“Người có đạo”

“Người có đạo”

Maria Túc Lynh

“Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ sẽ mở cho” (Mt 7, 8)

Vốn là một người có tính năng động, thích tìm hiểu từ khi còn bé, nên tôi hay chú ý nhiều đến những lời chia sẻ của người khác về những điều kỳ diệu và mới lạ của đạo Công Giáo.

Trước kia khi tôi chưa biết đến đạo Công Giáo, trong tôi có hai dòng suy nghĩ gần như là trái ngược nhau. Một là thấy những người theo đạo Công Giáo sao mà sang trọng quá, ở họ có chút gì đó hay hay. Mỗi khi họ đi lễ, tôi thấy họ ăn mặc rất chỉnh tề và đẹp, và tôi thầm ước chi tôi cũng là người có đạo. Có đạo, thì tôi cũng sẽ được nhiều dịp diện quần áo đẹp đi Nhà Thờ, chỉ đơn giản là được vào Nhà Thờ thôi chứ không hề hiểu biết ý nghĩa của Thánh Lễ. Hai là tôi thấy những người được gọi là người công giáo sao mà lại rất khó gần, dường như họ có vẻ rất kiểu cách, có thể nói là “chảnh” nữa. Điều này làm cho tôi cảm thấy không thiện cảm với họ chút nào, và cũng mất dần cảm hứng trong tôi muốn tìm hiểu về đạo.


Cho đến một hôm, tôi đã ngộ ra rất nhiều điều kỳ lạ và thú vị, tôi được tham dự một Thánh Lễ ngày chúa nhật và được nghe bài chia sẻ về danh xưng “Tôi là người có đạo” do một vị linh mục khá đứng tuổi chia sẻ, mà theo cảm nghĩ của tôi, đó cũng là một lời dặn dò cho những công dân nước Chúa rằng, điểm nổi bật nói cho đúng hơn là một tôn chỉ của “người có đạo” để mọi người nhận biết và công nhận, đó là: “Bác ái là đồng phục của người có đạo”, được thể hiện qua thái độ, cử chỉ, hành vi ứng xử trong đời sống hàng ngày với tha nhân, lời nói luôn nhã nhặn, hành động trong yêu thương vô vị lợi và chân thành. Sống như thế sẽ gặt hái được sự bình an, sống như thế là sống cho tình yêu.

Dần dần tôi hiểu rằng có một Đấng Tạo Hóa và thầm biết ơn Đấng đã sáng lập ra đạo Công Giáo, trong tôi đã mất hết những suy nghĩ nông cạn hời hợt trước kia và tôi đã tự nguyện tìm hiểu, học đạo, theo đạo và cố gắng sống theo những tôn chỉ và giáo huấn của đạo mà tôi đã được học.

Và một ngày gần đây trong một Thánh Lễ tôi lại nghe giảng về một chứng nhân là một nữ giáo viên trẻ rất đáng quý. Vị linh mục đã kể lại rằng ngày cô giáo đó được tuyên dương vì những thành tích mà cô đã làm với một tấm lòng của “người có đạo”. Tuy nhiên, người ta không nhìn nhận điều đó trong cái bằng tuyên dương, người ta tự ý điền vào là vì cô đã noi gương một vị lãnh tụ vĩ đại xa xăm nào đó mà cô chưa bao giờ biết, nên bây giờ cô mới được như vậy. Và khi nhận và đọc nội dung của tấm bằng, cô đã can đảm nói lên sự thật rằng. Cô đã sống và làm việc thế nào để có được một kết quả như ngày hôm nay, là do cô được sinh ra và giáo dục trong một gia đình có nền tảng đạo đức và một niềm tin tôn giáo mà cô đã được lãnh nhận từ bé, chứ cô không hề biết vị lãnh tụ nào cả, thì làm sao cô giáo ấy có thể học tập và noi gương. Và nếu cần thì cô sẵn sàng trả lại cái bằng tuyên dương của cấp trên tặng thưởng cho cô.

Rồi có một lần trong một buổi đi uống cà phê với những bậc đàn anh, đàn chị, họ cũng là những “người có đạo”. Có một anh là giáo viên dạy toán cấp ba. Anh là một người được nhiều người cán bộ nhà nước nể phục vì tính trung thực và thẳng thắng. Anh đã thẳng thừng từ chối khi biết người ta đã dùng tài sản của một người khác để cấp cho mình.

Rồi hôm nay khi tôi đi lễ như mọi ngày ở Giáo Xứ Ba Chuông lại được biết thêm một chứng nhân nữa, mà theo tôi là rất tuyệt vời. Người này là một người con duy nhất trong gia đình. Ngày ông chọn Chúa là tình yêu duy nhất và để sống trọn vẹn với tình yêu mình, ông đã dám hy sinh dứt bỏ cha mẹ, nhưng vốn là một người con hiếu thảo, ông vẫn tìm mọi cách để báo đáp chữ “Hiếu” cho trọn.

Chứng nhân ấy là một linh mục, ngài tên là Giuse Đỗ Văn Chung thuộc dòng Đa Minh. Ngài đã được thụ phong linh mục từ lâu và được bổ nhiệm sang Houston – Texas – Hoa Kỳ, ngài cũng đã ổn định nơi quê người cuộc đời dâng hiến. Tôi đã nghe từ những người giáo dân trong xứ nói lại rằng, tuy đã yên ổn nhưng ngài vẫn muốn dấn thân phục vụ nên đã xin bề trên về lại quê nhà phục vụ cho con cái Chúa. Nguyện vọng của ngài đã được chấp thuận, ngài đã trở lại quê nhà. Cách đây hơn một tuần, trên đường từ nhà mẹ ngài đi ra thì ngài đã bị một cậu bé 17 tuổi không kiểm soát được tốc độ gây tai nạn nghiêm trọng cho ngài. Ngài bị hoại tử ở chân và phải cưa mất một chân, sau một thời gian ngắn bất tỉnh từ khi xảy ra tai nạn, ngài đã hồi tỉnh và chính ngài đã nói lên lời tha thứ cho cậu bé và ngài đã căn dặn người thân của ngài không được làm khó hay thưa kiện cậu bé và gia đình cậu bé đó. Sau khi ngài nói và truyền đạt lại nguyện vọng của mình thì ngài đã ra đi trong bình an, để trở về với Chúa.

“Người có đạo” như thế đó, họ thật đơn sơ, thật can đảm, thật trung thực, dám sống thật với chính mình, trong họ có một tấm lòng rộng mở, sống bác ái và vị tha, họ đã tha thứ ngay cho cả người đã làm thiệt chính mạng sống của mình. Họ dám thẳng thừng từ chối danh vọng, bổng lộc khi biết chút danh vọng đó không trong sáng, nguồn bổng lộc đó lỗi đức công bằng và yêu thương.

Nếu là người chưa có đạo, chưa có niềm tin và sống theo lẽ thường tình của con người thì tôi sẽ phán cho những con “người có đạo” này có vấn đề về thần kinh.

– Ai lại dại dột chối bỏ những lời khen của cấp trên, để có thể bị nguy hại tới đường công danh và sự nghiệp?

– Ai lại khờ khạo dám khước từ một tài sản lớn, khi mà chính cuộc sống mình đang gặp khó khăn?

– Ai lại rộng lượng để nói lên lời tha thứ vô điều kiện cho một kẻ đã hủy diệt mơ ước, nguyện vọng  và đến ngay cả mạng sống  của mình?

Vâng, “Người có đạo” như thế đó, điều đặc biệt là trong họ có một niềm tin rất mạnh mẽ, họ luôn khắc tâm rằng họ được ơn bảo trợ rất tràn đầy. Đó là những điều tôi đã cảm nhận được nơi họ, đã chứng kiến tận mắt, đã củng cố trong tôi một niềm tin ngập tràn niềm vui là mối tương quan giữa họ và tôi giờ đây không còn như người xa lạ, mà là thật gần gũi trong mối tương quan là anh chị em, con cái của một Cha chung trên trời.

Cho tới hôm nay và cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời, tôi thấy mình thật sung sướng khi chọn Đạo Công Giáo là tôn giáo của mình, giáo huấn của đạo là kim chỉ nam của cuộc đời tôi. Từ ngày tôi được trở thành “người có đạo” tôi thấy mình thật bình an và hạnh phúc. Vì tôi nhận ra giá trị đích thực của cuộc đời là biết cách sống cho đúng với hai chữ “Tình Yêu”.

Còn các bạn, nghĩ thế nào về đạo Công Giáo? Tôi tin rằng, nếu các bạn có thiện chí đi tìm, các bạn cũng sẽ gặp và sẽ thấy được nhiều điều thú vị hơn nữa.

Xin hiệp ý cầu nguyện cho linh hồn linh mục Giuse sớm được hưởng kiến nhan Thánh Chúa.


Sàigon, ngày 27 tháng 9 năm 2013

Maria Túc Lynh

Tôi nhận ra giá trị đích thực của cuộc đời là biết cách sống cho đúng với hai chữ “Tình Yêu”. Maria Túc Lynh

Hai khuôn mặt trái ngược nhau

Hai khuôn mặt trái ngược nhau

(Trích dẫn từ ‘Manna’ – Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu)

Suy Niệm

Dụ ngôn cho ta thấy hai khuôn mặt trái ngược nhau: một ông nhà giàu dư ăn dư mặc, một anh nhà nghèo bệnh tật nằm đói lả, không đủ sức xua đuổi những con chó đến quấy rầy.

Hai người ở gần nhau, chỉ cách nhau một cái cổng vẫn thường khép, nhưng lại thật xa nhau. Ông nhà giàu biết mặt, biết tên anh nhà nghèo, nhưng ông chẳng mảy may quan tâm, vì ông bận tổ chức tiệc tùng và mời quan khách.

Ladarô đã chết trong cảnh đói nghèo và bệnh tật. Ông nhà giàu cũng chết. Cái chết đồng đều cho mọi người, nhưng số phận sau cái chết lại khác nhau.

Không phải chỉ vì giàu mà ông nhà giàu bị phạt, nhưng vì ông đã khép cửa và khép lòng, đã ung dung hưởng thụ quyền sở hữu “hợp pháp”, đã không chấp nhận chia sẻ điều mình có dư thừa. Ông nhà giàu hẳn đã thấy Ladarô, nhưng đã sống như thể không có anh ta, vì ông loay hoay vun quén cho hạnh phúc của mình.

Không phải chỉ vì nghèo mà anh nhà nghèo được thưởng, được hạnh phúc ngồi trong lòng tổ phụ Abraham, nhưng vì anh chấp nhận số phận hẩm hiu của mình, và trông cậy vào sự trợ giúp của Thiên Chúa. Thế giới văn minh lại càng đào sâu hố ngăn cách giữa nước giàu và nước nghèo, giữa thiểu số người giàu và đa số người nghèo.

Chính tôi cũng giàu về một mặt nào đó: giàu trí tuệ, giàu bạn bè, giàu thế lực, giàu chỗ đứng trong xã hội, giàu đời sống thiêng liêng.

Hố sâu chỉ được lấp đầy bằng cách mở tung cánh cửa yêu thương và chia sẻ, nhìn nhận tài nguyên thế giới là của mọi người, nhìn nhận quyền sống của từng người, sống như một nhân vị, sống như con cái Thiên Chúa, sống như anh chị em tôi.

Mỗi người chúng ta đều có một Ladarô chờ ngoài cửa, nếu chúng ta mở cửa và mời người đó đồng bàn, thì chúng ta sẽ trở nên người giàu có thực sự, và trưởng thành viên mãn trong nhân cách.

Dù người chết hiện về, dù kẻ chết sống lại cũng chẳng làm chúng ta hết chai đá. Chỉ Lời Chúa mới khiến chúng ta sám hối ăn năn, mở lòng trước tha nhân và Thiên Chúa (x. 1Ga 3,17).

Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy những người nghèo ở quanh con, ở trong gia đình con, đang cần đến con. Bất cứ ai đang cần đến con đều là người nghèo, xin cho con thấy Chúa trong họ.

Dần dần con hiểu rằng cả người giàu cũng nghèo, nghèo vì cần thấy đời họ có ý nghĩa.

Dần dần con chấp nhận rằng cả bản thân mình cũng nghèo và cần đến người khác.

Lắm khi con cần một nụ cười, một ánh mắt, một lời thăm hỏi đỡ nâng.

Cám ơn Chúa vì đã dựng nên chúng con ai cũng nghèo về một mặt nào đó và ai cũng cần đến người khác. Như thế là chúng con được mời gọi sống cho nhau, làm cho nhau thêm giàu có.

Cám ơn Chúa vì Chúa cũng nghèo, vì Chúa rất cần đến chúng con để hoàn thành công trình cứu độ.

Xin cho con khiêm tốn nhận mình nghèo để nhận lãnh, can đảm nhận mình giàu để hiến trao. Amen.

Chia sẻ Lễ An Táng Tu sĩ Giuse Đỗ Văn Chung, O.P.

Chia sẻ Lễ An Táng Tu sĩ Giuse Đỗ Văn Chung, O.P.

Sept 28, 2013 @ Nhà Thờ Ba Chuông lúc 10 Sáng.

Bài đọc: Gióp 19:1, 23-27a; Roma 6:3-9; Gioan 11:21-27.

Kính thưa cộng đoàn phụng vụ,

Chúng ta phải chân thành nhận rằng chúng ta đang thực sự rất đau thương và buồn bã trước sự ra đi cách bất ngờ và tàn nhẫn của người anh em chúng ta, Tu Sĩ Giuse Đỗ Văn Chung, O.P.

Giống như ông Gióp trong bài đọc 1, có rất nhiều người đã hỏi: “Tại sao sự xấu như vậy lại xẩy ra cho một người hiền lành và đạo đức?”  Câu hỏi này hướng về quá khứ để tìm hiểu nguyên nhân của sự xấu và chắc chắn sẽ không có câu trả lời thỏa đáng; vì hoặc chúng ta sẽ đổ lỗi cho người này, người khác hoặc cuối cùng chúng ta sẽ qui trách nhiệm cho Thiên Chúa. “Tại sao, Chúa là Đấng Nhân Từ và Thương Yêu lại để một chuyện xấu như vậy xẩy ra cho người lành?”  Hoặc chúng ta sẽ trách Chúa như Marta: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây thì em con đã không chết?” (Gioan 11:21).

Đối với tôi, câu hỏi phải là: “Sự xấu này đã xẩy ra, vậy bây giờ chúng ta phải làm gì?”  Câu hỏi này giúp chúng ta học ra bài học trong quá khứ để giúp nhau vượt qua đau khổ hiện tại và cùng tìm cách ngăn ngừa thảm họa như vậy diễn ra trong tương lai.  Đó là một câu hỏi thực tiễn và cần thiết.  C.S. Lewis đã nói: “Pain is God’s megaphone to arouse the deaf world – Đau khổ là tiếng gào thét của Thiên Chúa để thức tỉnh thế giới điếc đặc. Ngôn ngữ và suy nghĩ của chúng ta rất hạn chế; vì thế chúng ta cần tìm đến với Lời Chúa để an ủi nhau và giúp nhau vượt qua nỗi đau này.

Chúa Giêsu đã chết trên Thánh Giá bằng một cái chết nhục nhã và đau thương.  Các vị Thánh Tử Đạo của Giáo Hội Nhật Bản mà hôm nay Giáo Hội mừng kính cũng đã bị giết chết hết sức dã man: người bị chém, người bị thiêu, người bị dùng tre lứa mà lóc từng miếng thịt ra!  Thật dã man và đau đớn!

Khi chứng kiến cảnh Đức Quốc Xã treo các nạn nhân lên trên các cột gỗ và giết họ, rất nhiều người đã hỏi: “Tại sao như vậy?  Chúa ơi, Chúa ở đâu mà để những người vô tội chết thảm đến thế?”  Bất ngờ trong đám đông ấy có tiếng trả lời: “Chúa đang ở đó, trên cây gỗ, cùng chịu đau và chết chung với họ.”

Kính thưa quí ông bà anh chị em,

Mỗi lần chúng ta thấy một người vô tội bị chết thảm, thì chúng ta hãy biết rằng Chúa Giêsu Kitô đang cùng chịu đau và cùng chết với họ.  Và theo lời Thánh Phaolô trong bài đọc 2 hôm nay: ‘nếu anh Giuse Đỗ Văn Chung đã cùng chết với Đức Kitô thì anh cũng cùng sống với Người.’  (Rom 6:8)  Cũng như Đức Kitô đã phục sinh và bước ra khỏi mồ, thì sự phi lý và dã man của cái chết anh Giuse Đỗ Văn Chung đã trải qua cũng không thể giữ anh ở trong mồ được.  Anh sẽ cùng sống với Đức Ktiô.

Nhà vật lý học và là Giám Đốc đầu tiên của trung tâm Nasa Mỹ, tiến sĩ Wernher von Braun có nói: “Khoa học cho chúng ta hay là mọi sự trong thiên nhiên, ngay cả những phân tử nhỏ nhất, cũng không biến mất mà không để lại dấu tích chi cả.  Thiên nhiên không biết đến sự tuyệt chủng mà chỉ có sự biến đổi – từ trạng thái này sang trạng thái khác.  Những gì khoa học dạy tôi đều củng cố niềm tin của tôi vào sự liên tục của sự hiện hữu thiêng liêng sau cái chết thể lý; bởi lẽ chẳng có gì biến mất mà lại không để lại dấu tích chi cả.”  (Science tells us that nothing in nature, not even the tiniest particle, can disappear without a trace.  Nature does not know extinction.  All it knows is transformation…  And everything science has taught me… strengthens my belief in the continuity of our spiritual existence after death.  Nothing disappears without a trace).

Sống cho đến bao nhiêu tuổi ở trần gian là điều không quan trọng; điều quan trọng là sống ra sao, sống như thế nào, sống trong sự kính trọng và thương yêu hay trong khinh thường và thù hận… Có người nói: Immortality is very fearful without love.  Sự sống vĩnh cửu thì thật là đáng sợ nếu không có tình yêu.

Người anh em của chúng ta, Tu sĩ Giuse Đỗ Văn Chung, O.P. đã sống hiền hòa, quan tâm đến người khác, chân thành thương yêu mọi người và được mọi người quí mến, yêu thương.  Sự hiện diện của rất nhiều người từ nhiều nơi khác nhau trên thế giới tại Thánh Đường này nói lên sự thật đó.  Chắc chắn anh đang sống trong yêu thương và kết hợp với Chúa Tình Yêu.

Thưa Cha Giám Tỉnh, quí linh mục, tu sĩ nam nữ, tang gia và quí ông bà anh chị em,

Tại thành phố Phnom Penh ở Campuchia có một trạm xá dành cho người bị bệnh SIDA (AIDS) do một linh mục Công giáo trông coi.  Cha và những người giúp việc đã đi tìm và đem về trạm xá những người bị SIDA và chăm sóc họ cách cẩn thận và tận tình.  Nơi đây các bệnh nhân được lo lắng cách chu đáo và được ăn no.  Cũng có bệnh nhân sẽ được gởi về nhà – để chết, phần lớn thì chết ở trạm xá này.

Có lần một linh mục dòng Đaminh từ Âu Châu đến thăm trạm xá thì gặp lúc một thanh niên trẻ mới được đưa đến trạm xá, anh rất gầy yếu và chắc chắn không thể sống được bao nhiêu ngày.  Anh được người ta tắm rửa sạch sẽ và được hớt tóc cho gọn gàng, lúc ấy mặt anh rạng rỡ niềm vui và hạnh phúc.

Người không có cùng niềm tin với chúng ta có thể hỏi: “Tại sao phải làm như vậy?  Các bệnh nhân này sẽ sớm qua đời thôi, tại sao phải tốn công vào những việc vặt vãnh như vậy?”  Đối với họ, việc chăm sóc này không mang ý nghĩa chi cả.

Nhưng với chúng ta, qua bí tích Rửa Tội, chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa và là anh chị em của nhau.  Chúng ta không để cho một người anh em, một người chị em của chúng ta về với Chúa trong lem luốc, bẩn thỉu hoặc chết bờ chết bụi.  Phẩm giá của con người không cho phép chúng ta để mặc họ như thế.  Mặc dù chết là một cuộc lên đường rất cá nhân, nhưng thường có người thân quen qui tụ chung quanh để tiễn ta lên đường về quê trời, hợp đoàn trong Vương Quốc của Chúa.  Do đó, chăm sóc cách dịu dàng và tận tình các bệnh nhân chờ chết như thế là một nghĩa cử giúp chuẩn bị họ tiến vào trong Vương Quốc này, và đó là điều phải làm.

Thưa cha Giám Tỉnh Giuse Ngô Sĩ Đình và các anh em trong tỉnh dòng,

Anh em Đaminh trong Phụ Tỉnh của chúng con ở Bắc Mỹ đã đồng hành với anh Giuse Đỗ Văn Chung, O.P. hơn một thập niên qua trong đời sống tu trì, trong mục vụ và trong sứ vụ ở Houston, Texas, thế mà chúng con lại không có mặt bên cạnh anh Giuse Chung trong những giây phút sau cùng của anh trên dương thế.  Thay vào đó, cha Giám Tỉnh và anh em đã đồng hành, nâng đỡ, động viên tinh thần, chăm sóc tỉ mỉ và chu đáo cho anh Giuse.  Với tinh thần ‘Còn nước còn tát’, cha Giám Tỉnh và anh em đã nhờ các chuyên viên y khoa giỏi và tìm mọi cách để giúp anh Giuse Chung và như thế, cha và anh em đã đem đến cho Bà Cố và cho chúng con sự ‘hy vọng’.  Mặc dù Chúa đã làm việc theo cách khác; nhưng sự ‘hy vọng’ này lại rất cần cho chúng ta trong lúc này.  Chúng con chân thành cảm ơn cha Giám Tỉnh và quí anh em.

Có người nói: Hy vọng không phải là nhắm mắt lại trước những khó khăn, những nguy hiểm, hay những thất bại.  Nhưng hy vọng chính là tin tưởng chắc chắn cho dẫu tôi thất bại bây giờ, tôi cũng sẽ không thất bại mãi mãi; cho dẫu tôi bị thương tổn bây giờ, tôi cũng sẽ được hồi phục; đó cũng chính là tin tưởng rằng sự sống thì tốt lành, và tình yêu thì thật mãnh liệt. (Anon) Với niềm tin vào Chúa, hy vọng này: “không phải là một xác tín cho rằng mọi sự sẽ xuôi chảy, nhưng là một quả quyết mọi sự sẽ có ý nghĩa, bất kể kết quả chúng sẽ như thế nào” (‘Hope is not the conviction that something will turn out well, but the certainty that something makes sense, regardless of how it turns out’ câu nói của Vaclav Havel, một nhà viết kịch và là cựu tổng thống nước Tiệp Khắc – trích trong sách của cha Timothy Radcliffe, What is the Point of Being a Christian, trang 17).

Cha Timothy Radcliffe, O.P., nguyên Bề Trên Cả Dòng Đaminh, thuật lại việc ngài thăm viếng các anh chị em Đaminh ở Burundi như sau:

Lần đầu tiên tôi đến Burundi (miền Nam của Rwanda – thảm cảnh diệt chủng diễn ra từ tháng Tư đến tháng Bảy, 1994) vào lúc những xung đột chủng tộc giữa người Hutus và Tutsis đã xé nát mảnh đất xinh đẹp ấy.  Tôi ngỏ ý muốn thăm cộng đòan các nữ Đan sĩ Đaminh ở phía Bắc nước này.  Đi bằng đường bộ thì rất nguy hiểm … nhưng vì không còn cách nào khác nên chúng tôi đành phải phó thác và lên đường.  Thật là một chuyến đi cam go.  Chúng tôi đã bị quân lính bắt dừng xe không cho chúng tôi tiếp tục vì đang có những chiến sự trên đọan đường đó.  Dọc đường, chúng tôi đã từng thấy cả một chiếc xe búyt chứa đầy xác chết.  Có những phát đạn bắn mà tôi nghĩ là đã nhắm vào chúng tôi.  Tòan quốc gia ấy mang mầu tang thương và chết chóc.  Các cây lương thực đều bị thiêu hủy.  Và ở tuốt phía xa, chúng tôi thấy một ngọn đồi xanh tươi, nơi đó là đan viện của các chị em.

Sáu sơ là người Tutsi và sáu sơ khác là người Hutu.  Đó là một trong số rất ít địa điểm nơi hai sắc dân ‘kình địch’ ấy sống chung trong hòa bình và thương yêu.  Các nữ tu này đã mất hầu hết thân nhân trong cuộc thảm sát diệt chủng… Tôi thắc mắc làm sao họ có thể sống hòa bình với nhau như vậy.  Họ cho hay ngòai những giờ kinh chung, họ luôn luôn cùng nghe tin tức ngõ hầu họ đều biết và chia sẻ với nhau những gì đang xẩy ra.  Không người nào phải sống trong đau thương một mình.  Dần dần, người từ các sắc dân khác nhau nghe biết vùng đất của đan viện là một nơi an tòan và đã qui tụ lại trong thánh đường để cầu nguyện và trồng cây lương thực chung quanh thánh đường ấy.  Một ngọn đồi xanh tươi trong một vùng đất tan hoang – đó chính là một DẤU CHỈ HY VỌNG.” (What Is the Point of Being a Christian? Burns & Oates, 2005, p.20-21).

Thưa quí cha, quí tu sĩ nam nữ, Bà Cố và tang gia của cha Giuse Đỗ Văn Chung, ‘không ai phải sống trong đau thương một mình’.  Chúng ta qui tụ trong Thánh Đường hôm nay để chia bớt nỗi buồn đau của bà Cố và của từng người chúng ta; đồng thời cũng nâng đỡ nhau và đem đến cho nhau niềm tin và niềm hy vọng rằng ‘mọi sự sẽ có ý nghĩa, bất kể kết quả chúng sẽ như thế nào.’

Để kết thúc, con xin mợn bài thơ ngắn sau đây để gởi đến cách đặc biệt cho bà cố ngõ hầu chúng ta cùng với bà cố tin tưởng, hy vọng và phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, là Cha Nhân Từ và là Người Thầy Chí Thánh của chúng ta.  Bài thơ có tự đề: TRANG VỞ BỊ GẤP

Trên căn gác một ngôi nhà cổ

Khi hạt mưa từ mái nhà đổ xuống,

Tôi ngồi đó lật từng trang vở bị gấp nếp

Ghi dòng chữ của mình hồi nhỏ:

Thầy giáo bảo: tạm bỏ qua điều này

Vì hiện tại nó rất ư khó hiểu.’

Tôi liền dở nó ra và đọc,

Đoạn gục gặc đầu mỉm cười nói:

Thầy có lý, bây giờ tôi mới hiểu.”

Trong cuộc sống có nhiều trang khó hiểu,

Ta hãy gấp lại và viết lên:

Thầy giáo bảo: tạm bỏ qua điều này

Vì hiện tại nó rất ư khó hiểu.’

Rồi một ngày nào đó trên Nước Trời,

“Thầy có lý, bây giờ tôi mới hiểu.” (Vô danh).

Anh Giuse Đỗ Văn Chung thân mến, hãy cầu bầu cùng Chúa cho chúng tôi.

Ts. Giuse Trần Trung Liêm, O.P.

Phụ Tỉnh Thánh Vinh Sơn Liêm Calgary, Canada.

Hội đồng Bảo An thông qua nghị quyết buộc Syria loại trừ vũ khí hóa học

Hội đồng Bảo An thông qua nghị quyết buộc Syria loại trừ vũ khí hóa học

RFA


2013-09-27

000_Was7949563-305

Hội đồng Bảo an LHQ bỏ phiếu chấp thuận nghị quyết buộc Syria từ bỏ vũ khí hóa học tại cuộc họp ngày 27 tháng 9 năm 2013 ở trụ sở LHQ, New York.

AFP PHOTO / Stan HONDA

8:30 tối thứ sáu, giờ New York, Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc thông qua nghị quyết với 100% phiếu thuận, buộc Syria loại trừ kho vũ khí hóa học trước giữa năm tới, 2014.

Với toàn thể 15 phiếu thuận, nghị quyết đòi hỏi “sự loại trừ những thứ vũ khí mà chính quyền Syria đã sử dụng một cách tàn bạo và nhiều lần để chống lại người dân Syria.”  Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc Susan Rice vừa tuyên bố như trên.

Nghị quyết cũng minh định rằng sự bất tuân thủ nghị quyết sẽ đưa đến những hậu quả.  Tuy nhiên nghị quyết không đề cập đến biện pháp quân sự để cưỡng hành theo như Hoa Kỳ đòi hỏi, trong trường hợp Syria không tuân thủ nghị quyết.

Nghị quyết cũng buộc Syria phải cho các chuyên viên thuộc Tổ chức Cấm vũ khí hóa học của Liên Hiệp Quốc (OPCW) vào kiểm soát tất cả những kho tồn trữ vũ khí hóa học và cơ sở tổn trữ hóa chất và chế tạo vũ khí hóa học trong khắp nội địa Syria.

10 phút trước giờ Hội đồng Bảo An biểu quyết 15-0 nghị quyết này, OPCW đã họp tại Hòa Lan để biểu quyết chấp nhận Syria làm thành viên mới nhất của Hiệp ước cấm vũ khí hóa học.

Ý Nghĩa Sự Sống

Ý Nghĩa Sự Sống

Cô Eve Lavallière là một kịch sĩ nổi tiếng của Pháp ở thế kỷ 19-20.  Cô có tất cả mọi thứ mà bất cứ người nào trong xã hội thời bấy giờ đều ước mơ:  giàu sang, danh vọng, sắc đẹp, nhiều người mến mộ tôn thờ…

Cô diễn kịch cho bao nhiêu người từ vua, quan, hoàng hậu cho đến người dân … bao giờ cũng thành công.  Thế nhưng, lúc nào cô cũng cảm thấy chán nản, cô đơn cùng cực, mặc dù chung quanh cô có không biết bao nhiêu người đàn ông và những bữa tiệc sang trọng….  Đã ba lần cô có ý định tự tử, nhưng đến giờ phút chót thì cô thoát được.

Chuyện xảy ra sau một buổi trình diễn, cô từ chối hết mọi lời mời ăn chơi và đi lang thang về phía sông Seine.  Nhìn xuống dòng sông ban đêm có những bóng đốm sáng của ánh điện xa xa, cô quyết định gieo mình xuống tự tử.  Đúng lúc đó, một cánh tay lực lưỡng nắm vai cô kéo lại.

Một giọng đàn ông ấm áp nhỏ nhẹ bên tai:  “Này cô, cái chết không giải quyết được gi đâu.”

Lavallière thẫn thờ quay lại nhìn người vừa ngăn cản ý định của mình.  Ánh sáng của đèn đường rọi vào mặt cô gái.  Người đàn ông kinh ngạc nhận ra cô kịch sĩ nổi tiếng.

Ông kêu lên:  “Kìa cô Lavallière, sao thế?  Có chuyện gì vậy?  Cô không biết rằng buổi trình diễn nào của cô cũng có mặt hai vợ chồng chúng tôi sao?  Cô không muốn chúng tôi thưởng thức tài nghệ của cô và cô không muốn nhận sự ngưỡng mộ của chúng tôi ư?”

Lavallière đáp lại những câu hỏi tới tấp của người đàn ông bằng một câu ngắn gọn:  “Vậy mà tôi đã tưởng mình cho mà chẳng nhận được gì.”

Sau biến cố đó, Lavallière đi nghỉ hè ở một ngôi làng nhỏ tại Pháp.  Nơi đây cô gặp một linh mục, ngài mời cô đến tham dự Thánh Lễ.  Cô không biết rằng Chúa đang chờ đợi cô ở đây.  Vị linh mục đưa cho Lavallière một quyển sách nói về thánh nữ Maria Mađalena, người được Đức Giêsu chữa khỏi bẩy quỷ.  Cô đọc say sưa… và thật lạ lùng… với tâm hồn thống hối chân thật, cô xin trở lại và được nhận lãnh các Bí Tích.  Tại nhà nguyện ở Chanceaux, ngay tại lối vào người ta đọc được những lời sau đây khắc trên đá: “Tại nhà nguyện này, Eve Lavallière đã trở lại và lãnh nhận Bí Tích Mình Máu Thánh Chúa ngày 19 tháng Sáu năm 1917, được ban bởi linh mục Chesteigner.”

Kể từ ngày đó, Lavallière dứt bỏ đời sống cũ, bán gia tài bố thí cho người nghèo, bỏ trang điểm, gia nhập Dòng Ba Phanxicô, tận hiến cho đời sống cầu nguyện và tham gia những công việc bác ái.  Lúc đó Lavallière được 51 tuổi.  Mười hai năm sau, Lavallière mắc một chứng bệnh sốt hiếm lạ của miền Bắc Phi-châu và ngã bệnh nặng.  Cô qua đời năm 1929, thọ 63 tuổi, trong tấm gương thơm thánh thiện.

Cô Lavallière đi tìm cái chết vì cô không tìm thấy tình liên đới, vì cô không biết rằng một cuộc sống có ý nghĩa là một cuộc sống mà con người phải sống với người khác và sống cho người khác.

Sau khi thức tỉnh khỏi cơn mê đắm tội lỗi, Lavallière đã tìm được cho mình ý nghĩa của cuộc sống qua những nghĩa cử quảng đại yêu thương mà Chúa đã mời gọi cô thực thi.

Tổng Hợp từ bài của Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài

From: ThiênKim &

Nguyễn Kim Bằng gởi

5 Chiếc Bánh Và 2 Con Cá (bài 3)

6. Con cá thứ nhất:

Mẹ Maria, mối tình đầu của tôi

Tôi trao phó cho Mẹ Maria… những hy vọng, những mong đợi của các bạn trẻ khắp hang cùng ngỏ hẻm của hành trình, đang lặp lại lời của Mẹ: “Này tôi là tớ nữ Thiên Chúa. Tôi xin vâng như lời thiên thần truyền” (Lc 1, 38) … Các bạn sẵn sàng loan báo cho những người trẻ cùng lứa tuổi với mình, như các tông đồ đã làm: “Chúng tôi đã gặp Ðấng Thiên Sai!” ( Ga 1, 41). (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 10)

“Mẹ Maria Vô Nhiễm là mối tình đầu của tôi”, câu nói đó là của thánh Gioan Maria Vianney, cha xứ Ars, tôi đã đọc trong sách của cha Francois Erochu, hồi tôi còn ở tiểu chủng viện.

Mẹ tôi đã đổ vào tim tôi lòng kính mến Ðức Mẹ, từ tuổi ấu thơ. Bà nội tôi, mỗi buổi tối, lúc gia đình đọc kinh xong rồi, bà còn ngồi lần thêm một tràng hạt. Tôi hỏi bà, bà đáp:

– Mệ lần một chuỗi cầu nguyện cho các cha.

Bà tôi không biết đọc biết viết, nhưng chính những người bà, người mẹ như thế, đã vun trồng hát giống ơn thiên triệu trong lòng chúng tôi.

Ðức Maria có một vai trò đặc biệt trong đời tôi. Tôi đã bị bắt ngày lễ Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, 15 tháng 8 năm 1975. Tôi ra đi với hai tay không, trong túi không có gì cả, ngoại trừ một tràng hạt, và tôi đi bình an. Mẹ tôi đã dạy tôi như vậy từ thuở bé. Ðêm ấy trên tuyến đường dài 450 km, tôi đã đọc không biết bao nhiêu lần kinh “Hãy Nhớ”.

Các bạn hỏi tôi, Ðức Mẹ đã giúp tôi vượt bao thử thách trong đời tôi thế nào. Tôi sẽ thuật lại cho các bạn một vài chuyện đang còn tươi rói trong ký ức tôi. Lúc còn là một linh mục du học ở Rôma, tháng 9 năm 1957, tôi đi Lộ Ðức để cầu nguyện với Ðức Mẹ. Quỳ trước hang đá, nhìn lên tượng Mẹ, tôi nghe như Ðức Mẹ nói với tôi như đã nói với thánh nữ Bernadette:

– Benadette, Mẹ không hứa cho con hân hoan và an ủi ở trần gian này, nhưng hứa đau khổ và thử thách.

Tôi run sợ, nhưng tôi chấp nhận và phó thác trong tay Mẹ. Tôi tiếp tục học hành thi cử, và trở về Việt Nam, làm giáo sư, Giám đốc tiểu chủng viện Hoan-Thiện, Tổng đại diện, Giám mục Giáo phận Nha Trang năm 1967. Cám ơn Chúa, công việc mục vụ của tôi nói được là thành công.

Tôi trở lại Lộ Ðức nhiều lần và nhiều lần tôi tự hỏi: “Có lẽ lời Ðức Mẹ đã nói với thánh Bernadette không phải Mẹ cũng nhắc lại với tôi?” Thánh giá bổn phận của tôi không đến nỗi quá nặng, dù sao tôi sẵn sàng chấp nhận thánh ý Chúa.

Tiếp đến mùa hè 1975, tôi bị bắt, bị cầm tù, ở trại cải tạo, bị biệt giam… hơn 13 năm gian truân! Bấy giờ, tôi mới hiểu Ðức Mẹ đã muốn chuẩn bị cho tôi từ 1957: “Mẹ không hứa cho con hân hoan và an ủi ở trần gian này, nhưng hứa đau khổ và thử thách”. Mỗi ngày tôi càng hiểu thâm thúy hơn ý nghĩa của sứ điệp ấy và tôi phó mình trong tay Mẹ.

Lúc những khổ đau thể xác và tinh thần trở nên quá nặng nề, tôi không đọc kinh nổi, tôi chỉ lặp đi lặp lại “Ave Maria”, không biết bao nhiêu lần mỗi ngày: “Lạy Mẹ, con quá yếu nhược, con không đọc kinh nổi nữa, con chỉ biết dâng lên Mẹ muôn vàn “Ave Maria”, xin Mẹ ban phát cho giáo dân của con, cho mọi người, cho toàn thể Hội thánh đang cần đến lòng thương xót của Mẹ. Tất cả với Mẹ, vì Mẹ và trong Mẹ”.

Không những tôi cầu xin Mẹ ban ơn, nhưng tôi năng thưa với Mẹ: “Lạy Mẹ, con có thể làm gì giúp Mẹ được? Con sẵn sàng theo lệnh Mẹ, chịu đựng tất cả, làm tất cả vì “Nước Chúa Giêsu, con Mẹ”.” Lúc ấy, tuy ở giữa gian lao, tôi cảm thấy hết lo sợ và bình an.

Lúc nào cầu nguyện với Mẹ Maria, tôi không thể quên thánh Giuse bạn trinh khiết của Mẹ. Vì đó là một nguyện ước của Chúa Giêsu và Mẹ. Thánh Giuse là người được Chúa Giêsu và Mẹ yêu mến cách đặc biệt nhất. Mẹ tôi đã dạy cho tôi điều này.

Mẹ Maria Vô nhiễm không bỏ quên tôi. Mẹ đã sát cánh tôi dọc đường gập ghềnh đen tối của lao tù. Trong những năm tháng thử thách triền miên ấy, tôi đã cầu xin Mẹ cách đơn sơ mà đầy tin tưởng cậy trông: “Lạy Mẹ, nếu Mẹ biết con không thể làm ích gì để phục vụ Hội thánh nữa thì xin Mẹ cho con đặc ân được chết trong tù, để hy sinh trọn vẹn. Ngược lại nếu Mẹ biết con còn phục vụ Hội thánh được, xin Mẹ cho con một dấu chỉ : ra khỏi tù trong một ngày lễ của Mẹ!”

Một hôm trời mưa, tôi đang thổi cơm trưa, tôi nghe điện thoại của chiến sĩ trực reo. “Biết đâu có tin gì cho tôi? Ðúng rồi, bữa nay là lễ Ðức Mẹ dâng mình vào đền thánh, 21 tháng 11 mà!”

Năm phút sau, anh chiến sĩ trực đến:

– Ông Thuận ơi, ông ăn chưa?

– Chưa ạ, tôi đang thổi cơm đây.

– Ăn xong, ăn mặc sạch sẽ, đi gặp lãnh đạo.

– Lãnh đạo là vị nào vậy?

– Tôi không biết, tôi chỉ được báo thế. Chúc ông may mắn.

Tôi đã được đưa đến nhà khách chính phủ, bên hồ Ha-le, và tôi đã gặp ông Mai Chí Thọ, Bộ trưởng Nội vụ (Bộ công an). Sau lời chào hỏi xã giao, ông Bộ trưởng đã hỏi:

– Ông có nguyện vọng gì không?

– Thưa có, tôi muốn được tự do.

– Bao giờ?

– Hôm nay.

Ông Bộ trưởng có vẻ ngạc nhiên, thường tình phải có thời gian cho cơ quan nhà nước xếp đặt… Nhưng hôm nay là lễ Ðức Mẹ nên tôi tin chắc và xin như vậy. Ðể đánh tan bầu khí lúng túng và ngạc nhiên ấy, tôi nói:

– Thưa ông Bộ trưởng, tôi ở tù lâu lắm, suốt ba đời Giáo hoàng: Phaolô VI, Gioan Phaolô I, và Gioan Phaolô II. Về phía xã hội chủ nghĩa thì tôi đã ở tù bốn đời Tổng Bí thư Liên Xô: Brezhnev, Andropov, Chernenko, và Gorbachev.

Ông Bộ trưởng bật cười và nói:

– Ðúng! đúng!

Ông quay qua bảo người bí thư:

– Hãy liệu đáp ứng nguyện vọng của ông.

Trong lòng tôi vui mừng tạ ơn Ðức Mẹ Maria, vì không những được tự do mà còn được cả dấu chỉ. Chắc Mẹ tha tội tôi cả gan thách đố Mẹ.

Các bạn hỏi tôi về vai trò của Mẹ Maria trong đời tôi, đặc biệt là sự chọn lựa triệt để theo Chúa Giêsu?

Tôi cảm nghiệm rằng, trên Thánh giá, Chúa Giêsu đã bảo thánh Gioan: “Ðây là Mẹ con!” (Ga 19, 29). Sau phép Thánh Thể thì Chúa Giêsu không thể để lại cho loài người sự gì cao quý hơn chính Mẹ của Ngài.

Ðức Mẹ với tôi là một cuốn Phúc âm sống, loại bỏ túi, phổ biến rộng rãi nhất, dễ hiểu nhất, dễ thương nhất.

Ðức Mẹ là Mẹ của Chúa Giêsu, chính Ngài trối Mẹ lại cho tôi. Chính điều này cho tôi thấy sự hiệp nhất giữa Mẹ Maria, Chúa Giêsu và tôi. Mỗi khi dâng thánh lễ, đọc lời truyền phép, tôi cảm thấy tôi là con Ðức Mẹ hơn cả, vì tôi hiệp nhất với Chúa Giêsu.

Ðức Mẹ không những lo lắng cho Chúa Giêsu mà còn lưu tâm giúp đỡ bà Isave, thánh Gioan, đôi tân hôn ở làng Cana… mọi người, toàn thể Hội thánh.

Tôi rất thích câu nói của thánh nữ Têrêxa Hài Ðồng: “Tôi muốn làm linh mục để giảng về Ðức Mẹ”. Cuộc đời Mẹ Maria có thể tóm gọn trong ba tiếng: “Ecce, Fiat, Magnificat”.

“Này tôi là tớ nữ của Thiên Chúa” (Lc 1, 38).

“Tôi xin vâng như lời thiên thần truyền cho tôi”… (Lc 1, 38).

“Linh hồn tôi ngợi khen Chúa”… (Lc 1, 46).

Biệt giam tại Hà Nội,

1-1-1986,

Lễ Ðức Maria Mẹ Thiên Chúa.

7. Con cá thứ hai:

Tôi chọn Chúa

Các bạn trẻ hôm nay,

Các bạn được mời gọi để đón nhận một sứ điệp, và lớn tiếng loan báo sứ điệp ấy cho bạn bè cùng lứa tuổi:

“Loài người được Thiên Chúa yêu thương!

Thiên Chúa yêu thương con người vô hạn!

Ðó là sứ điệp đơn giản nhất,

Mà Hội thánh có nhiệm vụ chuyển đến cho nhân loại”.

(Tông huấn “Người tín hữu giáo dân”, số 34,

trích lại trong Sứ điệp NQTGT XII, số 9)

Các bạn trẻ thân mến,

Tôi đã chia sẻ với các bạn kinh nghiệm sống của tôi trên bước đường theo Chúa Giêsu, để gặp Ngài, sống bên Ngài, để rồi ra đi, mang sứ điệp của Ngài cho mọi người.

Các bạn hỏi tôi: “Làm sao thực hiện được sự kết hiệp với Chúa Giêsu cách toàn vẹn trong một cuộc sống lắm biến động trong cũng như ngoài?” Tôi đã không giấu giếm các bạn, tôi đã viết ra trong sách “Ðường Hy Vọng”.

Trong đời tôi, giai đoạn gian lao nhất là thời gian hơn mười ba năm lao tù. Với cuốn “Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá” này, tôi đã chia sẻ với các bạn, làm sao Chúa đã giúp tôi vượt qua mọi khó khăn và sống đến ngày nay. “Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá” là lương thực nuôi đời sống thiêng liêng của tôi. Nhiều bạn muốn tôi nói rõ ràng chi tiết của bí quyết theo Chúa Giêsu đến cùng cách vững vàng. Tôi xin các bạn hãy nhìn lên 24 ngôi sao đang chiếu sáng con đường hy vọng của các bạn. Dưới đây, bạn lưu ý sẽ thấy đánh số phía tay phải, từ số 1 đến số 24. Tôi muốn cho 24 số đối lại với 24 giờ trong ngày. Rất thực tế, nếu ta sống 24 giờ trên 24 hoàn toàn theo Chúa Giêsu, chúng ta sẽ làm thánh.

Trong 24 số ấy, tôi nhắc đến tiếng “một” 24 lần. Ví dụ, một cuộc cách mạng, một chiến dịch, một đường lối tông đồ, một khẩu hiệu, v.v… một là cao quí nhất.

Ðó là 24 ngôi sao, tôi không cần phải giải thích, tôi mời các bạn bình tĩnh suy niệm các tư tưởng ấy, như chính Chúa Giêsu dịu dàng nói với bạn, thân mật lòng bên lòng. Bạn đừng sợ nghe Ngài, nói với Ngài. Bạn đừng ngần ngại, mỗi tuần bạn hãy đọc lại một lần. Bạn sẽ thấy ơn thánh tỏa sáng ra và biến đổi cả đời bạn.

Thời gian ở biệt giam, mỗi năm mấy lần tôi nhận thư mẹ hoặc em tôi. Nhưng đặc biệt một hôm tôi được thư của bà Chiara Lubich, người sáng lập Phong trào Focolare (Bác ái Hiệp nhất). Lạ lùng thật, tôi hay nhớ một câu bà nói: “Tôi không nghĩ đến việc lôi kéo ai theo tôi; tôi chỉ biết hết lòng theo Chúa Giêsu, rồi người khác sẽ theo tôi”.

Hai mươi bốn ngôi sao

1* Con muốn thực hiện một cuộc cách mạng: canh tân thế giới. Hoài bảo lớn lao đó, sứ mệnh cao đẹp đó, Chúa trao cho con; con thi hành với “quyền lực Chúa Thánh Thần”. Mỗi ngày con chuẩn bị lễ Hiện Xuống mới quanh con.

2* Con xúc tiến một chiến dịch: làm cho mọi người hạnh phúc. Con hy sinh mình từng giây phút với Chúa Giêsu, để đem an bình trong tâm hồn, phát triển thịnh vượng cho các dân tộc. Ðường lối tu đức thầm kín và thiết thực!

3* Con nắm vững một đường lối tông đồ: “Thí mạng vì anh em“, vì không có tình yêu nào lớn lao hơn (x. Ga 15, 13). Con hao mòn từng giây phút và sẵn sàng tiêu hao để chinh phục anh em về với Chúa.

4* Con hô một khẩu hiệu: “Tất cả hiệp nhất“, hiệp nhất giữa các người Công giáo, hiệp nhất giữa các Kitô hữu, hiệp nhất giữa các dân tộc. Như Chúa Cha và Chúa con là một (x. Ga 17, 22-23).

5* Con tin một sức mạnh: Thánh Thể. Thịt máu Chúa sẽ làm cho con sống, “Ta đã đến, là để chúng được có sự sống và có một cách dồi dào” (Ga 10, 10). Như manna nuôi dân Do Thái đi đường về Ðất hứa, Thánh Thể sẽ nuôi con đi cùng đường Hy vọng (x. Ga 6, 53).

6* Con mang một đồng phục, nói một ngôn ngữ: Bác ái. Bác ái là chứng tích để biết con là môn đệ Chúa (x. Ga 13, 35), là dấu hiệu rẻ mà khó kiếm nhất. Bác ái là sinh ngữ số một mà thánh Phaolô cho là cao trọng hơn tiếng nói của loài người và các thiên thần, là ngôn ngữ độc nhất sẽ tồn tại trên thiên đàng (x. 1 Cor 13, 1).

7* Con nắm một bí quyết: Cầu nguyện. Không ai mạnh bằng người cầu nguyện, vì Chúa đã hứa ban tất cả. Khi các con hiệp nhau cầu nguyện có Chúa ở giữa các con (x. Mt 18, 20). Cha tha thiết khuyên con ngoài giờ kinh, hãy cầu nguyện mỗi ngày tối thiểu một giờ, nếu được hai giờ càng tốt. Không phải là mất mát vô ích đâu! Trên quãng đường cha đi, cha đã thấy lời thánh Têrêxa Avila ứng nghiệm: “Ai không cầu nguyện, không cần ma quỉ lôi kéo, sẽ tự mình sa xuống hỏa ngục”.

8* Con giữ một nội qui: Phúc âm. Ðó là hiến pháp trên tất cả mọi hiến pháp, là hiến pháp Chúa Giêsu đã để lại cho các tông đồ (x. Mt 4, 23). Hiến pháp ấy không khó khăn, phức tạp, gò bó như các hiến pháp khác; ngược lại, linh động, nhân hậu, làm phấn khởi tâm hồn con. Một vị thánh ngoài Phúc âm là “thánh giả”.

9* Con trung thành theo một vị lãnh đạo là Chúa Kitô và đại diện của Ngài: Ðức Giáo Hoàng, các Giám mục, kế vị các thánh tông đồ (x. Ga 20, 22-23). Hãy sống và chết vì Hội thánh như Chúa Kitô. Ðừng nghĩ chết vì Hội thánh mới hy sinh. Sống vì Hội thánh cũng đòi hỏi nhiều hy sinh.

10* Con có một tình yêu: Mẹ Maria. Thánh Gioan Maria Vianney đã nói: “Mối tình đầu của tôi là Mẹ Maria”. Nghe Mẹ sẽ không lầm lạc, hoạt động vì Mẹ sẽ không thất bại, làm vinh quang Mẹ sẽ được sống đời đời.

11* Con có một sự khôn ngoan: Khoa học Thánh giá (x. 1 Cor 2, 2). Nhìn Chúa Giêsu trên thánh giá, con giải quyết ngay được vấn đề đang khiến con xao xuyến. Thánh giá là tiêu chuẩn để chọn lựa và quyết định, tâm hồn con sẽ bình an.

12* Con có một lý tưởng: Hướng về Chúa Cha, một người Cha đầy yêu thương. Cả cuộc đời Chúa Giêsu, mọi tư tưởng, hành động đều nhắm một hướng: “Ðể cho thế gian biết là Ta yêu mến Cha, và như Cha truyền dạy Ta sao, Ta làm như vậy” (Ga 14, 31), “Ta hằng làm những sự đẹp lòng Người” (Ga 8, 29).

13* Con chỉ có một mối lo sợ: Tội lỗi. Triều đình hoàng đế Hy Lạp đã nhóm họp để bàn cách trả thù thánh Gioan Kim Khẩu bởi ngài đã khẳng thắn khiển trách bà hoàng hậu.

Kế hoạch I: Bỏ tù. Nhưng ông ấy sẽ được dịp cầu nguyện, chịu khó vì Chúa như ông hằng mong muốn.

Kế hoạch I: Lưu đày. Nhưng đối với ông ấy, đâu cũng là đất Chúa.

Kế hoach III: Tử hình. Ông sẽ được tử đạo, chúng ta sẽ thỏa mãn nguyện vọng của ông: được về với Chúa.

Tất cả kế hoạch I, II, III, không làm cho ông khổ đau, ngược lại ông sẽ vui sướng chấp nhận.

Kế hoạch IV: Chỉ có một điều ông khiếp sợ nhất, gớm ghét nhất là tội lỗi, nhưng bắt ông phạm không được.

Nếu con chỉ sợ tội, thì không ai mạnh hơn con.

14* Con ôm ấp một ước nguyện: “Nước Cha trị đến, ý Cha được thành sự, dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6, 10). Dưới đất lương dân biết Chúa như trên trời. Dưới đất mọi người khởi sự yêu nhau như trên trời. Dưới đất đã bắt đầu hạnh phúc như trên trời. Con sẽ nỗ lực thực hiện nguyện vọng ấy. Khởi sự đem hạnh phúc thiên đàng cho mọi người ngay từ trần thế.

15* Con chỉ thiếu một điều: “Có gì đem bán mà cho kẻ khó, và ngươi sẽ có một kho tàng trên trời, đoạn hãy đến theo Ta!” (Mt 10, 21), nghĩa là con phải dứt khoát. Chúa cần hạng tình nguyện thoát ly!

16* Con dùng một phương pháp tông đồ hữu hiệu: tiếp xúc để hòa mình, nhập thể với mọi người để hiểu, để nghe, để yêu mọi người. Tiếp xúc hữu hiệu hơn giảng, hơn viết sách. Tiếp xúc giữa người với người, lòng bên lòng, bí quyết bền đỗ, bí quyết thành công.

17* Con chỉ có một việc quan trọng nhất, Maria đã chọn phần tốt nhất: “Ngồi bên Chúa” (x. Lc 10, 41-42). Nếu con không sống nội tâm, nếu Chúa Giêsu không phải là linh hồn các hoạt động của con thì … Con thấy nhiều, hiểu nhiều rồi, cha miễn nói.

18* Con chỉ có một của ăn: “Thánh ý Chúa Cha” (x. Ga 4, 34), nghĩa là con sống, con lớn lên bằng ý Chúa, con hành động do ý Chúa. Ý Chúa như thức ăn làm con sống mạnh, vui; ngoài ý Chúa con chết.

19* Con chỉ có một giây phút đẹp nhất: Giây phút hiện tại (x. Mt 6, 34; Gc 4, 13-15). Sống tron tình yêu Chúa cách trọn vẹn, đời con sẽ tuyệt đẹp nếu kết tinh bằng từng triệu giây phút đẹp nhất. Con thấy đơn sơ, không phải khó!

20* Con chỉ có một tuyên ngôn: “Phúc thật tám mối“. Trên núi, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Bát phúc” (x. Mt 5, 3-12). Hãy sống như vậy, con sẽ nếm được hạnh phúc rồi rao truyền cho mọi người con gặp.

21* Con chỉ có một công việc quan trọng: Bổn phận, không kể lớn hay nhỏ, vì lúc ấy “con làm việc của Cha con” trên trời. Ngài chỉ định cho con thực hiện chương trình của Ngài trong lịch sử (x. Lc 2, 49; Ga 17, 4). Làm bổn phận là đường lối tu đức chắc chắn nhất. Nhiều người bày vẽ một lối tu đức rắc rối, rồi phàn nàn là khó!

22* Con chỉ có một cách nên thánh: Ơn Chúa và ý chí con (x. 1 Cor 15, 10). Chúa không bao giờ thiếu ơn; con có đủ ý chí không?

23* Con chỉ có một phần thưởng: Thiên Chúa (x. Mt 25, 21, 23; 2 Tim 4, 7-8; Kh 2, 26-28; 3, 21-22). Khi Chúa hỏi Tôma Aquinô: “Con viết rất đúng về Ta, con muốn phần thưởng nào? – “Con chỉ muốn Chúa!”

24* Con có một Tổ Quốc.

Tiếng chuông ngân trầm,

Việt Nam nguyện cầu.

Tiếng chuông não nùng,

Viêt Nam buồn thảm.

Tiếng chuông vang lừng,

Việt Nam khởi hoàn.

Tiếng chuông thanh thoát,

Việt Nam hy vọng.

Con có một tổ quốc: Việt Nam,

Quê hương yêu quí ngàn đời.

Con hãnh diện, con vui sướng.

Con yêu non sông gấm vóc,

Con yêu lịch sử vẻ vang,

Con yêu đồng bào cần mẫn,

Con yêu chiến sĩ hào hùng.

Sông cuồn cuộn máu chảy cuộn hơn.

Núi cao cao, xương chất cao hơn.

Ðất tuy hẹp nhưng chí lớn.

Nước tuy nhỏ, nhưng danh vang.

Con phục vụ hết tâm hồn,

Con trung thành hết nhiệt huyết.

Con bảo vệ bằng xương máu,

Con xây dựng bằng tim óc.

Vui niềm vui đồng bào,

Buồn nỗi buồn của dân tộc.

Một nước Việt Nam,

Một dân tộc Việt Nam,

Một tâm hồn Việt Nam,

Một văn hóa Việt Nam,

Một truyền thống Việt Nam.

Là người Công giáo Việt Nam

Con phải yêu Tổ quốc gấp bội.

Chúa dạy con, Hội thánh bảo con,

Cha mong giòng máu ái quốc,

Sôi trào trong huyết quản con.

Viết xong tại Cây Vông, Phú Khánh,

nơi quản thúc, ngày 8-12-1975.

Lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên tội

———————————————————————————

5 Chiếc Bánh và 2 Con Cá

Tác phẩm của Ðức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận

Ấn hành lần thứ ba tại Reichstett, France

Cộng Ðoàn Ðức Mẹ La-Vang, Năm 1999

Nhà Xuất Bản Ðịnh Hướng Tùng Thư

13 g rue de l’ILL

67116 Reicstett, France

Tel. 03 33 83 88205822

5 Chiếc Bánh Và 2 Con Cá (bài 2)

3. Chiếc Bánh Thứ Ba

Một bí quyết: Cầu nguyện

Các bạn hãy biết lắng nghe, trong thinh lặng cầu nguyện, câu trả lời của Chúa Giêsu: “Hãy đến và sẽ thấy”. (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 2)

Ở tù về, tôi được nhiều người chất vấn: “Cha sướng thật, trong tù cha đã có nhiều thời giờ để cầu nguyện!” Không phải đơn giản như các bạn nghĩ đâu! Chúa đã cho tôi có dịp hiểu rõ sự yếu đuối thể lý và tinh thần của tôi.

Thời giờ trong tù trôi qua chậm rãi, đặc biệt trường hợp của những ai bị biệt giam. Bạn hãy tưởng tượng một tuần, một tháng, hai tháng thinh lặng … thấy lâu dài cách kinh khủng. Khi thinh lặng ấy kéo dài từng năm, thì nó trở thành đời đời … Ông bà ta thường bảo: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại, nghĩa là, một ngày trong tù dài bằng ngàn thu tự do”.

Có những lúc quá đau, quá mệt không đọc được một kinh.

Tôi nhớ lại chuyện ông già Jim. Cứ mỗi ngày lúc 12 giờ trưa ông ta vào nhà thờ không quá hai phút. Ông từ (giữ nhà thờ) rất thắc mắc theo dõi, rồi một hôm chận ông Jim lại và hỏi:

– Tại sao bác vào đây mỗi ngày?

– Tôi đến cầu nguyện.

– Không thể được! Kinh gì trong hai phút?

– Tôi vừa già, vừa dốt, đọc kinh theo kiểu của tôi.

– Ông nói gì với Chúa?

– Tôi cầu nguyện: “Giêsu, có Jim đây!” rồi tôi về.

Thời gian trôi qua. Jim già yếu, bệnh tật, phải vào bệnh viện, nơi khu vực người già. Sau đó Jim yếu liệt, chuẩn bị đi xa … Linh mục tuyên úy và nữ tu y tá đến bên giường Jim:

– Jim ơi, hãy nói cho chúng tôi biết, tại sao từ ngày ông vào khu vực này, có nhiều điều thay đổi, bệnh nhân vui vẻ hơn, chấp nhận thuốc thang, sống có tình nghĩa hơn?

– Chả biết!… Lúc còn sức tôi đi quanh thăm mọi người, chào hỏi, chuyện trò một chốc; lúc sau liệt giường tôi gọi tên họ, thăm hỏi, làm cho họ cười. Với Jim ai cũng vui.

– Thế tại sao Jim vui, Jim hạnh phúc?

– Khi nào cha và sơ được người ta đến thăm mỗi ngày có vui không?

– Vui chứ! Nhưng có thấy ai thăm Jim đâu?

– Lúc mới vào, tôi có xin hai chiếc ghế, một dành riêng cho cha và sơ, một cho khách quí của tôi, thấy không?

– Khách của ông là ai?

– Là Chúa Giêsu. Trước kia tôi đến thăm Ngài ban trưa, nay đi hết nổi, cứ 12 giờ trưa Ngài đến thăm tôi.

– Ngài nói gì với Jim?

– Ngài bảo: Jim, có Giêsu đây!…

Trước lúc Jim chết, người ta thấy Jim đưa tay chỉ chiếc ghế như thể muốn mời ai ngồi, Jim mỉm cười, nhắm mắt ra đi.

Những lúc tôi không còn sức để đọc nổi dù một kinh, tôi lặp đi lặp lại: “Giêsu, có con đây”, tôi cảm thấy như Chúa Giêsu trả lời: “Thuận ơi, có Giêsu đây!” Tôi vui vẻ và bình an.

Các bạn hỏi tôi: “Cha thích đọc kinh nào?” Dĩ nhiên là tôi thích những kinh của Chúa Giêsu dạy, của Hội thánh: kinh Lạy Cha, kinh Kính mừng, kinh Tin kính…

Thú thật, tôi thích những kinh vắn tắt đơn sơ trong Phúc âm:

“Con ơi, nhà này hết rượu!” (Ga 2, 3). “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa” (Lc 1, 46-55). “Xin Chúa thương xót con vì con là kẻ có tội” (Lc 18, 13). “Lạy Cha, nếu có thể được thì xin cho con khỏi uống chén đắng này” (Mt 26, 39). “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm” (Lc 23, 34). “Xin Cha cho chúng hiệp nhất nên một” (Ga 17, 21). “Con phó linh hồn trong tay Cha” (Ga 23, 46).

Tôi thích dùng lời Thánh kinh, lời Chúa để cầu nguyện, khi đọc lên những Thánh vịnh, tôi sung sướng vì biết rằng đây là những kinh chính Chúa Giêsu và Mẹ Maria đã đọc. Mấy anh công an gác tôi làm đôi việc để “cải thiện” đời sống kinh tế, chẳng hạn họ cắt giấy rồi in tay … bán cho các công sở. Loại giấy “đầu thừa, đuôi thẹo” thì quét lại cả đống làm “giấy vệ sinh”, tôi lượm giấy vệ sinh ấy, mượn kim chỉ, đóng thành sổ bỏ túi, hai cuốn sổ tôi rất quí, một gồm trên 300 câu Thánh kinh bằng tiếng Latinh để cầu nguyện và một gồm đầu đề của vài trăm bài hát cũng để cầu nguyện. Còn bao nhiêu “giấy vệ sinh” khác mỗi ngày thu lượm một ít để dành viết sách.

Tôi rất ghi ơn sự huấn luyện ở chủng viện, những bài thánh ca đã ghi sâu vào lòng tôi. Ðặc biệt là tôi thuộc lòng hầu hết bài hát bình ca trong kinh phụng vụ, chưa bao giờ tôi cảm thấy ý nghĩa sâu xa và xúc động như vậy. Cũng không thể quên được những kinh Việt ngữ, tiếng mẹ đẻ của tôi, mà cả nhà cùng cầu nguyện mỗi tối trong nhà nguyện gia đình. Tôi hình dung được trước mắt Ông Bà, Ba Má và các em tôi, và nghe giọng mỗi người đang cầu nguyện. Nhất là ba kinh Kính mừng và kinh “Hãy nhớ” mà Mẹ tôi tập tôi đọc sớm tối từ lúc mới biết nói.

Như tôi đã nói, tôi ở tù biệt giam chín năm, chỉ có tôi và hai người gác. Ðể tránh cho khỏi thấp khớp và tê liệt, suốt ngày tôi không ngừng đi lại, xoa bóp, thể dục và hát để cầu nguyện: ca vịnh thống hối Miserere, kinh Tạ ơn Te Deum, kinh Chúa Thánh Thần Veni Creator, kinh các Thánh Tử đạo Sanctorum Meritis. Những bài hát của Hội thánh, được cảm hứng từ lời Chúa, như rót vào trong tôi lòng can đảm để theo Chúa Giêsu.

Cedantur gladiis, more bidentium, Non murmur resonant, non querimonia, Sed corde impavido, meus bene conscia, Conservant, patientiam. Muôn thử thách, vì Ngài đâu sá kể! Không hé một lời oán trách thở than! Chẳng xôn xao, lòng thơ thới yên hàn, Trước sau vẫn hiền hòa, luôn kiên nhẫn.

Ðể đánh giá, để nếm được sự quí đẹp của những kinh ấy, cần phải có kinh nghiệm ngục tù tăm tối, cô đơn, và ý thức được sự hiện diện của Chúa. Ngài chấp nhận những đau khổ dâng lên Ngài vì muốn trung thành với Hội thánh. Tôi cảm nghiệm được sự hiệp thông với Chúa Giêsu, với Ðức Thánh Cha, với toàn thể Hội thánh một cách tha thiết vững vàng mỗi khi tôi lặp lại suốt ngày.

Chính nhờ Ðức Kitô, cùng với Ðức Kitô và trong Ðức Kitô, Mà mọi chúc tụng và vinh quang đều qui về Chúa là Cha toàn năng Cùng với Chúa Thánh Thần muôn đời. Amen.

Có lúc Chúa dùng giáo dân để dạy tôi cầu nguyện. Thời gian bị quản thúc ở Giang xá, có ông lão nhà quê, tên là ông quản Kính, từ giáo xứ Ðại Ơn lẻn vào thăm tôi. Tôi không bao giờ quên được lời ông khuyên tôi:

“Thưa cha, cha không hoạt động tông đồ được thì xin cha cầu nguyện cho Hội thánh; ở trong tù cha đọc một kinh hơn một nghìn kinh cha đọc lúc ở ngoài tự do!”

Ðức Mẹ còn sử dụng cả người cộng sản để nhắc tôi cầu nguyện. Ông Hải đã từng ở tù, nằm cùng buồng với tôi để mật thám tôi, sau đã thành bạn của tôi. Trước ngày ông ta ra về, ông đã hứa với tôi:

Nhà tôi ở Long Hưng, chỉ cách La Vang 3 km, tôi sẽ đi La Vang cầu nguyện cho anh”.

Tôi tin lòng thành thật của anh bạn, nhưng tôi hoài nghi làm sao một người cộng sản mà đi cầu nguyện Ðức Mẹ cho tôi! Sáu năm sau, đang lúc tôi ở biệt giam, tôi đã được một bức thư của ông Hải, lạ lùng thật! Lạ hơn nữa là lời lẽ của ông như sau:

“Anh Thuận thân mến, tôi đã hứa với anh, tôi sẽ đi cầu nguyện Ðức Mẹ La Vang cho anh. Mỗi Chủ nhật, nếu trời không mưa, lúc nghe chuông La Vang, tôi lấy xe đạp vào trước đài Ðức Mẹ, vì chiến tranh bom đạn đã đánh sập nhà thờ rồi. Tôi cầu nguyện thế này:

Thưa Ðức Mẹ, tôi không có đạo, tôi không thuộc kinh nào cả. Nhưng tôi đã hứa sẽ đi cầu nguyện Ðức Mẹ cho anh Thuận, nên tôi đến đây. Xin Ðức Mẹ biết anh Thuận cần gì thì cho anh ấy”.

Tôi hết sức cảm động. Tôi đọc đi đọc lại rồi đặt thư xuống nhắm mắt lại: “Lạy Mẹ, Mẹ đã dùng anh cộng sản này để dạy con cầu nguyện; chắc Mẹ đã nhậm lời anh ấy, con mới còn sống đây!”.

Trước khi làm bất cứ việc gì, dù là việc mục vụ, xã hội, bác ái, chúng ta phải cầu nguyện. Như Chúa Giêsu, trước khi làm phép lạ nuôi dân chúng, đã ngước mắt lên trời, cầu nguyện cùng Ðức Chúa Cha. Ngài đã chọn Chúa trước rồi mới làm việc Chúa sau.

Các bạn thân mến,

Ðức Thánh Cha nhắn nhủ các bạn:

“Hãy thưa chuyện với Chúa Giêsu lúc cầu nguyện, lúc nghe lời Chúa; hãy nếm thử niềm vui lúc được Bí tích Hòa giải; hãy đón nhận Mình Máu Thánh Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể…; hãy khám phá sự thật về chính mình các bạn, khám phá ra sự hiệp nhất nội tâm và sẽ tìm thấy “người Bạn” chữa các bạn khỏi những xao xuyến, những cơn ác mộng, khỏi óc chủ quan man rợ nó không để cho các bạn được bình an”. (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 3)

Biệt giam tại Hà Nội

25-3-1987

Lễ Thiên Thần truyền tin cho Ðức Mẹ.

4. Chiếc Bánh Thứ Tư

Sức mạnh độc nhất của tôi:

Phép Thánh Thể

Quanh bàn tiệc Thánh Thể được thực hiện và được tỏ bày sự hiệp nhất hài hòa của Hội Thánh, mầu nhiệm hiệp thông truyền giáo, trong đó mọi người nhận thấy mình là con Chúa và là anh chị em trong một đại gia đình. (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 7)

Trong tù cha có dâng lễ được không?“, đó là câu hỏi mà bao nhiêu lần nhiều người đã hỏi tôi. Và thực sự họ có lý, vì Thánh Thể là kinh nguyện đẹp nhất, là đỉnh cao của cuộc đời Chúa Giêsu. Mỗi khi tôi trả lời “có”, thì tôi đã biết ngay câu hỏi tiếp sau: “Làm sao cha kiếm ra rượu lễ, bánh lễ?

Lúc tôi bị bắt, tôi phải đi ngay và đi tay không. Hôm sau tôi được phép viết về nhà để xin đồ cần dùng nhất như áo quần, kem đánh răng, v.v… Hàng đầu tiên, tôi viết: “Xin gửi cho tôi ít rượu thuốc trị bịnh đường ruột“. Bên ngoài, giáo dân hiểu ngay. Hôm sau, ông trưởng ban chấp pháp cầm đến một ve nhỏ bên ngoài có dán giấy đề chữ “thuốc trị bịnh đường ruột” và bánh lễ xé nhỏ bỏ trong một cái lọ chống ẩm, ông ta hỏi:

– Ông có bị bịnh đường ruột không?

– Có.

– Ðây là thuốc bên ngoài gửi vào cho ông!

Không bao giờ tôi vui bằng hôm đó: từ đấy mỗi ngày với ba giọt rượu và một giọt nước trong lòng bàn tay, tôi dâng thánh lễ.

Tuy nhiên cách dâng lễ mỗi nơi mỗi khác. Dưới hầm tàu thủy chở tôi ra miền Bắc, ban đêm tôi ngồi giữa mấy bạn tù, bàn thờ là túi cói đựng đồ, dâng lễ thánh Phanxicô quan thầy của tôi và cho các bạn chịu lễ. Lúc ở trại Vĩnh Quang tôi phải dâng lễ trong góc cửa ban sáng lúc người ta đi tắm sau giờ thể dục. Lúc đã quen với thời khóa biểu của trại, tôi dâng lễ ban đêm, vì chúng tôi được chia thành từng đội 50 người, ngủ chung trên một láng gỗ, mỗi người được 50 cm, đầu đụng nhau, chân quay ra ngoài. Chúng tôi đã tự thu xếp để năm anh em Công giáo nằm quanh tôi. Ðến 9 giờ rưỡi đêm, nghe tiếng kẻng là tắt đèn và mọi người phải nằm trong mùng muỗi cá nhân; tôi ngồi cúi sát xuống để dâng lễ thuộc lòng. Tôi đưa tay dưới mùng để chuyển Mình Thánh cho anh em chịu lễ. Chúng tôi nhặt giấy nylon bọc bao thuốc hút để làm những túi nhỏ đựng Mình Thánh. Như thế Chúa Giêsu luôn ở giữa chúng tôi. Chúng tôi tin một sức mạnh: Thánh Thể. Thịt Máu Chúa làm cho chúng tôi sống, “Ta đã đến là để chúng được có sự sống, và có một cách dồi dào” (Ga 10, 10). Như manna nuôi dân Do Thái đi đường về Ðất hứa, Thánh Thể sẽ nuôi con đi cùng đường Hy vọng (Ga 6, 53).

Mỗi tuần, sáng thứ Sáu có một buổi học tập, tất cả 250 anh em phải tham dự. Ðến lúc xả hơi, các bạn Công giáo thừa dịp đó mang các túi nylon đựng Mình Thánh đến chia cho bốn đội kia, mỗi người thay nhau mang trong túi áo một ngày.

Ai cũng biết có Chúa Giêsu Thánh Thể đang ở giữa trại tù với họ. Chính Ngài an ủi, xoa dịu những khổ đau thể xác và tinh thần; chính Ngài thêm can đảm chịu đựng cho họ. Ban đêm, họ thay phiên nhau làm giờ thánh. Sự hiện diện thinh lặng của phép Thánh Thể biến đổi họ cách lạ lùng. Nhiều người Công giáo trở lại sống đạo đức hơn; nhiều anh em không Công giáo, Phật giáo tìm hiểu Phúc âm và lãnh phép Thánh tẩy trong trại cải tạo, hoặc sau lúc được tự do.Không có gì cưỡng lại được tình yêu Chúa Giêsu. Ðêm tối của ngục tù trở thành ánh sáng, hạt giống đã đâm chồi dưới đất đang lúc trời giông tố phong ba. Những ơn trọng này do Chúa Giêsu Thánh Thể chứ không phải do sức loài người.

Trong chín năm biệt giam, tôi dâng lễ một mình lúc 3 giờ chiều, giờ Chúa Giêsu hấp hối trên Thánh giá. Tôi ở một mình nên có thể hát tiếng Latinh, tiếng Việt, tiếng Pháp… Tôi luôn mang Mình Thánh trong mình “như Cha ở trong con và con ở trong Cha”.

Ðó là những thánh lễ đẹp nhất của đời tôi. Kinh Lauda Sion, Pange Lingua, Adoro Te, Te Deum và nhiều kinh Việt ngữ, mặc cho tiếng loa trước cửa từ 5 giờ sáng đến 11 giờ rưỡi đêm. Tôi cảm nghiệm cách đặc biệt một sự bình an, một niềm vui trong tâm hồn vì Chúa Giêsu, Ðức Mẹ và thánh Giuse ở với tôi. Tôi hát Salve Regina, Salve Mater, Regina Coeli, v.v… hiệp với toàn thể Hội thánh. Mặc cho Hội thánh bị vu cáo, chống đối, tôi hát “Này con là đá… Ta hãy nguyện xin cho Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô”…

Chúa Giêsu đã nuôi dưỡng dân chúng theo Người trên sa mạc; trong phép Thánh Thể Chúa Giêsu tiếp tục làm của ăn ban sự sống muôn đời.

Mỗi lúc dâng lễ, đọc lời truyền phép, với tất cả tâm hồn, tôi làm lại lời “giao ước mới, giao ước vĩnh cửu” với Chúa Giêsu. Không phải để sống an nhàn, nhưng để bắt đầu một cuộc cách mạng, đổi mới nhân loại, được máu Chúa cứu chuộc, sống xứng đáng phẩm giá con Thiên Chúa, trong văn hóa của tình thương và sự sống.

Trong Thánh Thể chúng tôi loan truyền sự chết của Chúa Giêsu và tuyên xưng sự sống lại của Ngài. Có lúc buồn nản vô cùng, tôi nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi trên Thánh giá: Ngài không giảng dạy, thăm viếng, chữa lành bệnh tật; Ngài hoàn toàn bất động. Ðối với con mắt loài người, cuộc đời Chúa Giêsu là vô ích, là thất bại. Nhưng đối với đôi mắt Thiên Chúa, chính giây phút ấy lại là giây phút quan trọng nhất của đời Ngài, vì trên Thánh giá Ngài đã đổ máu mình để cứu chuộc nhân loại.

Chúa Giêsu là mẫu gương của tình yêu tuyệt đối với Ðức Chúa Cha và các linh hồn. Ngài đã cho tất cả, yêu thương đến cùng (Ga 13, 1), cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng và nói lên tiếng “hoàn tất” (Ga 19, 30).

Khi nhìn thấy đoàn lũ theo Ngài, Ngài nói: “Tôi thương xót dân này” (Mt 15, 32). Ngài đã làm phép lạ cho bánh và cá hóa nhiều để nuôi họ. Ðây là dấu hiệu loan báo phép Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập về sau.

Các bạn trẻ thân mến,

Mời các bạn nghe lời Ðức Thánh Cha: Chúa Giêsu sống giữa chúng ta, trong phép Thánh lễ; giữa những sự bất trắc, những hoang mang trong cuộc đời mỗi ngày, các bạn hãy noi gương hai môn đệ trên đường về Emmau… Hãy cầu xin Chúa Giêsu, để dọc các nẻo đường về bao nhiêu xóm nhỏ Emmau của thời đại ta, Ngài ở lại với các bạn. Ngài phải là sức mạnh của các bạn, là trung tâm của các bạn, là hy vọng trường cửu của các bạn. (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 7)

Biệt giam tại trại Phú Khánh, Nha Trang,

1-9-1976

Lễ các Thánh Tử Ðạo Việt Nam

5. Chiếc Bánh Thứ Năm

Yêu thương cho đến hiệp nhất

Chúc thư của Chúa Giêsu

Các bạn trẻ thân mến, Các bạn được gọi làm chứng nhân đáng tin của Phúc âm Chúa Kitô, Ðấng làm cho mọi sự nên mới… “nếu các bạn thương yêu nhau” (Ga 13, 35). (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 8)

Ở trại giam Phú Khánh, một đêm tôi đau quá, thấy một người gác đi qua, tôi kêu: “Tôi đau quá, xin anh thương tình cho tôi thuốc !” Anh ta đáp: “Ở đây chẳng có thương yêu gì cả, chỉ có trách nhiệm”.

Ðó là bầu khí chúng tôi ở trong tù.

Lúc tôi bị biệt giam, trước tiên người ta trao cho năm người gác tôi: đêm ngày có hai anh trực. Cứ hai tuần đổi một tổ mới, để khỏi bị tôi làm nhiễm độc. Một thời gian sau không thay nữa, vì “cấp trên” nói: “Nếu cứ thay riết thì sở công an bị nhiễm độc hết!”

Thực thế, để tránh nhiễm độc, mấy anh không nói với tôi, họ chỉ trả lời “có” hoặc “không”. Họ tránh nói chuyện với tôi. Buồn quá! Tôi muốn lịch sự vui vẻ với họ, họ vẫn lạnh lùng. Phải chăng họ ghét “cái mác phản động” nơi tôi: Tất cả áo quần đều đóng dấu hai chữ lớn “cải tạo”, kể từ ngày bước chân vào trại Vĩnh Quang ở Bắc Việt.

Tôi phải làm thế nào?

Một đêm đông lạnh quá, không ngủ được, tôi nghe một tiếng nhắc nhủ tôi: “Tại sao con dại thế? Con còn giàu lắm: Con mang tình thương Chúa Giêsu trong tim con. Hãy yêu thương họ như Chúa Giêsu đã yêu con”.

Sáng hôm sau, tôi bắt đầu mến họ, yêu mến Chúa Giêsu trong họ, tươi cười với họ, trao đổi đôi ba câu nói… Tôi thuật lại những chuyến đi ra nước ngoài, cuộc sống, văn hóa, kinh tế, khoa học kỹ thuật, tự do dân chủ ở Canada, Nhật Bản, Philippines, Singapore, Pháp, Ðức, Úc, Áo, v.v… Những câu chuyện đó kích thích tính tò mò của họ, giục họ đặt nhiều câu hỏi. Tôi luôn luôn trả lời… Dần dần chúng tôi trở thành bạn. Họ muốn học sinh ngữ Anh, Pháp… tôi giúp họ. Từ từ mấy chiến sĩ gác tôi trở thành học trò của tôi! Bầu khí nhà giam đổi nhiều, quan hệ giữa họ với tôi tốt đẹp hơn. Thậm chí cả những ông xếp công an, thấy tôi đối xử chân thành, không những họ xin tôi giúp các chiến sĩ học hành ngoại ngữ, nhưng họ còn gửi anh khác đến học.

Tôi sống theo lời Chúa Giêsu dạy: “Ðiều gì con làm cho một người bé mọn nhất trong anh em là làm cho chính mình Ta”.

Khi nào có hai hay ba người hợp nhau vì danh Thầy, thì có Thầy ở giữa họ”.

Một hôm một ông xếp hỏi tôi:

– Ông nghĩ thế nào về tờ tuần báo “Người Công giáo”?

– Nếu viết đúng cả nội dung cả hình thức thì có lợi; nếu ngược lại thì không thêm đoàn kết, lại còn thêm chia rẽ, bất lợi cho cả người Công giáo và cho cả nhà nước.

– Làm thế nào cải thiện tình trạng ấy?

– Những cán bộ phụ trách về tôn giáo phải hiểu đúng mỗi tôn giáo thì việc đối thoại, tiếp xúc các chức sắc mỗi tôn giáo cũng như các tín hữu mới có tính cách xây dựng, tích cực và tạo nên thông cảm giữa đôi bên.

– Ông có thể giúp được không?

– Nếu các vị muốn, tôi có thể viết một cuốn Lexicon (từ điển bỏ túi) gồm những danh từ thông dụng nhất trong tôn giáo, từ A đến Z, chừng nào các vị có giờ rảnh, tôi sẽ giải thích rõ ràng, khách quan. Hy vọng các vị có thể hiểu lịch sử, cơ cấu, sự phát triển và hoạt động của Giáo hội…

Họ đã trao giấy mực cho tôi, tôi đã viết cuốn “lexicon” đó, bằng tiếng Pháp, Anh, Ý, Latinh, Tây Ban Nha, và Trung Quốc với phần giải thích bằng Việt ngữ. Dần dà tôi có cơ hội giải thích hoặc giải đáp thắc mắc, tôi chấp nhận làm sáng tỏ những chỉ trích về Giáo hội. “Lexicon” ấy trở thành một cuốn giáo lý thực hành. Ai cũng muốn biết viện phụ là gì, thượng phụ là gì, Công giáo khác Anh giáo, Tin Lành, Chính Thống giáo chỗ nào? Tài chánh của Tòa thánh từ đâu mà có? Có bao nhiêu tu sĩ, giáo dân làm việc trong giáo triều, huấn luyện tu sĩ, giáo sĩ thế nào? Giáo hội phục vụ nhân loại thế nào? Tại sao Giáo hội gồm có nhiều dân tộc, sống qua nhiều thời đại cũng bị bắt bớ, tiêu diệt, cũng mang nhiều khuyết điểm mà vẫn tồn tại? Ngang đây là đến biên giới của siêu nhiên, của sự quan phòng của Thiên Chúa… Cuộc đối thoại từ A đến Z giúp xóa tan một số hiểu lầm, một số thành kiến, có những lúc trở nên thú vị và hấp dẫn. Tôi tin tưởng có nhiều người cởi mở, muốn tìm hiểu và với những biến chuyển trong thời đại ta, đã có những tầm nhìn mới mẻ và xây dựng.

Thời kỳ biệt giam ở Hà Nội, tôi được biết có 20 chiến sĩ nam nữ trẻ học tiếng Latinh với một cựu tu sĩ, để có thể đọc các tài liệu của Giáo hội. Trong số mấy anh gác tôi có hai anh trong nhóm học Latinh. Trông thấy bài vở, tôi nhận thấy họ học tốt. Một hôm, một trong hai anh ấy hỏi tôi:

– Ông có thể dạy tôi một bài hát tiếng Latinh không?

– Có nhiều bài hay tuyệt, nhưng biết anh thích bài nào?

– Ông hát cho tôi nghe, tôi sẽ chọn.

Tôi đã hát Salve Regina, Veni Creator, Ave Maris Stella… Các bạn biết anh ta chọn bài nào không? Anh ta chọn bài Veni Creator (Xin Chúa Ngôi Ba đoái thương viếng thăm…).

Tôi đã chép trọn cả bài cho anh ta và anh ta học thuộc lòng. Mỗi sáng quãng 7 giờ, tôi nghe anh ta chạy xuống thang gỗ, ra sân tập thể dục, rồi múc nước vừa tắm vừa hát: Veni Creator Spiritus… Tôi rất cảm động, làm sao mỗi sáng trong nhà tù cộng sản lại có một cán bộ hát kinh “Veni Creator” cho mình nghe!

Anh thứ hai lại chọn một bài hát tiếng Việt: “Ngày vinh phước hôm nay, hát mừng Tôma Thiện” kính thánh tử đạo chủng sinh. Anh rất thích nên thuộc lòng cả bài. Tiếng anh ngân nga, như nhắc tôi can đảm chịu khó:

Ôi! cái chết đẹp thay! Trên cổ một vòng dây, Cái vòng dây yêu mến, Buộc lòng tớ theo Thầy.

Ðâu có tình yêu thương, đó có vui tươi an bình, vì Chúa Giêsu ở đó. Con mang một đồng phục, nói một ngôn ngữ: bác ái. Bác ái là chứng tích để biết con là môn đệ Chúa (Ga 13, 35) là dấu hiệu rẻ mà khó kiếm nhất.

Trên núi Vĩnh Phú, trong trại tù Vĩnh Quang, một hôm trời mưa lớn, tôi cưa gỗ trong nhà. Tôi xin anh chiến sĩ gác tôi:

– Tôi xin anh một đặc ân.

– Anh muốn gì? Tôi cố gắng giúp anh.

– Tôi muốn cưa một miếng gỗ theo hình Thánh giá.

– Anh không biết ở trại nghiêm cấm mọi hình thức tôn giáo sao?

– Tôi biết, nhưng chúng ta là bạn, và tôi hứa sẽ giấu rất kín.

– Vô cùng nguy hiểm cho cả hai anh em mình.

– Anh nhắm mắt đi cho tôi làm, tôi sẽ cẩn trọng hết sức.

Anh ta quay lưng, bỏ tôi lại một mình. Tôi đã thực hiện ngay ý định, rồi giấu thánh giá gỗ ấy trong một cục xà phòng cho đến ngày tôi được tự do. Tôi thuê thợ bọc nó lại bằng “mêtan”. Miếng gỗ ấy có bao giờ nghĩ rằng mình sẽ trở nên thánh giá của Giám mục!

Gỗ thánh giá ấy lấy từ núi Vĩnh Phú, nơi có đền Hùng thờ các vua Hùng, tổ tiên chúng ta đã có công dựng nước. Ði đâu tôi cũng mang thánh giá ấy, mang trên mình Chúa Giêsu và quê hương Việt Nam.

Trong một nơi biệt giam khác, ở Hà Nội, tôi đã xin anh gác:

– Tôi muốn xin anh giúp tôi một chuyện.

– Ông cần gì tôi sẽ hết sức giúp đỡ.

– Anh kiếm cho tôi một sợi dây điện đồng.

Anh ta trợn mắt:

– Trời đất! Trong trường công an chúng tôi đã học: tù nhân nào giữ một sợi dây điện là dấu muốn tự tử.

– Không đâu, linh mục đâu lại đi tự tử!

– Nhưng ông dùng dây điện làm gì?

– Tôi muốn làm một sợi dây để mang tượng Thánh giá.

– Dây điện mà làm dây mang tượng thánh giá sao được? Khó hiểu quá!

– Anh cứ cho tôi mượn hai cái kềm nhỏ, tôi sẽ làm cho anh xem.

– Nguy hiểm lắm ông ơi! Không khéo cả ông cả tôi mang lấy vạ.

– Nhưng chúng mình là bạn mà!

– Tôi ngại lắm, nhưng để tôi suy nghĩ vài hôm rồi sẽ trả lời cho ông.

Sau ba hôm, anh ta bảo:

– Thực khó từ chối với ông. Tôi tính thế này, chiều nay tôi sẽ mang đến hai cái kềm, từ 7 giờ đến 10 giờ đêm, phải liệu cho xong. Tôi để anh bạn tôi đi chơi “Hanoi by night”. Nhỡ ai thấy chúng ta, nói đến tai cấp trên, chúng ta sẽ bị kỷ luật.

Chúng tôi đã cắt sợi dây điện ra từng mảnh như que diêm. Chúng tôi bẻ cong hai đầu lại. Trước 11 giờ đêm chúng tôi đã làm xong! Tôi mừng quá! Thắng lợi.

Hằng ngày tôi mang sợi dây này và thánh giá này trên mình, không phải để kỷ niệm ngục tù, nhưng vì nhắc cho tôi xác tín cách sâu xa rằng: Không phải dùng khí giới, đe dọa, áp lực mà có thể thay đổi được lòng người; chỉ có tình yêu Chúa Giêsu mới thay đổi được.

Ðiều khó hiểu nhất đối với chiến sĩ gác tù, là thái độ tha thứ yêu thương địch thù của mình. Có hôm mấy anh gác hỏi tôi:

– Ông có thương chúng tôi không?

– Có chứ, tôi yêu thương các anh cách thành thực, không có gì là khách sáo đâu!

– Kể cả khi người ta giam ông, mất tự do, năm này sang năm khác? Không xét xử gì cả?

– Anh nghĩ lại bao nhiêu năm ở với nhau. Tôi làm sao giấu được. Tôi thực sự yêu thương các anh.

– Chừng nào được tự do anh có sai giáo dân của anh trả thù không?

– Không, tôi vẫn tiếp tục yêu thương, dù các anh có muốn giết tôi.

– Nhưng tại sao lại yêu kẻ thù hại anh?

– Vì Chúa Giêsu đã dạy tôi yêu thương; nếu tôi không tuân giữ, tôi không đáng gọi là Kitô hữu nữa.

Thời gian eo hẹp và hoàn cảnh chưa thuận tiện để thuật lại cho các bạn nhiều chuyện rất cảm động, chứng tích của sức mạnh giải phóng do tình yêu Chúa Giêsu làm nên.

Trong Phúc âm, nhìn đoàn lũ theo Ngài đã ba ngày, Chúa Giêsu nói: “Tôi thương xót dân này” (Mt 15, 32); “Họ khác nào đoàn chiên không mục tử” (Mc 6, 34)… Trong những lúc bi đát nhất ở trong tù, tôi kiệt lực không còn sức mà đọc kinh, nguyện ngắm, tôi tìm một cách để tóm tắt cốt tủy của lời cầu nguyện, của sứ điệp Chúa Giêsu như thế này “Tôi sống chúc thư Chúa Giêsu”. Nghĩa là yêu mến mọi người như Chúa Giêsu đã yêu thương tôi, trong tha thứ, trong nhân từ, trong hiệp nhất, như Ngài đã cầu nguyện “Xin Cha cho họ nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (Ga 17, 21). Tôi năng cầu nguyện: “Tôi sống chúc thư Chúa Giêsu”. Tôi muốn làm như cậu bé đã dâng tất cả những gì mình có. Năm chiếc bánh và hai con cá không đáng gì cả, nhưng là “tất cả” của nó, để trở thành “khí cụ tình thương của Chúa Giêsu”.

Các bạn trẻ thân mến, Ðức Gioan Phaolô II nhắn nhủ các bạn: Các bạn sẽ gặp Chúa Giêsu ở đâu có người đau khổ và hy vọng: trong những xóm làng bé nhỏ rải rác khắp các lục địa, hầu như ở bên lề của lịch sử, như làng Nagiarét; trong những đô thị mênh mông, nơi mà từng triệu người chen nhau sống, lắm lúc như những người xa lạ. Chúa Giêsu sống bên cạnh các bạn … gặp khuôn mặt Ngài nơi bộ mặt của những người nghèo khổ bị bỏ rơi, thường là những nạn nhân của một chính sách kinh tế bất công, đặt lợi nhuận lên trên hết và làm cho con người thành phương tiện chứ không phải là mục đích… Gặp Chúa Giêsu ở giữa những người kêu cầu Ngài mà không hề biết Ngài. Gặp Chúa Giêsu ở giữa những người mang tên là Kitô hữu, cả nam lẫn nữ. Giờ phút này đứng trước ngưỡng cửa của năm hai nghìn, họ cần khẩn trương xóa tan gương xấu chia rẽ giữa anh chị em Kitô hữu. (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 5)

Các bạn hãy cảnh giác: sự lầm lạc lớn nhất là không nhìn thấy người khác là Chúa Kitô. Có nhiều người chỉ khám phá ra điều đó trong ngày cuối cùng.

Chúa Giêsu bị bỏ rơi trên Thánh giá, Ngài còn bị bỏ rơi trong mỗi anh chị em đang đau khổ trong mỗi góc xó trên thế giới. Tình thương không có ranh giới; hễ có ranh giới thì không còn là tình thương nữa.

Biệt giam tại trại Phú Khánh, Nha Trang,

1-9-1976

Lễ các Thánh Tử Ðạo Việt Nam

5 Chiếc Bánh Và 2 Con Cá (bài 1)

5 Chiếc Bánh Và 2 Con Cá

ÐHY Phanxicô Xaviê

Nguyễn Văn Thuận

1. Chiếc Bánh Thứ Nhất

Sống Phút Hiện Tại

Các bạn có thể gặp Chúa Giêsu, dọc theo những nẻo đường của cuộc sống mỗi ngày!… Ðây là chiều kích nền tảng của sự gặp gỡ đó: Không phải các bạn gặp một biến cố hay một sự vật gì đó, nhưng các bạn gặp một con người, đó là Thiên Chúa hằng sống. (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 1)

Tên tôi là Phanxicô Nguyễn Văn Thuận, người Việt Nam. Ðối với người ngoại quốc tên tôi khó đọc, nên ở Tanjania, Nigeria, Ðại Hàn, Ðài Loan, các bạn trẻ gọi tôi là “Bác Francis” (Uncle Francis) hay đơn giản hơn nữa là “Francis!”

Ðến 23-4-1975 tôi làm Giám mục đã được tám năm, tại Nha Trang, Trung phần Việt Nam, Giáo phận đầu tiên Tòa Thánh trao phó cho tôi. Tôi đã sống những ngày tháng hạnh phúc ở đó và Nha Trang vẫn chiếm một chỗ đặc biệt trong quả tim tôi. Ngày 23-4-1975, Ðức Phaolô VI đã đặt tôi làm Tổng Giám mục phó Sàigòn. Khi cộng sản đến Sàigòn, họ đã bảo rằng: “Việc bổ nhiệm một Giám mục một tuần trước khi chúng tôi đến Sàigòn là một âm mưu giữa Vatican và đế quốc, nhằm tổ chức chống cộng sau này”.

Ba tháng sau, ngày 15-8-1975, tôi được mời vào Dinh Ðộc lập lúc 2 giờ chiều và bị bắt ở đó.

Ðêm đó, trên đường dài 450 km, xe công an chở tôi về nơi quản thúc. Bao nhiêu tâm tình lẫn lộn trong đầu óc tôi: lo lắng có, cô đơn có, mệt mỏi có, sau mấy tháng căng thẳng… nhưng trong trí tôi, một quyết định sáng tỏ đã đánh tan mây mù. Tôi nhớ lời Ðức Cha John Walsh, một Giám mục truyền giáo gốc Mỹ, đã nói lúc ngài được tự do sau 12 năm tù ở Trung cộng: “Tôi đã mất nữa đời người để chờ đợi”. Rất đúng! tất cả mọi tù nhân, trong đó có tôi, phút giây nào cũng mong đợi tự do. Suy nghĩ kỹ, trên chiếc xe Toyota trắng, tôi đã đặt cho mình một quyết định: “Tôi sẽ không chờ đợi. Tôi sống phút hiện tại và làm cho nó đầy tình thương”.

Ðây không phải là một cảm hứng đột xuất, nhưng là một xác tín đã ấp ủ suốt quãng đời mãi từ tiểu chủng viện: “Nếu tôi mất giờ đợi chờ, không làm gì hết, biết đâu những điều tôi đợi sẽ không bao giờ đến. Chỉ có một điều, dù không đợi cũng vẫn đến, đó là sự chết!”

Trong làng Cây Vông, nơi tôi bị quản thúc, ngày đêm có nhân viên an ninh chìm nổi theo dõi. Trong óc một tư tưởng không ngừng làm tôi xót xa, thao thức: “Giáo dân của tôi! một đoàn chiên hoang mang, giữa bao hiểm nguy, thách đố của một giai đoạn lịch sử mới. Làm sao tôi có thể gần gủi, liên lạc với họ, trong giai đoạn họ cần đến người mục tử nhất! Các nhà sách Công giáo bị đóng cửa, trường học Công giáo do Nhà nước quản lý, tôn giáo sẽ không còn được dạy dỗ trong các trường nữa; các linh mục, sư huynh, nữ tu có khả năng phải đi ra thôn quê, đi nông trường lao động, không được dạy học nữa! Sự xa lìa giáo dân là một cú “sốc” giày vò tan nát quả tim tôi.

Tôi không đợi chờ. Tôi sống phút hiện tại và làm cho nó đầy tình thương. Nhưng làm thế nào?

Một đêm, một tia sáng đến với tôi: “Con hãy bắt chước thánh Phaolô. Khi ngài ở tù, không hoạt động tông đồ được, ngài đã viết thư cho các giáo đoàn. Ðơn giản vậy mà con đi tìm đâu cho xa?”

Sáng hôm sau, vừa mới tinh sương, giữa tháng 10 năm 1975, tôi làm hiệu cho một cậu bé 7 tuổi, tên Quang, vừa đi lễ 5 giờ ra, trời còn mù và lạnh: “Quang! con về nói má con mua cho ông mấy “bloc” lịch cũ, ông cần dùng”. Chiều tối, chú bé mang lại mấy “bloc” lịch cũ. Thế là mỗi đêm trong tháng 10 và tháng 11, 1975, tôi đã đóng hết cửa, lấy giấy xi-măng dán bên trong và viết “Sứ điệp từ ngục tù” cho giáo dân của tôi, dưới ánh đèn dầu leo lét, mặc cho muỗi tha hồ đốt.

Mỗi sáng thực sớm tôi trao cho bé Quang, mấy tờ lịch tôi đã viết sau lưng, mang về cho anh, chị của Quang chép lại kẻo mất. Nếu để trên bàn tôi, “ông An” (một giáo dân) thấy sẽ sinh tai họa. Ðấy là đầu đuôi sách “Ðường Hy Vọng“, sứ điệp lao tù thành hình là như thế. Hiện nay sách đã được xuất bản bằng tám thứ tiếng.

 

Chúa đã ban ơn cho tôi có nghị lực để tiếp tục làm việc, kể cả những lúc chán nản nhất. Tôi đã viết đêm ngày trong một tháng rưỡi, vì tôi sẽ bị “chuyển trại” và không có điều kiện hoàn tất được. Lúc viết đến số 1001 tôi quyết dừng lại, xem đây như công trình “nghìn lẻ một đêm”. Ngày 8-12-1975, lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm Tội, tôi đã tạ ơn Ðức Mẹ cho tôi viết xong “Ðường Hy Vọng” và trao trong tay Ðức Mẹ gìn giữ, đó là của Ðức Mẹ, nhờ ơn của Ðức Mẹ, xin Ðức Mẹ tiếp tục lo liệu. Ðoán vậy mà không sai, đến ngày 18-3-1976, tôi bị đưa vào trại Phú Khánh, biệt giam vất vả nhất.

Năm 1980, lúc bị đưa ra quản thúc ở Giang Xá, Bắc Việt, tôi đã tiếp tục viết mỗi đêm trong bí mật cuốn thứ hai, “Ðường Hy Vọng Dưới Ánh Sáng Lời Chúa và Công Ðồng Vatican II”, cuốn thứ ba, “Những Người Lữ Hành Trên Ðường Hy Vọng”.

Tôi không chờ đợi. Tôi sống phút hiện tại và làm cho nó đầy yêu thương.

Trong Phúc âm, các Tông đồ muốn chọn con đường dễ nhất, khỏe nhất: “Xin Thầy cho dân chúng về, để họ mua thức ăn”… Nhưng Chúa Giêsu muốn hành động trong phút hiện tại: “Chính các con hãy cho họ ăn đi” (Lc 9, 1). Trên thánh giá, khi người ăn trộm thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, khi về thiên đàng xin Ngài nhớ đến tôi”. Chúa Giêsu đáp: “Hôm nay con sẽ ở cùng Ta trên nước thiên đàng” (Lc 23, 42-43). Trong tiếng “hôm nay” của Chúa Giêsu, tôi cảm thấy tất cả sự tha thứ, tất cả tình thương của Ngài.

Cha Maximiliano Kolbe sống tinh thần ấy khi ngài khuyên các tập sinh trong dòng: “Tất cả, tuyệt đối, không điều kiện”. Tôi đã nghe Ðức Cha Helder Camara nói: “Cả cuộc đời là học yêu thương”. Một lần Mẹ Têrêxa Calcutta gửi thư cho tôi, Mẹ viết: “Ðiều quan trọng không phải là số công tác đã thực hiện nhưng là mức độ tình yêu ta đã để vào mỗi công việc“.

Làm sao yêu thương đến cao độ như thế trong mỗi phút hiện tại? Tôi nghĩ rằng tôi phải sống mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút như là giờ phút cuối cùng của đời tôi. Dẹp bỏ những gì là phụ thuộc, tập trung cả tâm hồn cho những gì là chính yếu. Mỗi lời nói, mỗi tư tưởng, mỗi cử chỉ, mỗi cú điện thoại, mỗi quyết định phải là “đẹp nhất” của đời tôi. Tôi phải dành cho mỗi người tình yêu của tôi, nụ cười của tôi : tôi phải lo sợ đánh mất một giây phút nào trong đời mình vì đã sống không ý nghĩa…

Tôi đã viết trong sách Ðường Hy Vọng: “Con chỉ có một giây phút đẹp nhất: giây phút hiện tại (x Mt 6, 34; Gc 4, 13-15). Sống trong tình yêu Chúa cách trọn vẹn, đời con sẽ tuyệt đẹp nếu kết tinh bằng từng triệu giây phút đẹp nhất. Con thấy đơn sơ, không phải khó (ÐHV 997).

Các bạn trẻ thân mến, trong thời đại này, Chúa Giêsu cần đến các bạn. Ðức Gioan Phaolô II tha thiết kêu gọi các bạn hãy đương đầu với những thách đố của thế giới hôm nay:

Chúng ta đang sống trong một giai đoạn đầy biến chuyển kinh khủng. Những lý thuyết được xem là đủ sức thi gan cùng tuế nguyệt nay đã đến lúc xế chiều. Trên hoàn cầu, cần phải phác họa lại ranh giới của nhiều quốc gia. Nhân loại tự cảm thấy mình rất lúng túng, hốt hoảng, lo lắng (Mt 9, 36). Nhưng lời Chúa không bao giờ qua đi; đọc lại lịch sử, chúng ta thấy bao nhiêu biến cố thăng trầm, đang lúc ấy lời Chúa đứng vững và chiếu sáng (Mt 24, 35). Ðức tin của Hội thánh được xây dựng trên Chúa Giêsu Kitô, Ðấng Cứu thế độc nhất: hôm qua hôm nay và mãi mãi (Eb 13, 18). (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 2)

Cây Vông, Nha Trang

nơi tôi bị quản thúc

16-8-1975, hôm sau lễ Ðức Mẹ Lên Trời.

2. Chiếc Bánh Thứ Hai

Phân biệt giữa Chúa và

việc của Chúa

Thật đúng vậy, Chúa Giêsu là một người bạn hay đòi hỏi, hay chỉ cho ta nhắm những mục đích cao cả, … Hãy đạp đổ những rào cản của nông nỗi và sợ hãi bao vây các bạn! Hãy nhận ra mình là những “con người mới”.

(Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 3)

Lúc tôi còn là một linh mục sinh viên ở Roma, có một người đã bảo tôi: “Ðức tính lớn nhất của bạn là “hăng say nhiệt tình”, còn tính xấu tệ nhất là “hay tấn công””. Dù thế nào đi nữa, tôi là một người ham hoạt động: hướng đạo sinh, tuyên úy tráng đoàn Lavang, cắm trại trên núi Bạch mã… Một tư tưởng thúc bách tôi mỗi ngày: phải chạy đua với đồng hồ! Làm tất cả những gì có thể được để củng cố và phát triển Giáo hội trong Giáo phận Nha Trang, trước khi thời gian khốn khó xảy đến, khi phải sống dưới chế độ cộng sản!

Trọng tâm hoạt động của tôi là huấn luyện nhân sự: gia tăng đại chủng sinh từ 42 đến 147 trong tám năm; gia tăng số tiểu chủng sinh từ 200 đến 500 trong bốn chủng viện; tu nghiệp các linh mục trong sáu giáo phận của Giáo tỉnh miền Trung; phát triển và huấn luyện các phong trào thanh niên, giáo dân, các hội đồng giáo xứ, mục vụ… Tôi rất quí mến giáo phận đầu tiên của tôi là Nha Trang.

Giờ đây, tôi phải đi vào Sàigòn lập tức, theo lệnh Ðức Phaolô VI bổ nhiệm. Không kịp từ biệt những ai đã từng hiệp nhất với tôi trong cùng một lý tưởng, cùng một quyết tâm, cùng chia sẻ hân hoan và thử thách.

Ðêm ấy 7-5-1975, khi tôi ghi âm những lời tạm biệt Giáo phận Nha Trang, tôi đã khóc nhiều, đó là một lần độc nhất tôi đã khóc nhiều, đó là một lần độc nhất tôi đã khóc thổn thức trong tám năm ở Nha Trang – vì thương nhớ. Nhưng tâm hồn tôi rất bình an, vì tôi vâng lời Ðức Thánh Cha.

Tiếp đến là gian khổ thử thách tại Sàigòn, là bị bắt đưa trở lại Nha Trang, nơi mà tôi đã bị biệt giam khắc nghiệt nhất, không xa Tòa Giám mục của tôi. Sáng tối tôi nghe tiếng chuông nhà thờ chánh tòa như xé nát tim tôi. Ðêm đến tôi nghe tiếng sóng biển vỗ cạnh buồng biệt giam.

Từ Nha Trang tôi bị đưa trở lại Sàigòn, ở trại Thủ Ðức, vùng Tam Hà, ngày đêm nghe không biết bao nhiêu tiếng chuông nhà thờ. Ðêm 1-12-1975, cùng với 1,500 bạn tù đói, mệt, chán nản, còng tay hai người chung một khóa số 8, bước xuống gầm tàu “Hải Phòng” đậu tại bến Tân cảng gần cầu Xa lộ, để chở ra trại cải tạo Vĩnh Quang, tỉnh Vĩnh Phú, trong thung lũng núi Tam Ðảo, mùa đông 1976-77 rét 20C.

Ðặc biệt nhất là nỗi gian khổ của 9 năm biệt giam một mình với hai người gác, không bạn bè, không có việc làm, tôi ở trong một sự trống rỗng tuyệt đối, đến mức có thể điên đi được. Tôi đi lại suốt ngày trong buồng giam, để vận động cơ thể kẻo nằm luôn thì tôi sẽ chết vì thấp khớp, viêm phổi.

Nhiều lúc một mình, tôi bị đau khổ giày vò, tại sao đang lúc mình 48 tuổi, trưởng thành và khỏe mạnh, sau tám năm Giám mục tôi đã có nhiều kinh nghiệm mục vụ, lại phải vào phòng biệt giam, xa giáo phận những 1,700 km?

Một đêm thanh vắng, một tiếng từ đáy lòng nhắc nhở tôi: “Tại sao con quẫn trí, hoang mang như thế làm gì? Con phải biết phân biệt giữa Chúa và công việc của Chúa.

Những gì con đã làm và tiếp tục làm như kinh lý giáo phận, huấn luyện nam nữ tu sĩ, giáo dân, thanh niên, kiến thiết thánh đường, cư xá sinh viên, mở mang các thí điểm truyền giáo… tất cả những công tác ấy đều là những việc tốt lành, là việc của Chúa, nhưng không phải là Chúa!

Nếu Chúa muốn con trao tất cả các việc ấy trong tay Ngài, con hãy làm ngay, và hãy tin tưởng vào Ngài. Chúa có thể làm tốt hơn con muôn nghìn lần; Ngài có thể trao việc của Ngài cho những người tài đức hơn con. Hãy chọn một mình Chúa thôi, chọn thánh ý Ngài, chứ đừng chọn việc của Chúa!”

Tôi luôn luôn học tập làm theo ý Chúa. Nhưng ánh sáng này mang lại cho tôi một sinh lực mới, thay đổi tận gốc lối suy nghĩ của tôi, giúp tôi vượt qua những bước gian truân mà hầu như cơ thể không chịu đựng nổi. Từ đây tôi cảm thấy trong lòng tôi “một sự bình an mà thế gian không cho được”.

Theo tính tự nhiên, những lúc chương trình đang thực hiện tốt đẹp phải bỏ dở, hoạt động đang hăng say phải bó tay, nhiệm vụ đang quan trọng phải hạ tầng công tác! Uất ức và chán nản! Tôi tự hỏi: Chúa gọi con “Hãy theo Thầy” hay “Hãy theo việc nọ, người kia?” Ðể đó, Chúa sẽ liệu, Ngài sẽ giải quyết tốt hơn con là cái chắc.

Ở trại Phú Khánh, tôi bị giam trong một phòng không có cửa sổ, phải đi qua 3 lớp cửa trong một hành lang mới đến khí trời. Vào đó nóng cực kỳ, tôi ngột ngạt và cảm thấy trí óc mất sáng suốt dần dần, cuối cùng là mê man. Có lúc người ta để đèn sáng như ban ngày, lúc khác lại nằm trong bóng tối. Buồng vừa nóng vừa ẩm, đến nỗi tôi xuống nằm dưới nền, còn nấm thì mọc lên trắng cả chiếc chiếu của tôi. Lúc nằm trong tối tăm, tôi thấy có một lỗ dưới vách, ánh sáng lọt vào, tôi lết đến, kê mũi vào đó để thở. Lúc nào trời mưa, nước ở ngoài ngập, những con trùng ở ngoài bò vào, có cả giun và có lần có cả con rết dài; dù thấy vậy, nhưng tôi yếu mệt quá không làm gì được, tôi cứ để cho chúng bò quanh, ngày nào nước xuống, thì chúng lại bò ra. Sau này hai linh mục bị giam cách tôi 2 lớp cửa, đã thuật lại cho tôi biết: “Một hôm cô Thanh, cấp dưỡng, đã mỡ cửa cho chúng con ra đứng nhìn Ðức Cha nằm dưới đất và bảo: cho hai anh nhìn thấy ông Thuận, ông sắp chết!” Nhưng trong cơn cơ cực này, Chúa đã cứu tôi!

Tôi phải chọn Chúa chứ không phải việc của Chúa: Chính Chúa muốn cho tôi ở đây, chứ không phải nơi khác.

Lúc tôi bị nhốt dưới khoang tàu Hải Phòng cùng với 1,500 anh em tù nhân bị đưa ra Bắc, tôi đã thấy trên nét mặt của họ nỗi thất vọng, lòng căm thù. Tôi chia sẻ đau khổ của họ. Nhưng tôi lại nghe tiếng: “Hãy chọn Chúa chứ không phải việc của Chúa!” Tôi đã thưa: “Lạy Chúa, chính đây là nhà thờ chánh tòa của con. Ðây là dân Chúa trao cho con phục vụ, con phải làm cho Chúa hiện diện giữa những người anh em chán nản, cùng khổ này. Ðây là ý Chúa, nên con phải chọn”.

Khi tôi lên trại cải tạo, giữa thung lũng núi Tam Ðảo, tỉnh Vĩnh Phú, tôi gặp 250 anh em cùng một chuyến đi, đa số không Công giáo, tôi vẫn nghe tiếng ấy thúc bách: “Hãy chọn Chúa chứ không phải việc của Chúa. – Lạy Chúa, Chúa sai con đến đây để làm cho tình thương của Chúa hiện diện giữa các anh em con, giữa đói khát và giá lạnh, giữa lao động cải tạo nhọc nhằn và tủi nhục bất công. Con xin chọn Chúa, không phải chọn công việc của Chúa. Con chọn thánh ý Chúa, giờ đây con là tông đồ truyền giáo của Chúa”.

Từ giây phút ấy, một sự bình an mới tràn ngập tâm hồn tôi, ở với tôi suốt 13 năm tù đày. Tôi cảm thấy thấm thía sự yếu hèn của tôi; tôi lặp lại sự chọn lựa của tôi, lúc ấy không bao giờ Chúa để lòng tôi thiếu an bình. Tất cả là hồng ân của Chúa.

Mỗi khi tôi tuyên bố: “Vì Chúa, vì Hội thánh”, tôi phải thinh lặng trước mặt Chúa, và thành thật hỏi Chúa: “Chúa thấy con hành động hoàn toàn vì ai? Con đã chọn vinh danh Chúa, sống và hành động tuyệt đối vì Chúa? hay Chúa là lý do thứ yếu, còn lý do khác mạnh hơn, con không tiện nói?”

Ðây là một sự chọn lựa tuyệt vời, nhưng không phải dễ dàng. Ðức Gioan Phaolô II kêu gọi các bạn :

Các bạn trẻ thân mến, như các môn đệ thuở ban đầu, hãy theo Chúa Giêsu! Ðừng sợ lại gần Chúa … Ðừng sợ “cuộc sống mới” mà Chúa muốn trao cho các bạn vì chính Ngài cho các bạn đủ sức đón nhận và thực hiện cuộc sống ấy, Ngài ban ân sủng của Ngài và Thánh thần của Ngài cho các bạn. (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 3)

Ðức Thánh Cha lại lấy gương thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu để soi sáng các bạn trẻ:

Hãy cùng Têrêxa tiến lên trên đường khiêm nhường và đơn sơ, trong tinh thần Công giáo trưởng thành, trong trường học của Phúc âm. Hãy cùng Têrêxa sống trong “quả tim” của Hội thánh, và triệt để chọn Ðức Kitô. (Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 9)

Cậu bé trong Phúc âm đã có sự chọn lựa triệt để ấy, cậu đã hiến dâng tất cả: Năm chiếc bánh và hai con cá, trong tay Chúa Giêsu với lòng tin tưởng. Thế rồi Chúa Giêsu đã làm “việc của Chúa”: với chừng ấy, Ngài đã nuôi cả năm ngàn, cả vạn người!

Cầu Nguyện

Chúa và việc của Chúa

Vì lòng thương vô hạn,

Chúa gọi con theo Chúa,

làm con Chúa, làm môn đệ Chúa.

Rồi Chúa trao cho con một sứ mạng.

Không ai giống ai, nhưng cùng một mục đích

làm tông đồ, làm chứng nhân cho Chúa.

Tuy nhiên, kinh nghiệm bản thân cho con thấy,

nhiều lần con lẫn lộn hai điều này:

Chúa và việc của Chúa.

Chúa trao cho con công việc của Chúa,

cao trọng có, khiêm tốn có,

tầm cỡ có, bình dân có.

Con làm mục vụ giáo xứ,

mục vụ giới trẻ, mục vụ học đường,

mục vụ nghệ thuật, mục vụ gia đình,

mục vụ thanh niên, mục vụ lao động,

mục vụ truyền thông.

Con đổ vào đó tất cả nhiệt tình,

tất cả những gì có thể được.

Con không tiếc một điều gì, kể cả mạng sống con.

Giữa lúc con tận tụy, hăng say như thế,

con gặp thất bại ê chề.

Vì người ta vô ơn, vì không ai chịu cộng tác,

vì bạn bè hiểu lầm, vì bề trên không nâng đỡ,

vì bịnh tật ốm đau, vì thiếu phương tiện…

Có lúc con đang trên đà thành công rực rỡ,

mọi người hân hoan ca ngợi con, quyến luyến con.

Thì đùng một cái,

con phải thuyên chuyển,

nhận nhiệm vụ mới.

Con choáng váng như rơi vào đêm tối.

Sao Chúa bỏ con?

Con không muốn bỏ dở việc Chúa,

con phải làm cho hoàn thành việc Chúa.

Phải xây xong thánh đường, tổ chức xong hội đoàn…

Tại sao người ta phá việc Chúa?

Không ủng hộ việc Chúa vô cùng chính đáng?

Nhưng trước bàn thờ

Bên Mình Thánh Chúa,

con nghe Chúa Giêsu bảo con:

Con hãy theo Chúa, chứ không phải theo việc của Chúa!”

“Nếu Chúa muốn, con hãy trao việc Chúa lại trong tay Chúa,

Chúa sử dụng ai tiếp tục, mặc ý Chúa.

Có Chúa lo, mà Chúa lo thì muôn vạn lần hơn con lo.

Con hãy chọn một mình Chúa“.

Biệt giam tại Hà Nội

ngày 11-2-1985

Lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội hiện ra tại Lộ Ðức

CHỈ CẦN CA NGỢI CHÚA RỒI ƠN LÀNH SẼ ĐẾN. V

CHỈ CẦN CA NGỢI CHÚA RỒI ƠN LÀNH SẼ ĐẾN. V
Phan Sinh Trần
09.2013
  1. 1. Ca ngợi Chúa có mang lại kết quả thực hay không ? Bạn cũng đã từng có thắc mắc này vì đã thấy có nhiều người ca ngợi Chúa hăng hái rồi khi họ “ tr về mái nhà xưa” thì lại vẫn theo nếp cũ, tính tình đâu hoàn đấy như không có chuyện gì xảy ra. Vâng, quả đúng là như vậy! Khi ta không đầu phục Chúa hoàn toàn thì dù trước đó đã dành tâm hồn cho việc Ca ngợi Chúa đi nữa kết quả sẽ là gần như không có gì, vì điều làm nên sức mạnh của sự Ca Ngợi và mang lại quyền năng của Chúa khi ta ca hát, đó lòng thành khởi đi từ sự quyết tâm từ bỏ mình, từ bỏ các đam mê. Nếu không có yếu tố “quyết tâm từ bỏ “ này thì dù đã thực hiện cách ca ngợi dài lâu đến mấy năm, hay mấy chục năm, vẫn không thấy kết quả hiệu nghiệm.
  1. 2. Cách đây khoảng 10 năm, có một thanh niên giang hồ tên D, cũng đến dự Tĩnh Tâm Canh Tân Đặc Sủng và ăn năn, từ bỏ con đường bạo lực, nhưng khi về nhà, bị bạn bè rủ rê thì anh gia nhập băng nhóm trở lại, Anh lại tiếp tục đi ăn, đi cặp bồ và đi chơi ở các vũ trường, rồi có khi vì gái , Anh đã đánh lộn với các băng nhóm khác. Khi đó, Anh cũng có được Nhóm Thánh Linh ở Houston khích lệ, vận động khuyên nhủ lần thứ hai về sự từ bỏ và đến với Chúa, anh bỏ các sinh hoạt băng Nhóm trong vòng dăm bảy tuần nhưng mà kết quả chưa được bền lâu, các Bạn cũ của Anh lại đến lôi kéo. Nghe chúng nói, Anh ngần ngừ, do dự một hồi rồi cuối cùng Anh đã chọn Bạn và Cuộc chơi thay vì Chúa… Nhóm Thánh Linh tiếp tục vận động trong các lần chọn lựa thứ ba, thứ tư của Anh D,… cuối cùng thì Anh lại tránh gặp mặt Nhóm và sau đó dứt khoát bỏ không đi Nhóm, không ca ngợi Chúa nữa.
Sự thể bùng nhùng như vậy đến gần năm, thể rồi một chuyện rất không ngờ đã xảy ra , trong một lần xích mích từ quán karaoke, anh đã bị gài độ và bị bắn chết . Anh đã mất hết mọi cợ hội gặp gỡ và làm lại cuộc đời, dù đã có nhiều phen tham gia Ca Ngợi và thực sự đã từng được Chúa đụng chạm. Như vậy, lòng chân thành trong Ca Ngợi khi ta đến với Chúa bằng quyết tâm từ bỏ mình là cần thiết biết bao, đó chính là chìa khóa để mở ra một thế giới mới của an bình , vui mừng và thay đổi. Trường hợp của Anh Thanh Niên này , thay vì được ơn đổi mới như trường hợp của thầy X mà tôi xin trình bày sau đây, thì Anh Thanh Niên này đã bị rơi rụng.
  1. 3. Trường hợp của một anh thanh niên khác, anh tên là X vốn là một thợ tiện chuyên nghiệp từ Việt Nam sang Cali và sau đó đến Houston, vào giai đoạn thập niện 80-90 anh đã hái ra tiền với bàn tay khéo léo trên dàn máy tiện, dũa, khoan của mình rồi, có khá tiền sớm trong giai đoạn chân ướt chân ráo, như thông lệ của thanh niên độc thân , Anh lao vào ăn chơi, cá độ bóng football , nhậu nhẹt và vướng vào các vụ đụng chạm thanh toán , Anh trở thành nổi tiếng “ chì “ một thời, điều may mắn là trong một dịp Tĩnh tâm Thánh Linh mà Anh miễn cưỡng tham dự để chiều lòng người thân , anh được Chúa đụng chạm và kêu gọi. Anh Th đã thay đổi và tham gia Ca Ngợi Chúa mỗi tuần liên tiếp trong sáu tháng . Như Bạn từng biết đó, càng Ca Ngợi Chúa hết lòng thì ta càng yêu Chúa hơn. Anh X cũng không ra ngoài ngoại lệ này, Cùng với Nhóm Ca Ngợi Chúa anh chợt nhận ra rằng, đời sống của Anh có thể thiếu mọi thứ trên thế gian này nhưng không thể thiếu Chúa, cùng với số lần Ca Ngợi Chúa , tình yêu Chúa lớn lên trong tim, anh quyết định dâng trọn cuộc đời cho Chúa để không còn thấy trống vắng nữa, nhưng tìm thấy ý nghĩa của một đời sống chan chứa ý nghĩa. Vào một ngày nọ, Anh quyết định đi tu , vào sống trong chủng viện. Khổ một nỗi ,như anh nói: “ làm cho cục sắt thành một món đồ cơ khí thì anh làm được còn học hành thì một câu tiếng Anh cho ra hồn Anh X cũng mù tịt !”, làm sao mà học cho hết 4 năm triết học , 4 năm thần học dài đăng đẳng đây, đó là chưa kể phải bắt đầu từ lớp tiểu trung học trước để lấy bằng trung học.
Bao nhiêu lần bị điểm zero, anh buồn và thao thức cả đêm không ngủ được. Anh tâm sự :
lý trí thì bảo tôi điều này không thể nào làm được nhưng tôi biết lòng mình sẽ không thể nào không làm những việc mà Chúa muốn.
Thật là một công việc quá sức của Anh và quá sức tưởng tượng của nhiều người, làm sao một người gần như thất học lại có thể trau dồi việc học cho thành tài và trỏ thành một linh mục của Chúa. Ở lại lớp nhiều kỳ, trải qua các trường khác nhau tại các Giáo Phận khác , đã bao lần Anh được khuyên hãy bỏ cuộc, nhưng khi Anh thối lui, thì những kỷ niệm trong mối tình đầu, những ngày Ca Ngợi Chúa khi xưa và nếm trải an ủi khi sống trong tình đầu, ngày đầu yêu Chúa và hát dâng lên những bài thân thiết nhất, và có những sự an ủi sâu thẳm nhất Chúa ban cho, chúng lại sống dậy trong lòng và làm cho Anh phải chỗi dậy, lê lết đi tiếp. Thắm thoát đã trên 15 năm , từ chỗ không viết được một câu đúng chính tả , nay Anh có thể viết những bài luận văn dài vài ba chục trang giấy về các đề tài tâm lý, luận lý và nhất là về tình yêu của Chúa. Môn Anh X thích nhất lại là Triết, Phân Tâm học. Còn giảng luận vể Chúa của Anh thì ra sao? Khi cả Nhóm nghe Anh nói về Chúa và kinh nghiệm theo Chúa của mình một cách vô cùng khiêm nhường và dạn dĩ, thì mọi người nghe đều được nóng cháy lên trong lòng, được gia tăng đức Tin mạnh , đc Ái sâu xa hơn . Thực là chả có ơn gì mà Chúa không thể ban cho các con yêu của Ngài ! …Tháng 10 này Anh X sẽ được Đức Giám Mục của Giáo Phận phong chức phó tế và nếu mọi sự tốt đẹp theo ý Chúa kính yêu, thì khoảng giờ này sang năm Anh sẽ chuẩn bị cho Thánh Lễ mở tay. Tất cả bắt đầu bằng tình yêu và sự đụng chạm của Chúa trong Ca Ngợi, Thờ Phượng.
Ca Ngợi thờ phượng Chúa thật là tuyệt vời, nó cho năng lượng yêu để phấn đấu trên 15 năm dài đằng đẳng và thành môn đệ của Tin Mừng.
Thực ra thì tình yêu mà Chúa Thánh Thần đổ tràn ngập trong lòng ta khi Ca Ngợi là điều mà rất nhiều người từng trải. Cha L cũng là môt người trong số đó, Ngài là một sinh viên luật, bỏ người bạn gái yêu, bỏ trường Luật, bỏ sự nghiệp, bỏ tất cả để đi theo Chúa. Trong số người nhờ Ca Ngợi mà yêu mến Chúa quá đỗi, rất có thể có cả Bạn nữa phải không .
Hãy tôn dương Yavê làm một với tôi,
cùng nhau, ta hãy tán tụng Danh Người!
Tôi sẽ tìm kiếm Yavê, và Người đáp lại lời tôi!
khỏi mọi nỗi khiếp sợ, Người đã giải thoát tôi.
Họ đã nhìn đến Người và được chiếu soi,
mặt họ sẽ không hề tủi hổ.
Hãy nếm và xem Yavê tốt lành nhường bao!
Phúc cho ai ẩn náu bên Người!
Thánh Vịnh 34: 4-6, 9

thánh thần xin hãy đến

BÀI HỌC CHIA SẺ

BÀI HỌC CHIA SẺ

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Am 6, 1a.4-7; 1Tm 6, 11-16; Lc 16, 19-31

Bài học người quản lý bị cho nghỉ việc, Chúa Giêsu nói nhè nhẹ về cuộc đời của người quản lý. Chúa Giêsu dùng hình ảnh này như là khởi đầu cho nhiều bài học nói về đời sau cõi tạm này, cái chết sau cuộc sống này.

Ở đời, người ta vẫn thường nói : “cái gì nó cũng có cái giá của nó”. Quả không sai, nó như quy luật nhân quả của cuộc đời. Nếu như trong đời sống, mình gieo điều tốt thì ắt hẳn mình sẽ nhận được điều tốt và ngược lại.

Chúa Giêsu ví dụ hết sức cụ thế chứ không có nói bóng nói gió hay dùng dụ ngôn nữa. Đi vào thẳng vấn đề của cuộc sống luôn đó là câu chuyện về hai con người :một là giàu, ngược lại bên kia là nghèo.

Người giàu này được một cái là ngày ngày yến tiệc linh đình. Chuyện hết sức bình thường như những câu chuyện bình thường mà người ta vẫn thường nói : “chuyện thường ngày ở huyện”. Nhưng, trong cái bình thường này có cái không bình thường đó là có anh ăn xin ngồi ngay trước cổng nhà ông ta. Người ăn xin ghẻ chốc đầy và rồi them được ăn những miếng dư thừa từ nhà của ông nhà giàu nhưng không được ăn.

Chuyện gì đến nó phải đến. Ngày qua ngày, tháng qua tháng, năm qua năm, ông nhà giàu kia cũng chết và người ăn xin cũng chết. Có điều là không biết ai chết trước hay chết sau nhưng bảo đảm là phải chết vì dù giàu dù nghèo thì cũng không thoát được cái chết.

Nhưng, đàng sau cái chết, màn hình được mở ra. Dưới âm phủ, người chủ lại van xin với Ápraham : “Lạy tổ phụ Ápraham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!” Nghe sao mà thương dễ sợ.

Chúng ta nghe ông Ápraham đáp: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.

Khi nghe tổ phụ nói như thế, nhớ lại những người thân và đặc biệt là anh em mình còn sống ở dương gian nên bèn thưa : “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Ladarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!

Nghe thế, ông Ápraham đáp: “Chúng đã có Môsê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó.

Nài nỉ thêm : “Thưa tổ phụ Ápraham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối.Ông Ápraham đáp: “Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.”

Chuẩn hơn chỉnh luôn ! Không chỉ Môsê, các ngôn sứ mà nhiều và quá nhiều những chứng nhân cho những thực tại của đời này và gia tài vĩnh cửu ở đời sau rồi nhưng mấy ai chịu nghe. Hay, có chăng thì nghe đó nhưng thực hành được bao nhiêu với lời mà các vị tiền nhân đã nói, đã để lại.

Và, cũng chẳng cần phải nghe ai nói nữa, chỉ cần nhìn vào thực tại và thực tế cuộc sống thì thấy ngay vấn đề : Con người, ai cũng phải chết. Và, sau khi chết, có mang theo được cái gì đi theo mộ phần, mang theo bên kia thế giới hay không để rồi cứ phải ky cóp. cứ phải tham lam, cứ phải ích kỷ. Tham lam, ích kỷ để làm gì để rồi sau cái chết phải hưởng, phải đón nhận tất cả những gì mà mình đã hành xử khi còn sống.

Sống trên đời, chẳng ai mong mình nghèo và cũng chẳng ai có thể nghi rằng mình giàu cả. Giàu hay nghèo đến từ nhiều lý do. Có thể khách quan, có thể chủ quan, có thể có sự may mắn như người ta nói là thiên thời – địa lợi – nhân hòa nữa. Nếu như ai nào đó có tài nhưng rồi thời cơ không đến hay sự may mắn không đến thì cuộc sống của họ mãi mãi trong lam lũ nghèo khó. Có những người có tí tài năng cộng thêm với sự may mắn, sự thuận tiện để rồi sống trong cuộc sống dư giả giàu có.

Và, hết sức bình thường trong mọi thời, mọi nơi, mọi xã hội ta đều thấy những người giàu và người nghèo. Giàu không phải là cái tội và nghèo cũng chẳng phải là cái tội. Tội hay chăng đó là ta giàu mà ta không biết cách sống như thế nào cho đúng với lương tâm, đúng với luân thường đạo lý.

Chuyện quan trọng, chuyện căn cốt là ta sống như thế nào khi ta giàu có, ta có nhiều của cải vật chất. Không phải những người giàu là xấu. Có những người giàu nhưng họ khôn ngoan sống theo cái nhìn, theo lối sống của con cái Thiên Chúa chú không theo lối sống của thế gian.

Sống khôn ngoan theo lối sống của Thiên Chúa thì giàu hay nghèo cũng chẳng là cái gì cả. Cách riêng với những người giàu thì phải biết dùng những của cải vật chất mà Chúa ban cho như thế nào có ý nghĩa và đặc biệt có hậu về sau sau khi đã chết.

Những bằng chứng hết sức sống động trong cuộc sống của ta. Có những người ta thấy họ hết sức quảng đại, không phân biệt tôn giáo.

Khi nghe trang Tin Mừng hôm nay, có thể ta bảo rằng ông chủ này thật quá quắt, ngay cái người đầy tớ ở trước của nhà mà ông không đoái hoài đến nhưng hình phạt cho ông như vậy cũng là đúng ! Nếu ta nghĩ như thế, ta xét đoán như thế, ta kết án như thế không chừng ta lại kết án chính bản thân ta.

Có khi nào đó, ngay trong gia đình của ta, người nghèo không ngồi ở ngoài cổng hay ngồi ở vệ đường như ta tưởng nhưng người nghèo đó lại ngồi ngay bên cạnh của ta. Họ thèm ta cho họ một chút gì đó, có khi không chỉ phải là cơm bánh, vật chất nhưng điều họ cần đó chính là tình cảm. Có thể những cái mà ta cho những người xung quanh ta đó chính lại là cái thừa thãi của ta nhưng ta lại nghĩ đó là ân phúc mà ta trao ban. Ta quên đi điều căn cốt là những cái mà ta có, nhất là cái thân xác, cái hơi thở, cái sự sống mà ta đang có chính là quà tặng mà Thiên Chúa trao ban.

Nếu như Chúa lấy hơi thở, lấy sự sống của ta đi thì còn gì là giàu với nghèo, còn gì là sang với hèn. Chẳng còn là gì cả như người giàu có và kẻ ăn xin cùng chết. Chuyện quan trọng là sau cái chết đó, ta sẽ có gì trong tay. Ta sẽ được ơn cứu độ hay đánh mất ơn cứu độ mà cả đời ta ky cóp.

Sống sao đừng để một ngày kia khi sau cõi tạm này thì trên Thiên Đàng toàn là những người nghèo, những người trộm cắp, những người đĩ điếm, những người tội lỗi như Chúa Giêsu vẫn thường nhắc ta.

Luôn luôn ghi khắc trong tâm trí ta rằng cuộc đời ta có ngần có hạn và tất cả những gì ta có như là quà tặng từ nơi Thiên Chúa để ta biết san sẻ cho anh chị em đồng loại. Chúng ta, có kẻ giàu người hèn, kẻ sang người hèn nhưng ai ai cũng có tấm lòng, có trái tim. Tấm lòng và trái tim đó sẽ quý biết mấy khi nó san sẽ tình thương cảm, lòng mến cho những người đang sống ngay bên cạnh ta, trong mái ấm của ta, trong gia đình của ta.

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Blogger Điếu Cày được giải thưởng Tự do Báo chí Quốc tế 2013 của CPJ

Blogger Điếu Cày được giải thưởng Tự do Báo chí Quốc tế 2013 của CPJ

Blogger Điếu cày (G) biểu tình tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2007, phản đối Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền trên Trường Sa và Hoàng Sa. Ảnh tư liệu (Nguồn rsf.org)

Blogger Điếu cày (G) biểu tình tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2007, phản đối Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền trên Trường Sa và Hoàng Sa. Ảnh tư liệu (Nguồn rsf.org)

Thụy My

RFI

Ông Nguyễn Văn Hải tức blogger Điếu Cày đã được Ủy ban Bảo vệ Nhà báo (CPJ) quyết định trao tặng giải thưởng Tự do Báo chí Quốc tế năm 2013, cùng với ba nhà báo của Ecuador, Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ. Tin này được loan trên trang web của tổ chức CPJ có trụ sở tại New York vào hôm qua 26/09/2013.

Ông Joel Simon, giám đốc điều hành của Ủy ban Bảo vệ Nhà báo tuyên bố : « Vào thời điểm mà thông tin đã trở thành tài nguyên toàn cầu, bốn nhà báo trên đây đã bất chấp nạn kiểm duyệt và trấn áp để mang lại thông tin cho chúng ta. Chúng tôi nhìn nhận lòng can đảm, sự dấn thân và sự chối từ im lặng của họ ».

Thông cáo của CPJ cho biết, bốn nhà báo được giải – Janet Hinostroza ( đài Teleamazonas, Ecuador), Bassem Youssef (đài Capital Broadcast Center, Ai Cập), Nedim Sener (báo Posta, Thổ Nhĩ Kỳ) và Nguyễn Văn Hải (tức blogger Điếu Cày, Việt Nam) – đang phải đối mặt với những sự trả thù do công việc của họ, kể cả quấy rối về luật pháp, đe dọa về thân thể và bắt giam.

Cũng theo thông cáo trên, bà Janet Hinostroza đã buộc phải tạm ngưng một chương trình truyền hình sau khi bị đe dọa, ông Youssef bị điều tra về các bản tin châm biếm, ông Sener bị quy tội hoạt động khủng bố vì các bài điều tra mang tính chỉ trích và có thể bị lãnh án 15 năm tù.

Ông Nguyễn Văn Hải, một trong các blogger nổi tiếng nhất Việt Nam, đã thành lập Câu lạc bộ Nhà báo Tự do trong một đất nước mà báo chí đều do Nhà nước kiểm soát, và đã bị 12 năm tù kèm theo 5 năm quản chế theo một điều luật mơ hồ về « tuyên truyền chống Nhà nước ».

Các bài viết trên blog của ông dưới bút danh Điếu Cày đề cập đến những vấn đề nhạy cảm về chính trị, trong đó có những bài phản đối Trung Quốc xâm lấn Hoàng Sa và Trường Sa, và chống giới chức tham nhũng. Ông Nguyễn Văn Hải cũng kêu gọi xuống đường phản đối rước đuốc Olympic Bắc Kinh đến Thành phố Hồ Chí Minh tháng 12/2007.

CPJ nhắc lại, ông Nguyễn Văn Hải bị giam giữ 5 tháng vào năm 2008 trong khi không bị cáo buộc tội danh nào, đến tháng 9/2008 bị kết án hai năm rưỡi tù giam vì tội « trốn thuế ». Sau khi mãn án, ông vẫn phải tiếp tục ở tù vì lại bị lãnh thêm một bản án mới, và tháng 7/2013 blogger này đã tuyệt thực hơn một tháng để phản đối các điều kiện giam giữ. Theo một nghiên cứu của CPJ, đến cuối năm 2012 tại Việt Nam có ít nhất 14 nhà báo bị giam cầm, đứng thứ nhì trên thế giới chỉ sau Trung Quốc.

Ủy ban Bảo vệ Nhà báo là tổ chức phi lợi nhuận hoạt động độc lập với mục tiêu bảo vệ tự do báo chí trên toàn thế giới. Giải thưởng Tự do Báo chí Quốc tế được thành lập từ năm 1991, mỗi năm trao giải cho bốn nhà báo đã tỏ ra dũng cảm trước mọi đe dọa.

Bốn nhà báo đoạt giải năm nay sẽ được vinh danh tại lễ trao giải thưởng niên của CPJ và được mời dự ăn tối tại New York ngày 26/11/2013. Trong quá khứ, có những nhà báo bị cầm tù nhiều năm sau đó khi được trả tự do đã đến dự lễ, và có ba phóng viên được truy tặng giải.

Lãnh đạo đối lập Miến Điện thúc giục sửa đổi Hiến pháp

Lãnh đạo đối lập Miến Điện thúc giục sửa đổi Hiến pháp

Lãnh tụ đối lập Miến Aung San Suu Kyi trong cuộc họp báo tại lễ kỷ niệm 25 năm ngày thành lập Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ. Ảnh chụp tại Rangoon ngày 27/09/2013.

Lãnh tụ đối lập Miến Aung San Suu Kyi trong cuộc họp báo tại lễ kỷ niệm 25 năm ngày thành lập Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ. Ảnh chụp tại Rangoon ngày 27/09/2013.

REUTERS/Soe Than Win/Pool

Tú Anh

RFI

Hôm nay 27/09 tại Rangoon, Liên đoàn Quốc gia Vì Dân chủ tổ chức lễ kỷ niệm 25 năm thành lập. Trước 3.000 người tham dự, lãnh đạo Aung San Suu Kyi đã yêu cầu sửa đổi bản Hiến pháp 2008, trao cho quân đội nhiều quyền hạn quan trọng.

Tu chính hiến pháp về điều khoản bầu cử ứng cử là một trong những yêu sách cốt lõi mà bà Aung San Suu Kyi nhấn mạnh trong bài diễn văn kỷ niệm 25 năm thành lập Liên đoàn Quốc dia Vì Dân chủ : « Nếu Hiến pháp không được tu sửa thì chúng ta không thể nói đất nước này đang theo con đường dân chủ. Bầu cử quốc hội năm 2015 sẽ không công bình ».

Hiến pháp 2008 vừa bảo vệ đặc quyền của quân đội, vừa ngăn chận bà Aung San Suu Ky – sau 15 năm bị tù giam và quản chế – lên lãnh đạo quốc gia. Bản hiến pháp gây tranh cãi này dành riêng cho quân đội 25% ghế dân biểu trong quốc hội và cấm không cho công dân Miến Điện tranh cử tổng thống nếu có người phối ngẫu (vợ hay chồng) là người ngoại quốc hoặc có con mang quốc tịch nước ngoài. Đây là trường hợp của bà Aung San Suu Kyi : tuy chồng là người Anh đã qua đời nhưng có hai con mang quốc tịch Anh.

Theo AFP, cũng trong bài diễn văn kỷ niệm 25 năm thành lập phong trào đối lập, đọc trước 3000 đoàn viên và dân chúng tụ tập trước trụ sở đảng ở Rangoon, khôi nguyên Nobel Hòa bình 1991 cám ơn những người cùng chia sẻ giá trị tự do dân chủ, và những sự hỗ trợ bên trong và trên khắp thế giới, giúp cho đối lập Miến Điện tồn tại suốt 25 năm qua.

Liên Đoàn Quốc Gia Vì Dân Chủ được thành lập vào năm 1988 sau một cuộc nổi dậy của dân chúng bị đàn áp làm 3000 người thiệt mạng. Một năm sau, trong cuộc bầu cử tự do đầu tiên vào năm 1989, sau ba thập niên độc tài quân phiệt, đối lập chiến thắng lớn với 80% ghế dân biểu.

Từ chối trao trả quyền lực cho dân sự, giới tướng lãnh ra lệnh đàn áp. Bà Aung San Suu Kyi bị giam cầm và quản chế tổng cộng 15 năm cho đến khi tướng Thein Sein lên làm Tổng thống năm 2011.