Tham Nhũng: VN Hạng 123

Tham Nhũng: VN Hạng 123

(12/06/2012)

nguồn:Vietbao.com

Vào hôm Thứ Tư 5/12/2012, tổ chức chống tham nhũng có uy tín trên thế giới là Transparency International – Minh bạch Quốc tế – trụ sở tại Đức, đã công bố bản Chỉ số Tham nhũng CPI thường  niên, xếp hạng các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới về mức độ tham nhũng được ghi nhận.

RFI ghi nhận rằng, trong danh sách năm 2012 này, Việt Nam chỉ xếp thứ 123 tụt
hơn 10 hạng so với năm ngoái.

Chỉ số CPI, tên tắt của Corruption Perception Index là một số liệu tổng hợp,
dựa trên các thống kê, điều tra, thăm dò khác đã được công bố trong năm về tình
hình tham nhũng tại một quốc gia nhất định.

Đây không phải là một chỉ số xếp loại tình trạng tham nhũng thuần túy, mà chỉ
là con số nêu bật cảm nhận – chẳng hạn như của các doanh nhân ngoại quốc – về
tình hình tham nhũng tại một nơi.

RFI nói, trên danh sách 176 được Minh bạch Quốc tế xếp hạng năm nay, theo thứ
tự từ «trong sạch» nhất đến «tham nhũng» nhất, như vậy là Việt Nam đứng thứ
123, bị thụt lùi 11 hạng so với bảng xếp hạng năm ngoái, khi Việt Nam được xếp
thứ 112, và trên tổng số 183 quốc gia.

Trong phạm vi khu vực Đông Nam Á, Việt Nam lẽ dĩ nhiên thua xa Singapore, nước
thường xuyên đứng trong các thứ hạng đầu của các nước trong sạch nhất. Năm nay
Singapore xếp thứ 5 trong danh sách, chỉ thua Đan Mạch, Phần Lan, New Zealand
và Thụy Điển.

Việt Nam cũng thua Brunei (hạng 46), Malaysia (hạng 54), Thái Lan (88), thậm
chí thua cả Philippines (hạng 105) và Indonesia (hạng 115), hai nước thường bị
tiếng tăm vì tham nhũng. Philippines chẳng hạn, trong năm 2011, còn đứng dưới
Việt Nam với hạng 129, nhưng năm nay đã qua mặt Việt Nam.

RFI ghi thêm, rằng trong bản xếp hạng CPI năm 2012, Việt Nam vẫn hơn ba nước
còn lại trong vùng, bị rớt vào diện các quốc gia bị xem là tham nhũng nhất thế
giới : Cam Bốt (hạng 157), Lào (hạng 160) và Miến Điện (hạng 172).

 

Hạnh Phúc Tầm Tay…

Hạnh Phúc Tầm Tay…

“Tôi nức nở khóc…
vì thảm cỏ lưa thưa dưới chân…
và vì mình không có đôi giày…”
1. Có một chàng trai yêu đời, nhiều mộng đẹp và ước mơ.  Chàng mê thể thao, mê đèn sách và mê cả chuyện ngắm các cô gái đẹp.
Một buổi kia, chàng thưa với Chúa, “Con đã suy nghĩ nhiều… Bây giờ, con biết mình ước muốn điều gì khi trưởng thành…”
-“Điều gì vậy?”, Chúa ngạc nhiên.
`
-“Con muốn sống trong một căn nhà rộng rãi có nhiều phòng, có vườn cây, trên đồi hay gần bãi biển… Vì bây giờ, Chúa biết đấy, không khí ô nhiễm quá thể !  Mà giữa  thiên nhiên bao la của núi rừng hay biển khơi, con dễ thanh thản tâm hồn mà cầu nguyện với Chúa hơn.  Con chán cảnh ở trọ chật hẹp, tốn kém, ồn ào phiền toái thế này lắm rồi!  Con không muốn đi tu.  Chuyện tu hành, Chúa để cho tên nào chu chu chắm chắm ấy.  Con sẽ cưới vợ.  Vợ của con phải là một cô gái xinh đẹp.  Nàng cần phải có chút máu văn nghệ, biết thưởng thức văn chương, biết từng tưng chút chút.  Nàng cần phải sắc sảo, có nhan sắc, dáng người thanh tú cao ráo để
con hãnh diện được với bạn bè…”
– “Gì nữa?”, Chúa âu yếm.
– “Ừ, có vợ thì phải có con chứ.  Vậy con cũng muốn Chúa biết, là con muốn có 3 đứa con trai.  Một đứa sẽ là khoa học gia, một đứa là bác sĩ, một đứa là Giám Mục… Chúa thấy không, con mơ ước toàn những điều có “chiều kích thế giới” thôi…”
-“Thế con ước mơ điều gì cho chính con?”
-“Ồ, con quên khuấy đi mất!  Chúa thấy không, nãy giờ, con chỉ lo cho gia đình, cho Giáo Hội, cho thế giới thôi!  Con quên mất bản thân mình!  Quảng đại, phải không Chúa?!!  Thế này, con ước mình sẽ có nhiều tiền.  Gia đình thời buổi này, Chúa ạ, là một gánh nặng lớn về tài chánh.  Vật giá và các thứ bây giờ, vì lạm phát, vì cái bất tài của các nhà lãnh đạo, vì cả cái thất bại bí lối của các kinh tế gia mà leo thang cao hơn tháp Babel xưa…. Con ước mình trở thành một nhà tài phiệt.  Rồi với gia tài đồ sộ kếch xù cả thế giới bê vác không nổi ấy, con sẽ “tề” thiên, “đãi” thánh, “bình” thiên hạ… Chúa không phải mệt mỏi nhờ mấy ông cha bà phước hay các hội từ thiện khản cổ kêu gọi người ta bố thí.  Mấy ông già Noel lắc chuông mỏi tay ở các cửa hàng, các thương xá mỗi dịp Giáng Sinh mà thế giới có nhúc nhích gì đâu!  Vài đồng cắc lẻ người ta cho đi vì tránh nặng túi chẳng gãi nổi vết ghẻ của đám trẻ Phi Châu thiếu thốn thuốc men… Yên chí Chúa ạ, là tài phiệt rồi, con sẽ rửa sách mặt địa cầu, Chúa không cần phải ra tay làm chi cho mệt!… Còn một chuyện nữa..”
-“Chuyện gì?”, Chúa chăm chú.
Chàng nói không ngần ngại vì biết rằng, Chúa làm được hết mọi chuyện và với Chúa thì không cần phải vòng vo hay rào đón tế nhị…
-“Chiếc xế Camry của con 6 máy XLE nhưng đến lúc con có gia đình thì nó đã già cũ rồi.  Con sẽ đem nó đến một cơ quan từ thiện để họ bán cho kẻ cần xe mà lấy tiền nuôi kẻ nghèo khó nếu con có cái Lách Xớt, lọai xe bảo đảm đường trường và độ bền thay
vào đó.  Lách Xớt là đủ rồi chứ con không có màu mè như mấy tên tài tử Hô Li Út xài sang mà hoang phí với Ferrari hay Roll-Roys.  Không có xe ở thời đại tốc độ bây giờ là “cụt” cẳng, Chúa ạ.  Mà xe dổm thì là cẳng “đau”, phiền toái lắm…”
-“Ừ”, Chúa gật đầu trầm ngâm.  “Những điều này Ta nghe như một giấc mơ đẹp… Ta
mong muốn con luôn được hạnh phúc sung sướng…”
….
Chàng trai nhảy cẫnglên thích chí.  Chàng thỏa mãn vì Chúa cho những điều chàng ước muốn kia là đẹp đẽ… Chàng yên lòng vững dạ hơn khi nghe Chúa bảo rằng, lúc nào Ngài cũng muốn cho chàng được hạnh phúc vui vẻ, nghĩa là, Chúa “hứa” hẳn hòi,
dù chàng không hiểu rõ nội dung và tâm tình của điều phát biểu ấy…
2. Thấm thoát thời gian trôi qua…
..
Chàng hoàn tất giáo trình đại học ngành thương mại rồi khởi sự một doanh nghiệp sản xuất và cung cấp tiếp liệu y khoa y tế.
Chàng cưới một thiếu nữ đoan trang, duyên dáng, hiền hậu với mái tóc dài và đôi mắt nâu.  Nàng khỏe mạnh với vóc người thấp lùn chứ không cao ráo thon thả.  Nàng không có máu văn nghệ, cũng chẳng mê đàn hát, chẳng mê phim bộ nhưng lại giỏi việc tề gia nội trợ, giỏi bếp núc, giỏi quán xuyến gia đình. Nàng không sắc sảo nhưng
hiền thục, chân thành khiêm tốn, hết lòng thương yêu săn sóc chồng con… Nàng
là một người vợ kiểu mẫu, biết phục thiện, tự chủ, một hiền mẫu đúng nghĩa…
Chàng và nàng có 3 đứa con gái xinh đẹp ngoan ngoãn.  Trừ đứa con gái út phải ngồi xe lăn, hai đứa còn lại đang theo đuổi ngành y khoa và điện toán.  Những đứa con dễ
thương ấy lúc nào cũng yêu kính và vâng lời cha mẹ…
Vì công ăn việc làm, chàng và gia đình sống trong một căn phòng trên tầng cao nhất thuộc khu chung cư của thị xã.  Và từ căn phòng cao cấp này chàng có thể nhìn xuống biển xanh hay ngắm cả thị trấn lóng lánh ánh điện về đêm.
Là thành viên trong bộ phận quản đốc của xí nghiệp, chàng có một lợi tức khá giả, lợi tức đã đem lại cho chàng và gia đình một cuộc sống sung túc quá mức thượng lưu.  Chàng có Lexus, lọai xe của giới thượng lưu để di chuyển theo địa vị…
Một cuộc đời hạnh phúc kiểu mẫu…
Nhưng cái gọi là hạnh  phúc, là tuyệt vời… rồi cũng bị thời gian làm cho nhàm ố vì chán chường, vì những mơ ước vô biên giới, vì những đòi hỏi có tính leo thang của cuộc sống, vì cái khuynh hướng thiếu cảm nhận giá trị của mọi điều hiện tại, vì thái độ không tri ân đủ với cuộc sống và con người… “Máy móc tính” để trở nên nhàm chán mà quay cuồng.
Một buổi kia, chàng bất giác nhớ lại những ước mơ đã khấn nguyện thời trai trẻ…
Chàng bắt đầu buồn buồn…
Những điều chàng đang có sao mà chán phèo nhạt nhẽo… như tách cà phê đã nguội, như lon bia đã cạn hơi ga…
-“Tôi rất buồn”.  Với một người bạn, chàng than thở.
-“Chuyện gì vậy?”
-“Tôi mơ sống với một người vợ cao ráo, thanh tú, mắt xanh, biết văn chương và đàn hát văn nghệ… Cuối cùng thì vợ tôi lại lùn tè, chẳng thanh tú tí nào… Văn chương
văn nghệ, nàng mù tịt..!”
-“Vợ Anh xinh xắn, duyên dáng, khỏe mạnh, giỏi nội trợ, yêu chồng, thương con cái.  Anh tìm đâu được người vợ hiền thục như thế?”
Chàng không chú ý nghe.
-“Anh buồn lắm”, chàng thú thật với vợ.
-“Chuyện chi vậy Anh?”
-“Anh đã từng mơ được ở trong một căn nhà to lớn vườn cây, có cảnh trí thiên nhiên nên thơ tĩnh mịch, nhưng cuối cùng lại phải ở trong khu cao ốc rất mất công thang máy này…!”
-“Căn phòng này, Anh thấy không, rất tiện nghi.  Từ trên cao, Anh có thể nhìn xuống mà thấy thiên nhiên bao la, thấy thành phố lao xao, thấy biển, có thể chiêm ngưỡng và suy nghĩ với cái đẹp nhìn thấy từ trên cao… Anh có tình yêu của Em, lòng kính
yêu của 3 đứa con dễ thương.  Anh có tiếng cười, có người mong ngóng thương yêu, có mọi điều Anh muốn…”
Chàng không thấu tai dù người vợ nồng nàn khuyên giải.
Tại văn phòng bác sĩ tâm lý.
-“Tôi buồn lắm”, chàng giãi bày…
-“Tại sao vậy?”
-“Tôi đã mơ trở thành tài phiệt đem kho tàng của cải giúp người nghèo khó khắp nơi.  Nhưng lúc này, tôi chỉ là người lãnh lương cố định hàng tháng…”
-“Những tiếp liệu y tế mà Anh đang bán cứu được bao nhiêu mạng sống rồi…”
Chàng, con người có “ước-mơ-vô biên giới” ấy, vẫn không nghe ra…
Với Cha Sở, chàng rầu rĩ than phiền.
-“Con buồn lắm!”
-“Chuyện gì thế?”
-“Con đã từng mơ ước có 3 đứa con trai, một đứa là khoa học gia, một đứa là bác sĩ, một đứa là giám mục… Vậy mà con lại có 3 đứa con gái…”
-“Thì Anh đang có đứa con đeo đuổi ngành y.  Con cái của Anh, đứa nào cũng ngoan ngoãn, hiếu thảo, thương kính cha mẹ… Đứa út thì có nhiều tài, đóng góp cho công việc của giáo xứ..”
Chàng vẫn không lọt tai.
3. Nỗi u uất thất vọng làm chàng phát bệnh.
Chàng được đưa vào bệnh viện.
Giữa bốn khung tường màu trắng của nhà thương, người ta chằng chịt quanh chàng, thọc vào mũi, vào miệng, gắn trên người chàng nhiều thứ giây nhợ, ống dẫn phức tạp.  Những giây nhợ ống dẫn ấy nối với những máy móc đo đạc y khoa rất hiện đại.
Chính chàng trước đây là người đã cung cấp những dụng cụ linh tinh này cho bệnh
viện sau một hợp đồng thành công.  Và hiện diện chung quanh chàng, sau khi
vài thân hữu đồng nghiệp đã ra về, là chính người vợ không “đủ tiêu chuẩn” theo ý chàng, cùng với ba người con gái có gương mặt âu lo, đang yêu thương buồn bã nhìn người cha tiều tụy ốm yếu mất sắc.
Quây quần chung quanh chàng những lúc đời riêng biến cố, ở những khúc quanh ngặt nghèo như lúc này và cho đến lúc cuối cùng, hình như cũng chỉ có nhiêu đó người ruột thịt trong một gắn bó nhiệm màu mà định mệnh, những người mà tháng ngày gần gũi đã làm cho hiện hữu của họ đối với chàng trở nên nhàm chán khiến chàng không cảm nhận được giá trị cùng ý nghĩa của sự hiện diện đầy ân tình và linh thánh ấy trong đời mình.  Họ đứng ở đấy, câm lặng, khóe mắt đỏ hoe những giọt lệ chan hòa mến thương và chia sẻ trong bất lực nặng nề.  Cõi yêu thương rất linh thánh, chan chứa ân tình ấy vô hình, da diết, mỏng manh nhưng lại hiện hữu và vô cùng sống thực như chính tấm mền mỏng màu trắng đang phủ kín, đắp ấm tấm thân thể rã rượi, u uất và bất động của chàng.
Chàng trải qua giấc hôn mê…
Trong cơn mê mệt mỏi rã rời ấy, chàng thấy mình đi dạo trong một khu vườn lạ rất đẹp, và… chàng gặp Chúa cạnh một suối nước…
Quên chào hỏi xem Chúa đi đâu và đang làm gì, chàng chất vấn Chúa ngay với cung giọng thiếu bình tĩnh:
-“Chúa còn nhớ thuở trai trẻ, con đã nói cho Chúa nghe những điều gì không?”
Chúa nhìn chàng, thương mến hồi lâu rồi nhẹ nhàng ôn tồn:
-“Ừ, đó là những điều ước muốn tốt đẹp!”
-“Chúa đã hứa cho con được hạnh phúc sung sướng.  Chúa cũng công nhận những điều ước muốn cỏn con kia của con là tốt đẹp, sao Chúa không ban cho con những điều ấy?”, chàng bực dọc.
Vẫn thương mến trong hiền hậu ôn tồn, Chúa chậm rãi:
-“Ta có thể làm như vậy.  Nhưng Ta muốn con ngạc nhiên về những gì con không mơ ước.  Ta đã ban cho con một người vợ hiền thục xinh đẹp, một doanh nghiệp tốt, một
nơi ở dễ chịu, những đứa con xinh ngoan… Đấy chưa phải là những món quà tốt
đẹp nhất Ta đã ban tặng cho con sao?…”
-“Nhưng con tưởng Chúa ban cho con điều con đã xin…”
-“Còn Ta, Ta đang chờ con cho Ta điều Ta thật sự mong muốn…”
-“Chúa mong muốn gì?”, chàng thân tình, trố mắt ngạc nhiên.  Chỉ có chàng mới cần thứ này, ước cái nọ, muốn thứ kia, chứ có bao giờ chàng nghĩ rằng Chúa cũng cần,
cũng muốn một cái gì đó đâu !
-“Ta muốn con luôn được hạnh phúc sung sướng với những gì Ta ban cho con.  Ta những muốn cho chính con chứ không cho Ta.  Ta mong muốn con luôn được yên vui hạnh phúc…”
Rồi để giúp chàng nguôi ngoai nỗi khát vọng, giải tỏa cho chàng bao nỗi trầm tư u uất, Chúa đưa chàng ra khỏi khu vườn đẹp, và cùng chàng rảo bước giữa lòng phố.
Và đấy cũng là lần đầu tiên, chàng có dịp bước xuống cuộc đời để tận mắt nhìn thấy cái quang cảnh vất vả, nhốn nháo, ồn ào, tất tưởi rất mồ hôi nước mắt… Chàng thấy bao con người đang tất bật cảnh kiếm sống, những chiếc xe kéo, những thân thể gầy gò, những bộ áo quần tả tơi lem luốc, những người phu quét đường, đám người di dân đang nhễ nhại đào xúc ở công trường với đồng lương tối thiểu ốm o.    Chàng thấy đám người homeless rách nát lang thang.  Đám người vô gia cư cơ nghiệp có tóc tai râu ria xồm xoàm và tấm thân hình hôi hám dơ bẩn lâu ngày không một giọt nước tắm gội kia, đang thất thểu với chiếc xe đẩy, và chất đầy trên đó là cả cái  gia tài của đời họ. Gia tài ấy chỉ là một đống giẻ rách…  Một kẻ ăn xin chạy đến chàng (tướng tá chàng sang trọng lịch lãm với bộ đồ veston Italy đắt giá mà!).  Người ấy xoè tay, lắp bắp một lời khẩn xin bố thí.  Mủi lòng cảm thương, chàng mở bóp, nhưng chàng không có
tiền mặt mà chỉ có một xấp thẻ tín dụng đủ loại.  Chưa bao giờ chàng biết đến đồng tiền xu hay phải bận tâm giữ tiền giấy trong người… Người ăn xin kia tiu nghỉu thất vọng và nổi nóng.  Xả hết cơn tức giận, hắn  nhào tới, tống một quả đấm vào giữa mặt chàng.  Chàng choáng vàng la hoảng và giật mình thức dậy..
Ra khỏi cơn hôn mê, chàng trăn trở với giấc mơ trò chuyện vặn hỏi Chúa và cùng Chúa rảo bước giữa cuộc đời thực….
Chàng trằn trọc suy nghĩ…
4. Cuối cùng, chàng mơ một giấc mơ khác…
Chàng quyết định, rằng chàng chỉ mơ và ước muốn tất cả những gì chàng đang có… Chàng sung sướng nhìn gương mặt người vợ lúc ấy đang đứng bên cạnh trong im lặng mà âu lo săn sóc, gương mặt mà đã nhiều năm, chàng không không nhìn kỹ để không thấy được những gì là “con tim” nồng thắm nơi từng nét vẻ diễm kiều ở khóe mắt, suối
tóc, bờ môi.  Chàng hãnh diện nhìn những người con đang vui mừng thấy chàng mở mắt…  Trong nước mắt, họ ôm lấy nhau…  Và hình như đấy là lần đầu tiên trong đời, chàng cảm nhận một thực thể nào đó vô cùng bao la, một thực tại nào đó rất ư vĩ đại mà sống thật vẫn bao bọc quanh chàng mà chàng chưa hề cảm biết.  Chàng cảm thấy đây là gia đình, là chính con tim của mình, là ân huệ, là những gì duy nhất còn lại sau tất cả mọi điều.  Đây chính là giây phút mà tiền tài, danh vọng, dục vọng, ước mơ, Lách Xớt, của cải… tất cả chỉ là con số không… Niềm cảm nhận kinh khủng ấy tuy hiếm hoi muộn màng nhưng nó làm không gian của chàng thu hẹp lại, không gian ấy có những nhịp tim rạng rỡ của cảm nhận và ỵêu thương chan hòa…
Và nhận thức mới ấy đã làm chàng qua khỏi cơn bệnh.
Chàng trở về sống sung sướng trong khu chung cư cao ốc, vui hưởng tiếng cười đùa của các con, biết thế nào là vị ngọt của bờ môi người vợ, cảm nhận được thế nào là yêu thương trong đôi mắt, vòng tay.  Chàng đếm được rõ trong tim mình có bao nhiêu
người.  Chàng biết rằng, ở đáy ánh nhìn thơ ngây của đàn con, ở đáy đôi mắt tuyệt vời và nồng nàn ân tình của người vợ, là những thực tại sâu thẳm vững bền như chính sự sống… Chàng nhìn lại những hững hờ quá khứ, những đuổi bắt mệt mỏi… Chàng đọc thấy được bao nhiêu điều trên gương mặt hiền hậu của người vợ đã nhiều năm má ấp môi kề, những điều mà trước kia chàng chưa hề đọc ra…  Chàng sung sướng ngắm gương mặt từng đứa con, hoa trái của tình yêu chàng…  Những cảm nhận thiết tha…. Tim chàng đang rung đều những nhịp mới…
Và đêm đó, trên căn trọ chót vót với ánh mắt nhìn xuống thành phố lấp lánh ánh điện, xa xa là biển rộng thẫm bóng đêm, chàng quỳ gối xuống… Hình như trong đời, chàng đã chưa từng nói với Chúa lời cảm tạ để đêm ấy, chàng quỳ gối lâu lắm…
Chàng đã không xin Chúa gì thêm….
GTR
(viết theo ý tưởng của
Loren Seibold)
Anh chị Thụ & Mai gởi

Một câu chuyện thật cảm-động – 48 năm tìm nhau

Một câu chuyện thật cảm-động – 48 năm tìm nhau

Ngã ba Thạch Trụ (huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi), 10h47 sáng 18/10, một người đàn ông xuống xe khách ôm chầm lấy một phụ nữ khóc nức nở. Nhiều người đi đường đứng lại và không cầm được nước mắt.

Họ là hai anh em ruột mồ côi, lạc mất nhau đã 48 năm.

Nước mắt của đợi chờ sau 48 năm gian truân, lưu lạc - Ảnh: Hữu Khá

Nước mắt của đợi chờ sau 48 năm gian truân, lưu lạc –

Ảnh: Hữu Khá

Cả đêm hôm trước bà Võ Thị Tới không ngủ. Sáng sớm 18-10, bà cùng chồng ra ngã ba Thạch Trụ chờ chuyến xe chở ông Võ Văn Tiếp từ Đà Nẵng vào. Xe dừng ở ngã ba đường, Tiếp – Tới, hai anh em mồ côi từ lúc mới chào đời, gặp nhau trong nước mắt sau dọc dài gian khó quãng đời lưu lạc…

Cháy nhà… mất em

Chuyến xe hôm ấy từ Đà Nẵng vào Quảng Ngãi như chở cả một đời lưu lạc về với hai anh em. Ông Tiếp bước lên xe tay run run khi điện thoại liên tục nhận được cuộc gọi từ Quảng Ngãi giọng nôn nóng “anh tới chưa”?. “Anh đang gần tới rồi em” – ông Tiếp nói xong, mặt nhìn ra phía cửa xe giấu đi dòng nước mắt đang tuôn dài.

Họ lạc mất nhau năm 1964, chỉ ít lâu sau ngày ba mẹ lìa trần. “Sáng ấy, cha mẹ tôi ra đồng thì bị trúng đạn chết. Lúc này tôi mới chập chững lên ba. Em gái tôi mới biết bò dưới nền đất” – ông Tiếp ngậm ngùi. Sau ngày kinh hoàng đó, hai đứa trẻ lăn lóc về
nhà người cô ruột. Sống cơ cực với người cô chỉ được ít lâu. Một hôm vào ngày
đầu hè, giữa lúc chập choạng tối, Tiếp cầm đèn vào góc nhà tìm em. Dại dột bỏ
đèn bên mép cửa, ngọn lửa bén mái tranh. Hoảng sợ, Tiếp lôi xịch em gái ra núp
ngoài bụi tre. Căn nhà cháy rụi thành tro cũng là phút giây hai đứa chia lìa.

Đêm đó, hai đứa lạc mất nhau. Em gái được bà ngoại ẵm về nuôi nấng. Còn Tiếp lại lăn lóc theo bước đường tha phương cầu thực của người cô về vùng Hòa Liên, huyện Hòa Vang, Đà Nẵng. Ở với cô được một thời gian nữa, Tiếp được cho đi ở đợ chăn trâu. Tiếp lớn lên với mấy đứa bạn chăn trâu hàng xóm. Mười ba tuổi, Tiếp đã vào rừng oằn lưng gánh củi về. Đêm xuống chui vào căn nhà sát chuồng trâu để qua bao mùa gió rét thấu xương.

Ở đợ đến năm 1982, khi ấy Tiếp tròn tuổi 22. Đứa trẻ chăn trâu không cha mẹ đã bắt đầu nhận ra thân phận của mình. Tiếp muốn ra đi, đi khỏi làng. Từ đó, trong căn chòi nhỏ bên mép chuồng trâu không đêm nào Tiếp ngủ được. Giữa đêm dài lạnh buốt với thao thức “đi khỏi làng”. Nhưng đi về đâu và lấy gì mà đi cứ dằn vặt mãi. Càng suy nghĩ, Tiếp càng bế tắc. Thả trâu trên đồng, Tiếp tranh thủ đi mót lúa. Gần năm trời
Tiếp dồn được nửa thùng phuy lúa, đem bán. Chiều hôm trước bán được lúa là sáng
hôm sau anh giã từ bạn bè lên đường không để lại một dấu tích.

Mùa hè năm 1982, con đường vào Nam của Tiếp dừng lại ở vùng Trảng Bom (Đồng Nai). Đến nơi, ngày ngày Tiếp đi làm thuê cho người ta, tối đến căng bạt bên vệ đường nằm ngủ. Như trời sắp đặt, năm năm sau Tiếp gặp một cô gái mồ côi, bén duyên vợ chồng. Họ sống với nhau trong cơn đói khó, có hai mặt con.

“Tôi còn một người anh”

Còn Tới, về sống với ngoại. 16 tuổi, ngoại mất. Tới lên đường đi tìm anh nhưng hành trang mang theo chỉ là cái tên của người anh trai. Ban đầu Tới dạt lên Tây nguyên nhưng không lần ra manh mối. Cô xuôi về vùng núi Tánh Linh (Bình Thuận) làm thuê kiếm tiền nuôi ước mơ tìm anh. Đường đời khốn khó cũng chắp nối những mảnh đời vỡ vụn lại với nhau.

“Anh  ơi, đưa cha mẹ về nhà”
Cha  mẹ ông Tiếp, bà Tới chết không mồ mả. Bao năm nay bát nhang được gửi lên  chùa. “Mấy năm nay, cứ đến ngày 12-6 âm lịch, vợ em làm mâm cơm đặt trước sân  nhà khấn vái rồi khóc ngất” – ông Quang kể với ông Tiếp. “Anh ơi, mai mốt mình đưa cha mẹ về nhà anh. Cha mẹ chết đã không mồ mả, bát nhang để trên chùa lạnh lẽo lắm” – bà Tới đổ nhào vào người ông Tiếp lại khóc.

Tới gặp một chàng trai cũng mồ côi cha mẹ từ lúc 2 tuổi, không anh em, quê ở Quảng Ngãi lạc bước vào Bình Thuận. “Nhiều đêm vợ tôi nằm khóc nức nở. Cô ấy bảo còn người anh trai nhưng không biết sống hay chết. Thương vợ, nhưng cơm con ăn còn chưa đủ biết lấy tiền đâu đi tìm” – ông Quang, chồng bà Tới kể. Thương anh đến cháy lòng, bà Tới không tìm thấy anh nhưng vẫn nuôi hi vọng anh mình còn sống. Có hôm ra xã làm giấy tờ, Tới điền vào lý lịch “tôi còn một người anh”. Khi người công an bảo
phải ghi rõ anh họ tên gì, ở đâu, Tới bảo “không biết” rồi cúi xuống bàn ôm mặt
khóc.

Còn ông Tiếp, cuộc đời nghèo túng và sự mặc cảm cản bước đường ông trở lại xóm chăn trâu. Con đường tìm em xa mịt mù. Đã bao lần ông dự tính tìm em nhưng bất thành. Rồi một hôm, bất ngờ có một người khách lạ xuất hiện. Tiếp đứng sững người, nước mắt trào ra khi trước mặt mình xuất hiện một người bạn. Tiếp gọi lớn “thằng Vân chăn trâu”, rồi hai người ôm chặt lấy nhau. Vân dưới Sài Gòn lên tìm bạn. Thấy ông Tiếp nghèo khó, từ đó mỗi lúc rảnh rỗi ông Vân hay lên xuống Trảng Bom giúp ông
Tiếp. Rồi một ngày đầu tháng 10-2012, ông Vân lên Trảng Bom chơi. Gặp lại bạn,
ông Vân nói: “mình về tìm lại mấy đứa chăn trâu coi thử nó sống chết răng rồi”.
Hai đứa con gái ông Tiếp đứng bên thấy cha khóc, đêm đó động viên ông phải trở
về. Sáng hôm sau đứa con gái lớn chạy đi mua cho cha bộ đồ mới.

Cuộc gặp nghẹt thở

Về chốn cũ xã Hòa Liên (Đà Nẵng), mọi thứ đã đổi thay. Mấy đứa bạn thuở chăn trâu giờ trên tuổi 50. Chiều hôm ấy họ đứng chết lặng nhìn nhau, nhận ra nhau qua vết sẹo trên mặt. Đêm xuống, cạn chén rượu mừng ngày gặp lại. Đến giữa khuya khi chén rượu đã tàn, sương đêm xuống. Bỗng nhiên Tiếp ngẩng mặt lên trời dốc ngược cạn ly rượu, ôm mặt khóc đau đớn: “Tau còn đứa em gái, không biết nó còn hay chết ở phương nào”. Mấy người bạn động viên ông Tiếp giờ đi tìm em cũng như lạc vào đêm tối, bởi người em lưu lạc 48 năm không để lại dấu tích gì, biết bắt đầu từ đâu. Vậy
mà giữa đêm tối như nói trong cơn say, ông Điều, một bạn nối khố thời chăn trâu, vừa khóc vừa nói hồn nhiên như đứa trẻ: “Thôi mi đừng khóc nữa, mai tau dẫn đi tìm…”.

Câu nói như động viên bạn hóa ra lại bắt đầu một cuộc tìm kiếm, gặp gỡ kỳ lạ. Sáng hôm sau, ông Điều chở bạn đến xã Hòa Tiến, bởi hồi chăn trâu nghe loáng thoáng quê ngoại ông Tiếp ngày xưa ở đó. Họ đi tìm em nhưng chẳng có thông tin gì ngoài tên cha mẹ mình đã chết, không di ảnh, không mồ mả.

Đến đầu làng, ông Tiếp dừng xe tấp vào quán nước gặp một bà lão. Ông Tiếp nói với bà lão tên cha mẹ mình. Bất ngờ bà bảo “vợ chồng nhà nó chết trẻ, bỏ lại hai đứa con nhưng không biết hai đứa đó giờ sống chết ra sao”. Ông Tiếp run rẩy mừng rỡ khi nghe bà lão nhắc đến đó, ông hỏi tới tấp: “Vậy giờ bà có biết dưới làng còn ai thân thích không, con là con trai…”. . Bà lão chỉ tay về phía cuối làng nói: “Con đi về
dưới kia, mợ con còn sống”. Giữa trưa nắng Tiếp bỏ chạy một mạch về làng. ông
đứng trước một bà cụ tuổi đã gần 80 nói “con là Tiếp đây”. Bà lão sửng sốt, quệt mắt chằm chằm nhìn vào ông Tiếp rồi bảo: “Tiếp, Tiếp… con còn sống hả con”. Ngay lập tức bà lão nói như sét đánh vào tai ông Tiếp: “Con còn đứa em gái, con Tới nó lấy chồng về sống trong Quảng Ngãi”. Đứng giữa sân nhà giữa trưa đứng bóng, ông Tiếp nhìn lên trời khóc như đứa trẻ.

Tin ông Tiếp trở về, phút chốc đã đến tai người em. Chỉ ít phút sau, máy điện thoại ông đổ chuông với số lạ. Đầu dây bên kia chỉ kịp nói “em Tới đây” rồi khóc, khóc nghẹn ngào. Sáng hôm sau ông đón xe vào Quảng Ngãi. Đứa em gái cũng ra đứng ở ngã ba đường chờ ông. Chiếc xe khách vừa trờ tới ngã ba Thạch Trụ, ông Tiếp bước xuống. Phía bên kia đường một phụ nữ lao ra siết chặt bấu víu vào vai ông khóc ngây dại: “Anh đi đâu mà không tìm em”.

Hữu Khá

nguồn: Chị Helen Hương Nguyễn gởi

 

TIẾNG GỌI CỦA LƯƠNG TÂM

TIẾNG GỌI CỦA LƯƠNG TÂM

(CN 2 Mùa Vọng, Năm C)

c giả: Tuyết Mai

Để Lời Chúa được dễ hiểu thì ta cứ đem lương tâm của ta ra để mà cân, đo, đong, đếm và để dễ bề đối xử với anh chị em ta.   Điển hình nhất mà ta có thể thấy hằng ngày là sự bất công của các ông bà còn khỏe mạnh nhưng vì lý do cá nhân, đã thích dành chỗ đặt riêng cho những ai thật sự bị tàn tật hay bị khuyết tật “handicap”, rất cần chỗ
đậu xe cho gần với nơi họ cần được đến.

Đây là hành động mà chúng tôi cho là tồi tệ và bất công nhất ở một lương tâm hình như bị đóng đá “tảng”.   Một người con cái Chúa hay mang danh Kitô hữu thì là điều thật đáng trách, thật hổ thẹn, và đáng buồn thật đó thưa anh chị em!.   Bên lương giáo thì người ta rất tin vào cái “huông” xấu khi một người giả bệnh, hay chế nhạo người
bị bệnh khùng, cà lăm, tay chân quơ quào và miệng nói ê a không rõ tiếng, ngồi
vào xe lăn, v.v… không chóng thì chầy cũng sẽ bị tật nguyền, què quặt, hay bị liệt?.
Nhất là những tấm bảng treo “handicap” xạo cũng sẽ có ngày vận vào thân??.

Thiên Chúa Người ban cho chúng ta  một Lương Tâm thật tinh vi, thật tế nhị, và thật bén nhậy, để nhắc nhở ta sống “phải quấy” ở đời; hay ta có thể nói lương tâm là tiếng nhắc nhở của Thiên Thần Bản Mệnh mà ai cũng có.   Ngay cả người lương giáo cũng
có.   Chứ dùng lời nói đôi  khi cũng bị chúng ta bẻ quẹo ý tưởng thì cũng chẳng giúp gì hay ích gì cho linh hồn sống đời của chúng ta.   Như những pharisêu của mọi thời đại mà Chúa vẫn hoài chê trách vì hành động của họ luôn đi phản ngược lại những điều họ giảng dậy trong Đền Thờ.   Nhất là những Pharisêu hay nhà thông luật, càng giảng hay giảng giỏi chừng nào, thì Chúa khuyên chúng ta hãy coi chừng.   Vì họ giảng quá giỏi nên họ đã nuốt chửng tiền của bao nhiêu bà già góa nghèo.

Sống ở trên đời lương tâm của một con người rất là quan trọng, ta nên rất thường phải nghe ngóng tiếng nói ấy! Cũng cùng đồng nghĩa với tiếng kêu trong Hoang Địa của Thánh Gioan xưa.   Tại sao lại gọi là tiếng kêu trong Hoang Địa? Thưa có phải vì
tiếng kêu ấy nó như mất hút vào khoảng không gian, vào không trung, hay bay vào
hoang mạc mênh mông; không ai nghe thấy?.

Ngày xa xưa và ngày nay, con người vẫn không thay đổi.   Vì tiếng kêu trong Hoang Địa ấy chẳng thấy mấy ai đáp trả? Ngày nào ta còn thấy nhan nhãn những bất công, những tội ác, những việc làm mà một người để cho cái lương tâm (là lời nhắc nhở của Thiên Thần Bản Mệnh hay của tiếng kêu trong Hoang Địa) ngủ yên thì ngày ấy vẫn còn chiến tranh, hận thù, tranh chấp, và Thiên Đàng còn ở xa lắm tầm tay với của con
người.

Có rất nhiều sự việc bất công trong một xã hội mà chúng ta cố tình làm ngơ y như chuyện của một anh phú hộ giầu có ngày ngày chè chén, nhậu nhẹt, say sưa và anh Lazarô nghèo ghẻ chốc ngày ngày sống trước nhà của anh phú hộ giầu có kia.   Nhưng có phải vì Thiên Chúa Người quá yêu thương con người, muốn hết thảy con người được lên Nước Chúa, nên những tiếng kêu trong Hoang Địa vẫn còn tồn tại cho đến ngày hôm nay?.

Vâng, trong một xã hội có lắm tội ác nhưng tiếng kêu trong Hoang Địa cũng rất thường lanh lảnh kêu vang và vẫn được nhiều người đón nghe.   Thưa đó là những con cái Chúa có tinh thần sống tốt, bác ái, muốn mọi người cùng được nên tốt!.   Sự mong ước của một Gioan là muốn từng người, từng người một nắm tay cùng dắt nhau Về
Trời.   Nơi mà lương tâm (là đường) của từng người được sửa đổi cho ngay thẳng, cho công bằng, và biết yêu thương mọi người.

Để làm rõ nghĩa và đúng nghĩa hơn cho một lương tâm của con cái Chúa là chớ lấy của người làm của riêng cho mình.   Chớ có tham lam để muốn tích trữ thêm mà lấy của kẻ khó nghèo, khi họ rất cần những thứ đối với họ là không có thì họ sẽ chết.   Đừng làm chứng gian để làm cho anh chị em phải bị tù đầy.   Đừng chứa đựng sự hận thù và ganh ghét vì điều đó sẽ gây chiến tranh không bao giờ ngừng.   Nhất là trong gia đình là nơi mà tình yêu thương phải luôn đầy tràn.   Amen.

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

(12-05-12)

 

SỰ RA ĐI CỦA MỘT NGƯỜI

SỰ RA ĐI CỦA MỘT NGƯỜI

Tác giả: Tuyết Mai

Trước tiên xin Thiên Chúa mở rộng lòng từ bi Chúa, đón nhận tất cả mọi linh hồn đã chết bằng cách tự tử để chấm dứt cuộc đời của họ, ngoài ý muốn của Chúa; trong một tâm trạng mù rối và tuyệt vọng.   Cần thiết và quan trọng nhất là người ở lại (survivors) là gia đình cần thêm lời cầu nguyện thật nhiều cho linh hồn người thân của họ.

Buồn đau nhất là những linh hồn có đạo, không biết động lực xúi biểu nào đã dẫn đưa linh hồn ấy đi tìm cái chết để thôi muốn sống?.   Đã làm cho chẳng những gia đình buồn đau mà còn cả bao nhiêu bạn hữu thân thiết.   Tất cả đều tỏ lộ sự bất mãn vì hành động thiếu suy xét và điên rồ ấy, không nhất thiết phải để xẩy ra như vậy!.

Chẳng lẽ những linh hồn này lại có thể yếu đuối và bất lực đến như vậy hay sao? Trong khi ta hãy nhìn xã hội mà xem biết bao nhiêu người không nhà không cửa, không người thân thương, không  đủ miếng ăn nước uống, không thuốc men, thì họ sống ra làm sao?.   Ta có thấy ai tự tử đâu chỉ trừ khi họ bị giết hại thì không nói làm gì, thưa có phải?.

Các bác sĩ về Tâm Bệnh khuyên hết thảy chúng ta hãy để ý đến những dấu hiệu của người có ý định tự tử.   Nhưng khổ nỗi con người thường khi nghe ai hăm he tự tử thì
chẳng những không tin mà còn phá ra cười rũ rượi.   Thật phải vì hầu hết khi ai nói như vậy thì ta cho là họ đùa cợt cách thái quá, cách lố lăng, và cần sự chú ý của chúng ta, hay lợi dụng thời giờ của chúng ta mà than vãn về đời tư của họ.

Điều này thì cháu gái lớn nhà tôi đã trải qua bao nhiêu kinh nghiệm với sự lợi dụng của bạn bè, vì cháu có tấm lòng rất tốt.   Họ lợi dụng thời giờ của cháu và sự chăm sóc thật tận tình của cháu nữa.   Thế thì trong một cuộc sống quá xô bồ, quá bận rộn
thì lấy ai hay lấy thời giờ đâu để mà lắng nghe hay thông cảm cho người?.   Sự thật thì ngay cả trong gia đình chúng ta mà sự gần gũi và cho nhau thời giờ đã là chuyện hiếm thấy có của rất nhiều gia đình.

Có phải đó là nguyên do chính cho những vũ tự tử, đã xẩy ra không? Những lần ta nghe thấy trường hợp như thế thì ai là người có trách nhiệm trên người đã chết ấy?.   Hay chúng ta cũng chẳng cần biết vì chẳng phải chuyện của ta và tin rằng chẳng bao giờ lại có thể xẩy đến cho ta hay cho gia đình?.

Để tin được như thế thì hy vọng rằng gia đình chúng ta luôn phải sống bám vào Thiên Chúa, là điều cần thiết hơn cả!.   Kế đến là cố gắng dành thời giờ cho nhau ít là trong giờ cơm tối của gia đình.   Hoặc tập thói quen tốt lành là chung nhau đọc kinh tối.   Chỉ có thế thì Thiên Chúa và Mẹ Maria sẽ luôn ngự trị trong lòng và tâm hồn của từng người chúng ta.

Còn vấn đề sức khỏe, chúng ta cũng nên thường xuyên để ý lẫn nhau, để có thể đoán được một người có tâm trạng chán sống như: ít nói hẳn, thích co rút một mình vào một nơi trống vắng, không thích trò chuyện cùng ai, uống rượu giải sầu, hay có những thái độ hay hành động đáng nghi ngờ, v.v… Chúng ta có thể mang người nhà của chúng ta đến gặp bác sĩ để được bác sĩ khám bệnh và trị liệu, nếu người ấy mang chứng bệnh trầm cảm trầm trọng; cần phải có thuốc uống, để có thể quân bình lại những gì rối rắm trong bộ óc không được bình thường ấy.

Dầu gì đi chăng nữa thì người thân thương của chúng ta cũng cần thiết và quan trọng hơn nhiều đối với những vật chất vô tri vô giác mà chúng ta mãi hoài kiếm tìm ở ngoài kia!?.   Hy vọng những lời khuyên trên cũng giúp được ít nhiều cho anh chị em và xin hiểu rằng sự sống của chúng ta ảnh hưởng đến rất nhiều người chung quanh.   Vì uổng lắm thay Thiên Chúa tác tạo ra từng người là để nhờ ta một tay hoàn tất chương trình của Chúa trên thế gian này.   Tưởng tượng hình ảnh ấy chẳng khác nào Thiên Đường là ngọn Núi Cao, nhưng thiếu người làm Đường thì con đường Thiên Đàng ấy sẽ bị chậm lại vì thiếu nhân lực.   Mà con đường xây cất ấy vẫn cứ phải liên tục được xây cho đến khi xong; như câu “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
vậy!.

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

12-05-12

4 cách truyền giáo

4 cách truyền giáo

Tác giả RYAN EGGENBERGER

TRẦM THIÊN THU
Bạn là người Công giáo và sống yêu thương. Bạn muốn chia sẻ Tin Mừng với những
người quen biết, chẳng hạn các đồng nghiệp. Đó là sống dồi dào trong Đức Giêsu
Kitô nơi Giáo hội Công giáo và là điều tốt lành!
Chúng ta thường nghe nói rằng người Công giáo và người Kitô giáo gây phiền
toái, thúc ép, và cực đoan. Điều này chỉ đúng trong một số ít trường hợp, còn
đa số chúng ta đều là những người thân thiện bình thường.
Tuy nhiên, hành động thân thiện khả dĩ chấp nhận không miễn trừ chúng ta đối
với việc chia sẻ Tin Mừng. Thật vậy, đó là một trong số ít điều mà chúng ta
thực sự phải làm theo lệnh Chúa Giêsu truyền: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở
thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28:19-20).
Có nhiều cách để chia sẻ Tin Mừng mà không thúc ép, gây phiền toái và cực đoan.
Mục đích là tạo cơ hội để chia sẻ niềm vui về Đức Giêsu Kitô. Cách tốt nhất là
“làm bạn với ai đó và đem người đó đến với Đức Kitô”. Hãy thử thực hiện những
cách loan truyền Tin Mừng sau đây:
1. Sống hiền lành và hòa đồng
Người hiền lành vui vẻ sẽ thu hút nhiều người khác. Bạn có thể sống vui vẻ và
hòa đồng ở mọi nơi mà không gây phiền toái cho ai. Hãy vui cười và sống tích
cực. Hãy mặc lấy Đức Giêsu Kitô để nhìn mọi người và mọi thứ bằng con mắt đức
tin.
Điều này không có nghĩa là bạn phải tỏ ra ngây ngô. Điều xấu có thể xảy ra,
chẳng hạn như đau khổ. Nhưng đối với những người nhìn bằng con mắt đức tin và
hiểu biết giáo huấn của xã hội, đau khổ có thể trở thành vinh quang của Thiên
Chúa. Niềm vui trong Chúa là sức mạnh của chúng ta. Người ta sẽ “thắc mắc”
không hiểu sao bạn lại sống lạc quan trong gian khó như vậy. Đó là tín hiệu
tốt!
2. Yêu thương tha nhân
Đó có thể là điều cũ kỹ gây nhàm chán, nhưng đó lại chính là mệnh lệnh của Đức
Kitô: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh
em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh emThầy ban cho anh em một
điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy
đã yêu thương anh em” (Ga 13:34).
Làm sao chúng ta có thể yêu thương tha nhân như Chúa Giêsu yêu thương chúng ta?
Có thể chúng ta cho là khó vì không hợp lý. Điều Chúa Giêsu đã làm trên Thập
giá vì chúng ta là điều không thể lý giải theo trí tuệ của nhân loại: Chúa
Giêsu chịu chết hoàn toàn vì người khác, tức là chúng ta. Như vậy chúng ta cũng
phải sống hết mình vì tha nhân. Tại sao? Chúng ta đã được Chúa thương xót thì
chúng ta có trách nhiệm và bổn phận phải thương xót tha nhân. Đó là công lý!
3. Phát triển các mối quan hệ
Nhiều người không có những người bạn đúng nghĩa, theo cách nói của người Việt là
ít “bạn” mà nhiều “bè”. Đó là một thực tế. Đặc biệt là nam giới, thường chỉ ăn
nhậu với nhau vậy thôi, chứ thực sự chưa hẳn là bạn.
Bạn bè với nhau có thể do cùng mục đích, cùng quan điểm, cùng sở thích,… Thực
ra ai cũng có thể là bạn của nhau, dù khác nhau về niềm tin tôn giáo, nghề
nghiệp, sở thích,… nếu có lòng nhân đạo, tình yêu thương. Tình yêu thương vô
điều kiện, mà tình bạn là một dạng yêu thương, thế nên tình bạn không đòi hỏi
gì cả.
4. Khuyến khích người khác sống tốt
Nhân chi sơ tính bổn thiện. Sinh ra ai cũng có bản chất tốt. Chúng ta luôn phải
cố gắng vươn lên để đạt được điều tốt nhất, và phải nỗ lực tuân theo các giáo
huấn của Chúa trong mọi hoàn cảnh, cùng đích là Nước Trời. Lên trời một mình là
ích kỷ, nên chúng ta phải kéo người khác cùng lên. Thánh Phaolô nói: “Trong
cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một
người đoạt giải. Anh em hãy chạy thế nào để chiếm cho được phần thưởng” (1 Cr
9:24).
TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ IgnitumToday.com)
nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Vấn đề lương tâm

Vấn đề lương tâm
Đăng bởi cheoreo lúc 3:13 Chiều 5/12/12
TRẦM THIÊN THU

VRNs (05/12/2012) – Sài Gòn- Tôi có anh bạn lớn hơn tôi 10 tuổi. Chúng tôi gặp nhau hằng tuần cùng uống cà-phê và phiếm đàm nhiều chuyện – từ tôn giáo đến xã hội, từ giáo dục tới kinh tế, từ giao tế xã hội tới đạo hiếu gia đình,… Thậm chí chúng tôi trao đổi cả về cuộc đời và sự chết.

Khoảng 10 năm trước, xe tôi hư, muốn sửa xe mà không quen ai, sợ gặp thợ “vô tâm” làm ẩu và “chém đẹp”. Đứa cháu nói có ông già sửa xe trên khúc đường gần tới nhà
thờ, và nó “láy” một câu: “Ông ấy khó tính lắm”.
Một lần, hai lần, rồi nhiều lần. Tôi đến “ông già” để sửa xe. Cứ thế thành quen,
rồi thân. Tôi nói với đứa cháu: “Có thấy ông ấy khó tính gì đâu!”. Cứ khoảng
hai hoặc ba tuần tôi không ghé là ông lại nhắc: “Lâu quá không ghé, tưởng đi
đâu xa rồi chứ. Nói thật lòng, không thấy Đông ghé tôi cũng thấy nhớ”. Tôi ghé
tiệm sửa xe của anh có khi không sửa xe mà chỉ để phiếm đàm sự đời, tâm sự với
nhau cho quên “khổ ải trần gian” vậy thôi.
Có lần anh nói: “Có những người giàu, buôn bán lấy lời thẳng tay. Có khi lời gấp
đôi, gấp ba lận. Mà không phải người bình thường đâu, họ là con cha cháu ông
đó. Mình nghèo thật, nhưng sửa xe cho khách mà lấy mắc hơn một vài ngàn, đêm
nằm suy nghĩ thấy áy náy lắm. Áy náy thật chứ không giỡn nha”. Tôi cười: “Vậy
chứ sao. Có lẽ vậy nên họ giàu. Mình nghèo có khi còn bị cho là chảnh”.
Đó là vấn đề lương tâm. Có người áy náy vì chuyện rất nhỏ, nhưng có người không hề
áy náy vì chuyện lớn. Lương tâm mỗi người đều có những mức độ khác nhau: Đúng
đắn hay sai lệch? Trong sáng hay chai lì? Còn thức hay đã ngủ? Và người ta
thường “chua cay” nói: Lương tâm không bằng lương tháng. Vâng lương tâm có răng
đâu mà cắn rứt!
Tin tức cho biết: Trên đường Bùi Thị Xuân (Q. 1, TPHCM), hai xe máy va quẹt chưa
xảy ra nguy hiểm nào, nhưng chỉ vì một lời nói không lọt tai mà một thanh niên
đã hung hãn giết hai người chết tại chỗ. Nghe TIN mà TỨC. Do đó mà người ta gọi
là… tin tức.
Rồi trên xe buýt chạy tuyến QL 13 đi Bình dương, một đạo tặc “hai ngón” bị bà già
ngăn cản liền đâm vào mặt bà. Hai thanh niên thấy vậy nên ra tay nghĩa hiệp
cũng bị hắn đâm, một anh bị đâm vào lưng và một anh bị đâm vào đùi.
Đọc báo Tuổi trẻ mà… giật mình, không thể tưởng tượng nổi khi các “cô chiêu, cậu
ấm” của các đại gia còn xài sang hơn “công tử Bạc Liêu” xưa: Họ điểm tâm sáng
vài trăm triệu đồng VN, buổi tối họ vào các bar chi khoảng vài ngàn USD. Với
họ, như vậy là… chuyện nhỏ, và như vậy mới chứng tỏ “đẳng cấp”!
Nhưng, tháng 8/2010, anh lái tàu hỏa tên Thức – với 20 năm kinh nghiệm – đã nhanh chóng quyết định dùng cách khác để thắng đoàn tàu khi gặp sự cố, dù anh biết
nguy hiểm cho tính mạng mình. Anh bị trọng thương, dập nát hai chân và dập lá
lách, nhưng anh đã cứu sống hơn 300 hành khách. Lái tàu có cách thắng khác
không nguy hiểm cho mình, nhưng có thể nguy hiểm cho cả đoàn tàu. Anh đã chọn
phần nguy hiểm về phần mình. Anh có vợ và con gái. Nhà nghèo, chiếc xe máy cũng
chưa mua được, nhưng anh Thức vẫn hoàn toàn là con người vĩ đại với một lương
tâm trong sáng.
Giữa đêm tối bao phủ dày đặc, một que diêm lóe sáng cũng đủ để người ta nhìn thấy.
Cũng vậy, một động thái dù rất nhỏ cũng đủ người khác nhận ra. Muốn giỏi một
ngoại ngữ, người ta cần đan quyện cả 4 kỹ năng: Nghe, Nói, Đọc (hiểu), Viết.
Cuộc sống cũng cần các kỹ năng tương tự vậy. Hymans nói: “Giá trị mỗi con người
tùy thuộc lý tưởng cao hay thấp mà mình theo đuổi”.
M. Blanchecotte nói: “Hãy tưởng như mình sắp chết và hãy hành động như mình bất
tử”. Quả thật, trong con người luôn có sự giằng co mãnh liệt, do đó “nghĩ đúng,
nói đúng, vậy cũng chưa đúng, mà còn phải làm đúng” (Lachausser). Cuộc sống
phải tích cực và dứt khoát, không được tiêu cực hoặc lừng khừng, vì Chúa nói:
“Ngươi hâm hẩm, chẳng nóng chẳng lạnh, Ta sẽ mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh
3:16).
Nói đến lương tâm là hiểu ngầm có sự giằng co trong mỗi con người. Điều quan trọng
là chúng ta chứng tỏ bằng chính hành động cụ thể, đừng nghĩ rằng “vắng mợ thì
chợ vẫn đông”. Chân phước Nữ tu Teresa Calcutta đã chia sẻ: “Chúng ta cảm thấy
những gì chúng ta làm chỉ là một giọt nước trong đại dương. Nhưng đại dương sẽ
ít đi vì thiếu giọt nước đó” (We ourselves feel that what we are doing is just
a drop in the ocean. But the ocean would be less because of that missing drop).
Lạy Chúa, xin tạo cho chúng con trái tim trong sạch, lương tâm trong sáng, và giúp
chúng con can đảm hành động. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô,
Thiên Chúa của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU

Ba bài giảng sám hối

Ba bài giảng sám hối

(Mùa Chay, tháng 4/1990)

Nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp – DCCT

(đường Kỳ Đồng, Sài Gòn)

 

Bài giảng thứ hai

Sám hối tập thể Giáo hội

nguồn: chuacuuthe.com

Hôm qua, ta đã đề cập đến sám hối cá nhân: thường ta dựa vào lề luật để xét mình và sám hối (Mười điều răn Thiên Chúa, Sáu điều răn Hội thánh). Tôi đã lưu ý anh chị em việc sám hối dựa trên căn bản của một Kitô hữu: lời gọi nên hoàn hảo của Chúa Kitô và ba chức năng của Kitô hữu (tư tế, ngôn sứ và vương đế).

Hôm nay, ta đề cập đến sám hối tập thể Giáo hội dựa trên mầu nhiệm và sứ mạng của Giáo hội.

1. Mầu nhiệm Giáo hội:

Trong Hiến chế về mầu nhiệm giáo hội, Công đồng Vatican nói: “Ánh  sáng thế gian chính là Đức Kitô, do đó Giáo hội phải phản chiếu ánh sáng ấy cho muôn dân, khi rao giảng Tin mừng cho mọi người. Giáo hội là bí tích của Chúa Kitô, vừa là dấu hiệu, vừa là phương tiện để mật thiết kết hợp với Chúa và hợp nhất nhân loại với nhau. Vì thế giáo hữu phải biết rõ đặc tính và sứ mạng Chúa Kitô đã giao phó cho Giáo hội”.

Ý Chúa Cha là cứu độ mọi người: Thiên Chúa muốn nâng mọi người lên tham dự đời sống Thiên Chúa. Con người sa ngã, Chúa Kitô cứu độ. Thiên Chúa muốn những ai tin Chúa Kitô hợp thành Giáo hội. Chúa Kitô lập Giáo hội. Chúa Thánh thần hoàn tất.

Giáo hội nhiệm thể Chúa Kitô: Chúa Kitô là đầu. Một thân mình, nhiều chi thể. Đòi hỏi sự thống nhất trong sự khác biệt các chi thể trong Giáo hội có cố gắng xây dựng sự hợp nhất và tôn trọng sự khác biệt các chi thể.  Để cho Chúa Kitô là đầu lãnh đạo Giáo hội qua lời Ngài không bị bóp méo. Tôntrọng giám mục, không thể cho một đoàn thể nào trong Giáo hội dựa vào quyền lực để điều khiển sinh hoạt của Giáo hội. Tinh thần Đức Kitô hay tinh thần thế gian chạy theo chiều gió chi phối Giáo hội? Giáo hội là một thân thể có phần vô hình và hữu hình, ta làm gì để phát triển? Có phấn đấu để có điều kiện phát triển?

2. Sứ mạng của Giáo hội

+ Chức năng tư tế:

Giáo hội là dân riêng mới của Thiên Chúa, với giao ước mới trong Máu Chúa Kitô, Thượng đế, trao quyền cho hàng Giáo phẩm, ngoài chức tư tế cộng đồng của toàn thể tín hữu và của mỗi tín hữu như đã nói hôm qua.

Giáo hội Việt Nam đã làm gì, đã phấn đấu như thế nào để thực hiện chức năng tư tế của hàng giáo phẩm?

Để bảo đảm chức năng tư tế ta cần:

+ Đào tạo linh mục: tự do lập chủng viện, chọn giáo sư, chọn chủng sinh, chọn chương trình đào tạo.

+ Thuyên chuyển linh mục coi xứ, phong giám mục, linh mục.

+ Tổ chức phụng tự, thánh lễ, cầu kinh có được tự do chưa? Đã phấn đấu như thế nào?

Phải nói đến nay, ta chưa phấn đấu đủ, không phải âm thầm năn nỉ ỉ ôi, mà công khai cho dư luận biết.

+ Chức năng ngôn sứ:

Tự do rao giảng Tin Mừng, giáo lý tân tòng, trẻ em? sách vở báo chí? Kinh Thánh? Giáo hội Việt Nam có nói thẳng nói thật với chính quyền về những vi phạm tự do tôn giáo? Có lên tiếng bênh vực nhân quyền, dân quyền? Hiến chế về Giáo hội trong thế giới ngày nay nói: “Nỗi vui mừng và niềm hy vọng, những buồn khổ và mối lo âu của con người hôm nay, cách riêng của những người nghèo và tất cả những ai đang đau khổ, đó cũng là vui mừng và hy vọng, đau buồn và lo âu của môn đệ Chúa Kitô: Không có gì liên quan đến nhân loại mà không  có tiếng vang trong cõi lòng tín hữu Chúa Kitô. Cộng đồng Kitô hữu gồm những con người, được họp lại trong Chúa Kitô, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trên đường về nước Cha, họ mang sứ điệp cứu độ phải được gửi đến cho tất cả Cộng đoàn tín hữu cảm thấy thực sự và sâu xa liên đới với con người lịch sử nhân loại.”

Trong tinh thần phục vụ con người, Giáo hội Việt Nam cần xét mình lại xem mình có thực sự và sâu xa liên đới với con người Việt Nam hôm nay.

Người Việt Nam hôm nay hy vọng và lo âu cái gì? Họ lo âu trước tình trạng xã hội tan rã trên mọi phương diện: trong đó họ bị tước đoạt những quyền căn bản của con người và người dân. Con người sinh ra bình đẳng và tự do, có tất cả những quyền căn bản của con người mà Thiên Chúa ban cho họ, thêm vào đó ngày 10/12/1948 Liên Hiệp Quốc đã ra Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền có đoạn nói như sau:

“Xét rằng thừa nhận phẩm giá cố hữu những quyền bình đẳng và bất khả nhượng của con người trong đại gia đình thế giới là đặt nền tảng cho tự do, công lý và hòa bình thế giới.”

“Xét rằng vì không biết rõ và khinh miệt nhân quyền nên loài người đã có những hành động dã man đối với lương tâm và xét rằng sự tiến tới một thế giới trong đó nhân loại sẽ được hưởng tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng và tự do sinh sống không phải sợ hãi và thiếu thốn, đã được tuyên bố là nguyện vọng cao cả nhất của con người.”

“Xét rằng điều tối cần là nhân quyền phải được pháp luật che chở, nếu muốn cho loài người không bao giờ phải dồn đến phương tiện nổi loạn, để chống lại sự tàn bạo và áp bức… Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc công bố bản Tuyên ngôn Quốc tế này như là một lý tưởng chung cho các dân tộc và các quốc gia phải tiến tới.”

Tiếp đó bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền đưa ra 30 điều về nhân quyền:

– Quyền được hưởng tự do và an ninh cá nhân (3),

– Quyền không bị hành hạ hay ngược đãi, bị đối xử hay trừng phạt một cách vô nhân đạo, làm hại phẩm cách con người (5),

– Quyền được bình đẳng trước pháp luật, được pháp luật bảo vệ (7),

– Quyển khỏi bị bắt bớ, bị lưu đày một cách trái phép (9),

– Quyền được xét xử bình đẳng trước một tòa án vô tư và độc lập (10),

– Quyền được coi như vô tội khi bị truy tố mà chưa có tòa xét xử với bằng chứng để buộc tội (11),

– Quyền không được xúc phạm trái phép đến đời tư, gia quyến, nhà ở, thư từ (12),

– Quyền được tự do di chuyển và trú ngụ bất cứ nơi nào trong nước họ và quyền tự do rời bỏ bất cứ nơi nào, kể cả xứ mình, hoặc trở về xứ mình
(13),

– Quyền tự do kén chọn một quốc tịch theo ý muốn (14),

– Quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng (18),

– Quyền tự do bày tỏ ý kiến, tự do tìm kiếm, thu nhận và truyền bá những quan niệm và ý tưởng của mình (19),

– Quyền tự do hội họp và lập hội để theo đuổi mục tiêu hòa bình và không bắt buộc ở trong một hội nào (20),

– Quyền bầu cử tự do (21),

– Quyền hưởng an sinh xã hội (22),

– Quyền làm việc, quyền tự do lựa chọn việc làm của mình, quyền hưởng số lương phải chăng và đủ để bảo đảm cho mình và cho gia đình một đời sống xứng đáng với phẩm giá con người, mọi người có quyền lập và gia nhập nghiệp đoàn để bảo vệ những quyền lợi của mình (23),

– Quyền hưởng một mức sống đầy đủ cho sức khỏe và hạnh phúc của mình, của gia đình mình, quyền hưởng tiện nghi giáo dục, y tế (25),

– Quyền cha mẹ lựa chọn giáo dục cho con cái (26)…

Giáo hội Việt Nam trong đó có Hội đồng Giám mục Việt Nam, các giám mục địa phận, các linh mục, tu sĩ và giáo dân, Giáo hội Việt Nam đã làm gì, đã lên tiếng khi thuận khi nghịch, khi âm thầm khi công khai, để người ta trả lại những quyền căn bản của con người cho con người Việt Nam hôm nay?

Phải nói là đau lòng khi thấy Giáo hội quá âm thầm chịu đựng và không dám nói thẳng, nói thật. Có nói âm thầm không, chắc cũng có, nhưng như  đi xin ân huệ, năn nỉ ỉ ôi, trả giá, còn công khai thì thật là hiếm. Còn có ông vỗ ngực đại diện giới công giáo đã vung vít tuyên bố một câu nghe xanh rờn như một lời tuyên xưng đức tin vào Đảng Cộng sản Việt Nam, tại buổi họp khoáng đại của Quốc hội (7/7/1976): “Tôi xin phép nói lên tâm tình của một linh mục công giáo (…), báo cáo chính trị (của Quốc hội) càng làm ta xác tín thêm hơn nữa rằng con người mới, xã hội mới mà mọi người đều mơ ước, mà mọi người tin vào Chúa Kitô mãi mơ ước, con người mới đó, xã hội mới đó không thể có được, nếu không có Đảng Lao động Việt Nam (Đảng CSVN), đội tiền phong của giai cấp công nhân lãnh đạo và tổ chức.”

Không biết linh mục ấy đã ân hận chưa? Có lẽ đã ân hận, vì những gì mắt thấy tai nghe, không thể mù, không thể điếc được thì phải nhức nhối lắm.Nhưng có sám hối chưa? Chưa thấy. Đã công khai nói như thế nào, thì sự sám hối cũng phải công khai.

Một vị ‘yêu nước’ khác lại tuyên bố nào là Nước Thiên Chúa đã đến với chế độ CSVN, nào là Đảng CSVN tạo điều kiện cho ta giữ đạo. Đó là những lời nịnh bợ vô liêm sỉ, khi Giáo hội đang bị bóp chết bằng cách giới hạn đào tạo linh mục, đóng cửa các nhà đào tạo tu sĩ, cấm in sách vở báo chí Công giáo, việc dạy giáo lý bị giới hạn, việc thờ phụng có nơi làm khó dễ, linh mục đi lại giảng đạo nơi khác bị cấm đoán, các hội đoàn tông đồ giáo dân, công tác xã hội giáo dục bị loại bỏ.

Còn một vài vị trong hàng lãnh đạo của Giáo hội Việt Nam hoặc ngây thơ vô tội, hoặc có tính toán, nên người ta ‘cho phép’ cái không cần ‘xin phép’ thì cuống quít coi như ân huệ và khen lấy khen để ông nào đó như câu: “Người  tốt lắm, người chân thành lắm.” Trên đất nước này, người ta coi mọi nhân quyền và dân quyền là ân huệ ngưởi ta có thể ban cho, có thể giới hạn, có thể mở rộng, có thể rút lại. Họ coi họ hơn cả Thiên Chúa – Thiên Chúa ban cho con người tự do và không bao giờ rút lại, kể cả khi còn người phản bội Ngài, đóng đinh con của Ngài. Giáo hội phải đòi hỏi người ta trả những quyền căn bản của con người, chứ không có vấn đề xin xỏ, năn nỉ, ỉ ôi.

+ Chức năng vương đế:

Giáo hội Việt Nam phải phấn đấu để thực thi quyền phục vụ con người và Thánh Kinh gọi là quyền vương đế. Phục vụ người nghèo, người đau khổ, người bị bóc lột, người bị áp bức. Một mục sư như Martin Luther King đã bị ám sát ở Hoa Kỳ vì bảo vệ quyền người da đen, chống phân biệt chủng tộc. Giám mục Roméro và sáu linh mục dòng Tên đã bị ám sát ở Salvador vì bênh vực những người  áp bức. một hồng y như Wyszynski ở Balan đã gặp nhiều khó khăn vì bênh vực Giáo hội, một hồng y khác như Tomasek ở Tiệp Khắc đã phấn đấu cho Giáo hội như lời ngài tuyên bố trước 200 ngàn người biểu tình tại Praha ngày 21/11/1989 và đã được đọc tại các nhà thờ ngày chủ nhật 26/11/1989.

Sau khi đề công chúa Anê miền Bohêmia của Tiệp Khắc vừa được Đức Giáo chủ Gioan Phaolô II phong lên hiển thánh là một người tuy tu trong một đan viện vì lòng mến Chúa yêu người, nhưng không ngừng ở cạnh dân mình trong những giờ phút vinh quang cũng như trong những lúc tủi phận, Đức hồng y Tomasek nói:

“Về phần tôi, tôi không thể nào tỏ ra xa lạ với định mệnh quốc gia chúng tôi và toàn thể đồng bào đất nước tôi. Tôi không thể im lặng trong lúc tất cả anh chị em đang hợp lực với nhau để phản đối những bất công mà anh chị em phải chịu từ 40 năm nay, người ta không thể duy trì lòng tín nhiệm đối với giới lãnh đạo quốc gia không muốn nói sự thật và đối bỏ các quyền tự do của nhân dân với truyền thống có từ hàng ngàn năm nay, những quyền này vẫn được coi là những quyền bình thường trong những quốc gia trẻ trung hơn trong đất nước ta.”

Rồi ngài kể lại bao nhiêu lần Giáo hội gởi đến Nhà nước những lời khiếu nại nhưng Nhà nước đã làm ngơ, Giáo hội tiếp tục lệ thuộc Nhà nước theo những điều hạn chế được áp đặt trên Giáo hội thời Staline. Trong việc cai quản giáo phận, các giám mục hoàn toàn lệ thuộc Nhà nước và lời nói quyết định trong vấn đề này dường như vẫn là lời nói của cơ quan mật vụ, những cuộc hội họp của các giám mục và linh mục đều bị cản trở vì sự hiện diện của các đại diện Nhà nước trong các buổi họp, bầu không khí thiếu tự do, các tín hữu trưởng thành cũng như con cái họ và nhất là các bạn trẻ công giáo thật khó thở…

Tình trạng đau buồn tương tự như thế cũng xảy ra trong các lãnh vực khác của đời sống, trong lãnh vực văn hóa, thông tin.

Rồi ngài kết luận: “Tôi muốn ngỏ lời với tất cả anh chị em trong giờ phút quyết liệt này của lịch sử của chúng ta. Không ai trong anh chị em được đứng ngoài lề. Hãy lên tiếng hợp với tất cả công dân Tiệp Khắc, cùng với những người thuộc sắc tộc khác, dầu họ là tín hữu hay không có ngưỡng. Quyền tự do tín ngưỡng không thể tách rời khỏi những quyền dân chủ khác, tự do là điều không thể phân chia được.”

Những lời tuyên bố trên đây của Đức Hồng y Tomasek làm cho tôi suy
nghĩ. Và tôi cũng để cho anh chị em suy nghĩ, sau khi tôi đã phân tích tình
trạng thiếu phấn đấu của Giáo hội Việt Nam cho tự do tôn giáo và cho nhân quyền
và dân quyền của người dân Việt nam hôm nay. Mong rằng Giáo hội Việt nam
sẽ sám hối về những điều thiếu sót đó.

Để kết thúc, tôi đưa ra lời nói cuối cùng của hồng y Tomasek trong buổi mít tinh kể trên. Ngài nói : “Tôi xin chấm dứt nơi đây với những lời đã từng vang dội đã lâu trong lịch sử của chúng ta: Với sự trợ giúp của Thiên Chúa, số phận của chúng ta ở trong tay chúng ta. “Amen”.

 

Lm. Chân Tín

Thánh Gioan Đamas, Tiến sĩ Hội Thánh

Thánh Gioan Đamas, Tiến sĩ Hội Thánh

Ngày 4/12

Thánh Gioan Đamas sinh tại Đamas vào khoảng năm 675. Cha ngài giữ một chức vị quan trọng trong triều đình và chính ngài lúc đầu cũng theo đuổi những vinh quang trần thế trước khi theo tiếng gọi trời cao (710). Ngài bỏ mọi sự, lên đường tìm một cuộc đời trầm lặng trong tu viện thánh Sabas tại sa mạc Giuđa và ngài đã sống ở đó cho đến mãn đời. Là thầy dòng, rồi linh mục, ngài đã chuyên tâm nghiên cứu thần học và giảng thuyết. Những suy tư của ngài đã tạo được một ảnh hưởng lớn tại Tây Phương cũng như Ðông Phương. Nhưng tác phẩm danh tiếng nhất của ngài là ba tập Minh Giáo (726-730) bênh vực việc tôn kính ảnh tượng, chống lại những ngăn cấm của hoàng đế Léon Isaurien và Constantin V. Ngoài ra, chúng ta còn lưu giữ được những bài giảng của ngài về Ðức Mẹ và ngài xứng đáng với danh hiệu “Tiến sĩ thần học về Ðức  Maria”. Ngài chủ trương: Là Mẹ Thiên Chúa hằng sống, Ðức Maria cũng phải
được đưa về trời… Hơn nữa, ngài còn là một thi sĩ, và những sáng tác của ngài thường được dùng trong phụng vụ Ðông Phương. Tư tưởng của ngài là những chất liệu giúp chúng ta suy nghĩ về mầu nhiệm nhập thể, Thiên Chúa yêu thương loài người.

Nguồn: Vietnamese  Missionaries in Asia
Maria  Thanh Mai gởi

 

ÁO DA,

ÁO DA,

Mẹ tặng cha cho chiếc áo da,
Mặc bốn mùa qua vẫn đẹp ra,
Thân con ấm lạnh cùng năm tháng,
Giữ mãi tình yêu đậm nét ngà…
Ngày đêm chải chuốt cho thêm sáng,
Nắng cháy mưa dầm chẳng dám than,
Băng rừng vượt dốc qua đồi núi,
Áo vẫn liền da thật mượt mà…
Đời con khắng khít cành liền lá,
Sống chết bên nhau chẳng nở xa,
Đồng lòng hợp tác không chia rẽ,
Áo mặc muôn ngày… áo Mẹ Cha…
Liverpool.3/12/2012.
Song Như.
Kính gởi Quý Thầy Cô và các bạn LVC.

Con Lu nhà tôi

Con Lu nhà tôi

Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích

Trong ba chú chó mới sinh, bà dì ở Ðà Lạt cho tôi một con và được chọn ưu tiên. Cả ba đều là chó đực nên chỉ cần lựa con nào có bộ lông đẹp nhất là đủ. Khi tôi ngồi sà vào ổ của ba chú chó chưa mở mắt, chợt con có màu lông xám, hai đốm vàng trên lưng ngúc ngoắc đầu đánh hơi bò về phía tôi. Nó đưa cái mõm mũm mĩm, ươn ướt ủi vào bàn chân của tôi. Cái đuôi cũn cỡn ngoe nguẩy như loài chuột xạ…

Hai tuần lễ sau tôi ghé thăm dì. Bầy chó đã mở mắt đang ngậm vú mẹ. Khi nghe
tiếng tôi trốc trốc, chú chó lông xám ấy bỏ vú mẹ bò vào lòng tôi. Dù màu lông
không nổi bật như hai con kia nhưng tôi thích cái tính thân thiện của nó ngay
từ giờ phút đầu.

Mang chó về nhà, con tôi chê màu lông nhớp nhem rồi tự động đặt tên là Lu. Dù
mới một tháng tuổi, nhưng khi rời chó mẹ về nhà tôi, Lu ít khi kêu đêm như
những chú chó con khác. Ban đầu cho Lu bú bằng bình sữa, rồi cho ăn sữa đặc đổ
vào đĩa. Chỉ ba tháng sau là Lu lớn như thổi.

Lai lịch của dòng họ nhà Lu cũng ly kỳ lắm. Jolie là tên mẹ của Lu, giống chó xù Nhật Bản, nhỏ con, chân thấp, dáng đi lũn cũn. Nó hay qua nhà láng giềng đùa giỡn với anh chàng berger to con, tai vểnh, đôi chân sau vạm vỡ. Một hôm, lũ trẻ đến trước nhà Dì tôi kêu giật giọng rằng là con Jolie bị con chó berger của ông Tư Ðợi tha đi khắp khu vườn. Dượng tôi hốt hoảng chạy sang. Những tưởng con berger đã cắn chết con xù của nhà dượng.. Nào ngờ cảnh tượng lạ lùng rất khó tin đã xảy ra: Con berger lẹo với Jolie nhỏ hơn nó gấp mấy lần. Vì là phần kết thúc sau “cuộc mây mưa” của loài chó, cho nên hắn tha con cái còn mắc cứng phía sau đuôi. Hai chân sau của con Jolie bị treo hỏng trên cao chỉ còn cái mõm và đôi chân trước bị kéo lê trên đất. Nàng kêu toáng lên khiến chàng đâm hoảng na chạy khắp vườn như na cái đuôi của mình trở nên nặng chình chịch. Kết quả cuộc tình giữa hai “chủng tộc”, nàng Jolie đẻ ra ba chú chó lai. Nhờ vậy mà đời con của nàng không còn mang dáng dấp thấp lè tè của loài
chó xù nữa.

Con Lu lớn lên bộ lông ngày càng đẹp. Màu xám của mẹ pha màu vàng của bố mướt mượt như nhung. Hai đốm vá màu vàng đậm nằm hai bên hông, thoạt trông như yên ngựa. Dù không to con lớn xác như bố nhưng con Lu cũng vượt trội hơn đám chó nhà. Chân cao, dáng đi oai vệ như loài hổ. Hai vai rộng, u thịt nổi vồng lên khi nó bước đi. Cặp mắt ánh lên màu lửa như có thần lực. Ðàn chó hàng xóm gặp Lu là cụp đuôi chạy dài. Sau này, những lần đi săn giải trí loanh quanh ở những khu đồi còn an ninh, tôi mới nhận biết loài chồn, loài thỏ thấy Lu là hồn xiêu phách lạc, đứng chôn chân tại
chỗ. Mỗi lần con tôi đi học về là dành nhau ôm Lu vào lòng. Tình cảm giữa chó
và người không hề phân biệt. Ngoài cái khứu giác bẩm sinh độc đáo của loài chó
có thể đánh hơi hàng mấy dặm, thính giác con Lu còn phân biệt được tiếng xe
quen thuộc của tôi từ xa. Nó nghểnh mõm, ve vẩy đuôi chạy ra trước sân. Nhìn cử
chỉ đó là nhà tôi đoán biết tôi sắp về đến nhà. Lu cạ vào chân tôi từ lúc xuống
xe đến khi tôi vỗ về âu yếm nó mới chịu đi nơi khác. Lu cũng cảm nhận khá nhạy
bén lúc tôi buồn bực hay giận hờn. Những lúc ấy nó nằm khoanh tròn nhìn tôi với
ánh mắt buồn xo. Ðến khi tôi vui vẻ trở lại là Lu chạy đến cạ lưng vào người và
liếm tay tôi như để hòa đồng niềm hân hoan với chủ.

*

Sau ngày “gẫy gánh 75”, tôi lên đường trình diện ban Quân quản thị xã. Tôi mang theo mười ngày gạo cùng ít đồ dùng, từ biệt vợ con với bao âu lo trong lòng. Khi bước ra khỏi cửa, con Lu cứ luấn quấn cản bước chân, tôi trực nhớ đến nó liền cúi xuống ôm Lu vào lòng. Ánh mắt ươn ướt buồn thiu của nó nhìn tôi chẳng khác gì đôi mắt của vợ tôi rươm rướm lệ. Lu liếm vào mặt tôi như quyến luyến từ biệt chủ phải đi xa lâu ngày. Trong tù, nhớ lại ánh mắt con Lu, tôi hiểu ra rằng loài chó còn có một giác quan đặc biệt, cảm tính rất nhạy bén về thái độ và tâm trạng của người gần gũi nó. Những tưởng mười ngày nửa tháng rồi quay về, nào ngờ cách biệt gia đình với thời gian dài hun hút. Tôi nhớ con Lu cũng tương tự như nhớ các con tôi. Nỗi lo ngại của tôi là lương thực ngày một khó khăn làm sao vợ tôi chạy đủ bữa cho đàn con bốn đứa lại thêm miệng ăn con chó.

Một ngày nọ, nhà tôi lên trại tù thăm, cho biết chú Dương Thái Lân, con của bà cô Út tôi từ Bắc về Nam có ghé thăm gia đình. Chú ấy bảo con Lu có cốt tướng nòi săn, muốn xin nó về đơn vị nuôi để săn mồi cải thiện thịt tươi. Lân là vai em nhưng lớn tuổi hơn tôi nhiều. Ði bộ đội từ trước 1954, sau tập kết ra Bắc được sang Tiệp Khắc học ngành cầu đường. Hiện là thủ trưởng đơn vị Công binh sửa đường ở Cao nguyên. Vợ tôi nhất quyết không cho con chó, lấy lý do phải qua ý kiến của chồng.

Một hôm, quản giáo trại gọi tôi lên văn phòng ban giám đốc. Một anh bộ đội mặc
áo quần đại cán ngồi trong phòng tiếp khách tay cầm một tờ tạp chí cuốn tròn.
Anh cán bộ thấy tôi vào, liền hỏi:

– Nguyễn Tấn đấy à?

Tôi ngập ngừng:

-Thưa vâng.

-Tôi là Dương Thái Lân.

Tôi à lên một tiếng để tỏ rằng mình biết hắn là ai. Thực ra, qua 21 năm ở Bắc
và mấy năm đi bộ đội Vệ Quốc Ðoàn làm sao tôi nhớ nỗi cái khuôn mặt ngày xưa
của thằng em con bà cô Út. Ðưa tờ báo cuốn tròn cho tôi, hắn bảo:

– Ngày trước anh cũng viết sách, làm báo dữ dằn đấy nhỉ?

Tôi mở cuộn báo thì ra là tờ Bán nguyệt san Quyết Tiến. Ðó là tạp chí do tôi trách nhiệm biên tập trước 75 do cơ quan USAID của Hoa Kỳ yểm trợ ngân khoảng
để in ấn phân phát cho các đơn vị Ðịa phương quân và Nghĩa quân.

Lân bảo:

– Tôi có đọc trong đó truyện dài “Nhật Ký Bích Phương” của anh viết đăng nhiều kỳ về Tết Mậu Thân 68. Viết bạo đấy chứ, theo đúng sách lược tuyên truyền chống cách mạng của Mỹ Ngụy.

Tôi giật mình và cảm thấy bất an.. Hắn đưa tay ra hiệu lấy lại cuốn tạp chí rồi
lên tiếng:

– Tôi có ghé nhà thăm chị Tấn. Giai đoạn này mà trong nhà còn nuôi con chó kiểu
tiểu tư sản. Anh không sợ cặp mắt của quần chúng hay sao?

Tôi than thở:

– Thời gạo châu củi quế,
nhà tôi phải chạy gạo cho bốn miệng ăn, nhưng vì nuôi nó từ lúc mới sinh nên
tình cảm gắn bó như thành viên trong gia đình.

Hắn ngắt lời:

– Tôi có đề nghị với chị cho tôi mang con chó đó về đơn vị để đỡ bớt khẩu phần
ăn cho gia đình nhưng chị bảo phải qua ý kiến anh. Mới nhìn là tôi biết nó thuộc giống chó săn quý hiếm và có thể chống lại cả thú dữ.

Tôi bực mình trước cái lối điếm lỏi, nhưng cố nén giọng:

– Nếu chú thích con chó thì về hỏi nhà tôi, quyền quyết định ở bà ấy.

Tôi đứng lên chào hắn rồi đi thẳng xuống trại.

*

Ðến kỳ thăm nuôi sau, bà xã tôi báo tin chú Lân đến nhà bắt con Lu đi rồi. Bỗng
dưng mắt tôi như nhòa sương, lòng xót thương con Lu vô hạn. Từ ngày vào tù, tôi
nghi ngờ tất cả những gì người ta nói. Giờ đây Lân bảo đem Lu về nuôi hay ăn
thịt chỉ có trời biết. Thấy mắt tôi rưng rưng ngấn lệ, vợ tôi an ủi:

– Lũ con mình cơm không đủ ăn mà phải nhường cho chó một ít, lòng em cũng xót
xa lắm. Nó thiếu ăn nên cả đêm chạy rông kiếm mồi đến sáng mới về nhà. Lông nó
ướt nhớp nháp, đầy bùn. Biết đâu có cơm bộ đội dư thừa thân nó sẽ mập ra. Mình
có giữ lại một thời gian sau cũng bị người ta đập chết làm thịt thôi. Xã hội
bây giờ thiên hạ ghiền thịt chó lắm, anh có biết không?

Hết giờ thăm nuôi, tôi đứng vào hàng. Nhìn đôi mắt nhòa lệ của vợ khiến lòng
tôi xót xa vô cùng. Cả đêm hôm đó hình bóng con Lu cứ chập chờn trong giấc ngủ.
Tôi mơ thấy đôi mắt buồn rười rượi của Lu nhìn tôi trong ngày ra đi như báo
hiệu rằng nó không còn dịp gặp chủ nữa. Cái cảm giác man mác êm êm của lưỡi nó
liếm vào mặt, vào cổ, giờ đây tôi vẫn không quên. Niềm tin gắng gượng nhỏ nhoi
vào lời hứa của thằng em con bà cô là xin con Lu để canh chừng thú dữ và săn
mồi. Vả lại, cái công khó của Lân đã lặn lội đường xa đến trại cải tạo để gặp
tôi nên cũng an ủi phần nào.

 

“Xã hội bây giờ thiên hạ ghiền thịt chó lắm, anh có biết không?”

Nguồn: vietnamaaa.numeriblog.fr

Ba tháng sau, vợ tôi với khuôn mặt hớn hở báo với tôi con Lu không còn ở với chú Thái Lân nữa. Tôi ngạc nhiên hỏi dồn. Nàng kể:

– Cách đây một tuần lễ, chú ấy bất thần đột nhập vô nhà mình không giữ kẽ như những lần trước. Chú dáo dác nhìn trước nhà, nhìn sau nhà, cả cái phòng ngủ của vợ chồng mình chú cũng ghé mắt quan sát. Ðột nhiên Lân hỏi:

– Con Lu có chạy về đây không chị?

Em sững sờ hỏi:

– Nó ở với chú mà?

– Tức lắm chị ơi, Lân ngồi vào cái ghế đặt ngoài hiên, nói tiếp: “Trước khi đi công tác Hà Nội, tôi gởi Lu cho chị nuôi lo ăn hàng ngày. Không ngờ các đồng chí trong đơn vị
lợi dụng lúc tôi vắng nhà, bắt con Lu làm thịt đánh chén. Chúng bỏ con chó vào
bao bố dìm xuống nước. Khi mở bao ra con chó không còn thở nữa. Họ yên chí ngồi
chờ nồi nước đang nấu cho thật sôi để cạo lông. Ca nước sôi đầu tiên tưới vào
lưng con Lu, bất ngờ nó vùng dậy chạy đi mất dạng. Lập tức các đồng chí ấy cầm
súng lùng sục các ven rừng nhưng chẳng thấy nó đâu nữa. Tôi yên chí con Lu sẽ
trở lại nhà chị vì nó vừa khôn vừa có sức mạnh khác thường. Tôi đánh giá thành
tích săn bắt mồi của con Lu rất cao. Nó thường xuyên bắt được chuột đồng, thỉnh
thoảng chồn hoặc thỏ. Mình có chất tươi thêm vào bữa ăn nên tôi quý nó lắm. Kể
xong, Lân đi ra xe xách vào một bao cát đựng đầy gạo, bảo:

– Ðây là số gạo tiêu chuẩn tôi đi công tác còn thừa, chị nhận cho các cháu bồi
dưỡng và thêm phần cho con Lu. Nếu nó có trở về đây xin chị báo tin cho tôi
biết.

Lân ra đi được một ngày.

Hôm sau, lúc chạng vạng tối, cả nhà đang ăn cơm, con Lu không biết từ đâu chạy
xồng xộc vào nhà, mình nó ướt đẫm mồ hôi. Trên lưng một vết phỏng to bằng bàn
tay lột hết lớp lông và đã bắt đầu làm mủ. Lũ con mình ôm con Lu vào lòng mừng
rơi nước mắt. Cả nhà phải nhịn một phần cơm cho nó. Loáng cái là nó vét sạch
đĩa cơm độn sắn. Lu ve vẩy đuôi, đưa lưỡi liếm từng người trong gia đình như để
điểm lại những người thân. Mấy đứa con mang Lu ra giếng chà xát xà phòng, tắm
rửa, bắt sạch ve vắt bám vào da. Em khui bình thuốc Peniciline rắc lên vết phỏng.
Chờ đến tối, em mang Lu về gởi cho ông bà ngoại vì biết thế nào chú Lân cũng
trở lại tìm chó. Ðêm đó, Lu cứ theo chân em đòi về, thằng Doãn phải ngủ nhà
ngoại để giữ con Lu ở lại. Em vuốt ve vỗ về:

– Con phải ở lại đây với ngoại. Lu không được theo mẹ về nhà, người ta sẽ đến
bắt con đi, biết hông?”. Lu vểnh tai nghe lời em dặn nên ngoan ngoãn nằm
trong lòng của Doãn mà không còn hậm hực đòi về nữa.”

Từ đó, hễ thấy người nào mặc áo quần xanh lá cây vào nhà là Lu chui dưới gầm
giường chìa đầu ra, nhe răng gầm gừ. Chỉ cần một cú giậm chân là đủ để nó phóng
ra vồ ngay. Sau lần thoát chết, con Lu nghi ngờ hầu hết mọi người, chỉ trừ gia
đình tôi và ông bà ngoại. Tính thân thiện của con Lu giờ đây không còn nữa.
Loài chó rất trung thành với chủ nhưng khi bị một lần đối xử tàn nhẫn với nó là
bỏ nhà đi luôn.

Gia đình ông bố vợ tôi tuy ở thị trấn nhưng vì là vùng đất đai đã tạo mãi từ trước khi trở thành thị tứ nên nhà cửa vườn tược rộng thênh thang. Tiếp giáp với vườn cây ăn trái là cánh đồng mía, nay thuộc hợp tác xã nông nghiệp. Lu không bao giờ ra trước
đường phố mà chỉ lùng sục trong vườn cây, ruộng mía sau nhà tha hồ bắt chuột,
chim chóc, rắn rít. Nó sống như một tử tù thoát ngục. Nó biết ngoài xã hội loài
người đang nhìn nó một cách thèm thuồng. Họ chỉ chờ cơ hội là biến thân xác nó
thành miếng nhừ, miếng mận.

Ngày ra tù, tôi vào thăm ông bà nhạc gia. Khi vợ chồng tôi vừa đến cổng nhà,
con Lu đánh hơi được từ trong nhà phóng ra chồm lên người tôi. Với sức nặng của
nó đã khiến tôi té ngồi xuống đất. Người nhà ngỡ con Lu tấn công kẻ lạ mặt nên
vội la lên: “Bố đấy Lu, tránh ra!” Nhưng không. Nó xoải hai chân trước đứng trên đùi tôi rồi đưa lưỡi liếm trên khắp mặt mày, tai cổ của tôi. Qua cơn hốt hoảng vì cú ngã bất ngờ, tôi hiểu ra con Lu đang mừng chủ. Tôi liền ôm chầm lấy nó rồi người và chó lăn lộn trên nền sân xi-măng. Cha mẹ vợ tôi vui mừng thấy con rể được ra tù. Hàng xóm đứng nhìn cảnh người vật ôm nhau, họ không tránh khỏi xúc động trong lòng.

Sáu tháng sau, nhà tôi sắp xếp cho tôi và thằng con trai lớn một chuyến vượt
biển. Tôi phải xin hộ khẩu ở nhà bà dì tận làng An Vĩnh gần mũi Ba-Tâng-Gâng.
Tôi có tên trong tổ hợp đánh bắt cá bằng lưới mành với ông dượng và mấy người
em bà con. Tôi dắt con Lu theo để tránh cặp mắt của láng giềng và tránh luôn
chú Lân bất thần đến nhà bắt gặp nó. Trước một ngày tới điểm hẹn, vợ tôi dẫn
thằng Doãn, con trai đầu lòng của tôi xuống nhà bà dì để chuẩn bị lên đường.
Sáng hôm sau, nhà tôi mang con Lu lên xe lam trở về nhà.

Ðêm 30 tháng hai âm lịch, trời không trăng nhưng rừng sao trên trời đủ soi rõ
đường đi trên bãi cát trắng lờ mờ. Hơi nước biển mát lạnh cùng với ngọn gió tây
thổi lồng lộng làm cho đám người trốn trong các bờ bụi rét run cầm cập. Họ cố
dõi mắt về hướng biển. Mười giờ… mười một giờ… đến mười hai giờ ba mươi
khuya, ánh đèn pin từ gành đá chợt nháy sáng báo hiệu ghe con đã đến. Tốp đầu
tiên gồm bốn người lần lượt tiến ra gành đá. Tiếp theo là hai cha con tôi cùng
hai người ở cánh bắc cũng xuất hiện. Cuộc “ra quân” âm thầm nhưng
đúng theo thứ tự ấn định. Còn mười phút nữa mới đến tốp cuối cùng. Bỗng, phía
sau làng có tiếng chân người chạy rầm rập rồi tiếng súng nổ loạn xạ. Toán đầu
quay trở lại chạy tản mác vào xóm. Hai người cánh bắc cũng thế. Riêng tôi chạy
băng qua gành rồi luồn vào lùm cây đước. Thằng Doãn, trước khi đi tôi đã dặn dò
kỹ lưỡng. Nếu họ bắt được là cứ khai đi một mình đừng để liên lụy đến Ba. Toán
du kích chia nhau chạy lùng trong xóm. Một du kích đuổi theo Doãn, đến gần bìa
làng hắn chộp được cổ con tôi. Thằng bé la toáng lên: “Thả tôi ra, thả tôi
ra”. Anh du kích xách thằng bé lên cao. Tay chân nó không ngừng giẫy giụa.
Chợt, một bóng đen từ trong hàng dừa phóng ra nhảy chồm lên bám vào cổ anh du
kích. Con chó! Tôi thầm kêu lên. Nó tấn công khá bất ngờ khiến anh ta đánh rơi
cây súng và buông thằng nhỏ để đánh vật với con chó. Anh ôm đầu con chó nhưng
răng chó càng lúc càng lún sâu vào cổ như con quỷ Dracula đang hút máu người.
Hắn kêu cứu. Một lúc sau mới có đồng đội đến tiếp sức. Con chó cũng vừa nhả ra
chạy vào trong xóm. Một loạt súng của người mới đến bắn đuổi theo. Tôi nghe
tiếng ăng ẳng của chó từ trong xóm vọng ra. Một nghi ngờ thoáng qua, chẳng lẽ
con Lu ? Nhưng tôi yên tâm ngay bởi con Lu đã được vợ tôi dẫn về nhà trong ngày
hôm trước. Núp trong đám cây đước tôi quan sát đầy đủ cảnh chó và người vật
nhau. Con chó xuất hiện trong bóng đêm chớp nhoáng như loài sói vồ mồi. Hình
ảnh con chó ngoạm cổ anh du kích, tôi liên tưởng đến ma cà rồng đội lốt chó để
hút máu người. Nhưng dù ma hay chó tôi cũng thầm cảm ơn nó đã giải cứu cho con
tôi và giải thoát được bao nhiêu người.

Tôi về đến nhà lúc tờ mờ sáng nhờ chiếc xe Honda thồ đi kiếm khách sớm. Tắm rửa thay áo quần xong, chợt nhớ đến con chó. Tôi hỏi vợ:

– Con Lu đâu?

Bà ấy bảo:

– Khi xe lam vừa đến ngả ba quốc lộ, con Lu vọt xuống xe chạy ngược theo con
đường về hướng biển. Em nghĩ nó trở lại với anh và con. Nếu có điều gì không
may xảy ra cho nó thì em biết làm sao bây giờ. Tôi nhìn vợ buông tiếng thở dài:

– Thôi rồi!

Tôi nghĩ ngay đến tiếng kêu đau đớn của chó vang lên sau tiếng súng. Con Lu có thể chết vì loạt đạn bắn theo. Tôi cảm thấy đau xót vô cùng.

Chờ trời tối hẳn, dì tôi mướn xe Honda thồ đưa Doãn về với chúng tôi. Vợ tôi ôm
con vào lòng, khóc thút thít:

– Giờ con đã thoát được về đây với mẹ cùng các em. Từ nay trở đi, đói no, chết
sống mẹ nhất quyết không để gia đình ta chịu cảnh phân ly.

Doãn nhìn tôi hỏi:

– Ba có thấy con Lu không?

Chẳng đợi tôi trả lời, Doãn quả quyết:

– Lúc ông du kích buông con ra, trước khi chạy trốn, con có quay lại nhìn thấy
con Lu đang ngoạm cổ ông ấy.

– Như vậy là con Lu đã chết vì loạt đạn, không còn nghi ngờ gì nữa. Tôi kết luận. Các con tôi đứa nào cũng rưng rưng nước mắt. Tôi an ủi:

– Dù sao thì mình đã dành tình thương và chăm sóc Lu như con trong gia đình. Nó
có chết cũng là cái chết có ý nghĩa, một nghĩa cử vô cùng cao quý của loài chó
không khác gì con người.

*

Cả nhà đang say ngủ. Ðột nhiên, tôi nghe tiếng cào sột soạt vào cánh cửa trước.
Im ắng một hồi lâu, tiếng cào lại nổi lên lần nữa. Ghé mắt nhìn ra ngoài, tôi
chẳng thấy gì cả. Chỉ có bóng đêm bao trùm và sương mù dày đặc phủ đầy trời.
Tôi thiếp đi một chốc. Tiếng sột soạt nổi lên lần thứ ba. Lần nầy lâu hơn và ở
ngay cánh cửa hông. Tôi vội bật đèn lên, hé cửa nhìn ra. Hốt hoảng, tôi kêu
lên:

– Em ơi, con Lu trở về.

Cửa mở toang, Lu đi khập khiễng vào nhà. Tôi ôm Lu vào lòng và nước mắt tôi
tuôn trào. Tôi khóc vì vui mừng và khóc vì thương nó quá đỗi. Bầy con tôi xúm
vào quấn quýt bên Lu. Máu khô bê bết trên mông và đùi trái của nó. Một viên đạn
ghim vào đùi sau, rất may là không đụng xương. Tôi rửa sạch vết thương bằng
rượu cồn, xoa thuốc đỏ rồi băng kín vết thương lại.

Từ năm 1986 chính sách đổi mới, thị trấn quê tôi bắt đầu có sinh khí trở lại.
Chẳng bao lâu sau, nơi đây buôn bán sầm uất. Cửa hàng tư nhân được mở ra tranh
đua cùng với cửa hàng quốc doanh. Ðời sống có phần dễ thở hơn.

Sau trận chiến biên giới Việt Trung năm 1979, Dương Thái Lân và cả đơn vị công
binh được điều động đến vùng thượng du Bắc Việt. Vì thế con Lu sống thoải mái
với chúng tôi không còn lo lắng gì nữa.

Ðến tháng 7 năm 1991, gia đình tôi lên đường đi Mỹ theo diện tỵ nạn HO8. Con Lu
cũng vừa tròn 18 tuổi. Nó đã quá già chỉ lẩn quẩn trong nhà. Nhưng khi có khách
đến là nó vẫn không quên chạy vào gầm giường.

Ngày gia đình tôi vào Sài Gòn để lên máy bay, tôi cho Lu theo đến ga xe lửa
cùng với bà con đưa tiễn. Khi còi tàu hụ từ xa, Lu đứng dậy sủa vang cả khu vực
nhà ga. Trước khi lên tàu, mỗi người trong gia đình chúng tôi đều thay nhau ôm
Lu vào lòng, rưng rưng, lưu luyến. Khi tiếng còi báo hiệu tàu chuyển bánh, con
Lu nhìn đoàn tàu rồi tru lên một tràng dài. Ðây là tiếng tru lần đầu tiên trong
cuộc đời 18 năm của nó. Tôi rùng mình. Tiếng tru thật áo não tưởng chừng như
lời trối trăng vĩnh biệt của Lu nhắn gởi.

Con Lu không chịu về nhà nữa. Nó lẩn quẩn ở khu vực nhà ga cho đến một ngày vào mùa Ðông rét buốt, Lu nằm chết bên đường rầy xe lửa, nơi mà chúng tôi đã ôm hôn nó trước khi bước lên tàu. Nguồn: mt.gov.vn

Khi qua Mỹ rồi, chúng tôi được thư nhà cho biết, con Lu không chịu về nhà nữa. Nó lẩn quẩn ở khu vực nhà ga cho đến một ngày vào mùa Ðông rét buốt, Lu nằm chết bên đường rầy xe lửa, nơi mà chúng tôi đã ôm hôn nó trước khi bước lên tàu.

Hay tin Lu chết, con tôi ôm nhau khóc. Nước mắt chảy ròng ròng như khóc thương
một người thân đã ra đi vĩnh viễn. Riêng tôi thầm nghĩ: “Cũng may là nó đã
quá già yếu, thân chỉ còn da bọc xương nên được chết toàn thây. Dù muốn dù
không nhân viên nhà ga cũng phải chôn xác Lu ở một nơi nào đó trong lòng đất.
Ðất mãi mãi ấp ủ thân xác nó và ngàn vạn năm sau biết đâu bộ xương của Lu sẽ
hóa thạch tồn tại mãi trên mảnh đất Việt Nam .”

Tôi khóc âm thầm trong đêm như khóc cho đứa con của tôi còn để lại quê nhà nay
không còn nữa. Suốt mấy đêm liền tôi nghĩ về Lu như nghĩ về một con người quả
cảm và thủy chung.
nguồn: Anh Nguyễn văn Thập gởi

nguồn: motgocpho