Cần Có Một Tấm Lòng

Cần Có Một Tấm Lòng

Trong những ngày qua, trên các trang mạng nói nhiều về cuốn phim tài liệu có tựa đề
là “Đừng Khóc Thương Tôi, Sudan”. Thật sự, khi xem cuốn phim này, người xem phải rơi lệ khi nhìn thấy hình ảnh vị linh mục Gioan Lee Tae Suk và số phận của những con người nghèo đói và bất hạnh tại làng Tonj miền Nam Sudan thuộc Châu Phi. Cuốn phim này sẽ tham dự Đại hội điện ảnh lần thứ 61 tại Bá Linh vào năm 2013.

Được sinh ra trong một gia đình nghèo khó, gồm có mười anh chị em, cậu bé Gioan Lee Tae Suk là người con thứ chín. Năm lên chín tuổi thì người bố qua đời, người mẹ vất vả tần tảo bằng nghề may vá để nuôi mười người con. Mặc dù là một đứa trẻ nghèo, nhưng Lee Tae Suk đã cố gắng học và thi đậu vào trường y khoa, và đã trở thành một bác sĩ y khoa. Con đường giàu sang và danh vọng đang mở rộng trước mặt với chàng trai Lee. Nhưng sau những năm phục vụ trong quân đội, chàng trai Lee đã cảm nhận được tiếng gọi của Thiên Chúa và từ bỏ tất cả sự nghiệp để vào dòng tu Salêriêng- Don Bosco.

Sau ngày lễ truyền chức linh mục tại Vatican, cha Gioan Lee Tae Suk đã tình nguyện đến phục vụ tại Sudan. Nhìn thấy trước cảnh nghèo đói và bệnh tật của người dân, cha Gioan Lee đã mở phòng khám bệnh cho người nghèo và thành lập một ngôi làng cho những người mắc bệnh phong, để cấp thuốc và chữa trị cho người phong cùi và xây dựng một ngôi trường học đầu tiên từ cấp mẫu giáo đến cấp trung học. Đối với người dân nơi đây, cha Gioan Lee như là hiện thân của Chúa Giêsu. Ngài đến với những con người đang bị bỏ rơi, đau khổ và
bất hạnh, và ngài là vị linh mục đầu tiên của Hàn Quốc đến phục vụ tại Phi Châu.

 

Trong cuốn tự truyện: “Các con là những người bạn của cha”. Cha đã dùng âm nhạc để xoa dịu những vết thương chiến tranh trong lòng các em. Khi tâm hồn những đứa trẻ bị tan vỡ do những vết thương chiến tranh tạo ra, qua âm nhạc, các em sẽ tìm được niềm vui và hy vọng trong một đất nước đã bị tàn phá do bởi chiến tranh. Trẻ em không còn cầm súng trên tay mà là những chiếc kèn mang lại những âm thanh của hòa bình, tình yêu và hy vọng.

Vào ngày 14 tháng 01 năm 2010, cha Gioan Lee đã đi về với Chúa, vì bệnh ung thư ruột già ở tuổi 48. Ngài phục vụ trọn vẹn cho những người đau khổ, bệnh tật, phong cùi, và nghèo đói tại Sudan. Cha Gioan đã ra đi trong nụ cười, còn những người ở lại đã đưa tiễn cha trong những giọt nước mắt của đau đớn và tiếc thương. Khi hay tin cha Lee qua đời, những người dân đã đau đớn vô cùng, họ ôm tấm ảnh cha Gioan khóc trong nghi thức tiễn biệt lần cuối tại ngôi Thánh đường. Những dòng nước mắt khóc thương cho một người cha đã yêu
thương và sống chết với họ. Cha Gioan Lee là vị mục tử nhân lành của Chúa Giêsu.

Hoàn cảnh của cha Gioan Lee thì không giống bà góa nghèo trong Tin mừng hôm nay, nhưng có một điểm chung, đó là một tấm lòng. Chúa Giê-su ngồi nhìn dân chúng bỏ tiền vào thùng bố thí trong Đền Thờ. Có rất nhiều người giàu có xếp hàng để bỏ tiền vào. Người giàu có thì bỏ rất nhiều tiền, nhưng chỉ bà góa nghèo bỏ vào thùng với hai đồng tiền. Đức Giê-su liền gọi các môn đệ lại và nói:” Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này đã bỏ vào thùng tiền nhiều hơn ai hết. Vì mọi người đều lấy tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ
vào đó; còn bà này đã túng thiếu, lại còn bỏ đó tất cả những gì bà có, tất cả những gì để nuôi thân”. Qua lời giải thích của Chúa Giê-su, các môn đệ và chúng ta đều nhận thấy rõ ý nghĩa của việc bố thí. Tấm lòng quý hơn lễ vật. Trong khi đó, người đời thường đánh giá theo số lượng. Mỗi khi dâng cúng hay làm điều gì thì cần được ghi danh và mọi người biết đến công trạng của mình. Cho nên, Chúa Giê-su nói với đám đông dân chúng rằng: ” Anh em hãy coi
chừng những kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi, thích ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, thích đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn.”.

Vậy, những kinh sư là ai? Có phải là tôi không?. Lời Chúa phản chiếu vào tâm hồn tôi. Mỗi khi tôi làm gì, tôi muốn được người khác biết ơn, muốn được người ta biết mình là người quảng đại có lòng bác ái, từ bi…, và muốn được ghi công trạng với Chúa và trước mặt người đời. Nếu tôi biết hồi tâm và nhìn lại, thì rõ ràng tôi đang bị lệ thuộc vào cách đánh
giá bên hơn là đi vào chiều sâu của nội tâm. Vì Chúa cần tấm lòng của tôi hơn là những gì tôi làm cho chính mình được vinh danh trong ngày hôm nay. Tấm lòng đó được thể hiện trong tình yêu thương nơi tha nhân, những người đang cần được yêu thương và quan tâm giúp đỡ, nơi công việc tôi làm với tấm lòng tạ ơn Thiên Chúa thì việc bố thí mới sinh lợi ích cho tha nhân. Bà góa đã dạy cho tôi cách làm đó, vì bà cho đi với tất cả tấm lòng của bà. Bà chia sẻ những gì bà có. Và cha Gioan Lee nhìn ra chính Chúa Giê-su trong mỗi con người, dù họ có vẻ đáng kinh tởm, xấu xí đến đâu đi nữa thì họ cũng là hình ảnh của Thiên Chúa. Chính tình yêu Thiên Chúa là động lực để ngài hy sinh và phục vụ cho những người
phong  cùi, những người bệnh tật và nghèo khổ.

Khi hiểu và đón nhận Lời Chúa, như là điều kiện cần thiết cho đời này và đời sau,
thì giờ đây chúng ta cần phải làm một việc gì đó cụ thể, để Nước Chúa lớn lên
trong tâm hồn và trong thế giới này. Chúng ta không chỉ đón nhận Thiên Chúa
bằng hình thức bên ngoài, lễ nghi mà còn là bằng một tấm lòng yêu thương chân
thành trong mỗi con người.

Lm. John Nguyễn, Utica, New York

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

CÓ THÊM MỘT PHÉP LẠ KHÁC DO LỜI BẦU CỬ CỦA CHÂN PHƯỚC LAURA DE JESUS MONTOYA UPEGUI

CÓ THÊM MỘT PHÉP LẠ KHÁC DO LỜI BẦU CỬ CỦA CHÂN PHƯỚC LAURA DE JESUS MONTOYA UPEGUI

Linh Tiến Khải

MEDELLIN: Nhờ lời bầu cử của Chân  phước Laura de Jesus Montoya Upegui, người Colombia, bác sĩ Carlos Eduardo Restrepo đã tức khắc khỏi bệnh lupus, suy thận và cơ bắp. Tài liệu của phép lạ này đã được gửi về Bộ Phong Thánh tại Roma để được cứu xét.
Phép lạ đã được các bác sĩ xác nhận ngày 14-6-2012. Người được ơn lạ là bác sĩ Carlos Eduardo Restrepo. Bác sĩ cho biết ông đã đươc khỏi bệnh sau khi cầu nguyện với Chân phước Laura de Jesus Montoya Upegui dòng các ”Nữ tu thừa sai Đức Mẹ Vô Nhiễm và thánh Catarina thành Siena”. Đêm hôm đó bác sĩ cầu nguyện và nói với chị Laura: ”Nếu chị chữa tôi lành các bệnh này, thì tôi sẽ kể cho thế giới biết phép lạ chị làm để chị sẽ được
nâng lên bàn thờ”. Ông kể: ”Đầu tôi trỗng rỗng. Tôi không biết mình có sống kinh nghiệm ra ngoài thân xác hay không hay là tưởng tượng hoặc trong tiềm thức, nhưng khi tin tưởng nơi chân phước Laura, tôi cảm thấy một sự an bình tuyệt diệu. Sáng hôm sau tôi thức giấc và cảm thấy mình hoàn toàn khỏe mạnh. Nếu đây không phải là phép lạ, thì tôi không biết nó là gì”.
Nữ tu Aida Orobio, bề trên dòng các Nữ tu thừa sai Đức Mẹ Vô Nhiễm và thánh Catarina thành Siena, do chị Laura thành lập, nói: ”Dân chúng tại quê sinh của chị cũng không biết đến người phụ nữ tuyệt vời này. Trong vùng đất nơi các phụ nữ chỉ biết dựa vào nam giới, chị Laura đã dám theo tiếng Chúa gọi và người ta
gọi chị là người điên.  Nhưng vì yêu thương các thổ dân bị gạt bỏ ngoài lề xã hội chị đã vào rừng sống và làm việc với họ, mặc dù phải găp khó khăn với các đại điền chủ trong vùng. Chị qua đời ngày 21 tháng 10 năm 1949 trong căn nhà ở Medellin nơi hiện nay là bảo tàng viện và nhà dòng. Dòng do chị Laura thành lập đã lan sang nhiều nước Mỹ châu, Phi châu và Âu châu (CNA 31-10-2012)

Linh Tiến Khải

Niềm hy vọng

Niềm hy vọng

TRẦM THIÊN THU

Đây là câu chuyện có thật do chính tác giả kể lại. Mời bạn cùng cảm nghiệm…

Tôi là Carlos Sievert Callejo, 63 tuổi, bác sĩ chẩn đoán bị ung thư gan hồi tháng 1-1999. Sau một năm buồn bã, đau khổ, tuyệt vọng, tôi lại tin vào THIÊN CHÚA. Tôi thoát “án tử” mà bác sĩ đã tiên báo. Tôi vui sống và kể lại “kinh nghiệm đau thương” cho các bệnh nhân ung thư nghe để họ không tuyệt vọng về cái chết được báo trước. CHỈ CÓ THIÊN CHÚA BIẾT MỌI SỰ.

Hồi trẻ, tôi rất khỏe mạnh và đầy sức sống. Tôi là đội trưởng đội bóng rổ và bóng đá Don Bosco, tôi khá hầu hết các môn thể thao và các hoạt động ngoại khóa.

Giữa năm 1998, vợ tôi thấy có điều gì đó khác ở tôi và nói tôi lưu ý. Nàng cảm thấy tôi không còn như trước nên nhận biết khi tôi sụt cân, yếu sức và hay cáu gắt. Vợ tôi cương quyết bắt tôi đi xét nghiệm.

Năm 1986, tôi phát hiện mình bị tiểu đường, di truyền từ mẹ tôi. Trong 2 năm đầu, hằng ngày tôi đi châm cứu và uống 1 chén nước dưa đắng (ampalaya) để kiềm chế đường máu. Suốt 10 năm tôi dùng các loại thảo dược mà bác sĩ kê toa, mức đường trung bình khoảng 200 mg. Rồi tôi được bác sĩ khuyên tiêm insulin (Humulin N) vì ít phản ứng phụ và biến chứng.

Năm 1996, sau vài lần xét nghiệm và siêu âm, tôi lại phát hiện bị sạn thận. Tháng 3-1997, bác sĩ khuyên phẫu thuật lấy sạn trước khi chứng tiểu đường nặng hơn. Tuy nhiên, chứng nôn mửa, choáng váng và bao tử khiến tôi khó chịu sau khi nội soi bụng (laparoscopy), bác sĩ nói tôi sút cân vì tiểu đường chứ không phải sạn thận làm tôi khó tiêu hóa. Năm 1998, tôi vẫn sụt cân nhiều trong vòng 6 tháng. Bác sĩ nói không sao vì tôi cần giảm thuốc. Nhưng vợ tôi không đồng ý với bác sĩ và muốn tôi xét nghiệm lại.

Tháng 1-1999, bác sĩ nói tôi phải phẫu thuật mở dạ dày (gastroscopy), nhưng không thấy có vấn đề gì. Vợ tôi khăng khăng bắt bác sĩ xem lại. Vẫn không phát hiện được gì. Vợ tôi không tin là tôi không có vấn đề và bắt tôi phải chụp CT bụng. Rõ ràng tôi có khối u 4 cm x 3,1 cm ở lá gan bên phải. Tôi phải hóa trị 5 lần (trên mức bình thường). Khối u ác tính được xác định và tôi được chụp CT để xem có phải là ung thư di căn tới phổi và các bộ phận khác hay không. Nếu dương tính, bác sĩ sẽ cố gắng hết sức và tôi chỉ còn chờ tử thần đến. Nhưng sau vài lần xét nghiệm để xác định di căn (metastasis), bác sĩ thấy ung thư vẫn chỉ ở gan chứ không di căn tới các nội tạng khác. Tôi được giới thiệu tới một bác sĩ chuyên khoa ung thư. Bác sĩ hỏi tôi có uống rượu nhiều hay hút thuốc nhiều không, có bị tiêu chảy, siêu vi hoặc gia đình có ai bị ung thư không. Họ hỏi vậy để cố gắng tìm nguyên nhân gây ung thư của tôi. Tôi chỉ uống rượu hoặc hút thuốc khi xã giao thôi. Siêu vi, tiêu chảy và lịch sử bệnh ung thư đều “âm tính”. Tôi không biết rõ nguyên nhân, tôi nghĩ có thể do thực phẩm.

Sau vài lần xét nghiệm và được tư vấn của các bác sĩ ở Trung tâm Y khoa Makati, tôi được phẫu thuật cắt khối u ác tính. Bác sĩ nói cuộc phẫu thuật phải kéo dài từ 4 tới 6 giờ. Tôi nhập viện ngày 4-1, và được ấn định phẫu thuật ngày 5-1-1999. Vì tôi yếu gan, máu khó đông. Bác sĩ không dám mạo hiểm trong trường hợp của tôi và quyết định để máu tôi đông ít nhất 70 tới 80% mới rạch dao mổ, vì họ không muốn tôi chảy máu nhiều mà chết. Sau 4 ngày dùng thuốc để cải thiện việc đông máu, tôi được phẫu thuật lúc 7 giờ sáng ngày 8-1-1999.

Thật ngạc nhiên, tôi tỉnh lại và hỏi vợ nhiều câu hỏi. Vợ tôi không trả lời. Tôi nghi vợ muốn giấu tôi nên bảo tôi đợi bác sĩ đến giải thích. Tôi nghi có điều gì đó bất ổn.

Họ lấy chất dịch trong gan để làm sinh thiết. Khối u xấp xỉ 10,5 cm x 4,2 cm ở lá gan bên phải, lớn hơn so với lần chụp CT. Tôi cần dùng liệu pháp khác cho bớt đau đớn. Tôi nghe bác sĩ cho vợ tôi biết rằng tôi chỉ còn sống thêm được 4 tới 6 tháng. Tôi được hóa trị mỗi tháng 3 lần trong 6 tháng (tổng cộng 18 lần), chi phí là 1 triệu peso Philippines (gần 500 triệu VNĐ). Một số tiền quá lớn đối với gia đình tôi. Cơ may hồi phục chỉ từ 5 tới 20%. Tôi bảo vợ để dành tiền cho gia đình. Nhưng vợ tôi cứ xin tôi hóa trị bằng mọi giá, chỉ mong tôi sống sót. Tôi tuyệt vọng. Tôi không muốn gặp bất kỳ ai. Tôi đến với CHÚA, với những lời cầu nguyện và niềm tín thác mới vào Ngài, xin Ngài ban sức mạnh cho tôi chịu đựng chứng ung thư. Trong 2 tuần tôi cầu nguyện như chưa bao giờ cầu nguyện để nài van Ngài can thiệp và giúp đỡ.

Tôi bắt đầu chấp nhận và dâng mọi sự cho Chúa. Tôi làm tuần cửu nhật kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở Baclaran. Tôi tới Baclaran vào các ngày thứ Tư trong cơn đau nhức. Tôi cố gắng giành lại sự sống. Tôi hoàn toàn tín thác vào Chúa. Tôi làm các tuần cửu nhật kính các vị thánh khác cùng với bạn bè và người thân.

Tôi phải hóa trị 10 ngày sau lần phẫu thuật không thành công như đã nói, nhưng vợ tôi muốn tôi phẫu thuật lại vào ngày 5-3-1999, sau khi chờ cho tôi hồi sức.

5:30 sáng, BS Angelito Tingcungco bắt đầu phẫu thuật. Tôi thấy một người mặc áo trắng bước vào. Chưa đầy 10 giây, bác sĩ gọi tên tôi. Tôi nghĩ là có sự can thiệp của Chúa. BS Tingcungco xem bệnh án và ảnh chụp CT và nói tôi có thể sống thêm 10 tới 15 năm. Tin vui nhất đời tôi. BÁc sĩ hẹn ngày 5-3-1999 tôi hóa trị đợt đầu. Hai tháng một lần.

Sau đợt hóa trị lần hai, tôi lo bao tử tôi sẽ nặng hơn, vì bác sĩ bảo ung thư đã di căn tới bao tử. Người em họ mời tôi tới Tuguegarao dự lễ khánh thành Thánh đường Minore dâng kính Đức Mẹ ở Piat vào ngày 22-6-1999. Hôm đó tôi cảm thấy không đau nhức. Tôi biết Đức Mẹ đã giúp tôi để tôi có cơ hội tới chỗ này chỗ nọ, như Đức Mẹ ở Manaoag, Đức Mẹ khóc ở Baguio và Zamboanga. Tôi cầu nguyện trong nhà thờ, và cơn đau càng lúc càng giảm. Nhờ ơn Chúa giúp, nhờ lời cầu nguyện của gia đình và bạn bè, khối u của tôi giảm còn 2,5 cm. Đúng là phép lạ. Tôi được hẹn hóa trị 4 đợt, lần cuối vào tháng 10-1999.

Các bác sĩ Hoa Kỳ không thể tin tôi có thể sống thêm được 8 tháng. Họ nói tôi may mắn gặp được bác sĩ giỏi ở Philippines và lời cầu nguyện của tôi đã giúp tôi, vì thế tôi nên tiếp tục cầu nguyện. Nhưng họ vẫn không có kết luận chính xác, và họ muốn làm sinh thiết lại. Sau 3 tuần, người ta xác định được đó là ung thư biểu bì gan (Hepatocellular Carcinoma).

Khi ở Hoa Kỳ, tôi đến nhiều nhà thờ, tham quan cả “chiếc cầu thang kỳ lạ” của nhà nguyện Loretto, nhà thờ Sanctuario Chimayu, Hang Lộ Đức ở Maryland, nhà thờ Thánh Tâm ở Washington và nhiều nơi khác để xin Chúa thương giúp. Tôi cầu xin ơn Chúa gần 30 năm. Tôi trở nên nhạy cảm và dễ khóc khi cầu nguyện với Chúa, tạ ơn Ngài đã ban cho tôi cuộc sống thứ hai.

Tôi tới Đức Mẹ ở Piat vào ngày 22-6-2000 và tới Đức Mẹ ở Manaoag để tạ ơn cùng với các vị thánh khác đã nguyện giúp cầu thay cho tôi. Tới nay, tôi vẫn chân thành cầu nguyện và tạ ơn Chúa vì bao ơn lành Ngài đã ban cho tôi.

Nỗi thất vọng và sự u sầu là kẻ thù nguy hiểm. Hãy để Chúa chăm sóc bạn. Ngài không bao giờ để bạn thất vọng nếu bạn thật lòng kêu xin Ngài giúp đỡ. Hãy ghi nhớ Lời Chúa: “Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho” (Mt:7-8; Lc 11:9-10). Các bác sĩ “bó tay” và nói tôi sắp chết, tôi chỉ còn biết cậy trông Chúa. Tôi cầu nguyện bằng chính lời của Chúa Giêsu: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26:39), và tôi tâm sự với Chúa: “Lạy Chúa, con xin dâng đau khổ của con cho Chúa và xin để đau khổ trở thành cách con nói rằng CON YÊU CHÚA”.

Bây giờ tôi làm việc tông đồ bằng cách thăm viếng các bệnh nhân ung thư ở Trung tâm Y khoa Makati và tới gia đình của các bệnh nhân. Tôi nói với họ về kinh nghiệm của tôi, an ủi họ và khuyên họ đừng tuyệt vọng mà hãy tín thác vào Chúa.

Ngài luôn sẵn sàng giúp bạn nếu bạn kêu xin Ngài. Tôi kể ra điều này để nói với bạn hãy hoàn toàn tín thác vào Chúa và cầu nguyện với Ngài, vì nhờ cầu nguyện và tin tưởng tuyệt đối vào Ngài thì Ngài sẽ không bao giờ để bạn thất vọng. Điều đó đã xảy ra với tôi thì chắc chắn cũng sẽ xảy ra với bạn!

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ All-About-The-Virgin-Mary.com)

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Tận thế

Tận thế

Tác giả: Trầm Thiên Thu

(Chúa nhật XXXIII TN, năm B)

Thời gian thấm thoát. Mới ngày nào bắt đầu một năm mà nay đã vào cuối năm, cả
về năm đời và năm phụng vụ. Thời gian vào giai đoạn cuối. Thời điểm cuối gợi
nhiều suy tư. Có nhiều cái cuối, đặc biệt nhất là cuối đời và cuối thời – tức
là tận thế, Công giáo gọi là cánh chung.

Tận thế là 2 từ người ta không muốn nghe ai nhắc tới, vì nó khiến người ta e
ngại hoặc không vui. Tuy nhiên, tận thế có thể là niềm mong chờ của người này,
nhưng có thể lại là nỗi sợ của người khác.

Ngôn sứ Đanien nói: “Thời đó, Micaen sẽ đứng lên. Người là vị chỉ huy tối cao,
là đấng vẫn thường che chở dân ngươi. Đó sẽ là thời ngặt nghèo chưa từng thấy,
từ khi có các dân cho đến bây giờ. Thời đó, dân ngươi sẽ thoát nạn, nghĩa là
tất cả những ai được ghi tên trong cuốn sách của Thiên Chúa” (Ðn 12:1a). Đó là
những lời tiên báo về ngày tận thế, đặc biệt ông cho biết đó là “thời ngặt
nghèo nhất”, chắc chắn rất đáng quan ngại, thậm chí là đáng sợ, nhưng lại không
hề đáng sợ đối với những người thuộc về Thiên Chúa, vì họ sẽ được “thoát nạn”.

Ngôn sứ Đanien giải thích: “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều
người sẽ trỗi dậy”. Những người “an nghỉ trong bụi đất” là những người chết,
vậy mà họ “trỗi dậy”, tức là sống lại. Rõ ràng đó là ngày tận thế, ngày chung
thẩm. Nhưng số phận mỗi người khác nhau:: “Người thì để hưởng phúc trường sinh,
kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu
trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn
đời như những vì sao” (Ðn 12:1b-2). Cùng một ngày, cùng được sống lại, nhưng có
người sợ hãi và có kẻ vui mừng.

Tác giả Thánh vịnh thân thưa thay những người thuộc về Chúa: “Lạy Chúa, Chúa là
phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con,
chính Ngài nắm giữ” (Tv 16:5). Tất cả đều là của Chúa, nhưng Ngài trao chúng ta
quyền quản lý. Nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, chúng ta hoàn toàn an tâm:
“Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ. Vì
thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan, thân xác con cũng nghỉ ngơi an
toàn” (Tv 16:8-9).

Tác giả Thánh vịnh xác định nguyên nhân: “Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong
cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ” (Tv 16:10), đồng
thời hoàn toàn khiêm nhường và tín thác vào Chúa: “Chúa sẽ dạy con biết đường
về cõi sống: trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề, ở bên Ngài, hoan lạc
chẳng hề vơi!” (Tv 16:11). Chắc hẳn chúng ta không đủ ngôn từ để diễn tả niềm
hoan lạc được cận kề bên Chúa!

Thánh Phaolô nói: “Vị tư tế nào cũng phải đứng trong Đền Thờ lo việc phụng tự
mỗi ngày và dâng đi dâng lại cũng ngần ấy thứ lễ tế; mà những lễ tế đó chẳng
bao giờ xoá bỏ được tội lỗi” (Dt 10:11). Tế lễ là bổn phận và trách nhiệm hằng
ngày của các tư tế, không chỉ dâng lễ đền tội cho mình mà còn dâng thay người
khác, nhưng dù dâng bao nhiêu lần vẫn không bao giờ đủ mức để hoàn hảo. Nhưng
có một tư tế chỉ cần dâng một lần cũng đủ, đó là Đức Kitô: “Sau khi dâng lễ tế
duy nhất để đền tội cho nhân loại, Ngài đã lên ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn
đời” (Dt 10:12).

Vì Đức Kitô là Thiên Chúa, là Thượng tế, là Đấng cao cả hơn mọi loài: “Từ khi
đó, Ngài chờ đợi ngày các kẻ thù bị đặt làm bệ dưới chân” (Dt 10:13), và “Ngài
chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Ngài đã thánh hoá được
nên hoàn hảo” (Dt 10:14). Dù là ai và là gì thì tất cả chúng ta vẫn chỉ là
những tội nhân. Thánh Phaolô vừa giải thích vừa kết luận: “Nơi nào đã có ơn tha
tội thì đâu cần lễ đền tội nữa” (Dt 10:18).

Nói về ngày Con Người quang lâm, Chúa Giêsu cho biết các dấu hiệu: “Trong những
ngày đó, sau cơn gian nan, mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu
sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên trời bị lay chuyển”
(Mc 13:24-25). Đó là giờ G. Đó là lúc “thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền
năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (Mc 13:26). Và cũng chính lúc đó,
“Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển
chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời” (Mc 13:27).

Thấy những sự việc diễn biến hằng ngày, chúng ta có thể đoán biết điều gì xảy
ra. Ngày tận thế cũng có những dấu chỉ khả dĩ nhận biết, Đức Kitô dùng hình ảnh
thực tế hơn để mọi người đều có thể hiểu: “Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học
hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết là mùa hè đã
đến gần. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Con Người
đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi” (Mc 13:28-29). Cuối cùng, Ngài quả quyết:
“Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi,
nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Mc 13:30-31). Tức là rất chắc chắn
xảy ra ngày tận thế, không hề là chuyện đùa hoặc bịa đặt!

Tuy nhiên, hình như loài người vẫn bán tín bán nghi. Bằng chứng là đã từng có
nhiều tin đồn về ngày nọ hay tháng kia là thời điểm tận thế, về chuyện “tối ba
ngày, ba đêm”,… thế nên người ta lo tích lũy nến và mì gói để “đối phó”. Thật là
nhảm nhí và dị đoan, chứng tỏ họ chẳng biết hoặc chẳng tin lời Chúa nói. Chính
Chúa Giêsu đã xác định: “Về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các
thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc
13:32).

Vậy sao người ta vẫn bịa ra những tin đồn? Thật tệ hại là vẫn có những người
nhẹ dạ cả tin khi nghe những lời “tiên tri dỏm” ấy. Chúa Giêsu còn chưa biết
thì sao những con người phàm phu tục tử đầy tội lỗi như chúng ta lại biết
trước? Không lo sống tốt mà cứ lo chuyện nhảm trên trời, dưới đất là sao? Quá
vô lý!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết vững niềm tin vào Lời Chúa và hoàn toàn
tín thác vào Con Chúa để có thể đứng vững cho đến lúc Đức Kitô tái lâm. Chúng
con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con.
Amen.

TRẦM THIÊN THU

“LỜI MẸ HỨA” SẼ TỚI

 

“LỜI MẸ HỨA” SẼ TỚI

 

Mẹ đứng đó nơi cao nguyên lộng gió

Mắt Mẹ buồn lệ nhỏ giọt minh châu

Thương đàn con nên mắt Mẹ u sầu

Sự bất công nơi vùng sâu xa đó.

 

Thiếu nhi còm đói ăn quàng khăn đỏ

Nhiều bữa ăn cộng cỏ với củ khoai

Không dép giày tay lạo động đã chai

Đi thất thểu lòi vai manh áo rách…

 

Nước đang bẩn làm sao rửa cho sạch

Lòng ta buồn than trách, bởi vì đâu?

Mỏ Bô-Xít đào bới bởi giặc tàu

Trào bùn đỏ thương đau toàn thân Mẹ

 

Giọt lệ sầu từng ngày trôi lặng lẽ

Mãi xuống đời rồi sẽ lớn thành sông

Nước cuốn trôi chảy qua những cánh đồng

Màu đỏ thắm Cửu Long Giang ra biển

 

Còn đâu nữa bốn ngàn năm văn hiến

Biển Thái Bình diễn biến đau lòng Mẹ

Đón con về ôm lấy lòng quặn se

Từng đứa con xanh lè vì đói khát

 

Ôi ! vì đâu mà Giang Sơn rách nát

Lòng Mẹ đau như muối xát từng cơn

Những đứa con nghịch tử gây oán hờn

Gieo tang tóc chập chờn bao năm tháng

 

Tay vấy máu đồng bào chảy lai láng

Xác nó kia! chỉ táng, mà không chôn

Bởi dối gian nó bán cả linh hồn

Nên khi chết qủy không chôn xác nó

 

Bao nhiêu lâu nghịch tử còn nằm đó

Bấy nhiêu ngày khốn khó vẫn chưa qua

Ngày nào đó xác nó sẽ tan ra

Bón cho ruộng nước nhà ta xanh thắm

 

Em bé mong ngày đó không xa lắm!

Đời sẽ ngọt trái đắng sẽ qua đi

“Lời Mẹ hứa” chắc chắn sẽ thực thi

Hãy cầu nguyện vững tin ngày tươi
sáng.

 

Thanh sơn 10.11.2012

Maria Thanh Mai gởi

God Bless America ?

God Bless America ?

Huỳnh Quốc Bình

Chúa Ban Phước Cho Hoa Kỳ ?

“God Bless America” là lời chúc mà chúng ta thường nghe từ miệng các chính khách người bản xứ, nhất là các vị Tổng Tống Hoa Kỳ sau khi chấm dứt bài diễn văn, hay đọc một thông điệp nào đó để gửi đến dân chúng của mình. Lời chúc lành này cũng không khác chi lời chúc “Chúa ban phước” giữa những người có niềm tin vào Thiên Chúa dành cho nhau. Nói cho cùng những ai sử dụng các câu “God Bless America” hoặc “Chúa ban phước” nó cũng chẳng có ý nghĩa gì, nếu không muốn nói là “sáo ngữ” nếu họ nói vì thói quen, hoặc không nói thì sợ người khác cho rằng mình không “thiêng liêng”.

Chúa ban phước cho Hoa Kỳ ?

Sau cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ hôm ngày 6 tháng 11 năm 2012 vừa qua, một ông bạn
vong niên Việt Nam, gọi điện thoại và chia sẻ với tôi một điều khiến tôi chú ý và quyết định viết bài này. Ông cho biết, một buổi sáng sau ngày bầu cử, ông đi lễ nhà thờ; trong bài giảng luận, vị Linh Mục người Mỹ nói rằng:

“Mọi người hay chúc “God Bless Ammerica” nhưng làm sao Thiên Chúa có thể
ban phước cho một quốc gia có vị Tổng Thống và nhiều người dân ủng hộ cho những vụ giết người trực tiếp hay gián tiếp, làm những điều nghịch lại lời Chúa… Giống như vấn đề phá thai và tán đồng cho vấn đề hôn nhân đồng tính tại Hoà Kỳ…”

Theo tôi, sư nhận xét hay thắc mắc của vị linh mục vừa nêu rất đáng cho những ai nhận mình là Thiên Chúa Giáo (Công Giáo và Tin Lành) xét lại đức tin của mình, nếu người đó từng cầm lá phiếu ủng hộ cho những thành phần có chủ trương và đường lối nghịch lại Thánh Kinh.

Làm lợi cho ma quỷ :

Tôi thấy một số người cũng đến nhà thờ “xem lễ” hay “nhóm” thờ phượng Chúa đều đặn, nhưng lại rất hăng hái vận động người khác bỏ phiếu cho ứng viên Tổng Thống- Obama vì tin rằng ông sẽ làm một cuộc “cách mạng” về kinh tế cho Hoa Kỳ. Khi suy nghĩ như thế, chẳng lẽ họ đã quên lời khuyến cáo của Thánh Kinh rằngcon người không phải chỉ duy nhất cần vật chất, mà còn cần lời của Đức Chúa Trời nữa, hay sao?. (1)

Cần sự thay đổi :

Năm 2008 sau cuộc bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ, tôi có đáp chuyến bay qua miền Đông
Nam Hoa Kỳ. Trên chuyến bay chuyển tiếp từ phi trường thành phố Portland đến Chicago, tôi ngồi gần một phụ nữ Mỹ da trắng, tuổi khoảng ngoài năm mươi. Qua cuộc chuyện trò, tôi mới biết bà là một giáo sư của một Đại Học ở thành phố Chicago và là người có niềm tin vào Thiên Chúa. Vì thấy trên tay của bà có đeo chiếc lắc bằng kim loại được kết từ những mẫu tự “Alpabet” (hai mươi sáu chữ cái), nên tôi “tò mò” hỏi cho biết. Bà bèn giơ cánh tay lên cho tôi xem và giải thích:

“Đây là tên của Tổng Thống Barack Hussein Obama, là người tôi rất ngưỡng mộ và đã bỏ phiếu tín nhiệm ông vào chức Tổng Thống…”.

Vì tôi hỏi bà nên bà hỏi lại tôi:

“Ông nghĩ thế nào về ông Tổng Thống của mình?”.

Tôi không ngần ngại cho bà biết rằng Tổng Thống Obama mà người có tài hùng biện, có bằng cấp cao, có sự quyết tâm, nhưng rất tiếc ông không phải là vị Tổng Thống mà tôi mong đợi và bỏ phiếu tín nhiệm. Dù vậy tôi vẫn tôn trọng chức vụ của ông, bởi tôi tôn trọng lá phiếu của những cử tri đã chọn ông….”

Nghe tôi nói, bà chau mày và có vẻ không vui, nhưng vẫn giữ giọng từ tốn để hỏi
tôi:

“Ông có thể cho tôi biết tại sao ông không bỏ phiếu cho Obama, được không?” (Ít khi nguời Mỹ hỏi ai câu hỏi này).

Thay vì trả lời, tôi hỏi ngược lại bà:

“Don’t you know that Obama announces he supports same-sex marriage and Abortion?” (Bà không biết rằng ông Obama đã tuyên bố ủng hộ hôn nhân đồng tính và tự do phá thai hay sao?).

Thay vì trả lời, bà cũng hỏi ngược lại tôi bằng câu nói có tính cách thách đố:

“Do you think I do not know that?” (Ông nghĩ là tôi không biết chuyệt đó sao?), và bà nói tiếp: “Tôi biết chuyện đó, những tôi vẫn phải bỏ phiếu chọn ông ấy, vì tôi muốn Hoa Kỳ có sự thay đổi, Hoa Kỳ cần có một Tổng Thống không giống những Tổng Thống trong quá khứ. Mọi người cần sự thay đổi…”

Nói xong bà im lặng, và tôi thấy mình cũng không còn đủ ngôn từ (tiếng Anh), và
khả năng (tính thuyết phục) để giải thích thêm với người đàn bà Mỹ, trí thức và
“có đạo” này, nên cũng im lặng luôn. Khoảng hai tiếng đồng hồ sau, lúc máy bay
gần hạ cánh thì bà gợi chuyện lại, và nói với tôi:

“Ben, you are right, I forgot all about that. Thank you for pointing that
out”
(Ông Bình, ông nói đúng, tôi đã quên mất chuyện đó. Cảm ơn ông đã chỉ ra những điều đó)

Bốn cái vỏ xe mới :

Tôi có quen một anh Việt Nam, qua Mỹ trên hai mươi lăm năm. Sống ngoài đời anh
cũng là thành phần được cho là lanh lẹ, khó có ai dễ dàng gạt gẫm hay lấn lướt anh ta. Có lần anh “khoe” với tôi về chiếc xe cũ anh mới mua với giá tiền khoảng sáu ngàn Mỹ Kim. Xem xét qua chiếc xe, tôi cho anh biết rằng anh đã mua nó gần gấp đôi giá bình thường. Anh đồng ý là nhận xét của tôi không sai, nhưng “chê” rằng tôi chỉ thấy có phân nửa giá trị của chiếc xe. Tôi hỏi phân nửa giá trị còn lại mà tôi không thấy đó là gì? Thì anh cho biết là tôi hãy nhìn vào bốn cái vỏ xe thượng hạng và “mới toon” thì biết. Tôi chỉ cuời thông cảm và
nói:

“Bốn cái vỏ mới này nếu mua giá bình thường tối đa là sáu trăm Mỹ kim,
nếu mua lúc giá hạ thì khoảng bốn trăm thôi, như vậy ông vẫn còn hố trên hai
ngàn Mỹ kim…”.

Tới đây thì anh ta mới “té ngửa” và nhận ra rằng mình đã bị “hố”. Không phải do anh “ngu” mà bị hố, nhưng do “cái đầu” của anh lúc bấy giờ bị “mê hoặc” bởi bốn cái vỏ xe mới nên mới “lâm nạn”. Cũng may, anh này thuộc thành phần biết phục thiện, nên không “cãi chày cãi cối” để bảo vệ cái “khôn” của mình…
Nói chung, ai cũng có thể bị kẻ gian lừa. Người khôn ngoan có khi bị lừa theo cách “bình dân”. Người dại thường bị lừa theo kiểu “trí thức”. Chính vì sự bất toàn này của con người nên ngay cả Tổng Thống của một nước, mà cũng còn cần người khác cố vấn là vậy.

Vấn đề phá thai:

Nhiều bài viết, sách báo, tài liệu… lên án những ai chủ trương “phá thay” hay “nạo thai”, tức là làm công việc “giết thai nhi” (abortion). Vì khuôn khổ bài viết, tôi sẽ không dài dòng về chuyện này mà chỉ muốn nói rằng: “…….bất cứ hành động nào giết thai nhi cho dù còn non tháng, đều là những kẻ sát nhân cần bị lên án.”

Những ai ra vẻ “công bằng”, “tự do” khi trả lời theo kiểu “lách” để hốt phiếu cử tri, rằng họ “tôn trọng quyền quyết định của phụ nữ” chính là những kẻ giết người gián tiếp. Bọn chúng chính là tay sai của ma quỷ, chứ không có “công bằng”, “tự do” gì ráo. Nếu ngày nào những kẻ “sát nhân” đó đông hơn những người biết tôn trọng sinh mạng con người thì xã hội loài người sẽ ra sao? Ủng hộ hành động phá thai sẽ là việc làm khuyến khích thanh thiếu niên xem thường hôn nhân thánh khiết, không biết trân quý giá trị đạo đức con người, sống buông thả, và các hành động gian dâm bất chính ngày càng gia tăng.

Hôn nhân đồng tính :

Có nhiều bằng chứng cho thấy, sự luyến ái nghịch với lẽ tự nhiên (same-sex
marriage) đã tạo ra những bệnh tật quái ác. Đảo lộn những hôn nhân thánh khiết
mà Đức Chúa Trời đã định. Thánh Kinh Cựu Ước- Sáng Thế Ký 19 có đề cập đến
thành Sô Đôm, đó là thành bị Đức Chúa Trời huỷ diệt vì cả thành mang tội “luyến
ái nghịch với lẽ tự nhiên”.

Có người cho rằng, người ta có quyền tự do chọn lựa những điều mình thích và muốn người khác phải tôn trọng. Điều nầy mới nghe cũng có vẻ công bằng, nhưng chúng ta đừng quên rằng nếu tự do cái nầy được, thì tự do cái khác cũng có thể được. Điển hình cho thấy là Thánh Kinh đã khuyến cáo việc con người không được giao cấu với người cùng phái. (2), (3)

Những kẻ “làm nhục” Thập Tự Giá

Mất linh hồn :

Người ta có thể lấy lòng cử tri, vì muốn duy trì quyền lực trong giáo quyền, hoặc vì một quyền lợi nào đó để ủng hộ những điều nghịch với Thánh Kinh, nhưng con dân Chúa cần phải biết, Chúa Cứu Thế Jesus từng khuyến cáo rằng, linh hồn quý hơn cả thế gian. (4)

Kết luận :

Không có Chua nào lại ban phước cho một con người hay một đất nước xem thường mạng sống của người khác. Không một Thiên Chúa nào lại ban phước cho những cá nhân hay quốc gia nào có chủ trương hay đường lối nghịch lại Thánh Kinh, dù họ cũng có quyển Thánh Kinh trong tay. Là con dân Chúa chân chính, chúng ta phải bằng mọi cách, góp phần ngăn cản người khác có hành động giết người và giết chết thai nhi dù bất cứ lý do “chính đáng” nào, nếu đó không phải là để cứu mạng sống người mẹ của thai nhi. Chúng ta cần nói cho họ biết rằng hành động phá thai là mang tội giết người.

Chúng ta sẽ không ruồng bỏ những người có sự luyến ái với người cùng phái, nhưng chúng ta không thể ủng hộ việc làm của họ chỉ vì muốn chứng tỏ mình là người tôn trọng quyền tự do của người khác. Nếu xã hội này mọi người được tự do quá đà và hôn nhân thánh khiết mà Đức Chúa Trời đã định bị đảo lộn, thì bao nhiêu xáo trộn khác sẽ xảy ra. Ngoài những bệnh tật quái ác do những sự luyến ái bất thường tạo ra, thì sự truyến giống của loài người cũng sẽ bị tận diệt.

Cầu xin Thiên Chúa cho mọi người biết quý trọng mạng sống con người, có tình
yêu thương thật, yêu cả những ai có sự luyến ái không tự nhiên… Nhưng xin Chúa
cho chúng ta không vì quyến lợi cá nhân, vì muốn đạt danh vọng đời này mà lại
ủng hộ những việc làm nghịch với Thánh Kinh. A-men!

Huỳnh Quốc Bình

Viết xong ngày 8 tháng 11 năm 2012, tại Salem, Oregon, USA

(503) 949-8752

email: [email protected]

Ghi Chú:

1. Chúa Cứu Thế Jesus phán: “..Người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà
thôi, song nhờ mọi lời nói ra từ miệng Ðức Chúa Trời.” (Ma-thi-ơ 4:4)

2. “Chớ nằm cùng một người nam như người ta nằm cùng một người nữ; ấy là một
sự quái gớm.” (Lê-vi ký 18:22)

3. “Ðức Chúa Trời đã bỏ mặc họ cho sự tình dục xấu hổ; vì trong vòng họ,
những người đờn bà đã đổi cách luyến ái tự nhiên ra cách khác nghịch với tánh
tự nhiên. Những người đờn ông cũng vậy, bỏ cách luyến ái tự nhiên của người đờn
bà mà un đốt tình dục người nầy với kẻ kia, đờn ông cùng đờn ông phạm sự xấu
hổ, và chính mình họ phải chịu báo ứng xứng với điều lầm lỗi của mình.” (Rô-ma
1:26-27).

4. “Người nào nếu được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình, thì có ích gì? Vậy
thì người lấy chi mà đổi linh hồn mình lại? (Ma-thi-ơ 16: 26).

nguồn: Anh chị Thụ, Mai gởi

 

TRẮC NGHIỆM MẾN CHÚA VÀ THA NHÂN

Đời sống Tâm Linh #19

TRẮC NGHIỆM MẾN CHÚA VÀ THA NHÂN

(Ngày Chung thẩm theo Mt 25, 31-46)

* Chuyện kể: Một câu chuyện cổ của Ái Nhĩ Lan có từ khi vua chúa còn cai
trị về một ông vua hành khất như sau:

Ông này không có con cái nối ngôi, nên ông sai các hầu cận đi tìm một người nối ngôi trước khi ông từ trần. Với điều kiện là người ấy phải có hai đức tính quan trong là mến Chúa và yêu người. Một thanh niên thấy mình có hai đức tính trên nên quyết định đến gặp vua; nhưng anh nghèo quá, không có bộ đồ coi được để đến gặp vua. Anh liền cầu nguyện và xin được một bộ đồ và ít vật liệu cần dùng để lên đường. Sau gần một tháng, anh tới cung điện nhà vua; nhưng lại gặp một người ăn xin ngồi bên vệ đường, ông ta run rẩy van nài xin anh giúp đỡ: “Tôi đói và lạnh, xin anh cho tôi bộ quần áo để mặc và chút lương thực để ăn.” Anh xúc động trước cảnh tượng này, liền cởi bộ quần áo ấm áp của mình để ra, lấy bộ quần áo tả tơi của người ăn xin mặc, anh cũng cho ông ta hết những đồ ăn cần thiết.

Sau đó anh bước vào cung vua chẳng còn gì cả, bọn lính liền ngăn chặn bắt anh đợi chờ. Sau một thời gian thật lâu anh mới được vào. Với tư thế khúm núm không dám nhìn lên
vua, khi được lệnh, anh quá ngạc nhiên nói với vua: “Ngài chính là người ăn xin bên vệ đường tôi gặp lúc nãy? – Nhà vua trả lời: Đúng rồi! – Anh hỏi : “Sao ngài lại làm như vậy đối với tôi? – Vua trả lời: “Tôi muốn làm như vậy xem anh có thực lòng mến Chúa và yêu người không?

* Cảm nghiệm : Câu chuyện có tính cách giả tưởng; nhưng đó là bài học thật qúy giá cho bạn và tôi như trong đoạn phúc Âm sau :

“Vì xưa ta đói các ngươi đã cho ăn, Ta khát, các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước. Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom, Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm?”. Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc?”. (Mt 25, 35-38)

Chúa Giêsu đã kết thúc toàn bộ Giáo huấn của Ngài với tôi bằng một dụ ngôn trên. Tôi tự hỏi mình: Tôi là người lành hay là kẻ dữ? Tôi sẽ hưởng sự sống muôn đời hay vào chốn cực hình muôn kiếp?

Phó tế: GBM. Nguyễn Định Sưu Tầm

 

GIỮA LÒNG HẬN THÙ VÀ THA THỨ

Đời Sống Tâm Linh # 24

GIỮA LÒNG HẬN THÙ VÀ THA THỨ


(CảmnghiệmSống CN31TN-B)

* Chuyện kể: Trong thế chiến thứ hai, Corrie Ten Boom và em gái của bà là Betsie đã bị lính Đức bắt vì tội che dấu những người Do thái. Hai người đã bị đưa đến trại tập trung của Đức quốc xã. Với sự hành hạ dã man, Betsie em bà đã chết thật đau khổ và tàn nhẫn!

Còn bà Corrie sống sót trở về, đến năm 1947 bà chia sẻ đức tin của mình trong nhà thờ ở Munich, bà nói về ơn tha tội lớn lao của Thiên Chúa cho bà và sự mình tha thứ cho người khác. Ngay sau đó, một trong số những người đã nghe bà chia sẻ tìm đến gặp bà, bà kinh hoàng nhận ra đó là một trong những tên lính Đức dã man đã hành hạ bà và người em gái Betsie. Anh ta vội chạy lại thưa với bà: Tôi đã trở thành Kitô hữu, đã nhận biết tội lỗi của mình. Anh ta liền quì xuống dang rộng hai tay xin bà tha thứ cho. Lúc đó bà Corrie phải chiến đấu mãnh liệt với những cảm xúc “giữa lòng hận thù và tha thứ”, giữa những
căm phẫn trong lòng và những lời dạy của Lời Chúa, của Kinh Thánh : “Còn Thầy, Thầy bảo anh em: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh
em.”
(Mt 5, 44)

Có lẽ trong đời, chưa bao giờ bà phải đối diện với một tình huống khóxử đến thế! Nhưng Corrie nhớ lại Lời Chúa, bà biết mình phải tha thứ, bà lặng lẽ cầu nguyện: “Lạy Chúa! Xin giúp con, không có tình yêu Chúa, con không thể làm nổi sự tha thứ này.” Rồi bà dơ tay đỡ kẻ thù đứng dậy.!

* Một phút suy tư: Tha thứ lỗi lầm cho cho người khác không chỉ là một sự kêu gọi; nhưng còn là một mệnh ! Mệnh lệnh này lại được ràng buộc như một điều kiện, nếu bạn muốn được sự tha thứ của Chúa. Bạn có kẻ thù nào lớn hơn kẻ thù của cô Betsie chăng?

Hãy cầu nguyện bằng tất cả tấm lòng vâng phục, vì khi cầu nguyện được là dấu chắc chắn bạn có lòng tha thứ. Hơn nữa, khi bạn nhịn nhục được là bạn đã có lòng tha thứ đi theo, vì những người hạnh hạ, làm khổ bạn cũng là con cái một Cha trên trời. Do đó, chỉ có tình yêu Chúa thật trong TÂM, mới giúp ta thực hiện điều này.

* Lời Chúa quả quyết: Đừng lấy ác báo ác, đừng lấy nguyền rủa đáp lại lời nguyền rủa; nhưng hãy chúc phúc. Vì anh chị em được Thiên Chúa kêu
gọi là để thừa hưởng lời chúc phúc. (I Pr 3, 9)

Phó tế: GB. Maria Nguyễn Định Sưu Tầm

 

ĐỪNG !!!

Đừng để nhìn thấy 1 nụ cười rồi mới cười lại !

Đừng đợi đến khi được yêu thương mới yêu thương lại !

Đừng đợi đến khi cô đơn mới nhận ra giá trị của tin nhắn !
Đừng đợi đến khi có 1 công việc thật vừa ý rồi mới bắt đầu làm!
Đừng để có thật nhiều rồi mới chia sẻ đôi chút !
Đừng để đến khi làm người khác buồn rồi mới xin lỗi !
Ðừng hạ thấp giá trị của mình bằng cách so sánh bản thân mình với người khác !
Mỗi chúng ta là một con người khác nhau và đều có những giá trị khác
nhau.

Ðừng mãi mê theo đuổi những mục tiêu mà người khác cho là quan trọng, vì chỉ có bạn mới hiểu rõ những mục tiêu nào là tốt cho mình !
Ðừng ngại học hỏi ! Kiến thức là một tài sản vô hình và sẽ là hành trang vô
giá theo bạn suốt cuộc đời.

Ðừng ngại mạo hiểm để làm những điều tốt ! Ít nhất, bạn cũng học được cách sống dũng cảm với những lần mạo hiểm.
Ðừng nên phí phạm thời gian hoặc những lời nói thiếu suy nghĩ ! Cả hai thứ ấy
một khi đã qua đi hay thốt ra thì không thể nào bắt lại được.
Đừng để cuộc sống đi qua mắt bạn chỉ vì bạn đang sống trong quá khứ hay tương lai ! Bằng cách sống cuộc sống của mình ngày hôm nay, vào lúc này, bạn đang sống tất cả mọi ngày trong cuộc đời.
Đừng quên hy vọng ! Sự hy vọng cho bạn sức mạnh để tồn tại ngay khi bạn đang bị bỏ rơi.
Đừng đánh mất niềm tin vào bản thân mình ! Chỉ cần tin là mình có thể làm được và bạn lại có lý do để cố gắng thực hiện điều đó.
Đừng lấy của cải vật chất để đo lường thành công hay thất bại! Chính tâm hồn
của mỗi con người mới xác định được mức độ “giàu có” trong cuộc sống
của mình.
Đừng để những khó khăn đánh gục bạn! Hãy kiên nhẫn, rồi bạn sẽ vượt qua !
Đừng do dự khi đón nhận sự giúp đỡ ! Tất cả chúng ta đều cần được giúp đỡ ở bất kỳ khoảng thời gian nào trong cuộc đời.
Đừng chạy trốn mà hãy tìm đến tình yêu ! Đó là niềm hạnh phúc nhất của bạn.
Đừng chờ đợi những gì bạn muốn, mà hãy đi tìm kiếm chúng !
Đừng từ chối, nếu bạn vẫn còn cái để cho !
Đừng ngần ngại thừa nhận rằng bạn chưa hoàn hảo !
Đừng e dè đối mặt thử thách ! Chỉ khi thử sức mình, bạn mới học được can đảm.
Đừng đóng cửa trái tim và ngăn cản tình yêu đến, chỉ vì bạn nghĩ không thể nào tìm ra nó ! Cách nhanh nhất để nhận tình yêu là cho, cách mau lẹ để mất tình yêu là giữ nó quá chặt, cách tốt nhất để giữ gìn tình yêu là cho nó đôi cánh tự do.
Đừng đi qua cuộc sống quá nhanh đến nỗi bạn quên mất mình đang ở đâu và thậm chí quên mình đang đi đâu !
Đừng quên nhu cầu cảm xúc cao nhất của một người là cảm thấy được tôn trọng !
Đừng ngại học hỏi ! Kiến thức là vô bờ, là một kho báu mà ta luôn có thể mang
theo dễ dàng.
Đừng sử dụng thời gian hay ngôn từ bất cẩn ! Cả hai thứ đó đều không thể lấy
lại.
Đừng bao giờ cho là bạn đã thất bại khi những kế hoạch và giấc mơ của bạn đã
sụp đổ ! Vì biết được thêm một điều mới mẻ thì đó là lúc bạn tiến bộ rồi.

Đừng ngồi một chỗ mà ngáp dài và than vãn, hãy bắt tay làm một
việc gì có ích, là bạn sẽ thấy cuộc sông đẹp.

Đừng quên mỉm cười trong cuộc sống !

Đừng quên tìm cho mình một người bạn thực sự, bởi bạn bè chính là điều cần
thiết trong suốt cuộc đời !
Và cuối cùng,

Đừng quên ơn những người đã cho bạn cuộc sống hôm nay với tất cả những gì
bạn cần ! Bởi vì con cháu đời sau của bạn sẽ xem bạn như tấm gương của chúng.

Cuộc sống không phải là một cuộc chạy đua, nó là một cuộc hành trình mà bạn có thể tận hưởng từng bước khám phá…


Hãy cho đi rồi bạn sẽ nhận được thật nhiều! Gửi thông điệp này đến những
người mà bạn yêu quý. Và đừng quên gửi lại cho tôi nếu tôi vẫn là 1 người bạn
của bạn! Bạn nhận được tin nhắn này…. thì hãy cười đi nhé! Vì ít nhất đâu đó
quanh đây… có một người nhớ đến bạn…

Trầm Hương Thơ sưu tầm và viết thêm