Xin chúc lành

Lạy Chúa, xin chúc lành cho trí óc con,

ước gì trí óc con chỉ được soi sáng bằng những tư tưởng tốt lành.

Lạy Chúa, xin chúc lành cho trái tim con.
ước gì trái tim con đầy tràn những điều nhân nghĩa.

Lạy Chúa, xin chúc lành cho đôi mắt con,
ước gì mắt con chỉ nhìn thấy những gì đẹp lòng Chúa.

Lạy Chúa, xin chúc lành cho hai tai con,
ước gì tai con chỉ nghe thấy những lời tốt lành.

Lạy Chúa, xin chúc lành cho miệng lưỡi con,

ước gì miệng lưỡi con chỉ cao rao tình thương của Chúa.

Lạy Chúa, xin chúc lành cho hai tay con,
ước gì tay con chỉ làm những việc tốt lành.

Lạy Chúa, xin chúc lành cho hai chân con,
ước gì chân con chỉ đi trên đường lành thánh.

LẠY CHÚA, XIN CHÚC LÀNH CHO TOÀN THÂN CON,
VÌ TOÀN THÂN CON THUỘC VỀ CHÚA.

S.T.

10 điều suy ngẫm

10 điều suy ngẫm

1.  Cầu nguyện không phải là “bánh xe dự phòng” để lấy ra khi gặp khó khăn, nhưng là “tay lái” để lái đi đúng đường suốt cuộc tạm hành trên đất nầy.


2.  Tại sao xe hơi có KIẾNG TRƯỚC lớn hơn nhiều so với KIẾNG CHIẾU HẬU?  Vì QUÁ KHỨ của chúng ta không quan trọng so với TƯƠNG LAI. Vậy, hãy nhìn thẳng phía trước và đi tới.


3.  Tình bạn như một QUYỂN SÁCH.  Chỉ cần vài phút để đốt đi, nhưng cần vài năm để viết.


4.  Tất cả những điều mình có trong đời sống nầy đều tạm bợ. Nếu được hạnh thông, hãy vui hưởng, vì nó sẽ chóng qua. Nếu không thuận lợi, cũng đừng lo lắng, vì nó cũng sẽ không kéo dài.


5.  Bạn cũ là Vàng! Bạn mới là Kim Cương! Nếu ta có Kim Cương, đừng quên Vàng! Vì muốn giữ được Kim Cương, ta luôn cần Vàng để bọc Kim Cương!


6.  Thường khi ta mất hy-vọng và nghĩ đây là đoạn cuối đường, THƯỢNG ĐẾ ở trên cao cười và nói: “Hãy thư giản, con yêu của ta, đó chỉ là khúc quanh, chứ không phải là đường cùng.


7.  Khi Thượng Đế giải quyết những vấn đề của ta, ta đặt niềm tin nơi Ngài.  Khi Thượng Đế không giải quyết những vấn đề của ta, Ngài đặt niềm tin vào khả năng của ta.

8.  Một người mù hỏi thánh Anthony: “Có thể còn điều nào khổ hơn là bị mù không?  Ông thánh trả lời: “Có, lúc ngươi mất định hướng!”

9.  Khi chúng ta cầu nguyện cho người khác, Thượng Đế lắng nghe và ban phước cho người đó, và đôi khi chúng ta bình an, hạnh phúc, hãy nhớ rằng một người nào đó đã cầu nguyện cho ta.


10.  Sự LO-LẮNG không dẹp bỏ được sự KHÓ-KHĂN ngày mai.  Nhưng nó lấy đi sự BÌNH-AN hiện tại.

Hãy sống đơn giản.  Yêu thật nhiều.  Lo tận tụy.  Ăn nói nhân hậu.  Hãy giao hết cho THƯỢNG ĐẾ. NGÀI yêu thương bạn. NGÀI  luôn luôn yêu thương bạn.

Người Philippines và Việt Nam biểu tình chống Trung quốc

Người Philippines và Việt Nam biểu tình chống Trung quốc

Kính Hòa, phóng viên RFA
2013-07-30

Cựu nghị sĩ Roilo Golez Philippines tố cáo Trung Quốc lấn chiếm lãnh hải Phi trong một cuộc biểu tình lớn của người Phi có một số người Việt Nam tham dự ở phía trước văn phòng lãnh sự Trung Quốc ở Manila vào ngày 24 tháng 7 năm 2013.

Cựu nghị sĩ Roilo Golez Philippines tố cáo Trung Quốc lấn chiếm lãnh hải Phi trong một cuộc biểu tình lớn của người Phi có một số người Việt Nam tham dự ở phía trước văn phòng lãnh sự Trung Quốc ở Manila vào ngày 24 tháng 7 năm 2013.

AFP

Nghe bài này

Một cuộc biểu tình lớn chống Trung quốc đã nổ ra hôm 25/7 tại Manila, Philippines, trong đó có sự tham gia của một số người Việt. Kính Hòa đã phỏng vấn kỹ sư Nguyên Lân Thắng, đang học tập tại Philippines, sau khi cuộc biểu tình kết thúc.

Kính Hòa: Chào anh Thắng, có phải là có một cuộc biểu tình ngày hôm nay (25/7) của người Philippines chống Trung quốc xâm lược và có một số người Việt Nam tham gia phải không anh?

Nguyễn Lân Thắng: Vâng đúng rồi anh, có khỏang 4 hay 5 người Việt tham gia.

Kính Hòa: Xin anh tường trình cho thính giả của đài Á Châu Tự Do về cuộc biểu tình đó ạ!

Nguyễn Lân Thắng: Hôm nay Liên minh biển Tây Philippines có lời kêu gọi biểu tình tòan cầu chống Trung quốc gây hấn trên biển Đông, áp đặt đường lưỡi bò của họ, ngăn cản việc giao thương đi lại và đánh bắt cá của ngư dân, âm mưu độc chiếm nguồn tài nguyên trên biển Đông. Trưa nay tôi có mặt tại hiện trường thì có một nhóm khỏang năm sáu người với tấm biểu ngữ Nhân dân Philippines đòan kết với nhân dân Việt Nam chống Trung quốc xâm lược.

“Tôi có mặt tại hiện trường thì có một nhóm khỏang năm sáu người với tấm biểu ngữ Nhân dân Philippines đòan kết với nhân dân Việt Nam chống Trung quốc xâm lược. Tôi thấy cuộc biểu tình có rất đông người khỏang 5 hay 6 trăm, và có cảnh sát giữ trật tự

Nguyễn Lân Thắng”

Tôi thấy cuộc biểu tình có rất đông người khỏang 5 hay 6 trăm, và có cảnh sát giữ trật tự cho cuộc biểu tình. Tôi có gặp ông chủ tịch Liên Minh biển Philippines, biết tôi là người Việt, ông ấy đã viết một lá thư gửi nhân dân Việt Nam. Cảnh sát chỉ giữ trật tự bên ngòai không can thiệp gì cả. Có rất nhiều xe tải và xe khách chở người biểu tình đén và họ dùng một xe tải để dựng nên một sân khấu.

Có nhiều ngương mặt nổi tiếng như ông cựu bộ trưởng bộ Tư Pháp, các nghệ sĩ nổi tiếng, và nhiều người dân đến từ rất xa. Họ hô những khẩu hiệu chống Trung quốc, rồi họ ca hát rất là vui. Sau đó cuộc biểu tình giải tán trong yên bình không có xung đột như anh hay thấy ở Việt Nam.

Kính Hòa: Họ có đến sứ quán Trung quốc không anh?

Nguyễn Lân Thắng: Dạ không, nơi đây là trước văn phòng cấp visa của sứ quán Trung quốc trong một tòa nhà thương mại của khu Makati, khu thương mại lớn nhất Philippines, tổ chức ở đây thì thu hút quần chúng rất nhiềui.

Kính Hòa: Họ có đưa ra yêu cầu gì với Trung quốc không anh?

Nguyễn Lân Thắng: có đấy anh, hiện các báo lớn đều có đăng rồi.

Kính Hòa: Trở lại nhóm người Việt Nam, anh thấy họ có tổ chức không?

Nguyễn Lân Thắng: tôi lo chụp ảnh nên cũng không nói chuyện nhiều, nhưng tôi cho là họ có tổ chức đấy anh ạ.

Kính Hòa: Thưa anh vì Việt nam cũng có tranh chấp quần đảo Trường sa với Phi, vậy thì chuyện này có được bàn đến không ạ?

Nguyễn Lân Thắng: Vấn đề tranh chấp giữa Việt Nam và Philippines là có nhưng đối với Liên minh biển Tây Philippines thì chính sách bành trướng của Trung quốc quan trọng hơn. Do vậy họ rất cần một sự hợp tác của các nước Đông Nam Á để chống yêu sách của Trung quốc.

Kính Hòa: Xin cảm ơn anh Thắng.

Cái chết trong tù CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát

Cái chết trong tù CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát

Nguyễn Tú

Bác Sĩ Phan Huy Quát sinh năm 1908 tại Nghệ Tĩnh, tham chính nhiều lần, từng làm Tổng Trưởng Giáo Dục, Tổng Trưởng Quốc Phòng, lần cuối cùng giữ chức vụ Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa, vào năm 1965. Ông cũng là Chủ tịch Liên Minh Á Châu Chống Cộng, phân bộ Việt Nam, và là chủ nhiệm tuần báo Diễn Ðàn, Sài gòn, 1972. Ngày 16 Tháng Tám 1975 Bác Sĩ Quát bị Cộng Sản bắt do nội phản trên đường vượt biên; và chưa đầy bốn năm sau ông từ trần trong nhà tù Chí Hòa. Bài dưới đây do ký giả kỳ cựu Nguyễn Tú, bạn ông, và cũng là bạn tù (người đã sống bên cạnh Bác Sĩ Quát trong những ngày tháng và giờ phút cuối cùng tại khám Chí Hòa), kể lại “như một nén hương chiêu niệm chung.”

Trong thời gian bị cầm tù, Bác Sĩ Quát bị bệnh gan rất nặng song Việt Cộng không cho chữa chạy, thuốc men do gia đình tiếp tế không được nhận. Người con trai út bị giam ở phòng bên, có thuốc cho bố, cũng không làm sao mang sang. Khi biết ông không thể nào qua khỏi, chúng mới đem ông lên bệnh xá. Ông chết ở đó vào ngày hôm sau, 27 Tháng Tư 1979.

Tang gia đã được phép để mang thi hài ra quàn tại chùa Xá Lợi và phát tang ở đấy vào ngày hôm sau, song phút chót, Hà Nội ra lệnh phải an táng ngay, vì ngày đó, 28 Tháng Tư 1979, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc tới Sài Gòn; Việt Cộng sợ dư luận quốc tế – nếu biết đến cái chết bị bỏ mặc của một cựu Thủ Tướng Miền Nam – có thể ngó tới tình trạng giam cầm của hàng trăm ngàn người khác. Cũng bởi thế, rất ít người nghe biết đến sự đày đọa tù nhân Phan Huy Quát cũng như cái chết trong tù của ông – bên cạnh các trường hợp tương tự của các trí thức văn nghệ sĩ khác – của nhà cầm quyền Hà Nội.

Chí Hòa, Sài Gòn – Một ngày cuối Tháng Tư 1979

Hôm nay đến lượt bốn phòng 5-6-7-8-, gác 1, khu ED được đi tắm, giặt. Mọi người đều rộn rạo, hối hả chuẩn bị, cười hô hố. Cứ ba ngày rưỡi mới được sối nước trên thân thể hôi hám, ngứa ngáy và vò vội quần áo đã tích trữ kha khá mồ hôi, đất ghét, thì trước cái hạnh phúc nhỏ nhoi chỉ được phép hưởng hai lần mỗi tuần, ai mà không “vui vẻ, hồ hởi, phấn khởi” dù, trên lý thuyết, thời gian tắm được quy định 30 phút cứ bị cán bộ ăn bớt, chỉ còn vỏn vẹn 15 phút.

Cả bốn phòng đã lần lượt ra hành lang ngồi xổm sắp hàng đợi cán bộ gác đến điểm số. Lần đó, viện cớ bị cảm, tôi xin phép ở lại trong buồng. Tôi có mục đích riêng.
Kiểm tra xong số người ở lại mỗi buồng, cán bộ ra hiệu cho mọi người đứng dậy, tiến về phía cầu thang. Tiếng guốc, tiếng dép khua trên cầu thang, tiếng nói lao xao của đoàn người xa dần rồi lắng hẳn. Từ dưới sân đã bắt đầu vọng lên tiếng sối nước ào ào, tiếng nói oang oang, tiếng cười khanh khách thỉnh thoảng xen tiếng chửi thề thân mật, tiếng sặc nước, tiếng rú khoái trá của các bạn tù được làn nước mát như nước lũ chẩy dồn dập trên da. Hạnh phúc thật!

Buồng 5 chúng tôi ở đầu dãy, sát với đầu cầu thang, nơi đây đặt một cái bàn và một cái ghế cho cán bộ gác. Chỗ tôi nằm sát hàng song sắt. Tôi đứng dậy, nhìn về phía đầu cầu thang chỉ cách chừng ba thước rồi quay người, đảo mắt suốt dọc hành lang. Không có bóng cán bộ. Căn phòng vơi đi 58 người như rộng ra. Hơi nồng của 60 mạng tù tích tụ từ suốt ngày và đêm trước tự giải phóng dần dần đem lại một cảm giác thoáng khí hơn.

Căn phòng chỉ còn lại hai người không đi tắm là tôi và một người nữa đang nằm ở hàng giữa, sát tường, trên diện tích vỏn vẹn có 60 phân tức 2/3 của một chiếc chiếu hẹp. Ðó là khoảng không gian đã được chia rất đều cho 60 tù nhân mà Việt Cộng đã cải cho cái danh từ mỹ miều là “trại viên” Người đồng phòng này nằm, hai chân duỗi thẳng, hai cánh tay gập lại trên bụng, hai bàn chân chắp vào nhau, mắt nhắm, vẻ mặt bình thản. Ông bị bệnh đã hơn một tuần, không thuốc men. Nước da mặt đã chuyển sang màu tai tái càng nổi bật với màu trắng của chòm râu và mái tóc. Bệnh nhân nằm im, không cựa quậy, thân hình như đã quen đóng khung trong không gian 60 phân của chiếc chiếu. Ông là Bác Sĩ Phan Huy Quát đã từng là Tổng trưởng nhiều lần, chức vụ cuối cùng và cao nhất trong hoạt động chính quyền của ông là chức Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa vào Mùa Xuân 1965. Năm 1979 ông đã trên 70 tuổi.

Tôi đảo mắt một lần nữa suốt dọc hành lang, dõng tai nghe ngóng. Vẫn không một bóng người, không một tiếng động khả nghi nào trên tầng gác vắng lặng. Tôi bước vội tới chiếu của Bác Sĩ Quát rồi ngồi sát bên. Bệnh nhân vẫn nằm im, mắt nhắm, không một phản ứng nào chứng tỏ ông cảm giác thấy có người bên cạnh. Hơi thở yếu. Bộ đồ ngủ của ông bận có cũ nhiều nhưng không bị xô lệch. Ðôi ống quần được kéo thẳng tới cổ chân. Ðôi tà áo được khép gọn, ôm kín thân trên. Cánh tay áo trùm tới tận cổ tay. Chẳng phải vì cuộc sống tạm bợ trong tù rất nhiều hạn chế khắc nghiệt cộng thêm lâm bệnh nặng đã hơn một tuần – một trường hợp bất cứ ai cũng có thể buông thả, mặc cho thân phận nổi trôi và có thể kém đi nhiều, ít cảnh giác về cách phục sức và tư thế – mà Bác Sĩ Quát thiếu chững chạc. Và từ cái chững chạc này như toát lên một cái gì có vẻ nghịch lý đến độ vừa đau đớn vừa dũng mãnh giữa thân phận con người và hoàn cảnh.

Tôi khẽ lên tiếng: “Anh Quát! Anh Quát!”

Không một phản ứng của bệnh nhân. Tôi lắc nhẹ cánh tay bệnh nhân, hơi cao giọng: “Anh Quát! Anh Quát!” Vẫn không một phản ứng, tôi đưa ngón tay trỏ qua mũi bệnh nhân. Hơi thở quá yếu. Dưới sân, tiếng sối nước bắt đầu thưa dần. Thời gian tắm giặt sắp hết. Tôi không muốn mục đích khai bệnh giả của tôi bị lộ là cố ý ở lại buồng để đích thân nói ít điều cho là cần thiết với Bác Sĩ Quát và cả với tôi nữa.

Buồng 5 chúng tôi vẫn được Việt Cộng coi là một buồng “phản động” nhất trong số bốn buồng của lầu 1, khu ED vì chứa một cựu Thủ tướng, 3 cựu Tổng trưởng, nhiều sĩ quan cấp tá, một số ít dân sự “đầu chai đá, khó cải tạo, phần tử rất xấu, mất dậy.” Một buồng “ngụy nặng” nên được Việt Cộng tận tình “chiếu cố” trong sinh hoạt hàng ngày. Ngoài ra, còn phải kể tới một vài tên “ăng ten” tức chỉ điểm được cài trong buồng. Tóm lại, chúng tôi đều bị theo dõi rất sát, rất chặt. Tôi phải làm gấp. Tôi lắc mạnh hơn cánh tay bệnh nhân, cao giọng thêm: “Anh Quát! Anh Quát!”

Bệnh nhân vẫn lặng im. Phải làm thật gấp. Tôi xoay nghiêng mình, tỳ tay xuống chiếu, ghé miệng sát tai Bác Sĩ Quát, cố nói thật rành rẽ: “Anh Quát! Anh Quát! Nhận ra tôi không?” Lần này đôi mi bệnh nhân hơi động đậy rồi dướng lên, hé mở. Tôi thoáng thấy lòng trắng mắt vàng khè. Chẳng cần phải học ngành y mới biết bệnh gan của Bác Sĩ Quát coi mới nặng. Bệnh nhân vắn tắt thều thào: “Anh Tú!” Tôi hơi yên tâm. Miệng lại sát tai Bác Sĩ Quát, tôi nói: “Anh mệt lắm phải không?” Ðầu bệnh nhân hơi gật gật. Không hiểu lúc đó linh cảm nào xui khiến, tôi cố rót vào tai Bác Sĩ Quát, giọng hơi nghẹn: “Anh có nhắn gì về gia đình không?” Bệnh nhân cố gắng lắc đầu, mắt vẫn nhắm. Dưới sân không còn tiếng sối nước nữa. Có tiếng các buồng trưởng dục anh em tập hợp để điểm số lại trước khi lên buồng. Chỉ còn độ hơn một phút. May lắm thì hai phút. Tôi dồn dập bên tai Bác Sĩ Quát: “Ai đặt bày, lừa bắt anh? Ai phản anh? Thằng Liên phải không? Nói đi! Nói đi!” Ðôi môi bệnh nhân như mấp máy.

Tôi vội nhổm lên, ghé sát tai tôi vào miệng bệnh nhân. Một hơi thở khò khè, theo sau là vài tiếng khô khốc, nặng nhọc như cố trút ra từ một chiếc bong bóng đã dẹp hơi đến chín phần mười: “Thôi! Anh Tú ạ.” Tiếng guốc, dép, tiếng cười, nói ồn ào đã bắt đầu từ chân cầu thang. Tôi chưa chịu buông: “Nói đi! Anh Quát! Nói đi!” Một hơi thở một chút gấp hơn, như làn hơi hắt vội ra lần chót! “Thôi! Thôi! Bỏ đi!” Tiếng guốc, dép, tiếng cười, nói ồn ào đã tới quá nửa cầu thang. Tôi vội nhổm dậy, bước nhanh về chiếu mình, nằm thẳng cẳng, vắt tay lên trán.

Ngoài hành lang, các bạn tù hối hả, xôn xao phơi quần áo mới giặt. Vài tiếng kỳ kèo nhau về chỗ dây phơi. Rồi như một đội quân đã chọc được phòng tuyến địch, họ ùa vào phòng, đứng lố nhố nghẹt lối đi quá nhỏ giữa ba hàng chiếu. Căn phòng như bị co hẹp lại. Tiếng cười đùa thưa dần khi tất cả đã về được chiếu mình. Khói thuốc lá bắt đầu tỏa. Ðây đó tiếng rít của vài bình thuốc lào nổi lên sòng sọc. Bây giờ thì mọi người, sau trận tắm thỏa thuê, đã ngả lưng trên chiếu. Cả phòng lặng tiếng.
Tôi ngồi dậy, hỏi vọng qua hàng chiếu giữa, phía sát tường: “Anh Châm! Anh coi lại xem anh Quát bệnh tình hôm nay ra sao?”

Bác Sĩ Hồ Văn Châm, cựu Tổng trưởng Thông tin, Chiêu hồi và Cựu chiến sĩ, có phần chiếu liền bên Bác Sĩ Quát. Ông Châm quay về phía Bác Sĩ Quát, tư thế nằm vẫn y như trước. Cảnh lộn xộn, ồn ào, ầm ĩ vừa qua của căn phòng không làm Bác Sĩ Quát động đậy chút nào. Cái gì đã như làm tê liệt bộ phận giây thần kinh điều khiển nguồn năng ý chí con người đến nỗi Bác Sĩ Quát không phản ứng gì, hay không còn muốn phản ứng gì dù chỉ là một phác họa – trước cảnh huống bên ngoài? Một hình ảnh buồn thảm lóe lên trong tưởng tượng; nếu không phải là mùa oi bức thì một tấm nền mỏng đắp lên người dong dỏng và gầy guộc của Bác Sĩ Quát thừa đủ để đóng vai trò một tấm khăn liệm.

Bác Sĩ Châm hướng về phía tôi, lắc đầu. Tôi lên tiếng với buồng trưởng: “Anh Phương! Báo cáo cán bộ xin đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá chứ!” Phương là hạ sĩ quan binh chủng nhẩy dù, tuổi khoảng 30. Tuy còn trẻ, tóc Phương đã trắng xóa, có lẽ vì “xấu máu.” Anh em bèn dán cho cái nhãn hiệu “Phương đầu bạc.” Phương lặng thinh, coi bộ ngần ngại. Nói cho ngay suốt hơn một tuần lễ Bác Sĩ Quát lâm bệnh Phương đã mấy lần báo cáo xin đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá, nhưng đều bị từ chối. Tôi quay về phía Bác Sĩ Châm: “Anh Châm! Nói cho Phương biết bệnh trạng của Bác Sĩ Quát đi!” Ông Châm bèn bảo: “Anh Phương! Báo cáo cán bộ ngay đi!” Phương không đáp, lộ rõ vẻ ngần ngại. Trong phòng bỗng nhao nhao nhiều giọng thúc giục, gay gắt: “Báo cáo đi! Chờ gì nữa? Bệnh như vậy mà không đi báo cáo, còn chờ gì nữa? Chờ người ta chết à?” Căn phòng đang im ắng, sống động hẳn lên.

Nhiều bạn đang nằm, nhóm người nhìn về phía Phương. Ðang cởi trần, Phương uể oải đứng dậy, bận áo, ra khỏi phòng, đi về phía đầu cầu thang. Một lát khá lâu, cán bộ gác tới, có Phương theo sau. Anh chàng cán bộ, mặt hơi khinh khỉnh, từ bên ngoài song sắt cộc lốc hỏi vọng: “Ðâu?” Bác Sĩ Châm nhích người qua một bên, chỉ vào Bác Sĩ Quát: “Ðây, cán bộ!” Nhìn một lát, cán bộ quay lưng, Phương lẳng lặng về chiếu mình. Những anh em khác lại đặt mình nằm. Căn phòng chìm trong im lặng hoàn toàn như thể hồi hộp chờ đợi một phán quyết sinh tử của trại.

Chừng 20 hay 30 phút sau, có tiếng lao xao ở đầu cầu thang. Hai bạn tù được làm ở bệnh xá, đem một băng ca tới cùng với cán bộ gác và một cán bộ khác, chắc là ở bệnh xá. Căn phòng lại náo động. Mọi người đều ngồi dậy hoặc đứng lên phần chiếu của mình.

Phương “đầu bạc” dẫn hai anh mang băng ca đến chỗ Bác Sĩ Quát. Bệnh nhân như mê man, tự mình không ngồi dậy được. Bốn anh em khỏe mạnh trong phòng xúm nhau nâng bệnh nhân đặt trên băng ca. Trong lúc đó Bác Sĩ Châm vội nhét vào một túi nhỏ vài đồ cần thiết cho Bác Sĩ Quát: Kem và bàn chải đánh răng, vài đồ lót, thêm một bộ đồ ngủ, đũa, muỗng, chén… Băng ca được khiêng đi. Bệnh nhân vẫn nằm, mắt nhắm, không một phản ứng. Dưới sân, một tiếng kêu lớn! “Lấy cơm!” Căn phòng trở lại cuộc sống đơn điệu hàng ngày của một trại tù. Lúc đó khoảng 10 giờ rưỡi.

Trưa hôm sau, khi lấy cơm trở về, anh em thì thầm rỉ tai nhau: “Bác Sĩ Quát chết rồi!” Cả phòng nhao nhao: “Hồi nào? Hồi nào? Chết mau quá vậy?” Một anh đáp: “Nghe nói, hồi trưa hôm qua thì phải.”

Chỉ một lát cáo phó miệng của các bạn tù đi lấy cơm đã lan truyền khắp khu ED. Bữa cơm trưa hôm đó ít ồn ào hơn thường lệ. Có ai trong phòng thốt một câu: “Bệnh như vậy, suốt hơn một tuần xin đi bệnh xá, không cho. Ðợi gần chết mới cho thì còn gì!” Một điếu văn ngắn, gọn, hàm súc cho một bạn tù đã nằm xuống. Một lời ngắn, gọn, hàm xúc lên án chế độ bất nhân, ác nghiệt của Cộng Sản. Căn phòng gần như lặng đi. Không bao lâu sau bữa cơm, cán bộ gác tới, bảo buồng trưởng thu dọn đồ của Bác Sĩ Quát. Trước khi quay lưng, hắn còn nói với: “Nhớ làm bản kê khai, nghe không!” Ðối với tù nhân, đó là lời công nhận chính thức cái chết của bất cứ “trại viên” nào.

Lần này, là cái chết của một vị cựu thủ tướng.
Manh chiếu của Bác Sĩ Quát đã được gỡ đi theo giỏ đồ còn lại của ông xuống văn phòng khu. Chỗ nằm cũ của ông trơ ra phần sân xi măng đã xỉn đen thời gian, mồ hôi, đau khổ và uất ức dồn nén của hàng hàng lớp lớp thế hệ tù chính trị mà ông đã là một trong biết bao người kế tiếp bất tận. Trí tưởng tượng của ta có mặc sức tung hoành sáng tác biết bao nhiêu chuyện về trại tù và thân phận tù nhân dưới chế độ Cộng Sản, thì mảnh không gian xi măng đen kia thầm lặng mà hùng hồn nói lên còn hơn thế nữa. Những ngày kế tiếp, cái chết tức tưởi mang nhiều vẻ không rõ ràng của Bác Sĩ Quát còn là đề tài bàn tán của nhiều người trong phòng được tóm gọn trong hai chữ “nghi vấn.” Nhiều người cho rằng nếu được đi bệnh viện sớm hơn, hoặc nếu không, mà được phép biên thư về nhà để thân nhân kịp thời gửi thuốc thì có thể Bác Sĩ Quát đâu ra đến nông nỗi đó.

Năm 1979 vẫn còn nằm trong thời kỳ mà Việt Cộng gọi là “rất căng.” Cuộc cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, nếu xuôi xẻ về mặt quân sự, thì về mặt dân tình và chính trị lại chẳng xuôi xẻ chút nào. Nhiều nơi đã nổi lên những phong trào chống đối vũ trang làm cho Việt Cộng vô cùng lo lắng trong việc ước lượng tầm cỡ của mỗi phong trào để liệu cơ đối phó. Ngay tại Sài gòn, năm 1976, vụ Vinh Sơn xẩy ra chưa đầy một năm sau “đại thắng Mùa Xuân” của Việt Cộng đã làm chúng thất điên bát đảo và mặc dù những người chủ trương và lãnh đạo vụ Vinh Sơn cùng với một số chiến hữu đã bị Việt Cộng thẳng tay đàn áp và thanh toán, dư âm và ảnh hưởng của vụ ấy vẫn còn kéo dài mãi tới 1979 và sau nữa. Lại thêm cuộc chiến với Trung Cộng Mùa Xuân 1979 ở miền Bắc và cuộc chiến với Căm Bốt ở miền Nam khởi sự từ 1978. Do đó Việt Cộng càng siết chặt kỷ luật đối với tù chính trị. Tuy không có bằng chứng rõ ràng, nhiều người trong phòng có cảm giác “ăng ten,” tức chỉ điểm viên, đã được tăng cường.

Cuộc sống tiếp tục trong bầu không khí càng ngày càng ngột ngạt. Việt Cộng “dư” lý lẽ để đối xử với tù nhân tàn nhẫn hơn, bất nhân hơn. Bác Sĩ Quát đã lâm bệnh trong hoàn cảnh khắc nghiệt đó. Con trai út của ông là Phan Huy Anh bị bắt cùng với ông ngày 16 Tháng Tám 1975 không được ở chung cùng buồng, mà bị giam ở buồng 6 sát bên. Hai cha con chỉ trông thấy nhau những lần đi tắm, tức hai lần một tuần. Khi tắm cũng không được liên hệ với nhau. Huy Anh dù có muốn giúp bố giặt quần áo hay một vài việc vặt vãnh cũng không bao giờ được phép. Còn nói chuyện với nhau thì tuyệt đối cấm. Nếu bị bắt quả tang hay có người tố cáo, hai cha con sẽ bị cúp viết thư về nhà với hậu quả kèm theo là bị cúp thăm nuôi. Ấy là chưa kể có thể bị kỷ luật đưa đi biệt giam. Việc thăm nuôi của gia đình cũng tách rời, riêng biệt: không bao giờ hai cha con được thăm nuôi, gặp gỡ thân nhân cùng một lúc, cùng một ngày. Hai cha con sống sát buồng nhau mà còn hơn hai kẻ lạ. Hai kẻ lạ còn có thể xin phép trao đổi với nhau chút quà, nói với nhau dăm ba câu. Bác Sĩ Quát và Huy Anh luôn luôn bị từ chối và bị theo dõi kỹ. Khi được tin bố lâm bệnh, Huy Anh nhiều lần xin phép qua thăm và đem thuốc cũng không được. Chỉ tới phiên đi lãnh cơm, Huy Anh mới được bước ra khỏi buồng. Những lúc đó tôi thoáng bắt gặp ánh mắt buồn bã của Huy Anh kín đáo nhìn qua song sắt tới chỗ bố đang nằm lịm. Tôi còn nhớ hai ngày trước khi Bác Sĩ Quát được đưa đi bệnh xá, cán bộ gác mới cho phép Huy Anh đem thuốc cho bố, sau không biết bao nhiêu lần năn nỉ. Huy Anh chỉ được phép đứng ngoài cửa nhìn vọng vào. Thuốc thì do buồng trưởng nhận đưa cho Bác Sĩ Quát. Thuốc đến quá muộn, dù chỉ là thứ thuốc thông thường trị bệnh gan. Lần “nhìn thăm” thầm lặng được phép công khai đó dài không quá hai phút. Và đó cũng là lần chót Huy Anh được chính thức nhìn bố qua chiều dài gần 8 thước của căn buồng dưới đôi mắt cú vọ của cán bộ gác ngồi phía đầu cầu thang giám sát.

Hôm Bác Sĩ Quát được khênh đi bệnh xá, Huy Anh cũng không được phép ra khỏi buồng dù chỉ để nói ít câu thăm hỏi và nhìn bố nằm thoi thóp trên chiếc băng ca. Một ngày sau khi Bác Sĩ Quát chết, Huy Anh được trại cho phép về thọ tang bố. Nhiều người trong chúng tôi hi vọng sẽ có tin thêm về tang lễ và nhất là về cái chết quá đột ngột của Bác Sĩ Quát khi Huy Anh trở lại trại. Thói quen giấu diếm, bưng bít đã trở thành một thứ siêu vi trùng trong máu của Việt Cộng, thế nên khi Huy Anh trở về, chúng tôi chẳng biết tin gì thêm ngoài việc tang lễ đã xong xuôi. Sau này có tin là Huy Anh sẽ được thả nếu “thật tâm cải tạo tốt.” Có nghĩa là không được tiết lộ bất cứ điều gì liên quan đến cái chết, đến tang lễ của bố, đến bất cứ những gì Huy Anh đã nhìn được, nghe được ở xã hội Sài Gòn bên ngoài trong thời gian được về nhà. Phải thừa nhận Việt Cộng rất “siêu” về thủ đoạn dọa nạt, nhất là đối với những ai đang bị gọng kìm của chúng siết chặt. Dù Bác Sĩ Quát đã chết, không còn là một mối lo chính trị đối với Việt Cộng, do vậy không còn cần thiết giữ Huy Anh làm con tin để đe dọa, đầy đọa tinh thần ông bố nữa, cũng phải đợi đến cuối năm 1979, Huy Anh mới được thả.

Trong thập niên 1940, Bác Sĩ Phan Huy Quát đã được nhiều người ở Hà Nội biết tiếng là một lương y. Bệnh nhân của ông, cả Việt lẫn Pháp, rất tín nhiệm ông vì tư cách đứng đắn và lương tâm nghề nghiệp rất cao của ông. Ngay cả một số người Pháp đã chọn ông làm bác sĩ gia đình của họ, một trường hợp rất hiếm trong y giới người Việt thời ấy. Một đề tài nghiên cứu y học của ông có liên quan đến bệnh đau mắt của Hoàng Ðế Bảo Ðại thời đó đã được tặng giải thưởng đặc biệt của Hoàng Ðế. Cuộc đời chính trị của ông chỉ thực sự bắt đầu sau khi cựu Hoàng Bảo Ðại đã ký hiệp ước Vịnh Hạ Long với Cao ủy Bollaert của Pháp ngày 8 Tháng Ba 1949. Trong chính phủ đầu tiên của quốc gia Việt Nam do cựu Hoàng Bảo Ðại lãnh đạo, Bác Sĩ Quát tham chính với tư cách Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Sau đó ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng. Từ giữa năm 1953 trở đi, tình hình cuộc chiến với Việt Minh ở miền Bắc Việt Nam ngày càng tồi tệ. Thất trận của Pháp ngày 07 Tháng Năm 1954 ở Ðiện Biên Phủ mở màn cho Hội Nghị Genève về Ðông Dương với hậu quả là Việt Nam bị chia đôi ở vĩ tuyến 17 do Hiệp Ðịnh Genève được ký kết giữa Pháp và Việt Minh ngày 20 Tháng Bảy 1954.
Ở Pháp, Quốc Trưởng Bảo Ðại phong ông Ngô Ðình Diệm làm thủ tướng. Ngày 7 Tháng Bảy 54, ông Diệm về nước. Ðược ủy toàn quyền lãnh đạo Việt Nam, ông Diệm thành lập nội các mới và kiêm nhiệm luôn Bộ Quốc Phòng.

Bác Sĩ Quát trở lại nghề cũ, mở một phòng mạch ở Dakao gần đầu cầu Phan Thanh Giản. Suốt chín năm ông Diệm cầm quyền, Bác Sĩ Quát không tham chính: ông khó có thể thuận với Tổng Thống Diệm về lề lối làm việc quá quan liêu, hống hách và độc đoán của gia đình họ Ngô. Thêm nữa ông là một thành viên trong nhóm Caravelle đã công khai đưa ra bản tuyên bố chỉ trích chế độ và đòi chính quyền Diệm thực hiện tự do, dân chủ. Cuộc đảo chính ngày 01 Tháng Mười Một 1963 do một số tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa lãnh đạo chấm dứt chế độ Ngô Ðình Diệm theo liền cái chết bi thảm của vị tổng thống và hai em ông là Ngô Ðình Nhu và Ngô Ðình Cẩn. Ðại Tướng Dương Văn Minh và Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ cầm quyền mới được ba tháng thì bị Tướng Nguyễn Khánh, tư lệnh vùng II chiến thuật, chỉnh lý ngày 30 Tháng Giêng 64. Bác Sĩ Quát được mời làm Tổng Trưởng Ngoại Giao. Ông ở chức vụ này tới khoảng Tháng Chín, 1964 rồi lại trở về phòng mạch.

Cuộc đời chính trị của ông đạt tuyệt đỉnh danh vọng khi, vào giữa Tháng Hai năm 1965, ông được Tướng Nguyễn Khánh triệu mời thành lập nội các mới. Giữ chức thủ tướng được khoảng ba tháng thì ông trao quyền lại cho Hội Ðồng Quân Lực vì những mâu thuẫn khó bề giải quyết giữa ông và Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu. Ông lui về, trực tiếp điều khiển phòng thí nghiệm y khoa của ông ở đường Hai Bà Trưng. Hoạt động chính trị của ông thu hẹp lại trong khuôn khổ của Liên Minh Á Châu Chống Cộng mà ông là chủ tịch phân hội Việt Nam cho tới ngày Sài Gòn thất thủ 30 Tháng Tư 1975.

Nhưng ngày kết liễu nền Ðệ Nhị Cộng Hòa chưa phải là ngày chấm dứt hoạt động của Bác Sĩ Phan Huy Quát. Nó đưa hoạt động ấy sang một hướng khác, hoàn toàn xa lạ với con người vốn dĩ trong bao năm đã quen và chỉ quen hoạt động chính trị theo lối “chính quy,” trong “đường lối chính quy.” Và con người thận trọng trong ông đã lao vào một trận địa mà trước kia ông chưa từng một lần lưu tâm và nghiên cứu địa hình phức tạp, hết sức bất thường do vậy cũng hết sức bất ngờ: địa hình của trận địa hoạt động bí mật, mà vì tính chất của riêng nó, đòi hỏi một cách suy nghĩ khác, một thứ thông minh khác, một loại bén nhạy khác, thậm chí đến cái can đảm trong hoạt động bí mật cũng phải là cái can đảm khác. Vị cựu thủ tướng, tự thân, chưa được chuẩn bị kỹ càng cho hình thái hoạt động bí mật nó có những điều luật, những nguyên tắc đặc thù của riêng nó. Ðiều này cũng dễ hiểu: ông chưa từng thấy có nhu cầu đó. Hoạt động chính trị của ông từ trước không cần đòi hỏi ông có những nhu cầu đó. Vậy mà trước hoàn cảnh đất nước rối bời đang diễn tiến trước mắt, ông đã chọn dấn thân vào con đường mới mẻ này. Một quyết định dũng cảm của một con người ngày ấy đã gần 70 tuổi, và chắc chắn không phải là một quyết định dễ dàng.

Sau ngày Sai gon thất thủ 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Phan Huy Quát không đáp “lời mời” ra trình diện của Việt Cộng được phổ biến trên đài phát thanh, truyền hình và báo chí của chúng cho tất cả “ngụy quân, ngụy quyền”. Liền sau khi cộng quân ào ạt tuôn vào Saigon từ hai hướng Bắc và Nam ngày 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Quát đã dời tư thất ở đường Hiền Vương và bắt đầu cuộc đời “du mục” trong Saigon, quyết không để cho Việt Cộng bắt. Cứ đôi ba ngày các con ông thay phiên nhau dẫn ông đi thay đổi chỗ trú ngụ. Sau gần ba tháng trốn tránh như thế, ông có dấu hiệu mệt mỏi. Các con ông khuyên ông trốn “trụ” hẳn một nơi. Ông nhượng bộ, về nhà trưởng nữ trong một hẻm khuất ở quận Phú Nhuận.

Những ai đã sống ở Saigon sau ngày 30 Tháng Tư 1975 chắc khó quên cái không khí ồn ào, nhộn nhạo, hỗn tạp bao trùm khắp nơi, khắp chốn của cái thành phố hơn ba triệu người này hầu như ngày nào cũng hối hả tuôn ra đầy nghẹt đường phố. Vẻ mừng rỡ bề ngoài vì chiến tranh đã chấm dứt không che đậy nổi nhiều nỗi lo âu âm ỉ bên trong: Kẻ chiến thắng sẽ định đoạt số phận của Saigon như thế nào? Thái độ nào tốt nhất để đối phó với kẻ chiến thắng đang huênh hoang, ngạo mạn? Tùy hoàn cảnh và cương vị riêng của mỗi cá nhân, người thì chọn lối âm thần sống ẩn, người thì mặc, muốn ra sao thì ra, cứ sống “tự nhiên cái đã”. Nhưng đại đa số thì tính chuyện trốn khỏi Việt Nam bằng đường biển sau khi Mỹ đã vĩnh viễn phủi tay. Một số khác thì tính chuyện tiếp tục tranh đấu chống Cộng. Ðã manh nha những sự thăm dò, móc nối nhau, tìm ngõ ngách trong hai lãnh vực chính yếu: thứ nhất vượt biên, thứ nhì chống Cộng.

Hai lãnh vực này tưởng là hoàn toàn riêng biệt, trái lại, thường xoắn vào nhau khá chặt, bởi lẽ nhiều khi tìm đường vượt biển lại dẫn đến mối chống Cộng, tìm đường chống Cộng lại dẫn tới mối vượt biên. Bất cứ ai chọn dấn thân vào một trong hai lãnh vực này đều bị lôi cuốn vào cái vòng luẩn quẩn lưỡng nguyên bi hài kịch đó. Bác Sĩ Quát không ngờ sẽ rơi vào chính cảnh huống ấy. Trong thâm tâm, ông không muốn bỏ chạy: ông vốn nặng tình quê hương. Nhưng gia đình ông 14 người, mặc nhiên là một áp lực tinh thần, thầm lặng đấy, nhưng đáng kể, buộc ông không thể không nghĩ đến sự an toàn cho vợ, con, dâu, rể và các cháu nội ngoại, nghĩa là phải nghĩ đến chuyện vượt biên. Ngoài tình quê hương ông cũng nặng tình gia đình không kém.

Thực ra, khoảng một tuần trước ngày 30 Tháng Tư 1975 lịch sử, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã ra lệnh cho ông Ðại sứ của mình ở Saigon nhân danh chính phủ mời Bác Sĩ Quát qua Ðài Bắc trú ngụ nếu như phía Mỹ chưa lo liệu cho bác sĩ. Lúc đó Bác Sĩ Quát chưa quyết tâm ra đi nên chỉ cảm ơn và nói sẽ liên lạc sau. Về phía Mỹ, khi hay tin Bác Sĩ Quát còn ở Saigon, ngày 28 Tháng Tư 1975 đã liên lạc với ông, hứa đưa hai ông bà qua Mỹ. Bác Sĩ Quát trả lời không thể nhận sự giúp đỡ quý hóa ấy nếu tất cả gia đình ông gồm 14 người không được cùng đi. Phía Mỹ ngần ngại, nhưng rồi cũng thuận ý muốn của Bác Sĩ Quát và cho ông một điểm hẹn. Ðiểm hẹn này sau bị lộ. Thêm nữa ngày 29 Tháng Tư 1975, tình hình căng thẳng tột độ, chính phủ Dương Văn Minh ra tối hậu thư buộc Mỹ phải triệt thoái toàn bộ nhân viên D.A.O. tức bộ phận tùy viên Quốc Phòng của Mỹ trong thời hạn 24 tiếng đồng hồ. Liên lạc giữa phía Mỹ và Bác Sĩ Quát bị tắc nghẽn. Chuyến trực thăng cuối cùng chở người Việt tị nạn không có Bác Sĩ Quát và gia đình.

Như đã nói, ông nặng tình gia đình, không muốn gia đình bị khổ trong vòng kìm kẹp của Cộng Sản và muốn gia đình sống một nơi an toàn. Ðồng thời ông cũng không muốn làm “kẻ bỏ chạy” vì ông cũng rất nặng tình quê hương, đất nước. Ông muốn, nếu đi thì cả nhà cùng đi. Nếu ở lại thì cả nhà cùng ở lại. Nhưng sau hai lần lỡ dịp di tản gia đình, Bác Sĩ Quát ý thức rất rõ hai mối tình song hành kia, tình gia đình và tình quê hương, đất nước, khó mà dung được với nhau và chỉ có thể chọn một. Và ông đã chọn.

Ông bằng lòng cho con trai út Phan Huy Anh đi thăm dò đường lối. Do một người bạn của Huy Anh giới thiệu, Bác Sĩ Quát thuận gặp một người tên Nguyễn Ngọc Liên. Liên tự xưng là một thành viên quan trọng của một tổ chức chống Cộng nhận nhiệm vụ bắt liên lạc với Bác Sĩ Quát, mời ông gia nhập tổ chức và nơi tổ chức có thể giúp gia đình ông vượt biên. Bác Sĩ Quát đồng ý về đề nghị thứ hai của Liên. Còn về đề nghị gia nhập tổ chức, ông nói sẽ có quyết định sau khi gặp người đại diện có thẩm quyền của tổ chức. Ðôi bên đồng thuận. Gia đình Bác Sĩ Quát gồm bà Quát, các con, cháu hơn mười người được dẫn đi trước xuống Cần Thơ, ở lại đó hai ngày. Hôm sau lên xe đi tiếp, dọc đường bị chận lại, đưa về khám Cần Thơ. Cả nhà biết là đã bị mắc lừa. Một tuần sau bị giải về trại giam Chí Hòa, Saigon. Bà Quát, tuy tuổi đã cao và mắc bệnh đau tim, vẫn bị biệt giam, điều kiện sinh hoạt rất khắc nghiệt. Do con, cháu bà năn nỉ mãi, Việt Cộng cho phép một cháu ngoại gái của bà mới 12 tuổi qua ở biệt giam để chăm sóc bà. Ðược mấy tháng, vì tình trạng sức khỏe ngày càng xấu đi, bà Quát được đưa ra ở phòng tập thể với các con cháu. Ðược hơn một năm, có lẽ vì xét thấy gia đình bà Quát đại đa số là giới nữ và khai thác cũng không thêm được gì, Việt Cộng bèn thả hết. Riêng người con rể còn bị giữ lại, đưa đi trại cải tạo Hàm Tân, gần mười năm sau mới được thả.

Về phần Bác Sĩ Quát và con trai út của ông là Huy Anh thì được tên Liên đưa đi tạm trú tại một căn nhà kín đáo ở Chợ Lớn. Hai ngày sau, theo kế hoạch, tên Liên đưa Bác Sĩ Quát và Huy Anh ra khỏi Saigon. Khi xe ô-tô tới một điểm hẹn vắng vẻ thuộc tỉnh Biên Hòa thì đã có một xe ô-tô khác đậu bên đường, nắp ca pô mở sẵn theo mật hiệu đã quy định. Xe chở Bác Sĩ Quát và Huy Anh dừng lại. Một toán người đi tới, vây quanh xe, rút súng hăm dọa. Bác Sĩ Quát biết mình bị lừa. Ông và Huy Anh được giải về Bộ Tư lệnh Cảnh Sát, đường Võ Tánh, Saigon. Hôm đó là ngày 16 Tháng Tám 1975, khởi đầu cuộc thử thách chót trong đời vị cựu Thủ tướng. Một cuộc thử thách không giống bất cứ một thử thách nào ông đã đương đầu trước kia. Một cuộc thử thách mà chủ đích của Việt Cộng nhằm hạ nhục con người chỉ chấm dứt sau khi vị cựu Thủ tướng đã vận tất cả năng lượng vật chất và tinh thần ném hết vào cuộc đấu tranh cuối cùng của ông, lần này mới thực là mặt đối mặt với quân thù với không biết bao nhiêu căng thẳng, gay go về nhiều mặt. Cuộc đấu tranh riêng lẻ mà ông chưa từng có một ý niệm và không bao giờ ngờ có ngày phải tiến hành trong đơn độc, đã kết thúc vào trưa ngày 27 Tháng Tư 1979, đúng ba hôm trước ngày Kỷ niệm Saigon thất thủ.

Cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát đã vĩnh viễn nằm xuống sau ba năm, tám tháng đấu tranh không nhượng bộ trong gọng kìm Việt Cộng.

Ngày 30 Tết, năm Mậu Ngọ (dương lịch: 1978)

Gần một tháng trước Tết Mậu Ngọ tôi bị chuyển về phòng 1, gác 1, khu BC. Ba phòng 2, 3, 4 bỏ trống. Chỉ riêng phòng 1 có “khách hàng”. Bác Sĩ Quát và tôi gặp lại nhau ở đó. Trong mấy ngày Tết, kỷ luật nới lỏng, mọi người được đi lại thăm bạn bè ở các phòng khác, gác khác trong cùng một khu. Bác Sĩ Quát và tôi không ra khỏi gác 1. Chúng tôi thường đi bộ dọc hành lang trống vắng vẻ, Bác Sĩ Quát bắt nhịp đi theo tiếng chống nạng của tôi lúc đó chân bị tê liệt. Mấy ngày Tết quả là một dịp hiếm có để có thể nói với nhau nhiều chuyện, khỏi sợ bị để ý hay soi mói quá đáng. “Ăng ten” cũng phải ăn Tết chứ! Bác Sĩ Quát đã tóm lược cho tôi nghe cuộc “phiêu lưu” của ông và gia đình. Tôi có hỏi ông về thời gian ông giữ tại Bộ Tư lệnh Cảnh sát, đường Võ Tánh. Ông kể:

“Chúng bắt tôi viết bản tự khai tất cả những gì tôi làm khi tôi giữ chức Thủ tướng. Bản viết của tôi không dài quá một trang tôi viết vắn tắt là trong thời gian tôi ở cương vị Thủ tướng, tôi lãnh đạo việc nước, tôi chỉ đạo cuộc chiến chống Cộng. Tất cả mọi cấp, từ cấp thấp nhất, đến cao nhất gần gũi với Thủ tướng ở mọi ngành quân, dân, chính đều làm việc theo chỉ thị và mệnh lệnh của tôi. Một mình tôi trách nhiệm. Chúng không bằng lòng, bắt tôi viết lại. Tôi viết y như trước. Cù cưa như vậy đến hơn một tháng, gần hai tháng. Chúng bèn chuyển sang thẩm vấn. Hỏi câu nào tôi trả lới vắn tắt: Tôi trách nhiệm. Chúng đủ trò áp lực như anh biết đấy. Sau đó, để bớt căng thẳng, tôi nhận viết. Vả lại, thú thực lúc đó nhịp tim đập của tôi loạn xạ đã nhiều ngày, và tôi không có thuốc trợ tim. Tôi cảm thấy chóng mệt. Tôi cứ từ từ viết được hơn 70 trang, trong đó tôi nêu một số nhận định về thời cuộc, đưa ra một số đề nghị kiến thiết quốc gia. Trên trang nhất, tôi đề tên người nhận văn bản của tôi là Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Chúng bắt tôi xóa, chỉ được viết là bản tự khai. Tôi không chịu. Sau cùng chúng cũng nhận tập viết của tôi.”

Tôi hỏi Bác Sĩ Quát: “Anh có tin là chúng chuyển tập viết của anh tới Nguyễn Hữu Thọ không? – Tôi ngờ lắm. Ông đáp. Nhưng không sao. Tôi mượn cớ đề tên Nguyễn Hữu Thọ để ngầm bảo chúng rằng tôi không biết tới Hà Nội trong khi tất cả chúng ta đều rõ là Nguyễn Hữu Thọ và Mặt trận Giải phóng Miền Nam chỉ là công cụ của Hà Nội và Hà Nội thừa biết điều đó hơn ai hết.”

Tôi bật cười, Bác Sĩ Quát cũng cười theo. Chúng tôi hiểu nhau. Trong buồng có một vài bạn tù đứng đắn, chúng tôi có thể nói chuyện thẳng thắn, cởi mở, không nghi ngại. Tôi nhớ một lần, vẫn trong dịp Tết Mậu Ngọ, chúng tôi năm người đứng nói chuyện gần ở một góc hành lang, câu chuyện loanh quanh thế nào mà dẫn đến việc một bạn tù hỏi Bác Sĩ Quát về một vài cộng sự viên thân cận nhất của ông mà ông thật tâm tác thành cho: “Có thật hay không, tiếng đồn có người đá ngầm anh khi có dấu hiệu anh trên đà xuống dốc?” Bác Sĩ Quát mỉm cười, trả lời, giọng bình thản: “Tôi đã có nhiều dịp gần cụ Trần Trọng Kim khi sinh thời cụ. Tôi nhớ mãi một lời cụ dậy: sống ở đời phải cho nó chững. Tôi thường kể lại cho các con, cháu trong nhà nghe lời của cụ Trần, kẻo uổng.” Câu nói của Bác Sĩ Quát không trả lời thẳng vào câu hỏi của anh bạn. Nhưng có vẻ như mấy bạn biết thưởng thức câu trả lời đó vì họ cười ha hả.

Sau Tết, chúng tôi bị chuyển sang phòng 5, gác 1, khu ED. Ðược vài hôm, phòng nhận thêm một tù nhân từ biệt giam qua. Người này, khi nhận thấy Bác Sĩ Quát thì tỏ vẻ lúng túng, ngượng ngập. Có chi lạ đâu? Hắn là Nguyễn Ngọc Liên, người mời chèo Bác Sĩ Quát vào khu để rồi rơi vào bẫy sập ở Biên Hòa. Trong phòng ngoài Bác Sĩ Quát và tôi, không một ai khác biết mối liên hệ giữa Bác Sĩ Quát và hắn. Bác Sĩ Quát cư xử rất tự nhiên, không tỏ vẻ gì khó chịu bực tức, nóng nẩy. Riêng tôi cũng không để lộ cho tên Liên rõ là tôi biết chuyện của hắn. Cuộc sống ở Chí Hòa đơn điệu, buồn tẻ, ngột ngạt.

Ngày này sang ngày khác, mọi người như chết đi trên 2/3 manh chiếu của mình. Không bao giờ tôi nghe thấy Bác Sĩ Quát thốt lên dù chỉ nửa lời than van về số phận của mình hay của gia đình về sự mất mát tài sản mà Việt Cộng đã tịch thu toàn bộ chỉ để lại cho ông hai bàn tay trắng. Ông sống lặng lẽ, trầm ngâm, kín đáo. Nhiều lần, cán bộ Việt cộng cố ý công khai làm nhục ông trước mặt mọi người. Ông giữ im lặng, cái im lặng kẻ cả. Không ai nhận thấy ở ông một vẻ gì kiêu kỳ, của một người đã từng giữ những chức vụ cao sang trong chính quyền cũ.

Ông biết hòa mình một cách đúng mức. Với anh em cùng cảnh ngộ và cái đúng mức không gượng ép ấy tự nhiên bảo vệ tư thế riêng của ông bằng một khoảng cách mà chẳng ai dám nghĩ muốn vượt qua. Ngay đối với tên Liên mà nhiều yếu tố trong vụ Biên Hòa đủ để được xứng đáng nhãn hiệu “tên phản bội, tên lừa bịp”, ông vẫn giữ được cách lịch sự bao dung buộc kẻ kia tự mình phải có thái độ ăn năn, kính cẩn đối với ông. Thế nên tôi rất hiểu tâm địa ông khi ông thều thào: “Thôi! Bỏ đi!” để trả lời câu hỏi dồn ông về tên Liên bên chiếu bệnh. Ông biết vì ông mà vợ, con, cháu ông đang dũng cảm chịu khổ, chịu nhục, chịu thiếu thốn ở khu phụ nữ. Ông biết một cháu nội gái của ông, con gái đầu lòng của Huy Anh, mới ba tháng đã “được” Việt cộng bỏ tù vì bố mẹ và đang thiếu sữa.

Ông biết chừng nào Việt Cộng chưa bẻ gãy được ý chí đối kháng thầm lặng của ông thì gia đình ông, đa số là phụ nữ và con nít vần là những con tin hữu hiệu trong tay Việt Cộng dùng làm lợi khí đe dọa, đầy đọa tinh thần ông, nghiền nát những gì là nhân tính trong ông, buộc ông phải thốt lên một lời quỵ lụy quy hàng, Nhưng ông đã đứng được đầu gió.
Vì ông đã cứng.

***

Tôi thường nghĩ, trong suốt cuộc đời tham chính, thành tựu của Bác Sĩ Phan Huy Quát có ý nghĩa lớn lao nhất, có ích cho quốc dân nhất, do đó quan trọng vào bậc nhất vì trực tiếp liên quan sâu sắc nhất đến tiền đồ tổ quốc, là ông đã giành được chủ quyền cho ngành giáo dục Việt Nam, khi ông được Cựu Quốc Trưởng Bảo Ðại phong ông làm Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục trong chính phủ đầu tiên của Quốc gia Việt Nam mới được Pháp thừa nhận nền độc lập. Do lòng trí kiên nhẫn, thái độ khéo léo, mềm dẻo nhưng không thiếu cương quyết trong thương thảo rất khó khăn, nhiều khi đến độ rất căng thẳng với phái đoàn Pháp mà một số thành viên lại là thầy học cũ của ông ở Ðại học Y khoa Hà Nội. Ông đã thuyết phục được phía Pháp trao trả Việt Nam trọn quyền của ngành giáo dục. Ông đã đặt nền móng vững chắc cho việc dùng Việt ngữ là ngôn ngữ chính trong mọi giáo trình, mở đầu kỷ nguyên cải cách giáo dục toàn diện từ tiểu học, qua trung học, lên tới đại học và trên đại học mang tính chất hoàn toàn quốc gia mà dấu ấn căn bản và nguyên tắc đó không một ai, sau ông, có thể thay đổi được. Pháp ngữ đã lui xuống thứ hạng như bất cứ sinh ngữ nào khác được giảng dậy trong mọi cấp học trình. Thành quả tranh đấu gay go trong thầm lặng nhưng thật rực rỡ của ông với Phái đoàn Pháp và công cuộc tiến hành cải cách giáo dục của ông đã được báo chí thời đó xưng tụng và mệnh danh một cách rất xứng đáng là “Kế hoạch giáo dục Phan Huy Quát.” Tên tuổi ông đã gắn liền với tương lai của biết bao thế hệ nam, nữ, thanh, thiếu niên trong lãnh vực giáo dục nó là chìa khóa của tiến bộ văn minh và phát triển văn hóa cho đất nước, cho dân tộc.

Thành công nào có thể đẹp hơn, lâu bền hơn thành công của ông trong sự nghiệp giáo dục đào tạo con người?

***

Một phòng lẻ loi dành cho lính gác ở ngoài vòng rào trại giam Chí Hòa đã được quét dọn khá tươm tất. Giữa phòng, một tấm ván gỗ khổ hẹp đặt trên đôi mẻ. Trên tấm ván một hình người nằm ngửa, chân duỗi thẳng, hằn rõ dưới tấm mền mỏng phủ kín từ đầu xuống chân.
Thi thể Bác Sĩ Phan Huy Quát, cựu Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa nằm đó, cô đơn, lạnh lẽo giữa một buổi trưa hè nắng gắt, oi nồng. Cùng với tấm ván và đôi mẻ, thi thể ông là tĩnh vật trang trí độc nhất của căn phòng lính gác quạnh hiu. Chung quanh không một bóng người. Cái tĩch mịch của căn phòng như muốn thét lên mà bị nghẹn.

Tang gia được chính quyền Việt Cộng hứa cho phép quàn thi hài Bác Sĩ Quát tại chùa Xá Lợi. Ðến phút chót Việt Cộng bội hứa như chúng vẫn có thói quen đó đã trở thành quán tính. Chúng buộc tang gia phải chôn cất ngay ngày hôm sau tức là ngày 28 Tháng Tư 1979. Tìm hiểu ra mới biết ngày 28 là ngày ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc tới Saigon: cho đem thi hài Bác Sĩ Quát về quàn tại Chùa Xá Lợi có thể gây ra nhiều phiền phức, rối ren không lường được. Quái thật! Một chế độ luôn luôn tự vỗ ngực lớn tiếng huênh hoang ta đây “Anh hùng nhất mực” và “ra ngõ là gặp anh hùng” lại sợ đủ thứ!
Sợ từ đứa bé sơ sinh sợ đi nên phải bắt nó vào tù với mẹ nó cho chắc!

Sợ từ cái xác chết sợ đi, nên bắt chôn ngay sợ xác chết “thần giao cách cảm” với Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc thì rầy rà to. Ðám tang bị hối thúc rồi cũng chu toàn nhờ sự tận tình giúp đỡ của thân bằng, quyến thuộc.
Sau tang lễ đơn sơ, còn sót lại là nghi vấn về cái chết của vị Cựu Thủ tướng. Hồ sơ bệnh lý do Việt cộng chính thức đưa ra là “nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não cùng viêm gan siêu vi trùng”.
Hồ sơ vẫn nguyên vẹn là một nghi vấn.

***

Nếu tôi biết hát, tôi sẽ cất giọng ca vừa đủ nghe tù khúc:

“Anh nằm đây,
Bạn bè anh cũng nằm đây…”

Gọi là một chút để ấm lòng người đã khuất.

Nguyễn Tú

Ký giả Nguyễn Tú, nguyên đặc phái viên chiến trường Nhật báo Chính Luận tại Việt Nam trước 1975, cũng như của nhiều báo ngoại quốc, đã bị giam hơn mười năm trong lao tù Cộng Sản. Ông vượt biên tới Hong Kong năm 1990 và sau đó tới Hoa Kỳ. Hiện ông cư ngụ tại vùng Hoa Thịnh Ðốn.

Ta sẽ không tàn phá

Ta sẽ không tàn phá

Đăng bởi lúc 12:30 Sáng 30/07/13

VRNs (30.07.2013) – St 18, 30 – 32

Abraham thưa:

“Lạy Chúa, xin đừng nổi giận,

con chỉ xin thưa lần này nữa thôi:

Nếu tìm được mười người công chính ở đó thì sao?”

Chúa phán:

“Vì mười người đó, Ta sẽ không tàn phá”.

Abraham đã không thưa lần nào nữa

và Sodoma đã bị tàn phá.

Nhưng cả nhân loại này tội lỗi,

cả bản thân con cũng tội lỗi

chẳng cần có Abraham nào thưa gởi cho con,

chẳng tìm được mười người nào công chính cứu con

Chúa vẫn không tàn phá.

Vì đã có một người,

còn hơn cả sự công chính nữa

đã chết và sống lại vì con.

Con gọi là Chúa Cứu Thế.

Lm. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, dcct.

Chúa nhật 17 TN. C.

HẠNH PHÚC KHÔNG TRỌN ĐẦY

HẠNH PHÚC KHÔNG TRỌN ĐẦY

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Ở đời, ai cũng mong đi tìm và sống hạnh phúc. Khi tìm thấy và sống hạnh phúc rồi thì ai cũng mong cho mình được hạnh phúc tròn đầy. Mong vẫn là mong và trong ước mong có người đạt được nhưng có người vẫn chơi vơi khi hạnh phúc chưa trọn vẹn.

Bén duyên, tôi biết hai anh em nhà nọ từ gần hai chục năm nay ở Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Biết họ bởi lẽ cứ đến giờ hành hương kính Đức Mẹ thì hai anh em đã có đó trước tôi. Thời gian trôi cứ vẫn trôi, hai anh em vẫn ngày mỗi ngày đến với Mẹ và đặc biệt không bỏ ngày thứ Bảy kính Mẹ bao giờ cả.

Trước khi biết là anh em tôi cứ nghĩ là cặp đôi đạo đức nhưng khi hỏi ra mới biết họ là hai anh em ruột chứ không phải là vợ chồng như tôi nghĩ. Tôi vội vàng xin lỗi họ bởi sự nhầm lẫn và kém cõi của tôi.

Lễ xong, hai anh em cứ quấn quýt bên hang đá Mẹ ở góc nhà thờ. Từ khi Mẹ Sầu Bi được đặt ở phòng hài cốt thì hai anh em lại tiến sâu vào trong để cầu nguyện với Mẹ, cầu nguyện cho các linh hồn.

Bén duyên thêm tí nữa tôi biết gia cảnh của hai anh em.

Giọng trầm buồn của người anh trải lòng về gia đình.

Hai anh em đều mất cả cha lẫn mẹ. Giờ thì hai anh em sống đùm bọc nhau.

“Cha biết không ? Ba con ngày xưa đi học tập … ở trong trại đói khổ và bệnh tật … sau đó người ta đưa ba con về. Về nhà không được bao lâu thì ba con mất vì di chứng của bệnh tật ở trong trại cải tạo. Khi ba con đi học tập về, nhà con nghèo kinh khủng. Con không muốn nhớ lại những ngày đó vì quá khổ. Sau đó, bác con cho con mượn tiền và mua nhà. Lúc đó con mua được căn nhà mặt tiền ở quận I. Sau 3 tháng, con bán lại và được phần lãi rất cao. Con gửi lại phần vốn cho bác và phần lãi đó có thể giúp cho gia đình con sống ổn định cho đến ngày hôm nay. Gia đình con vừa ổn định một chút thì Mẹ con bị ung thư máu và cũng mất luôn. Hai anh em con buồn lắm. Nỗi buồn cứ day dứt mãi cho đến ngày hôm nay, nhất là mỗi khi đêm về, hai anh em chúng con nhớ ba mẹ lắm. Đến giờ ba con mất hai chục năm, mẹ con hơn mười năm nhưng vẫn còn buồn. Nỗi buồn cứ day dứt mãi với anh em chúng con cho đến ngày hôm nay vẫn chưa hết …

Giờ hai anh em chúng con dù có cuộc sống ổn định nhưng vẫn nhớ ba mẹ lắm. Phận mồ côi mà cha. Giờ thì đời sống kinh tế ổn định nên hai anh em chúng con ngày nào cũng đi nhà thờ. Tạ ơn Chúa đã cho anh em chúng con được như vậy …

Nhiều người nói cha mẹ mất sớm như vậy thì con cái cũng sẽ như thế … sẽ chết sớm như cha mẹ …”

Nghe xong tâm tình này, tôi nói ngay với anh rằng sống chết tất cả đều nằm trong sự quan phòng của Chúa chứ chẳng ai có thể cũng như định được ngày sống của mình cả. Tất cả chỉ có Chúa biết mà thôi nên đừng bận tâm lo lắng làm chi.

Trong tâm sự của mình, anh không ngớt lời tạ ơn Chúa bởi vì nhờ ơn Chúa hai anh em của anh mới có được như ngày hôm nay. Và, cứ mãi day dứt nhớ đến ba mẹ của họ dù ba mẹ của họ khuất cũng đã khá lâu.

Nghe anh chia sẻ, tôi cũng chung chia với anh :

“Anh biết không, mình cũng thế ! May mắn cũng không đến với mình trọn vẹn. Khi gia đình tương đối ổn định thì Mẹ mất. Mẹ mình mất cách đây gần hai mươi năm cũng vì chứng bệnh ung thư. Giờ đây, mỗi khi nhớ đến thì không dám nhớ lâu bởi lẽ nhớ đến Mẹ là hai hàng nước mắt nó cứ trào ra. Bây giờ có chiếc xe tay ga để đi tới đi lui lại càng nhớ Mẹ. Ngày xưa chở Mẹ đi khám bệnh bằng con dame cà tàng. Giờ có xe ga nhưng không còn Mẹ để chở …”

Còn nhiều điều muốn chia sẻ thêm với anh nhưng đợi lần sau.

Cuộc trao đổi kết thúc, hình ảnh hai anh em mồ côi vẫn còn đâu đó bên tôi.

Cũng chẳng dám nói là tội nghiệp họ nhưng thấy cuộc sống hiện tại của hai anh em có cái gì đó. Tình yêu, nỗi nhớ da diết về đấng sinh thành của hai anh em đã làm cho hai anh em cứ hụt hẫng, cứ chênh vênh. Xét về đời sống vật chất, cơm áo gạo tiền thì hai anh em không phải bận tâm như nhiều người khác nhưng về tình yêu thương cha mẹ và một gia đình đầm ấm như bao nhiêu gia đình khác lại là mơ ước quá xa vời với hai anh em. Giờ họ có tất cả, họ đầy đủ tất cả, họ chỉ thiếu có một điều : thiếu cha thiếu mẹ.

Cha mẹ phải chăng là gia tài quý giá nhất và lớn nhất mà chẳng có gì thay thế được để rồi những ai dù giàu dù nghèo về vật chất nhưng còn cha đủ mẹ quả là hạnh phúc nhất của cuộc đời.

Cuộc đời vẫn còn đó những chênh vênh.

Những ai đang có hạnh phúc trong tay hãy nguyện xin hạnh phúc đó được mãi tròn đầy trên cuộc đời mình.

Những hai đang dở dang với hạnh phúc hãy chia sẻ, cảm thông với nhau để lấp đầy những khoảng trống trong cuộc đời đã bị mất hầu vơi đi một chút nào đó những mất mát của cuộc đời.

Anmai, CSsR

Đêm canh thức Copacabana: Một câu chuyện bi thương làm cho ba triệu con tim sững sờ.

 

Đêm canh thức Copacabana: Một câu chuyện bi thương làm cho ba triệu con tim sững sờ.


Trần Mạnh Trác

7/29/2013 vietcatholic.net

Anh Felipe Passos đã làm cho 3 triệu con tim rúng động khi anh chia sẻ câu chuyện riêng tư cuả mình trong đêm canh thức tại bãi biển Copacabana.

Anh cho biết đã phát hiện ra và chấp nhận cây thánh giá cuả mình: đó chính là chiếc xe lăn cuả anh.

Anh Felipe, một thanh niên độc thân người Brazil mới 23 tuổi, đã phát biểu tại đêm canh thức cuả Trẻ Thế Giới ngày 27 tháng bảy trước sự hiện diện cuả Đức Giáo Hoàng.

Anh kể lại đã tham dự Ngày Giới trẻ Thế giới ở Madrid vào năm 2011, và đã cam kết hai lời hứa thiêng liêng. Anh hứa sẽ sống trong sạch cho đến khi kết hôn và chăm chỉ làm việc để gây quĩ cho nhóm Ponta Grossa, một nhóm thanh niên cầu nguyện ở tiểu bang Paraná của Brazil, để có thể cùng nhau tham gia Ngày Giới trẻ Thế giới một lần nữa, tổ chức năm nay tại Rio de Janeiro.

Với nguồn tài chánh eo hẹp, Felipe và nhóm bạn bè gây vốn bằng cách làm thêm nhiều công việc nặng nhọc và cùng một lúc chuẩn bị tinh thần bằng cầu nguyện, tôn thờ Thánh Thể, ăn chay và làm việc phúc đức.

Nhưng một sự khủng khiếp đã xảy ra cho họ.

“Vào tháng Giêng năm nay, hai ngày trước khi tôi lên 23 tuổi, hai thanh niên đã đột nhập vào nhà của tôi, súng trên tay, đòi cướp số tiền mà chúng tôi đã dành dụm với rất nhiều hy sinh,” Felipe nói.

“Tôi nghĩ về những nỗ lực rất lớn cuả nhiều ngày tháng, về những hy sinh cuả những người trong gia đình, của bạn bè và đồng nghiệp. .. tất cả những cái ấy sắp bị cướp đi trong khoảng khắc và vì thế mà tôi cương quyết sẽ bảo vệ nó,” anh nói với một giọng xúc động.

Anh Felipe thành công trong việc bảo vệ số tiền tiết kiệm của nhóm, nhưng đã bị một viên đạn bắn vào, hầu như kết liễu cuộc sống của anh.

“Đối với bệnh viện thì tôi đã chết, tim ngừng đập nhiều lần, và các bác sĩ đã nói với cha mẹ tôi rằng ‘cậu bé này không có hy vọng,” nhưng tôi vẫn còn ở đây và nhóm của tôi vẫn còn đến đây được chỉ vì lòng thương xót của Chúa, ” Felipe nói.

Toàn thể bãi biển đông nghịt người hầu như bị lên cơn sốc trong một sự im lặng đến nghẹt thở, Đức Giáo Hoàng Francis nhìn anh chăm chú.

Anh Felipe tả lại cảnh tượng anh bị hôn mê, thở qua ống dưỡng khí, trong khi cộng đoàn giáo xứ của anh liên lỉ cầu nguyện và làm việc hy sinh hãm mình cho anh.

Cuối cùng…thì anh tỉnh dậy, điều đầu tiên anh xin là được rước Mình Thánh Chuá, anh hồi phục nhanh chóng.

Nhưng Felipe, đã bị bất toại phải ngồi xe lăn, anh cho biết, “đây là cây thập giá, cây thập giá Chúa gửi đến cho tôi để tôi có thể đi tới gần Ngài hơn, sống nhiều hơn trong ân sủng và tình yêu của Chuá.”

Ba triệu tiếng vổ tay nổ ra ào ạt, nhưng Felipe ngăn họ lại.

“Xin im lặng!”, anh nói. “Chúng ta hãy lắng nghe Chúa Thánh Thần!”

Người thanh niên 23 tuổi yêu cầu mọi người hãy cầm lấy thập giá mà họ đang đeo ở trên cổ lên, và nhìn vào nó.

Anh xin mọi người suy ngẫm trong im lặng với những câu hỏi: “thập giá mà Chúa đã ban cho tôi là gì? Thập giá mà Ngài muốn tôi thực hiện cho tình yêu của Ngài là gì? ”

Tất cả mọi người, kể cả Đức Giáo Hoàng đã cầm thánh giá lên…

Câu chuyện thương tâm cuả người thanh niên trẻ đã tạo ra một thời khắc không bao giờ quên được cho 3 triệu người có mặt trong đêm canh thức trên bãi biển Copacabana.

NÔNG TRẠI KOINONIA

NÔNG TRẠI KOINONIA

Br. Huynhquảng

Clarence Jordan (1912 – 1969) có hai bằng tiến sĩ, một về nông nghiệp và một về Kinh Thánh. Ông là người có nhiều tài năng và kiến thức sâu rộng, ông có thể kiếm tiền và tìm một địa vị trong xã hội một cách dễ dàng, tuy nhiên ông đã chọn phục vụ người nghèo.

Vào thập niên 1940, Clarence Jordan thành lập nông trại Koinonia tại Americus, Georgia. Trong nông trại này, nhiều nông dân da trắng lẫn da màu đều được tạo công ăn việc làm và đều được ông phục vụ như nhau. Vì ý tưởng này, dĩ nhiên vào thời điểm ấy, ông bị chống đối kịt liệt, đặc biệt từ những người cùng niềm tin tôn giáo với ông. Trong vòng 14 năm, rất nhiều người dân trong thành phố đã cố gắng ngăn chặn kế hoạch của ông, kể cả loại trừ ông và quấy rầy những người nghèo thuộc nông trại Koinonia. Cuối cùng vào năm 1954, quá mệt mõi vời Clarence Jordan, Ku Klux Klan (KKK) – một tổ chức phân biệt người gia màu và chống chính sách nhập cư tại Mỹ, đã quyết định loại bỏ ông Jordan. Vào một đêm tối, với vũ khí và đuốc, KKK đã đốt tất cả các căn nhà trong nông trại Koinonia và đuổi tất cả dân làng đi hết, chỉ trừ căn nhà của ông Clarence Jordan. Trong hoãng loạn đêm đen, ông Clarence cũng đã  nhận ra những giọng nói quen thuộc, trong đó có một số người cùng thuộc cộng đoàn tôn giáo với ông.

Sáng hôm sau, các phóng viên đến hiện trường để tìm hiểu sự việc. Họ gặp ông Clarence Jordan đang cuốc đất và trồng lại những cây cối đã bị tàn phá tối hôm qua. Các nhà báo hỏi chuyện, “Tôi nghe một thảm cảnh xảy đến với nông trại của ông, chuyện đầu đuôi ra sao?” Ông Clarence vẫn tiếp tục cuốc đất và trồng cây trong thinh lặng. Các nhà báo vẩn cố tìm cách lôi kéo ông Clarence vào cuộc với giọng dễu cợt, “Tiến sĩ Jordan, ông có hai bằng tiến sĩ và ông đã phí 14 năm trên nông trại này. Bây giờ không còn gì nữa. Ông nghĩ là ông đã thành công hay sao?” Ông Clarence ngừng lại, nhìn những nhà báo với giọng cương quyết ông đáp: “Thưa các ông, thành công như thập giá vậy! Tôi không nghĩ là các ông hiểu chúng tôi. Những gì chúng tôi đang làm tại nông trại này không phải vì thành công, nhưng là vì trung tín. Chúng tôi sẽ tiếp tục ở đây!” Từ ngày ấy trở đi, ông Clarence và những cộng sự của ông đã xây dựng lại nông trại Koinonia và nó vẫn phát triển cho đến ngày nay.[1]

* * *

“Những gì chúng tôi đang làm tại nông trại này không phải vì thành công, nhưng là vì sự trung tín.” Một lời khẳng định chắc chắn nhắm tới cho một mục đích rõ ràng: Trung tín với lý tưởng của mình. Đó có thể là thách đố cho những ai dấn thân đời mình cho lý tưởng phục vụ con người và xã hội.

Thông thường khi ta dấn thân cho một lý tưởng phục vụ, ta được thúc đẩy từ những hoàn cảnh thực tế – có thể ta là nạn nhân, hoặc có thể ta cảm nhận được lý tưởng dấn thân của ta có giá trị cho con người. Chính vì lẽ đó, thời gian đầu luôn làm cho ta phấn khởi bởi những thành quả mà ta đạt được; hay ít ra ta cũng thấy ý nghĩa của những hy sinh của ta. Nhưng theo thời gian năm tháng, những nỗ lực hay thành quả của ta – dù nó vẫn có đó, nhưng không còn mới mẽ như xưa, nên đôi khi ta cũng không nhận ra được thành quả nữa. Chỉ tiếc rằng, ta ít khi nhận ra điều này. Đáng buồn hơn, khi ta không “tạo” thêm thành quả mới thì ta dễ rơi vào suy  nghĩ tiêu cực là ta “vô dụng.”  Thực tế, căn nhà đã xây xong là một thành quả, dù sau 20 năm nó cũng là một thành quả. Không phải suy nghĩ như thế để an ủi chính mình, nhưng đó là thực tế thành quả của chính ta, của công sức của ta, của nỗ lực của ta. Căn nhà tôi xây dù có cũ đi, không có nghĩa rằng nó không phải là thành quả của tôi!

Lý tưởng phục vụ con người cũng như thế. Năm tháng và giới hạn về thể lý, hoàn cảnh của con người sẽ ảnh hưởng đến lý tưởng và sáng kiến phục vụ của mình, nhưng điều đó không có nghĩa là mình vô dụng. Điều quan trọng là sự trung tín với lý tưởng bao lâu có thể. Hoàn cảnh và thể lý có thể không cho phép ta thực hiện những hoài bão như dự tính, nhưng sự trung tín với lý tưởng đã là một nỗ lực thành công rất lớn rồi. Hơn ai hết, Mẹ Têrêsa Calcutta đã thấm thía thế nào là thành công khi xung quanh mẹ vẫn là những người bất hạnh không được chăm sóc đầy đủ. Tiếng kêu của Mẹ vẫn không được những người quyền thế và giàu sang hưởng ứng. Sự dấn thân của mẹ vẫn bị nhiều người phê bình lên án. Vâng, giữa những sự không thành công ấy, Mẹ vẫn khẳng định: “Tôi không được Chúa gọi vì sự thành công, nhưng vì sự trung tín.”[2]

Thưa bạn, khi chân bạn mõi, gối bạn chùn, mắt mờ, và trí óc tăm tối, bạn chỉ hướng đến một điểm thôi, để có thể nói rằng: Tôi được gọi không vì thành công, nhưng vì sự trung tín.

Br. Huynhquảng

Brazil: 2 triệu tín đồ canh thức cùng Giáo hoàng

Brazil: 2 triệu tín đồ canh thức cùng Giáo hoàng

Bãi biển Copacabana, nơi các khách hành hương đổ về đón Giáo hoàng Phanxicô, 26/07/2013.

Bãi biển Copacabana, nơi các khách hành hương đổ về đón Giáo hoàng Phanxicô, 26/07/2013.

REUTERS/Stefano Rellandini

Mai Vân

Đại hội Thanh niên Công Giáo bế mạc hôm nay 29/07/2013, với một thánh lễ do chính Đức Giáo hoàng Phanxicô cử hành. Theo ước tính của ông Eduardo Paes, thị trưởng thành phố Rio de Janeiro tại Brazil, thánh lễ này dự kiến có 3 triệu người tham dự. Tối hôm qua, đã có hai triệu người đã đón người đứng đầu Giáo hội Công giáo trên bãi biển Copacabana, cùng ngài thắp nến cầu nguyện.

Có mặt tại Rio de Janeiro, đặc phái viên RFI Geneviève Delarue ghi nhận :

« Kịch bản của đêm canh thức hôm qua trên bãi biển Copacabana, giản dị hơn ngày trước. Từ buổi chiều, hàng trăm ngàn thanh niên đã lũ lượt tuần hành từ trung tâm thành phố đến bãi biển, vừa đi vừa hô vang : ”Chúng ta là lớp trẻ của Giáo hoàng”.

Trên bục sân khấu to lớn, hòa lẫn với tiếng sóng biển, những lời chứng, những dòng nhạc êm dịu nối tiếp nhau trong khi chờ đợi thông điệp của Giáo hoàng gởi đến thanh niên. Một hôm trước khi Đại hội Thanh niên Công giáo bế mạc, thông điệp được dành cho vấn đề đức tin và truyền bá đức tin.

Chủ đề này của Đại hội lần thứ 28 cũng là một thách thức đối với Giáo hội Công giáo Châu Mỹ La tinh, đang hoang mang trước hiện tượng có không ít tín đồ Công giáo đi theo các Giáo hội Tin lành, như Giáo hội Truyền bá Phúc Âm chẳng hạn.

Trong buổi ăn trưa hôm qua với các Hồng y và Giám mục Brazil, Đức Giáo Hoàng đã nêu suy nghĩ của ngài về những hướng mới mà Giáo hội nên theo để nói chuyện với xã hội ngày nay.

Tối qua trên bãi Copacabana, Đức Giáo hoàng cũng nêu lại suy nghĩ của mình. Ngài kêu gọi thanh niên đi theo bước chân Đức Chúa bằng cách dấn thân trong lãnh vực xã hội, chính trị để ”thay đổi thế giới”. Ngài nói : ”Thanh niên ngoài đường phố muốn trở thành tác nhân của sự thay đổi… Xin đừng để cho người khác trở thành tác nhân thay đổi… Đừng đứng trên bao lơn nhìn xuống cuộc sống…. Giê su đã dấn thân, hãy dấn thân như Người”.

Với phong cách khiêm tốn cố hữu và một chút hóm hỉnh, ngài còn nói : ”Chúa Giê su đã ban chúng ta điều còn hay hơn cả Cúp Bóng đá Thế giới”.

Một năm trước World Cup diễn ra ở Brazil, Giáo hoàng Phanxicô vừa ghi được một bàn thắng. »

Phải nói là những lời kêu gọi của Đức Giáo hoàng có một âm hưởng đặc biệt tại Brazil, nơi thanh niên đã xuống đuờng vào tháng Sáu đòi cải thiện từ giáo dục, y tế, cho đến ngành chuyên chở công cộng. Họ cũng bày tỏ sự bực tức đối với tầng lớp chính trị và tệ nạn tham nhưng tràn lan.

Theo chương trình, Đức Giáo hoàng sẽ lên đường trở về Roma vào tối nay, kết thúc chuyến thăm Brazil.

Lời Chứng Của Ngọc Quyên, Một Người Bạn Trẻ Ngoại Đạo

Lời Chứng Của Ngọc Quyên, Một Người Bạn Trẻ Ngoại Đạo

Ngọc Quyên là người không có đạo, nhưng thứ Bảy tuần nào cũng đến nhà thờ để sinh hoạt trong phong trào Thiếu Nhì Thánh Thể. Một hôm, Ngọc Quyên được bạn bè dẫn vào tham dự khóa Canh Tân Đặc Sủng mới được tổ chức trong cộng đoàn và ơn Chúa đã thấm nhập vào từ từ trong Ngọc Quyên. Khi vào sinh hoạt và cầu nguyện, Ngọc Quyên thấy người ta làm gì thì mình cũng cứ làm theo như vậy, nhưng không ngờ Chúa không có chê Ngọc Quyên là người ngoại đạo mà Ngài đã đến đụng chạm tới trái tim của Ngọc Quyên. Có lúc, tự nhiên Ngọc Quyên đang cầu nguyện với mọi người rồi tự động òa lên khóc. Lúc đó Ngọc Quyên đâu có muốn khóc đâu, nhưng không biết tại sao mình lại khóc hoài mà không nín được. Có lẽ một phần được Chúa đụng chạm mạnh, một phần cảm nhận được tình Chúa dạt dào.

Từ ngày đó, Ngọc Quyên mới biết là Chúa tồn tại thật sự trong cuộc sống chứ không có ở đâu xa cả. Đến tối hôm thứ Bảy lúc lên được đặt tay đón nhận Chúa Thánh Thần, Ngọc Quyên nhận thấy vào đêm đó hầu như mọi người đều được nghỉ ngơi trong Chúa Thánh Thần. Cha linh hướng cũng không ngoại lệ nghĩa là cha cũng được nghỉ ngơi trong Chúa Thánh Thần, nhưng không biết tại sao lúc nhìn thấy Cha nằm trên thềm nhà và mọi người thì đứng chung quanh để cầu nguyện cho cha, thì ngay lúc đó Ngọc Quyên liền khóc và trong đầu cứ nghĩ không biết cha có bị chết không nữa. Rồi khoảng một ít phút thì cha ngồi dậy bình an, tự nhiên trong lòng Ngọc Quyên cảm thấy thật là vui. Nhìn thấy cha như thế, Ngọc Quyên muốn chạy lại ôm lấy cha, nhưng lại không dám. Càng nghĩ tới chuyện đó, Ngọc Quyên càng không hiểu được, tại vì lúc trước nhiều lần gặp cha ở nhà thờ Ngọc Quyên thấy sờ sợ và càng không dám đến nói chuyện với cha. Vậy mà không biết từ khi nào mình lại mến cha đến như vậy.

Từ sau khóa Thánh Linh, Ngọc Quyên bắt đầu đọc kinh ở nhà, tập trò chuyện với Chúa và còn rất thích đi lễ nữa. Làm như lúc trước không đi lễ cho nên bây giờ đi bù mới chịu thôi. Chúa thật là huyền diệu quá! Ngày qua ngày, Chúa đã không ngừng đụng chạm tới trái tim của Ngọc Quyên và một ngày gần đây khi cầu nguyện ở trên Cung Thánh, Chúa đã thanh tẩy tâm hồn cho Ngọc Quyên. Cảm giác đó thật là ấm áp lắm.

Cảm tạ Chúa! Tình yêu Chúa thật là bao la quá! Con mong sao có thể được rửa tội ngay lập tức, để có thể chính thức là con cái của Người.

Lạy Chúa tin tưởng nơi Ngài. Mỗi ngày con ước mong biết bao được ở trong vòng tay yêu dấu của Chúa. Con xin Chúa hãy làm cho đức tin của con mỗi ngày một lớn hơn, mãi mãi luôn yêu mến Chúa là Chúa của con mà thôi.

Ngọc Quyên – 9/2003

Đức Mẹ tiên báo Thời Cuối Cùng

Đức Mẹ tiên báo Thời Cuối Cùng

Tác giả:Trầm Thiên Thu

LOURDES POLICARPIO

Nhật là một trong những quốc gia giàu nhất thế giới, nhưng số Kitô hữu chưa được 10% dân số. Ai có thể quên được Hiroshima và Nagasaki, nơi những trái bom nguyên tử đầu tiên nổ tung? Tại một đất nước bị bom nguyên tử khủng bố, Đức Mẹ đã cảnh báo nghiêm trọng với nhân loại vào năm 1973. Điều đó còn thích hợp với ngày nay?

Tượng Đức Mẹ bằng gỗ ở Akita

Sự kiện kỳ lạ xảy ra tại Akita (Nhật) bắt đầu bức tượng Đức Mẹ bằng gỗ được phát hiện tại Dòng Nữ tỳ Thánh Thể (Institute of the Handmaids of the Eucharist). Máu rỉ ra từ tay phải của bức tượng và máu rỉ ra từ tay trái của nữ tu Agnes Sasagawa (người Nhật). Bức tượng toát mồ hôi nhiều và chảy nước mắt. Phòng thí nghiệm tại Đại học Akita xét nghiệm nước chảy ra từ đôi mắt của tượng Đức Mẹ và chứng thực đó là nước mắt thật của người. Khoảng 500 người đã chứng kiến tượng Đức Mẹ khóc, người ta còn quay phim được những chỗ Đức Mẹ khóc, vài lần được chiếu trên ti-vi và phát thanh khắp nước Nhật.

Nhiều cuộc nói chuyện và chữa khỏi bệnh đã được công nhận là của Đức Mẹ Akita. Một phụ nữ Hàn quốc là Teresa Chun đã hồi phục cách kỳ lạ khỏi chứng u não sau khi cầu nguyện với Đức Mẹ Akita. Việc này đã được lưu tài liệu tại Bệnh viện St. Paul ở Seoul và được các giám mục Hàn quốc gởi về Rôma.

Sự trừng phạt ghê gớm hơn Đại Hồng Thủy

Quan trọng hơn những sự lạ siêu nhiên là những điều Đức Mẹ Akita nhắn nhủ qua nữ tu Agnes. Đức Mẹ cảnh báo: “Nếu nhân loại không ăn năn sám hối và sống tốt hơn thì Chúa Cha sẽ giáng hình phạt khủng khiếp hơn Đại Hồng Thủy thời ông Noe mà không hề báo trước nữa”.

Một số người có thể không tin vào tính nghiêm trọng trong sứ điệp của Đức Mẹ Akita. Tuy nhiên, những người theo sát các sứ điệp của Đức Mẹ thì nhận ra ngay rằng trong sứ điệp của Đức Mẹ Akita cũng lặp lại lời cảnh báo đã được nhắc nhở tại Fatima và Amsterdam. Tại Fatima, lời cảnh báo tập trung vào những điều ác của cộng sản vô thần do nước Nga truyền bá. Tại Amsterdam (Hà Lan), Đức Mẹ các Quốc gia (the Lady of all Nations) đã cảnh báo về sự thoái hóa của các quốc gia. Còn Đức Mẹ Akita nhấn mạnh đến “công việc của ma quỷ sẽ xâm nhập Giáo hội”. Trong khi các sứ điệp của 3 lần hiện ra khác nhau về điều được nhấn mạnh, chủ đề chung xuyên suốt vẫn là “nhân loại tội lỗi quá mức và đáng chịu sự trừng phạt nặng nề của Thiên Chúa”.

Đã tròn 40 năm Đức Mẹ hiện ra ở Akita, nhưng có vài vấn đề vẫn được thắc mắc. Có nhiều thiên tai và chiến tranh đã xảy ra từ thập niên 1970, không có thế chiến và không có thiên tai thế giới như Đại Hồng Thủy thời ông Noe. Vậy là lời đe dạo trừng phạt đã qua? Các lời cảnh báo đã được cất vào văn khố lưu trữ? Hay là chúng ta được cho thêm thời gian để ăn năn?

Tạp hôn

Nói rằng không có lời đe dọa trừng phạt của Thiên Chúa là tin rằng nhân loại trở nnê tốt hơn qua thời gian. Tuy nhiên, hãy cân nhắc… Năm 1997, Viện Gallup đã thăm dò ý kiến tại 16 quốc gia với câu hỏi này: “Bạn có nghĩ rằng chỉ là bình thường khi hai người có con mà không kết hôn?”. Tại 12 nước, người ta trả lời rằng “đó là bình thường”. Trong đó có những nước Mexico, Tây Ban Nha và Pháp, những nước có số người Công giáo chiếm đa số!

Trung tâm ủng hộ phá thai là Trung tâm Luật sản sinh (Center for Reproductive Law and Policy) ở New York cho biết rằng hiện nay có 54 quốc gia không cho phép phá thai – các nước này chiếm 61% dân số thế giới. Trong danh sách các nước cho phép phá thai có Pháp, Anh, Ý, Nga, Hoa Kỳ, và Trung quốc – các siêu cường quốc trong thế giới ngày nay!

Viện Alan Guttmacher (AGI – Alan Guttmacher Institute) có dữ liệu phá thai ở Hoa Kỳ, từ năm 1973 tới 2000, đã có hơn 40 triệu vụ phá thai tại Hoa Kỳ. Mỗi năm tại Hoa Kỳ ước tính có 1,5 triệu vụ phá thai. AGI lưu ý rằng những trường hợp tử vong do phá thai chỉ trong 1 năm ở Hoa Kỳ cũng nhiều hơn số tử vong do chiến tranh trong nhiều năm gộp lại, kể cả thế chiến I và II.

Ngày nay, theo số liệu ngày 16-11-2003, số vụ phá thai hàng tháng là 1.229 triệu vụ. Các nước có tỷ lệ phá thai cao phải kể tới Nga và Trung quốc.

Phá thai ở nước Nga

Những người lạc quan sẽ cho rằng thế giới ngày nay tốt hơn vì chủ nghĩa cộng sản vô thần đã sụp đổ tại Đông Âu. Nhờ cộng sản sụp đổ mà nước Nga đã có thế hệ luân lý hơn.

Nếu chúng ta phê phán qua tin tức, nhất là về vấn đề phá thai, Nga vẫn xa rời những lời tiên báo của Đức Mẹ Fatima, không biết qua đối thoại chúng ta có ý nói một thế hệ luân lý hoặc quan trọng đối với Thiên Chúa hay không. Tỷ lệ phá thai ở Nga cao hơn rất nhiều (cao hơn ở Hoa Kỳ) dù mới đây đã giảm. Tại Nga, từ 4,6 triệu vụ phá thai hồi năm 1988, tổng số giảm còn 1,78 triệu vụ hồi năm 2002.

Ngày 28-8-2003, báo Christian Science Monitor nói rằng thống kê chính thức ở Nga cho biết rằng cứ 3 trường hợp sinh thì có 2 trường hợp phá thai. Khi tỷ lệ phá thai giảm 23% so với những năm từ 1993 tới 1997, điều này không vì lý do luân lý. Khi Liên Xô sụp đổ, lại có các dạng khác về hạn chế sinh sản. Bác sĩ phụ khoa Lyudmila Timofeyeva nói: “Nguyên nhân chính khiến giảm tỷ lệ phá thai trong những năm qua là các phụ nữ trẻ khéo léo hơn về cách dùng các biện pháp tránh thai và kế hoạch hóa gia đình”.

Ma quỷ xâm nhập Giáo hội

Cẩn thận đọc sứ điệp của Đức Mẹ Akita, chúng ta có thể thấy mối quan tâm của Đức Mẹ về Giáo hội: “Công việc của ma quỷ sẽ xâm nhập Giáo hội”. Vài năm trước, luận điệu lạm dụng tình dục của các giáo sĩ Hoa Kỳ đã gây chấn động. Điều làm người Mỹ bị sốc không chỉ là sự giống nhau trong các vụ ấu dâm của các linh mục mà còn là kiểu “văn hóa bí mật” (culture of secrecy) mà các viên chức Giáo hội đã vận dụng các trường hợp khác nhau (Báo Time, số ra ngày 1-4-2002). Lạm dụng tình dục thiếu niên là sai lầm luân lý (moral aberration) và được xử lý bằng cách xưng tội, đó cũng là trọng tội và có thể trừng phạt bằng luật pháp.

Tại Philippines, việc bỏ tù các linh mục có thể là lời nguyền rủa đối với dân chúng. Còn ở Hoa Kỳ, người ta thấy rằng từ năm 1950, có 1.341 linh mục đã bị kết tội lạm dụng tình dục – một con số quá lớn so với ước tính trước đây. Con số này chỉ được tính theo các vụ kiện có liên quan, chưa cho thấy những người không bị phát hiện, và có thể còn có các dạng khác liên quan tình dục mà không ai biết.

Với Giaxinta, một trong ba trẻ được Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Đức Mẹ cho biết: “Nhiều linh hồn sa hỏa ngục vì phạm tội về xác thịt nhiều hơn vì các tội khác”.

Trưởng thành Kitô giáo

Do đó, tranh luận rằng sứ điệp của Đức Mẹ Akita là không thích hợp vài nhân loại đã biến đổi thì cũng giống như nhìn vào thế giới qua lăng kính màu hồng. Người ta phải bật ti-vi lên để tìm mức độ bi quan về giới tính đã nhấn chìm thế giới.

Mặt khác, cũng cần đáp lại sứ điệp của Đức Mẹ Akita bằng sự trưởng thành Kitô giáo. Phần khác trong sứ điệp của Đức Mẹ là kêu gọi cầu nguyện, ăn năn và đền tội. Điều sai lầm là chỉ tò mò và tuyên truyền ầm ĩ nhưng chính mình vẫn dửng dưng với lời kêu gọi của Đức Mẹ về việc cầu nguyện và sám hối.

Cách đáp lại của chúng ta phải tràn đầy đức tin. U sầu và thất vọng ư? KHÔNG! Ma quỷ trong thế giới ngày nay chắc chắn đang tràn ngập nhưng cũng có những tia hy vọng. Tòa Thánh cho biết rằng từ 1978 tới 2001, số linh mục trên thế giới giảm 4%. Tuy nhiên, để bù vào số linh mục thiếu hụt, chúng ta đang chứng kiến có sự góp phần của các giáo dân trong Giáo hội. Thật vậy, sự anh hùng thầm lặng của đa số các linh mục và tu sĩ lại không được nhắc tới. Đó là vấn đề của truyền thông.

Ngay tại Nga, người ta hy vọng rằng sự giết hàng loạt nhữn người vô tội sẽ phải chấm dứt vào một ngày nào đó, hoặc ít ra cũng là giảm bớt. Tháng 9-2003, Nga đã ban hành luật hạn chế sinh sản lần đầu tiên trong vòng 50 năm. Luật mới này giới hạn các trường hợp phụ nữ có thể phá thai từ 12-22 tuần tuổi. Nhưng không may là luật mới này không được ban hành vì lý do luân lý mà về vấn đề sức khỏe của thai phụ. Thống kê cho thấy có 30% số thai phụ tử vong tại Nga và dân số giảm khiến Tổng thống Vladimir Putin phải gọi là “thảm họa dần dần” (creeping catastrophe). Với quân đội thì đó là phòng thủ yếu ớt!

Thật khích lệ có tin liên quan các chính khách có đạo đã nói rằng họ sẽ tiếp tục đưa vấn đề phá thai lên hàng đầu trong cuộc thảo luận công khai và sẽ chỉ cho phép phá thai nếu tính nạng người mẹ bị đe dọa. Thiểu số Kitô hữu thuộc Đảng Dân Chủ nói rằng đó là do có sự “hỗ trợ” của tôn giáo – gồm có Chính thống giáo, Hồi giáo Nga, và Công giáo.

Mặt khác, tại Hoa Kỳ, người ta chỉ có thể thắc mắc về những phim khiêu khích của Hollywood đối với hàng triệu khán giả khắp thế giới. Nhưng ở đây vẫn có tia hy vọng! Phim “Cuộc Khổ Nạn của Chúa” (The Passion of the Christ) của đạo diễn Mel Gibson là “phim giật gân”. Những người không có niềm tin hoặc đa nghi không thể đọc Kinh Thánh hoặc sách giáo lý, nhưng họ vẫn có thể xem phim này. Đạo diễn Công giáo Mel Gibson đã tận dụng sự ảnh hưởng to lớn này. Thật vậy, Chúa Thánh Thần có thể tác động ngay trong những cách ngoài quy ước!

Cuối cùng, chúng ta chỉ có thể trao phó mọi thứ cho Đức Mẹ. Lời cảnh báo của Đức Mẹ Akita đã đặt tiền đề: “Nếu loài người không ăn năn và sống tốt hơn”. Dù chúng ta tin tưởng vào sự can thiệp mạnh mẽ của Đức Mẹ, chúng ta cũng vẫn phải đáp lại một cách đại lượng. Chính Đức Mẹ đã nói: “Cầu nguyện, sám hối, và hy sinh có thể làm dịu cơn giận của Chúa Cha”.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ all-about-the-virgin-mary.com)