Sống như ngày sau đang sống

Sống như ngày sau đang sống

M. Hoàng Thị Thùy Trang

VRNs (10.11.2013) – Nói về sự sống đời sau, có lẽ không một người nào hiện diện trên thế giới này mà không đặt dấu hỏi. Từ khi có ý thức, biết suy tư về con người và cuộc đời, người ta đã bắt đầu suy tư về sự tồn tại của bản thân và thế giới. Câu hỏi sự sống đời sau là một trong những câu hỏi được nhân loại quan tâm hàng đầu. Sống đây nhưng con người vẫn ngay ngáy lo cho ngày mai. Mặc dầu không tin lắm vào sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa nhưng người ta cũng vẫn cứ muốn biết cái gì tiếp diễn ở đằng sau cuộc sống này, khi mà sự chết đến, biến đổi toàn bộ đời sống thế giới, nhân loại vẫn muốn biết còn gì nữa đằng sau cái chết.

Niềm tin công giáo dạy rằng, chết chính là cửa ngõ để bước sang một sự sống mới, sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa. Lúc này con người không còn chết nữa, nhưng là sống đời đời. Và sự sống mai hậu trên thiên quốc ấy, nơi chỉ còn tình yêu và hoan lạc, không có nước mắt, chẳng còn khổ đau. Và tất cả mọi người, sống như thiên thần, chẳng còn dựng vợ, cũng không có gả chồng: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật họ không thể chết được nữa.” (Lc 20, 34-36)

Nói về cuộc sống trần gian, ai cũng cảm thấy sợ, thấy ngán ngẩm, người ta mơ về một lối sống chẳng còn đau khổ, chẳng có chia lìa. Thế nhưng, để mà đánh đổi cho có được cuộc sống ấy thì ai ai cũng muốn thối lui, bỏ cuộc. Nhân loại không muốn đánh mất những giá trị trần thế, cái mà họ cho là cùng đích, là cứu cánh. Mặc dầu biết rất rõ rằng, tất cả mọi thứ tồn tại trên trần gian này đều là phù vân, là hư vô, là giả trá, không có giá trị trường tồn, vĩnh cửu.

Người tin đã vậy, người không tin lại càng tệ hại. Tin có sự sống đời sau, nhưng khổ nỗi lòng còn mang nặng tham vọng trần thế, nên không dám đánh đổi để có được sự sống vĩnh cửu thuộc về Thiên Chúa. Kẻ không tin thì mặc kệ, buông thả bản thân, thỏa mãn mọi dục vọng thế trần. Làm thế nào đây, để thế giới hiểu được rằng có một sự sống khác đàng sau cuộc sống đầy khổ đau và nước mắt này. Tất cả những gì chúng ta đang gầy dựng cho cuộc sống hiện tại chỉ là tạm bợ, phù du. Chính sự sống đằng sau sự bôn ba, lo toan vất vả ấy mới là cuộc sống thật, nơi được đong đo bằng tình yêu và lòng mến.

Cuộc sống thật ấy là gì? Là hoàn toàn khác biệt với lối sống mà nhân loại đang thủ đắc. Nơi đó người lành được hưởng phúc thiên đàng, kẻ có tội phải chịu hình phạt thích đáng với hậu quả mình gây ra. Cuộc sống ấy chỉ còn niềm vui, không còn nước mắt vì thuộc về Thiên Chúa, là con cái của Ngài. Chỉ những ai biết chu toàn thánh ý Thiên Chúa, người đó mới xứng đáng nhận phần phúc mà thôi. Lúc này đau khổ hay ngay cả sự chết cũng không làm gì được họ, họ đã được ngang hàng với các thiên thần, là con cái Thiên Chúa, con cái sự sống lại. (x. Lc 20, 36)

Lạy Chúa, con tin có một sự sống đằng sau cuộc sống này. Và cuộc sống ấy mới đích thực là sự sống mà con cần phải thủ đắc. Có được sự sống đời này, con thấy cũng quá đủ đau khổ lắm rồi. Bao phen trầy trụa, vào cay ra đắng, lăn lộn với những vòng xoáy cuộc đời con mới có thể tồn tại đến ngày hôm nay. Khó khăn chật vật vậy đấy, nhưng đó cũng chỉ là một lối sống tạm bợ, nay còn mai mất mà thôi, phù vân biết chừng nào. Vậy thì, có được sự sống vĩnh cửu hạnh phúc bất diệt, không bao giờ phải chết nữa, ắt hẳn con còn phải khổ công lao nhọc hơn biết là ngần nào. Đang sống đây, nhưng luôn ý thức rằng mình sẽ chết mai khiến tâm trí con nhiều khi chao đảo, rã rời. Cái hạnh phúc bất diệt ngày sau mà Thiên Chúa hứa ban ấy dường như với sức lực bản thân, con chẳng sao vươn tới. Thôi thì, hãy giúp con, sống sao thì sống, chỉ cần con sống một ngày hạnh phúc trong tình yêu Thiên Chúa, đời này hay đời sau cũng vậy. Cuộc đời đã vắn vủi vậy, nỗi đau khổ của đời sau lại kéo dài, thì còn bất hạnh nào hơn. Xin giúp con hãy sống hôm nay như ngày sau đang sống, để không phải nối tiếc nếu có phải đổi thay.

M. Hoàng Thị Thùy Trang

Chết không phải là hết

Chết không phải là hết

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

VRNs (10.11.2013) – Đồng Nai – Cuộc sống luôn đặt ra cho chúng ta một câu hỏi: Tôi sinh ra làm gì? Chết rồi đi đâu? Đây là câu hỏi đưa đến một hướng đi cho cuộc đời. Tin vào sự sống đời sau chắc chắn con người sẽ có cách hành xử khác với những người vô thần từ chối sự sống thần linh.

Thử hỏi, nếu không có sự sống đời sau cuộc đời này sẽ ra sao? Có lẽ người ta sẽ thấy cuộc đời là một phi lý. Sinh ra trong cuộc đời. Vật lộn với cuộc sống. Tranh đấu để tồn tại. Sống ăn ngay ở lành. Làm việc lương thiện. Chết rồi hết! Quả là bất công, vì đang khi đó có biết bao người sống chìm đắm trong lạc thú, sống vô luân họ chết cũng là chấm hết, hóa ra cuộc đời họ quá sướng, trong khi kẻ ăn ngay ở lành lại thiệt thòi vì hy sinh vô ích. Thế nên, phải có đời sau để trả lại công bằng cho cuộc sống làm người hôm nay. Người Phật Giáo thì tin vào kiếp luân hồi. Người Công Giáo thì có Cánh Chung. Chung quy đều là câu trả lời cho lý do phải sống ăn ngay ở lành trong cuộc sống làm người hôm nay.

Quả thực, nếu cuộc đời  là bể khổ và chết là hết thì thật là một tai họa cho kiếp người chúng ta, đúng như một ai đó đã ngao ngán bảo rằng:

“Cây xanh thiếu lá nó xanh xanh

Biết mình thế này thà đừng sinh ra”

Vâng, nếu cuộc đời này thiếu hạnh phúc như cây xanh thiếu lá thì niềm tin cho chúng ta sự hy vọng vào một thế giới ngày mai sẽ không còn đau khổ, và không còn sự chết. Con người sinh ra không phải để chết mà là để sống. Cái chết chỉ là sự chuyển đổi một cách sống khác hoàn hảo hơn cuộc sống hôm nay.

Mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ đã nghiên cứu đến hiện tượng gọi là “kinh nghiệm cận tử” (near death experience) : nhiều người vì một tai nạn hay một lý do nào đó đã ngất đi trong một thời gian khá dài. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết. Nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1370 người ấy. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm mà ai cũng nhất trí, như sau :

– Cuộc sống ở  “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.

– Sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không ai ham muốn kiếm tiền bạc danh vọng lạc thú gì nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người (Tóm bài của Willie Hoffsuemmer).

Cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giê-su chính là câu trả lời cho cuộc sống chúng ta. Ngài đã chết và sống lại. Sự sống Phục sinh của Ngài hoàn toàn khác lạ với cuộc sống nhân trần. Mặc dù Ngài vẫn mang thân xác con người nhưng các môn đệ đã không nhận ra Người. Sự sống Phục sinh luôn thanh thoát nhẹ nhàng. Ngài đến và đi. Ngài hiện diện chỗ này. Ngài hiện diện chỗ khác. Không gian và thời gian như dừng lại với cuộc sống Phục sinh. Ngài nói rằng Ngài về Nhà Cha. Về nơi hạnh phúc trường sinh. Nơi đó Ngài cũng dọn chỗ cho tất cả những ai tin vào Người.

Lời Chúa hôm nay cũng khẳng định cho chúng ta thấy có sự sống đời sau. Sự sống đời sau thì tròn đầy, viên mãn. Con người không còn phải lo dựng vợ gả chồng để lưu truyền nòi giống. Con người sống bất tử như các thiên thần. Vì Đấng Tạo dựng con người đã mạc khải chính mình là Thiên Chúa kẻ sống chứ không phải kẻ chết. Ngài tạo dựng chúng ta để được sống trường sinh như Ngài.

Nhưng để có một sự sống đời sau cũng đòi hỏi con người hôm nay biết sống tròn trách nhiệm làm người của mình. Chúa Giê-su luôn hoàn thành bổn phận Chúa Cha. Ngài đã tìm ý Chúa Cha để thực hiện. Ngài luôn xin vâng theo thánh ý Chúa Cha. Đây cũng là con đường tiến vào sự phục sinh vinh quang với Chúa nếu chúng ta biết đi theo con đường của Chúa. Con đường của hy sinh, từ bỏ những đam mê tội lỗi. Con đường của vâng phục theo thánh ý Chúa Cha, cho dẫu đường đời có lắm gian nguy. Con đường hẹp nhưng mang lại cho chúng ta sự sống đời đời.

Ước gì niềm tin vào sự phục sinh mai sau sẽ giúp chúng ta biết sống một cuộc đời đầy ý nghĩa hơn. Một cuộc đời sống tôn thờ Thiên Chúa và phục vụ đồng loại. Một cuộc đời lương thiện và vi tha. Xin đừng vì những quyến luyến của danh lợi thú khiến chúng ta đánh mất sự sống trường sinh. Amen

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Sức Mạnh Của Mẹ Thiên Nhiên

Sức Mạnh Của Mẹ Thiên Nhiên

Thiên nhiên hiền hòa, tươi đẹp, ban  cho con người bao nguồn vui và cảm hứng , nhưng cũng có thể gây nhiều tai ương, đau khổ, mất mát…, nhất là khi con người làm mất đi sự cân bằng sinh thái, không bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và khai thác quá mức….

Con người phải thận trọng vì mọi thứ do con người tạo dựng có thể bị  hủy diệt bởi Mẹ thiên nhiên ( People need to be cautious because anything built by man can be destroyed by Mother Nature) Russel Honore.

Nguyện cầu cho siêu bão dữ Haiyan sẽ chệch hướng và suy giảm để gây ít thiệt hại cho người dân vùng bão quê hương chúng ta.

Mời các bạn xem clip  THE POWER OF MOTHER NATURE.  Clip You Tube này đã có trên 2.400.000 lượt xem

httpv://www.youtube.com/watch?v=RWgg5-kUSho

CHA ĐẺ CỦA DỐI TRÁ

CHA ĐẺ CỦA DỐI TRÁ

Tác giả: Xuân Thái

Ngay từ thời Cựu ước, ma quỷ được mô tả là rất quỷ quyệt và luôn là kẻ lừa dối. Chúa Giêsu đã gọi nó là kẻ nói dối và là cha của kẻ nói dối. Nó dẫn dụ và mê hoặc người ta tin vào những điều dối trá và chống lại Thượng Đế.

Một trong những điều dối trá mà ma quỷ đưa đến cho con người là dối trá về Thượng Đế. Nó tạo ra sự nghi ngờ về các ý định tốt lành của Thượng Đế dành cho con người.

Điều dối trá thứ hai là về ý chỉ thánh thiện của Thượng Đế. Thiên Chúa đã ban luật lệ vì lợi ích và bảo vệ con người, nhưng ma quỷ dối trá xuyên tạc rằng các lệ luật ấy chỉ làm hại và biến con người thành nô lệ.

Điều dối trá thứ ba là dối trá về hậu quả của tội và bất tuân lệnh Chúa. Ma quỷ dối trá bảo rằng vi phạm luật Chúa sẽ không chết đâu, nhưng mắt sẽ mở ra, sẽ khôn ngoan như Thượng Đế vậy.

Cho đến nay, Satan vẫn luôn dùng sự dối trá của nó để chi phối và thao túng con người hiện đại, nhưng với các thủ đoạn và bằng nhiều hình thức khác nhau. Vì thế, sau nhà trường và xã hội, gia đình vẫn mãi mãi phải là nơi đầu tiên giúp định hình nhân cách, một nhân cách không thể thiếu sự ngay thẳng và lòng chính trực của một con người. Sự giáo dục phải được đặc biệt quan tâm và từng bước thực hiện ngay từ khi còn thơ bé.

Từ một lần Đức Phật dạy con khi còn niên thiếu…

Theo lịch sử, Thái tử Tất Đạt Đa – sau này chính là đức Phật, trước khi xuất gia đã có một người con trai duy nhất là Lahula (La Hầu La).  Song, ít ai biết rằng sau khi đạt giác ngộ, đức Phật đã trở thành người thầy rất quan trọng dạy dỗ cho con trai mình trong hầu hết quãng đời niên thiếu.

Kể từ khi La Hầu La lên bảy tuổi, Ngài đã là một người cha rất mực mô phạm, nhờ vậy, La Hầu La đã đạt được giác ngộ viên mãn khi mới tròn 20 tuổi.

Kinh điển không đề cập nhiều đến mối quan hệ cha-con giữa đức Phật và La Hầu La, nhưng đó đây đã để lại những dấu chỉ thú vị đáng lưu ý về việc đức Phật đã dẫn dắt con mình như thế nào trên con đường trưởng thành.

Đó là một tiến trình liên tục của con đường dẫn tới giác ngộ: lúc La Hầu La bảy tuổi, đức Phật dạy cho con về đạo đức; lúc La Hầu La 10 tuổi, đức Phật dạy cho con Thiền; và lúc 20 tuổi, Ngài dạy về tuệ giác giải thoát. Quá trình trưởng thành của La Hầu La, vì vậy, đi đôi và song hành với tiến trình giác ngộ của Đức Phật.

ĐẠO ĐỨC

Câu chuyện đầu tiên kể về La Hầu La được Đức Phật dạy về lòng chính trực (integrity) như thế nào. Lúc lên tám tuổi, có lần La Hầu La đã nói dối. Bài Kinh Trung Bộ Kinh, 61,  kể chi tiết rằng một lần sau khi tọa thiền xong, Đức Phật đến tìm con. La Hầu La lấy ghế mời cha ngồi, rồi mang đến một thau nước cho cha rửa chân theo như phong tục thời ấy. Sau khi rửa chân xong, Đức Phật hỏi:

“Này, La Hầu La, con có thấy chút nước còn lại trong cái thau này không?”

“Dạ, con có thấy” – La Hầu La thưa.

“Đời của một người tu cũng chỉ đáng bằng một chút nước này thôi, nếu như người đó cố tình nói dối.”

Sau đó, Đức Phật đổ hết nước trong thau ra và nói:

“Đời của một người tu cũng chỉ đáng vất bỏ đi như vầy, nếu như người đó cố tình nói dối.”

Xong, Đức Phật lật cái thau úp xuống và nói:

“Đời của một người tu sẽ trở nên đảo lộn như vầy, nếu như người đó cố tình nói dối.”

Và, để nhấn mạnh thêm nữa, Đức Phật lật ngửa cái thau trở lại và nói:

“Đời của một người tu cũng trở nên trống rỗng như cái thau này, nếu như người đó cố tình nói dối.”

Sau đó Ngài dạy con:

“Đối với một người cố tình nói dối, không có một tội lỗi xấu xa nào mà người đó không thể làm. Vì vậy, La Hầu La, con hãy tập đừng bao giờ nói dối, cho dù đó là một lời nói đùa.”

Câu chuyện trên đã nhắc nhở rằng những lời la mắng giận dữ với con cái thực ra chỉ có sức mạnh mà không có nội lực. Đức Phật đã rất bình tĩnh, chọn đúng thời điểm để dạy con mà không trừng phạt hay nổi giận với con.

…đến trình thuật về hậu quả của lời nói dối trong Thánh Kinh…

Thánh Kinh đã ghi lại những dòng thật đẹp về đời sống của cộng đoàn tín hữu đầu tiên, họ chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, hiệp thông với nhau, không ai coi tài sản mình là của riêng, nhưng để mọi sự làm của chung trong tinh thần hiệp nhất. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Tuy nhiên, Sách Công vụ Tông đồ ( 5, 1-11) đã thuật lại một trường hợp cá biệt về việc bán đất đai hết sức ấn tượng như sau:

“…Có một người tên Khanania cùng với vợ là Xaphira bán một thửa đất. Ông đồng ý giữ lại một phần tiền, rồi đem phần còn lại đặt dưới chân các Tông đồ. Ông Phêrô mới nói: Anh Khanania, sao anh lại để Satan xâm chiếm lòng anh, khiến anh lừa dối Thánh thần, mà giữ lại một phần giá thửa đất? Khi đất còn đó thì nó chẳng là của anh sao? Bán đi rồi thì anh chẳng có quyền sử dụng tiền bán đó hay sao? Sao anh lại rắp tâm làm chuyện ấy? Anh đã chẳng lừa dối người phàm, mà là lừa dối Thiên Chúa. Nghe những lời ấy, Khanania ngã xuống đất, tắt thở. Các thanh niên đến liệm xác và đem đi chôn.

Khoảng 3 giờ sau, vợ ông đi vào mà không hay biết chuyện đã xảy ra. Ông Phê rô lên tiếng hỏi: “Chị cho tôi hay, anh chị bán thửa đất được bấy nhiêu, phải không? Chị ta đáp, vâng, được bấy nhiêu thôi. Ông Phêrô liền nói, Sao anh chị lại đồng lòng với nhau để thử thách Thần Khí Chúa, kìa, những người đã chôn cất chồng chị còn đứng ở ngoài cửa, họ sắp khiêng cả chị đi nữa đấy. Lập tức, bà ta ngã xuống dưới chân ông Phêrô và tắt thở”

Nếu chỉ đọc thoáng qua trình thuật trên, dễ có cảm tưởng, sao ông Phêrô lại ác độc quá vậy?. Chỉ vì bớt lại một phần tiền (của chính mình) mà cả hai vợ chồng bị chết tươi bởi quyền năng từ ông Phêrô, có thể vị này đã lạm dụng quyền lực để hại chết người chăng, sao mạng người có thể bị xem nhẹ đến thế?

Thực ra, bản chất tội của họ không phải vì cất dấu một phần tiền bạc, nhưng chính vì vợ chồng họ đã nói dối cộng đoàn và lừa dối Thánh Thần. Hành vi của họ làm cho đời sống cộng đoàn xấu đi. Họ xứng đáng bị trừng phạt để nêu gương cho người khác khi nói dối.

Thiên Chúa rất dứt khoát quyết liệt và luôn không khoan nhượng với ma quỷ, vì thế, những hình phạt là bệnh tật, khổ đau và chết chóc trên trái đất phát khởi từ một lời nói dối chỉ là những hậu quả tất yếu.

Điều này làm chúng ta nhớ Ma quỷ đã nói dối với người nữ đầu tiên là Ê-va. Hắn bảo rằng bà sẽ không chết nếu cãi lời Ðức Chúa Trời và ăn trái cây mà Ngài bảo bà không được ăn. Ê-va đã tin Ma-quỉ và ăn trái cây. Bà cũng đưa cho A-đam ăn nữa. Bởi vậy con người đã trở thành những kẻ phạm tội, cùng với tất cả con cháu đều mang tội tổ tông. Vì có tội, nên tất cả con cháu của A-đam đều đau khổ đủ đường và cuối cùng, phải chết. Những vấn đề này bắt đầu từ đâu ? Thưa, bắt đầu từ một lời nói dối.

Im lặng cũng là một cách nói

Cùng với tâm thức nhị nguyên trong nhận thức và khái niệm về các mặt đời sống của thiện/ác, sai/đúng, phải/trái…sẽ không sợ sai lầm khi cho rằng, ngay từ khi có tiếng nói con người đã biết nói dối. Và, khi bắt đầu có chữ viết, văn tự, thì sự nói dối ngày càng có những bước tiến vượt bậc cùng với sức mạnh kinh hoàng ghê gớm khó thể hình dung, đến mức con người đã hoặc đang bị tẩy não mà không tự nhận ra.

Thật vậy, tẩy não là sự tái giáo dục cưỡng bức các niềm tin và giá trị truyền thống. Hàng ngày, qua báo, đài, tờ rơi và rất nhiều phương tiện truyền thông khác, từng phút rồi từng giờ, ta phải nhận biết bao thông tin không chính xác (nói dối) trong mọi mặt đời sống, từ đó, nhận thức của ta thay đổi lúc nào chính ta cũng không nhận ra qua tràn lan quảng cáo, cùng vô vàn những thông tin vốn đã được định hướng chỉ với mục đích tuyên truyền.

Tẩy não thì ở đâu cũng có, nơi nào cởi mở thì chuyện tẩy não sẽ kín đáo, tế nhị và nhẹ nhàng, thể hiện giới hạn qua những quảng cáo thương mại và các sản phẩm tiêu dùng, khác hơn với những nơi khép kín luôn tàn bạo, trắng trợn kèm theo bạo hành dưới đủ dạng bạo lực và tràn lan mọi mặt đời sống.

Tiến sỹ Paul Joseph Göbbels (1897–1945) Bộ trưởng Bộ Thông tin Quần chúng và Tuyên truyền của Đức Quốc xã, đã truyền lại một công thức để đời : SỰ THẬT là những DỐI TRÁ ĐƯỢC LẬP LẠI NHIỀU LẦN. Kinh nghiệm xương máu ấy đã được vận dụng với rất nhiều sáng tạo, nên không gây nhiều ngạc nhiên khi thế giới được chứng kiến, cảnh đông đảo dân chúng Bắc Triều tiên đã khóc lóc thảm thiết khi lãnh tụ của họ từ trần, trong xứ sở đói nghèo và khép kín nhất thế giới ấy. Họ đã lên đồng, bao nhiêu người khác ở nhiều nơi thế giới đã lên đồng tập thể từ những dối trá.

Chẳng ai muốn nói dối, nhưng người ta vẫn thường nói dối vì nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân lớn nhất vẫn là SỢ HÃI. Sợ mất quyền lợi, sợ trách nhiệm, sợ phải đương đầu… cùng vô vàn nỗi sợ có tên và không tên khác.

Mấy ngày nay dư luận cả nước đang ồn ào dậy sóng vì vụ Bác sỹ Cát Tường làm chết người rồi quăng xác xuống sông, vụ xương động vật thay vì hài cốt liệt sỹ cùng với oan án 10 năm Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang. Những thảm kịch ấy mỗi vụ đều khác nhau về tính chất, mức độ, thời điểm v.v…nhưng tựu trung, xét cho cùng, tất cả đều khởi từ những lời nói dối. Sự dối trá đang bao phủ và trùm lên tất cả trong thảm cảnh « Đêm giữa ban ngày ». Giữa ban ngày mà bóng đen đêm tối đang ngự trị khi cha đẻ của dối trá vẫn còn phủ trùm luôn mãi.

Chẳng ai muốn nói dối, nhưng ngay cả khi thinh lặng thì sự thinh lặng ấy vẫn luôn mang nhiều ý nghĩa khi đối chiếu với lời hằng sống : « Ta là Đường và là Sự Thật » để tự trả lời cho lòng mình rằng, ĐƯỜNG ấy sẽ đưa ta đến đâu ? SỰ THẬT ẤY đang là sự thật nào, bên này hay bên kia dãy Phyrené ?.

Tự nguyện

Xem như thế, ai cũng biết hậu quả kinh hoàng của nói dối, nhưng oái oăm và đáng sợ biết bao nhiêu, nói dối lại là điều rất dễ vướng, đôi khi rất khó nhận ra.

Nói dối là nói không thật, nói thiếu chính xác, là chém gió,  là nổ văng miểng.

Theo công trình nghiên cứu Feldman, 60% các đối tượng được nghiên cứu đã nói dối ít nhất 1 lần trong một cuộc trò chuyện ngắn, và cũng trong khoảng thời gian đó, họ đã nói khoảng 2,92 điều sai. Đối tượng được nghiên cứu gồm đủ loại tuổi và nhiều thành phần và đều cho kết quả, lời nói dối dễ xuất hiện trong lần gặp gỡ đầu tiên.

Lạy Chúa !

Nếu kết quả nghiên cứu trên là khả tín và nếu ma quỷ là cha đẻ của dối trá, thì chưa cần cám dỗ, khi này, nơi khác, đôi lần con đã tự nguyện đứng chung hàng ngũ với nó rồi Chúa ơi.

Xin giúp con tỉnh thức và điều chỉnh mình, để luôn nhớ Kim chỉ Nam trong ứng xử mà Chúa đã ban cho con lâu nay :

« Có thì phải nói có, không thì phải nói không.

Thêm thắt điều gì là do ác quỷ (Mt 5, 37) ».

Amen.

Xuân Thái.

BÍ QUYẾT CHO CUỘC SỐNG VUI VẺ

BÍ QUYẾT CHO CUỘC SỐNG VUI VẺ

Làm thế nào để chúng ta thoát khỏi sự căng thẳng và cảm xúc tiêu cực để thực sự bắt đầu một cuộc sống mạnh khoẻ và hạnh phúc? Hãy tuân thủ những mẹo nhỏ và quy tắc đơn giản sau xem sao:

1. Đi bộ từ 10 đến 30 phút hàng ngày.

2. Ngồi yên trong ít nhất 10 phút mỗi ngày.

3. Ngủ đủ 7-8 tiếng mỗi ngày.

4. Nguyên tắc sống với: hoạt động tích cực, hăng hái nhiệt tình và sự đồng cảm.

5. Chơi thể thao nhiều hơn nữa.

6. Đọc nhiều sách hơn bạn đã làm trong tháng trước.

7. Thực hành phương pháp ngồi thiền, tập Yoga và cầu nguyện.

8. Dành thời gian cho ông bà bố mẹ những người trên 70 tuổi và dướii 6 tuổi.

9. Quên các vấn đề của quá khứ đi. Đừng nhắc đi nhắc lại lỗi lầm của bạn đời trong quá khứ.

10. Không suy nghĩ đến những vấn đề tiêu cực hoặc những thứ bạn không nên kiểm soát. Thay vào đó hãy đầu tư sức lực vào những vấn đề tích cực hiện tại.

11. Buổi sáng ăn cho mình, buổi trưa ăn cho bạn, buổi tối ăn cho kẻ thù. Chính vì vậy bữa sáng là quan trọng nhất.

12. Mỉm cười và cười nhiều hơn nữa.

13. Cuộc sống quá dài để bạn lãng phí thời gian ghét một ai.vì vậy hãi loại bỏ cảm giác đau khổ và ghen ghét đi nhé!

14. Đừng quá nghiêm khắc với bản thân. Không ai hoàn hảo cả đâu!

15. Bạn không cần phải thắng cuộc trong tất cả các cuộc tranh luận đâu. Hoà thuận là hơn cả.

16. Đừng so sánh cuộc sống của bạn với người khác. Và cũng đừng so sánh người bạn đời của mình với người khác bạn nhé.

17. Không ai nắm giữ hạnh phúc của bạn ngoài bạn cả.

18. Tha thứ cho mọi người về tất cả mọi thứ.

19. Công việc của bạn sẽ không chăm sóc được bạn khi ốm đâu, mà chỉ có người thân và bạn bè. Vậy nên hãy giữ liên lạc thường xuyên với họ.

20. Loại bỏ tất cả những gì không có ích. Hãy vui tươi hơn.

21. Ghen tị là một việc làm lãng phí thời gian. Bạn đã có được những gì bạn cần hoặc sẽ có những gì bạn thực sự muốn.

22. Gọi điện thoại cho gia đình thường xuyên.

23. Mỗi ngày làm một việc tốt cho người khác.

24. Đừng làm quá sức, hãy giữ giới hạn cho riêng mình.

25. Khi bạn thức dậy vào mỗi buổi sáng nên cám ơn Trời và cám ơn người.

Chúc các bạn luôn luôn vui vẻ và thành công trong cuộc sống !

S.T.

‘Người Việt không xếp hàng vì đã mất niềm tin vào sự công bằng’

Người Việt không xếp hàng vì đã mất niềm tin vào sự công bằng’

VnExpress.net – Thứ bảy, ngày 02 tháng mười một năm 2013

Ra nước ngoài, người Việt vẫn xếp hàng rất lịch sự, nhưng về nước họ sợ những người ‘đi đêm’, tham nhũng, ‘con ông cháu cha’, các loại ‘cò’ quen biết… giành mất phần của mình.

Người Nhật xếp hàng trong các điểm dịch vụ công cộng là điều cả thế giới nhìn nhận là một nét văn hóa đặc biệt không phải đâu cũng có. Nhất là sau vụ thảm họa kép năm ngoái, toàn thế giới không chỉ được nghe đồn đại, hay đọc đâu đó mà được chứng kiến thực tế và mọi dân tộc khác đều phải ghen tị với việc xếp hàng này.

Trong cuộc sống hàng ngày, tại các bến xe lửa, trước cửa toa tàu là hai hàng người đứng hai bên cho người trên tàu xuống và lần lượt lên. Nếu không hết, người còn lại kiên nhẫn chờ chuyến tới và họ không chen lấn hay phàn nàn điều gì.

So với người Nhật, tại sao chúng ta ít xếp hàng? Hay nói cách khác, người Việt chúng ta có xếp hàng không? Và có được như người Nhật không?

Tôi sinh ra khi chiến tranh gần kết thúc và lớn lên trong giai đoạn bao cấp, giao thời mở cửa rồi đến kinh tế thị trường hiện nay. Tôi còn nhớ câu chuyện vui về xếp hàng phát chẩn (cho tiền, gạo những người bị tai nạn) thời xưa: “Số tôi thật không may, hôm trước đi nhận phát chẩn đứng cuối hàng nên khi đến lượt thì hết. Hôm qua đi sớm, họ lại phát từ cuối hàng lên và đến nơi cũng hết. Hôm nay, tôi cố gắng đứng giữa hàng, khổ nổi, họ phát từ hai đầu lại và… cũng hết khi đến lượt tôi”.

Trong thời bao cấp, dù muốn hay không mọi người đều phải xếp hàng, tuy nhiên việc xếp hàng dần dần có tiêu cực trong đó, có sự xí chỗ, có sự bán chỗ đã “xếp gạch” và điển hình hơn những người nhà, thân quen sếp sẽ có được các cách lấy hàng mà không phải xếp hàng.

Thời gian đó, ở các bến tàu, bến xe, việc có được một vé đi xe khách trước đây rất vất vả, phải xếp hàng từ rất sớm trước khi xe chạy cả ngày. Nhưng người có mối quan hệ, quen biết sếp… sẽ bỗng nhiên chen ngang và lấy hết suất vé, đành quay về chờ chuyến khác và mọi người đều phải sống chung với chuyện đó.

Việc này tồn tại đến tận bây giờ. Các loại vé xe, vé tàu, vé thể thao, vé sự kiện nghệ thuật… đều có sự chen ngang. Hay gần đây, chúng ta biết nhiều việc xếp hàng xin cho con đi học từ mẫu giáo, cấp một mà báo chí nhiều lần thông tin. Trong làm ăn kinh tế, nếu xếp hàng chờ đến lượt để có dự án, chắc mọi người sẽ phì cười vì phi thực tế hiện nay.

Tôi không ví dụ thêm nữa, chắc các bạn cũng hiểu trước nay, xưa kia và hiện tại thì người Việt Nam đều xếp hàng, chen ngang và mất chỗ diễn ra khắp nơi, mọi lĩnh vực, mọi hình thái, trong cả giáo dục, nghiên cứu khoa học đến nông dân bán hàng hóa…

Hàng nghìn người chen lấn, xô đẩy để giành ăn sushi miễn phí tại Hà Nội. Ảnh: Jenny

Vậy nó nói lên điều gì? Đó là lòng tin của việc xếp hàng. Tôi dẫn chứng không đi quá xa về quá khứ, nhưng có thể nói: trong mỗi con người Việt Nam, lòng tin đạt được từ xếp hàng quá thấp, không ít thì nhiều, nhiều người có kinh nghiệm trả giá từ xếp hàng, bị chen ngang. Chính điều này khiến họ phải chủ động tranh chỗ, chen lấn nhau trong xếp hàng?

Trong cơ quan, thay vì xếp hàng chờ đến lượt, nhiều người đã chủ động “chạy” trước để xen ngang, tác động quan hệ để đạt được cái mình mong muốn, từ tâm lý này, tạo niềm tin vào xếp hàng đi xuống.

Với người Nhật, họ tin tưởng, biết chắc chuyến tàu tiếp theo sẽ đến và họ sẽ lên được tàu. Tin tưởng chắc chắn phần họ mong đợi trong xếp hàng sẽ đến và họ yên tâm xếp hàng, mọi người đều đồng thuận trong văn hóa này.

Người Việt Nam khi ra nước ngoài, hầu hết cũng xếp hàng và theo trật tự của nước sở tại, nghĩa là họ cũng tin cậy và kiên nhẫn với hàng mình đợi. Người nước ngoài đến Việt Nam, cũng có nhiều người lái xe máy phóng vèo vèo, vượt đèn đỏ, xếp hàng cũng chen lấn, tại họ ư? Chắc chắn khó mà lý giải được!

Như vậy, không phải ý thức của người dân Việt Nam chúng ta kém, không phải chúng ta không muốn xếp hàng, hay người Việt Nam chúng ta không kiên nhẫn. Chúng ta có thể thấy từ các hệ quả của xen ngang trong hàng đợi trong cuộc sống, từ các nhà quản lý “con ông cháu cha”… đã dẫn đến mất lòng tin để phải xếp hàng.

Một Lời Xin Lỗi

Một Lời Xin Lỗi

Tưởng Năng Tiến


Trong hơn nửa thế kỷ qua, có lẽ, đây là lần đầu tiên công luận mới được biết đến một điểm son (hiếm hoi) trong hệ thống lao tù ở Việt Nam – theo như tường thuật của phóng viên Trọng Thịnh, trên Tiền Phong Online:

Ngày 28/6, tại Trại giam Xuân Lộc (tỉnh Đồng Nai), Tổng cục Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp (Tổng cục VIII) sơ kết đợt phát động phạm nhân viết thư với chủ đề “Gửi lời xin lỗi”. Sau hơn nửa năm, đã có gần 600 bức thư…

Ông Nguyễn Văn Quý (Xã Phú An, Nhơn Trạnh, Đồng Nai), cha của nạn nhân Nguyễn Văn Lợi đã rất ngạc nhiên khi nhận được lá thư xin lỗi của phạm nhân Từ Khánh Thiện – người đang thụ án về tội giết con ông…


Bà Nguyễn Kim Oanh (Hố Nai, Trảng Bom, Đồng Nai), mẹ của nạn nhân Lê Văn Vũ thì không tin rằng kẻ trong băng nhóm giết con mình là Nguyễn Minh Quang lại gửi thư cho bà. Dù còn nguyên đó nỗi đau mất con nhưng dòng chữ chân thành của kẻ giết người đã khiến bà cảm động: “Hôm nay con muốn viết lên hai từ xin lỗi dù đã quá muộn màng và con biết rằng không thể nào làm cho bác quên hết buồn đau của những chuyện đã qua”.

Bà Oanh kể: “Tôi đã suy nghĩ nhiều lắm. Tội của thằng Quang thì pháp luật đã xử nó, mình giữ lại thù oán cũng chẳng được gì. Tuổi của nó còn trẻ, còn tương lai ở phía trước. Vì thế tôi muốn đích thân lên trại để nói tôi tha thứ cho cháu”.

Nguyen Minh Quang

Phạm nhân Nguyễn Minh Quang và bà Nguyễn Kim Oanh.
Ảnh:
Trọng Thịnh

Cũng trên Tiền Phong Online, vào ngày 21 tháng 10 năm 2013 vừa qua, lại có thêm một bài báo nữa (Trào Lưu Tự Thú Về Cách Mạng Văn Hoá Ở Trung Quốc) cũng cảm động không kém – do  ký giả Sơn Duân lược dịch:

Với tư cách Chủ tịch Hội Cựu học sinh giai đoạn 1966 -1968 tại Trường trung học Bắc Kinh số 8, Trần Tiểu Lỗ (67 tuổi) đứng dậy, cúi đầu và đại diện cho các học sinh nói lời xin lỗi vì làm nhục và đánh đập thầy cô giáo trong thời Cách mạng Văn hóa. Các cựu học sinh khác cũng làm theo Trần. Những lời nói hối hận hòa lẫn với ngôn từ an ủi và nước mắt tuôn tràn trên các khuôn mặt. Theo tờ China Daily, trước khi tổ chức cuộc gặp, Trần đã đăng tải lời xin lỗi trên trang blog của nhóm cựu học sinh vì “trách nhiệm trực tiếp trong việc lên án và đưa nhiều người đến trại cải tạo”. Theo ông Trần, lời xin lỗi tận đáy lòng của ông với các thầy cô và bạn cũ “dù muộn nhưng cần thiết”.

Cuối bài viết này, sau khi đăng lại trên trang Đàn Chim Việt, có vị độc giả đã gửi đến phản hồi như sau:

Tudo.com says: Vậy khi nào CS VN sám hối về Cải Cách Ruộng Đất, Nhân Văn Giai Phẩm miền Bắc ?

Câu hỏi (khá) bất ngờ này khiến tôi chợt nhớ đến một đoạn văn của blogger Cu Làng Cát:

Gia đình tôi, bị quy địa chủ trong những năm tháng cải cách ruộng đất. Đó là điều vô lý, thật là vô lý. Đến bây giờ bố tôi và tôi vẫn không hiểu vì sao một gia đình nghèo đói như thế này, bỏ tất cả theo kháng chiến, không một mảnh đất cắm dùi thời kỳ đó mà vẫn bị quy là địa chủ… Bố tôi kể, đợt cải cách ruộng đất oan sai nhiều lắm.

Người oan toàn người giỏi, người tài và rất nhiều Đảng viên bị giết… Tôi đã nhiều lần ngồi nhậu với nhà thơ Ngô Minh, ông cũng mang trong mình nổi đau của oan sai cải cách ruộng đất. Khi rượu vào mềm môi, tôi hỏi: “Chuyện gia đình chú bị quy sai địa chủ chú có đau không?”. Ông cười nhưng từng thớ thịt trên mặt giật liên tục, như đang cố nuốt một nổi đau mà chỉ có người trong cuộc mới hiểu nổi…”

Nỗi đau này (chắc chắn) sẽ giảm bớt ít nhiều – nếu trong lần nhậu tới, vào lúc rượu vừa mềm môi thì bưu tá viên xuất hiện và đưa cho nhà thơ Ngô Minh một bức thư gửi từ Văn Phòng Thủ Tướng Chính Phủ của nước CHXHCNV, với nội dung (đại khái) như sau:

Ngày … tháng… năm …

Kính gửi ….ông/bà…

Thay mặt Chính Phủ của nước CHXHCNV, chúng tôi xin trân trọng gửi đến ông/bà lời xin lỗi chân thành nhất về những mất mát, thiệt hại cũng như đau buồn đã xẩy ra cho gia đình và thân quyến do nhiều sai lầm (vô cùng đáng tiếc, và đáng trách) đã khiến cho cụ ông Ngô Văn Thắng bị oan mạng trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất – vào năm 1956. Chúng tôi kính mong được ông/bà bao dung chấp nhận lời xin lỗi muộn màng này

Ký tên Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng

Thử tưởng tượng xem hai vị nhà thơ và nhà báo của chúng ta sẽ ngạc nhiên cỡ nào khi đọc những dòng chữ ngắn ngủi và giản dị trên? Bữa đó, hai chả – không chừng – dám uống tới sáng luôn vì xúc động!

Hãy tưởng tượng tiếp: có chiều, khi ngày đã đi dần vào tối, một bưu tá viên (khác) sùm sụp áo mưa len lách vào đến căn nhà số 24 ngõ 267 2/16 Dường Hoàng Hoa Thám, phường Liễu Giai, quận Ba Đình, Hà Nội để giao cho bà Ngô Thị Kim Thoa một bức thư khác – cũng gửi từ Văn Phòng Thủ Tướng Chính Phủ:

Ngày … tháng… năm …

Kính gửi …

Thay mặt Chính Phủ của NCHXHCNV, chúng tôi xin trân trọng gửi đến bà lời xin lỗi chân thành nhất về những mất mát, thiệt hại cũng như đau buồn đã xẩy ra cho gia đình và thân quyến do nhiều sai lầm, vô cùng đáng tiếc, đã khiến ông nhà (thi sĩ Phùng Cung) vô cớ bị bắt đi biệt tích và giam giữ rất nhiều năm – sau vụ án Nhân Văn Giai Phẩm – vào đầu thập niên 1950. Chúng tôi kính mong được bà bao dung chấp nhận lời xin lỗi muộn màng này…

Ký tên Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng

Cũng vào buổi chiều mưa này, một bức thư khác nữa – với nội dung gần tương tự –  đã được gửi đến bà Lê Hồng Ngọc ở ngõ số 26 Lý Thường Kiệt, quận Hoàn Kiếm, Hà Nộị… Đêm hôm ấy ngọn đèn dầu trên bàn thờ của Phùng Cung và Hoàng Minh chính có thể sẽ được khêu sáng hơn một tí, chỉ tí xíu thôi nhưng chắc cũng đủ làm cho những gian nhà quạnh quẽ của các bà quả phụ (đang bước vào tuổi tám mươi) được đỡ phần lạnh lẽo.

me gia

Nguồn ảnh: haigt.dva.vn

Có những bức thư khó chuyển hơn vì người nhận sinh sống ở những nơi xa xôi, và hẻo lánh hơn nhiều:

Trên bản đồ quân sự cũng như bản đồ của nha Địa Dư không bao giờ có địa danh “Đèo Bá Thở”. Bởi vì đặt cái tên cho ngọn đèo này chính là tôi và một vài người bạn … Ngọn đồi nằm không xa trại giam chúng tôi trong tỉnh Yên Bái. Ngày ngày đội chúng tôi có mười anh em phải băng qua bên kia cái đèo khốn nạn này, tới một khu rừng toàn thị là tre, nứa, giang …

Mấy ngày đầu chúng tôi không chú ý tới cuối dốc bên kia có một cái nhà tranh đã sập. Người chủ căn nhà lấy vài thân tre to, chống cái mái lên, nên mái nhà chạm đất. Tất nhiên trong tình trạng đó nó không có cửa. Chúng tôi đã vài lần đi về ngang đó và tưởng nó đã bỏ hoang, bởi vì trông nó còn thua một cái chòi chăn vịt ở miền Nam.

Một hôm cả bọn chúng tôi thấy trời còn sớm, nên nghỉ lại bên kia dốc một lát trước khi “bá thở”. Chúng tôi nghe lục đục trong cái chòi bỏ hoang, và phát giác đuợc một cụ già thật già. Nét mặt bà cụ nhăn nheo hệt như những vết nẻ của ruộng bị hạn hán nhiều ngày. Bà già có một cặp mắt nâu đục, lờ đờ và đầy rỉ mắt. Bà già mặc một cái áo bông vá chằng vá đụp. Phải gọi đây là cái áo vá trên những miếng vá. Nó nặng dễ chừng đến năm ký chứ không chơi. Chúng tôi gạ chuyện, song tất nhiên bà già biết chúng tôi là tù ‘Ngụy’ nên không hé răng một nửa lời.”


“Hôm sau trong lúc đốn tre chúng tôi hội ý. Chúng tôi lấy dư ra mỗi ngày vài cây về dấu ở gần căn lều của bà cụ. Được vài ngày đủ tre để dựng lại căn lều, chúng tôi để hai người lại sửa còn tám người vào rừng đốn tre cho đủ số lượng của mười người. Chúng tôi cũng cắt tranh về để dậm lại những chỗ quá mục nát. Căn nhà sửa xong, có cửa để chui ra chui vào. Bà già khi đó tự động nói chuyện với tụi tôi:

Lão có ba đứa con, một đứa đã có giấy tử sĩ, hai đưa kia thì hoà bình lâu rồi, nhưng lão không hề nhận được một chữ của chúng từ ngày chúng đi… (Hoàng Khởi Phong. “Bên Kia Đèo Bá Thở”. Cây Tùng Trước Bão. Thời Văn: Westminster, CA 2001).

Tôi hy vọng (mỏng manh) rằng có thể vẫn còn đủ thời gian để thêm một bức thư khác nữa, cũng  từ Văn Phòng Thủ Tướng Chính Phủ, đến kịp Bên Kia Đèo Bá Thở. Dù đây chỉ là một bức thư chung, gửi đến hàng vạn người, với chữ ký đã in sẵn chăng nữa – chắc chắn –  nó vẫn được người nhận trang trọng cất giữ mãi cho đến khi nhắm mắt.

–          Cứ thư từ linh tinh khắp nơi như thế (e) nhiêu khê, phiền phức, và tốn giấy mực quá không?

–          Dạ, không đâu. Tôi tin rằng số tiền hơn bốn trăm tỉ đồng (để xây Tượng Đài Mẹ Việt Nam Anh Hùng) không chỉ đủ để gửi thư xin lỗi mà còn có thể gửi thêm cả hài cốt (thật) của rất nhiều người lính đến (vô số) những bà mẹ đang thoi thóp – Bên Kia Đèo Bá Thở.

Còn với hàng trăm ngàn tỉ đã chi cho Vinashin thì (ôi thôi) cả nước –  từ Nam ra Bắc – chắc ai cũng có thể nhận được một lá thư xin lỗi về những chuyện đáng tiếc đã qua vì gia đình có người bị chôn sống trong hồi Tết Mậu Thân, có người bị vùi thây trong trại cải tạo, có người bị chìm nghỉm trong lòng đại dương, hay cả dòng họ tan nát và tứ tán vì những cuộc cải tạo công thương nghiệp…

Những bức thư xin lỗi kể trên, nếu được viết bằng thiện ý và lòng thành – chắc chắn – sẽ tạo dựng lại được ít nhiều niềm tin đã mất (từ lâu) trong lòng người, và làm mờ bớt (phần nào) nào cái nét bất nhân của chế độ hiện hành. Điều đáng tiếc là “thiện ý” cũng như “lòng thành” vốn không hề có trong thâm tâm của những người cộng sản cầm quyền ở Việt Nam, bất kể thế hệ nào.

Tưởng Năng Tiến

Mai tôi đi

Mai tôi đi

Mai tôi đi…chẳng có gì quan trọng,

Lẽ thường tình, như lá rụng công viên,

Như hoa rơi trước gió ở bên thềm,

Chuyện bé nhỏ giữa giòng đời động loạn…



Trên giường bệnh, Tử Thần về thấp thoáng,

Xin miễn bàn, thăm hỏi hoặc cầu an,

Khi xác thân thoi thóp trút hơi tàn,

Nằm hấp hối đợi chờ giờ vĩnh biệt.



Khoảnh khắc cuối.. Đâu còn gì tha thiết..

Những tháng ngày hàn nhiệt ở trần gian.

Dù giàu sang hay danh vọng đầy tràn,

Cũng buông bỏ trở về cùng cát bụi…



Sẽ dứt điểm đời phù du ngắn ngủi,

Để đi vào ranh giới của âm dương,

Không bàng hoàng trước ngưỡng cửa biên cương,

Bên trần tục, bên vô hình cõi lạ…



Ch ỉ ước nguyện tâm hồn luôn thư thả,

Với hành trang thanh nhẹ bước qua nhanh,

Quên đàng sau những níu kéo giựt dành,

Kết thúc cuộc lữ hành trên dương thế…



Mắt nhắm rồi… Xin đừng thương rơi lệ,

Đừng vòng hoa, phúng điếu hoặc phân ưu,

Đừng quay phim, chụp ảnh để dành lưu.

Gây phiền toái, nợ thêm người còn sống…



Ngoảnh nhìn lại, đời người như giấc mộng,

Đến trần truồng và đi vẫn tay không.

Bao trầm thăng, vui khổ đã chất chồng,

Nay rũ sạch…lên bờ, thuyền đến bến…



Nếu tưởng nhớ..Xin âm thầm cầu nguyện,

Nên xem như giải thoát một kiếp người,

Cứ bình tâm, thoải mái với vui tươi,

Kẻ đi trước, người sau rồi sẽ gặp…



Cầu Ơn Trên, xác hồn xin phó mặc,

Sống hiện tình, những giây phút binh yên,

Ngày qua ngày, kết lại chuổi an bình

Là nguyện vọng thời gian còn tại thế..

NQH 07/31/2013.


Giới chức Việt Nam bị cáo buộc dính líu tới buôn bán phụ nữ, trẻ em

Giới chức Việt Nam bị cáo buộc dính líu tới buôn bán phụ nữ, trẻ em

Các cô gái mại dâm người dân tộc thiểu số từ Việt Nam ngồi chờ khách trong khu 'đèn đỏ' nổi tiếng ở Phnom Penh.

Các cô gái mại dâm người dân tộc thiểu số từ Việt Nam ngồi chờ khách trong khu ‘đèn đỏ’ nổi tiếng ở Phnom Penh.

04.11.2013

Tỷ lệ thiếu nữ và trẻ em dân tộc thiểu số Hmong, Lào, và người Thượng Tây Nguyên bị các quan chức chính quyền và giới chức quân sự tham nhũng tại Việt Nam và Lào bắt cóc, cưỡng ép hôn nhân, và buộc hành nghề mãi dâm lên tới mức báo động, theo báo cáo của các tổ chức phi chính phủ vừa công bố.

Hội đồng Nhân quyền Lào LHRC và Trung Tâm Phân tích Chính sách Công CPPA ngày 2/11 phổ biến thông cáo bày tỏ quan ngại về vai trò gia tăng của giới chức chính phủ và quân đội dính líu tới tình trạng bắt cóc và sử dụng bạo lực buôn bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam, Lào, và Đông Nam Á.

Chủ tịch Hội đồng LHRC Vaughn Vang kêu gọi mở cuộc điều tra ngay lập tức với sự can thiệp của quốc tế nhằm giúp đỡ các nạn nhân sắc tộc vừa kể ở Lào và Việt Nam.

Ông Philip Smith thuộc trung tâm CPPA nói nạn buôn người nhắm trực tiếp vào trẻ em, phụ nữ sắc tộc đặc biệt nghiêm trọng tại các khu vực biên giới của Lào và Việt Nam, bao gồm tỉnh Nghệ An giáp ranh với tỉnh Xiang Khouang của Lào.

Vẫn theo lời ông Smith, nhiều nạn nhân phải chịu đựng cảnh hành hạ tàn nhẫn không thể tả bằng lời, bị cưỡng bức, bị bạo hành hoặc bị buôn bán ra quốc tế.

CPPA có trụ sở tại thủ đô Hoa Kỳ là một tổ chức phi lợi nhuận chuyên cung cấp các cuộc nghiên cứu tập trung về chính sách đối ngoại, nhân quyền cùng các vấn đề an ninh quốc gia cho giới hoạch định chính sách quốc gia, quốc tế, và công chúng.

Tòa đại sứ Việt Nam không hồi đáp thư của đài VOA yêu cầu bình luận về báo cáo của hai tổ chức phi chính phủ này.

Dù Việt Nam đã ban hành luật phòng chống buôn người, nhưng việc thực thi còn gây nhiều ngờ vực và tranh cãi.

Đây không phải là lần đầu tiên giới hoạt động nhân quyền quốc tế lên tiếng về tình trạng buôn người có sự tiếp tay của giới hữu trách Việt Nam.

Liên minh Bài trừ Nô lệ mới ở Châu Á CAMSA thời gian gần đây can thiệp cho nhiều vụ buôn người từ Việt Nam sang Nga.

Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, đồng sáng lập viên của CAMSA, cho VOA Việt ngữ biết trong rất nhiều nạn nhân bị rơi vào các xưởng bóc lột lao động hoặc các ổ mãi dâm ở Nga, chưa người nào nhận được sự bảo vệ từ chính phủ Việt Nam, mà ngược lại, còn có dấu hiệu cho thấy trong một số trường hợp có sự đồng lõa của các giới chức Việt Nam.

Nguồn: Business Wire, Centerforpublicpolicyanalysis.org, VOA’s Interview

NÀY LÀ DÒNG DÕI NHỮNG NGƯỜI TÌM CHÚA

NÀY LÀ DÒNG DÕI NHỮNG NGƯỜI TÌM CHÚA

Anmai, CSsR

Thánh vịnh 24 được chọn làm Thánh Vịnh đáp ca trong Thánh Lễ các Thánh Nam Nữ. Linh mục nhạc sĩ Phêrô Thành Tâm DCCT viết nhạc và lời của Thánh Vịnh này dựa trên ý của Thánh Vịnh thật hay :

Này là dòng dõi những người tìm Chúa,

đây là những người mong bệ kiến Ngài,

một đời lòng ngay không hề gian dối,

giữa bao hận thù luôn sống mến yêu

Chúa làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài

làm chủ địa cầu cùng toàn thể dân cư

còn nền trái trất Ngài dựng trên biển cả

và đặt vững vàng trên mặt nước bao la …

Dòng dõi những người tìm Chúa mà Thánh Vịnh mô tả sao mà hay quá ! Họ là những người cả cuộc đời đi tìm một mình Thiên Chúa là Chúa, là Cha, là Chủ cuộc đời của họ. Cha, Chúa, Chủ cuộc đời của họ là Tình Yêu và là Chân Lý. Nét đặc trưng hay nói đúng hơn là căn cốt của đời những người này là “một đời lòng ngay không hề gian dối, giữa bao hận thù luôn sống mến yêu”.

Người ta vẫn thường ví von thế gian là cái thế giới mà đầy sự gian dối. Nói như thế cũng có cái lý của họ bởi lẽ giữa cái thế gian này, hình như nhìn đâu đâu cũng thấy sự gian dối, sự gian tà. Gian dối, gian tà đó xuất phát tự ma quỷ.

Thuở ban đầu, lòng con người đẹp tinh tuyền tựa đóa hoa tươi thắm mà Thiên Chúa dệt nên nhưng rồi theo thời gian và với thời gian lòng con người thay đổi bởi ma quỷ và đã chống lại Thiên Chúa. Chính sự gian tà đã làm thay đổi lòng người. Và, từ ngày đó, từ ngày mà Ađam – Eva phạm tội thì tội lỗi đã đi vào trong thế gian, sự gian dối đã đi vào trong cõi đất này. Cũng từ ngày đó, bóng tối tìm cách che lấp ánh sáng và sự hận thù muốn tiêu diệt tình yêu.

Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của mình cho thế gian như thánh Tông Đồ Gioan cảm nghiệm. Tình Yêu Thiên Chúa đã đến thế gian, Thần Chân Lý của Thiên Chúa cũng đã đến trong thế gian để gửi vào thế gian luồng gió mới của tình yêu, của sự thật.

Những người mà cả đời canh cánh đi tìm Thiên Chúa không đi con đường nào khác của con đường chân lý và con đường tình yêu. Những người đó như những người lội ngược dòng của thế giới, của xã hội, của con người trống vắng tình yêu Thiên Chúa và Chân Lý.

Tưởng chừng bóng tối, sự gian ác đè bẹp được ánh sáng và chân lý nhưng vẫn còn đó những con người, những tấm lòng can đảm và kiên trung để sống giữa thế gian này. Số người này không chỉ dừng lại ở một người, một nhóm người như các môn đệ tiên khởi hay của một dân tộc nào đó mà lan rộng khắp toàn cõi đất này. Sách Khải Huyền đã mô tả đoàn người đông đảo đó ở chương 7, câu 9 : “Sau đó, tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế”

Đoàn người đông vô kể mà sách Khải Huyền nói đó chính là những người đi tìm Con Chiên, đã theo Con Chiên, đã giặt áo mình trong máu của Con Chiên. Đoàn người đông đảo không tài nào đếm nổi đó là các thánh nam nữ của Thiên Chúa. Trong đoàn người đó có thể có ông bà cha mẹ thân bằng quyến thuộc của chúng ta. Những người đó là những người hết sức bình thường nhưng đã sống cái bình thường đó gói gọn trong chân lý và tình yêu.

Nhìn lại một chút của cuộc đời các thánh, chúng ta thấy đậm nét của đoàn người đi tìm Chúa.

Một Stêphanô bị người ta ném đá nhưng đã ngước cao lên Trời và xin Chúa tha cho những người giết hại mình.

Một Maximilianô Kônbê đã can đảm chết thay cho người bạn tù của mình.

Một Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã yêu thương đến cùng trong hoàn cảnh cay nghiệt của người đời cách riêng qua những người sống chung với chị Thánh.

Một Têrêsa Calcutta đã bồng ẵm trên tay những con người nghèo, những con người bị đẩy ra ngoài lề của xã hội để chỉ mong cho họ chết với tư cách là người hơn mà thôi.

Và, một dòng dõi người đông đảo tử đạo trên mảnh đất hình chữ S thân thương này vẫn còn in dấu trong tâm thức của người dân Việt. Dòng người đông đảo này đã “hân hoan khi lao tù, mừng rỡ lúc gươm vung dù thịt tan xương nát” để minh chứng lòng tin và tình yêu của mình vào Thiên Chúa. Triều Thiên Vinh Hiển được gắn trên đầu những con người đã mến yêu trước đau khổ tột cùng của đòn roi, của gươm giáo, của máy chém, của thú dữ. Nếu như họ căm thù, họ oán hận chắc chắn họ sẽ không được triều thiên Tử Đạo mà Thiên Chúa ban cho họ.

Trong dòng người tử đạo đó, họ có khi là quan chức, có khi là thương gia nhưng cũng có khi họ là những người nông dân chân lấm tay bùn hay là những bà mẹ mỏng dòn và non yếu. Họ sống hết sức thường trong cuộc đời nhưng họ đã minh chứng sự thật, minh chứng tình yêu với Đấng mà họ tin theo. Họ là những người cũng mang trong mình cái phận người yếu đuối của mình nhưng khi minh chứng họ đã minh chứng bằng cả cuộc đời của họ, bằng chính thân xác của họ.

Cuộc đời vẫn là một cuộc giằng co giữa thiện và ác, dữ và lành, yêu và hận thù. Khi còn sống, còn thở ta luôn phải đấu tranh mãnh liệt giữa hai ranh giới đó. Không giản đơn để sống sự thật trước mặt nhan nhản những điều gian dối và cũng không đơn giản để sống yêu thương giữa một thế giới còn quá nhiều hận thù bất công.

Khi và chỉ khi sống chân thật và yêu thương như Thầy Chí Thánh thì mới được thừa hưởng gia nghiệp mà Thiên Chúa đã hứa ban. Thật khó để sống bởi lẽ khoảng cách giữa miệng đến tay tuy gần nhưng thật xa. Thật khó sống bởi lẽ khoảng cách giữa nói và làm là một khoảng cách coi chừng trở nên bất tận.

Chợt nhớ đến tâm tình của nhạc sĩ nào đó gởi đến trong tâm tình bài hát : Tình thương nhiệm mầu :

Xin cho con lòng mến thương để dù đời đắng cay trăm chiều,

cho con yêu một Chúa thôi, để đời sẽ hết nỗi đìu hiu.

Cho con mê say tình Ngài, để tình đời chẳng còn vương vấn.

Dâng mạng sống con cho Ngài, luôn sẵn sàng minh chứng cho tình yêu.

Yêu thương là thế đấy, tình yêu ôi đắm đuối nhiệm mầu.

Yêu con, chính vì yêu con, Chúa đã chết trên đồi vắng.

Con xin hy sinh cuộc tình nguyện theo tiếng Chúa mời gọi.

Dầu có lúc sầu héo hon, xin trung kiên theo Chúa suốt cuộc đời.

Vâng ! Tình yêu thật nhiệm mầu ! Nhiệm mầu hơn nữa đó là chính Tình Yêu chết cho người mình yêu mà người mình yêu là người tội lỗi.

Chỉ khi nào ta chận chân ra rằng ta tội lỗi mà ta được tha thứ, ta được yêu thương thì ta mới có thể tha thứ và yêu thương anh chị em thật lòng ta được.

Giữa những nổi trôi của cuộc đời, giữa một xã hội đầy gian ác và hận thù, chỉ xin Chúa nung nấu tình yêu thương và lòng mến trong lòng ta để ta luôn sống : “một đời lòng ngay không hề gian dối, giữa bao hận thù luôn sống mến yêu”. Có như thế thì sau cõi đời này ta cũng có một chỗ trong hàng ngũ của dòng dõi những người tìm Chúa được.

Anmai, CSsR

Khổ nỗi danh xưng

Khổ nỗi danh xưng

Tạp Ghi

huyp021113


Huy Phương

Khoảng năm 1985, khi nhà văn Đỗ Tấn bị bạo bệnh qua đời tại Saigon, tôi là người có nhiệm vụ đi đăng cáo phó cho anh. Lúc bấy giờ trong thành phố đã đổi tên chỉ có một tờ nhật báo của chế độ mới, đó là tờ “Sài Gòn Giải Phóng”. Sau khi xem qua bản cáo phó viết tay của tôi mang đến, chắc là thấy cái tên người chết có vẻ lạ, nhân viên tòa báo trả lại tờ giấy cho tôi và nói:
– “Ông này có ở trong Hội Nhà Văn không và nếu có, cho tôi xem giấy chứng nhận, tôi mới đăng được!”
Tôi đành mang tờ cáo phó ra về. Trong chế độ này tất cả những thứ như Nghệ sĩ Ưu Tú, Nghệ Sĩ Nhân Dân, Nhà Giáo Nhân dân, thậm chí là Anh Hùng cũng phải được “Nhà Nước” phong tặng, có văn bản đàng hoàng, nói chung là Đảng và Nhà nước giành quyền ấn định danh xưng cho nhân dân.
Trong chế độ này, muốn trở thành nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ phải mang giấy chứng nhận có con dấu của đảng, duy chỉ có một cái giấy chứng nhận cần thiết không nghe ai nói đến là giấy chứng nhận làm người.

Chẳng bù với đời sống ở hải ngoại này, ai muốn có danh xưng nào tùy thích chọn lựa, không hề bị ai hạch hỏi. Một người không biết nói, biết hát, biết đàn, biết vẽ, biết làm thơ viết văn… có thể tự nhận mình là… nghệ sĩ.
Một lần, tôi được giới thiệu với một vị cao niên tình cờ gặp trong quán cà phê, vị này nhoài mình về phía tôi và đưa tay bắt, tự giới thiệu:
– “Tôi là nhà thơ XYZ.”
Ở trong cái thành phố nhỏ “đi dăm phút đã về chốn cũ”, bằng cái lỗ mũi này cái tên nhà thơ này thật tình tôi chưa hề nghe. Nghe nói năm ngoái ông có in một tập thơ, tôi nghĩ như vậy tác phẩm, ở hải ngoại này có thể thay giấy chứng nhận của đảng. Ông cũng có tên trong tác phẩm thi ca “1,000 thi sĩ ở Hoa Kỳ” mà mỗi thi sĩ tự đóng tiền, góp ấn phí, để đem về 50 tập thơ bằng tiếng Anh tặng cho bạn bè.

Trong các loại danh xưng, Bác Sĩ được xếp loại cao nhất.
Danh xưng Bác Sĩ phải ghi trước tên là Dr. và sau là MD như “Dr. Trần Văn A, MD.”
cũng như trong trường hợp “Bác Sĩ Nguyễn Văn B, MD.”
Nhiều vị Bác Sĩ dùng tước vị như là một danh xưng ở ngôi thứ nhất. Trong nhiều chương trình quảng cáo cho các phòng mạch y khoa hay sản phụ khoa, chúng ta thường nghe nhiều vị bác sĩ thường dùng tiếng “Bác Sĩ” thay cho tiếng “Tôi” ở ngôi thứ nhất số ít như “Bác sĩ nói cho em nghe… Bác sĩ khuyên bà nên dùng…” Gọi bệnh nhân gọi vào chương trình hội thoại bằng “em” đã khó nghe, dùng danh xưng bác sĩ thay cho “tôi” hay “chúng tôi” là điều chỉ thấy trong cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại.
Trong các tiệm ăn ở gần các bệnh viện, thỉnh thoảng chúng ta thấy nhiều vị bác sĩ, y tá, hoặc nhân viên y tế, mặc đồng phục của bệnh viện ra ăn trưa, nhiều vị bác sĩ còn mang cả ống nghe trên cổ, nghề y quả bận rộn, vất vả!

Danh xưng Giáo Sư nhiều người cho rằng chỉ dùng cho Giáo Sư Đại Học, nhưng thời VNCH, dạy Trung Học đã được gọi là Giáo Sư, vì có ngạch trật là Giáo Sư Trung Học. Hiện nay, người ta dùng danh xưng Giáo Sư quá nhiều, nên rất khó phân biệt là Giáo Sư Trung Học (có bằng Tú Tài II, tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội, Đại Học Sư Phạm 3 năm, hay ĐHSP Cấp Tốc 1 năm hay GS Đại Học có bằng Thạc Sĩ, Tiến Sĩ trở lên, có vài ngành chỉ cần có Cử Nhân.
Trong ngôn ngữ Việt Nam, có nhiều nghề được quý trọng và nhân gian thường gọi bằng Thầy như Thầy Địa, Thầy Bói, Thầy Tử Vi, Thầy Bói Dịch, Thầy Tu, Thầy Tụng, Thầy Cúng, Thầy Chùa, Thầy Dùi, Thầy Dạy Nhảy… nhưng nếu diễn nghĩa chữ “Thầy” ra “Giáo Sư” như một vài trường hợp chúng ta thường gặp trên báo chí như Giáo Sư Khiêu Vũ, Giáo Sư Phong Thủy, Giáo Sư Cố Vấn, Giáo Sư Bói Toán nghe khá chướng tai.

Trong các chương trình talk show trên TV, chúng ta thường thấy các danh xưng có vẻ kiêm nhiệm: “Giáo Sư-Nhà Văn”. Hai danh xưng này cái gì quý hay lớn hơn cái kia. Nếu chỉ là một chương trình hội thoại về văn chương, thì nghề giáo sư dạy toán ở trung học không cần thiết phải đưa lên màn ảnh TV hay nhờ xướng ngôn viên giới thiệu về mình. Một bài biên khảo về y học được ký dưới tên một bác sĩ là đúng, nhưng một bài thơ hay một truyện ngắn, mà tác giả cố đem vào trước tên mình cái danh xưng Giáo Sư hay Bác Sĩ là không cần thiết.

Danh từ Viện trong tiếng Hán Viện dùng để chỉ một nơi có tường thành bao bọc như Tu Viện, Viện Hán Học, Kỹ Viện, nhưng ngày nay người ta lạm dụng tiếng Viện dành cho một tiệm uốn tóc chỉ có vài ba người thợ, gọi là Thẩm Mỹ Viện hay Viện Uốn Tóc thật không ổn. Mong rằng rồi đây sẽ không bao giờ có những Viện Sửa Xe Hơi, Viện Dry Clean, Viện Food To Go… ra đời.

Về các cấp bậc trong quân đội trước năm 1975 ở miền Nam, nhiều câu nói khôi hài cho rằng, chúng ta tan hàng nhưng phòng thăng thưởng nhân viên là vẫn còn tồn tại. Bằng chứng là nhiều vị vào lúc tan hàng chỉ mang cấp bậc Đại Úy, nay ra hải ngoại không còn ở quân đội đã 38 năm mà nay vẫn được gọi là Thiếu Tá. Nhiều người chỉ có cấp bậc Trung Tá ngày trước, được thuộc cấp hay bạn bè nịnh hót gọi Đại Tá, lâu ngày nghe quen tai, thay vì một lời cải chính, thì lại “im lặng là nhận lời,” đôi khi tưởng mình là Đại Tá thật.
Nhiều vị lại quá “khiêm nhường” chỉ mới Đại Úy nhưng cho mình xứng đáng mang cấp bậc Thiếu Tá trong các buỗi lễ lược hay tự xưng, với lý do cùng giống nhau là đã có giấy tờ (ai chứng minh) vào những ngày cuối tháng 4-1975 nhưng “chưa kịp gắn lon”, cho nên bây giờ tôi “khiêm tốn” tự gắn cấp bậc mới cho mình.
Đó là chưa nói đến chuyện nhiều vị vẫn thích mặc đồng phục, mang cấp bậc Thiếu Tướng, Đại Tá của một đơn vị không có trong tổ chức của Quân Đội Mỹ cũng như Quân Đội VNCH, kể cả gắn sao lên xe hơi của mình. Đây thật sự là xứ tự do!

Dù là một Phật Tử, thú nhận tôi cũng chưa rành về các danh xưng của Quý Thầy, nên hồi ở TTHL Quang Trung, tôi bị ông Thượng Tọa Trưởng Phòng Tuyên Úy Phật Giáo “cự” vì nhân viên biên tập đã ghi nhầm danh vị của ông là Đại Đức thay vì đúng là Thượng Tọa. Cách đây gần 10 năm, khi viết loạt bài “Chân Dung Một H.O.” cũng vì tưởng lầm Thượng Tọa là danh vị cao nhất (ngồi trên) tôi đã bị Hòa Thượng Hạnh Đạo “mắng yêu”: “Ông Huy Phương, ông hạ chức của Thầy rồi!”

Chúng ta vẫn thường đọc, và nghe trên/trong, những quảng cáo nhiều danh xưng quá nổ và thiếu đức khiêm cung như “Đệ Nhất MC” hay “Lương Y Nguyễn Văn X., chuyên chẩn bệnh, bốc thuốc”… Người đi hát có thể gọi là ca sĩ, nhưng không thể tùy tiện nhận mình là danh ca.

Ở tiệm bán đồ lưu niệm và khắc chữ “Things Remembered” công khắc phải đếm, tính từng chữ một.
Ở bia mộ khi chúng ta qua đời, cũng vậy!

Huy Phương

Hai nhà báo Pháp bị bắt cóc và giết chết tại Mali

Hai nhà báo Pháp bị bắt cóc và giết chết tại Mali

02.11.2013

Bộ Ngoại giao Pháp xác nhận hai nhà báo Pháp bị bắt cóc đã bị giết hôm thứ Bảy tại miền bắc Mali.

Vụ này xảy ra tại thành phố Kidal.

Những tay súng không rõ tung tích đã bắt cóc hai nhà báo, một nam và một nữ một ít lâu sau khi họ kết thúc cuộc phỏng vấn một viên chức thuộc tổ chức ly khai có tên là Phong trào Quốc gia Giải phóng Azawad MNLA.

Một phát ngôn viên của MNLA nói với Đài VOA là ông biết hai nhà báo bị những người bắt cóc giết cách thành phố một khoảng ngắn. Chủ tịch Hội đồng Cách mạng MNLA Attayoub Ag Dataye cho biết các binh sĩ Pháp tại Mali tìm thấy xác 2 nhà báo này.

Một phóng viên của Đài VOA tại Kidal nói là lực lượng Pháp dùng máy bay trực thăng để truy lùng những kẻ bắt cóc.

Hai nhà báo bị giết làm việc cho Đài phát thanh Quốc tế Pháp RFI.

Bốn người đàn ông Pháp được trả tự do vài ngày trước đó sau khi bị bắt làm con tin hơn 3 năm bởi các phần tử chủ chiến có liên hệ đến al-Qaida tại nước láng giềng Niger.

Người người Pháp này bị nhóm al-Qaida tại vùng Hồi Giáo Maghreb bắt vào tháng 9 năm 2010 khi đang làm việc cho công ty hạt nhân Areva của Pháp.

Kidal là cứ địa của MNLA, tổ chức chiến đấu cho một quốc gia Tuareg độc lập tại miền bắc Mali.

Tổ chức này kiểm soát Kidal sau khi lực lượng Pháp và châu Phi đẩy những phần tử chủ chiến Hồi Giáo ra khỏi vùng này trước đây trong năm.