Ngoại trưởng Mỹ John Kerry tham dự Thánh lễ tại Nhà thờ Chính tòa Đức Bà Sài Gòn

 

Ngoại trưởng Mỹ John Kerry tham dự Thánh lễ tại Nhà thờ Chính tòa Đức Bà Sài Gòn
Sơn Nữ SPC

12/14/2013

SAIGÒN – 14g24: Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đến khuôn viên trước tượng Đức Mẹ. Ngài Ngoại trưởng Mỹ John Forbes Kerry cùng với phái đoàn của ông đã đến Nhà thờ Chính tòa Đức Bà Sài Gòn vào lúc 14g20 hôm thứ Bảy 14/12/2013, để tham dự Thánh lễ.

Tại khuôn viên trước Thánh đường, Cha Tổng đại diện Gioan Baotixita Huỳnh Công Minh cùng với Cha Chánh văn phòng Tòa Giám mục Ignatio Hồ Văn Xuân và Cha Giuse Vương Sỹ Tuấn đã ra chào và đón vị Ngoại trưởng vào Nhà thờ. Sau đó, trước khi dâng Thánh lễ, Cha Tổng đại diện – thay mặt Đức Hồng Y Tổng Giám mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn – chúc ngài Ngoại trưởng mọi sự tốt đẹp.

Đức Giám Mục phụ tá Phêrô Nguyễn Văn Khảm đã chủ tế Thánh lễ. Đồng tế với ngài có linh mục Tổng Đại diện cùng với hai linh mục phụ tá Nhà thờ Chánh tòa là Cha Giuse Vương Sỹ Tuấn và Cha Phêrô Đỗ Duy Khánh.

Sau Bài Tin Mừng, Đức Cha Phêrô chia sẻ về việc cử hành lòng thương xót của Đấng Cứu Thế trong Mùa Vọng như lời nhắc nhở của Bài Tin Mừng vừa nghe: “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”. Đức Cha nhắc đến hai tấm gương hiện đại của lòng thương xót bao dung là Đức Giáo Hoàng Phanxicô (mới được tạp chí Time chọn là nhân vật của năm 2013) và Tổng thống Nelson Mandela (mới qua đời với một tang lễ có gần 100 lãnh đạo các nước tham dự). Vị chủ tế mời gọi cộng đoàn hãy sống lòng thương xót của Chúa theo hai mẫu gương vừa kể.

Ngài Ngoại trưởng đã tham dự Thánh lễ và rước lễ sốt sắng. Cuối lễ, ĐGM. Phêrô Nguyễn văn Khảm đến bắt tay chào Ngoại trưởng Mỹ và một số người trong phái đoàn. Vị ngoại trưởng đã đặc biệt diễn tả với Giám mục chủ tế về niềm cảm xúc dâng tràn khi được tham dự Thánh lễ tại đây.

Thánh lễ kết thúc lúc 15g20. Trước khi ra khỏi nhà thờ, Ngoại trưởng Mỹ đã đến tận nơi cảm ơn ca đoàn và chụp hình chung với các ca viên.

5 điều người ta hối tiếc nhất lúc sắp lìa trần

5 điều người ta hối tiếc nhất lúc sắp lìa trần

Một nữ y tá người Úc tên Bronnie Ware đã có nhiều năm chuyên chăm sóc người bệnh ở thời kỳ 12 tuần cuối của cuộc đời họ. Qua đó cô đã có cơ hội ghi lại những điều mà người bệnh còn hối tiếc trước khi nhắm mắt.

Cô nhận ra rằng khi người sắp qua đời được hỏi có điều gì trong cuộc đời mà họ hối hận vì đã không làm khác đi, đã có một số câu trả lời rất phổ biến trong tâm lý chung của con người ở giai đoạn này mà cô có thể tổng kết lại thành năm điều và viết thành cuốn sách cùng tên: “5 điều hối tiếc nhất lúc sắp lìa trần”. Đã không có câu trả lời nào đề cập đến sự ham muốn về tình dục hay những cú nhảy bungee mạo hiểm.

  5 iÁu hÑi ti¿c nh¥t lúc s¯p lìa tr§n

“5 điều hối tiếc nhất lúc sắp lìa trần”

Dưới đây là năm điều hối tiếc phổ biến nhất của những người sắp chết, mà Ware đã ghi lại:

1. Giá mà tôi có đủ can đảm để sống một cuộc sống đúng với bản thân mình, chứ không phải là cuộc sống mà những người khác mong đợi ở tôi.

“Đây là niềm hối tiếc phổ biến nhất. Khi con người ta nhận ra rằng cuộc đời của họ đang gần đến điểm kết thúc, ngoảnh nhìn lại, thật dễ dàng để nhận ra có bao nhiêu giấc mơ đã trôi đi mà chưa thành hiện thực. Hầu hết mọi người đã không tôn trọng thậm chí chỉ một nửa giấc mơ của mình và giờ đây họ phải ra đi trong suy nghĩ rằng điều này hoàn toàn do những gì họ đã lựa chọn, hoặc không lựa chọn. Sức khỏe mang lại một sự tự do mà rất ít người nhận ra, cho đến khi họ không còn có nó được nữa”.

2. Giá mà tôi đã không làm việc một cách cật lực.

“Điều hối tiếc này này đến từ tất cả các bệnh nhân nam mà tôi chăm sóc. Họ đã bỏ lỡ tuổi trẻ của con cái họ cũng như sự đồng hành của người bạn đời. Phụ nữ cũng có nhắc đến điều hối tiếc này, nhưng vì hầu hết họ đến từ thế hệ cũ, họ đã không cần phải là trụ cột gia đình. Tất cả những người đàn ông mà tôi đã chăm sóc đều hối hận một cách sâu sắc rằng họ đã chi tiêu quá nhiều cuộc sống của họ để chạy đua với công việc”.

3. Giá mà tôi có đủ can đảm để bộc lộ cảm xúc của mình.

“Nhiều người phải ức chế cảm xúc của mình để giữ hòa khí với những người xung quanh. Kết quả là, họ phải tự nén mình xuống sống một cuộc sống tầm thường và không bao giờ trở thành người mà họ đã thực sự có khả năng trở thành. Nhiều căn bệnh phát triển liên quan đến sự cay đắng và oán giận mà họ đã phải ôm trong người”.

4. Giá mà tôi giữ liên lạc với bạn bè của tôi.

“Thường thì họ sẽ không thực sự nhận ra những lợi ích đầy đủ của những người bạn cũ cho đến những tuần cuối cùng của cuộc đời, và không phải lúc nào cũng có thể tìm lại được bạn bè. Nhiều người đã bị kẹt trong cuộc sống riêng của họ đến nỗi đã để những tình bạn vàng trôi đi theo năm tháng. Đến cuối đời họ cảm thấy rất ân hận bởi đã không dành đủ thời gian và nỗ lực để chăm chút cho tình bạn của mình. Tất cả họ đều nhớ đến những người bạn của mình khi họ đang hấp hối”.

5. Giá mà tôi để cho bản thân mình được hạnh phúc hơn.

“Đây là một niềm hối hận phổ biến đến mức ngạc nhiên. Nhiều người cho đến phút cuối cùng mới nhận ra hạnh phúc chính là một sự lựa chọn cho cuộc sống. Họ bị kẹt trong những mô hình và thói quen cũ. Cái gọi là “sự dễ chịu” của sự quen thuộc đã lấn át đời sống tinh thần cũng như thể chất của họ. Sự sợ phải thay đổi đã khiến họ phải giả vờ với mọi người xung quanh và với chính bản thân họ, rằng họ đang rất mãn nguyện, nhưng thực ra, ở sâu bên trong, họ thèm được cười hết mình và có được lại sự khờ dại”.

Hãy sống và cống hiến hết mình để trước khi nhắm mắt ta sẽ nở 1 nụ cười !

Nhận Lãnh Để Trao Ban

Nhận Lãnh Để Trao Ban

http://vmode.vn/uploads/2009/08/phu-nu-va-tien-bac.jpg

Một người kia suốt đời chỉ lo thu gom tiền bạc, cho nên rất giàu. Khi chết, ông còn ôm túi vàng theo mình đi sang cuộc sống bên kia. Đi một hồi ông thấy đói. Bỗng ông thấy một quán ăn bên đường, liền ghé vào. Vì hà tiện, ông hỏi người chủ quán:

-Tô cơm nhỏ này giá bao nhiêu?

-Chỉ một đồng thôi.

-Còn tô lớn kia?

-Cũng chỉ một đồng thôi.

Thấy rẻ, ông gọi luôn hai tô lớn. Nhưng người chủ quán bảo:

– Ở đây chỉ xài loại tiền-cho-đi thôi. Ông có không?

Người hà tiện chỉ vào túi vàng của mình. Nhưng chủ quán nói:

-Đó chỉ là thứ tiền-lấy-vào. Ở đây không xài được.

-Thế tiền-cho-đi là tiền gì?

-Khi còn sống, mỗi lần ông cho ai bao nhiêu đồng thì ông được ban lại bấy nhiêu đồng loại tiền-cho-đi.

Ông nhà giàu lục lọi khắp nơi trong mình nhưng chẳng có đồng nào thuộc loại tiền-cho-đi cả. Thế là ông phải nhịn đói, sống trong thiếu thốn khổ cực đời đời .

***

Bạn thân mến, bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiêu đồng tiền để dành cho đời sau vậy. Những người coi đồng tiền to hơn mạng sống của mình, rốt cuộc cũng chẳng được gì. Thấu hiểu lòng ham mê tiền bạc của con người, Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn người quản gia khôn khéo. Người khen ông quản gia khôn khéo không phải vì hành động bất lương của ông, nhưng vì ông biết lo xa cho tương lai của mình. Ông khôn khéo vì ông biết dùng tiền của tạm bợ để mua lấy bạn hữu.

Nếu “con cái đời này” biết phải làm gì và làm cách nào đối với tiền của để to liệu cho ngày mai, thì tại sao “con cái sự sáng” lại không biết sử dụng ơn Chúa ban trong hiện tại để lo cho không biết sử dụng của cải phù dù, chia sẻ cho người nghèo khó để mua lấy bạn hữu Nước Trời.

Nếu người ta căn cứ vào cách dùng tiền của để biết được lòng người có trung tín hay không, thì tại sao chúng ta lại không “trung tín trong việc nhỏ” là sử dụng tiền của để bảo đảm cho ta của cải chân thật đời sau?

Thật vậy, chúng ta không trở nên giàu có với những điều mình đã nhận lãnh, mà là với những điều mình đã trao ban. “Trong dự tính của Thiên Chúa, người giàu chỉ là viên thủ quĩ của người nghèo”. Chính vì thế, chỉ khi nào biết quảng đại trao ban cho những kẻ thiếu thốn, chúng ta mới thực là những quản gia biết làm theo ý muốn của chủ, những quản gia trung tín và khôn ngoan. Chỉ khi nào biết coi tiền của là phương tiện phục vụ cho cùng đích là Nước Trời chúng ta mới thực sự “làm tôi Thiên Chúa”.

***

Lạy Chúa, Trong cuộc sống trần thế, xin cho chúng biết nhận ra những gì là mau qua, là tạm bợ ở đời này để chúng con biết khôn ngoan tích trữ cho mình những gì là quí giá, là gia tài vĩnh cửu là hạnh phúc Nước Trời trong cuộc sống mai hậu. Amen.

R. Veritas

Vì sao nhiều đảng viên bỏ đảng?

Vì sao nhiều đảng viên bỏ đảng?

Gia Minh, biên tập viên RFA
2013-12-12

000_Hkg4466727-305.jpg

Hình minh họa chụp năm 2011 tại Hà Nội.

AFP

Công luận tại Việt Nam trong tuần đầu tháng 12 xôn xao về việc công khai từ từ bỏ đảng Cộng sản của các ông Lê Hiếu Đằng, Phạm Chí Dũng và bác sĩ Nguyễn Đắc Diên tại Sài Gòn.

Trước đó có một số người từng thực hiện biện pháp tương tự; tuy nhiên số này vẫn còn là thiểu số trong chừng hơn ba triệu đảng viên tại Việt Nam.

Lời nói không đi đôi với việc làm

Danh sách những đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức công khai làm đơn ra khỏi đảng, hồi tháng 7 vừa qua lại có thêm một tên mới là ông Nguyễn Thái Sơn.

Trong đơn ra khỏi đảng, ông này nêu rõ ‘Có thể nào một cán bộ, đảng viên suốt đời gương mẫu, cần cù, chịu khó làm việc, tin tưởng vào pháp luật và hệ thống chính quyền của nhà nước đấu tranh bảo vệ lẽ phải lại trở thành thảm họa’.

Ông Nguyễn Thái Sơn năm nay đã 70 tuổi cho biết lý do khiến ông phải đi đến quyết định ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam:

“Lý do chính là lời nói không đi đôi với việc làm, chính sách, chủ trương, cương lĩnh, nghị quyết của Đảng không được thực hiện.
-Ô. Nguyễn Thái Sơn”

“Lý do chính là lời nói không đi đôi với việc làm, chính sách, chủ trương, cương lĩnh, nghị quyết của Đảng không được thực hiện. Thứ hai nhiều vấn đề bất bình trong xã hội do chủ trương, đường lối không đi đôi với thực hành nên gây cho tôi những thảm họa. Vụ việc của tôi báo chí đã đăng rất nhiều, và nhiều cơ quan pháp luật cũng xác nhận chuyện này là chuyện vi phạm luật pháp, nhưng cuối cùng họ cũng làm tầm bậy, tầm bạ. Chính vì thế tôi cũng báo cáo lên trong chi bộ vụ việc này không làm đến nơi đến chốn thì Đảng cũng chẳng có việc gì nữa nên tôi xin nghỉ sinh hoạt đảng, vì sinh hoạt đảng như thế là hình thức, là vớ vẩn thôi.

Qua chuyện tôi đi khiếu kiện cũng gặp trong xã hội nhiều chuyện cũng rất bức xúc. Nhiều người cũng rất khổ sở. Ngay cả chúng tôi là người có học, có hành, đọc báo, đọc luật và có thể hiểu; còn nhiều người dân quá cực khổ không có điều kiện đọc nên không hiểu nhiều. Nhiều người cũng không có tài liệu bằng chứng, mất thời giờ cho chuyện ấy mà không giải quyết được. Vấn đề của chúng tôi làm rất chính đại, quang minh, đàng hoàng; đấu tranh có tổ chức mà họ còn làm bậy như thế thì những người không có điều kiện như chúng tôi họ khổ như thế nào!

Thực chất vấn đề tôi xin ra đảng là đấu tranh cho một xã hội bình đẳng, công minh. Tôi đã gửi trên 4.000 đơn đến các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan quốc hội, chính phủ mà họ không giải quyết thì trách nhiệm của họ ở đâu, làm gì?

Liên quan đơn (xin ra đảng) vừa rồi tôi cũng muốn dư luận của xã hội, kể cả dư luận quốc tế vì đây là chân lý – lẽ phải mà; trắng đen phải phân minh thì xã hội mới phát triển lành mạnh được. Nếu tình hình thế này kéo dài thì đất nước sẽ trở nên tồi tệ, con người sẽ trở nên rất xấu.”

Khó tìm người cùng chí hướng

Một đảng viên trẻ công khai từ bỏ lý tưởng cộng sản được nhiều người biết đến là anh Nguyễn Chí Đức. Sau một năm ra khỏi đảng, anh có bài viết mang tựa ‘Suy nghĩ cô đọng sau một năm từ bỏ Cộng sản’.

000_Hkg4476059-250.jpg

Các Đại biểu đang biểu quyết tại Đại hội đảng XI hôm 17-01-2011. AFP PHOTO / HOANG DINH Nam.

Trong bài anh có câu ‘Sự thật đã rõ nhưng những người đảng viên ĐCSVN dám dứt ra khỏi chuyện cơm áo, gạo tiền, chuyện quá khứ nặng nghĩa – nặng tình, chấp nhận dấn thân còn rất rất ít hơn tôi kỳ vọng.’

Anh Nguyễn Chí Đức cho biết:

“Khó tìm người mong muốn và người mình mong muốn. Bản thân công an địa phương họ cũng tìm cách ngăn trở chuyện những người như tôi tụ lại thành một điểm nào đấy. Vừa rồi tôi có tìm đến những người đảng viên có suy nghĩ không tin vào đảng, và tôi đánh bài ngửa với họ mời bác, mời anh có uy tín làm hội trưởng (từ rất khiêm tốn, không nói là đảng trưởng) quy tụ những người như tôi, nhưng nhiều người không dám. Thực tế như ông Lê Hiếu Đằng, ông đã dám bỏ đảng đâu. Nếu ông bỏ đảng tôi sẽ đến ngay để bàn, hoặc tôi với góc độ người thế hệ sau để ‘một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao’. Tôi đã bỏ rồi, tôi cần những người dám đoạn tuyệt và ly dị tổ chức cộng sản thì mới tin nhau được. Chỉ tin nhau qua hành động, chứ không thể qua những lời nói trên mạng. Cũng như trong chuyện tình cảm, phải ly dị mới có thể tìm người khác, đối phương mới yên tâm hơn.”

Bản thân ông Nguyễn Thái Sơn vì tố cáo tham nhũng và việc bảo kê, bao che cho hành vi phạm pháp mà theo ông là tội ác, nên bản thân ông bị trù dập, trả thù. Ông cho biết cũng khá đơn độc, khó tìm được người đồng cảm lên tiếng bênh vực ông:

“Ở Việt Nam có những người cũng biết đó là sự thật, nhưng không dám can thiệp vì họ sợ liên lụy đến vấn đề này, vấn đề khác. Ở Việt Nam mà làm được điều đó là có nghị lực phi thường rồi. Bình thường họ sợ nhiều vấn đề phức tạp nên không dám làm. Thứ hai xã hội không có trách nhiệm nên nhiều người cũng bàng quang trong vấn đề này.”

Bất hạnh của dân tộc?

“Khó tìm người mong muốn và người mình mong muốn. Bản thân công an địa phương họ cũng tìm cách ngăn trở chuyện những người như tôi tụ lại thành một điểm nào đấy.
-Anh Nguyễn Chí Đức”

Anh Nguyễn Chí Đức còn viết thêm rằng ‘Một nỗi buồn xâm chiếm trong tôi nhưng từ đây tôi rút ra được một điều đau đớn: ĐCSVN đã tàn phá nặng nề khả năng phản biện, đầu độc tư tưởng các thế hệ thanh niên Việt Nam trong tổ chức này ngay từ khi tâm hồn họ còn rất trong sáng, động lực đầy nhiệt huyết .”

Theo anh Nguyễn Chí Đức thì đó là nỗi bất hạnh cho dân tộc Việt Nam:

“Bản thân người cộng sản đi đầu độc người khác nhưng chính họ cũng bị đầu độc. Bản thân những người mới vào đảng ai cũng đầy nhiệt huyết, thông minh, có chí khí; nhưng vào tổ chức này nó làm cho người ta phải nói dối, rồi phải luồn cúi; nhất là trong xã hội bây giờ muốn lên chức trưởng, phó phòng phải biết nịnh bợ rồi, phải biết ‘thượng đội, hạ đạp’, phải biết dùng tiền để lên chức cao hơn. Đó là cấp thấp nhất, cấp càng cao thì tha hóa càng cao. Mà đã tha hóa cao đến mức vào Quốc hội rồi mà bỏ đảng thì họ khui ra đầy ‘phốt’ ngay. Thời bây giờ nói thật những người phản tỉnh ở cấp cao cũng chả tốt đẹp gì đâu, hiếm lắm. Thời chống Pháp thì nhiều, vì đó là thời các tiền bối cộng sản phần lớn họ trong sạch, có lý tưởng; nên khi họ phản tỉnh thì họ đa số được mọi người tín nhiệm, lắng nghe ví dụ như ông Trần Độ, hay Hoàng Minh Chính, Trần Xuân Bách. Những người đó, thời chưa có Internet, tôi nghe bố mẹ, hàng xóm bàn tán cả tuần về những người đó.”

Người cựu đảng viên Nguyễn Thái Sơn mới ra khỏi đảng từ hồi tháng 7 thì cho rằng những người bị oan ức cùng cảnh ngộ như ông không có được một chỗ dựa nào tại đất nước Việt Nam:

“Vấn đề ở Việt Nam hiện tại không có chỗ dựa nào cho những người thẳng thắn đấu tranh như thế.”

Trong bài viết sau một năm từ bỏ Cộng sản, anh Nguyễn Chí Đức trích lại lời nói của cố tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu ‘Đừng nghe những gì Cộng sản nói mà hãy nhìn những gì Cộng sản làm’. Đó là một trong ba cảnh tỉnh chân thành mà anh Nguyễn Chí Đức đưa ra.

ĐIỀU TRỊ SAU TAI BIẾN NÃO.

ĐIỀU TRỊ SAU TAI BIẾN NÃO.

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

Sau khi bị  Đột quỵ, bệnh nhân rơi vào tình trạng:

– liệt,yếu, mất cảm giác nửa người. mất thăng bằng cơ thể đi đứng không vững;

– không diễn tả được ý nghĩ, lời nói, không hiểu chữ viết và lời nói người khác;

– ăn nuốt khó khăn;

– giảm thị lực, không nhìn được phía nửa người bị liệt;

– không kiểm soát được đại tiểu tiện;

– trí nhớ và sự suy nghĩ giảm,

– không tự chăm sóc được.

Theo thống kê, hậu quả đột quỵ có thể là như sau:

– 10% bệnh nhân thoát hiểm bình phục hoàn toàn

– 25% phục hồi với tổn thương tối thiểu

– 40% chịu đựng tổn thương từ trung bình tới trầm trọng, cần sự chăm sóc đặc biệt

– 10% cần được chăm sóc tại dưỡng lão viện hoặc các cơ sở chăm sóc lâu dài khác

– 15 tử vong một thời gian ngắn sau tại biến.

Điều trị phục hồi

Điều trị Phục Hồi Sau Tai Biến (RehabilitationTherapy After Stroke) có mục đích giúp não bộ tự tái tổ chức cấu trúc bị tổn thương, từ đó giúp bệnh nhân tìm lại toàn phần hoặc một phần các chức năng đã bị stroke lấy đi, đồng thời cũng để tránh sự tái phát của stroke.

Điều trị này cần đựoc thực hiện ngay sau khi bệnh nhân thoát khỏi lưỡi hái của tử thần, từ khi còn ở bệnh viện , 24- 48 giờ sau khi stroke đã ổn định và tiếp tục tại gia một thời gian lâu dài.

Phục hồi sẽ giúp bệnh nhân sồng tương đối độc lập hơn, tự chăm sóc và hòa mình với gia đình,xã hội. Bác sĩ chuyên khoa sẽ phối hợp với các nhà chuyên môn y khoa học khác để lập một team trị liệu cho bệnh nhân, thường thì gồm có:

– Một nhà chuyên môn về Vật lý Trị liệu (Physical Therapist) hướng dẫn bệnh nhân cách tập luyện để phục hồi khả năng đi đứng, lấy lại sự thăng bằng cơ thể, sử dụng tay chân trong các công việc thường nhật, lấy lại sức mạnh cho cơ bắp đã bị suy yếu, giúp khớp không bị đóng băng (frozen), đau cứng.

– Một điều trị viên sinh hoạt chân tay (occupational therapist) để giúp bệnh nhân thích nghi với hoàn cảnh mới, tiếp tục các sinh hoạt  hàng ngày cho sự sống như ăn mặc, vệ sinh cá nhân…càng ít phụ thuộc vào người khác càng tốt; sử dụng vài dụng cụ y khoa để tăng sức mạnh cơ bắp, giảm đau nhức khớp xương; giúp đỡ phương tiện di chuyển, mua sắm, nấu nướng…

Chuyên gia tư vấn tâm lý (Psychologist) để giúp bệnh nhân đối phó, giải quyết với cảm giác thất vọng vì đột nhiên trở thành vô dụng, ăn bám  rồi buông suôi, trầm cảm, không có động lực cũng như nghị lực để vươn lên. Tâm trạng này là nguyên nhân chính đưa bệnh nhân vào tình trạng suy sụp cả thế xác lẫn tinh thần.

– Chuyên viên phục hồi khuyết tật ngôn ngữ (Speech -LanguageTherapist) giúp người bệnh học lại cách phát âm ngõ hầu có thể diễn tả ý nghĩ, lời nói rõ ràng rành mạch hơn.

Chuyên viên xã hội (Social Worker) góp ý lập kế họach điều trị sau khi bệnh nhân xuất viện; tư vấn cho gia đình và bệnh nhân đối phó với hậu quả xã hội của bệnh; giúp bệnh nhân tìm kiếm các dịch vụ mà xã hội cung cấp để người bệnh có đời sống thoải mái  hơn và sớm trở lại sinh hoạt  bình thường.

Chuyên viên dinh dưỡng (Dietitian) giúp bệnh nhân trong vấn đề dinh dưỡng sao cho thích hợp với tình trạng bệnh.

bác sĩ gia đình cũng như chuyên khoa các ngành tim mạch, thần kinh luôn luôn theo dõi, điều trị các bệnh mà bệnh nhân đang chịu đựng.

Vài điều thưa với bệnh nhân

Điều trị phục hồi là việc làm phức tạp, khó khăn nhiều khi bực bội, khiến cho bệnh nhân luôn luôn rơi vào tâm trạng buồn chán buông xuôi. Vì khả năng cơ thể mất đi thì mau mà  lấy lại thường thì chậm trễ. Cho nên, có những lúc tình hình tưởng như khá hơn rồi thấy như đâu lại vẫn hoàn đó.

Nhưng xin ghi nhớ, “có công mài sắt, có ngày nên kim”. Các chuyên viên y tế và người thân luôn luôn sát cánh, tiếp tay.

Cũng nhắc lại là tế bào não có một khả năng phục hoạt  một phần đã bị tổn thương, đồng thời các tế bào não lành mạnh xung quanh cũng gia tăng lao động để “chị ngã, em nâng”, bù đắp phần vụ của các tế bào bị hư hao. Cái khó là làm sao “động viên” được sự bù đắp này.

Xin hãy tận tâm, bền chí và có thái độ tích cưc. Nói hết ước muốn, bực bội, khó khăn của mình cho toán chuyên viên y tế, cho thân nhân để họ giúp đỡ.

Ngoài ra, cũng còn nhiều tổ chức trong cộng đồng như Hội Stroke tại địa phương, nhóm thân hữu bệnh nhân stroke…đều sẵn sàng tiếp tay nếu mình yêu cầu.

Đôi điều với thân nhân chăm sóc,

Trong trách nhiệm khó khăn, nặng nhọc, đôi khi bực mình nản chí vì thay đổi tính tình, trở nên khó tính của người thân bệnh hoạn, e ngại tai biến tái phát, e ngại người thân khó thích ứng với tình trạng kém phần sáng sủa, thêm vào đó không hiểu đời sống của mình sẽ ra sao, liệu còn cáng đáng chăm sóc được bao lâu, chăm sóc có chu đáo không hay là cũng kiệt quệ theo người bệnh…

Nhưng nghĩ lại ngày nào mấy chục năm trước đây, ngón tay lồng ngón tay trao nhẫn cưới, quỳ gối trước Thánh Giá,  Phật Đài, thề thốt cùng nhau đi trọn cuộc đời vui buồn có nhau… Mà bây giờ thì có lẽ buồn hơi nhiều hơn vui…

Hoặc nghĩ tới các đấng sinh thành đã từng chín tháng mang nặng đẻ đau, bôn chải vật lộn với đời sống nuôi dưỡng con cái, mong sao con sớm trưởng thành, nên người.

Để mà làm tròn nghĩa vụ làm vợ, làm chồng, làm con.

Một đồng nghiệp đàn anh ở Houston miền nắng ấm, niên tuế ngoài tám chục, đã dành gần 1/2 cuộc đời để chăm sóc rất chu đáo người bạn đường bị stroke, đồng thời nuôi nấng bầy con nên người. Mà đàn anh vẫn lạc quan, yêu đời, lại còn có thì giờ nghiên cứu soạn ra nhiều tự điển văn học giá trị.

Một thân hữu ở San Jose sau tai biến phải dùng xe lăn nhưng nhờ có nhiều niềm tin tôn giáo, nghiêm minh dùng thuốc, một thân hữu khác ở Los Angeles vẫn bước thấp bước cao hải hành tập luyện, chạy bộ bộ mỗi ngày nhờ nhiều nghị lực vươn lên. Họ đều đã vựơt  khỏi tàn phế để viết phổ biến các điều ích lợi và đang sống gần như bình thường, với sự hỗ trợ của người vợ hiền và các con, cháu.

Còn nước còn tát mà.

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

www.bsnguyenyduc.com

http://www.youtube.com/user/Drnguyenyduc/videos

Tác giả: Câu Chuyện Thầy Lang, Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

CÓ ĐƯỢC BIẾN LỄ TANG THÀNH LỄ CƯỚI HAY LỄ PHONG THÁNH KHÔNG ?

CÓ ĐƯỢC BIẾN LỄ TANG THÀNH LỄ CƯỚI HAY LỄ PHONG THÁNH KHÔNG ?

Tác giả: Lm. PX. Ngô Tôn Huấn

Tôi phải viết bài này vì đã được chứng kiến một vài  việc xét thấy không phù hợp với giáo lý và niềm tin của Giáo Hội về việc cử hành  lễ tang ( funeral mass) cho ai  đã ly  trần . Tôi cần nói để giáo dân khỏi hoang mang khi có thể còn phải chứng kiến một việc tương tự  không phù hợp với văn hóa Việt Nam và  quan trọng hơn là giáo lý của Giáo Hội về việc cầu nguyện cho những người đã chết.

Thật vậy, như tôi đã có đôi lần viết rằng lễ tang ( Funeral mass) cho bất cứ ai  ly trần- dù là giáo dân, hay linh mục, Giám mục và cả Đức Giáo Hoàng  nữa, thì cũng không bao giờ là lễ cưới hay lễ phong thánh ( canonization) cho ai, dù cho  biết rằng người quá cố là người đã sống một đời sống đạo đức thánh thiện đáng được hưởng phúc Thiên đàng theo nhãn quan con người. Phải nói như vậy, vì không ai có thể biết được Chúa phán xét ra sao cho  một người đã ly trần, kể cả cho những người đã tự tử chết, hoặc chết mà không kịp được  sức dầu và lãnh phép lành Tòa Thánh.

Vì  Giáo Hội  không biết được  số phận đời đời của họ, nên chỉ dạy  các tín hữu  phải cầu nguyện  cho những linh hồn đã ly trần mà thôi, dù người đó đã sống tốt lành  hay bê bối  ra sao,   trước con mắt của người đời..Nghĩa là,  ta không thể phán đoán ai đã được lên Thiên đàng rồi nên khỏi cần  cầu nguyện cho họ nữa, hoặc ai đã  sa hỏa ngục rồi nên cũng  không cần cầu nguyện nữa.

Nhưng  thực tế  đã cho thấy là có một số linh mục đã biến lễ tang thành lễ phong thánh hay lễ cưới. Biến lễ tang thành lễ phong thánh,  khi giảng rằng người này đã sống quá tốt  lành nên chắc chắc  đã được vào thiên đàng hưởng Thánh nhan Chúa rồi ! Nếu biết chắc như vậy,  thì dâng lễ cầu nguyện cho họ làm gì nữa ?.Thật là điều không cần thiết ,  vì có giáo lý nào dạy dâng lễ cầu cho một ông thánh hay bà thánh nào trên Thiên Đàng đâu ???  hay chỉ có lễ kinh ( feast or memorial) một hay nhiều  vị thánh mà Giáo Hội đã tuyên phong lên hàng hiển thánh  mà thôi.

Thử hỏi : có ai sống thánh thiện hơn các Đức Giáo Hoàng ? Nhưng khi một vị qua đời thì Giáo Hội để tang trong 9 ngày và dâng lễ cầu hồn  cho,  chứ chưa hề  tức khắc phong thánh cho ai bao giờ.

Có phong thánh cho ai thì cũng phải chờ một thời gian dài ngắn và đòi hỏi một số điều kiện như có 3 phép lạ  được  kiểm chứng nhờ cầu xin vị đã ly trần mà Chúa ban cho ai cầu xin,  cũng như có đủ bằng chứng về đời sống thánh thiện của vị đó. Như vậy, dứt khoát không ai được  tự  ý phong thánh cho người đã ly trần  trong một tang lễ, khi giảng rằng người  quá cố – mà xác còn đang nằm trong nhà thờ đây-  đã vào thiên Đàng rồi,  vì khi còn sống đã làm biết bao việc từ thiện, giúp xây nhà thờ, nhà Dòng .v.v. Giảng như vậy chỉ có tác dụng đề cao người chết để làm vui lòng cho thân nhân còn sống mà thôi, nhưng đã đi vượt khỏi quyền phong thánh của Giáo Hội.

Lại nữa, trong một tang lễ mà tôi tham dự  đồng tế, tôi rất đỗi ngạc nhiên khi nghe  linh mục chủ tế  là con  của người đã ly trần,  đã biến lễ tang của cha mình thành lễ cưới khi giảng rằng : hôm nay là ngày  vui mừng vì cha tôi được vào dự bàn tiệc với rượu ngon và thịt béo, theo lời ngôn sứ I-saia nói về Tiệc cánh chung như sau:

Ngày ấy trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc

Tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon

Thịt  béo ngậy, rượu ngon tinh chế

Trên núi này Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ mọi dân

Ngày ấy, người ta sẽ nói: Đây là Thiên Chúa chúng ta

Chúng ta trông đợi Người và đã được Người thương cứu độ

Chính Người là ĐỨC CHÚA chúng ta từng đợi trông

Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ . ( Is 25: 6- 9)

Lời ngôn sứ trên đây  chỉ  có ý nói về ngày sau hết khi Thiên Chúa mở tiệc khoản đãi những ai được cứu độ để vào dự bàn tiệc Nước  Trời đã dọn sẵn cho họ.. Nhưng có biết bao người đã từ chối không tham dự viện lý do này , lý do   khác để  khước từ  lời  mời   như ta đọc thấy trong dụ ngôn “ Tiệc cưới” của Tin Mừng Thánh Matthêu( Mt 22: 1-14;  Lc 14: 15- 24)

Nghĩa là không phải tất cả mọi người,  sau khi chết , đều  đương nhiên được vào dự Tiệc “với rượu và thịt ngon” như ngôn sứ I-saia nói trên. Đó chỉ là điều mong muốn của Thiên Chúa “ Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người  được cứu độ và nhận biêt chân lý.” ( 1 Tm 2 : 4)

Chúa mong muốn như vậy vì  Chúa là tình thương và khoan dung tha thứ. Nhưng con người vẫn có tự do để đáp lời mời gọi của Chúa vào dự tiệc cưới đã dọn sẵn hay khước từ lời mời đó vì còn quá quyến luyến những lợi lại và vui thú tội lỗi chóng qua ở đời này. Vì thế, bàn tiệc Nước Trời không đương nhiên dọn sẵn cho hết mọi người sau khi chết trong thân xác, mà chỉ dọn sẵn cho những ai có  thiện chí muốn vào tham dự qua quyết tâm từ bỏ những quyến rũ của thế gian và  cám dỗ của ma quỉ  khi sống trên trần thế này.

Nghĩa là nếu người ta không quyết tâm tìm và yêu mến Chúa, trên hết mọi sự   để xa tránh tội lỗi và sống theo đường lối của Chúa, thì  họ đã từ chối lời mời của Chúa vào dự “bàn tiệc Nước Trời   như những khách được mời  đã viện đủ lý do  để không đến  dự tiệc cưới của con  vua  trong dụ ngôn  tiệc cưới mà Chúa Giêsu đã kể trong Tin Mừng Thánh Matthêu 22  và tương tự trong Luca chương 14.

Nhưng ai là người có thiện chí muốn sống theo đường lối của Chúa để cuối cùng được vào dự “Tiệc Nước Trời” thì chỉ có Chúa biết và phán đoán đúng mà thôi. Chúng ta hoàn toàn  không biết được  nên chỉ biết cầu nguyện cho những người đã ly trần như Giáo Hội dạy mà thôi.

Lại nữa, trong mọi nền văn hóa nhân loại, cái chết là điều đau khổ nhất cho thân nhân còn sống, nên thương khóc người thân  đã  ra đi là điều tự nhiên phù hợp với nhân tính và đức tin. Chính Chúa Giêsu,  khi  mang thân phận con người, cũng đã cảm thông sự đau khổ này,  nên khi nghe tin người bạn của Chúa là Laza rô chết, Chúa đã đến trước mồ của anh và đã thổn thức trong lòng” khi thấy  Maria, chị của Lazarô  khóc và những người do thái đi với cô cũng khóc.

Nhưng Chúa không nói với họ là “ hãy vui mừng lên vì La za rô đã vào dự bàn tiệc “Nước Trời với rượu và thịt ngon” rồi. Ngược laị  Chúa đã  khóc hay  thổn thức  trong lòng và nói với Mac-ta  rằng: “  Thầy là sự sống  lại và là sự sống . Ai tin vào Thầy thì dù đã  chết cũng sẽ được sống.” ( Ga 11: 25)

Sau đó Chúa đã truyền cho La za rô chỗi dậy, ra khỏi mồ, dù đã nằm chết được bốn ngày để an ủi chị em Maria và cũng để chứng mình lời Người vừa nói là “Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống.

Như thế  khóc thương người đã ly trần là điều tự nhiên, phù hợp với nhân tính, và văn hóa của mọi dân tộc,( người da đen và Mễ Tây Cơ còn khóc to hơn người Viêt mỗi khi có thân nhân chết). Và Giáo Hội cũng không dạy phải biến lễ tang thành đám cưới, để thân nhân đừng khóc thương và để tang ai  nữa.

Ngược lại Giáo Hội chỉ qui định nghi thức tang lễ ( Order  of  Christian Funerals ( Ordo Exsequiarum) cử hành từ trong nhà quàn, đến nhà thờ  và tiễn đưa ra ngoài nghĩa trang. Cũng như  dạy  phải cầu nguyện cho người đã ly  trần bất kể  người đó đã sống ra sao  trước khi chết. Như vậy, mượn  lời ngôn sứ I-saia nói  về bữa tiệc cánh chung khi những người  đã được cứu độ vào dự bàn tiệc Nước Trời, để biến lễ tang thành lễ cưới là điều sai lầm xét về cả hai mặt văn hóa và giáo lý của Giáo Hội.

Vẫn biết ai cũng có quyền hy vọng cho thân nhân mình được phần rỗi để vào dự bàn tiệc Nước Trời đã dọn sẵn, nhưng làm sao chúng  ta biết ngay được chắc chắn ai đã được vào để mừng vui với họ và không cần cầu nguyện  và  khóc thương nữa ? Và  khóc thương thì có sao đâu, vì niềm tin và Giáo Lý của Giáo Hội đâu có ngăn cấm việc này ?

Giáo Hội chỉ dạy các tin hữu tin có sự sống lại của những ai đã ly trần, và đây là niềm an ủi cho chúng ta mỗi khi phải tiễn biệt ai trong trần thế này qua cái chết.

Chính vì không biết được phần rỗi của ai, nên Giáo Hội chỉ dạy phải cầu xin cho người đã ly trần mà thôi. Cụ thể, khi nghe tin một hồng y hay giám mục nào chết, Đức Thánh Cha luôn  gửi lời phân ưu chia buồn ( condolences) tới thân nhân hay giáo phận của vị đã qua đời. Chưa hề có   Giáo Hoàng nào đã  gửi lời chúc  mừng đến thân nhân của ai  qua đời , vì cho rằng người quá cố đã vào “Bàn Tiệc Nước Trời” rồi nên phải mừng vui., thay vì khóc thương và để tang !

Như  vậy, biến lễ tang thành đám cưới hay lễ phong thánh là sai hoàn toàn mục đích của việc cầu xin cho người đã chết  như giáo lý và giáo luật của Giáo Hội qui định. ( x.giáo luật số 1177, )

Tuy nhiên, trước cái chết của ai, Giáo lý Giáo Hội dạy rằng: Trong sự chết, Thiên Chúa gọi con người đến với Ngài. Bởi vậy người Ki tô hữu có thể  có một ước mơ như Thánh Phaolô đã nói : ước ao của tôi là ra đi để  được  ở vói Chúa Kitô,  điều này tốt hơn bội phần ( Pl 1: 23). Và người Kitô hữu cũng có thể biến sự chết của mình thành một hành vi vâng phục với Chúa Cha, theo gương Chúa Kitô. ( Lc 23: 46.) . ( x SGLGHCG số 1011).

Nói rõ hơn, trước sự chết, thái độ và tâm tình thích hợp của người tín hữu là hy vọng hay trông  cậy  Chúa sẽ cho người thân mà mình đang khóc thương bây  giờ, được sống  lại  để vào Nước Trời  vui hưởng hạnh phúc Thiên Đàng , như Chúa Kitô đã hứa cho những ai tin Người thì đã chết cũng sẽ được  sống lại.

Tóm lại, lễ cưới, lễ tang, lễ phong thánh đều có ý nghĩa và mục đích riêng khác nhau theo giáo lý và phụng vụ của Giáo Hội . nên không thể lẫn lộn làm theo ý riêng của mình được. Vả lại, làm như vậy là không am hiểu mục đích và ý nghĩa của phụng vụ thánh dành cho mỗi cử hành khác nhau.

Chúng ta đều được khuyến khích cậy trông và  mong ước cho người thân đã ly trần của mình được vào hưởng Thánh Nhan Chúa. Và  cầu nguyện cho họ chính là để nói lên ước muốn đó. Tuy nhiên, chúng ta hoàn toàn không biết Chúa phán xét ra sao cho người thân  của mình  đã ly trần,  nên chỉ biết trông cậy vào lòng khoan dung thương xót  của Chúa mà thôi; chứ không nên đi quá giới hạn đó để  tỏ ra vui mừng  như  thể  đã thấy được người thân của mình đang dự “ Bàn Tiệc Nước Trời” khiến không cần phải khóc thương hay để tang nữa.

Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn

 

 

Dương Chí Dũng: ‘Sai nhưng nay mới biết’

Dương Chí Dũng: ‘Sai nhưng nay mới biết’

Thứ năm, 12 tháng 12, 2013

Dương Chí Dũng tại tòa

Dương Chí Dũng mặc trang phục khác với tất cả các bị cáo còn lại

Ông Dương Chí Dũng, cựu Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tổng công ty Vinalines, nói trước Tòa rằng việc Vinalines quyết định thành lập Nhà máy sửa chữa tàu biển phía Nam để mua ụ nổi 83M về mà không thông qua Thủ tướng là sai, nhưng đến bây giờ ông mới biết, theo tường thuật của truyền thông trong nước.

Ông Dũng đang ra tòa tại Hà Nội vào sáng thứ Năm ngày 12/12 cùng với chín bị cáo khác vốn đều là các lãnh đạo tại Vinalines trong một vụ án được cho là ‘đại án tham nhũng’.

Ông bị truy tố hai tội: ‘Tham ô’ và ‘Cố ý làm trái quy định của Nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng’ trong thời kỳ ông còn là lãnh đạo cao nhất tại tổng công ty nhà nước này.

Cụ thể ông Dũng được cho là gây thiệt hại cho nhà nước hơn 366 tỷ đồng trong thương vụ mua ụ nổi 83M của Nga và tham ô số tiền 28 tỷ đồng, theo báo chí trong nước.

Nếu bị kết tội, ông Dũng phải đối mặt với khung hình phạt từ 20 năm cho đến tử hình.

Ụ nổi 83M

Trong phiên xử đầu tiên vào sáng nay, bị cáo Dũng đã bị thẩm vấn về việc ký quyết định mua ụ nổi 83M, vốn được cho là ‘đống sắt vụn’ và gây thiệt hại cho Nhà nước hàng trăm tỷ đồng.

Việc mua ụ nổi này là nội dung chính trong cáo trạng ‘Cố ý làm trái’ của ông Dũng.

Theo cáo trạng thì ông Dũng đã xúc tiến việc mua ụ nổi này khi chưa được Chính phủ phê duyệt và chưa được Bộ Giao thông Vận tải, cơ quan chủ quản của Vinalines, đưa vào quy hoạch phát triển ngành công nghiệp tàu thủy.

Cảnh tượng trước tòa trong phiên xử Dương Chí Dũng

Rất nhiều công an có mặt trước Tòa án Hà Nội trong vụ xử Dương Chí Dũng

Dương Chí Dũng bị cáo buộc đã ‘nhận số tiền lại quả 10 tỷ đồng’ trong thương vụ ụ nổi này từ phía môi giới là Công ty AP đóng ở Singapore.

Trang mạng của Tuổi Trẻ tường thuật rằng ông Dũng nghĩ rằng việc phê duyệt dự án Nhà máy sửa chữa tàu biển phía Nam là thẩm quyền của Hội đồng quản trị nên ‘không xin phép thủ tướng’ và ‘đến khi làm việc với cơ quan điều tra thì mới biết là sai’.

Ụ nổi 83M được mua về để trang bị cho nhà máy sửa chữa tàu biển này.

Bị cáo Dũng, với tư cách là chủ tịch Hội đồng Quản trị Vinalines, cũng khai trước tòa việc mua ụ nổi là ‘ý kiến của ông Phúc (Mai Văn Phúc – tổng giám đốc Vinalines)’ và quyết định mua là của tập thể Hội đồng Quản trị chứ bản thân ông không chỉ đạo.

“Tôi không can thiệp gì, không bao giờ chỉ đạo cụ thể anh em trong tập đoàn làm gì”, ông Dũng được dẫn lời nói.

Còn trang mạng của Tuổi Trẻ dẫn lời bị cáo Dũng nói rằng ‘Từ tờ trình duy nhất của Mai Văn Phúc, bị cáo mới biết công ty dự định mua ụ nổi 83M với giá 9 triệu USD của công ty AP (Singgapore) mà không biết công ty của Nga cũng chào bán’.

‘Đề nghị xử nặng’

Cáo trạng cho biết ụ nổi này vốn được sản xuất vào năm 1965 và hiện không còn hoạt động được và bị cơ quan hữu trách của Nga từ chối đăng kiểm. Trong khi đó, phía chủ sở hữu ụ nổi này của Nga chào bán với giá dưới 5 triệu đô la Mỹ.

Bên cạnh tiền mua, Vinalines còn bỏ tiền vận chuyển, tổ chức sửa chữa ụ nổi này ở Việt Nam với số tiền lên đến 19,5 triệu đô la Mỹ, cũng theo cáo trạng.

Ụ nổi 83M

Ụ nổi 83M được xem là ‘đống sắt vụn’ là tốn cả chục triệu đô la Mỹ mua về Việt Nam

Từ lúc mua về đến nay, tổng số tiền Vinalines đổ vào ụ nổi này đã là gần 24 triệu đô la Mỹ trong khi u nổi này không hề được sử dụng.

Cũng theo cáo trạng thì bị cáo ‘phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng’ trong khi ‘không ăn năn hối cải, quanh co chối tội’ và đề nghị xử nặng.

Tổng cộng có ba luật sư bào chữa cho Dương Chí Dũng là các luật sư Trần Đình Triển, Trần Đại Thắng và Ngô Ngọc Thủy.

Theo tường thuật của Tuổi Trẻ, phóng viên đến tường thuật phiên tòa được yêu cầu để lại máy laptop, điện thoại, máy ảnh và chỉ được đem vào phòng xử giấy bút.

Cách nay hai ngày, báo mạng Dân Trí có đăng bài ‘Dương Chí Dũng – từ đỉnh cao đến vực sâu’. Theo đó, ông Dũng là con trai của cựu giám đốc Công an Hải Phòng. Dù thi rớt đại học và đi xuất khẩu lao động nhưng sau khi về nước ông Dũng đã thăng tiến nhảy vọt trên quan trường và còn lấy được bằng tiến sỹ kinh doanh thương mại.

Dự kiến phiên tòa sẽ kéo dài đến thứ Bảy ngày 14/12.

47 dân biểu Mỹ kêu gọi ông Kerry nêu vấn đề nhân quyền khi đến Việt Nam

47 dân biểu Mỹ kêu gọi ông Kerry nêu vấn đề nhân quyền khi đến Việt Nam

Ngoại trưởng Mỹ John Kerry và Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang tại Bộ Ngoại giao Mỹ ở Washington, ngày 24/7/2013.

Ngoại trưởng Mỹ John Kerry và Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang tại Bộ Ngoại giao Mỹ ở Washington, ngày 24/7/2013.

 

Trà Mi-VOA

11.12.2013

Các nhà lập pháp của Hoa Kỳ gửi thư yêu cầu Ngoại trưởng John Kerry đặt vấn đề nhân quyền với Việt Nam trong chuyến công du của ông sang Trung Đông và Đông Nam Á từ ngày 11/12 đến 18/12.

Dân biểu liên bang Hoa Kỳ Loretta Sanchez cùng với dân biểu Zoe Lofgren đứng đầu lá thư bao gồm chữ ký của 47 nghị sĩ thuộc lưỡng đảng hôm 11/12 gửi tới Ngoại trưởng Kerry kêu gọi ông ưu tiên vấn đề nhân quyền trong các cuộc thảo luận với giới lãnh đạo Việt Nam, yêu cầu Hà Nội phải cải thiện tình trạng nhân quyền.

Phát biểu vinh danh các nhà đấu tranh dân chủ Việt Nam nhân Ngày Quốc tế Nhân quyền 10/12, bà Sanchez, Đồng Chủ tịch Nhóm hoạt động tại Quốc hội Mỹ về các vấn đề Việt Nam, nói thực trạng nhân quyền của Hà Nội rất đáng quan tâm.

Bà Sanchez tố cáo: ‘Chính phủ Việt Nam vẫn đàn áp các tiếng nói đối lập với nhà nước bằng cách sách nhiễu, đe dọa, và bắt bớ các nhà đấu tranh dân chủ. Các nhà hoạt động bị giam cầm thường bị tra tấn, không được hỗ trợ pháp lý và không được gặp người thân’.

Dân biểu Sanchez cho biết bà ‘đặc biệt lo ngại về sự tàn ác của công an Việt Nam đối với các sinh viên, các nhà cổ xúy nhân quyền, và thành viên của Mạng lưới Blogger Việt Nam’.

Bà Sanchez, Đồng Chủ tịch Nhóm hoạt động tại Quốc hội Mỹ về các vấn đề Việt Nam.

Bà Sanchez, Đồng Chủ tịch Nhóm hoạt động tại Quốc hội Mỹ về các vấn đề Việt Nam.

Bà Sanchez nói các vi phạm nhân quyền của Việt Nam phải được giải quyết trước khi Hoa Kỳ tiến hành quan hệ đối tác kinh tế với Hà Nội.

Dân biểu Sanchez nhấn mạnh bà dứt khoát không ủng hộ Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) với Việt Nam cho đến khi nào Hà Nội có các bước cụ thể chứng minh cải thiện thành tích nhân quyền.

Kêu gọi mọi người vinh danh những người Việt Nam dấn thân tranh đấu cho quyền tự do, nhân Ngày Quốc tế Nhân quyền, dân biểu Loretta Sanchez nói: ‘Chúng ta phải tiếp tục góp phần làm vang vọng tiếng nói của họ, buộc nhà cầm quyền Hà Nội phải ngưng đàn áp nhân quyền, và kêu gọi phóng thích các tù nhân lương tâm bị cầm tù khắc nghiệt.’

Bà Sanchez thúc giục mọi người tiếp tục góp phần làm vang vọng tiếng nói của những nhà dân chủ tại Việt Nam, buộc Hà Nội phải ngưng đàn áp nhân quyền và phóng thích tù nhân lương tâm.

Cùng lúc đó, chiều ngày 11/12, một phái đoàn liên tôn của cộng đồng người Việt có cuộc tiếp xúc với ông Scott Busby, Phó Trợ lý Ngoại trưởng Hoa Kỳ đặc trách Nhân quyền-Dân chủ-Lao động, để trình bày những quan tâm về đàn áp tôn giáo tại Việt Nam và vận động Ngoại trưởng Kerry lưu ý vấn đề nhân quyền khi tới Hà Nội.

Ông Trần Thanh Tùng, một thành viên trong phái đoàn, đại diện Hiệp hội Giáo dân Cồn Dầu, cho biết:

“Phái đoàn chúng tôi khoảng 12 người là đại diện các tôn giáo như Cao Đài, Hòa Hảo, Phật giáo, Công giáo, Hiệp hội Giáo dân Cồn Dầu..v..v..lên gặp ông Scott Busby và các nhân viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chiều nay lúc 4 giờ tại trụ sở Bộ. Chúng tôi sẽ nêu các vấn đề nhân quyền như quyền tự do tôn giáo để Ngoại trưởng Mỹ đặt ra với Việt Nam.”

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nói cuộc gặp giữa Ngoại trưởng Kerry với lãnh đạo Việt Nam tại Hà Nội sắp tới nhằm thăng tiến mối quan hệ Đối tác Toàn diện.

Các cuộc thảo luận khi ông Kerry ghé TPHCM dự kiến xoay quanh việc phát triển quan hệ thương mại Việt-Mỹ và đẩy mạnh vai trò giáo dục.

Đôi bên cũng sẽ trao đổi một loạt các vấn đề song phương và khu vực.

Việt Nam và Philippines là hai chặng dừng cuối trong chuyến công du lần này của Ngoại trưởng John Kerry. Đây là chuyến đi Châu Á thứ tư kể từ khi ông Kerry nắm chức Ngoại trưởng Mỹ.

Kerry sẽ nêu nhân quyền khi thăm VN? (BBC)

Xô xát cưỡng chế đất Hà Tĩnh làm sân golf

Xô xát cưỡng chế đất Hà Tĩnh làm sân golf

Thứ năm, 12 tháng 12, 2013

Lực lượng cơ động được huy động đông đảo trong cuộc cưỡng chế ngày 10/12

15 người đã bị bắt vì tội ‘chống người thi hành công vụ’ trong vụ cưỡng chế đất nông nghiệp để xây sân golf tại xã Xuân Thành, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh hôm 10/12, trùng với ngày nhân quyền quốc tế.

Người dân tại đây cáo buộc chính quyền huyện Nghi Xuân đền bù thấp hơn nhiều lần so với giá trần, đồng thời nhất quyết không cho người dân xem giá đã thỏa thuận với nhà đầu tư cũng như được trực tiếp gặp nhà đầu tư.

Họ cũng nói trong vụ cưỡng chế hôm 10/12, người dân đã bị lực lượng công an đông đảo chủ động tấn công bằng roi điện, khiến nhiều người bị thương nặng.

Trong khi đó, ông Phan Văn Đán, Trưởng Công an huyện Nghi Xuân lại được báo Thanh Niên dẫn lời nói “lúc cơ quan chức năng đang thi hành nhiệm vụ thì hàng trăm người đã dùng hung khí xông vào cản trở, xô xát với lực lượng chức năng”.

“Mặc dù 14 hộ dân này đã nhận tiền bồi thường nhưng vẫn gây cản trở cho công tác giải phóng mặt bằng vì cho rằng các khoản tiền hỗ trợ khác chưa thỏa đáng. Trong số 15 người vừa bị bắt giữ thì có 3 người là người thân của 14 hộ dân này”, ông này nói.

Nhà báo cầu cứu

“Tôi lấy làm đau xót và hổ thẹn vì không nói lên được tiếng nói của nhân dân”

Một nhà báo với điều kiện giấu tên

Một nhà báo trong nước theo dõi vụ việc từ nhiều năm qua đã viết thư cầu cứu BBC và nói “tôi lấy làm đau xót và hổ thẹn vì không nói lên được tiếng nói của nhân dân”.

“Đồng bằng Bắc Trung Bộ diện tích rất hẹp, một năm chỉ trông được hai vụ lúa và trong nghị định của chính phủ chỉ cho phép sử dụng 4% đất nông nghiệp trong tất cả các dự án chứ không chỉ riêng sân golf”, nhà báo muốn ẩn danh này nói.

“Vậy mà trong vụ này, gần như là 100% đất nông nghiệp bị tịch thu, người dân mất hoàn toàn công cụ sản xuất”.

“Bên cạnh đó, chính quyền còn không cung cấp cho dân biết giá trần đền bù, bắt bớ dân trái phép và đánh đập người khiếu kiện dã man, đe dọa, dụ dỗ, và nhiều biện pháp hòng chiếm đoạt đất đai của dân.”

Nguồn tin này cũng cho biết trong vụ cưỡng chế ngày 12/12, chính quyền tỉnh Hà Tĩnh còn huy động cả lực lượng cơ động của thành phố Vinh. Lực lượng này sau đó đã chủ động tấn công người dân, buộc họ phải chống trả và một số người đã bị thương rất nặng sau vụ xô xát.

Nhiều người ngăn cản vụ cưỡng chế đã bị bắt giữ

’94 nghìn đồng một mét vuông’

Mở bằng chương trình nghe nhìn khác

Dự án Khu du lịch và sân golf Xuân Thành được UBND tỉnh Hà Tĩnh phê duyệt hồi đầu năm 2008, với diện tích quy hoạch sử dụng đất là hơn 110 ha, tuy nhiên nhiều hộ dân tại đây nói họ không được đền bù thỏa đáng.

Bà Lê Thị Nguyệt, đại diện của các hộ dân tại đây nói với BBC rằng đã đi thưa kiện suốt bốn năm nay.

“Bây giờ toàn bộ cánh rừng phòng hộ họ đã san phẳng hết, ruộng đất của nhân nhân hơn 83ha, vừa đất rừng phòng hộ, vừa đất nông nghiệp cũng mất hết,” bà nói.

Bà Nguyệt cho biết hồi năm 2009, UBND huyện Nghi Xuân ra giá đền bù chỉ hơn 19 triệu/sào đất 500 mét vuông.

Trong khi đó, nhà báo yêu cầu ẩn danh cho BBC biết mức giá trần hiện nay lẽ ra là hơn 170 triệu đồng.

Sau khi Nghị định 69 của chính phủ ra đời, chính quyền huyện vẫn không chịu đền bù theo mức mới mà nghị định này quy định, đồng thời sử dụng lực lượng công an để ngăn chặn không cho người dân lên tỉnh khiếu nại, bà Nguyệt nói thêm.

“Mãi sau này, UBND huyện mới chịu nâng tiền từ hơn 19 triệu đồng lên 35 triệu đồng một sào trên 500 mét vuông,” bà nói.

“Bây giờ toàn bộ cánh rừng phòng hộ họ đã san phẳng hết, ruộng đất của nhân nhân hơn 83ha, vừa đất rừng phòng hộ, vừa đất nông nghiệp cũng mất hết”

Lê Thị Nguyệt, đại diện các hộ dân

Tuy nhiên, vì mức giá này vẫn còn quá thấp so với mức giá trần đền bù nên tiếp tục bị bà Nguyệt cùng các hộ gia đình khác phản đối.

“Sau gần một năm sau, đến tháng 8 năm 2013 thì UBND huyện mới mời bà con lên nhận tiền hỗ trợ đợt hai, tổng cộng ba lần mới được 47 triệu đồng/sào”.

“Sau đó, họ đe dọa những con đi học ở xa của người dân đang kết nạp Đảng hay đang học các trường ở các nơi trong nước, bắt các em điện thoại về gia đình bảo bố mẹ nhận tiền bồi thường.”

Bà Nguyệt cũng cho biết vừa rồi, một phóng viên trong nước đã bị chính quyền huyện đe dọa khi đến nơi tìm hiểu vụ việc.

“Vừa rồi, có một nhà báo về quay lại toàn bộ cánh rừng phòng hộ và đưa người dân lên gặp chính quyền UBND xã thì bị ông Phạm Công Tuân, Chủ tịch Hội đồng xã đe dọa và đuổi về,” bà nói.

Miến Điện thả thêm 44 tù nhân chính trị

Miến Điện thả thêm 44 tù nhân chính trị

Người Miến Điện lưu vong mở một chiến dịch vận động đòi trả tự do cho mọi tù nhân chính trị - REUTERS /R. Ranoco

Người Miến Điện lưu vong mở một chiến dịch vận động đòi trả tự do cho mọi tù nhân chính trị – REUTERS /R. Ranoco

Trọng Nghĩa

RFI

Vào đúng ngày khai mạc Đông Nam Á vận hội, sự kiện được cho là biểu tượng rõ nhất về tiến trình mở cửa đang diễn ra tại Miến Điện, chính quyền nước này ngày hôm nay, 11/12/2013, đã loan báo quyết định ân xá thêm 44 tù nhân chính trị. Quyết định này nằm trong một loạt các đợt phóng thích tù nhân vì chính kiến đã được Naypyidaw tiến hành từ ngày một chính quyền dân sự lên cầm quyền tại Miến Điện vào năm 2011.

Phát biểu với hãng tin Pháp AFP, ông Maung Shwe Hla một cố vấn tổng thống Miến Điện xác nhận : « Có tổng cộng 44 tù nhân được trả tự do vào hôm nay trên toàn quốc ».

Đợt thả tù chính trị gần đây nhất tại Miến Điện diễn ra vào giữa tháng Mười một vừa qua, nhân chuyến công du của bà một phái đoàn Liên Hiệp Châu Âu do bà Catherine Ashton, người đứng đầu ngành ngoại giao dẫn đầu. Khi ấy, sau cuộc gặp giữa Tổng thống Miến Điện Thein Sein với bà Ashton, Naypyidaw đã loan báo việc phóng thích 69 người nhưng không đưa ra danh sách cụ thể.

Theo các tổ chức bảo vệ nhân quyền, trong đợt ân xá đó, có hai người cháu trai của nhà cựu độc tài Ne Win, bị kết án về tội phản quốc vào năm 2002 cùng với một số thành viên khác trong gia đình. Ho bị cáo buộc âm mưu tổ chức một cuộc đảo chính.

Kể từ khi tập đoàn quân sự cầm quyền tại Miến Điện giải thể vào tháng 3 năm 2011, chính quyền dân sự lên thay đã lần lượt trả tự do cho hàng trăm nhân vật đối lập, nhà sư, nhà báo và luật sư.

Tuy vậy chính quyền vẫn bị các tổ chức bảo vệ nhân quyền buộc tội « thả tay này nhưng bắt tay kia », dùng các quyết định ân xá nhỏ giọt để giành thiện cảm của các nước ngoài nhân những sự kiện ngoại giao quan trọng, trong khi vẫn tiếp tục truy bức giới bất đồng chính kiến trong nước​​.

Chính nhân chuyến công du đầu tiên đến Luân Đôn vào tháng Bảy vừa qua mà Tổng thống Miến Điện Thein Sein đã hứa sẽ trả tự do cho toàn bộ các tù nhân lương tâm vào cuối năm nay.

Trên vấn đề này, phải công nhận là chính quyền Miến Điện đã có một bước tiến rõ rệt : Sau gần nửa thế kỷ luôn luôn phủ nhận sự tồn tại của tù nhân chính trị, vào cuối năm 2012, ông Thein Sein đã công nhận sự thật khi tuyên bố thành lập một ủy ban để xác định các tù nhân chính trị trong số những người bị giam cầm.

Đợt ân xá hôm nay phải chăng là đợt cuối cùng ? Ông Bo Kyi thuộc Hiệp hội Hỗ trợ Tù nhân Chính trị Miến Điện – một thành viên ủy ban xác định quy chế tù nhân chính trị do ông Thein Sein thành lập – vẫn tỏ ý hoài nghi. Theo ông, hiện vẫn còn 44 tù nhân chính trị bị giam giữ sau lệnh ân xá hôm nay, trong khi 200 người khác đang chờ xét xử.

Trả lời AFP, nhà đấu tranh này xác định : « Chính phủ nên tạo các điều kiện pháp lý (cho phép) biểu tình… Ngày nào còn những vụ bắt giữ tùy tiện, ngày đó còn tù nhân chính trị ».

Nelson Mandela và bi kịch của Việt Nam

Nelson Mandela và bi kịch của Việt Nam

Song Chi

Nelson Mandela, cựu Tổng thống da đen đầu tiên của Nam Phi, biểu tượng của phong trào đấu tranh chống phân biệt chủng tộc đã qua đời ngày 5.12.2013 ở tuổi 95.

Biết là thừa khi viết thêm những lời ca ngợi về con người vĩ đại, được yêu mến, kính trọng, ngưỡng mộ không chỉ bởi người dân Nam Phi, mà khắp nơi trên thế giới này.

Nelson Mandela vĩ đại không chỉ vì sự hy sinh của ông cho lý tưởng về một xã hội hòa bình – tự do – dân chủ – bình đẳng, hy sinh cho đất nước, dân tộc, theo đúng tinh thần của một trong những câu ông từng nói: “Real leaders must be ready to sacrifice all for the freedom of their people.” (“Những nhà lãnh đạo thực sự phải sẵn sàng hy sinh tất cả cho tự do của dân tộc họ”).

Nelson Mandela vĩ đại không chỉ vì tầm hiểu biết, trí tuệ, tư duy chiến lược của một chính trị gia lỗi lạc hay nhân cách đạo đức của ông, mà còn vì tư tưởng nhân ái, sự khoan dung của ông đối với những kẻ đã bắt giam và đày đọa ông suốt 27 năm.

Sau khi ra khỏi tù, làm Tổng thống, có quyền lực trong tay, ông đã không dùng quyền lực để trả thù, để tiếp tục thực hiện một chế độ phân biệt đối xử trở lại đối với những người da trắng ở Nam Phi, như họ đã từng áp dụng trên đất nước ông suốt bao nhiêu năm. Ông đã chọn con đường tha thứ và hòa giải.

Một trong những câu nói nổi tiếng khác của Nelson Mandela là:“As I walked out the door toward the gate that would lead to my freedom, I knew if I didn’t leave my bitterness and hatred behind, I’d still be in prison.” (“Khi tôi bước ra khỏi cánh cửa về phía dẫn đến tự do, tôi biết rằng nếu không để lại cay đắng và hận thù phía sau, tôi vẫn sẽ còn ở trong tù”).

Những con người thật sự vĩ đại trên thế giới, như Nelson Mandela, Dalai Lama, Martin Luther King Junior, Mahatma Gandhi… đều là những người có tinh thần khoan dung, đều chọn một con đường đấu tranh ít tốn hao xương máu nhất cho nhân dân họ. Bởi vì họ đều đặt lợi ích của đất nước và hạnh phúc của người dân lên trên tất cả.

Chiều sâu của tri thức, tầm hiểu biết cộng với tinh thần tôn giáo hoặc sự chiêm nghiệm về triết học trong mỗi con người ấy đã khiến họ lựa chọn đường đi, lựa chọn cách hành xử như vậy.

Dường như người ta cũng đang phần nào nhìn thấy điều đó trong nữ chính trị gia, lãnh tụ phe đối lập của Myanmar, Aung San Suu Kyi, và kể cả trong Tổng thống đương nhiệm Thein Sein khi họ đã chọn con đường ngồi lại với nhau, đối thoại, cùng hợp tác vì tương lai đất nước. Và bà Aung San Suu Kyi đã từng nhiều lần nói đến sự tha thứ, hòa giải, không trả thù.

Tương tự, cả hai đều là những trí thức, có tư tưởng và có tinh thần Phật giáo soi sáng.

Nhìn lại bi kịch của đất nước, của dân tộc Việt Nam từ đầu thế kỷ XX cho tới hiện tại chính là từ sự du nhập triết học Mác Lênin, chủ nghĩa cộng sản, và sự thắng thế dẫn đến cầm quyền tuyệt đối của đảng cộng sản.

Ngay từ đầu, những người cộng sản đã chọn con đường bạo lực cách mạng để lật đổ chính quyền, triệt hạ tất cả các đảng phái đối lập. Từ tư tưởng cho đến mục tiêu chiến đấu suốt bao nhiêu năm của họ là phải dành chiến thắng, bất kể cái giá máu xương quá đắt phải trả. Còn trong xã hội, sự phân chia giai cấp, tư tưởng đấu tranh giai cấp đã gây ra biết bao nhiêu bi kịch từ Nhân văn Giai phẩm, Cải cách ruộng đất… ở miền Bắc cho tới cải tạo tư sản, tư thương… ở miền Nam sau này.

Sau khi giành được chiến thắng, những người cộng sản đã cư xử cực kỳ tàn ác với những người ở phe thua cuộc và cả đồng bào miền Nam.

Hàng trăm ngàn dân quân cán chính VNCH bị lùa đi học tập cải tạo, thực chất là đi tù năm, mười năm và hơn nữa, trong đó rất nhiều người đã mãi mãi nằm lại nơi những trại giam khác nhau, hàng triệu gia đình bị mất đi người chồng, người cha là nơi nương tựa. Những người dân không phải đi học tập cải tạo thì tiếp tục khốn khổ với sự phân biệt đối xử, chủ nghĩa lý lịch…

Đảng cộng sản tiếp tục đem nguyên mô hình xây dựng XHCN ở ngoài Bắc vào áp dụng trong Nam, làm sụp đổ cả nền kinh tế, xáo trộn cả xã hội với hàng loạt những đợt cải tạo tư sản, cải tạo công thương nghiệp, mô hình hợp tác xã, chính sách lùa dân đi kinh tế mới…dẫn đến việc hàng triệu người phải bỏ nước ra đi, làm nên những cuộc vượt biển kinh hoàng với thảm cảnh của những thuyền nhân (boat people) rúng động lương tâm cả thế giới…

Sau bao nhiêu năm hoang tàn, điêu linh vì chiến tranh, xã hội lại tiếp tục bị tàn phá bởi những chính sách sai lầm, sự ngu dốt, lòng thù hận và chia rẽ.

Cho đến bây giờ, gần 40 năm sau chiến tranh, nhà nước cộng sản VN đã nhanh chóng quên đi quá khứ, bắt tay với Mỹ, và còn nhanh hơn nữa, bắt tay với Trung Cộng. Trong khi đó thì họ vẫn không thể hòa giải hòa hợp với những người anh em của phe thua cuộc và với lịch sử, vẫn không hề có bất cứ một hành động nào để chứng tỏ sự hối lỗi, hối tiếc trước những sai lầm trong quá khứ hay hiện tại.

Những người tù chính trị, dù thuộc lực lượng dân quân VNCH còn sót lại như ông Nguyễn Văn Trại (đã chết), Trương Văn Sương (đã chết), Bùi Đăng Thủy (đã chết), Nguyễn Hữu Cầu đang phải tiếp tục ở tù cho đến nay là 37 năm… hay những người hoạt động dân chủ, bất đồng chính kiến thuộc các thế hệ sau này như blogger Điếu Cày, blogger Công lý và Sự thật, tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ, thạc sĩ tin học Nguyễn Tiến Trung, kỹ sư Trần Huỳnh Duy Thức, nhà hoạt động Đỗ Thị Minh Hạnh, thầy giáo Đinh Đăng Định, linh mục Nguyễn Văn Lý, tín đồ Phật giáo Hòa hảo Mai Thị Dung… tiếp tục là những đối tượng bị đối xử khắc nghiệt nhất, đày đọa phi nhân nhất trong tù.

Không những thế, nhà nước cộng sản luôn luôn đối xử với nhân dân một cách thù địch, đầy nghi kỵ. Sau gần 40 năm, chưa bao giờ trên đất nước này mâu thuẫn xã hội giữa người nghèo, người giàu, giữa người dân và các cấp chính quyền lại sâu sắc đến thế.

Bi kịch, bất công diễn ra khắp nơi. Từ thảm cảnh của những người nông dân mất đất vác đơn đi khiếu kiện ròng rã bao năm, có cả xô xát bạo lực, cả cái chết như vụ Đoàn Văn Vươn hay Đặng Ngọc Viết. Những cuộc biểu tình, đình công của lớp lớp công nhân bị bóc lột sức lao động đến tận cùng với đồng lương rẻ mạt. Những cái chết oan tức tưởi do sự lộng hành của đám công an côn đồ. Những vụ án oan sai thấu trời đất gây ra bởi pháp luật mù lòa v.v…

Thế nhưng, tất cả nhũng lời kêu than của các tầng lớp nhân dân hay những lời góp ý, kiến nghị…của bao nhiêu nhân sĩ trí thức đã bị nhà nước này thẳng tay vứt vào sọt rác. Hiến pháp 2013 là một bằng chứng mới nhất cho thấy rõ Đảng và nhà nước cộng sản tiếp tục mù lòa, vô cảm trước những biến chuyển của thời cuộc, nhu cầu nhất thiết phải thay đổi để sống còn của đất nước và nguyện vọng của nhân dân.

Đảng Cộng sản Việt Nam đã chọn con đường cố thủ quyền lực, cương quyết không thay đổi, thậm chí đối lập với nhân dân bởi vì qua bao thế hệ cho đến tận bây giờ, trong số những người nắm quyền cao nhất vẫn là những kẻ thiếu chiều sâu kiến thức, không có tầm nhìn viến kiến, tư duy chiến lược, cũng không có tinh thần tôn giáo hay triết học để soi sáng, ngoài… triết học Mác Lênin!

Quan trọng không kém, họ chưa bao giờ biết đặt quyền lợi của tổ quốc, dân tộc lên trên quyền lợi của Đảng, của phe nhóm và bản thân.

Trước đây, đã từng có những giai đoạn Đảng Cộng sản suy trì được quyền lực nhờ vào sự ngây thơ và niềm tin của số đông người dân do bị tuyên truyền một chiều kết hợp với bạo lực. Nay niềm tin của đa số người dân đã mất đi, Đảng chỉ còn lại bạo lực thuần túy.

Và thay vì có một lối thoát tốt đẹp trong hòa bình, hòa hợp, hòa giải với nhân dân, thì với một chế độ tàn bạo xây dựng trên bạo lực, thù hận và sự nghi kỵ như vậy, cũng khó mà hy vọng một kết thúc êm ả, hay một đối xử khác, từ nhân dân, một khi sức chịu đựng của người dân đã hết.

S. C.

Nguồn: https://www.facebook.com

Nelson Mandela: tha thứ và hòa giải

Nelson Mandela: tha thứ và hòa giải

Nguyễn Trọng Nghĩa

clip_image001

Nelson Mandela, tranh Marian Kamensky (internet)

Từ cuộc đời tranh đấu phi thường của Mandela, bài học lớn nhất mà ta có thể rút ra có lẽ là sự tha thứ và quyết tâm hòa giải thực sự của ông vì ông ý thức sâu sắc được rằng đó là cách làm duy nhất nhằm tránh một cuộc nội chiến đẫm máu giữa người da đen và người da trắng ở Nam Phi.

Trong một cuộc họp quan trọng giữa ANC và các tướng lĩnh hưu trí của quân đội và các tổ chức tình báo Nam Phi, Mandela đã nói thẳng với họ rằng: “Nếu các ông muốn chiến tranh, tôi phải lương thiện thừa nhận rằng chúng tôi sẽ không thể đương đầu với các ông trên chiến trường. Chúng tôi không có phương tiện. Cuộc tranh đấu sẽ dài và gian khổ, nhiều người sẽ chết, đất nước có thể rốt cuộc sẽ thành tro bụi. Nhưng các ông đừng quên hai điều. Các ông không thể thắng vì chúng tôi đông người hơn: không thể nào giết hết chúng tôi. Và các ông không thể thắng vì có cộng đồng quốc tế. Họ sẽ đứng về phía chúng tôi và sẽ ủng hộ chúng tôi”.

Chủ trương hòa giải của ông được dựa trên một số ý tưởng không cao siêu gì nhưng vô cùng cơ bản.

Ngay từ lúc trẻ, Mandela đã thấm nhuần tư tưởng bất bạo động (ahimsa) của Gandhi mà ông rất ngưỡng mộ và xem như người thầy của mình. Nhưng đối với ông, bất bạo động không phải là một giáo điều: trong cuốn tự truyện Con đường dài đi đến tự do , ông xác định bất bạo động là một chiến lược, một quyết định thực tế sau khi đã duyệt qua các chọn lựa khác. Theo ông, “để tạo dựng hoà bình với một kẻ thù, ta phải làm việc với kẻ thù này nên anh ta thành người đối tác với ta”.

Có một quan hệ biện chứng mật thiết giữa hai bên: “Tôi không thực sự tự do nếu tôi tước đoạt tự do của kẻ khác. Kẻ bị áp bức và kẻ áp bức cả hai đều bị tước mất nhân tính của mình” ; “… tự do không phải chỉ là tháo bỏ gông cùm, mà là sống theo cách tôn trọng và tăng cường tự do của người khác” ; “Tôi biết rõ rằng người áp bức cũng phải được giải phóng như người bị áp bức. Một người tước đoạt tự do của kẻ khác là tù nhân của sự hận thù, của các thành kiến và của tinh thần hẹp hòi”.

Các tư tưởng trên đã được Mandela rút ra từ quan niệm đạo đức và triết lý nhân bản “Ubuntu” của dân tộc ông: phải ý thức sâu sắc về quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, vì “chúng ta hiện hữu, vậy thì tôi hiện hữu” và vì ”một cá nhân là cá nhân là do (có) các cá nhân khác”.

Khác với nhiều đồng chí của ông, Mandela không xem người Afrikaner là “kiều dân”, mà là người Nam Phi cũng giống như người da đen, vì họ đã lập nghiệp ở nước ông từ hơn ba thế kỷ. Do đó, ở trong tù, ông đã học tiếng afrikaans của người da trắng, nghiên cứu lịch sử và văn hoá của họ. Và; ông cũng đã khuyên các đồng chí của ông làm như thế, vì “sẽ có một ngày, các dân tộc của nước ta, kể cả dân tộc Africaner, sẽ phải hiểu nhau để sống chung với nhau”. Chính nhờ thế mà ông đã hiểu rõ nỗi sợ hãi của người Afrikaner: nếu hủy bỏ chế độ apartheid và nếu có dân chủ, người da đen, do chiếm đa số tuyệt đại, chắc chắn sẽ lên nắm quyền và sẽ tước đoạt tất cả các đặc quyền đặc lợi khổng lồ của họ, thậm chí còn có thể trục xuất, thậm chí tàn sát họ để trả thù sau mấy thế kỷ bị áp bức tàn bạo. Do đó, ông chủ trương phải làm tất cả những gì có thể làm được để trấn an họ.

Cũng như Gandhi hay Martin Luther King, Mandela đã biết chống lại các các xung lực hận thù và bạo động. Và thuyết phục người khác cũng làm như thế. Ông đã tự thắng được mình, nên tạo được cho mình sức mạnh để cùng thắng với kẻ thù, đúng như Lão tử đã viết trong Đạo đức kinh: “Thắng nhân giả hữu lực, tự thắng giả cường” (kẻ thắng người là có sức lực, nhưng kẻ tự thắng mình mới có sức mạnh”. Ông chỉ ra con đường để thoát khỏi cái mà triết gia Pháp René Girard gọi là “bạo lực bắt chước” (violence mimétique), tức là không ngừng trả lời bạo lực bằng bạo lực. Thế mà, theo Mandela bạo lực không phải là giải pháp duy nhất để giải quyết tranh chấp. Ông chủ trương phải nỗ lực thảo luận với kẻ thù để biến họ thành ngưới đối tác.

Cũng cần nói thêm rằng Mandela là một chính khách thực sự yêu chuộng dân chủ, tự do và công bằng. Năm 1964, trước toà án sẽ kết án ông tù chung thân, ông đã tuyên bố: “Suốt đời tôi, tôi đã tập trung vào cuộc đấu tranh vì nhân dân châu Phi. Tôi đã chống lại sự thống trị của người da trắng và tôi đã chống lại sự thống trị của người da đen. Tôi yêu lý tưởng có được một xã hội tự do và dân chủ trong đó tất cả mọi người đều sống cùng nhau trong sự hài hoà và với cùng các cơ hội như nhau. Đó là một lý tưởng mà tôi hy vọng sống và hành động vì nó. Nhưng, nếu cần, tôi cũng sẵn sàng chết vì lý tưởng đó”.

Theo ông, “không ai có thể an nghỉ chừng nào còn có những người còng lưng dưới sức nặng của đói khát, bệnh tật, thiếu giáo dục, và chừng nào hàng triệu người khác trên thế giới còn sống trong sự mất an ninh và sự sợ hãi hằng ngày”.

Mandela hoàn toàn khác với nhiều nhà giải phóng dân tộc khác hô hào dân chủ, tự do nhưng lại không chấp nhận đối lập (và ngay cả đối trọng), và nhất là lại cấm tự do báo chí, tự do biểu tình, lập đảng… Thực không thể tưởng tượng nổi là, vào thập niên thứ hai này của thế kỷ 21, vẫn còn có những người ra sức duy trì – với bất cứ giá nào – sự thống trị của tập đoàn hay đảng phái của mình, cho đến ngày tận thế !

Viết đến đây tôi chợt nhớ đến nỗi bàng hoàng của tôi khi nghe một trí thức kiêm ca sĩ dõng dạc đọc – với vẻ mặt rực lửa căm thù – đoạn sau đây trích từ bài thơ nổi tiếng “Ba mươi năm đời ta có Đảng” của Tố Hữu, trong một đêm văn nghệ Tết Việt kiều cách đây khoảng 50 năm, khi tôi mới chân ướt chân ráo đến Paris:

“Đường giải phóng mới đi một nửa

Nửa mình còn trong lửa nước sôi

Một thân không thể chia đôi

Lửa gươm không thể cắt rời núi sông

Gươm nào chém được dòng Bến Hải?

Lửa nào thiêu được dải Trường Sơn?

Căm hờn lại giục căm hờn

Máu kêu trả máu, đầu van trả đầu!”

Khi động cơ của tranh đấu là căm hờn, thì không đời nào thực hiện được hoà giải, chứ chưa nói đến hoà hợp dân tộc, vì hoà giải là điều kiện tiên quyết cho hoà hợp. Có thể là tôi sai lầm và lạc hậu, nhưng tôi nghĩ không thể xây dựng một hệ thống đạo đức, xã hội, chính trị trên hận thù, mà là trên nhân nghĩa, từ bi, bác ái…

Nelson Mandela (1918-2013)

Tiểu sử tóm tắt

NTN

clip_image002

Nelson Mandela, một ngày sau khi được trả tự do (1990), sau 27 năm bị cầm tù

18.7.1918: Mandela sinh ở làng Mvezo (vùng Transkei) trong một gia đình hoàng tộc thuộc dân tộc Xhosa . Dù có tên riêng là Rolihlahla (kẻ gây rối hay gây vấn đề), ông được cô giáo đặt cho tên khác là Nelson, nhưng người Nam Phi thường thân mật gọi ông là Madiba.

1939: Chống việc gia đình bắt lấy vợ, Mandela bỏ nhà trốn đến Johannesburg làm nghề gác mỏ, rồi làm cho một văn phòng luật sư vừa học hàm thụ luật ở đại học Fort Hare.

1942: tốt nghiệp cử nhân luật.

1943: tiếp xúc với ANC. Ghi tên ở đại học Witwatersrand để lấy bằng luật sư. Sau đó ông tiếp tục học luật ở đại học Witwatersrand

1944: ông gia nhập Đảng Quốc đại Nam Phi (ANC), hoạt động trong Đoàn Thanh niên của đảng. Cũng trong năm này ông lấy bà Evelyn Ntoko-Mase.

1945: ANC đòi phổ thông đầu phiếu phi chủng tộc thay vì chỉ chống phân biệt chủng tộc.

1948: thắng lợi của Đảng Quốc gia kéo theo một chính sách phân biệt chủng tộc mới, cực kỳ tệ hại, được gọi là apartheid . Từ năm 1913 đến 1942, chính quyền của người da trắng (Afrikaner) thông qua nhiều đạo luật bất công: phân biệt cư trú, cấm đình công… và nhất là cấm người da đen sở hữu đất đai bên ngoài các khu cư trú của họ (kết quả là dù chỉ chiếm chưa đến 10 % cư dân, người Afrikaner sở hữu đến 80 % đất canh tác).

1950: ANC lấy lại chương trình của Đoàn Thanh niên thuộc ANC, chủ trương đình công, bất tuân dân sự, tẩy chay và bất hợp tác với chế độ apartheid.

1951: Mandela cùng bạn học là Olivier Tambo trở thành hai luật sư da đen đầu tiên ở Johannesburg.

1952: được bầu làm chủ tịch Đoàn Thanh niên của ANC, Mandela phát động chiến dịch đòi hủy bỏ các đạo luật phân biệt chủng tộc mà đỉnh cao là cuộc biểu tình ngày 6.4.1952: Mandela ở trong số 8500 người bị bắt.

1953: bị kết án 8 tháng tù treo, cấm hội họp, quản thúc tại gia ở Johannesburg

5.12.1956: bị bắt cùng với 155 người khác vì tội phản bội.

1957: li dị với bà Evelyn Ntoko-Mase.

1958: lấy bà Winifred Madikizela.

21.3.1960: tàn sát ỏ Sharpeville (69 người bị giết ). Liên hiệp quốc lên án, đòi Nam Phi phải bỏ chính sách apartheid.

1961: ANC bị cấm. Thành lập Umkhonto we Sizwe (MK), tổ chức vũ trang của ANC do thấy đấu tranh bất bạo động không có hiệu quả trước chính sách đàn áp của chính quyền. Mandela chuyển sang hoạt động bí mật.

5.1961: phát động tổng đình công, rồi phát động chiến dịch phá hoại những mục tiêu biểu tượng nhưng cố không gây thiệt hại nhân mạng.

1962: bí mật sang Anh sáu tháng rồi sang Ethiopia tập luyện quân sự. Sau khi về Nam Phi bị bắt, rồi bị kết án 5 năm tù.

12.6.1964: Mandela và sáu đồng chí khác bị kết án tù chung thân, bị giam 18 năm ở đảo Robben.

6.1976: tàn sát ở Soweto (hơn 300 người bị giết).

1982: chuyển sang nhà tù Pollsmoor và bị giam cách ly trong sáu năm.

2.1985: Mandela từ chối đề nghị trả tự do cho ông của tổng thống Pieter Willem Botha nếu ông từ bỏ đấu tranh vũ trang.

1988: Được đưa vào bệnh viện vì bị lao, rồi được chuyển sang nhà tù Paarl. Mandela trở thành tù nhân chính trị nổi tiếng nhất thế giới trong khi tình hình ngày càng thêm xấu cho chính quyền apartheid: với sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa và sự chấm dứt chiến tranh lạnh, nó ngày càng bị các nước phương Tây – kể cả Mỹ – bỏ rơi ; ANC ngày càng hoạt động mạnh ở bên trong cũng như ở ngoài Nam Phi.

7.12.1988: quản thúc tại gia.

6.1988: hòanhạc mừng Mandela 70 tuổi ở Wembley, được 600 triệu người ở 67 nước xem qua truyền hình trực tiếp.

1989: Mandela đề nghị thương thuyết giữa chính phủ Nam Phi và ANC để tránh việc hai phe tàn sát lẫn nhau.  Mandela cho rằng tổng thống Frederik de Klerk là người nghiêm túc và lương thiện nhất trong số các nhà l ãnh đạo da trắng, nên có thể thương thuyết với ông ta.

11.2.1990: được trả tự do sau 27 năm bị cầm tù.

26.2.1990: hô hào các đồng chí của ông từ bỏ đấu tranh vũ trang.

8.1990: ANC chính thức từ bỏ đấu tranh vũ trang.

30.6.1991: Mandela được bầu làm chủ tịch ANC lại trở thành hợp pháp. Thương thuyết với tổng thống Nam Phi Frederik de Klerk

30.6.1991: Hủy bỏ chế độ apartheid.

11.1991: ly thân với bà Winnie, rồi ly dị trong năm sau.

9.1992: ký kết hiệp định về quốc hội lập hiến và chính phủ chuyển tiếp

Đêm 17.6.1992: ở Boipatong đảng Inkatha Tự do của người Zoulou (đảng này chịu cộng tác với chính quyền apartheid) tàn sát 46 người da đen.

7.9.1992: ở Bisho, đảng Inkatha Tự do lại giết  29 người và làm bị thương 200 người

17.3.1993: với sự ủng hộ của Mandela, de Klerk được 68,7% cử tri ủng hộ trong cuộc trưng cầu ý kiến dân da trắng về việc chấm dứt apartheid.

1993: Mandela và de Klerk được giải Nobel hoà bình năm 1993 nhờ đã hoạt động “nhằm hủy bỏ chế độ apartheid và nhằm xây dựng một nước Nam Phi mới và dân chủ”. Khi nhận giải, Mandela đã tôn vinh sự can đảm của de Klerk

10.4.1993: sau khi Chris Hani, một nhà lãnh đạo của MK, bị ám sát, Mandela kêu gọi dân Nam Phi giữ bình tĩnh. Nhưng nhiều cuộc bạo loạn bùng nổ sau đó.

27.4.1994: tổng tuyển cử đa chủng tộc đầu tiên ở Nam Phi. Trước đó, Mandela phải thương thuyết trong ba tháng rưỡi với tướng Constand Viljoen, lãnh tụ của Mặt trận nhân dân Afrikaner (Afrikaner Volksfront) tập hợp nhiều tổ chức bảo thủ hay cực hữu muốn tạo ra một “nhà nước thuần túy chủng tộc” (Volkstaat) cho người Afrikaner và xem de Klerk là kẻ phản bội ; mặt khác ông cũng phải thương thuyết cực kỳ khó khăn với vua của người Zoulou là Goodwill Zwelithini kaBhekuzulu muốn lập ra nước zoulou ở Natal và với đảng Inkatha Tự do của hoàng thân Mangosuthu Buthelezi (cả hai đều đã cộng tác với chính quyền apartheid). Rốt cuộc Mandela thuyết phục được họ chấp nhận tham gia tuyển cử. ANC được 62,6% số phiếu. Được bầu làm tổng thống, ông thành lập chính phủ thống nhất dân tộc với sự tham gia của ANC, Đảng Quốc gia, và đảng Inkatha Tự do. Frederik de Klerk được cử làm Phó tổng thống. Mandela đã mời các cai ngục ở đảo Robben và công tố viên đã đòi ông phải bị kết án tù chung thân tham dự lễ nhận chức tổng thống của ông.

Nelson Mandela với thủ quân đội bóng bầu dục Nam Phi F. Pienaar, 1995

1995: chủ trương “forgive but not forget” (tha thứ nhưng không quên), Mandela cho thành lập Ủy ban sự thật và hoà giải do Tổng giám mục Desmond Tutu làm chủ tịch để thu thập chứng từ về các bạo hành và tội ác đã phạm trước đó không những của chính quyền apartheid mà ngay cả của các tổ chức chống apartheid như ANC. Những người chịu công khai thú tội sẽ được ân xá. Trái lại những người không chịu thú tội sẽ bị đưa ra toà, nếu nhà cầm quyền tìm ra đủ bằng chứng. Để nêu gương, Mandela kể chi tiết các bạo hành của ANC, đặc biệt là ở Angola, trong những năm 1970. Ông công nhận là trong khi đấu tranh, ANC cũng đã vi phạm nhân quyền và phê phán một số người trong ANC đã toan hủy bỏ các thông tin về các sai trái của ANC ghi trong các báo cáo của Ủy ban.

8.1995: Mandela đến tận nhà gặp vợ goá cực kỳ bảo thủ của Hendrik Verwoerd, lý thuyết gia tệ hại nhất của chính sách apartheid. Cũng trong năm này, Mandela kêu gọi dân da đen ủng hộ đội Springboks (mà trước đó họ tẩy chay vì chỉ gồm toàn cầu thủ da trắng) ở giải bóng bầu dục thế giới 1995.

1997: Mandela từ chức chủ tịch ANC.

18.7.1998: kết hôn – vào tuổi 80 – với bà Graça Machel, vợ goá của tổng thống Samora Machel (Mozambique). Ông tuyên bố như sau về mối tình này: “Yêu đương là một trải nghiệm mà mỗi người nên biết. Đối với tôi, đó là một trải nghiệm phi thường”.

1999: sau khi hết nhiệm lỳ, Mandela không tái ứng cử tổng thống để phục vụ nhân dân Nam Phi cho đến chết như nhiều nhà cách mạng khác!

2000: Mandela được bổ nhiệm làm trung gian để giải quyết tranh chấp giữa người Hutu và người Tutsi ở Burundi.

1.2002: Mandela chính thức tích cực tham gia chống bệnh AIDS ở châu Phi.

5.12.2013: Mandela từ trần.

N. T. N.

Nguồn: diendan.org