Nỗi đau cuối đời của ông Lê Hiếu Đằng

Nỗi đau cuối đời của ông Lê Hiếu Đằng

Phạm Nhật Bình

Gửi cho Diễn đàn BBC từ Hoa Kỳ

Thứ ba, 17 tháng 12, 2013

Ông Lê Hiếu Đằng đã lên tiếng tuyên bố rời bỏ hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt Nam

Tin ông Lê Hiếu Đằng đang trải qua những giờ phút lâm chung đang làm cho nhiều người rất buồn.

Có nhiều lý do để buồn, nhưng có lẽ nỗi buồn lớn nhất là vì cảm được những điều đau lòng nơi một người nhiều tâm huyết như ông Đằng trong những năm tháng cuối đời.

Không đau lòng sao được khi vào những năm tháng cuối đời lại phải thừa nhận một sự thật phũ phàng.

Đó là biết bao hy sinh đóng góp của mình và rất nhiều đồng đội lại chỉ góp phần tạo ra một tầng lớp thống trị mới, còn khắt khe và tàn bạo hơn cả thời kỳ thực dân Pháp đô hộ.

Thêm vào đó, cái gọi là “chế độ ngụy quyền” mà ông và nhiều đồng đội đã từng cố gắng lật xuống cho bằng được để xây dựng chủ nghĩa xã hội, lại là chế độ nhiều nhân bản, yêu nước, và có khả năng xây dựng mọi mặt xã hội hơn thể chế cộng sản chuyên chính hiện nay rất nhiều.

Trong suốt gần 40 năm qua, nhân dân tiếp tục sống trong đói nghèo suốt từ thời toàn trị sang đến thời mở cửa; và sống với các giá trị con người mà nhân loại đã xác định từ lâu.

Chỉ có giai cấp cai trị là thay đổi từ sướng ít trong thời toàn trị lên sướng nhiều và cực giàu trong thời mở cửa.

Không đau lòng sao được khi sau bao công sức đóng góp, đến cuối đời ông chỉ thấy đất nước càng ngày càng bế tắc và thụt lùi.

Thụt lùi so với cả nước Miến Điện nghèo nàn, lạc hậu.

Sau 40 năm bóp chết sức sống của đất nước và vì thế không còn sức chống trả hiểm họa mất chủ quyền vào tay Bắc Kinh, giới độc tài quân phiệt Miến, chưa hề vỗ ngực là “đỉnh cao trí tuệ loài người”, cũng còn biết đặt vận mạng đất nước họ lên trên hết. Họ gấp rút chọn con đường dân chủ để đưa đất nước thoát hiểm.

Đến cả nước Campuchia, một nước từng bị kéo về tận thời cộng sản nguyên thủy dưới tay Pol Pot và thường bị Hà Nội coi như chư hầu, cũng đã qua mặt Việt Nam trên con đường dân chủ hóa.

Miến Điện được chào đón trên trường quốc tế sau thay đổi dân chủ

Nỗi đau của ông Lê Hiếu Đằng cùng những đảng viên còn tâm huyết và tự trọng càng lớn khi họ tự nhận ra chính mình cũng phải lãnh một phần trách nhiệm trước tình trạng từng mảng chủ quyền đất nước đang biến mất dần.

Từ những cánh rừng đầu nguồn ở biên giới phía Bắc đến vùng Tây Nguyên mang tính chiến lược quân sự đến các vùng biển đảo nhiều tài nguyên đều đã bị giới lãnh đạo của ông Đằng xem là những vùng “đã mất rồi” và nay chỉ phản đối lấy lệ trước mắt dân chúng mà thôi.

Đó là chưa kể hàng trăm những khu hoàn toàn biệt lập của “công nhân” Trung Quốc trên khắp nước Việt, đặc biệt tại những vùng hệ trọng chiến lược, cứ tiếp tục mọc lên trước sự làm ngơ hoặc tiếp tay của giới cầm quyền.

Những ước hẹn với Bắc Kinh trong Hội nghị Thành Đô năm 1990 sẽ giao chủ quyền Việt Nam từng bước và hoàn tất vào năm 2020 (đúng thời hạn 30 năm) không chỉ còn là cơn ác mộng nữa nhưng đã trở thành một phần hiện thực rất lớn rồi.

‘Muốn lo cho nước’

Nhưng khó ai hiểu hay tin được những nỗi dằn vặt trên nếu không có những bước chân xuống đường biểu tình chống Trung Quốc của ông Lê Hiếu Đằng năm 2011 và các phát biểu của ông từ đó, đặc biệt là bức thư tính sổ đời mình trên giường bệnh vài tháng trước đây.

Từ sự cảm thông với tấm lòng chân thành của ông, người ta bắt đầu thấy đây là một tấm gương can đảm đáng quí phục.

Và càng đáng quí phục hơn nữa khi có những đảng viên cao cấp hơn ông nhiều, biết rõ hơn ông nhiều về các nguy cơ cho đất nước và vai trò tác hại của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng vẫn không dám lên tiếng hay có một hành động nào xứng đáng, chỉ vì bổng lộc cá nhân và quyền lợi chế độ ban phát cho con cháu họ.

Biết thời giờ của mình không còn nhiều, ông Lê Hiếu Đằng đã nhắn gởi các đảng viên cộng sản Việt Nam khác:

“Lẽ ra bây giờ phải đoàn kết nhau lại để đấu tranh, phải có dũng khí, nếu ai cũng sợ cho bản thân mình, sợ cho bản thân gia đình mình thì đất nước sẽ ra thế nào, đất nước này ai lo?”.

“Nếu ai cũng sợ cho bản thân mình, sợ cho bản thân gia đình mình thì đất nước sẽ ra thế nào?”

Ông Lê Hiếu Đằng

Ông cũng bộc bạch với bạn hữu trong giới trí thức:

“Bao giờ cũng vậy, xã hội nào cũng vậy, thời kỳ nào cũng vậy, nhân sỹ trí thức phải đi đầu, phải giương cao ngọn cờ đấu tranh, phải dũng cảm, đừng có sợ.”

Nhưng liệu những lời kêu gọi tha thiết của ông Lê Hiếu Đằng có rơi vào khoảng không im lặng đáng sợ không? Đặc biệt, thế hệ đảng viên cùng thời với ông Đằng có còn ai chia sẻ những dằn vặt lương tâm này không?

Ngày nay, tại các nước cộng sản Đông Âu và Liên Xô cũ, nhiều đảng viên cộng sản thời đó đang bị chính thế hệ con cháu họ nhìn với ánh mắt khinh bỉ.

Những đảng viên ấy từng bảo vệ và bám lấy các chế độ cộng sản để hưởng lợi lộc cho đến những ngày tháng chót, bất kể sự tàn phá của các chế độ này đối với đất nước và dân tộc họ.

Ngay cả những lời của các cựu đảng viên này ngày nay chỉ trích các chế độ độc tài cũ cũng chẳng ai muốn nghe vì đã quá trễ và vì thế càng trở nên nham nhở.

Liệu cảnh ấy có lại xảy ra tại Việt Nam trong tương lai không?

Nhìn vào xu thế của nhân loại và ngay tại vùng Đông Nam Á, rõ ràng thời giờ không còn nhiều.

Và có lẽ nay là thời điểm thích hợp nhất để những đảng viên cộng sản Việt Nam – những người còn muốn giữ lại thanh danh và liêm sỉ đối với bản thân, đối với thế hệ con cháu, và đối với dân tộc – chọn con đường công khai rời bỏ đảng vì vừa chính mình vừa vì đất nước.

Đừng để đến khi quá muộn.

Những con người đáng kính trọng như Dương Quỳnh Hoa, Nguyễn Hộ, Trần Độ, Trần Xuân Bách…những Huỳnh Nhật Tấn, Huỳnh Nhật Hải, Phạm Quế Dương, Vi Đức Hồi, Phạm Đình Trọng, Nguyễn Chí Đức, Nguyễn Ngọc Diễm Phượng, … và nay Lê Hiếu Đằng, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Đắc Diên đã chọn con đường danh dự đó.

Tuổi hưu và phúc lợi ở Mỹ

Tuổi hưu và phúc lợi ở Mỹ

Bùi Văn Phú

17.12.2013

Sau hơn ba thập niên sinh sống và làm việc ở Mỹ, thỉnh thoảng anh em, bạn bè gặp nhau chúng tôi cũng bàn đến chuyện tương lai về hưu sẽ sống ra sao hay sống ở đâu.

Như ở mọi nơi trên thế giới, sau thời gian làm việc đóng góp cho xã hội, người dân Mỹ đến tuổi già cũng phải nghỉ hưu. Nhìn lại quá khứ rồi hướng về tương lai thì thấy nếu một người ra đời làm việc năm 25 tuổi, là khi mới tốt nghiệp đại học, đến 65 tuổi thì đã có 40 năm làm việc, khi đó là tuổi được hưởng trọn số lương hưu là tiền của chính mình và chủ đã đóng vào quỹ an sinh xã hội trong thời gian lao động.

Thực ra một người lao động Mỹ khi vừa bước vào tuổi 50 đã nhận được thư mời tham gia hội AARP (American Association of Retired Persons) – Hiệp hội người Mỹ Hưu trí – dù thời gian phải tiếp tục làm việc vẫn còn ít nhất 15 năm trước khi chính thức nghỉ hưu.

Thành lập từ năm 1958, AARP hiện có gần 40 triệu hội viên trên toàn quốc. Hội viên đóng lệ phí 16 đô là một năm và sẽ thường xuyên nhận được tạp chí với nhiều thông tin liên quan đến chính sách và sức khoẻ của lớp người ở tuổi 50 hay cao hơn. Hội cũng vận động hành lang cho quyền lợi của người đã nghỉ hưu hay sắp sửa. Là hội viên, khi thuê xe, đặt phòng khách sạn, mua các loại bảo hiểm còn được giảm giá ít nhiều.

Rất ít người Mỹ về hưu ở tuổi 50 và ngay cả tuổi 55 hay 60 cũng còn ít. Trừ người thật giầu hay những ai là công chức thành phố, tiểu bang, liên bang, là thành phần cảnh sát, cứu hỏa hay giáo chức với quỹ hưu bổng riêng và có thể nghỉ hưu sau 25, 30 năm trong những nghề đó.

Theo Sở Thống kê Dân số, tuổi hưu trung bình của người Mỹ là 62 và thời gian sống hưu là 18 năm.

Về tiền hưu trí, quỹ an sinh xã hội chỉ cho lãnh sớm nhất khi 62 tuổi. Một người về hưu ở tuổi đó thì còn phải tự lo bảo hiểm y tế trong ba năm nữa cho đến 65 tuổi là lúc được đăng ký vào chương trình bảo hiểm y tế của chính phủ dành cho người cao tuổi, tức Medicare. Vì vậy, dù 62 tuổi nhưng nhiều người vẫn còn đi làm để có bảo hiểm sức khoẻ từ nơi làm việc, nếu không phải tự bỏ tiền ra mua thì một tháng có thể phải chi cả nghìn đô cho một người, mà nếu chỉ có lương hưu duy nhất là tiền an sinh xã hội thì sẽ không đủ chi tiêu.

Ngân sách quỹ an sinh xã hội và y tế của liên bang là do chính tiền của người lao động đóng vào và do chính phủ quản lí. Hiện nay thuế Medicare ở mức 2.9% số lương, cá nhân đóng một nửa, chủ đóng một nửa. Cũng như thuế cho quỹ an sinh xã hội là 12.4% và người đi làm đóng một nửa, tức 6.2%, chủ chịu một nửa.

Thuế an sinh xã hội có giới hạn, chỉ đóng đến mức lương 113,700 đô cho năm 2013, tăng lên mức 117 nghìn cho năm 2014 và tiếp tục tăng đến 165,600 vào năm 2022. Số lương cao hơn những mức nêu trên không phải chịu thuế này. Còn thuế y tế Medicare không có giới hạn mức lương.

Như thế chính phủ lúc nào cũng thu hai khoản tiền thuế, tổng cộng là 7.65% từ lương công nhân. Những ai làm chủ cơ sở thương mại hay làm việc riêng cho chính mình thì phải đóng gấp đôi, vừa là thợ vừa là chủ, tức 15.3% tổng số thu nhập. Không thể trốn vào đâu được. Các chủ nhân không làm kế toán rõ ràng cho các khoản thuế này sẽ bị phạt nặng.

Dưới thời Tổng thống Bill Clinton, ông bổ nhiệm một phụ nữ vào nội các, trước khi được Thượng viện phê chuẩn thì báo chí phanh phui sự việc bà này đã có mướn người giúp việc trong nhà nhưng không khai và không đóng thuế an sinh xã hội cho người làm, như thế là phạm luật khiến bà phải rút lui khỏi chức vụ được đề cử.

Ngân sách hiện tại của quỹ an sinh xã hội đang cạn dần vì thành phần trẻ vào đời làm việc ít đi, trong khi đó số người già càng nhiều và càng sống lâu, trung bình đến 81 tuổi cho phụ nữ và 76 cho nam giới. Trước đây cứ 4 người đi làm đóng thuế để trả cho một người nghỉ hưu, nay con số này xuống còn 2.5 và theo một ước tính của cơ quan nghiên cứu Quốc hội, đến năm 2033 quỹ chỉ còn đủ để trả 77% tiền hưu của người được hưởng.

Số tuổi để hưởng trọn vẹn phúc lợi tài chánh khi về hưu ngày càng tăng lên. Trước đây là 65 tuổi cho những ai sinh năm 1938 trở về trước. Luật mới qui định người sinh từ năm 1943 đến 1954 thì tuổi hưu là 66, từ 1955 đến 1959 mỗi năm tăng lên hai tháng tuổi hưu. Sinh sau năm 1960 thì đến 67 tuổi mới được hưởng lương hưu trọn vẹn. Nếu nghỉ hưu non vào năm 62 tuổi, tiền an sinh xã hội chỉ được khoảng 70% so với lương về hưu đúng tuổi. Cùng với việc tăng tuổi hưu, thuế an sinh xã hội và thuế y tế Medicare cũng tăng lên.

Theo Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD), số người Mỹ ở tuổi từ 65 đến 69 vẫn còn làm việc là 20%, so với Anh 10%, Đan Mạch 9%, Na Uy và Thụy Sĩ 7% trong khi Đức, Hà Lan 3% còn Pháp, Ý chỉ có 1%.

Hiện nay phúc lợi an sinh xã hội trung bình cho một người Mỹ nghỉ hưu là 1230 đô la một tháng. Dù không còn nợ nhà, nhưng số tiền này cũng khó đủ cho một người sống riêng biệt vì các khoản chi tiêu bao gồm thực phẩm, điện nước, xăng dầu, bảo trì xe, thuế nhà đất. Vì thế chính phủ còn có phụ cấp SSI – Supplemental Security Income, người Việt thường gọi là tiền già hay tiền bệnh – phụ cấp tiền thuê nhà, giảm giá điện ga cho người nghèo.

Trong thực tế ngày nay, với tiền an sinh xã hội không thôi, nhiều người cao niên chỉ đủ sống. Vì thế trong lúc còn làm việc chính phủ khuyến khích tiết kiệm thêm bằng cách bỏ tiền vào các quỹ 401(k) hay IRA. Với quỹ 401(k) có khi chủ nhân cũng đóng góp thêm vào cho công nhân và có giới hạn vài trăm đô một tháng. Số tiền tiết kiệm sinh lời và sẽ không bị đánh thuế, nhưng không được rút ra cho đến năm 60 tuổi hay cao hơn để chi tiêu lúc về hưu.

Hiện nay, một cặp vợ chồng bắt đầu về hưu năm 2013 vào tuổi 65 hay cao hơn thì mỗi tháng một người lãnh khoảng 2500 đô tiền an sinh xã hội. Nếu nợ nhà đã trả hết, với 5 nghìn đô là dư tiêu trong một tháng cho hai người. Ốm đau, thuốc men có chính phủ lo.

Với số tiền đó thì có thể bàn đến việc nghỉ hưu ở một nước ngoài. Nhưng trở ngại duy nhất là Medicare vì dịch vụ y tế này chỉ cung cấp cho cư dân sống tại Mỹ. Sống ở nước khác, phải tự mua bảo hiểm y tế riêng ở nơi đó. Vì thế nhiều người Mỹ nếu quyết định nghỉ hưu ở nước ngoài họ thường chọn nơi có mức sống rẻ, hệ thống y tế tốt hay những nơi gần Hoa Kỳ, như nam Mỹ và các đảo quốc trong vùng biển Caribbean, phòng có gì khẩn cấp cũng chỉ vài giờ bay là đã về lại Mỹ để được chăm sóc y tế.

Một khảo sát mới đây của InternationalLiving.com xếp hạng mười nơi tốt cho người Mỹ và Canada nghỉ hưu là Ecuador, Panama, Malaysia, Mexico, Costa Rica, Uruguay, Colombia, Spain, Thailand và Malta.

Nhiều người Mỹ gốc Việt làm việc đã gần 40 năm, nay nghỉ hưu cũng có khả năng tài chính để ra nước ngoài sống, nhưng về Việt Nam có thể khó vì xa xôi và nhất là điều kiện y tế chưa tốt cho tuổi già.

Với một số người Việt cao tuổi ở Mỹ chuyện về Việt Nam sống còn là điều không thể vì đang nhận phúc lợi xã hội và y tế qua chương trình phụ cấp của chính phủ dành cho người già. Khi nhận phụ cấp thì chỉ có thể ra nước ngoài chơi ít tuần, còn nếu ở lâu các khoản trợ cấp sẽ bị cắt.

Bạn bè chúng tôi trong lứa tuổi sấp xỉ 60 cũng đã bắt đầu nghĩ đến chuyện hưu và cũng có đề nghị nếu vào nhà tập thể cho người cao tuổi thì cũng tìm nơi sống chung để chiều chiều lai rai nhậu, đàn hát bên nhau cho vui những lúc cuối đời.

Hàng may mặc trẻ em của Trung Quốc chứa chất độc

Hàng may mặc trẻ em của Trung Quốc chứa chất độc

18.12.2013

Một báo cáo của tổ chức Hòa bình xanh Đông Á công bố ngày 18/12 cho biết hàng may mặc trẻ em sản xuất tại hai thành phố ở Trung Quốc có chứa chất gây rối loạn hormone và hóa chất độc hại đối với hệ sinh sản.

Từ tháng 6 đến tháng 10 năm nay, tổ chức Hòa bình xanh đã mua 85 mặt hàng may mặc trẻ em tại hai thành phố sản xuất nhiều nhất Trung Quốc là Trị Lý ở tỉnh Chiết Giang và thành phố Thạch Sư ở tỉnh Phúc Kiến.

Các cuộc kiểm nghiệm được phòng thí nghiệm của bên thứ ba thực hiện độc lập phát hiện thấy chất NPE, một chất gây rối loạn hormone, trong hơn phân nửa số mẫu trong khi chín trên 10 mặt hàng làm bằng polyester dương tính với chất antimon độc hại. Chất phthalate, được biết có độc tính đối với hệ sinh sản, cũng được phát hiện ở nồng độ cao ở hai mẫu.

Lee Chih An, một giới chức của Hòa bình xanh Ðông Á, cho biết quần áo trẻ em mà tổ chức này điều tra được bán cho 98 phần trăm thành phố ở Trung Quốc và nhiều nước khác khắp thế giới bằng hình thức truyền thống và thương mại điện tử vốn đang ngày càng phổ biến.

 

Giới chức này nói cuộc điều tra gửi một tín hiệu nghiêm trọng cảnh báo phụ huynh của hơn hai trăm triệu trẻ em Trung Quốc và các đối tác nước ngoài của họ.

Ngành công nghiệp sản xuất quần áo trẻ em ở Trung Quốc trị giá khoảng 165 tỉ đô la với mức tăng trưởng hàng năm dự kiến là 30 phần trăm, là một trong những ngành kinh tế phát triển nhanh nhất ở Trung Quốc.

​Tuy nhiên, ông Lee nói không có sự quản lý chặt chẽ những hóa chất được sử dụng trong hàng may mặc cho trẻ em. “Một tiêu chuẩn an toàn quốc gia đối với những hóa chất độc hại sử dụng trên hàng may mặc trẻ em nằm trong ngăn kéo của những người làm chính sách đã sáu năm nay, và chúng tôi không biết khi nào thì nó mới được ban hành,” ông Lee nói tiếp.

Ngay cả cơ quan quản lý chất lượng của Trung Quốc cũng đồng tình rằng quần áo trẻ em có thể gây nguy hại. Tháng 5 năm nay, Tổng cục Giám sát Chất lượng của Trung Quốc phát hành cẩm nang tiêu dùng khuyến cáo chọn mua quần áo trẻ em nhạt màu, không có chất làm sáng dạ quang hay có in sắc tố.

Một cuộc khảo sát của Hiệp hội Người tiêu dùng Bắc Kinh hồi tháng 6 cho thấy 38 phần trăm quần áo trẻ em không đạt tiêu chuẩn chất lượng.

Hòa bình xanh nói Trung Quốc không nên tiếp tục liều lĩnh với sức khỏe của trẻ em ra và hối thúc nước này thiết lập một chính sách quản lý hóa chất mang tính toàn diện và nghiêm ngặt.

Nguồn: Greenpeace, USA Today

Mỹ cảnh cáo ý đồ Trung Quốc lập vùng phòng không ở Biển Đông

Mỹ cảnh cáo ý đồ Trung Quốc lập vùng phòng không ở Biển Đông

Tổng thống Philippines Benigno Aquino (P) tiếp Ngoại trưởng Mỹ John Kerry tại Phủ Tổng thống Malacanang, Manila, 17/12/2013

Tổng thống Philippines Benigno Aquino (P) tiếp Ngoại trưởng Mỹ John Kerry tại Phủ Tổng thống Malacanang, Manila, 17/12/2013

REUTERS/Brian Snyder

Tú Anh

RFI

Sau ba ngày thămViệt Nam, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã đến Philippines vào hôm nay 17/12/2013. Trong bối cảnh tham vọng của Trung Quốc lấn chiếm biển đảo, Ngoại trưởng Mỹ ủng hộ Manila cảnh cáo Bắc Kinh về ý đồ lập vùng phòng không tại biển Đông Nam Á mà Bắc Kinh gọi là Hoa Nam.

Trung Quốc không được đơn phương thành lập một vùng (phòng không) tại biển Đông như đã làm tại một nơi khác trong khu vực. Trên đây là lời cảnh cáo của Ngoại trưởng Mỹ John Kerry trong cuộc họp báo vào hôm nay tại Manila.

Trong chuyến công du đầu tiên tại Philippines kể từ khi nhậm chức, Ngoại trưởng John Kerry đã công khai ủng hộ quốc đảo Đông Nam Á này, được xem là « đồng minh then chốt » đối đầu với tham vọng bành trướng của Bắc Kinh.

Trong chương trình thăm viếng hai ngày, ông John Kerry sẽ đi thăm nạn nhân cơn bão Haiyan mà Hoa Kỳ đã hỗ trợ hơn 20 triệu đôla cùng một đội hùng hậu có cả hàng không mẫu hạm, tuần dương hạm và một lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến.

Ngược lại, Trung Quốc lúc đầu chỉ thông báo viện trợ cho nạn nhân Philippines 100.000 đôla và chỉ miễn cưỡng tăng lên 2 triệu, sau khi Bắc Kinh bị công luận trong và ngoài nước chế nhạo.

Theo giới phân tích, thái độ khiêu khích của Trung Quốc với vùng phòng không tại Hoa Đông và mưu toan tương tự ở biển Đông Nam Á làm cho Manila vừa bất bình vừa lo ngại. Người ta chờ đợi Mỹ và Philippines nhanh chóng đạt thỏa thuận mới về hợp tác quân sự ,cho phép quân đội Mỹ đồn trú đông đảo hơn và thường xuyên hơn tại Philippines. Một hình thức để Washington trấn an các nước khu vực là lúc nào cũng có Hoa Kỳ bên cạnh.

Bản đồ 9 đoạn của Trung Quốc mà Việt Nam gọi là « lưỡi bò » lấn chiếm hơn 80% diện tích Biển Đông, gần như là tất cả biển và đảo của Philippines và Việt Nam.

 

Một câu chuyện cảm động trong mùa Giáng Sinh

Một câu chuyện cảm động trong mùa Giáng Sinh

Một đồng tám mươi bảy xu, đúng như vậy.
Hàng ngày, cô cố gắng tiêu thật ít tiền khi đi chợ. Cô đi loanh quanh tìm mua thứ thịt và rau rẻ nhất cho bữa ăn hàng ngày, ngay cả lúc cảm thấy hết sức mệt mỏi cô vẫn cố tìm kiếm. Tiết kiệm được đồng nào hay đồng đó.
Della đếm lại số tiền ít ỏi một lần nữa. Không hề có sự nhầm lẫn, chỉ có một đồng tám mươi bảy xu, và ngày mai sẽ là lễ Giáng Sinh.
Cô sẽ không thể làm gì hơn, chỉ còn cách ngồi xuống và khóc mà thôi. Ở đó, trong một căn phòng nhỏ, tồi tàn, cô đang nức nở.
· Della sống trong căn phòng nhỏ nghèo nàn này với chồng của cô, James Dillingham Young, ở thành phố NEW YORK.
Họ có một phòng ngủ, một phòng tắm và một nhà bếp. James Dillingham Young may mắn hơn cô vì anh ấy có việc làm. Tuy vậy đó không phải là một công việc kiếm được nhiều tiền. Tiền thuê căn phòng này chiếm gần hết lương của anh ấy. Della đã cố gắng rất nhiều để tìm một công việc nhưng vận may đã không mĩm cười với cô. Tuy nhiên, cô rất hạnh phúc khi ôm Jim, James Dillingham Young, trong tay mỗi khi anh trở về.
Della đã ngừng khóc. Cô lau khô mặt rồi đứng nhìn một chú mèo xám trên bức tường đồng màu với nó bên cạnh con đường tối ngoài cửa sổ.
Ngày mai là Noel và cô chỉ còn một đồng tám mươi bảy xu để mua cho Jim, Jim của cô, một món quà. Cô muốn mua một món quà thật sự có ý nghĩa, một thứ có thể biểu hiện được tất cả tình yêu cô dành cho anh.
Della chợt xoay người chạy đến bên chiếc gương treo trên tuờng. Mắt cô sáng lên.
Cho đến bây giờ, gia đình James Dillingham Young chỉ có hai vật quí giá nhất. Một thứ là chiếc đồng hồ vàng của Jim. Chiếc đồng hồ này trước đây thuộc sở hữu của cha anh ta và trước nữa là ông nội anh. Thứ còn lại là mái tóc của Della.
Della thả nhanh mái tóc dài óng mượt xuống lưng. Thật tuyệt đẹp, không khác nào như một chiếc áo khoác đang choàng qua người cô. Della cuộn tóc lên lại. Cô đứng lặng đi rồi thút thít một lát.
Della bước chậm rãi qua các cửa hàng dọc hai bên đường rồi dừng lại trước bảng hiệu “Madame Eloise”. Tiếp cô là một phụ nữ mập mạp, bà ta chẳng có một chút vẻ “Eloise” nào cả.
Della cất tiếng hỏi: “Bà mua tóc tôi không?”
– “Tôi chuyên mua tóc mà”, bà ta đáp và bảo : “Hãy bỏ nón ra cho tôi xem tóc của cô đi”.
Suối tóc nâu đẹp tụyệt vời buông xuống.
– “Hai mươi đồng” – bà ta định giá, bàn tay nâng niu mái tóc óng ả.
– “Hãy cắt nhanh đi! và đưa tiền cho tôi” – Della nói.
Hai giờ tiếp theo trôi qua nhanh chóng. Cô tìm mua quà cho Jim trong các cửa hiệu trong niềm vui khôn tả. Cuối cùng cô cũng chọn được một thứ. Ðó là môt sợi dây đồng hồ bằng vàng. Jim rất quí chiếc đồng hồ của mình nhưng rất tiếc là nó không có dây. Khi Della trông thấy sợi dây này cô biết rằng nó phải là của anh và cô phải mua nó.
Cô trả hai mươi mốt đồng để mua và vội vã trở về nhà với tám mươi bảy xu còn lại.
Ðến nhà, Della ngắm mái tóc cực ngắn của mình trong gương và nghĩ thầm :”Mình có thể làm gì với nó đây?”. Nửa giờ tiếp theo cô nhanh chóng chuẩn bị mọi thứ. Xong Della lại ngắm nghía mình trong gương lần nữa. Tóc của cô bây giờ toàn những sợi quăn quăn khắp đầu. “Chúa ơi, mình trông như một con bé nữ sinh ấy!”. Cô tự nhủ: “Jim sẽ nói gì khi thấy mình như thế này?”
Bảy giờ tối, bữa ăn đuợc chuẩn bị gần xong. Della hồi hộp chờ đợi, hy vọng rằng mình vẫn còn xinh đẹp trong mắt Jim.
Thế rồi cửa mở, Jim bước vào. Anh ấy trông rất gầy và cần có một cát áo khoác mới. Jim nhìn chằm chằm vào Della. Cô không thể hiểu được anh đang nghĩ gì, cô sợ. Anh ta không giận dữ, cũng chẳng ngạc nhiên. Anh đứng đó, nhìn cô với ánh mắt kỳ lạ. Della chạy đến bên Jim òa khóc: “Ðừng nhìn em như thế, anh yêu. Em bán tóc chỉ để mua cho anh một món quà. Tóc sẽ dài ra mà. Em phải bán nó thôi, Jim à. Hãy nói “Giáng sinh vui vẻ”, em có một món quà rất hay cho anh này!”
– Em đã cắt mất tóc rồi à? – Jim hỏi.
– Ðúng thế, em đã cắt và bán rồi, vì vậy mà anh không còn yêu em nữa ư? Em vẫn là em mà! – Della nói.
Jim nhìn quanh rồi hỏi lại như một kẻ ngớ ngẩn: “Em nói là em đã bán tóc à?”
– Ðúng, em đã nói vậy, vì em yêu anh! Chúng ta có thể ăn tối được chưa, Jim?
Chợt Jim vòng tay ôm lấy Della và rút từ túi áo ra một vật gì đấy đặt lên bàn. Anh nói: “Anh yêu em, Della, dù cho tóc em ngắn hay dài. Hãy mở cái này ra em, sẽ hiểu tại sao khi nãy anh sững sờ đến vậy”.
Della xé bỏ lớp giấy bọc ngoài và kêu lên sung sướng, liền sau đó những giọt nước mắt hạnh phúc rơi xuống. Trong đó là một bộ kẹp tóc, những chiếc kẹp dành cho mái tóc óng ả của Della. Cô đã mơ ước có đuợc nó khi trông thấy lần đầu tiên qua cửa kính một gian hàng. Những cái kẹp rất đẹp và rất đắt tiền. Bây giờ chúng đã thuộc về cô nhưng tóc cô thì không còn đủ dài để kẹp nữa!
Della nâng niu món quà, mắt tràn đầy hạnh phúc: “Tóc em sẽ chóng dài ra thôi Jim”, nói xong cô chợt nhớ đến dây đồng hồ vàng định tặng cho Jim và chạy đi lấy.
– Ðẹp không anh? Em đã tìm kiếm khắp nơi đấy, giờ thì anh sẽ phải thích thú nhìn ngắm nó hàng trăm lần mỗi ngày thôi. Nhanh lên, đưa nó cho em, Jim, hãy nhìn nó với sợi dây mới này.
Nhưng Jim không làm theo lời Della. Anh ngồi xuống vòng tay ra sau đầu mỉm cười nói: “Della, hãy cất những món quà này đi. Chúng thật đáng yêu. Em biết không, anh đã bán chiếc đồng hồ để mua kẹp cho em. Giờ thì chúng ta có thể bắt đầu bữa tối được rồi em ạ”.
O-Henry

SỐNG GIỮA THẾ GIAN MÀ KHÔNG THUỘC VỀ THẾ GIAN

SỐNG GIỮA THẾ GIAN MÀ KHÔNG THUỘC VỀ THẾ GIAN

G. Tuấn Anh.

Một linh mục lo việc linh hồn cho các bệnh nhân HIV kể rằng: “Mặc dù rất siêng lần hạt mân côi và tôn kính đặc biệt Đức Maria, tôi chưa một lần diễm phúc được Mẹ hiện ra. Nhưng khi xức dầu cho một bệnh nhân mà căn bệnh ở giai đoạn cuối, thấy thái độ người bệnh thay đổi một cách tích cực so với những ngày trước, vị linh mục hỏi nguyên nhân và người bệnh cho biết, tối qua đã thấy và nói chuyện với Đức Mẹ”.

Theo thời gian, nếu điểm lại những lần Đức Maria hiện ra ở La Vang, Lộ Đức, Fatima,    . . . chúng ta sẽ thấy, tiêu chuẩn chọn lựa được đón ân phúc hiện ra của Mẹ thường là những trẻ em, những kẻ nghèo khổ, khốn cùng và khiêm nhường. Các thuộc tính này là một trong những cơ sơ để chúng ta nhận ra các tiên tri giả, thật.

Cách chọn lựa của Đức Maria không là khó hiểu, vì chính Thiên Chúa cũng tuyển chọn con người với các tiêu chí ấy khi mạc khải hay tỏ lộ các hồng ân. Điển hình trong mầu nhiệm giáng sinh, các con người được chọn để tham dự hay chứng kiến ân phúc này gồm: bác thợ mộc Giuse, cô thiếu nữ vô danh Maria, ba nhà chiêm tinh ở phương đông và các mục đồng ở Belem.

Mầu nhiệm Giáng sinh làm sáng tỏ phần nào quan điểm của Thiên Chúa với danh vọng và tiền tài- hai giá trị mà thế gian cho là báu vật. Và trong khi con người trông chờ một đấng cứu thế theo nghĩa của loài người, thậm chí có thể phục vụ cho cả mục đích của con người, nghĩa là một đấng quyền cao, chức trọng thì Đức Giêsu bảo rằng: “Thế thì anh em xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua” (Mt 11, 8). Cuối cùng, hang đá lạnh lẻo, nghèo hèn được chọn làm nơi Đấng Cứu thế giáng sinh.

Danh vọng và tiền tài là một trong các tiêu chí tìm kiếm của cả đời người. Nhưng bàn về danh vọng, Chúa Giêsu lại dạy rằng: “Vua của các dân thì lấy quyền mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Anh em thì không như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” (Lc 22, 26). Về tiền bạc, Chúa Giêsu phán: “Thầy còn nói cho anh em biết, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” (Mt 19, 24). Lối giảng dạy này thật sự gây náo động, xung đột trong suy nghĩ nhiều người.

Tìm kiếm tiền tài, danh vọng thường gắn liền với cái tôi, và con đường ấy khó dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa, vì Ngài mong đợi chúng ta quên đi cái tôi to lớn của bản thân. Chúa Giêsu bảo: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” (Ga 12, 25)

Suy niệm về mầu nhiệm Giáng sinh, về phương cách Thiên Chúa tuyển chọn con người hợp tác với Ngài, về lời truyền dạy của Đức Giêsu trong 3 năm rao giảng, một lần nữa khẳn định rằng: Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên con người giống hình ảnh Thiên Chúa, luôn mong muốn, con rắn xấu xí hay cám dỗ, phải bị khuất phục bởi hình ảnh của Ngài trong bản thân mỗi chúng ta. (Trong khi đó, con người lại muốn một Thiên Chúa có những tư duy như con người. Thuộc tính kiêu ngạo từ thuở hồng hoang xem chừng quá khó để con người dứt bỏ nó).

Những gì thuộc về thế gian, thuộc về con rắn quỉ quyệt, thì không thuộc về Thiên Chúa. Và những gì thuộc về Thiên Chúa thì xa lạ với thế gian. Chúa Giêsu bảo các môn đệ rằng: Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em.” (Ga 15, 18).

Lạy Chúa, chúng con biết rằng, để sống giữa thế gian mà không thuộc về thế gian, chỉ có thể được nếu chúng con được Ngài yêu thương và chăm sóc, vì không có Ngài, chúng con chẳng làm được điều gì.

CHÚA ĐẾN Ở ĐÂY VÀ NGAY BÂY GIỜ

CHÚA ĐẾN Ở ĐÂY VÀ NGAY BÂY GIỜ

Trần Mỹ Duyệt

Mỗi lần nghe hoặc nói đến hai chữ “Chúa đến”, phản ứng đầu tiên của nhiều người là nghĩ ngay đến biến cố của hơn 2000 năm trước tại cánh đồng Belem, vào một đêm Đông lạnh lẽo. Ngày đó, Ngôi Hai Thiên Chúa mặc xác phàm, giáng trần làm người. Nhưng nếu nhìn biến cố này với cặp mắt và suy tư mang mầu sắc tôn giáo, thì biến cố ấy được tin là qua việc hạ sinh, Ngôi Hai Thiên Chúa đã đến để giải thoát nhân loại khỏi tội, khỏi ách thống trị của Satan. Ngài đến để giao hòa nhân loại với Thiên Chúa.

Nhìn và suy ngắm việc Chúa đến bằng cặp mắt đức tin, thì biến cố này không chỉ dừng lại ở hành động suy diễn, và nhắc lại những gì đã xẩy ra tại cách đồng Belem trước đây. Đúng hơn, đó là lời nhắc nhở ta rằng Chúa không chỉ đã đến, mà Ngài đang đến, và sẽ đến: Ngài đến ở đây và ngay bây giờ.  Tư tưởng này sẽ giúp ta hiểu rõ hơn việc Chúa đến có liên quan gì với ta, và làm cách nào biến cố ấy lại trở thành biến cố giải thoát ta khỏi vòng nô lệ tội lỗi, và đem lại cho ta ánh sáng và ơn cứu độ.

“Chúa đến ở đây và ngay bây giờ”. Ta có thể căn cứ vào ý nghĩa của việc Ngài giáng trần để liên kết với mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Độ. Đồng thời hướng ta về với sự hiện diện của Ngài trong đời sống của chính mỗi người qua những giai đoạn được gọi là những thời khắc Chúa đến:

Chúa đến qua Mầu Nhiệm Nhập Thể.

Chúa đến qua những Bí Tích.

Chúa đến qua giờ chết.

Chúa đến trong ngày Quang Lâm.

Chúa đến qua Mầu Nhiệm Nhập Thể: Đây là những gì mà nhân loại đang nô nức chuẩn bị mừng ngày kỷ niệm. Hơn 2000 năm trôi qua, biến cố Belem vẫn được nhắc đến hằng năm.

Như những tổ phụ của Do Thái xưa, họ đã mỏi mòn trông chờ Chúa đến, nhưng khi Ngài đến thì lại không ai thèm để ý và đón tiếp. Chính vì thế, Ngài đã phải hạ sinh trong một cái chuồng chăn súc vật ngoài thành Belem. Nhân loại ngày nay chuẩn bị đón mừng kỷ niệm Chúa đến cũng bằng một thái độ tương tự. Đối với phần đông, Giáng Sinh chỉ là một lễ hội, mà ý nghĩa tôn giáo đã hầu như bị coi thường, quên lãng.

Chúa đến qua những Bí Tích: Đối với người Kitô hữu, việc Chúa Giêsu hiện diện và ban ơn qua các Bí Tích là hành động “đến” của Ngài với mỗi nguời chúng ta. Do quyền năng, và tình yêu Chúa hằng ngày, hằng giờ, và hằng phút vẫn đến với con người và từng người qua đời sống ân sủng nhờ các Bí Tích.

Qua Bí Tích Thánh Tẩy, Ngài đến với ta,  rửa sạch tội ta, và đem ta vào với ân sủng của Ngài. Nhờ đó ta được làm em của Ngài, làm con Cha trên trời. Thật ra, nếu không được rửa sạch tội khiên, được tháp nhập vào Thân Thể Mầu Nhiệm của Ngài, ta dù có đón mừng kỷ niệm cuộc giáng trần của Ngài, vẫn không được đón nhận vào đoàn con của Ngài, và được thông phần hạnh phúc nước trời.

Để ban cho ban sức mạnh, sự khôn ngoan, ơn can đảm, và những ơn huệ cần thiết khác giúp ta sống đời Kitô hưu cách trưởng thành, Chúa đã đến với ta quan Bí Tích Thêm sức.

Rồi mỗi lần ta đáp lại ơn gọi của Ngài, là một lần Chúa lại đến và lại mời gọi ta. Ngài gọi ta làm chứng nhân Tin Mừng bằng đời sống tu hành, tận hiến. Hay Ngài gọi ta cộng tác với Ngài trong việc tạo dựng, và làm đẹp cho cuộc sống bằng ơn gọi hôn nhân, gia đình. Hoặc Ngài gọi ta vào những ơn gọi, bậc sống riêng biệt khác.

Nhưng khi ta yếu đuối, sa ngã, lỡ lầm, Ngài lại đến để an ủi, nâng đỡ, và tẩy sạch ta qua Bí Tích Hòa Giải. Ở đó, Ngài giang rộng vòng tay đón ta, và tha thứ, phục hồi ơn gọi làm con Thiên Chúa cho ta.

Nhất là hàng ngày, hàng tuần bạn đến với Ngài trong Thánh Lễ, ở đó, Ngài nuôi ta bằng Lời Ngài, và Mình Máu Thánh Ngài. Trong Thánh Thể, Ngài nhắc lại với ta lời Ngài đã nói khi xưa: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Ngài đến, và đồng bàn với ta như Ngài đã đến và ăn tại nhà Phêrô, Gia Kiêu, và nhà của chị em Maria, Mattha, và Lazarô. Ta có thấy mình trở thành hãnh diện và diễm phúc lắm không? Cái đặc ân mà ở thời Ngài, ít người được hưởng.

Và khi ta dọn mình, chuẩn bị bước vào một cuộc hành trình mới, cuộc hành trình đi về vĩnh cửu thì Ngài lại đến để an ủi, để tăng thêm sức mạnh, và nhất là để giúp ta vững tin rằng Ngài luôn luôn ở đó bên ta. Bí Tích Xức Dầu chính là sự xuất hiện gần gũi, đầy tin tưởng nhất để giúp ta nhận ra tình Ngài, sự có mặt của Ngài trước giờ lâm chung.

Chúa đến qua giờ chết: Dù là người có tín ngưỡng hay không có tin ngưỡng, ta cũng sẽ nhận ra điều này, đó là không ai hết, không phải do thần chết đã gọi ta, đã bắt ta, đã cất mạng sống ta, nhưng là do chính Thiên Chúa đã dùng cách ấy để đem ta ra khỏi thế gian này. Để đem ta lại gần Ngài, và để ta ở với Ngài trong đời sống vĩnh cửu. Đức Tin dậy ta như thế, và ta cần phải tin như thế.

Nếu cuộc đời này là một bể khổ, thì cái chết là cần thiết để đưa ta ra khỏi bể khổ ấy. Thiên Chúa là Thiên Chúa tình thương. Ngài không muốn nhìn ta mãi bơi lội trong bể khổ này.

Nếu cuộc đời là một hành trình đi về viên miễn, thì Chúa đến đưa ta về nơi hạnh phúc ấy. Qua cái chết, ta sẽ nhận rõ hơn gương mặt yêu dấu của Ngài.

Chúa đến ngày Quang Lâm: Đây là những gì Đức Tin dậy: “Tôi tin xác loài người ngày sau sẽ sống lại. Tôi tin hằng sống”. Đây là lần xuất hiện cuối cùng và là lần xuất hiện vinh quang của Ngài trước mặt toàn thể nhân loại từ tạo thiên lập địa cho đến ngày ấy. Bạn và tôi chúng ta đều có mặt trong ngày ấy để đón Ngài. Tuy nhiên, tùy vào niềm tin, tùy vào cuộc sống, và tùy vào cái chết của mỗi cá nhân, mỗi người có một thái độ đón tiếp khác nhau.

Ngày hôm ấy, ta sẽ được nhìn lại một cách rõ ràng, chi tiết hơn tất cả thời gian mà Chúa đến với ta. Mỗi thời điểm ấy mang tín hiệu, lời mời gọi, hay sứ vụ gì? Số phận của ta tuy đã được quyết định trong ngày chết, nhưng hôm nay chỉ là một lần nữa cái số phận ấy được công bố cho toàn thể nhân loại biết, để cho thấy ta là ai, Thiên Chúa là ai trong cuộc đời ta, và thái độ ta đón rước Ngài như thế nào.

“Chúa đến ở đây và ngay bây giờ”. Thiên Chúa là Đấng làm chủ thời gian, Ngài là Nguyên Thủy và Cùng Đích. Việc Ngài đến với nhân loại, với mỗi người chúng ta không bị lệ thuộc vào thời gian. Nó luôn luôn là một hiện diện trước mặt và ngay bây giờ. Chuẩn bị mừng Mầu Nhiệm Giáng Trần, là dịp để ta suy nghĩ về sự hiện diện và có mặt của Ngài trong cuộc đời mỗi người. Ngài là Thiên Chúa giáng trần, nhưng là một Emmanual – Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chúa đã đến. Ngài đang đến. Và Ngài sẽ đến. Hãy sẵn sàng chờ đợi và đón tiếp Ngài.

Chúa đến ở đây và ngay bây giờ. Chuẩn bị mừng Mầu Nhiệm Giáng Trần, là dịp để ta suy nghĩ về sự hiện diện và có mặt của Ngài trong cuộc đời mỗi người. Ngài là Thiên Chúa giáng trần, nhưng là một Emmanual – Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chúa đã đến. Ngài đang đến. Và Ngài sẽ đến. Hãy sẵn sàng chờ đợi và đón tiếp Ngài.

CHỈ SỐ LÀM NHÓI LÒNG NGƯỜI !

CHỈ SỐ LÀM NHÓI LÒNG NGƯỜI !

Tác giả: Lm. Anmai, C.Ss.R.

Ở trong nhà chăn ấm nệm êm sẽ chẳng bao giờ thấy được cảnh nghèo người khổ quanh ta. Cứ bước chân ra đường, ta sẽ bắt gặp biết bao nhiêu hình ảnh của những người nghèo.

Người nghèo đó chẳng phải là ai xa lạ. Người nghèo đó có thể là chính người thân ruột thịt của ta, người bà con của ta, người hàng xóm của ta và ắt hẳn họ cùng dòng máu đỏ da vàng của ta.

Nơi chốn đô thị ồn ào và sầm uất, ta ít nhận ra những người nghèo bởi lẽ ra đường nơi phố thị ai cũng mặc đẹp, đi xe sang và làm những công việc mang tính đầu óc, trí tuệ. Có chăng ta bắt gặp được số ít người bán vé số, bán hàng rong … Họ là ai ? Họ là những người xa quê, họ là những người phải bỏ nơi chôn nhau cắt rốn để tìm về những đô thị lớn để sống phận “di dân”.

Cũng không khó hiểu lắm khi những thành phố lớn, đặc biệt là Thủ Đô và Sài Thành phải đón nhận số lượng di dân đến mức báo động. Vì sao họ phải bỏ quê để đi lên thành thị sống ? Bởi lẽ họ không còn cách nào khác để tìm kế sinh nhai.

Thời gian không dài nhưng cũng không quá ngắn để sống ở vùng Phú Thọ – Hưng Hóa còn in đậm trong trí của tôi khi dân ở đó không tìm ra đâu công ăn việc làm. Một số người lên rừng để cạo dầu chai. Công việc phải thức thật sớm bởi lẽ khi nắng lên thì không làm được nữa. Nhìn những bàn tay nứt nẻ vì bị dầu chai ăn khi họ lên chịu Lễ mà nhói lòng.

Hỏi ra thì thu nhập của họ đổi ra không đủ mua được một đô la.

Những người có hoàn cảnh thì đành phải ở lại nhà quê để sống với mức sống như thế. Những người khá hơn thì họ tìm cách để thoát khỏi quê nghèo tìm hướng sống. Cái nghèo đã bám víu mảnh đất Phù Lao – Phú Thọ – Hưng Hóa này.

Mới đây, trên quãng đường ngắn từ Huế ra La Vang, tôi lại chứng kiến hình ảnh của những con người nghèo. Những ngày mưa phụn lạnh giá nhưng người làm nông ở vùng này phải tìm cách quấn áo mưa hay những mảnh ni-lông tự chế sao cho ấm người để kịp ra đồng cày cấy. Không còn cách nào khác họ phải dầm sương như thế để kiếm sống qua ngày. Cái nghèo như ôm chầm cuộc đời của họ.

Nhìn thoáng qua với những tòa nhà cao ngất, với những chiếc xế hộp trị giá đến chục tỷ chạy bon bon trên đường và những nhà hàng cửa hiệu lộng lẫy thì thấy vui với một đất nước đang trên đà phát triển. Đúng thật là phát triển nhưng khi nhìn lại những con số thống kê thì thật đau lòng và choáng !

Cuối năm 2013 này, GDP bình quân đầu người tính bằng USD ước đạt 1.900 USD.

Nhìn con số này, thoạt tiên là mừng vì thấy thu nhập đầu người bình quân đến cả ngàn đô la. Thế nhưng, một sự thật phủ phàng và đau đớn là hiện nay ở Việt Nam có tới 17 triệu lao động vẫn nằm ở mức thu nhập dưới cận nghèo và chỉ đạt chưa đến 2 USD/ngày.

Đang khi đó thì Đại hội Đảng lần thứ XI đề ra mục tiêu GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái đến năm 2015 đạt 2.000 USD.

Với những thành quả như thế, dĩ nhiên người ta hết sức lạc quan khi dự đoán rằng mục tiêu này dễ đạt vì lẽ GDP bình quân đầu người tính bằng USD trong năm 2013 đang tiến tới mốc 1.900 USD.

Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) ngày 12/12 cho biết, hiện còn khoảng 17 triệu lao động Việt Nam có thu nhập quá thấp, không vượt lên trên chuẩn nghèo 2 USD/ngày (khoảng hơn 40 ngàn đồng/ngày).

Dân số Việt Nam như hiện nay, có khoảng 23 triệu người khác đang sống mấp mé trên ngưỡng chuẩn nghèo và rất dễ tái nghèo khi xảy ra khủng hoảng kinh tế.

Nhìn thấy con số biết nói 40 ngàn đồng thu nhập của mỗi ngày, chẳng lẽ ta không quặn lòng sao ?

40 ngàn đồng, ở mảnh đất Sài Thành, chắc có lẽ được 1 tô phở Anh ở đường Kỳ Đồng. Ở những tiệm khác có thể giá còn cao hơn nữa chứ không dừng lại ở cái giá 40 ngàn.

40 ngàn đồng hiện nay làm được gì ? Và con số những người thu nhập như thế này không chỉ ở con số một vài hay chục nhưng lên đến 23 triệu người nghèo.

Mỗi ngày, người dân kiếm được thu nhập như thế thì thử hỏi đời sống của họ sẽ như thế nào và đi về đâu. Ăn không đủ ăn nữa chứ đừng nói gì đến mặc, học hành, y tế … Có nằm mơ chắc họ cũng không bao giờ dám nghĩ đến chuyện giải trí.

Nhìn vào cuộc sống, khoảng cách giàu nghèo ngày càng cách biệt rõ nét.

Có những ngôi biệt thự giá từ chục tỷ đến hàng trăm tỷ.

Có những chiếc xe sang từ vài tỷ đến chục tỷ.

Và, có những người chỉ mơ có cuộc sống bình dị với mức thu nhập đủ sống nhưng nào giấc mơ đó có thực.

Không phủ nhận chuyện đất nước phát triển nhưng số người nghèo và quá nghèo sao còn nhiều quá. Làm sao cho họ có lối thoát để họ sống đúng mức là một người bình thường đây ?

Những ngày cận Tết đang đến. Có những gia đình đang, đã và sẽ tìm cho mình những kỳ nghỉ xa và dài, thậm chí ở ngoài nước nhưng ngược lại cũng còn đó nhiều và rất nhiều gia đình đang chạy ăn từng bữa và lo lắng cho cuộc sống.

Và, hình ảnh những người xa quê lại phải lao đao vất vả cho hành trình về thăm quê lại hiện ra. Người xa quê có tiền về thăm quê cũng là diễm phúc bởi lẽ có nhiều người ngậm ngùi ở lại đất khách vì không đủ khả năng về quê.

Hình ảnh của những người nghèo, những người di dân xa quê lại cứ hiện về rõ nét hơn trong những ngày tháng cuối năm.

Làm sao cho họ thoát nghèo, làm sao cho họ được sống với mức sống bình quân với tư cách là người hơn đây ?

Anmai, CSsR

Ngoại trưởng Mỹ John Kerry tham dự Thánh lễ tại Nhà thờ Chính tòa Đức Bà Sài Gòn

 

Ngoại trưởng Mỹ John Kerry tham dự Thánh lễ tại Nhà thờ Chính tòa Đức Bà Sài Gòn
Sơn Nữ SPC

12/14/2013

SAIGÒN – 14g24: Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đến khuôn viên trước tượng Đức Mẹ. Ngài Ngoại trưởng Mỹ John Forbes Kerry cùng với phái đoàn của ông đã đến Nhà thờ Chính tòa Đức Bà Sài Gòn vào lúc 14g20 hôm thứ Bảy 14/12/2013, để tham dự Thánh lễ.

Tại khuôn viên trước Thánh đường, Cha Tổng đại diện Gioan Baotixita Huỳnh Công Minh cùng với Cha Chánh văn phòng Tòa Giám mục Ignatio Hồ Văn Xuân và Cha Giuse Vương Sỹ Tuấn đã ra chào và đón vị Ngoại trưởng vào Nhà thờ. Sau đó, trước khi dâng Thánh lễ, Cha Tổng đại diện – thay mặt Đức Hồng Y Tổng Giám mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn – chúc ngài Ngoại trưởng mọi sự tốt đẹp.

Đức Giám Mục phụ tá Phêrô Nguyễn Văn Khảm đã chủ tế Thánh lễ. Đồng tế với ngài có linh mục Tổng Đại diện cùng với hai linh mục phụ tá Nhà thờ Chánh tòa là Cha Giuse Vương Sỹ Tuấn và Cha Phêrô Đỗ Duy Khánh.

Sau Bài Tin Mừng, Đức Cha Phêrô chia sẻ về việc cử hành lòng thương xót của Đấng Cứu Thế trong Mùa Vọng như lời nhắc nhở của Bài Tin Mừng vừa nghe: “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”. Đức Cha nhắc đến hai tấm gương hiện đại của lòng thương xót bao dung là Đức Giáo Hoàng Phanxicô (mới được tạp chí Time chọn là nhân vật của năm 2013) và Tổng thống Nelson Mandela (mới qua đời với một tang lễ có gần 100 lãnh đạo các nước tham dự). Vị chủ tế mời gọi cộng đoàn hãy sống lòng thương xót của Chúa theo hai mẫu gương vừa kể.

Ngài Ngoại trưởng đã tham dự Thánh lễ và rước lễ sốt sắng. Cuối lễ, ĐGM. Phêrô Nguyễn văn Khảm đến bắt tay chào Ngoại trưởng Mỹ và một số người trong phái đoàn. Vị ngoại trưởng đã đặc biệt diễn tả với Giám mục chủ tế về niềm cảm xúc dâng tràn khi được tham dự Thánh lễ tại đây.

Thánh lễ kết thúc lúc 15g20. Trước khi ra khỏi nhà thờ, Ngoại trưởng Mỹ đã đến tận nơi cảm ơn ca đoàn và chụp hình chung với các ca viên.

5 điều người ta hối tiếc nhất lúc sắp lìa trần

5 điều người ta hối tiếc nhất lúc sắp lìa trần

Một nữ y tá người Úc tên Bronnie Ware đã có nhiều năm chuyên chăm sóc người bệnh ở thời kỳ 12 tuần cuối của cuộc đời họ. Qua đó cô đã có cơ hội ghi lại những điều mà người bệnh còn hối tiếc trước khi nhắm mắt.

Cô nhận ra rằng khi người sắp qua đời được hỏi có điều gì trong cuộc đời mà họ hối hận vì đã không làm khác đi, đã có một số câu trả lời rất phổ biến trong tâm lý chung của con người ở giai đoạn này mà cô có thể tổng kết lại thành năm điều và viết thành cuốn sách cùng tên: “5 điều hối tiếc nhất lúc sắp lìa trần”. Đã không có câu trả lời nào đề cập đến sự ham muốn về tình dục hay những cú nhảy bungee mạo hiểm.

  5 iÁu hÑi ti¿c nh¥t lúc s¯p lìa tr§n

“5 điều hối tiếc nhất lúc sắp lìa trần”

Dưới đây là năm điều hối tiếc phổ biến nhất của những người sắp chết, mà Ware đã ghi lại:

1. Giá mà tôi có đủ can đảm để sống một cuộc sống đúng với bản thân mình, chứ không phải là cuộc sống mà những người khác mong đợi ở tôi.

“Đây là niềm hối tiếc phổ biến nhất. Khi con người ta nhận ra rằng cuộc đời của họ đang gần đến điểm kết thúc, ngoảnh nhìn lại, thật dễ dàng để nhận ra có bao nhiêu giấc mơ đã trôi đi mà chưa thành hiện thực. Hầu hết mọi người đã không tôn trọng thậm chí chỉ một nửa giấc mơ của mình và giờ đây họ phải ra đi trong suy nghĩ rằng điều này hoàn toàn do những gì họ đã lựa chọn, hoặc không lựa chọn. Sức khỏe mang lại một sự tự do mà rất ít người nhận ra, cho đến khi họ không còn có nó được nữa”.

2. Giá mà tôi đã không làm việc một cách cật lực.

“Điều hối tiếc này này đến từ tất cả các bệnh nhân nam mà tôi chăm sóc. Họ đã bỏ lỡ tuổi trẻ của con cái họ cũng như sự đồng hành của người bạn đời. Phụ nữ cũng có nhắc đến điều hối tiếc này, nhưng vì hầu hết họ đến từ thế hệ cũ, họ đã không cần phải là trụ cột gia đình. Tất cả những người đàn ông mà tôi đã chăm sóc đều hối hận một cách sâu sắc rằng họ đã chi tiêu quá nhiều cuộc sống của họ để chạy đua với công việc”.

3. Giá mà tôi có đủ can đảm để bộc lộ cảm xúc của mình.

“Nhiều người phải ức chế cảm xúc của mình để giữ hòa khí với những người xung quanh. Kết quả là, họ phải tự nén mình xuống sống một cuộc sống tầm thường và không bao giờ trở thành người mà họ đã thực sự có khả năng trở thành. Nhiều căn bệnh phát triển liên quan đến sự cay đắng và oán giận mà họ đã phải ôm trong người”.

4. Giá mà tôi giữ liên lạc với bạn bè của tôi.

“Thường thì họ sẽ không thực sự nhận ra những lợi ích đầy đủ của những người bạn cũ cho đến những tuần cuối cùng của cuộc đời, và không phải lúc nào cũng có thể tìm lại được bạn bè. Nhiều người đã bị kẹt trong cuộc sống riêng của họ đến nỗi đã để những tình bạn vàng trôi đi theo năm tháng. Đến cuối đời họ cảm thấy rất ân hận bởi đã không dành đủ thời gian và nỗ lực để chăm chút cho tình bạn của mình. Tất cả họ đều nhớ đến những người bạn của mình khi họ đang hấp hối”.

5. Giá mà tôi để cho bản thân mình được hạnh phúc hơn.

“Đây là một niềm hối hận phổ biến đến mức ngạc nhiên. Nhiều người cho đến phút cuối cùng mới nhận ra hạnh phúc chính là một sự lựa chọn cho cuộc sống. Họ bị kẹt trong những mô hình và thói quen cũ. Cái gọi là “sự dễ chịu” của sự quen thuộc đã lấn át đời sống tinh thần cũng như thể chất của họ. Sự sợ phải thay đổi đã khiến họ phải giả vờ với mọi người xung quanh và với chính bản thân họ, rằng họ đang rất mãn nguyện, nhưng thực ra, ở sâu bên trong, họ thèm được cười hết mình và có được lại sự khờ dại”.

Hãy sống và cống hiến hết mình để trước khi nhắm mắt ta sẽ nở 1 nụ cười !