Luật sư Lê Công Định ra tù
Luật sư Lê Công Định ra tù
thứ tư, 6 tháng 2, 2013
Phiên tòa 20/1/2010 đã thu hút sự chú của dư luận trong nước và quốc tế
Một trong những nhân vật bất đồng chính kiến nổi tiếng ở VN, Luật sư Lê Công Định, vừa được ra tù trước thời hạn.
Thân nhân của LS Định, bà Đặng Ngọc Ánh, xác nhận với BBC ông đã về nhà lúc 10:00 sáng thứ Tư 6/12 trong tình trạng “sức khỏe tốt nhưng hơi gầy”.
Ngay trưa cùng ngày, ông Định đã phải tới chính quyền địa phương để trình diện.
Ông Lê Công Định, sinh 1968, bị bắt ngày 13/6/2009 để điều tra vi phạm Điều 88 Bộ Luật hình sự, Tội Tuyên truyền chống Nhà nước XHCN.
Cùng đợt với ông có ba người khác, là các ông Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung và Lê Thăng Long.
Tội danh của các ông sau bị chuyển sang thành Hoạt động lật đổ, theo Điều 79 Bộ Luật Hình sự, là tội nặng hơn.
Ngày 20/01/2010, Tòa sơ thẩm TP Hồ Chí Minh đã tuyên án từ 5 năm tới 16 năm tù giam, thêm từ 3 tới 5 năm quản chế tại gia cho các bị cáo trên, trong đó ông Lê Công Định lãnh án 5 năm tù, cộng thêm 3 năm quản chế tại gia.
Tòa phúc thẩm sau đó đã y án trên.
Như vậy, ông đã được ra tù sớm trước hạn hơn một năm.
Phiên xử gây chú ý
Vụ bắt và xét xử Lê Công Định đã thu hút sự chú ý đặc biệt của quốc tế vì ông Định có tiếng trong giới luật sư và đã từng đại diện lợi ích cho Việt Nam trong nhiều vụ kiện có yếu tố nước ngoài.
Một bị cáo khác, ông Lê Thăng Long, đã ra tù tháng 6/2012, sớm trước thời hạn 6 tháng.
LS Lê Công Định là người được dư luận quốc tế biết tới nhiều
Hai ông Trần Huỳnh Duy Thức và Nguyễn Tiến Trung hiện vẫn đang thực hiện án 16 năm và 7 năm tù.
Sau khi phiên sơ thẩm ngày 20/1/2010 kết thúc, giới ngoại giao phương Tây đã lập tức lên tiếng bày tỏ quan ngại.
Tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại TP HCM lúc đó, ông Kenneth Fairfax, tuyên bố Mỹ “quan ngại sâu sắc” về các vụ bắt giữ và kết tội những người chỉ thực hiện quyền tự do ngôn luận của mình.
Hoa Kỳ và nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế kêu gọi Việt Nam trả tự do cho các nhà hoạt động ngay lập tức và vô điều kiện.
Trong phiên xử, ông Lê Công Định và ba vị còn lại bị buộc tội đã cấu kết với “các thế lực phản động” trong và ngoài nước nhằm lật đổ chế độ.
Những người này cũng bị buộc tội liên quan tới Đảng Dân chủ Việt Nam, vốn không được phép hoạt động trong nước.
Ông Lê Công Định còn bị cáo buộc đã tham gia khóa huấn luyện lật đổ bất bạo động do tổ chức Việt Tân, mà Việt Nam liệt vào danh sách khủng bố, tổ chức.
Nhận tội
Luật sư Định, người bị thẩm vấn đầu tiên trong phiên sơ thẩm, đã tường trình trước tòa về phương hướng của Đảng Dân chủ Việt Nam mà ông là thành viên. Ông nói đảng này kêu gọi đa nguyên và muốn thay đổi chế độ chính trị trong nước.
”Trong quá trình học tập ở nước ngoài, tôi đã bị ảnh hưởng bởi tư tưởng phương Tây về dân chủ, tự do và nhân quyền.”
“Trong quá trình học tập ở nước ngoài, tôi đã bị ảnh hưởng bởi tư tưởng phương Tây về dân chủ, tự do và nhân quyền.”
LS Lê Công Định tại phiên sơ thẩm 20/1/2010
Ông Định nói: “Tôi nhận là đã vi phạm Điều 79 (Bộ Luật Hình sự)”.
Trước đó, ngày 18/6/2009, tức chưa đầy một tuần sau khi bắt ông Lê Công Định, công an Việt Nam tổ chức họp báo công bố việc ông Định “thừa nhận hành vi phạm tội”.
Tại cuộc họp báo, báo chí trong nước đã được cung cấp hình ảnh các trang viết tay được cho là của ông Định tự khai báo, cùng một số đoạn băng hình quay cảnh ông Định đọc nội dung bản tường trình “nhận tội”.
Nhiều người ủng hộ phong trào dân chủ đã bày tỏ thất vọng trước các hình ảnh này.
Ông Lê Công Định đã hành nghề lâu năm tại TP HCM. Trước kia, với tư cách luật sư của công ty YKVN, ông đã cùng đối tác là hãng luật White & Case của Mỹ bảo vệ phía Việt Nam trong vụ kiện cá basa tại Hoa Kỳ.
Sau đó, ông tham gia bào chữa cho nhiều vụ việc bị cho là ‘nhạy cảm’, như bào chữa cho các luật sư bất đồng chính kiến Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân và cho blogger Điếu Cày.
Ông Định cũng từng là Phó chủ nhiệm Đoàn luật sư TP HCM nhưng sau bị xóa tên khỏi luật sư đoàn.
Luật sư Định cũng được biết tới như một cây bút viết các bài bình luận thời sự, nhiều bài đã đăng trên BBCVietnamese.com.
Tốt nghiệp Đại học Luật năm 1989, ông Định lấy bằng thạc sỹ luật tại Đại học Tulane University, Hoa Kỳ hồi 2000. Trước đó, ông có một thời gian tu nghiệp tại Pháp.
Năm 2004, LS Lê Công Định cưới Nguyễn Thị Ngọc Khánh, Hoa hậu Việt Nam 1998.
Cuốn sách về Hội Tam Điểm ở Việt Nam. Phỏng vấn tác giả Trần Thu Dung
Cuốn sách về Hội Tam Điểm ở Việt Nam. Phỏng vấn tác giả Trần Thu Dung
Các biểu tượng của Hội Tam Điểm: Mắt, êke, compa (DR)
Lần đầu tiên một công trình nghiên cứu bằng tiếng Việt về Hội Tam Điểm ở Việt Nam và những thành viên người Việt đầu tiên của hội này sắp được xuất bản tại Pháp vào khoảng đầu tháng 2/2013. Cuốn sách có tựa đề: “ Hội Tam Điểm với những đóng góp của các thành viên Việt Nam đầu tiên trong công cuộc giải phóng thuộc địa và bảo tồn văn hóa ngôn ngữ dân tộc” (Les Franc-maçons au Vietnam), (The Story of freemasons in Vietnam).
Tác giả cuốn sách này là tiến sĩ văn chương Trần Thu Dung, hiện sống tại Paris. Cuốn sách được phát hành bởi một nhà xuất bản vừa mới ra đời tại Paris, đó là Nhà xuất bản SÁNG.
Tiến sĩ Trần Thu Dung từng là tác giả của công trình nghiên cứu “Đạo Cao Đài và Victor Hugo”, đồng thời là một nhà nghiên cứu văn hóa đối chiếu và nhà thơ. Để viết cuốn sách về Hội Tam Điểm ở Việt Nam, bà Trần Thu Dung đã bỏ nhiều năm để tra cứu các tài liệu quý hiếm của các Hội Tam Điểm và của nhiều thư viện Pháp, cũng như phỏng vấn một số người có liên quan.
Như lời giới thiệu của Giáo sư Nguyễn Thái Sơn, chủ tịch Hội Interface Francophone Paris và cũng là giám đốc Nhà xuất bản SÁNG, những thành viên người Việt đầu tiên của Hội Tam Điểm đã biết “ vượt qua nhiều khó khăn của hoàn cảnh, kiên nhẫn và tương kế tựu kế, tích cực tham gia vào việc bảo tồn văn hóa dân tộc và phong trào giành độc lập, tự do và dân chủ cho nhân dân và đất nước”, trung thành với những giá trị của Hội Tam Điểm : tự do, bình đẳng, tình huynh đệ bác ái, bốn biển đều là anh em.
Cũng xin nói thêm là tác giả Trần Thu Dung đã muốn cuốn sách của bà được xuất bản ở Việt Nam, nhưng cho tới nay vẫn không được cấp giấy phép. Nhân dịp cuốn sách về Hội Tam Điểm ở Việt Nam sắp ra mắt độc giả, RFI Việt ngữ đã phỏng vấn tác giả Trần Thu Dung.
.
RFI : Xin chào tiến sĩ Trần Thu Dung, trước hết xin bà nói sơ sơ lược vài nét về lịch sử của Hội Tam Điểm nói chung và Hội Tam Điểm Pháp ?
Tiến sĩ Trần Thu Dung : Hội Tam Điểm mang tính chất huyền bí, nên nhiều chi tiết nguồn gốc cũng mang tính huyền thoại. Hội xuất hiện ở châu Âu vào cuối thế kỷ 17. Thời trung cổ, Giáo hội và nhà vua là hai thế lực mạnh nhất. Những người kiến trúc xây dựng đền đài cung điện, nhà thờ luôn được nhà vua và Giáo hội ân sủng cho hành nghề tự do. Họ thành lập những hội đoàn sinh hoạt riêng lấy tên những người thợ xây tự do ( tiếng Pháp là Franc Maçonnerie). Sau này hội mở rộng thu nạp những người xuất sắc trên mọi lĩnh vực.
Tam Điểm là cách gọi sáng tạo thông minh của người Việt dựa trên ba dấu chấm trong các văn bản chữ ký của các bậc đại sư. Ba chấm thể hiện ba góc hình tam giác tượng trưng sự hoàn hảo -có nghĩa là ba cấp bậc (Tập sự – Thợ – Thầy), cả ba đều đóng vai trò chủ thể như nhau trong việc tạo dựng thế giới và ba tiêu chí “Tự do – Bình đẳng – Bác ái”. Tất cả mọi cấp bậc đều bình đẳng dù ở góc độ nào. Cách dịch Tam Điểm vừa mang tính chất huyền bí vừa mang đúng ý nghĩa của hội.
Tự do, công bằng, huynh đệ bác ái là khát vọng muôn thuở của con người, trở thành ba nguyên tắc chính của hội và trong hiến pháp của nước Pháp. Ba điểm chính là đòn bẩy để thu hút tất cả mọi người, mọi nơi, mọi chính kiến khác nhau, đến với nhau trong hội. Hội trở thành một hội triết lý và bác ái.
Các biểu tượng phong phú và đa dạng như mắt, ê ke, thước thợ, compas, kim tự tháp của hội dựa trên chân lý ham muốn hiểu biết. Sự hiểu biết giúp con người tự giải phóng cho chính bản thân mình ra khỏi sự lệ thuộc. Nhiều người nhầm lẫn, đồng hóa Tam Điểm với tôn giáo. Tam Điểm không phải tôn giáo, cũng không phải là một đảng phái.
Thành viên của hội Tam Điểm được quyền tham gia bất kỳ tôn giáo nào và sinh hoạt bất kỳ ở tổ chức chính trị nào mà họ thấy phù hợp vì quan điểm của hội là tôn trọng sự nhận thức của mỗi cá nhân. Song hội là một hội kín không mở rộng cửa như các nhà thờ nên nhiều người nghĩ nhầm là một hình thức giáo phái.
Hiện nay hội Tam Điểm ở Anh và Pháp có ảnh hưởng mạnh nhất trên thế giới. Số lượng người theo hội trên thế giới không đông, nhưng họ lại nằm trong bộ máy chính của chính quyền nhà nước và nắm chức vụ lớn trên mọi lĩnh vực. Nhiều đời Tổng thống Mỹ, Pháp, thủ tướng, bộ trưởng, nhà văn nổi tiếng trên thế giới là thành viên của hội như Washington, Lincoln, Churchill, Allende, Napoléon; Voltaire, Montesquieu, Kipling, Pouskin, …; Tóm lại, hội thu hút được nhiều thành phần ưu tú trong xã hội.
RFI : Vậy thì Hội Tam Điểm Pháp đã đến Việt Nam như thế nào và đã có tác động ra sao trong chính sách khai hóa thuộc địa?
Tiến sĩ Trần Thu Dung : Nhiều sĩ quan, giáo chức và công chức Pháp cao cấp phục vụ tại Việt Nam là thành viên Tam Điểm. Việc thành lập chi hội trực thuộc ở Đông Dương là sự thiết yếu để các thành viên Tam Điểm có điều kiện sinh hoạt tiếp tục và phát triển hội viên mới. Hội gắn liền với thời kỳ hoàng kim của nước Pháp với các thuộc địa. Nhiều nhân vật quan trọng trong Bộ Thuộc địa là thành viên Tam Điểm, nên sự có mặt công khai của hội ở Đông Dương là điều hiển nhiên để phô trương thế lực.
Hội gắn chặt với sự phát triển thuộc địa Pháp và chính sách thực dân. Do đó chính sách khai hóa thuộc địa của hội chính là chính sách của chính quyền thuộc địa. Nhân danh đi khai sáng văn minh, và nhân danh nước Pháp« tự do, bình đẳng, bác ái », ở Việt Nam, họ đã đóng góp trong việc mở các trường học, xóa bỏ kỳ thi kiểu ảnh hưởng Tàu, báo chí, nhà in, kiến trúc, xây dựng, phát triển chữ quốc ngữ, …
Tất nhiên các thành viên Tam Điểm Pháp không bao giờ quên quyền lợi của họ khi đến khai phá thuộc địa (như các đồn điền cà phê, cao su, nhà máy xi măng, thuế, thuốc phiện, rượu… đã đem lại cho nước Pháp và cho chính họ một lợi nhuận đáng kể).
RFI : Ai là các nhân vật nổi tiếng trong số những thành viên Việt Nam đầu tiên của Hội Tam Điểm ?
Tiến sĩ Trần Thu Dung : Có thể nói họ đều là những người xuất sắc thành công trong xã hội trong nhiều lĩnh vực văn hóa, chính trị, tôn giáo như Nguyễn Văn Vĩnh, Vua Duy Tân, Nguyễn Ái Quốc, Bùi Quang Chiêu, Tạ Thu Thâu, Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Hoàng Mịnh Giám, … Một phần lớn được kết nạp tại Pháp khi du học.
Trường hợp đặc biệt nhất thể hiện tài năng xuất chúng là Nguyễn Văn Vĩnh, ông xuất thân từ nhà nghèo, không đi du học Pháp, chỉ được mời sang triển lãm hội chợ Đông Dương (1908), ông được mời ở lại thêm hơn hai tháng nhằm mục đich kết nạp ông vào hội Tam Điểm, vượt qua một số quy chế ngặt nghèo của hội và những rào ngăn cản ở Đông Dương khi kết nạp người bản xứ. Lúc đó hội chưa kết nạp người Việt Nam tại bản địa.
RFI : Ông Nguyễn Ái Quốc tại sao được vào hội Tam Điểm, và sau đó ông lại theo Cộng sản ?
Tiến sĩ Trần Thu Dung : Nguyễn Ái Quốc thời kỳ qua Pháp, ông tuy chỉ là thợ sửa ảnh (tức là sửa lại cho đẹp, chứ không phải thợ rửa ảnh) nhưng được kết nạp vào hội Tam Điểm, vì ông Nguyễn Ái Quốc lúc đó là quen Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường… những người sinh viên xuất sắc đã tốt nghiệp và đang làm việc tại Pháp. Cùng một lý tưởng « giải phóng thuộc địa », lòng yêu nước đưa họ xích lại gần nhau.
Nguyễn Thế Truyền và Phan Văn Trường và các huynh đệ thành viên TĐ đã thấy khả năng tiềm ẩn trong NAQ, NAQ cũng vốn xuất thân từ gia đình nhà nho, do đó họ đã giới thiệu NAQ vào hội. NAQ nhận thấy hội TĐ là một tổ chức mang tư tưởng tiến bộ và có tinh thần bác ái huynh đệ, nên NAQ xin tham gia năm 1922.
Nhưng Tình huynh đệ bác ái thực sự không thể có được giữa người bị áp bức, và người áp bức, giữa người đi thực dân và người bị đô hộ, nên năm 1923, với khát vọng giải phóng thuộc địa, ông đã sang Nga tìm hiểu về Cộng sản khi ông thấy cách mạng Nga thành công rực rỡ vào năm 1917.
Qua Nga, NAQ đã nhận thấy chỉ có con đường CS mới giải quyết được vấn đề giải phóng thuộc địa. Đảng CS mới thu hút mọi tầng lớp xã hội. Giải phóng thuộc địa là phải giải phóng toàn bộ những người bị áp bức. Trong khi hội Tam Điểm chỉ kết nạp những thành viên xuất sắc của xã hội.
Do đó, NAQ với khát vọng giải phóng thuộc địa, ông đã chọn con đường Cộng sản. Giải phóng thuộc địa, giành độc lập là khát vọng chung của cả dân tộc. Nhiều trí thức công chức Việt Nam thời đó cùng chung khát vọng đã lên rừng tham gia Việt Minh kháng chiến giành độc lập trong đó có một số thành viên Tam Điểm như Cao Triều Phát, Phạm Ngọc Thạch, Hoàng Minh Giám…
RFI : Các thành viên Việt Nam Hội Tam Điểm đã có những đóng góp gì vào công cuộc bảo tồn văn hóa và giải phóng thuộc địa?
Tiến sĩ Trần Thu Dung : Trong hoàn cảnh đất nước bị đô hộ, họ đã dám vượt lên trên được ý thức tư tưởng hệ ngoại lai, tham gia hội với khát vọng mở mang dân trí và giải phóng thuộc địa. Đó là một trong những mưu kế để bảo tồn dân tộc. Khi những Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, bị Pháp vô hiệu hóa bắt giam và Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Trung Trực bị giết, họ đã ý thức được phải vào hội và nhân danh « Bình đẳng, tự do, huynh đệ bác ái,» đòi độc lập khi VN chưa đủ khả năng về quân sự, nếu chống lại, nổi loạn đất nước sẽ bị diệt vong xóa sổ như Inca.
Đóng góp đầu tiên của những thành viên VN TĐ chủ yếu trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa và ngôn ngữ dân tộc qua báo chí, mở trường. Văn hóa và ngôn ngữ dân tộc chính là một vũ khí để giành độc lập. Phạm Quỳnh nói một câu nổi tiếng« Truyện Kiều còn, tiếng Việt còn, Tiếng Việt còn là nước ta còn ».
Họ đã mở mang dân trí bằng con đường dịch các tác phẩm mang tư tưởng tự do, nhân đạo, dân chủ đặc biệt thời kỳ ánh sángcủa Pháp ra tiếng Việt, giới thiệu, dịch một số tác phẩm VN ra chữ quốc ngữ, và tiếng Pháp.
Với tinh thần ái quốc, họ lập đảng, lập hội, lập đạo để thu hút mọi tầng lớp tham gia. Qua báo chí, họ khơi dậy tinh thần ái quốc và thổi luồng tư tưởng đòi tự do độc lập. Tên các tờ báo mà họ làm chủ bút, hoặc phụ trách thể hiện tinh thần ái quốc và khát khao giành độc lập : Tiếng vọng An Nam, Đông Dương hành động ,Việt Nam hồn, Phục quốc, An Nam Mới. Tương lai Bắc kỳ. Đuốc nhà Nam, Phục sinh,…
Thời Pháp thuộc việc tham gia các tổ chức chính trị đấu tranh bài trừ thực dân, đòi dân chủ không phải là đơn giản. Trong tình thế bắt buộc, họ đã chọn con đường thỏa hiệp để chờ thời cơ. Dựa trên tình huynh đệ bác ái, tự do bình đẳng, họ đã lập Đảng, lập hội như Đảng Lập hiến, Đảng Lao động, – Đảng Việt Nam Độc lập.- Hội hỗ trợ những người Đông Dương – Hội Khai trí Tiến Đức, ..
Một số thành viên chọn con đường hòa bình khác bằng cách lập đạo. Đạo CĐ thu hút nhiều trí thức và 2 triệu tín đồ, tồn tại đến tận ngày nay vì lý tưởng cao đẹp “Hòa hợp tôn giáo, hòa hợp Đông Tây, hòa hợp mọi dân tộc”. Ngô Văn Chiêu sáng lập viên đầu tiên của đạo Cao Đài và Lê Văn Trung giữ chức Giáo tông đều là thành viên TĐ. Nói chung họ tham gia các hoạt động chính trị với tinh thần ái quốc. Một số đã tham gia Việt minh giành độc lập.
RFI : Để viết công trình nghiên cứu này, bà đã thu thập tài liệu, chứng cứ từ những nguồn nào ?
Tiến sĩ Trần Thu Dung : Tài liệu thu thập rất đa dạng. Tài liệu chính là kho lưu trữ văn khố của hội Tam Điểm tại Paris và qua phỏng vấn gia đình và các chức sắc Cao Đài trong và ngoài nước.
Khó khăn chủ yếu là kiểm chứng tài liệu. Nhiều tài liệu bị đốt, thất thoát khi chính phủ Vichy cấm hội kín hoạt động. Tài liệu quá cũ, vàng ố, tên tiếng Việt do người Pháp ghi chép sai, không dấu, hoặc ngược lại, tên người Pháp phiên âm sai qua tiếng Việt. Nhiều tài liệu không chính xác hoặc che giấu sự thật.
Khó khăn thứ hai, khi phỏng vấn và xin tài liệu. Một số né tránh vì vấn đề tế nhị. Có chức sắc Cao Đài rất nhiệt tình giúp nhưng bảo tôi hãy thề « không nói xấu đạo », tôi đã hứa « tôi chỉ viết đúng như tài liệu và sẽ kiểm chứng ở mức độ văn bản cho phép».
Tất nhiên, trong quá trình đó, có thể có sai sót, tôi mong tất cả bạn đọc, gia đình con cháu họ hãy giúp tôi hoàn chỉnh bổ sung khi có dịp tái bản cuốn sách.
RFI : Khi cho phát hành cuốn sách này, mong muốn của bà là gì ?
Tiến sĩ Trần Thu Dung : Cuốn sách mang hai thông điệp : Hãy nhìn lại khái niệm yêu nước. Thánh Gióng nằm yên câm không đồng nghĩa là Gióng không yêu nước. Sự im lặng thể hiện khát vọng hòa bình với các nước láng giềng, với kẻ thù.
Thỏa hiệp không đồng nghĩa là chấp nhận, là đầu hàng và không yêu nước. Hoàn cảnh không cho phép, sức yếu buộc một số người phải im lặng, hoặc phải thỏa hiệp đề cứu dân bằng cách giáo dục dân trí và đòi tự trị bằng con đường không bạo động.
Thời kỳ Pháp thuộc, nhiều trí thức Việt Nam như thánh Gióng, đã thức tỉnh. Lòng ái quốc tiềm ẩn trỗi dậy thể hiện rất đa dạng và phong phú. Ông cha chúng ta đã thông minh tương kế tựu kế, hợp nhau lại để giành độc lập. Chúng ta theo gương ông cha phải giữ lấy độc lập và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ.
Dù theo đảng nào, tư tưởng nào, Việt Nam nghèo, hay bị mất nước, là người Việt Nam chúng ta đều xấu hổ. Hãy xóa bỏ hận thù, vì lợi ích dân tộc, người Việt Nam hãy liên minh để bảo vệ và xây dựng một nước Việt Nam tự cường và hạnh phúc như khát vọng của ông cha và khát vọng chung của toàn người Việt Nam trên quả địa cầu. Chiến tranh không ai ca ngợi, không ai muốn tham gia, nhưng cuộc chiến tranh bảo vệ nước, giành độc lập dưới mọi hình thức đều đáng khâm phục và xứng đáng ca ngợi.
Thông điệp thứ hai mong người Việt Nam dù ở đâu trên trái đất theo gương ông cha luôn ý thức bảo tồn văn hóa và ngôn ngữ dân tộc. Đó là một vũ khí để bảo vệ tổ quốc bằng con đường hòa bình và cao sang. Hiện nay tiếng Việt mà ông cha chúng ta bao công sức bảo tồn cũng như nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới có xu hướng bị tiếng Anh áp đảo.
Các chương trình phát trên vô tuyến Việt Nam xen rất nhiều tiếng Anh, trong khi tiếng Việt rất phong phú để diễn đạt. Hòa đồng cùng thế giới không có nghĩa xóa bỏ ngôn ngữ dân tộc. Thế giới đa sắc màu, như hoa đa sắc. Bản sắc dân tộc sẽ làm phong phú sự đa dạng trên thế giới và một hình thức bảo vệ độc lập.
Nhân đây, tôi xin trân trọng cám ơn Giáo sư Nguyễn Thái Sơn, Giáo Sư Vũ Quốc Thúc, hiệp hội Interface Paris, nhà xuất bản « Sáng » với mục đích vì phát triển văn hóa, ngôn ngữ dân tộc và nâng cao dân trí đặc biệt ở Việt Nam, vì một lý tưởng cao đẹp « thế giới huynh đệ bác ái » đã nhiệt tình ủng hộ cho cuốn sách ra đời, và cám ơn đài RFI đã giúp giới thiệu cuốn sách này đến bạn đọc.
RFI : Xin cám ơn tiến sĩ Trần Thu Dung.
Trao bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp
Trao bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp
thứ ba, 5 tháng 2, 2013
Bản Kiến nghị đã được trao cho đại diện Quốc hội
Một nhóm nhân sỹ trí thức vừa trao Kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992 cho Quốc hội, trong đó có đề xuất bỏ Điều 4 về quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Những người này cũng chủ xướng một dự thảo Hiến pháp mới, trong đó thiết lập mô hình nhà nước cộng hòa với người đứng đầu là Tổng thống.
Nhóm nhân sỹ gồm 15 vị đã tới Địa điểm tiếp nhận ý kiến đóng góp của nhân dân về sửa đổi Hiến pháp tại Văn phòng Quốc hội, Hà Nội, để trao kiến nghị vào sáng thứ Hai 4/2.
Trưởng đoàn là ông Nguyễn Đình Lộc, nguyên bộ trưởng Tư pháp, đồng thời là thành viên Ban soạn thảo Hiến pháp Việt Nam 1992.
Bản Kiến nghị, nay đã có hàng nghìn chữ ký, đã được trao cho đại diện Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, trong không khí được ông Lộc mô tả là ‘khá dân chủ’.
Quốc hội Việt Nam đang tiếp nhận ý kiến đóng góp của người dân về bản Hiến pháp sửa đổi từ nay tới hết tháng Ba.
Trong cuộc trao đổi kéo dài nửa tiếng đồng hồ với đại diện của Quốc hội, các vị nhân sỹ trí thức đã nêu quan điểm rằng tiến trình đóng góp sửa đổi Hiến pháp phải
là quá trình dân chủ, với sự tham gia của mọi tầng lớp người dân.
Mô hình dân chủ
Họ cũng đề xuất kéo dài quá trình đóng góp ý kiến tới hết năm.
Ông Nguyễn Đình Lộc, người từng làm Trưởng ban Biên tập Hiến pháp 1992, thừa nhận Hiến pháp 92 dựa trên mẫu hình Liên Xô, với nhiều phạm trù “nay không còn phù hợp”.
Tuy nhiên ông cũng cho rằng muốn áp dụng Hiến pháp 1946, mà nhiều người cho rằng phù hợp với Việt Nam hơn cả, cũng cần phải cân nhắc “vì hoàn cảnh đã khác
rồi”.
Mở bằng chương trình nghe nhìn khác
“Nay tình hình đã khác, quan hệ quốc tế cũng đã thay đổi. Bản thân ông Hồ Chí Minh, khi sửa đổi Hiến pháp năm 1959 cũng thừa nhận Hiến pháp 46 đã hoàn thành
nhiệm vụ lịch sử và không còn phù hợp nữa.”
Kiến nghị do các vị nhân sỹ trí thức khởi xướng gồm 7 điểm chính, trong đó nhấn mạnh tới việc bỏ Điều 4 Hiến pháp, vốn đề cao một chiều vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Họ cho rằng người dân phải được bầu cử tự do, dân chủ, định kỳ để lựa chọn lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
“Một chính đảng thực sự có chính nghĩa, phục vụ lợi ích của nhân dân sẽ không lo bị thất bại trong các cuộc bầu cử như vậy.”
Bản kiến nghị viết rõ: “Việc đảng cầm quyền chấp nhận cạnh tranh chính trị là phù hợp với xu thế lịch sử, là điều kiện cho sự phát triển của đất nước, đáp ứng đòi hỏi của nhân dân, kể cả các đảng viên trung thực của Đảng Cộng sản Việt Nam trước bối cảnh
hiện nay của đất nước”.
Chỉ có tiếp thu ý kiến trên, theo những người viết kiến nghị, Đảng Cộng sản Việt Nam mới có thể “lấy lại niềm tin đã từng có trong dân để thực sự trở thành lực lượng lãnh
đạo chính trị được xã hội chấp nhận”.
Thay đổi từng bước
Tiếp theo kiến nghị đầu tiên này, là sáu kiến nghị khác về quyền con người; sở hữu đất đai; tổ chức Nhà nước; lực lượng vũ trang; trưng cầu dân ý đối với Hiến pháp và
thời hạn góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp.
Cũng theo cựu bộ trưởng Nguyễn Đình Lộc, những người làm kiến nghị chủ xướng xã hội theo mô hình cộng hòa, với người đứng đầu nhà nước là Tổng thống.
Tuy nhiên, ông Lộc thừa nhận tiến trình sửa đổi Hiến pháp mới đang đi những bước đầu tiên.
“Cái mới không phải ai cũng tiếp nhận một cách dễ dàng được, phải biết chờ đợi.”
“Sửa đổi đến đâu cũng phải chờ đợi mới biết, vì có người cần, nhưng cũng có người thấy rằng chưa cần lắm.”
KHAI TÂM – Bây Giờ Tháng Mấy – TCP – Guitar Vô Thường – BP (HD)
KHAI TÂM – Bây Giờ Tháng Mấy – TCP – Guitar Vô Thường – BP (HD)
CHÚC MỪNG
CHÚC MỪNG
Lm Nguyễn Tầm Thường SJ
Có nhiều lời chúc mừng.
Có nhiều dịp chúc mừng.
Có nhiều người được chúc mừng.
Người ta chúc mừng nhau. Bằng lời nói. Bằng thư từ. Trong những lời chúc mừng, lời chúc mừng về tình yêu, về những gì liên quan đến hạnh phúc, đến giá trị thiêng liêng là lời chúc mừng bi đát nhất.
Chẳng hạn:
Kỷ niệm 25 năm thành hôn của anh chị, chúng tôi cầu chúc tình yêu của anh chị
nồng nàn như thủa mới yêu nhau.
Hoặc như:
Kỷ niệm 10 năm linh mục của Cha. Chúng con kính chúc Cha những ngày tràn
đầy hồng ơn Chúa. Tâm tình Cha sốt mến như ngày Cha dâng thánh lễ mở tay.
Những lời chúc rất chân thành. Càng chân thành bao nhiêu, càng thấm thía
và bi đát bấy nhiêu. Thực tế, những lời chúc này xảy ra hàng ngày, ở chỗ này, chỗ kia. Nó đến từ trái tim người cầu chúc là mong ước. Và biết đâu, từ trái tim người được cầu chúc cũng tha thiết xin được như thế. Sự bi thương nằm ở đó. Lời cầu chúc này đến từ một thực tế. Nó diễn tả cái thực trạng hàng ngày. Nó là tấm gương
phản chiếu trung thực lòng khao khát của người cầu chúc, nó là ước vọng của
người được cầu chúc.
Bi thương hơn nữa là đời cứ tiếp đời, lời chúc tiếp tục lời chúc đi theo thời
gian.
***********************
Kỷ niệm 25 năm thành hôn
Chúng tôi cầu chúc tình yêu của anh chị nồng nàn như thủa mới yêu nhau.
Chúc như thế, nghĩa là, tình yêu của anh chị hôm nay mệt mỏi lắm rồi. Nó
xói mòn lắm rồi, nên tôi chúc cho anh chị được như ngày đầu. Nói cách
khác, tình yêu ấy cứ mỗi ngày một nhạt đi, cứ mỗi ngày một hết như thủa ban đầu.
Chúc như thế, không là thành thực xót xa sao. Nếu tình yêu của người nào
đó, sau 25 năm cưới nhau, bây giờ nồng nàn hơn, thì chúc như thế mang ý nghĩa
gì? Nó vô duyên và vụng về biết mấy. Nhưng hôm nay, họ cứ chúc mừng nhau
như vậy. Họ dựa vào kinh nghiệm thực tế mà làm nên lời chúc. Nếu
vậy, mỗi lời chúc không là một lời đau thương sao?
***********************
Kỷ niệm 25 năm linh mục
Sau 25 là linh mục. Tôi rửa tội biết bao nhiêu người. Tôi săn sóc
biết bao bệnh nhân, xức dầu Thánh cho biết bao nhiêu người trong giờ hấp
hối. Trong 25 năm tôi dâng biết bao thánh lễ. Biết bao lần Mình Máu
Thánh Chúa hóa thân trên tay tôi. Tôi cử hành biết bao bí tích. Như
thế, sau 25 năm đôi tay tôi đã xây dựng biết bao ân sủng. Một phần tư thế
kỷ sống sống đời linh mục, tôi xây dựng biết bao nhân đức. Tại sao người
ta lại chúc mừng trong ngày kỷ niệm đẹp như thế bằng lời chúc bi thương?
Họ mong cho tôi dâng thánh lễ sốt sắng như ngày đầu, nghĩa là thánh lễ tôi dâng
hôm nay không còn chuẩn bị như ngày mở tay. Nghĩa là hôm nay tôi dâng
thánh lễ nhàm chán như chuyện phải làm. Tôi hết náo nức rồi.
***********************
Vì sao có những lời chúc như thế. Cũng là do thực tế mà thôi. Nó cũng đến từ một nhận thức trong sinh hoạt bình thường. Nó do kinh nghiệm, do quan sát, do thấy như vậy. Tôi gọi đó là những lời chúc bi thương. Vì nó thật nên nó bi thương. Những lời chúc ấy đến từ cảm nghiệm.
Những lời chúc như thế, là linh mục, hay tình yêu hôn nhân, nó là tiếng chuông
cầu thương khó. Trước lời chúc đó, tình yêu phải nhìn lại tình yêu. Hôn nhân phải hỏi lại hôn nhân. Linh mục phải nhìn lại linh mục. Tu sĩ khấn Dòng phải hỏi lại lý tưởng. Những lời chúc ấy đến từ ước vọng. Nó vừa là tiếng lòng mong mỏi, cũng vừa là tiếng lòng đợi trông.
Thủa ban đầu có nhau lưu luyến ấy, nếu bây giờ nhạt phai, nó phải có nguyên
nhân.
Nếu thánh lễ mở tay là náo nức, bây giờ chỉ còn là bổn phận, nó phải có nguyên
do.
Những ngày đầu của tình yêu hôn nhân, tháng ngày ấy mới là ngưỡng cửa bước vào
vườn hạnh phúc. Ðàng sau đó là một chân trời khám phá. Thì càng đi càng say chứ. Nhưng thực tế, cứ có những tiếng thở dài. Nhiều đôi hôn nhân càng đi càng mỏi.
Những ngày đầu của linh mục cũng thế. Mới lên đường mà thấy lòng rộng mở,
thì càng cao, đường phải càng đẹp, càng đi lâu tâm hồn càng say mê đi tới
chứ. Nhưng thực tế, không thiếu những cử hành phụng vụ chỉ là cánh cửa sổ
cũ kỹ muốn đóng sập xuống cho chóng xong.
Từ những kinh nghiệm được xác định đó, lời cầu chúc ra đời. Ði tìm nguyên
do, đi hỏi nguyên nhân. Kinh Thánh bảo: “Khi mọi người ngủ thì kẻ thù đến gieo cỏ lùng, rồi bỏ đi” (Mt.13: 25). Thời gian nào mà không có phấn bụi bay. Khoảnh khắc nào mà không có sương mù. Hạnh phúc rất mong manh. Tấm gương cần phủi bụi mỗi ngày. Cỏ lùng cần nhổ khi còn là mầm non. Chúa muốn nói với tôi về một tỉnh thức.
**********************
Là linh mục, xin Chúa cho con trước lời chúc đó là tiếng lòng cảnh tỉnh.
Con muốn sống làm sao mỗi ngày đẹp hơn.
Con muốn sống làm sao với ân sủng để mỗi ngày có thêm thiết tha đi tới chứ
không ao ước quay về.
Tình yêu mà cứ mỗi thời gian đi tới, lại cứ cầu chúc nhau tìm về bến cũ, thì
con đò sẽ lặng lẽ biết bao. Hôn nhân mà mỗi bình minh lên, lại cứ phải
mong cho nhau như ngày xa xưa cũ thì còn đâu chân trời khám phá. Chả có
sáng tạo, hôn nhân mà cứ phải nương nhờ ngày xưa thì bước đi tới nặng nề làm
sao.
Lạy Chúa, con muốn nói với Chúa về một lời chúc.
Ðừng để đời linh mục con, có những lời cầu chúc như thế.
Xin cho con sửa lại lời cầu chúc bi thương.
Ngày con dâng lễ mở tay, chỉ là mở tay thôi, mỗi ngày bàn tay con phải vươn cao
hơn, nhiều nhân đức hơn, chứa đựng nhiều ơn trời hơn.
Ngày đầu bước vào đời linh mục, có ngỡ ngàng, thì mỗi ngày, mỗi sáng sáng phải
ngỡ ngàng hơn vì khám phá ra quá nhiều ơn sủng Cha ban.
Mỗi thời điểm về gần ánh sáng, con phải thấy hân hoan hơn, thấy mình thấm nhuần
ánh sáng hơn.
Con phải quên đi những ngày đầu chập chững.
Con phải sống sao những ngày đầu chỉ là ơn sủng còn non màu mạ, mỗi thời gian
đi tới là chứa chan màu vàng của lúa đơm bông.
Như cánh bướm, vì vườn hoa càng rực rỡ thì càng buông cánh vào càng duyên dáng
hơn.
“Ơn sủng Cha ban thì hằng hà sa số,
Lớp lớp thời gian Cha không ngừng đổ rót.
Ðể lãnh xin, con chỉ có bàn tay bé nhỏ,
Vậy sao hồn con cứ trống và tim con còn vơi?” (Tagore)
Lạy Cha, lỗi ở con mà thôi.
Con ước muốn sửa lại lời cầu chúc trên kia.
Con muốn mỗi ngày cánh buồm đong gió ra đi là càng thênh thang, chứ đừng có lời
cầu chúc tầm thường mong sao được như ngày xưa bên bến hồ nhỏ bé.
Lời cầu chúc đời ban tặng con đến từ nhận xét.
Con không thể thay đổi cái nhìn của đời được, vì con thế nào thì đời nhận xét
như thế.
Lời cầu chúc đến từ cảm nghiệm.
Con không van xin đời thay đổi cảm nghiệm được, con chỉ có thể thay thế chanh
chua bằng mật ong, vì đời cảm nghiệm thế nào, đời mong mỏi như vậy.
Lời cầu chúc đến từ ước mơ.
Con không cho đời hạnh phúc được nếu mơ ước kia không là sự thật.
Lời cầu chúc đến từ lòng thành thật.
Con có đau thương vì lời chúc thì cũng hãy thành thật nhận lời chúc như câu
kinh.
Lời cầu chúc đến như tiếng than thở.
Con hãy quý những thở than đó vì nó là tiếng lòng nhắc nhở con về một tiếng
gọi.
Lời cầu chúc đến từ thực tế.
Con không thể lặng thinh mà không hỏi lòng mình: Tại sao thế?
Lời cầu chúc có thể còn tiếp tục mãi.
Con không thể lặng thinh mà không hỏi Chúa:
– Vậy sáng mai con dâng thánh lễ ra sao.
***********************
Ôi! Lạy Chúa,
Mỗi lời chúc đều nói với con về một ý nghĩa.
Mỗi lời chúc đều nói với con về chính con.
Mỗi lời chúc đều nói với con về liên hệ giữa con và Chúa. Amen!
Lm Nguyễn Tầm Thường SJ
– Trích tập suy niệm Ðường Ði Một Mình
From: langthangchieutim &
Anh chị Thụ & Mai gởi
“ANH EM HÃY CHO HỌ ĂN…”
“ANH EM HÃY CHO HỌ ĂN…”
nguồn: conggiaovietnam.net
Tác giả: Lm. Vĩnh Sang, DCCT
Năm hết Tết đến, mọi người bận rộn lao xao cho cái Tết của chính mình, của gia đình mình. Các bến xe nêm chặt cứng người, xe
hỏa, xe đò ngược xuôi đủ kiểu. Năm nay kinh tế tiếp tục khủng hoảng, kinh tế thế giới khủng hoảng thì kinh tế Việt Nam làm sao thoát khỏi ? Mới đây ông Thủ Tướng hội nghị với các tập đoàn kinh tế Nhà Nước, những tập đoàn, những tổng công ty vốn được mệnh danh là “quả đấm thép” tuyên bố… lỗ 60 tỷ đôla. Con số nợ khủng khiếp người dân bình thường nghe ngơ ngác vì không tưởng tượng được con số theo mệnh gía Việt Nam đồng ( 1.330.000 tỷ VND ), và cũng không thể tưởng tượng được con số theo mệnh giá Mỹ Kim ( 60 tỷ USD ).
Lại lang thang trên mạng và đọc được những thông tin màu xám xịt, hoặc tím tái:
“…Việt Nam hiện đứng thứ 11 thế giới về số lượng người nghèo ( 14,3 triệu người, chiếm 16,9% dân số ) và cũng nằm trong số các nước có lượng người nghèo cao nhất khu vực. Lâu nay Việt Nam được xem là một trong những nước thành công nhất về chuyện giảm nghèo, tuy nhiên đó là đo theo chuẩn nghèo cũ, thấp hơn chuẩn quốc tế.
Nếu tính theo chuẩn nghèo mới của Việt Nam ( 1,61 USD cho khu vực thành thị và 1,29 USD cho khu vực nông thôn ) thì tỷ lệ nghèo trên toàn quốc là 20,7%. Còn nếu so với chuẩn của quốc tế 2 đôla Mỹ một ngày ( tính theo PPP ) thì có hơn 40% người Việt Nam nằm dưới mức nghèo…” ( Cafef, 15.12.2012 ).
“Nhìn chúng nó cởi truồng giữa mùa đông, xót xa lắm. Có cảm giác như vùng đất ấy, con người ấy trở lại thời hồng hoang, chỉ vỏ cây – áo lá che thân. Và quan trọng hơn, cảm giác như nòi giống cứ bị lụi bại đi bởi chim cò tím tái, thông thống giữa gió lạnh từ bên kia biên giới kèn kẹt thổi sang… Lo được cái ăn rồi, nhưng căn cơ gì mà
không lo thêm cái mặc, cho chính tương lai của đất liền, của vùng biên ải…
Không biết Thủ Tướng của mình, đã bao giờ được chứng kiến những cảnh này chưa
?” ( Xin đọc toàn bài và xem các ảnh chụp ở http://maithanhhaiddk.blogspot.de/2013/01/thu-tuong-oi-ung-e-chung-no-coi-truong.html )
Cũng chính cái ông Thủ Tướng ở Hà Nội mà tác giả Mai Thanh Hải vừa gọi đến, ông ấy đang còn rất ư tự hào tuyên bố đất nước của ông đứng đầu thế giới về sản lượng gạo xuất khẩu !
Những ai còn lương tâm, còn tình người, khi đọc những bản tin này không thể không xót xa, cay đắng cho đồng bào mình, cho dân tộc mình. Đáng tiếc thông tin không được rộng rãi, đáng tiếc nỗi sợ hãi làm người ta không dám thông tin, đáng tiếc người ta bị hoặc tự khoanh những vùng cấm kị, nhạy cảm để không dám bước vào, thản nhiên nhìn nỗi đau hoành hành, dửng dưng chấp nhận thực tế, ngày này qua ngày khác, mãi thành quen. Thản nhiên đã đành nhưng còn cảm thấy khó chịu khi có người đề cập đến, bàn đến, rồi tự mình phong thánh cho mình vì “không thuộc về thế gian”.
Một xã hội sau nhiều năm “hòa bình” mà cứ tụt hậu, chắc chắn trách nhiệm thuộc về những người cấm quyền, không cần phải lý luận dài dòng. Trên trường đua, bạn bè chạy bên cạnh vượt xa tắp tít, khoảng cách mỗi ngày một giãn ra, hoàn toàn mất khả năng thu ngắn thì trách nhiệm thuộc về mình, chẳng cần phải hỏi ai ! “Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt ?”
Một đáng tiếc khác là nhà cầm quyền không cho phép tôn giáo được tham gia với xã hội về 3 mặt quan trọng của đời sống một dân tộc, một quốc gia: đó là Giáo Dục, Y Tế Cộng Đồng và Từ Thiện !
Qua kinh nghiệm của miền Nam trước năm 1975 và qua thực tế của thế giới, tôn giáo là một tổ chức rất có uy tín trong cả ba lãnh vực này. Người ta không cho làm thì cứ ngồi yên trong Nhà Thờ, trong Tu Viện, và chấp nhận. Gần 38 năm qua đối với một số người, Đạo đã trở thành lô cốt phòng thủ, thành pháo đài kiên cố. Nhưng rồi từ khi có chính sách đổi mới, có nhiều nơi Đạo được trở thành lễ đài, tha hồ phô diễn sự hoành tráng, mặc kệ kẻ khát kẻ đói, mặc xác kẻ cô thế cô thân. Thật ra thì cũng có rất nhiều nỗ lực để thi hành sứ mạng của mình, có rất nhiều cố gắng và hy sinh, nhưng cứ làm
chui lủi trong cái mặc cảm của “cơ chế xin – cho”, nó chẳng ra làm sao cả !
Thôi thì năm mới xin có vài ước mơ, hay gọi là có vài đề nghị cũng được: Hãy giảm bớt những lễ hội, nhất là những lễ tạ ơn rềnh rang, những chi phí tiếp đón ồn ào thi đua với thế gian; giảm bớt những chi tiêu xây dựng sang trọng to lớn cho những công trình “của Giáo Hội” để chia cho vùng đói vài hạt gạo, chút vải dư; giảm bớt, thậm chí chấp nhận thiếu thốn nhân sự vùng phát triển, hầu có người dôi ra để gởi đến các vùng nghèo, vùng đói, mà ân cần phục vụ…
Năm mới tha hồ uốn lưỡi để nói những lời chúc tốt đẹp, nhưng sẽ tốt đẹp hơn, chân thành hơn, chắc chắn là những sẻ chia cho người nghèo, thay vì chỉ môi miếng hời hợt bên ngoài mà thôi !
Chúa bảo chúng ta: “Anh em hãy cho họ ăn” ( Mt 14, 16 )…
Lm. VĨNH SANG, DCCT, 2.2.2013 (Ephata 547)
Nguy cơ Trung Quốc
Nguy cơ Trung Quốc
Đăng bởi lúc 6:58 Sáng 5/02/13
nguồn: chuacuuthe.com
VRNs (05.02.2013) – Handelsblatt, Đức – Nền kinh tế Vìệt Nam cũng như hệ thống tài chánh ngân hàng Việt Nam hiện nay là một „copy“ mang nhiều khiếm khuyết
của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Trung quốc. Nhân đọc được bài viết có giá
trị về sự rủi ro của hệ thống ngân hàng Trung quốc đăng trên trang nhất của
nhật báo dành cho giới doanh nhân và kinh tế của Đức “Handelsblatt“ ngày
31.01.2013 tôi xin được dịch ra tiếng Việt để mọi người cùng tham khảo.
* * *
Trung Quốc lừa cả thế giới: trong lĩnh vực nợ nần nhà nước là biểu tượng sáng chói. Tuy nhiên rủi ro bạc tỷ trong lĩnh vực ngân hàng dùng chi phí cho các dự án danh tiếng và chi phí cho các chương trình kích thích kinh tế. Bong bóng tín dụng rất nguy hiểm đã được hình thành (tại Trung quốc).
Niềm tự hào mới nhất của Trung Quốc là tuyến đường sắt cao tốc 2 300 km với xe lửa màu trắng thon gọn nối liền Quảng Châu và Bắc Kinh, trung tâm kinh tế phía Bắc và phía Nam của quốc gia. Tốc độ tối đa là 300 km mỗi giờ.
Dự án chỉ có một lỗi là không bao giờ có lợi nhuận.
Cho tới nay công ty đường sắt Trung Quốc đã mượn nợ của ngân hàng tổng cộng là 280 tỷ euro để chi phí cho dự án này cũng như cho các dự án khác. Ngân hàng chủ nợ có „thấy lại“ được số tiền cho vay nêu trên hay không là điều còn cao hơn là nghi ngờ.
Bong bóng nợ đã hình thành tại Trung Quốc, bong bóng này cũng như tất cả mọi thứ khác hiện diện trên Nước Cộng hòa Nhân dân là rất vĩ đại. Nhà nước luôn luôn chi phí hàng tỷ USD vào các dự án danh tiếng mới, chủ yếu được tài trợ bằng các khoản vay nợ ngân hàng ngắn hạn. Họ muốn phát triển bằng mọi giá – cho dù nợ ngập đầu.
Ở phương Tây, các ngân hàng phải bảo đảm rủi ro tín dụng mà họ cho vay bằng vốn của chính ngân hàng và tiền vốn bảo đảm này mỗi ngày mỗi tăng (bởi qui định của pháp luật) và các khoản nợ xấu phải được xử lý bằng cách đưa vào các ngân hàng xấu (bad debt bank), trong khi đó các ngân hàng Trung Quốc được thổi phồng to một cách không kiểm soát được. “Hàng chục nghìn quan chức cấp thấp của chính phủ và các nhà quản lý doanh nghiệp nhà nước đã mượn nợ mà không cần phải kiểm tra, giám sát”, nhà kinh tế Michael Pettis của Đại học Bắc Kinh cho biết. Chính thức là nhà nước không thiếu nợ cao. Tuy nhiên tất cả các rủi ro được dồn vào bảng cân đối của các ngân hàng (bank balance sheet). Vì vậy, ngân hàng (tại Trung Quóc) là lĩnh vực nguy hiểm nhất cho sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Họ phải phục vụ một
nền kinh tế lớn nhất trên thế giới sau Hoa kỳ, nhưng đồng thời cũng là nơi nhận
chỉ thị của chính quyền xã hội chủ nghĩa trung ương. Các khoản cho vay mà không
có bất kỳ một kiểm soát từ bên ngoài. Theo các chuyên gia, trên thực tế
Trung quốc chỉ có đủ khả năng tăng trưởng từ 5% đến 6% mà thôi, nhưng họ
đặt mục tiêu cho năm nay là hơn tám phần trăm. Cơn nghiện tín dụng đã phóng đại
thực tế ở Trung Quốc.
Vòng luẩn quẩn của việc giảm tăng trưởng và gia tăng nợ nần có vẻ đe dọa nặng nề hơn là Trung Quốc có nhiều ngân hàng lớn nhất thế giới. Ngân hàng Công nghiệp và Thương mại Trung Quốc (Industrial & Commercial Bank of China), với mức vốn tổng cộng gần 186 tỷ euro là ngân hàng có giá trị nhất thế giới. Ngân hàng thúc đẩy tăng trưởng gần như là độc quyền, tài trợ từ các ngân hàng khác cho tới nay không đáng kể.
Cơn đói tín dụng lên cao đến độ mà các doanh nghiệp (Trung quốc) phải kiếm ngày càng nhiều nguồn vốn từ các ngân hàng không chính thức. Tháng mười năm ngoái Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã cảnh báo sự phát triển bùng nổ của các ngân hàng trong bóng tối gây nguy hiểm cho sự ổn định tài chính của đất nước và tăng tính thiếu minh bạch của hệ thống (tài chính).
Chẳng có gì gọi là ngạc nhiên khi doanh nhân Đức ngày càng mất tin tưởng vào quốc gia đầy hy vọng trong quá khứ này là Trung Quốc. Tuy vẫn còn thu hút với doanh thu bán hàng hoá ngày càng tăng – nhưng nguy cơ cũng gia tăng.
Ở phương Tây cuộc khủng hoảng tài chính được lắng dịu, nhưng ở Trung Quốc lại đang ủ một thảm họa mới. Tin tức hôm qua được loan báo là nợ hàng tỷ của chính quyền cấp tỉnh đã được gia hạn tiếp. Rõ ràng là việc trả nợ không cần thiết phải nghĩ đến. Cựu giám đốc Ngân hàng Thế giới phụ trách Trung Quốc, Yukon Huang, đã viết trên báo Financial Times rằng, “các ngân hàng Trung Quốc quá lớn để quản lý, Chúng ta sẽ chứng kiến nhiều cuộc vỡ nợ và những cuộc khủng hoảng tài chính nhỏ, một hoặc thậm chí hai …”
Mặt trái của sự phát triển bùng nổ tại Trung Quốc.
Trong khi châu Âu đang tiếp tục trông chờ một giải pháp thuyết phục nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng nợ euro và Mỹ đang trên bờ vực thẳm của sự suy sụp ngân sách quốc gia, một nền kinh tế lớn khác tỏ vẻ không một chút ấn tượng về khủng hoảng là Trung Quốc. Tại Cộng hòa nhân dân hàng năm có trình báo số liệu thống kê về tình hình phát triển bùng nổ đặc biệt, năm 2013 các nhà kinh tế Trung quốc kỳ vọng nền kinh tế Trung Quốc sẽ tăng trưởng 8,5%.
Một phép lạ xảy ra nhờ sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản lèo lái nền kinh tế thị trường? Thưa không. Bởi vì phép lạ phải được chứng minh, kiểm tra chặt chẽ hơn là chỉ qua một cơ chế rất tầm thường – sự gia tăng GDP chủ yếu là do các tỉnh và địa phương Trung Quốc, thí dụ như chi phí cho các dự án lớn xây nhà ở theo phương châm: tiền không không quan trọng.
Với phương pháp trên, các tỉnh và địa phương làm suy yếu hệ thống tài chính Trung Quốc từ bên trong ra bên ngoài – mặc dù trung ương Bắc Kinh làm ăn thực sự vững chắc. „Hàng chục ngàn các quan chức chính phủ cấp thấp cũng như các nhà quản lý doanh nghiệp nhà nước đều có thể thực hiện các dự án đầu tư mà không cần được kiểm soát, giám sát“, kinh tế gia Michael Pettis của Đại học Bắc Kinh cảnh báo. Kết quả là: nợ lên đến nhiều nghìn tỷ (ức) nhân dân tệ, việc trả được nợ là hoàn toàn không chắc chắn, như các chuyên gia từng cảnh báo. Thoạt nhìn, hệ thống ngân hàng có vẻ mạnh mẽ, theo ông Pettis. Trong trường hợp của một cuộc suy thoái kinh tế, các
ngân hàng tin tưởng rằng sẽ được nhà nước để được cứu trợ.
Các khoản nợ của chính phủ tỉnh và địa phương theo một cuộc kiểm tra đặc biệt của nhà nước ít nhất là 25% tổng sản lượng GDP – ở Đức, mặc dù tình hình tài chính các thành phố, địa phương không mấy sáng sủa nhưng khoản nợ của thành phố chỉ với 5% GDP. Thậm chí chính phủ trung ương Bắc Kinh không hề biết được là bao nhiêu các khoản vay này không thể trả lại được.
Chính thức ngân hàng khai báo ít khoản nợ xấu. Các nhà phân tích hoài nghi những con số được khai báo này. Mục tiêu lợi nhuận cho các dự án nhà ở thường được nêu không thực tế. Nhà cửa thường được xây dựng một cách nhanh chóng và chỉ hai năm sau khi xây hoàn tất đã cần phải được cải thiện. Chính quyền địa phương sau đó cần nhiều tiền hơn. Các tỉnh trưởng hành động theo phương châm: “Bắc Kinh sẽ giải quyết.”
Một vấn đề của nợ Trung Quốc nữa là thời gian đáo hạn khác biệt của các khoản vay và các dự án mà họ tài trợ. Thời gian xây dựng một hệ thống xử lý nước thải hoặc một tuyến đường sắt đòi hỏi phải mất nhiều năm. Thời gian có thể đạt được lợi nhuận thường lên tới nhiều thập niên.. Chi phí cho các dự án này thường bằng các khoản vay nợ ngân hàng có kỳ hạn một vài tháng hoặc vài năm. “kỳ hạn trả nợ thực tế và thời gian đáo hạn của các khoản vay nợ cách nhau quá xa” kinh tế gia Qu Hongbin của ngân hàng lớn HSBC.cho biết. Tiền, không phải là một vấn đề, bởi vì tỷ lệ tiết kiệm
của Trung quốc trên 50%. “vật thiếu thốn là những công cụ (quản lý) tài trợ
dài hạn.”
Trung Quốc không có những công cụ đó. Tài trợ bằng trái phiếu đòi hỏi phải có một thị trường thực sự trưởng thành, với việc đánh giá trung thực và thông tin minh bạch về những doanh nghiệp và chính quyền liên quan. “Trung Quốc đã thực hiện được một số vấn đề, nhưng chưa đủ” , một doanh nhân người Đức cho biết. Những người có
trách nhiệm rõ ràng là thiếu tính nhận thức vấn đề.
Tuy nhiên, ngay cả trong một nền kinh tế mà nhà nước chiếm ưu thế, một nguyên tắc cũng phải tuân giữ là: nếu mượn nợ thì tiền vay nợ cuối cùng phải được hoàn trả lại cho chủ nợ. Tiền của các ngân hàng trên thực tế là tiền do người dân Trung quốc tiết kiệm. Một ví dụ là Bộ Đường sắt Trung Quốc là một trong những tổ chức mang nợ cao nhất thế giới: bộ vay mỗi năm thêm gần một nghìn tỷ nhân dân tệ, tương đương với 118 tỷ euro. Theo nhà kinh tế Pettis là „một sự mất cân bằng to lớn“ và tiên đoán về trung hạn nước Cộng hòa nhân dân sẽ có „một thảm họa nợ nần“. Cứu trợ ngân hàng bởi nhà nước là điều không thể tránh khỏi.
Do đó, thống đốc ngân hàng trung ương Zhou Xiaochuan suy nghĩ phương cách làm thế nào qui trách nhiệm rủi ro này cho chính quyền cấp tỉnh. Đề nghị của ông là: phần lớn các khoản vay nợ của chính quyền tỉnh phải được bảo đảm bởi cư dân của tỉnh đó. Theo cách suy tính của Zhou Xiaochuan, chỉ khi nào có chủ nợ hoặc người bảo lãnh tại địa phương, thì chức năng kiểm soát mới thực sự được thực hiện.
Tựa: Das China-Risiko
Tác giả: Finn Mayer-Kuckuk và Frank Sieren.
Đăng trên trang nhất nhật báo Đức Handelsblatt ngày 31.01.2013
Chuyển ngữ: Nguyễn Hội
Phim: Khám phá Đất Thánh phần I & II (full)
Phim: Khám phá Đất Thánh phần I & II
Bộ phim :” Khám phá đất Thánh” sẽ đưa chúng ta đến với những vùng đất trong Kinh Thánh bằng những hình ảnh sống động.
Cùng với bộ phim, chúng ta không những có cơ hội được khám phá những vùng đất mà ngày xưa đã từng in dấu tích lịch sử trong lịch sử Công Giáo mà còn là dịp để chúng ta cùng học biết về những nét văn hóa đặc sắc về những cư dân hiện đại cũng như những con người xa xưa nữa.
Nhờ đó, người Ki tô hữu có thể hiểu thêm về Kinh Thánh, hiểu thêm và tin yêu thêm vào Đức Giê su, Đấng Cứu độ duy nhất của chúng ta.
Kính mời xem phim:
Phần 1
httpv://www.youtube.com/watch?v=xzTM3V4xuQY&feature=player_embedded
Phần 2
httpv://www.youtube.com/watch?v=kZU6pMpzp4o
Anh Nguyễn v Thập gởi
Muốn hạnh phúc, hãy tắt điện thoại
Muốn hạnh phúc, hãy tắt điện thoại
Bí quyết để luôn hạnh phúc là hãy tắt điện thoại di động và quan tâm đến bạn bè cũng như gia đình.
Giáo sư Paul Dolan, thuộc trường kinh tế London (Anh), tin rằng sự phổ biển của iPhone và các điện thoại thông minh khác khiến mọi người ít quan tâm hơn tới những người người thân và bạn bè của họ. Ông cảnh báo rằng nếu mọi người không thay đổi cách ứng xử hiện nay, họ có thể mắc bệnh tâm thần.
Sự phổ biến của các loại điện thoại thông minh khiến mọi người ít quan tâm hơn tới người thân và bạn bè.
Phát biểu tại sự kiện Hay Festival ở Cartagena (Colombia), giáo sư Paul Dolan cũng cảnh báo hội chứng nghiện Internet và hội chứng Phantom Vibration Syndrome (PVS) trở nên phổ biển trong giới trẻ. Hội chứng PVS xảy ra khi bạn có điện thoại di động trong túi và nghĩ rằng mình có tin nhắn, nhưng không phải.
“Hãy chú ý tới những gì bạn đang làm và những người đồng nghiệp của mình. Thay vì thường xuyên kiểm ra điện thoại và email, bạn hãy tắt điện thoại, nói chuyện và đi chơi cùng bạn bè và những người thân. Bởi vì những thói quen này giúp bạn hạnh phúc hơn”, giáo sư Paul Dolan cho biết.
Ông Paul Dolan cho biết giải pháp để duy trì cuộc sống luôn vui vẻ là tạo ra một số thay đổi trong môi trường mọi người sử dụng điện thoại di động. Ví dụ, trong một bữa ăn, bạn hãy để điện thoại di động tại bàn sau khi sử dụng và nói chuyện vui vẻ với mọi
người.
Khi nói về hạnh phúc, ông Paul Dolan cũng đưa ra một nghiên cứu khoa học cho thấy những người lập gia đình và theo tôn giáo hạnh phúc hơn những người độc thân
hay không theo tôn giáo nào. Tuy nhiên, ông cũng cảnh báo rằng cuộc sống
hạnh phúc của các cặp vợ chồng tương đối ngắn chỉ kéo dài khoảng 3 năm, nếu các
mẫu thuẫn vợ chồng không được giải quyết.
Giáo sư Paul Dolan cũng cho biết những người giàu có thường ít cảm thấy hạnh phúc. Một cuộc khảo sát gần đây đã đánh Columbia là quốc gia hạnh phúc nhất trên thế giới, cho dù thu nhập bình quân theo đầu người của nước này chỉ là 5.000 bảng/năm.
Chị Nguyễn Kim Bằng gởi
Chó mòn mỏi đợi chủ
Sau khi chủ đã chết. Chó ngồi đợi chủ ở nhà thờ
Sau khi chủ nhân qua đời, chú chó Tommy ở Ý vẫn kiên trì ngồi đợi chủ ở nhà thờ và câu chuyện này đã khiến không ít người cảm động.
Chú chó Tommy ở nhà thờ
Khi tiếng chuông nhà thờ rung lên trong tang lễ của bà Maria Margherita Lochi vào tháng 11 vừa qua, chú chó Tommy đã chạy vào bên trong nhà thờ, đến bên cạnh quan tài bà Lochi trong giây phút cuối cùng nó được ở bên cạnh chủ.
Khi còn sống, bà Lochi đã mang Tommy về nhà nuôi sau khi phát hiện nó bị bỏ rơi ở một cánh đồng gần nhà tại Brindisi, miền nam nước Ý. Từ khi được bà Lochi nuôi dưỡng, Tommy đã trở thành một người bạn đồng hành trung thành nhất của bà Lochi.
Cha xứ Donato Panna nói: “Tommy luôn xuất hiện ở đây mỗi khi nhà thờ có lễ, nó rất ngoan ngoãn và biết nghe lời. Tommy cũng không bao giờ làm ồn, thậm chí tôi chưa bao giờ nghe thấy một tiếng sủa của nó từ khi nó xuất hiện ở đây.
Nó thường đến nhà thờ để trông ngóng bà Lochi dù bà ấy đã chết. Tôi đã để cho Tommy ngồi bên trong bởi vì nó rất ngoan, mọi người cũng không ai phàn nàn gì về sự xuất hiện của Tommy tại nhà thờ”.
Tommy là một giống chó Đức được bà Lochi nuôi từ nhỏ. Kể từ khi bà Lochi qua đời, những người dân trong làng đã thay nhau chăm sóc nó.
“Tommy đã được người dân trong làng nuôi dưỡng, và giờ đây nói đã trở thành bạn của tất cả mọi người. Mọi người thay nhau chăm lo, cơm nước cho Tommy. Nó vẫn thường đến nhà thờ kể sau đám tang của bà Lochi. Tommy đến và chỉ ngồi một cách lặng yên ở đó, có lẽ nó đang trông ngóng bà Lochi trở về”, cha Panna cho biết thêm.
Anh Nguyễn v Thập gởi
Chuyện tình bi thảm của Pierre Abelard và Heloise


cả sự bi đát thì không thua gì Romeo và Juliet. Chỉ khác, họ là nhân vật có
thật. Họ là Pierre Abelard, nhà triết học và thần học lừng danh của nước
Pháp thế kỷ 12, và Heloise, một trang giai nhân mà sắc đẹp của nàng tuy đã hơn
người nhưng nếu so với trí tuệ và phẩm cách thì không kém phần nổi bật. Họ tạo
nên câu chuyện tình bất hủ, chuyện tình được xem là đẹp nhất mà cũng bi thảm
nhất trong lịch sử loài người.
Fulbert, một giáo sĩ có chức sắc, giàu có và thế lực. Nàng được hưởng một nền
giáo dục tốt từ nhỏ, và đến tuổi trăng tròn thì đã trở nên thông tuệ hơn người.
Không rõ vì đã biết đến Heloise từ trước và phải lòng nàng nên Abelard mới “thu
xếp” để Fulbert mời chàng đến làm gia sư dạy nàng về triết học, hay ý muốn trau
dồi kiến thức cho cháu gái của Fulbert đã tạo điều kiện cho đôi tài tử giai
nhân gặp gỡ. Chỉ biết rằng không bao lâu sau khi Abelard đến ở nhà Fulbert để
dạy học, giữa hai người đã nảy sinh một tình yêu nồng cháy.
trong một lá thư như thế, Heloise cho biết một giọt máu của tình yêu đã thành
hình trong cơ thể nàng. Biết tin, Abelard tìm mọi cách đưa Heloise đi trốn.
Nàng ẩn náu tại nhà của chính chị gái Abelard, và sinh một đứa con trai đặt tên
là Astralabe.
biết rằng, người mình yêu sẽ bất hạnh khi gắn bó cuộc đời với nàng, không muốn
một trí tuệ như chàng phải phiền lụy vì những mối khổ tâm của cuộc sống đời
thường. Nhưng sau một thời gian Abelard vật nài, van vỉ, nàng cũng đồng ý bởi
không muốn chàng tuyệt vọng nghĩ rằng nàng không yêu chàng nữa. Một đám cưới bí
mật được tổ chức rất giản dị. Và ngay cả sau khi cưới, họ cũng ít được gặp
nhau, cũng không gặp gỡ công khai.
giết Abelard và gả cháu gái cho một người khác.
ruồng rẫy đến mức phải vào nhà tu kín. Để trừng phạt, đêm nọ, Fulbert thuê một
nhóm người xông đến nhà Abelard đè ra thiến chàng.
với sự tàn độc nhất và cách trừng phạt đáng hổ thẹn nhất. Tất cả những việc họ
làm khiến cả thế giới kinh hoàng, vì họ cắt lìa bộ phận của cơ thể tôi với với
suy nghĩ tôi là nguyên nhân nỗi đau buồn của họ”. Nỗi đau khủng khiếp cơ thể
không là gì so với nỗi nhục nhã và tuyệt vọng về một hạnh phúc lứa đôi, sau sự
biến này, Abelard chính thức trở thành một tu sĩ thuộc dòng tu Benedek ở
Saint-Denis. Từ đó, cuộc đời chàng dành trọn cho nghiên cứu triết học, thần
học. Còn tình yêu đau đớn đối với Heloise, thứ tình yêu mà thảm kịch và sự chia
lìa không diệt nổi, chỉ được tiếp tục qua những trang thư.
hy vọng chứ? Tại sao phải tiếp tục khi trong cuộc hành hương của đời người, em
chẳng còn chỗ dựa nào ngoài anh, chẳng ai chịu hiểu rằng anh vẫn tồn tại và em
bị cấm tất cả những niềm vui khác bên anh, nỗi lòng hân hoan về sự hiện diện
của anh hết lần này tới lần khác có thể cứu rỗi chính em?”, trong thư gửi
Abelard, Heloise đã viết như vậy.
sách do mình viết, và không ít lần phải đối mặt với ấm mưu ám hại, thủ tiêu…
Abelard – Heloise. Sau khi lìa đời, họ đã được chôn cạnh nhau ở tu viện mà
Heloise cai quản, và 7 thế kỷ sau đó, họ được đưa về nghĩa trang này, ở bên
nhau vĩnh viễn.
