế ngủ để cải thiện nhịp thở, ngừng hút thuốc, tránh nằm ngửa khi ngủ.
  • Điều trị viêm mũi dị ứng, bệnh lý Tai Mũi Họng gây hẹp tắc đường thở nếu có.

 

KHẢ NĂNG CHỌN ĐIỀU TỐT – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả!”.

“Tự do không phải là khả năng đơn giản làm những gì mình muốn. Điều này khiến chúng ta coi mình là trung tâm và xa cách, đồng thời ngăn cản chúng ta trở thành những người bạn cởi mở và chân thành. Thay vào đó, tự do là “ơn” có khả năng chọn điều tốt! Đây là tự do đích thực!” – Phanxicô.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay cho phép chúng ta suy gẫm về sự nhầm lẫn nảy sinh từ căn tính và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Khi dân chúng đối mặt Ngài, có những hiểu lầm và giả định về Ngài là ai, Ngài sẽ ứng nghiệm các lời tiên tri Cựu Ước thế nào và sẽ hoàn thành những gì. Những giả định và phán xét dẫn đến thất vọng và tức giận. Vì thế, ‘khả năng chọn điều tốt’, chọn sự thật, là một cái gì tối quan trọng trong đời sống đức tin!

Ở mọi thời đại đều như vậy! Sự nhầm lẫn về đức tin vào Chúa Kitô và về giáo huấn của Giáo Hội gây bao tranh cãi và làm tan rã Kitô giáo. Đàn chiên sẽ tan tác nếu chiên không biết Chủ Chiên. Người ta nói, “Ông ấy, chúng ta biết ông xuất thân từ đâu rồi; còn Đấng Kitô, khi Người đến, chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả!”. Và họ kết luận Chúa Giêsu không thể là Đấng Messia vì Ngài không phù hợp với “Đấng Messia” họ đã được dạy. Mặt khác, họ biết các tư tế muốn Ngài chết nhưng thấy Ngài đi lại tự do mà không bị bắt, nên thắc mắc “Phải chăng các nhà hữu trách đã thực sự nhìn nhận ông là Đấng Kitô?”.

Chúa Giêsu giải quyết sự nhầm lẫn này bằng cách tuyên bố, “Đấng sai tôi là Đấng chân thật”; “Tôi biết Người, bởi tôi từ Người mà đến và chính Người đã sai tôi”. Ngài chịu trách nhiệm về những gì Ngài nói và Ngài đã làm chủ tình hình – như Gioan miêu tả – không ai chạm vào Ngài. Chúa Giêsu thách thức những ‘kỳ vọng’ của họ bằng cách mặc khải chính Ngài, Ngài không phải là một nhà lãnh đạo sẽ lật đổ sự áp bức của người La Mã nhưng là Người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa mà Isaia và các ngôn sứ đã báo trước.

Với những lời vắn gọn trên, Chúa Giêsu đã nói hết về chính Ngài, ‘Ngài đến từ Chúa Cha, được Chúa Cha sai đến’. Phần còn lại là sự chọn lựa của những kẻ nghe Ngài! Don Schwager viết, “Với Chúa Giêsu, không ai có thể thờ ơ quá lâu; họ sẽ theo Ngài hoặc giết chết Ngài!”. Phải, vì không có ‘khả năng chọn điều tốt’, chọn sự thật, những người Do Thái và các tư tế lúc bấy giờ tìm cách bắt Ngài và cuối cùng, giết chết Ngài!

Anh Chị em,

“Chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả!”. Hành trình đức tin của mỗi Kitô hữu là hành trình tìm kiếm Chúa Giêsu; đồng thời, cũng là hành trình giúp nhau đến với Ngài, giúp nhau có khả năng chọn Ngài. Trong “Evangelii Gaudium”, Đức Phanxicô viết, “Niềm Vui Tin Mừng tràn ngập trái tim và cuộc sống của tất cả những ai gặp gỡ Chúa Giêsu!”. Điều quan trọng là bạn và tôi phải giúp tất cả những ai chúng ta gặp gỡ vượt qua những giả định và phán xét về Chúa Giêsu là ai và Giáo Hội là gì, nghĩa là giúp họ có ‘khả năng chọn điều tốt’; đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho họ gặp gỡ Ngài. Khi một người biết Chúa Giêsu thực sự là ai thì niềm vui và bình an tràn ngập.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để cách sống của con làm cho người khác hiểu sai về Chúa và Giáo Hội. Cho con chọn Chúa mỗi ngày; nhờ đó, người khác nhận ra ‘một Ai đó’ trong con!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

From: KimBang Nguyen


 

CÂU CHUYỆN THẦN KỲ!

 

Perez, một cựu phi công của không quân Cuba đã trở thành một chủ đề bàn tán sau chuyến bay đào tẩu và còn quay trở về nước để đón vợ và hai đứa con. Perez đã liều lĩnh mạng sống của mình nhưng cho rằng điều đó là xứng đáng để chạy theo giấc mơ của gia đình.

Khi còn hoạt động trong không quân, Perez được gửi sang liên bang Soviet 2 lần để học lái máy bay và sau đó cùng gia đình trở về Cuba.

Được tiếp xúc với bên ngoài, Perez và gia đình nhận ra họ đang sống dưới một chính quyền với áp bức và tuyên truyền những thông tin sai lệch. Họ cho rằng chỉ có một con đường duy nhất đó là trốn ra khỏi nước ngoài.

Ngày 30/3/1991, Perez từ biệt vợ con với lời hứa sẽ quay về đón vợ và hai đứa con. Họ phải giả vờ không hề biết gì về kế hoạch của Perez. Và trong buổi tập bay hôm đó, anh ta đã lái chiếc MiG-23 trốn thoát khỏi Cuba và bay thẳng tới Key West.

Vượt qua được radar của Mỹ, Perez bay tới được một căn cứ không quân, lượn 3 vòng phía trên và lắc cánh ra hiệu ý định hoà bình và hy vọng sẽ không bị bắn hạ.

Sau khi hạ cánh thành công. Do bất đồng ngôn ngữ nên Perez cố gắng dùng tiếng Tây Ban Nha để xin được tị nạn chính trị. Sau một hồi thì những người trên mặt đất cũng hiểu được và anh nhận được cái bắt tay kèm câu nói “Chào mừng đến với nước Mỹ.” Và được chuyển tới Washingon để làm giấy tờ tị nạn.

Sau khi được chấp nhận, Perez bắt đầu tìm cách đưa vợ con sang Mỹ. Gia đình anh bị chính quyền giám sát trong suốt khoảng thời gian 21 tháng khi anh đang tìm cách. Gia đình anh được cấp trước Visa nhưng chính quyền Cuba cương quyết ko cho họ ra đi. Tổng thống Mỹ G.W. Bush cũng có bài phát biểu kêu gọi Fidel Castro cho họ đi nhưng cũng bị từ chối. Thế là Perez phải tìm cách khác, và cách duy nhất là tự lái máy bay trở về.

Thông qua một tổ chức nhân quyền được lập ra bởi một tù binh chính trị người Cuba, Perez có được thông tin về một chiếc Cessna 310 đời 1961 đang được rao bán. Nhờ được vận động quyên góp, tổ chức đã giúp mua được chiếc máy bay với giá $30,000.

Đúng 5:07 chiều ngày 19/12/1992, Perez cất cánh rời nước Mỹ, bay thấp xuyên biển hướng về Cuba. Người vợ được chuyển một bức thư hẹn gặp ở một nơi cách nhà gần 300km.

Perez không có cách nào để biết là người vợ có nhận được tin hay không, cũng không chắc chắn có thể bay tới nơi mà không bị phát hiện được hay không, nhưng vẫn phải đặt cược tất cả vào chuyến bay này.

Bay với độ cao khoảng 30m dọc theo vách đá bờ biển, Perez nhìn thấy vợ con của mình mặc áo màu cam nổi bật đang chờ đúng như anh đã dặn. Anh hạ cánh gần đó và tất cả vội vã lên máy bay cất cánh đi ngay lập tức. Anh hạ cánh sau hai giờ bay tiếp theo tới Marathon.

Perez và gia đình anh đã trở thành công dân Mỹ. Chiếc MiG-23 được gửi trả lại Cuba, còn chiếc Cessna bị hư hại trong một cơn bão.

– (Ly Trần)

(Share from Pham My Lan).


 

Xã hội bây giờ – Đi xe đò, Đi xe ôm – TIỂU TỬ-Truyen ngan

TIỂU TỬ

Năm đó, tôi về Việt Nam ăn Tết và cũng để mừng má tôi tròn một trăm tuổi. Đó là lần thứ hai tôi về Việt Nam. Kỳ trước về với vợ con nên đi đâu chúng tôi cũng dùng xe nhà của thằng em bà con cho mượn với tài xế ( Thằng em này ” biết làm ăn ” nên bây giờ nó khá lắm ) Kỳ này về một mình, tôi định nếu có dịp sẽ dùng xe công cộng một lần cho biết.

Sau một tuần ở Gò Dầu với má tôi ( Gò Dầu quê tôi thuộc tỉnh Tây Ninh, nằm cách thành phố 63km ) thấy còn năm hôm nữa mới tới Tết, tôi bèn sửa soạn xuống Sài Gòn để đi thăm vài người bạn.

Lần này, tôi muốn đi bằng xe đò ( bây giờ người ta gọi là ” xe khách ” – trong bài viết này tôi vẫn dùng từ ” xe đò ” cho?dễ hiểu ! ) Một thằng cháu – hồi trước làm thầy giáo, bây giờ sửa xe đạp và bán sách vở học trò – nói :

– Để cháu lấy Honda chở chú Hai lên bến xe kiếm xe gởi chú đi.

– Khỏi cần, chú đi một mình được.

Nó phì cười :

– Cái tướng Việt Kiều của chú lên đứng lớ ngớ trên đó, tụi nó dám chém nhẹ vài chục ngàn cái vé đi thành phố thay vì chỉ có tám ngàn thôi. Tụi nó bây giờ “mánh” lắm chú ơi !

Vậy là nó chở tôi lên bến xe đò ( Ở quê tôi, vì có con sông Vàm Cỏ Đông chảy ngang, nên dân chúng thường nói ” trên ” và ” lên ” để chỉ những nơi nào nằm về phía thượng lưu con sông – đối với khu chợ nằm ở giữa – và ” dưới ” hay ” xuống ” để chỉ những xóm nằm về phía hạ lưu ).

Ở bến xe, thằng cháu nói :

– Chú đứng đây giữ dùm cháu cái Honda. Để cháu ” thả ” một vòng coi.

Trong lúc nó ” thả một vòng “, tụi bắt mối hai ba đứa rà rà lại :

– Đi thành phố hả chú ? Chạy liền giờ nè !

– Thằng xạo đó chú ! Xe nó chưa tới ” tài “. Xe cháu kìa, xe đầu vàng đang rồ máy đó chú. Đi chú ! Cháu xếp chỗ tốt đằng trước cho chú, nè !

Vừa nói, thằng nhỏ vừa nắm cái ba-lô của tôi kéo đi trong lúc thằng kia cũng lôi về phía nó. Tôi rị lại la lên :

– Tao không có đi xe đò ! Tao đợi thằng cháu. Bộ tụi bây không thấy xe Honda đây sao ?

Một thằng khác, có vẻ anh chị, ” xẹt ” vô can thiệp :

– Buông ra ! Tụi bây làm gì vậy ? ” Quậy ” hả ?

Trong lúc hai tên kia bỏ đi, nó hạ giọng thân mật :

– Chú Hai đi thành phố hả chú Hai ?

Tôi lắc đầu, lại chỉ cái Honda, nói :

– Tao đợi thằng cháu chở đi công chuyện.

Thằng nhỏ bỏ đi. Tôi nhìn theo nó mà nghe ngượng vô cùng. Mấy thằng nhỏ bắt mối cỡ tuổi hai thằng cháu nội tôi thôi, vậy mà tôi sợ gì lại phải nói trớ là không đi thành phố ? Có lẽ tại vì mấy chục năm nay ở xứ người, tôi đã sống quen với cái xã hội có tổ chức, có trật tự, nên tôi không biết cách ứng xử phù hợp với môi trường chụp giựt mánh mung này. Cho nên phản ứng của tôi là né ! Không biết phải làm sao, thôi thì né tránh đi cho nó xong chuyện ! Tự nhiên, tôi thở dài.

Thằng cháu tôi dẫn lại một người đàn ông còn trẻ gầy nhom, giới thiệu :

– Thằng Đực nè chú Hai. Nó lái xe cho cậu Năm Bộn. Nó là chồng con Hường, con của chị Ba Đầy ở xóm nhà máy đó chú nhớ hôn ?!!

Tôi mỉm cười gật gật đầu ” ờ ” cho lấy có. Thằng cháu nói tiếp :

– Còn đây là chú Hai con bà Tám, mầy kêu ổng bằng ông lận.

Thằng Đực chấp tay xá :

– Dạ, lâu nay con có nghe nói ông Hai ở bên Tây, bây giờ mới gặp. Về chơi hả ông Hai ?

Rồi không đợi tôi trả lời, nó vói tay xách cái ba lô :

– Ông Hai đi theo con. Xe con đằng nầy nè.

Thằng cháu tôi dặn vói :

– Xuống dưới nhớ kiếm xe ôm cho ổng, nghe mậy !

– Được rồi ! Cậu ba yên chí !

Thằng Đực dẫn tôi lại xe của nó, giới thiệu tôi cho hai thằng cỡ mười tám đôi mươi đang dứng hút thuốc ở đầu xe

– Đây là ông Hai, con bà cố ở đường đất đỏ, đó ! Còn đây là hai thằng em vợ con, tụi nó vừa là phụ xế vừa là lơ nữa.

Rồi nó đỡ tôi lên đưa lại ngồi phía tay trái cách chỗ tài xế hai hàng băng. Trên xe đã có nhiều người ngồi, chắc họ quen nhau nên nghe nói chuyện rân như họp chợ !

Chiếc xe đò là xe loại đầu bằng, có hai cửa lùa cho hành khách lên xuống. Chỗ ngồi hẹp té, tôi đo vừa đúng hai gang tay. Trên kiếng chắn gió trước mặt tài xế, về phía phải, có viết mấy hàng chữ bằng sơn đủ màu. Vì tôi ngồi trong xe nên phải đọc ngược, nhưng vẫn đọc được :

TP Hồ Chí Minh / Gò Dầu

Vidéo / Karaoké

Chính giữa xe, ngang ngang với đầu anh tài xế, có một cái lồng sắt hàn dính lên trần, trong đó có cái télé. Tôi tự hỏi :” Vidéo thì còn hiểu được, chớ Karaoké thì hành khách hát hí ra làm sao ?” Thật là mới mẻ quá ! Dưới chân tấm kiếng chắn gió, cũng ngay chính giữa, có gắn một kệ nhỏ, trên đó có một tượng Phật Bà, một bình bông, một bình cắm nhang và ba chung nước. Tất cả mấy món vừa kể đều được gắn xuống mặt kệ bằng băng keo chằng chịt ! Cho nó đừng nhúc nhích hay lật đổ khi xe chạy hay khi xe thắng gắp. Nhìn tượng Phật Bà chằng chịt băng keo, tôi nghĩ chắc Ngài cũng phải mỉm cười mà từ bi hỉ xả?

Thằng Đực lên ngồi, đề cho máy chạy, rồi cứ rồ máy từng chập giống như làm cho nóng máy. Hai thằng lơ đứng dưới đất la ó :

– Lên đi bà con ! Chạy à ! Chạy à !

Tài xế sang số cho xe nhúc nhích nhúc nhích, trong lúc hành khách cứ lần lượt trèo lên xe tỉnh bơ không thấy có chút gì hối hả. Không thấy ai bán vé, thiên hạ cứ lên xe thấy ghế trống là ngồi. Hàng hoá mang theo lỉnh kỉnh để đầy hành lang chính giữa. Những người lên sau phải bước choàng ngang để đi !

Một bé gái cỡ mười hai mười ba tuổi, lên xe với hai bao ni-long lớn đựng đầy dép, loại dép cao su Nhựt Bổn. Nó ngồi vào ghế trống cạnh tôi. Vừa đặt đít xuống nó vừa trao cho tôi một bao dép, nói :

– Ông ngoại giữ dùm con.

Nó làm một cách tự nhiên, chẳng thấy một chút ngượng nghịu gì hết. Còn tôi thì thật ngỡ ngàng bối rối không biết phải làm sao ? Vậy mà tôi cũng ôm bao dép vào lòng, ôm một cách máy móc ! Tôi biết nó ” đi ” hàng lậu ( Xưa nay, Gò Dầu được biết tiếng nhờ có chợ trời hàng lậu ở biên giới Cao Miên ) nhưng tôi không thể tưởng tượng được một bé gái mới mười hai mười ba tuổi mà đã đi buôn lậu và còn bắt người khác giữ hàng lậu giùm mình một cách tỉnh bơ coi như chuyện bình thường ! Xã hội bây giờ thật quá nhiều thay đổi, mà tôi thì quê trân, giống như ” một thằng mán ra chợ ” !

Thằng Đực rồ máy cho xe chạy tới trong lúc hai thằng lơ phóng lên xe – mỗi thằng một cửa – vừa phóng vừa la ” Bà con ơi ! Chạy à ! Chạy à !”. Xe chạy được mươi thước, ngừng lại, máy rồ từng chập một lúc rồi xe lui về vị trí cũ ! Hai thằng lơ nhảy xuống đất, miệng vẫn bô bô : ” Lên đi bà con. Chạy liền giờ nè !”. Hành khách vẫn lai rai từ tốn leo lên xe?

Mươi phút sau thì xe lại chạy. Lần này, nó ra khỏi bến xe, chạy rề rề. Đến ngả ba ( Chỗ này có đường xuống chợ, có đường vô xóm Mới, nhưng vẫn được gọi là “ngã ba” !) nó rước một vài người khách rồi chạy thẳng về hướng thành phố. Tưởng chạy luôn, té ra xuống khỏi Trâm Vàng – cách ngã ba lối ba cây số – nó quay đầu lại chạy về bến đậu. Lại nhúc nha nhúc nhích một lúc lâu đến khi có tiếng tu huýt thổi ( Chắc là hiệu lệnh của cán bộ điều hành bến xe ) xe lại rồ máy chạy. Lần này, đúng là nó chạy thiệt bởi vì nó không có rề rề như hồi nãy ! Tôi thở cái khì.?

Xe không có bán vé, nhưng có một chị đi thâu tiền. Cái hay của chị này là chị ta nhớ người nào đã thâu rồi người nào chưa. Cho nên trong suốt ” hành trình ” trèo qua trèo lại trên những kiện hàng nằm ngổn ngang dọc hành lang để thâu tiền, không thấy ai phàn nàn phản đối gì hết.

Xe đang chạy, bỗng thấy thằng lơ cửa trước đứng thẳng lên mở dây nịt, kéo phéc-mơ-tuya… cởi quần ! Hành khách tỉnh bơ. Có lẽ trên xe chỉ có một mình tôi là ngạc nhiên trố mắt nhìn. Một cô gái ngồi gần đó đưa cho nó mấy cây thuốc lá ” 555 ” và một nạm vòng thun, nó cầm lấy, xỏ vòng thun vào hai chân, cách khoảng nhau độ hơn một tấc, rồi nhét mấy cây thuốc vào đó, dài từ háng xuống mắc cá và ôm tròn chân từ mặt trong ra mặt ngoài. Trông nó giống Robocop của phim Mỹ ! Thì ra thằng lơ giấu hàng lậu dùm cô gái. Nó vừa mặc quần xong là đến lượt thằng lơ cửa sau. Nhưng thằng này quá gầy nên nó không cần cởi quần. Nó kéo ống quần đì-rét lên tới bẹn rồi làm y như thằng trước. Thằng này thì ” cao cấp ” hơn, vì nó còn ” chêm ” vòng theo thân mình tới năm cây thuốc lận ! Xong nó khệnh khạng đi về hướng cửa sau. Tôi nhìn theo, phục quá !

Xe vừa chạy vừa bóp kèn, đường trống vẫn bóp kèn. Làm như đã thành cái tật ! ( Ở Việt Nam bây giờ, chạy xe hơi, xe gắn máy trên đường – Nhà Nước gọi là ” tham gia lưu thông “, nghe thật là văn vẻ – ai ai cũng bóp kèn, chạy ngoài đồng hay chạy trong thành phố gì cũng vậy hết. Lạ lắm ! ) Còn hai thằng lơ thì hể thấy có người chạy lạng quạng phía trước thì lòn người ra ngoài, vừa la to ” Vô ! Vô !” vừa vỗ vào thùng xe đùng đùng. Làm như kèn xe không đủ cho người ta nghe vậy ! Thấy ai đứng lớ ngớ đàng xa bên lề đường như có vẻ đón xe thì lơ hét to cho tài xế ” Bà già đó ! Bà già đó !” hay ” Con mẹ cầm nón đó ! Con mẹ cầm nón đó !”. Nếu là hành khách đưa tay ngoắc thì xe chạy chậm lại, rề sát vào. Thằng lơ phía trước mở cửa rồi một tay nắm cây cột sắt nằm cạnh cửa lùa, lấy thế nghiêng người xuống hốt người khách đẩy vào trong xe trong lúc xe vẫn tiếp tục lăn bánh chớ không ngừng lại ( Sau này tôi mới biết rằng xe đò không được phép rước khách ngoài những nơi đã được ấn định bởi chánh quyền. Vì vậy xe không được ngừng dọc đường ngoại trừ khi xe ăn-banh !)

Thằng Đực vừa lái xe, vừa bóp kèn, vừa lách tránh những xe khác – đủ loại : Honda, xe đạp, xe thùng, xe ba gác, xe bò, xe ngựa… – vừa?liếc dài theo lề đường để ” bắt ” khách. Xe đang chạy ngon lành ( 50 km/giờ, tốc độ tối đa ấn định bởi Nhà Nước ) bỗng nó ” nhả ga ” chạy bớt lại và la lên :” Giao thông nghen ! Giao thông nghen ! Lấy tay lấy đầu vô bà con !”. Hai thằng lơ cũng la theo :” Đừng ló đầu ra nghe bà con ! Giao thông đó !”. Xa xa về phía trái, thấy có hai ông công an giao thông ngồi chàng hảng trên xe mô-tô dưới tàn cây bên lề, hút thuốc. Khi xe chạy ngang qua, mấy ổng chỉ nhìn theo cười cười, chắc hài lòng với sự biết ” chấp hành nghiêm chỉnh luật lệ giao thông ” của tài xế Đực !

Đường xuống thành phố, ngày xưa, hai bên là ruộng lúa ruộng mía và giồng rau cải. Bây giờ nhà cửa cất dài dài, đồng ruộng còn rất ít. Quán ăn, quán nhậu thì quá nhiều. Phần lớn mang bảng hiệu rất thơ mộng như : ” Hẹn hò “, ” Vườn Thúy “, ” Quán Trăng ” Làm như bây giờ người ta thèm được?” phiêu phiêu ” để quên đi một phần nào cuộc sống xơ cứng của hiện tại !

Bến xe Trảng Bàng nằm trước sân banh. Xe đò vừa vào bến thì một bầy trẻ con bán dạo ùa lên xe như ruồi, rao hàng ó trời ! Trong xe bỗng ồn ào như cái chợ. Nhiều đứa nhỏ mang hàng đầy hai vai. Hàng đựng trong những túi ni-long nhỏ bằng nắm tay, miệng cột túm lại bằng vòng thun. Mỗi loại được xỏ chung với nhau thành một đùm. Tụi nhỏ đeo nhiều đùm như vậy lên hai vai, nhiều đến nỗi không còn thấy cái cổ ! Chỉ còn thấy cái đầu nhỏ lòi ra trên đống túi ni-long tròn tròn.?

Tụi nhỏ bán loại này rao hàng có ca có kệ. Rồi vì muốn cho ” có ca có kệ ” nên nhiều tiếng để sai dấu, tôi nghe mà không hiểu hàng gì và hàng gì ! Phải nghe vài lần mới?” nắm bắt ” được : ” Sâm lạnh. Thuốc lá. Huynh gum. Trứng cút. Bánh tráng muối. Nem chay. Đây?” Nếu có người mua, đứa nhỏ cầm túi ni-long giật mạnh cho đứt sợi thun rồi trao cho khách, nhanh gọn lắm ! Ngoài ra, có những đứa bán ” chuyên ngành ” hơn, bán một thứ một, như chỉ bán giấy số hay thơm gọt sẵn, hay bánh tráng bánh phồng, hay thuốc lá..v.v… đủ thứ. Đứng đầy xe như vậy mà khi xe rồ máy lìa bến thì tụi nó đứa trước đứa sau phóng xuống như trò đu bay ! Thấy chết như không !

Xe chạy chậm chậm, rước vài người ở khúc cua Trảng Bàng. Đến Cầu Ông Chừa – cách Trảng Bàng độ năm ba cây số – xe quay đầu chạy về bến trước sân banh ! Rồi cứ nhúc nha nhúc nhích để lấy thêm hành khách. Mấy đứa nhỏ lại ùa lên rao hàng. Độ hai mươi phút sau, xe lại lăn bánh. Lần này chạy thiệt.

Trên đường lúc nào cũng có người. Xe đạp, xe Honda ( Bây giờ, ” Honda ” là tiếng gọi chung cho xe hai bánh có gắn máy ) chạy loạn. Hai bên đường, thỉnh thoảng có bảng đề ” Bia tươi ” đặt trên lề trước quán nhậu. Tôi đã nghe nói ” bia hơi “, ” bia ôm “, nhưng loại ” bia tươi ” này là lần đầu !

Khều thằng lơ, tôi hỏi :

– Bia tươi là gì vậy cháu ?

Nó bật cười :

– Là bia làm tại chỗ, làm ngày nào là nhậu ngày nấy. Để vài ba bữa mà đớp vô là đi luôn à ông Hai !

Tôi gật gật đầu nhưng trong lòng sao nghe buồn chi lạ : bây giờ, đến ” cái nhậu ” cũng?” không giống ai ” hết !

Bỗng thằng Đực vừa bớt ga rà thắng vừa la lên :

– Kinh tế ! Kinh tế ! Bà con.?

Trong xe, hành khách nhốn nháo. Kẻ thì đút giấu hàng dưới băng mặc dù ở đó đã đầy đồ, người thì chèn nhét hàng trong hốc trong kẹt, dưới đít mấy kiệng hàng rau cải gà vịt. Mấy bà mấy cô thì nhét trong áo trong quần chẳng thấy có chút gì xấu hổ hết !

Tôi nhìn con bé cạnh tôi, nó cười trấn an :

– Ông ngoại đừng lo. Mỗi người có quyền đi một bao dép. Con đi hoài hà !

Tôi ” ờ ” rồi hỏi một cách máy móc :

– Bộ con không có đi học hả ?

Nó cười rất tự nhiên :

– Đi học rồi lấy gì ăn, ông ngoại ?

Tôi xúc động, không dám nhìn gương mặt dễ thương đó nữa, tôi nhìn vội ra ngoài. Xe đã đậu lại.

Bên kia đường, có một xe hàng nằm sau một xe Jeep. Hai ông công an kinh tế mặc sắc phục ( họ kiểm soát hàng lậu ) đang ” làm việc ” dưới tàn cây vệ đường với mấy người mà tôi đoán là lơ và tài xế của xe hàng. Thằng Đực cầm một xấp giấy tờ xum xoe chạy qua đó, chen vào chỉ chõ nói năng. Một lúc sau, thấy nó khúm núm cúi chào mấy cái rồi vui vẻ chạy trở về trèo lên xe sang số chạy thẳng !

Xe chạy không bao nhiêu xa, hành khách chộn rộn móc kéo hàng giấu hồi nãy cho vào bao vào bị. Hai thằng lơ cũng cởi quần lấy cây thuốc vòng thun trả lại cô gái, vừa làm vừa trò chuyện nói cười. Con nhỏ ngồi cạnh tôi kéo cái bao dép tôi đang ôm về phía nó, chẳng nghe một lời cảm ơn. Mọi người đều hành động một cách tự nhiên, bình thường. Tôi bỗng thấy tôi không giống ai hết. Tôi là người ” bất bình thường “, ngay trong lòng quê hương mà sao thấy thật là lạc lõng !

Xe ngừng ở Suối Sâu, hai thằng lơ – đứa trên mui, đứa dưới đất – xuống hàng : bao, bị, giỏ tre, cần xé lổn ngổn ( Những món này chắc của bạn hàng quen gởi và đã chất lên đó trước khi xe vào bến Gò Dầu ) Vừa làm, thằng lơ trên mui vừa nói lớn cho mấy người đang bu lại nhận hàng :” Hai cái cần xé nầy của dì Ba. Cái giỏ bội này cũng của bả nữa. Mấy thứ tôi liệng xuống đây của cô Bảy nghen. Rồi ! Xong ! Bây giờ là đồ của chú tư Xáng “.

Cô gái ” đi ” thuốc 555 lấy hàng nằm dọc hành lang trao qua cửa sổ cho một bà sồn sồn đứng phía dưới, vừa làm vừa nói chuyện huyên thiên. Bà đó hỏi :

– Mầy có ghé thăm con Hoa hông ? Nó đẻ chưa ?

– Chưa. Má lên trển mà coi. Cái bụng của chỉ bây giờ chang bang như cái mả vậy !

Nói rồi, cô ta cười hắc hắc. Chắc cũng là chuyện bình thường thôi.

Xe chạy tiếp. Bon bon 50km/ giờ. Đến Củ Chi ngừng lại để xuống hàng lần nữa. Con nhỏ ngồi cạnh tôi xuống ở đây. Nó đứng lên, xách hai bao dép đi, không nói một lời, cũng không nhìn lại. Nó làm tự nhiên như tôi không có mặt trên xe !

Sau khi xuống hàng, xe chạy thẳng về thành phố, không ngừng ở trạm nào nữa hết. Tôi đoán :” Trên mui chắc không còn hàng “.

Bến xe Tây Ninh nằm ở Bà Quẹo. Bến này rộng lắm, vây quanh bởi một tường rào. Khi xe đò quẹo vào, thấy người ta chạy theo lố nhố. Chừng xe đậu rồi, nghe họ mời mọc tía lia mới biết họ là những người lái xe ôm, xe ba gác đang tranh nhau kiếm mối chở đi. Thằng Đực nói :

– Ông Hai ngồi đây, đừng đi đâu hết. Để con kiếm mấy thằng xe ôm quen cho ông Hai.

Tôi nhìn đồng hồ thấy 10 giờ 20. Hồi ở Gò Dầu, tôi lên ngồi trên xe lúc 8 giờ sáng. Tính ra, tôi đi 63km mất hết hai giờ hai mươi phút !

Một lúc sau nó dẫn đến một người đàn ông cỡ tuổi nó, vừa vỗ vai người đó vừa nói :

– Thằng này tên Chín, ở cùng đơn vị với con hồi trước. Nó đàng hoàng lắm, ông Hai. Mà ông Hai về đâu vậy ?

– Ông về nhà thằng cháu ở khu Đại học Phú Thọ.

Thằng Đực lại vỗ vai bạn :

– Tao giao ông Hai cho mày đó. Tính tiền cho có tư cách nghe mậy.

– Yên chí?

Vừa nói thằng Chín vừa cầm ba lô của tôi :

– Ông Hai đi theo con.

– Ủa ? Xe của cháu đâu ?

– Dạ để ngoài kia, chớ đâu được phép đem vô đây, ông Hai. Cấm mà !

Vậy là mấy phút sau, tôi ” ôm ” về nhà thằng cháu. Đó là lần đầu tiên tôi đi xe ôm.

* * *

Ở thành phố, người ta thường đi xe ôm, nếu chỉ đi có một mình. Xe ôm rẻ hơn xe taxi nhiều và nhanh hơn nhờ nó lòn lách dễ. Biết như vậy nên sáng hôm sau tôi ra đường đón xe ôm để đi thăm bạn bè.?

Nếu xích lô và taxi dễ ” nhận diện ” nhờ hình dáng và chữ ” taxi ” bên hông, thì xe ôm rất khó biết. Bởi vì trên đường lúc nào cũng đầy người chạy Honda, chạy xuôi chạy ngược, không có dấu hiệu đặc biệt gì hết thì biết ai ” ôm ” hay ai không ” ôm ” ? Nếu xe ôm được sơn một màu ấn định, hay người lái xe có gắn một cái gì trên ngực trên lưng, hay ít ra cũng đội nón kết có in hai chữ ” xe ôm ” thì dễ cho mình nhìn ra, để ngoắc cho đúng. Đằng này, ai cũng như ai.

Ngoắc đại mấy lần thấy ” trật chìa “, tôi bèn đổi ” chiến thuật “. Tôi bước ra đứng trên mép vỉa hè, mặt làm ra vẻ dáo dác nhìn xuôi nhìn ngược như đang tìm xe ôm trong luồng người chạy Honda. Thấy một người vừa chạy vừa nhìn dài dài theo phố, tôi mừng rỡ vẫy tay ra dấu. Anh ta chạy luôn. Vậy là anh ta đang tìm cái gì khác chớ không phải tìm khách hàng. Tôi lại làm bộ dáo dác cho người khác để ý. Lần này có một ông tấp vô, mỉm cười hỏi :

– Đi không ông Hai ?

Tôi gật đầu, nói địa chỉ, trả giá – căn cứ trên giá đi hôm qua – rồi ôm đi ( Gọi là ” ôm ” chở hành khách không có ôm người lái. Nhiều người không biết, cứ nghĩ rằng trèo lên xe là phải ôm ! Cho nên, khi trở về Paris thuật lại vụ đi xe ôm, vợ tôi hỏi :” Có đàn bà lái xe ôm hông ?” )

Trên đường, xe chạy như loạn. Hai luồng ngược chiều nhau lấn ép lòn lách, bóp kèn như điên ! Thấy tai nạn có thể xảy ra bất cứ lúc nào !

May quá, ông lái xe của tôi – khá trông tuổi – chạy từ tốn. Ổng cứ men theo lề mà chạy và đặc biệt là không nghe ổng bóp một tiếng kèn ! Ngạc nhiên, tôi hỏi :

– Sao ông không bóp kèn ?

– Bóp cho ai nghe ? Ai cũng bóp kèn hết, rền trời. Mình có bóp cũng vô ích !

Ngừng một chút rồi tiếp :

– Cứ làm thinh như vậy mà người ta để ý. Người ta nghe mình làm thinh !

Rồi ông ta cười ha hả. Tôi cũng bật cười theo. Khoái quá, tôi vỗ vai ổng :

– Hay ! Hay !

Rồi không kìm được, tôi hỏi thẳng :

– Hồi trước ông làm gì ?

Ngần ngừ một lúc, ổng mới nói :

– Dạ, làm giáo viên.

– Dạy trường nào vậy ?

– Dạ, trường trung học X.

– Dạy trung học sao gọi là giáo viên được ? Phải gọi là giáo sư chớ.

– Xin lỗi ông. Hồi nãy nhìn ông tôi đã đoán ra ông là Việt Kiều. Bây giờ, ông hỏi như vậy đúng là ông không phải người ở trong nước. Bây giờ, đi dạy học cao thấp gì cũng gọi là giáo viên ráo. Muốn được gọi ” giáo sư ” phải được ” Hội Đồng Chức Danh Giáo Sư Nhà Nước ” xét duyệt hồ sơ. Khi họ công nhận, họ cấp cho mình chức danh giáo sư. Chừng đó, mình mới được gọi là giáo sư. Ông hiểu không ?

Tôi nhớ lại tôi có một người bạn hồi đó cũng dạy trường trung học X. Tôi nói :

– Tôi có một người quen cũng dạy ở trường X nữa. Ông tên Nguyễn Văn Y.

Giọng ông xe ôm có vẻ như reo lên :

– Anh Y dạy lý hoá. Ảnh mộc mạc dễ thương lắm. Lúc nào cũng thắt cà vạt đen !

Ông xe ôm nói đúng. Như vậy ổng là giáo sư thiệt, không phải ổng ba xạo. Tôi bỗng nghe một xúc động dâng tràn lên ngực. Tôi đặt một tay lên vai ông ta, muốn nói gì đó thật nhiều. Nhưng sao tôi không tìm ra được lời, tiếng nói bị nghẹn ngang trong cổ. Tôi chỉ biết bóp nhẹ vai của ổng, cái vai bây giờ tôi mới thấy là gầy. Chắc ổng hiểu cử chỉ của tôi nên làm thinh. Tôi bóp vai ổng mà tưởng chừng như tôi đang bóp vai một người bạn cố tri, tưởng chừng như tôi đang mân mê một cái gì trân quý của thời cũ. Tôi như thấy lại được cái thời đã mất đó với những giá trị tinh thần của nó, cái thời mà nhà giáo dù nghèo cũng chưa đến nỗi phải chạy xe ôm như bây giờ.

Ông xe ôm im lặng lái xe. Tôi im lặng nhìn cảnh tượng xô bồ hỗn tạp trên lòng đường phố. Bàn tay tôi vẫn đặt trên vai ông ta như để giữ thăng bằng. Sự thật, tôi muốn giữ nguyên như vậy để ổng cảm nhận rằng giữa ổng và tôi không có một sự cách biệt nào hết. Không có người lái xe ôm, không có khách đi xe ôm. Mà chỉ có hai thằng bạn…

Bỗng ở phía ngược chiều, một người đàn ông lái Honda nhìn về phía bên này gọi to :” Thầy ! Thầy !”. Tôi thấy anh ta chật vật luồn lách quay đầu xe lại, chạy theo chúng tôi. Chừng đến ngang nhau, anh ta hớn hở :

– Thầy mạnh hả thầy ?

Giọng ông xe ôm cũng vui vẻ :

– Ờ ! Mạnh ! Cám ơn ! Em đi đâu vậy ?

– Dạ ! Em chạy áp-phe. Thấy thầy em nhìn ra được liền hà ! Tụi thằng A thằng C nói có gặp thầy nên em thường để ý kiếm, bây giờ mới gặp. Mừng quá, thầy !

– Ờ ! Cám ơn ! Hai mươi mấy năm mà tụi em còn nhớ tới thầy là thầy vui rồi.

– Làm sao quên được, thầy ? Hồi đó, thầy là thần tượng của tụi em mà !

Ông xe ôm làm thinh. Chắc cả một dĩ vãng đang được quay nhanh lại trong đầu. Tôi bóp nhẹ vai ông ta, chia xẻ.

Hai thầy trò vừa lái xe vừa nói chuyện với nhau một lúc rồi người đó xin phép ” đi làm ăn “. Chúng tôi im lặng, tiếp tục đoạn đường còn lại. Sự im lặng nào sao cũng nói thật nhiều…

Đến nhà anh bạn tôi, tôi trả tiền cuốc xe ôm mà không dám cho thêm như tôi đã làm hôm qua với thằng Chín. Tôi muốn ông ta thấy rằng tôi vẫn kính trọng ông ta, vẫn xem ông ta là một giáo sư. Ông ta nhìn tôi mỉm cười. Chúng tôi bắt tay nhau, cái bắt tay đó ngầm nói lên rằng, dù cuộc đổi đời có vĩ đại đến đâu, mình vẫn giữ được cái tình người trân quí của thời cũ.

Lần đi xe ôm đó tôi nhớ hoài đến bây giờ. Viết lại mà vẫn còn nghe xúc động.

Tiểu Tử

From: Tu-Phung


 

SpaceX Đang Phóng Phi Thuyền StarShip thử nghiệm lần thứ ba

Theo truyền hình trực tiếp từ mạng Space.com và SpaceX

Tầng Phóng phản lực Booster, tách rời thành công và quay về mặt biển ở Vịnh Mễ Tây Cơ.

Tầng Phi Thuyền vận hành, xoay trở thành công. 13 động cơ có thể phát động trơn tru như hoạch định.

Tầng Phóng đã phát động hỏa tiễn để giảm tốc và từ từ đáp xuống mặt biển như chương trình đã định. 

Trung Tâm điều khiển Boca Chica giữ liên lạc tốt với Tầng Phóng không bị gián đoạn.

 

Ở phút thứ 43, sau lúc tạm gián đoạn thông tin khi StarShip lao vào khí quyển, phi thuyền tiếp tục truyền hình cảnh nó tiến về mặt đất như hoạch định.

Cọ xát với khí quyển ở 2600 độ F, cánh lái của phi thuyền StarShip vẫn có thể vận hành tốt.

 

PHI THUYỀN STARSHIP (TẦU SỐ 28) MẤT LIÊN LẠC VỚI TRUNG TÂM ĐIỀU KHIỂN VÀ CHÌM VÀO ĐÁY BIỂN. KẾT THÚC CHUYẾN THỬ NGHIỆM THỨ BA CỦA SPACEX MỘT CÁCH TƯƠNG ĐỐI THÀNH CÔNG!

Vì những lý do vẫn chưa rõ ràng, SpaceX đã chọn bỏ qua một trong những mục tiêu cốt lõi của chuyến bay thử nghiệm – nỗ lực kích hoạt lại một trong các động cơ Raptor của Starship khi nó đang bay trên quỹ đạo nông gần mặt đất. Cột mốc đó được coi là chìa khóa cho sự thành công trong tương lai của hãng.

Giám đốc NASA Bill Nelson đã chúc mừng SpaceX về cái mà ông gọi là “chuyến bay thử nghiệm thành công” trong một tuyên bố đăng trên nền tảng mạng xã hội X. Cơ quan vũ trụ Hoa Kỳ là khách hàng lớn nhất của SpaceX.
Chủ tịch SpaceX Gwynne Shotwell đã viết trong một bài đăng X rằng cuộc thử nghiệm đánh dấu một “ngày đáng kinh ngạc”.
Tàu vũ trụ hai giai đoạn, bao gồm tàu ​​du lịch Starship gắn trên đỉnh tên lửa đẩy siêu nặng cao chót vót của nó, đã được phóng từ địa điểm phóng Starbase của công ty gần Làng Boca Chica trên Bờ biển vùng Vịnh Texas. Giai đoạn trên Starship đạt độ cao đỉnh điểm 145 dặm (234 km).
 
Con tàu đã vượt xa hai màn trình diễn trước đây của nó, cả hai đều bị cắt ngắn do vụ nổ vài phút sau khi phóng. Công ty đã thừa nhận trước khả năng cao là chuyến bay mới nhất của họ có thể kết thúc tương tự với sự sụp đổ của tàu vũ trụ trước khi hồ sơ sứ mệnh kết thúc.
Văn hóa kỹ thuật của SpaceX, được coi là có khả năng chấp nhận rủi ro cao hơn nhiều công ty có uy tín hơn trong ngành hàng không vũ trụ, được xây dựng dựa trên chiến lược thử nghiệm chuyến bay nhằm đẩy tàu vũ trụ đến điểm thất bại, sau đó điều chỉnh các cải tiến thông qua việc lặp lại thường xuyên.

Tàu vũ trụ Starship thế hệ tiếp theo của SpaceX thực hiện lần phóng thứ ba

Phi Thuyền Starship thế hệ tiếp theo của SpaceX, trên tên lửa Siêu nặng mạnh mẽ của nó, cất cánh trong lần phóng thứ ba từ bệ phóng Boca Chica của công ty trong chuyến bay thử nghiệm không có người lái, gần Brownsville, Texas, ngày 14 tháng 3. ảnh của REUTERS / Cheney Orr

 NGÕ TẮT NÊN THÁNH – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Tôi không cần người đời tôn vinh!”.

“Khiêm tốn là điều bạn và tôi nên thường xuyên cầu nguyện, nhưng đừng bao giờ tạ ơn vì nó! Hãy quên mọi việc tử tế ngay khi vừa làm xong; quên những lời khen khi vừa giành được. Đó là ngõ tắt nên thánh!” – M. R. De Haan.

Kính thưa Anh Chị em,

Khiêm tốn, một trong các chủ đề của Lời Chúa hôm nay. “Hãy quên mọi việc tử tế ngay khi vừa làm xong; quên những lời khen khi vừa giành được!”. Bởi lẽ, vinh quang và danh dự không thuộc về bạn, nó thuộc về Chúa! Biết điều này, bạn biết ‘ngõ tắt nên thánh’.

Người đời thường hay tìm kiếm lời khen của nhau, đang khi Thánh Kinh nói, “Hãy dâng Chúa vinh quang xứng Danh Ngài!”; Chúa Giêsu thì bảo, “Tôi không cần người đời tôn vinh!”. Tại sao? Vì chỉ Thiên Chúa mới xứng với muôn lời hoan chúc. Ý thức điều này, bạn đã lần bước trên đường thánh đức! Vì phải ăn mày khen lao của con người, chúng ta hì hục lao vào công việc cốt chỉ để được chấp nhận; vậy mà khi làm thế, chúng ta tự tạo cho mình một chiếc máy chém! Vì thế, một khi nhất mực thanh tẩy những ý định quy ngã – quên đi bản thân – để tôn vinh chỉ một mình Thiên Chúa qua mọi lời nói, hành động và suy nghĩ… thì trước hết, bạn và tôi sẽ tràn trề bình an và niềm vui; từ đó, nhiều linh hồn và chính chúng ta được kín múc ân sủng Chúa, và đó là ‘ngõ tắt nên thánh’.

Đối lập với sự chấp nhận của con người là sự khước từ của nó. Chúa Giêsu đã trải nghiệm sự khước từ này mà cao điểm là cái chết thập giá của Ngài. Tuy nhiên, ngay tại khoảnh khắc mất hết sự chấp nhận của con người, Chúa Giêsu vẫn được Chúa Cha ưng nhận. Hậu kết là Chúa Cha đã cho Ngài sống lại từ cõi chết; qua đó, mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Ngài cho thấy, việc bị con người từ chối không nhất thiết có nghĩa là không có sự chấp nhận của Thiên Chúa! Như vậy, được Thiên Chúa chấp nhận và khen lao sẽ quý hơn vạn lần so với được chấp nhận và khen thưởng bởi thế gian.

Thật thú vị, ngay cả Thiên Chúa cũng không được chấp nhận! Oái oăm thay, Ngài bị từ chối bởi chính dân Ngài, dân được Ngài cứu thoát. Họ cũng không tôn thờ Ngài như Ngài đáng được tôn thờ. Họ đã đúc một con bò vàng, quỳ xuống thờ lạy nó – bài đọc một. Thánh Vịnh viết, “Họ đem vinh quang của mình đánh đổi lấy hình tượng bò ăn cỏ”. Và điều đó khiến Thiên Chúa nổi giận đến nỗi Ngài nhất tâm tru diệt họ; và Môsê, một lần nữa, đứng ra, xin Ngài thương tha. Thật xúc động, “Lạy Chúa, xin Ngài nhớ đến con, bởi lòng thương dân Ngài”; và Thiên Chúa lại xiêu lòng – Thánh Vịnh đáp ca.

Anh Chị em,

“Tôi không cần người đời tôn vinh!”. Đó là lập trường và tiêu chí hành động của Chúa Giêsu. Với Ngài, Chúa Cha là ưu tiên số một nên Ngài ra sức làm điều Chúa Cha muốn. Thế giới đang chứng kiến những tang thương kéo theo bao khó khăn do các cuộc chiến tàn khốc của những kẻ ‘tham nhũng quyền lực’ và ‘đói khát nó’ một cách bệnh hoạn, bạn và tôi được mời gọi trở nên những Giêsu, những Môsê, những con người của cầu nguyện, hy sinh và quên mình, hầu khấn xin Thiên Chúa thương xót nhân loại khốn cùng này. Hãy dâng những hy sinh âm thầm nhỏ bé mỗi ngày, cốt chỉ để Thiên Chúa nhìn thấy và tôn vinh Ngài. Đó là những lối đi thật nhỏ, thật ngắn; ngõ “Giêsu”, ‘ngõ tắt nên thánh!’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con chạy theo huyễn danh, sống kiếp ăn mày. Giúp con chỉ tìm làm điều đẹp lòng Chúa mỗi ngày và từng ngày!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

From: KimBang Nguyen