Ý NGHĨA VIỆC GIÁNG SINH CỦA CHÚA GIÊSU

Ý NGHĨA VIỆC GIÁNG SINH CỦA CHÚA GIÊSU

(BÀI GIÁO LÝ CỦA ĐTC PHANXICÔ)

Tác giả: GLV. Phạm Xuân Khôi (chuyển ngữ)

“Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu, đã liên hệ với loài người đến nỗi trở thành một người trong chúng ta, điều đó có nghĩa là bất cứ điều gì chúng ta làm cho anh chị em mình là chúng ta làm cho Ngưởi.”

Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý ĐTC Phanxicô ban hành ngày 18 tháng 12 năm 2013 trong buổi Triều Yết Chung được tổ chức tại Quảng Trường Thánh Phêrô.  Hôm nay nói về ý nghĩa của việc Chúa Giáng Sinh.

* * *

Anh chị em thân mến, chào anh chị em,

Cuộc gặp gỡ này diễn ra trong bầu không khí tinh thần của Mùa Vọng, được nên mãnh liệt hơn vì ở trong Tuần Cửu Nhật Giáng Sinh, chúng ta đang sống những ngày dẫn chúng ta đến Đại Lễ Giáng Sinh.  Vì vậy, hôm nay tôi muốn cùng anh chị em suy niệm về việc giáng sinh của Chúa Giêsu, ngày lễ của đức tin và đức cậy, là điều vượt quá sự bất ổn và bi quan.  Và đây là lý do cho niềm hy vọng của chúng ta: Thiên Chúa ở cùng chúng ta và Thiên Chúa vẫn còn tin tưởng chúng ta!  Nhưng chúng ta hãy suy nghĩ kỹ về điều này:  Thiên Chúa ở với chúng ta và Thiên Chúa vẫn tin tưởng chúng ta.  Thiên Chúa Cha này rất đại lượng!  Ngài đến để ở với loài người, lựa chọn Trái Đất như nơi cư ngụ của mình để được với loài người và để con người tìm thấy Ngài ở nơi mà họ sống những ngày tháng của mình trong niềm vui hay nỗi buồn.  Vì vậy, trần gian không còn chỉ là một “thung lũng nước mắt”, nhưng là nơi mà Thiên Chúa đã cắm lều, là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và loài người, là nơi của sự đoàn kết của Thiên Chúa với loài người.

Thiên Chúa muốn chia sẻ thân phận con người của chúng ta đến mức trở nên một với chúng ta trong con người của Chúa Giêsu, Đấng là Thiên Chúa thật và người thật.  Nhưng có một điều khác còn đáng ngạc nhiên hơn.  Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại đã không được thực hiện trong một thế giới lý tưởng, an bình, nhưng trong thế giới thật này, được đánh dấu bằng rất nhiều điều tốt và xấu, được đánh dấu bằng những chia rẽ, sự dữ, nghèo đói, áp bức và chiến tranh.  Người đã chọn để sống trong thực trạng của lịch sử của chúng ta, với tất cả gánh nặng của những giới hạn và những thảm trạng của nó.  Khi làm như thế Người đã chứng minh khuynh hướng thương xót vô hạn và đầy tình thương dành cho con người.  Người là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Chúa Giêsu là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.  Anh chị em có tin điều này không?  Chúng ta hãy tuyên xưng điều này: Chúa Giêsu là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta! Chúa Giêsu là Thiên Chúa luôn luôn ở với chúng ta và mãi mãi ở cùng chúng ta trong sự đau khổ và lo buồn của lịch sử.  Việc ra đời của Chúa Giêsu là một sự tỏ lộ rằng Thiên Chúa là tự mình “đứng về phía” loài người một lần mà thôi là đủ để cứu chúng ta, để nâng chúng ta lên từ bụi đất của những khốn khổ, những khó khăn và những tội lỗi của chúng ta.

Từ đó có “món quà” vĩ đại là Hài Nhi ở Bethlehem:  Người đem đến cho chúng ta năng lực tinh thần, một năng lực giúp chúng ta không bị chìm trong những công việc khổ cực của mình, trong tuyệt vọng của mình, trong những nỗi buồn của mình, bởi vì đó là một năng lực sưởi ấm và biến đổi tâm hồn.  Thực ra, việc ra đời của Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta Tin Mừng là chúng ta được Thiên Chúa yêu thương vô cùng và cách riêng, và không những Thiên Chúa chỉ làm cho chúng ta biết tình yêu này,  mà Người còn ban nó và thông truyền nó cho chúng ta!

Từ việc vui mừng chiêm ngắm mầu nhiệm Con Thiên Chúa sinh ra cho chúng ta, chúng ta có thể lấy rút ra hai điều để suy nghĩ.

Điều thứ nhất là nếu trong ngày Lễ Giáng sinh, Thiên Chúa không tỏ mình ra là một Đấng ở trên cao và thống trị vũ trụ, nhưng là một Đấng tự hạ mình, ngự xuống đất, nhỏ bé và nghèo nàn, điều đó có nghĩa là để được giống như Người, chúng ta không được đặt mình ở trên người khác, nhưng thay vì thế thì chúng ta phải cúi xuống, hiến thân phục vụ, làm cho chúng ta thành nhỏ bé với những người bé nhỏ và nghèo khó với những người khó nghèo.  Nhưng thật là xấu khi anh chị em nhìn thấy một Kitô hữu không muốn cúi mình xuống, không muốn phục vụ.  Một Kitô hữu lúc nào cũng phô trương khắp nơi, là điều buồn nôn: người ấy không phải là một Kitô hữu, mà là kẻ ngoại đạo.  Một Kitô hữu phục vụ, tự hạ mình xuống.  Chúng ta hãy làm việc để chắc chắn rằng anh chị em của chúng ta không bao giờ cảm thấy cô đơn!

Hậu quả thứ hai: nếu Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu, đã liên hệ với loài người đến nỗi trở thành một người trong chúng ta, điều đó có nghĩa là bất cứ điều gì chúng ta làm cho anh chị em mình là chúng ta làm cho Ngưởi.  Chính Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng ai đã nuôi nấng, chào đón, thăm viếng, yêu thương một trong những người bé nhỏ nhất và nghèo khổ nhất giữa loài người, thì đã làm điều ấy cho Con Thiên Chúa.

Chúng ta hãy phó mình cho sự chuyển cầu từ mẫu của Đức Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ chúng ta để Mẹ giúp chúng ta trong Giáng sinh Thánh này, giờ đây đã gần, ngõ hầu nhận ra trên gương mặt của những người lân cận của chúng ta, đặc biệt là những người yếu đuối nhất và thiệt thòi nhất, hình ảnh của Con Thiên Chúa làm người.

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

http://giaoly.org/vn

ĐTC: Giáng Sinh là lễ của sự tin tưởng và niềm hy vọng

ĐTC: Giáng Sinh là lễ của sự tin tưởng và niềm hy vọng


Linh Tiến Khải

12/18/2013

Giáng Sinh là lễ của sự tin tưởng và niềm hy vọng. Nó cử hành biến cố Chúa Giêsu xuống thế làm người để sống với chúng ta trong lịch sử loài người, với tất cả gánh nặng các hạn hẹp và thảm cảnh của nó.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với các tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi gặp gỡ chung tại quảng trường Thánh Phêrô sáng thứ tư 18-12-2013.

Vì buổi tiếp kiến diễn ra trong bầu khí thiêng liêng của mùa Vọng trở thành sâu đậm hơn nhờ tuần cửu nhật nên Đức Thánh Cha đã suy tư về ý nghĩa của lễ Giáng Sinh. Ngài nói:

Hôm nay tôi muốn cùng anh chị em suy tư về lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu, ngày lễ của sự tin tưởng và niềm hy vọng, vượt thắng sự bất ổn và bi quan. Và lý do niềm hy vọng của chúng ta là điều này: Thiên Chúa ở với chúng ta và vẫn còn tin tưởng nơi chúng ta! Anh chị em hãy nghĩ tới điều này: Thiên Chúa ở với chúng ta và vẫn còn tin tưởng nơi chúng ta! Thiên Chúa Cha thật là quảng đại.

Thiên Chúa đến ở với loài người, lựa chọn trái đất như nơi ở của mình để cùng sống với con người và để làm cho mình được tìm thấy tại nơi con người trải qua các ngày của mình trong niềm vui và trong khổ đau. Vì thế trái đất không chỉ còn là ”thung lũng nước mắt” nữa, mà là nơi chính Thiên Chúa đã cắm lều của Ngài, là nơi Thiên Chúa gặp gỡ con người và liên đới với con người.

Thiên Chúa đã muốn chia sẻ điều kiện làm người của chúng ta đến độ trở thành một với chúng ta trong con người của Đức Giêsu, là người thật và là Thiên Chúa thật. Nhưng còn có điều gì đó gây ngạc nhiên hơn nữa. Sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người đã không được thực hiện trong một thế giới lý tưởng, tình tứ, nhưng trong thế giới thực sự này, bị ghi dấu bởi các chia rẽ, gian ác, nghèo túng, các chuyên quyền và chiến tranh. Ngài đã lựa chọn ở trong lịch sử của chúng ta như nó là, với tất cả gánh nặng của các hạn hẹp và các thảm cảnh của nó. Khi làm như thế Ngài đã chứng minh cho thấy một cách không thể vượt hơn được khuynh hướng xót thương và tràn đầy tình yêu của Ngài đối với con người. Ngài là Thiên Chúa ở với chúng ta; Đức Giêsu là Thiên Chúa ở với chúng ta. Anh chị em có tin điều này không? Tín hữu trả lời ”Có”. Chúng ta hãy cùng nhau tuyên xưng điều này: Đức Giêsu là Thiên Chúa ờ cùng chúng ta. Tất cả mọi người lập lại. Một lần nữa. Đó tốt lắm xin cám ơn anh chị em. Chúa Giêsu là Thiên Chúa ở cùng chúng ta, từ luôn luôn và sẽ mãi mãi ở với chúng ta trong khổ đau và khốn khó của của lịch sử.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha định nghĩa lễ Giáng Sinh như sau:

Lễ Giáng Sinh của Chúa Giêsu biểu lộ cho thấy Thiên Chúa đã đứng về phía con người một lần cho tất cả, để cứu vớt chúng ta, để nâng chúng ta dậy từ bụi đất của các nỗi bần cùng, khó khăn và tội lỗi của chúng ta. Từ đó phát xuất ra món quà vĩ đại của Hài Nhi Bếtlehem: một năng lực tinh thần giúp chúng ta không chìm sâu trong các mệt nhọc, thất vọng, buồn sầu của chúng ta; bởi vì nó là một năng lực sưởi ấm và biến đổi con tim. Thật thế việc sinh ra của Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta một tin vui: đó là chúng ta được Thiên Chúa yêu thương vô cùng và một cách đặc biệt, và tình yêu này Ngài không chỉ làm cho chúng ta nhận biết, mà còn ban tặng và thông truyền nó cho chúng ta nữa!

Từ việc tươi vui chiêm ngưỡng mầu nhiệm của Con Thiên Chúa sinh ra vì chúng ta, chúng ta có thể rút tỉa ra hai điều.

Thứ nhất đó là nếu trong lễ Giáng Sinh Thiên Chúa không tự mạc khải như một người ở trên cao và thống trị vũ trụ, nhưng như Đấng tự hạ mình xuống trên trái đất bé nhỏ và nghèo nàn này, thì điều này có nghĩa là để giống như Ngài chúng ta không được ở bên trên các người khác, nhưng trái lại phải hạ mình xuống, để phục vụ, để trở nên bé nhỏ với những người bé nhỏ và nghèo với người nghèo. Thật là một điều xấu, khi thấy một Kitô hữu không muốn hạ mình xuống, không muốn phục vụ, một Kitô hữu vênh váo khắp nơi: thật là xấu có phải không? Người đó không phải là tín hữu Kitô, mà là một người ngoại giáo. Kitô hữu thì hạ mình và phục vụ. Chúng ta hãy làm sao để các anh chị em này không bao giờ cảm thấy cô đơn! Sự hiện diện liên đới của chúng ta bên cạnh họ không chỉ diễn tả bằng lời nói nhưng bằng sự hùng hồn của các cử chỉ cho thấy Thiên Chúa gần gũi tất cả mọi người.

Đề cập tới khía cạnh thứ hai Đức Thánh Cha nói:

Nếu qua Chúa Giêsu Thiên Chúa đã liên lụy với con người cho tới nỗi trở thành như một người trong chúng ta, thì có nghĩa là bất cứ gì chúng ta sẽ làm cho một người anh chị em, là chúng ta làm cho Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nhắc cho chúng ta nhớ điều đó: ai cho ăn, lắng nghe, thăm viếng, yêu thương một trong những người bé nhỏ và nghèo nàn nhất là đã làm cho chính Con Thiên Chúa. Trái lại, ai khước từ, quên lãng, không biết tới một trong các người bé nhỏ và nghèo nàn nhất là đã bỏ quên và khước từ chính Thiên Chúa (x. Mt 25,35-46). Như thánh Gioan đã viết: ”Thật ra ai không yêu thương người anh em mà mình trông thấy, thì không thể yêu thương Thiên Chúa mà mình không trông thấy” (1 Ga 4,20).

Chúng ta hãy phó thác cho sự cầu bầu hiền mẫu của Mẹ Maria, Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ chúng ta, để Mẹ giúp chúng ta trong lễ Giáng Sinh thánh gần kề này, nhận biết nơi gương mặt của tha nhân, đặc biệt của những người yếu đuối và bị gạt bỏ ngoài lề nhất, hình ảnh của Con Thiên Chúa làm người. Xin Mẹ Maria nâng đỡ chúng ta trong quyết tâm trao ban cho tất cả mọi người tình yêu thương, lòng tốt và sự quảng đại của chúng ta. Trong cách thế này chúng ta sẽ phản ánh và kéo dài ánh sáng của Chúa Giêsu, Đấng từ hang đá Bếtlêhem tiếp tục tỏa lan trong các con tim, bằng cách hiến tặng niềm vui và hòa bình, mà chúng ta ngưỡng vọng từ tận thẳm sâu con người chúng ta.

Sáng thứ tư 18-12-2013 đã có vài ca đoàn và ban nhạc ”Viva la Gente” của phong trào Tổ Ấm hát thánh ca Giáng Sinh và trình tấu chào mừng Đức Thánh Cha cũng như tạo bầu khí tươi vui cho buổi tiếp kiến.

Chào các tín hữu Đức Thánh Cha chúc mọi người những ngày hành hương sốt sắng, lễ Giáng Sinh và Năm mới tươi vui an lành và thịnh vượng.

Chào các tín hữu Ba Lan hiện diện tại quảng trường cũng như bên Ba lan và khắp nơi trên thế giới Đức Thánh Cha xin mọi người hãy nghĩ tới các người nghèo, người đói, người cô đơn, người vô gia cư, bị gạt bỏ ngoài lề xã hội, cũng như các nạn nhân của chiến tranh, đặc biệt là các trẻ em.

Ngài cũng đã chào nhiều người đau yếu ngồi trên xe lăn, ôm hôn vuốt ve và an ủi họ. Đức Thánh Cha khích lệ người trẻ tiến tới với mầu nhiệm Giáng Sinh với cùng các tâm tình đức tin và sự khiêm nhường của Mẹ Maria. Ngài cầu mong cho các anh chị em đau yếu kín múc được niềm vui và sự bình an mà Chúa Giêsu đem đến cho nhân loại. Đức Thánh Cha nhắn nhủ các cặp vợ chồng mới cưới chiêm ngưỡng Thánh Gia Nagiarét và noi gương các nhân đức của Thánh Gia.

Buổi tiếp kiến đã kết thúc với kinh Lậy Cha và phép lành tòa thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.

Bài học của một linh mục trẻ

Bài học của một linh mục trẻ

chuacuuthe.com

VRNs ( 19.12.2013) – Sài Gòn- Có một câu nói rất ý nghĩa : « Việc học không bao giờ được coi là đủ, vì nó như dòng nước trên nguồn chảy mãi ra biển khơi….  Muốn học thì phải có trường, và không ngôi trường nào đầy đủ, sinh động, chân chính và cay đắng hơn ngôi trường này: Trường Đời… ». Ở góc độ truyền giáo, một cha giáo của tôi khẳng định : « Luôn có những bài học đắt giá dành cho những nhà truyền giáo từ chính những con người họ tiếp cận. Hay nói cách khác, nhà truyền giáo được sự tác động trở lại, hay được truyền giáo trở lại, từ chính những người mà họ phục vụ. » Tôi rất tâm đắc với những nhận định này vì đó là thực tế mà tôi cảm nhận.

Nếu luôn có đó một sự tác động hỗ tương trong mọi tương quan, thì với tư cách là người linh mục, tôi đón nhận quá nhiều bài học phục vụ từ chính những người dân tại giáo xứ. Tôi không muốn nêu tên cụ thể những con người được nói đến ở đây, bởi lẽ, trong mắt tôi, họ đã quá nổi tiếng trong lĩnh vực của họ.

* * *

Người đầu tiên dạy cho tôi sự hy sinh phục vụ là một cụ ông vóc người nhỏ nhắn, khuôn mặt hiền lành phúc hậu, ít nói hay cười và làm rất nhiều, mà lại làm toàn chuyện « độc ». Con cái cụ đã lập gia đình hết, trong nhà chỉ còn hai ông bà già, thành ra cụ có nhiều thời gian cho việc phục vụ của mình. Không giữ bất kỳ chức vụ gì trong giáo xứ nhưng cái cụ làm được cho giáo xứ thì, với tôi, quá nhiều. Điều quý giá ở nơi cụ là những việc cụ làm thường âm thầm ít người biết đến, và một khi đã quyết thì làm cho đến cùng, không nản chí, không buông xuôi. Mỗi khi có những công trình xây dựng nhà tình thương hay giúp đỡ một gia đình nghèo nào đó (cả người kinh và người dân tộc), cụ nhiệt thành không những bỏ công của của cá nhân mà còn khuyến khích con cái hy sinh giúp sức. Thậm chí có trường hợp gia đình nghèo neo đơn cần có chỗ trú thân, chính cụ lên kế hoạch vận động con cái cháu chắt của cụ. Cụ còn đi thuyết phục tôi và mọi người tham gia để gia đình đó có được cái nhà tươm tất. Tôi may mắn được gặp và cộng tác với cụ, đặc biệt trong việc xây dựng nhà tình thương cho bà con sắc tộc Êđê. Có một vài công trình chính cụ nhận phần xây cất. Quá tuyệt vời !

Sự chín chắn, từng trải của tuổi già, tấm lòng đại lượng của một kitô hữu, lòng nhiệt huyết cùng với sự khiêm tốn của một giáo dân như cụ quả thật đã có sức ảnh hưởng lớn trên tôi.

* * *

Nếu ai đến Châu Sơn mà muốn trải nghiệm cái nghèo về đủ mọi phương diện, hãy đến với những người mà tôi sắp kể đây. Và tôi nghĩ, một khi đã chứng kiến, tôi không tin là có một ai đó còn dám than thân trách phận với Chúa rằng sao để cho con nghèo, bởi đơn giản, không còn ai nghèo hơn những người này.

Những người tôi nói đến là một người mẹ chịu nhiều đau khổ để nuôi nấng người con gái hơn nửa thế kỷ bệnh tật nằm một chỗ trên giường bệnh. Suốt hơn năm mươi ba năm cứ âm thầm, cặm cụi như thế. Thời điểm tôi ở đó, người mẹ không còn đi lễ được vì sức yếu, nên tôi vẫn thường đến cho cụ rước lễ. Có những lúc bà cụ tâm sự : « Cha à, bây giờ con cứ mong cho nó chết trước con, chứ nếu con chết trước, không biết nó sẽ sống thế nào nữa. » Nhiều lúc cho cụ rước lễ, vào trong nhà mùi xú uế bốc lên nồng nặc, chịu không thấu. Người con gái thì vẫn nằm đó, hồn nhiên vô tư, cười cười nói nói mà không biết mình nói gì. Hai mảnh đời, hai thân phận cứ quấn chặt vào nhau mà sống. Một người thì ý thức được cái nghèo tận cùng của phận người, cái khắc nghiệt của cơm áo gạo tiền, cái quay quắt của bệnh tật, và vì thế, sống trong sự dày vò của nỗi khổ tâm. Còn người kia thì vô tư không chút mảy may nghĩ đến cái bất hạnh nhất có thể xảy đến : một ngày kia người mẹ có thể mất đi. Bởi không ai có thể (hay dám) hình dung cô sẽ thế nào khi không có mẹ.[1] Dù vẫn có những người xung quanh như con cái, dâu rể lo lắng đấy, rồi thỉnh thoảng cũng có những hội đoàn, nhóm này nhóm kia thương tình ghé thăm giúp đỡ chút quà mọn. Nhưng tất cả chỉ là sự trợ giúp tương đối nào đó thôi, làm sao cất khỏi họ gánh nặng của thân phận khắc nghiệt ? Đó thực sự là người nghèo về mọi phương diện, nghèo nhất, nghèo cùng cực ! Nhìn về quá khứ là hơn năm mươi ba năm chôn chân một chỗ, cái ăn cái mặc cứ phải cậy nhờ vào người khác mà không thể tự lo cho mình. Quá khứ là sống chung với bệnh tật, với mùi xú uế mà không có cách nào để thoát ra. Còn hiện tại ? Thưa là nụ cười ngây ngô hồn nhiên của người con gái hơn năm mươi ba tuổi đầu, suốt ngày không thoát ra khỏi được cái giường của riêng mình. Hiện tại là khuôn mặt đầy nếp nhăn với cặp mắt u buồn của người mẹ già, là sự cam chịu đầy tức tưởi trước nghịch cảnh. Thế còn tương lai? Tôi nhớ lại câu nói đau đớn của cụ già, xem ra nghịch lý, nhưng là một nghịch lý hoàn toàn logich với tâm hồn của người mẹ : « … Con muốn nó chết trước con … ».

Đứng trước hai người phụ nữ ấy, bỗng thấy mình quá đầy đủ, quá sung sướng. Tôi cảm thấy những khó khăn trở ngại mà mình gặp phải thật ra đâu là gì so với những gì mà hai người phụ nữ ấy đang gánh lấy. Đứng trước họ, chợt nhận ra mình đã quá hoang phí về mọi thứ được ban : tiền bạc, thời gian, cơ hội, tương quan con người …. Phải duyệt xét cuộc sống để sống tốt hơn trong sự khó nghèo, phải trân trọng với tất cả những gì được ban để sống cho xứng đáng. Cuộc đời của hai người phụ nữ nghèo ấy thực sự đã để lại cho tôi quá nhiều bài học !

* * *

Bài học thứ ba tôi học được là tính tự lập và vượt khó từ một cô bé. Qua đến nước Pháp, bài học này trở nên quý giá vô cùng khi mà tôi phải tự xoay xở hết mọi chuyện trong cuộc sống của mình. Có lẽ phải mở ngoặc để giải thích một chút. Ở Việt Nam, người giáo dân thương mến các cha và sẵn sàng giúp đỡ cho các « đấng ». Nhiều người sẵn sàng đi mua máy móc, vật dụng, quần áo … cho các ngài. Nhiều người giáo dân có chuyên môn trong lĩnh vực của mình như tin học, điện gia dụng, giấy tờ hành chính … sẵn sàng giúp các cha miễn phí (vì giúp các đấng ai nỡ lòng lấy tiền). Đến một lúc, cha chỉ biết việc đạo, còn đụng đến việc đời thì cha hơi lúng túng. Qua đến Pháp, tất cả đều phải tự lập, phải tự xoay sở tất tần tật. Cũng phải mất một thời gian làm quen với chuyện đó. Nhưng may mắn đã có một chút kinh nghiệm nhờ học được từ môi trường Châu Sơn nên không bị điêu đứng.

Ngày đầu tiên tôi gặp cô bé mà tôi học hỏi ấy là trong buổi phát quà cho các em học sinh giỏi của giáo xứ trong dịp đầu năm học. Cô gái ấy bị khuyết tật nặng toàn thân dẫn đến tình trạng từ cách đi đứng đến nói năng diễn tả rất khó khăn. Theo như tôi được biết, ngoài bố mẹ của cô bé thì những người khác phải rất khó khăn mới có thể hiểu được điều cô bé nói. Nhưng như người ta thường nói, Thượng Đế rất công bằng, người lấy của người ta cái này thì sẽ ban lại cho cái khác để cuộc sống được quân bình. Cô bé khuyết tật ấy rất thông minh sáng dạ và viết lách thuộc hàng xuất sắc. Học giáo lý luôn luôn có bằng khen và phần thưởng. Nghe đâu cô bé có lúc cũng đã đoạt giải học sinh giỏi văn của thành phố Buôn Ma Thuột. Nhưng có một điều đặc biệt hơn, cô bé luôn tìm cách để sống tự lập, cố gắng giới hạn ở mức thấp nhất sự làm phiền người khác. Nghe mẹ cô kể : bé luôn luôn tự mình lo việc vệ sinh cá nhân, súc miệng đánh răng, di chuyển trong nhà … và nhiều việc khác. Chỉ những khi đi xa như đến trường học hay đến nhà thờ, thì mới phải để bố chở đi.

Cách đây bốn năm, bất hạnh ập đến khi người thân yêu gần gũi nhất của cô bé là ông bố đột ngột qua đời ở tuổi còn rất trẻ. Chỗ dựa lớn nhất bỗng dưng bị cái chết cướp đi. Hụt hẫng và trống rỗng ! Đau khổ và cay đắng ! Chúa lại thinh lặng đến mức lạnh lùng trong biến cố đau thương. Mọi người nghẹn ngào nhìn cô bé khóc đến nỗi không còn sức mà khóc, không còn nước mắt mà tuôn. Gánh nặng cuộc đời trở nên trĩu nặng hơn trên đôi vai gầy.

Nhưng nỗi đau như con thú dữ đã không đủ sức quật ngã con người đầy nghị lực ấy. Cô gượng dậy trên sự mất mát, can đảm đối diện với bất hạnh và từng bước chế ngự nó. Nghe đâu vài tháng sau khi bố mất, cô bé quyết xin mẹ vào Sài Gòn theo học một khoá tin học và chụp ảnh. Rồi từ từ cũng thành nghề. Lâu lâu hỏi thăm tin tức lại thấy tình hình cô bé sáng sủa hơn. Cô đã có thể phụ mẹ bán xăng, bàng hàng tạp hoá, có lúc cũng mở nghề làm thiệp đám cưới. Có người thương giúp cho cái máy photocopy, cũng mở dịch vụ photo giấy tờ cho học sinh của ngôi trường gần đó. Một ngày kia tôi đến thăm cô và gia đình. Thật bất ngờ, cô còn làm thêm cả nghề chụp ảnh thẻ lấy ngay. Tôi thắc mắc làm sao chụp ảnh với đôi tay lúc nào cũng run lẩy bẩy thế. Cô cười : « Cha cứ thử. Con chụp cho cha. » Rồi cô chụp thật. Không những làm được, mà còn làm rất đẹp là đàng khác. Thật là đáng khâm phục !

Cô bé không đầu hàng số phận. Luôn luôn có ở đó ý chí vươn lên, tìm kiếm mọi cơ hội và nắm bắt nó. Đúng hơn cô tìm cách tạo cơ hội cho mình. Cái cô đạt được về phương diện vật chất, qua các công việc cô làm, có lẽ không là gì so với những người khác, nhưng giá trị cuộc đời cô thì thật là đáng để học hỏi : đó là một hình mẫu về ý chí tự lập và tinh thần vượt khó, vượt qua số phận để vươn lên và tồn tại. Cuộc đời cô thực sự là một bài học đắt giá cho tôi.

*************

Những người thầy của tôi trong « trường học Châu Sơn » là những con người bình dị như thế đấy. Dĩ nhiên còn rất nhiều những con người khác nữa mà vì giới hạn bài viết tôi không thể kể ra. Những bài học ấy tôi vẫn cứ phải nghiền ngẫm và áp dụng từng ngày. Tạ Ơn Chúa.

JB. Hồ Quang Lâm, dcct

Cuộc trùng phùng hy hữu của một gia đình HO trên đất Mỹ (1)

Cuộc trùng phùng hy hữu của một gia đình HO trên đất Mỹ (1)

Tác giả : Du Tử Nguyễn Định

Tác giả là cựu sĩ quan VNCH, khoá 8/68 Sỹ Quan Trừ Bị Thủ Đức, phục vụ tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, bị bắt tại Ban Mê Thuột ngày 14 tháng 3 năm 1975; Đến Mỹ tháng 4/2005, hiện cư ngụ tại Carlsbad, California.

Đây là chuyện có thật của đứa trẻ bị thất lạc khi đi vượt biển chỉ mới 8 tuổi .

1. Cuộc Tìm Kiếm Vô Vọng

Thuận xếp tập hồ sơ lại, nhìn người con gái đối diện, mỉm cười đứng dậy bắt tay cô gái và nói:

– Chúc mừng cô gia nhập vào Biomedical Research của chúng tôi. Khi nào cô có thể đi làm được?

– Dạ em cần về công ty cũ báo cho họ biết, có thể cho em 2 tuần để thu xếp được không?

– Vâng, nếu có trở ngại cô cho tôi biết nhé.

– Dạ. Xin cám ơn anh nhiều lắm. Chào anh.

Chờ cho người con gái bước ra khỏi phòng, anh ngồi xuống, băn khoăn tự hỏi, không biết mình còn quên điều gì chưa dặn cô ta không, và còn sót điều gì chưa làm? Sao mình lại có cảm giác hồi hộp và bâng khuâng?

Nhìn khuôn mặt cô ta rất quen và dường như thân thiết lắm, không hiểu mình gặp cô ta ở đâu, High School, hay lúc còn học Bio. Anh mở lại hồ sơ, đọc thêm một lần nữa Resume của cô gái, Thái, Thủy-Vi, tốt nghiệp Master of Biomedical Sciences tại DMU (Des Moines University, Iowa)… Thuận giật mình. Cô ta họ Thái, cùng họ với Thuận. Iowa, nơi cô ta học, không phải tiểu bang mình đã học. Vậy là chưa từng gặp, mà sao như linh cảm thấy điều gì lạ lùng. Lúc phỏng vấn, hai ba lần Thuận định hỏi, nhưng rồi lại e ngại, sợ qúa đường đột gây ngộ nhận.

Giữ chức vụ này đã 5 năm, Thuận đã interview nhiều người, anh hết sức né tránh những ngộ nhận không cần thiết, nhất là khi phải interview đồng hương của mình, dù có ý muốn nâng đỡ, cũng chỉ ngấm ngầm và để trong lòng, nhưng đây là lần thứ nhất anh có cảm giác này. Đọc mức lương đề nghị, anh như một cái máy, để mức lương tối đa cho phép phỏng vấn viên, anh nghĩ, cô ta thật xứng đáng được như thế.

Những suy nghĩ về cô gái làm anh bận rộn và quên mất cả thời gian, cho đển khi tiếng điện thoại reo lên, anh mới biết là đã đến giờ, mở cặp da, bỏ hồ sơ vào và ra về, mà tâm hồn cứ quẩn quanh trong ý nghĩ “không biết có còn sót điều nào chưa bảo cô ấy không, thôi để cô ta đi làm rồi mình sẽ hỏi cho rõ ngọn ngành là đã gặp cô ta ở đâu, có khi là đi lễ Chủ nhật gặp được không chừng” .

Về đến nhà, lúc ngồi ăn cơm, Thuận kể cho vợ anh nghe về cuộc phỏng vấn một người con gái Việt Nam mang họ Thái và những tình cảm mơ hồ, lạ lùng trong anh, anh thú nhận là giờ này vẫn còn hình dung ra khuôn mặt và dáng dung của cô ấy, anh biết rất rõ ràng, tình cảm ấy không phải là loại tình cảm nam nữ, nhưng thực sự anh lại không hiểu.

– Có gì đâu, ngày nào cô ấy đi làm thì anh hỏi chuyện cô ấy là được rồi, hay anh lại muốn em giúp? Tại anh nhạy cảm thôi, em hiểu anh đang nghĩ tới điều gì, bên nội hay bên ngoại phải không? Đâu phải là lần đầu anh suy nghĩ như thế. Nhưng anh không có em gái mà.

– Thì đành như vậy, nhưng anh lại sợ mình vụng về không khéo léo lại gây hiểu lầm.

– OK, đến ngày đó em tới ăn trưa với anh, rồi giả như tình cờ em gặp cô ấy, chúng ta hỏi chuyện xã giao được không?

– Được vậy thì tốt lắm.

– Nhưng mà cô ấy chắc là dễ thương, duyên dáng, mặn mà lắm phải không? Nếu không làm sao ông chồng em lại tơ vương đến như thế.

– Dạo này hình như tiếng Việt của em giỏi hơn nhiều, nói chuyện nghe văn hoa bóng bẩy quá, phải như ngày xưa em học Văn chương hay Nhân chủng học thì dễ nổi tiếng lắm đó.

– Đùa anh vậy thôi chứ ngay khi biết cô ta cùng họ với anh, em hiểu ngay điều anh đang bận tâm. Em sẽ giúp anh.

Thuận nhìn vợ với lòng cảm kích. Loan là bác sĩ ngoại khoa. Hai người lập gia đình đã hơn 15 năm, có hai đứa con gái, nhưng tình cảm vợ chồng lúc nào cũng thân ái mặn nồng, đúng như câu các cụ bảo “vợ chồng lúc nào cũng tương kính như tân”. Phần Loan, nàng hiểu nỗi khắc khoải của người chồng sau bao năm tìm kiếm vô vọng.

*

Thuận vượt biển đến Mỹ năm 1978, khi chỉ mới 8 tuổi, được một gia đình người bản xứ không có con nhận nuôi và đón tại phi trường, khi Thuận vừa từ đảo đến.

Thuận không nhớ gì về gia đình mình, ngoài tấm hình được bọc plastic, luồn trong lưng quần mà lúc ra đi mẹ Thuận đã để vào, tấm hình ấy gồm có ba mẹ Thuận, Thuận và một người em trai nhỏ hơn Thuận 3 tuổi, mặt sau của tấm hình có ghi là: Thái Ngọc Trác (1947), Chung thị ngọc Hân (1953), Thái Ngọc Thuận (1970), và Thái ngọc Trị (1973).

Ba má nuôi của Thuận đã kể cho Thuận nghe về tai nạn của chiếc tàu chở Thuận và 48 người khác vượt biển, bị lạc đường trên biển, hết lương thực và nước uống, rất nhiều người đã chết vì đói và khát, chỉ còn Thuận và 5 người khác gồm 3 trẻ em còn sống sót. Đó là những gì Thuận biết về chuyến vượt biển của mình, những người sống sót đó là ai, hiện nay ở đâu anh không hề biết. Ba má nuôi của Thuận cũng đã dùng tấm hình ấy để hỏi thăm tin tức về gia đình Thuận ở các cộng đồng người Việt trên đất nước này, hay hầu hết các nước Pháp, Anh, Canada, Úc … nhưng không hề nhận được một tin tức nào.

Tuy là người bản xứ, nhưng giữa anh và ba má nuôi, thật rất gần gủi và thân thiết không khác gì ruột thịt, có lẽ tại từ những ngày đầu anh côi cút, lạc loài, và bơ vơ, được ba má nuôi chăm sóc dưỡng dục, đã cho anh một ấn tượng hoàn hảo về hai ông bà, và làm cho anh trở nên gần gũi với người bản xứ thực sự. Nhất là thời gian anh còn ở tiểu học, lúc nào cũng được má nuôi đưa đón đến trường. Ngày anh tốt nghiệp đại học, ba má nuôi ôm hôn anh trước sân trường làm anh xúc động đến rơi nước mắt.

Từ nhiều năm qua, Thuận cũng đã cố công tìm lại gia đình ruột thịt của mình. Chàng rất muốn về Việt Nam để tìm lại gia đình, nhưng không biết phải bắt đầu tìm từ chổ nào, hỏi thăm những người hàng xóm cũ, hay hỏi tin tức từ quê của ông bà nội ngoại. Điều không may là lúc ra đi Thuận chưa đầy 8 tuổi, đầu óc non nớt đó không thể nhớ được nơi Thuận đã ở, ngoài con đường Phan Chu Trinh mà Thuận như mang máng nhớ, còn lại chỉ là những hình ảnh mơ hồ.

Thuận chỉ biết nhà của gia đình anh ở rất gần chợ, từ nhà có thể đi bộ đến một Tiệm may, gần đó là những quán xá như tiệm chè, quán kem, và vườn sau của nhà là một cây mai rất nhiều cành, mà Thuận nhớ hàng năm khi Tết đến, mẹ vẫn thường hay cắt nhánh đem vào chưng bàn thờ hay là cắm ở phòng khách, ngoài ra Thuận không còn nhớ được gì nữa. Bác Khôi ở cạnh nhà Thuận, hàng xóm mà Thuận thường chui qua vườn sau để cùng chơi đùa với Lân và chị Cúc, cũng đã dọn đi sau khi Sài gòn bị chiếm. Rất nhiều những gia đình khu Thuận ở đã bỏ đi hay bị đuổi khỏi nhà.

Ngày Thuận ra đi, căn nhà bác Khôi và chị Cúc đã bị một gia đình bộ đội dọn vào, và gia đình bác Khôi ra sao cũng không nghe mẹ nhắc đến, chính vì thế mà hàng xóm của Thuận đã toàn là những người lạ không ai tiếp xúc .

Còn về gia đình nội, ngoại thì Thuận chỉ nhớ trước đây ông bà nội ở Đà Lạt, mất miền Nam, gia đình nội và các cô chú nghe mẹ nói về Phước Tuy và đã mất tin tức liên lạc. Bên ngoại còn cậu Tuấn, đi tù, cậu Hưng đã vượt biên, nhưng không liên lạc được, còn dì Út thì lên ở với gia đình Thuận và đi cùng chuyến tàu với Thuận nhưng đã chết vì đói và khát. Đó là lý do mà Thuận không về Việt Nam để tìm kiếm.

Với tất cả phương tiện mà Thuận biết và có thể, Thuận đã dùng hết, để hỏi thăm tin gia đình trên các tiểu bang của nước Mỹ hay là tìm đến Canada, theo sự chỉ dẫn của một vị đại tá, nguyên Trưởng phòng II của Quân Đoàn II, “Hãy bắt đầu từ đơn vị ít người nhất, như các Liên đoàn, Sư đoàn, Bộ Tư lênh. Từ nước gần nhất, đến nước xa xôi . . . ” và Thuận đã tìm đến Canada, gặp một vị đại tá Hải Quân, Chủ tịch liên Hội người Việt, Ông cư ngụ ở một thành phố ngoại ô của Thủ đô Canada, thành phố Nepean, rồi gặp vị Chủ tịch Hội Cựu Quân Nhân tại Ottawa, nhưng không ai biết tin tức về gia đình anh. Anh lại lần lượt tìm liên lạc với các liên đoàn, như Liên đoàn 21, 22 Biệt động Quân, Liên đoàn 6 BDQ, Liên đoàn công Binh, Liên đoàn Quân Y, các bệnh viện từ Duy Tân, Nguyễn Huệ, đến Tổng Y Viện Cộng Hòa, các Phòng I của các Sư đoàn Vùng Hỏa tuyến, đến 22, 23, 18, 25, 7, 9… Sư đoàn Dù, TQLC, nhưng chỉ là những cuộc tìm kiếm vô vọng.

Cách đây mấy năm, anh nghe vị cựu Chỉ Huy Trưởng LD 72 Quân Y kể chuyện về đời sống ở Úc, anh đã tìm cách làm quen với những người ở Úc và quen được một ông cụ mà ngày xưa có con làm Phó tỉnh Gia định và Giám sát viện, từ đó, anh liên lạc được với các sở ANQD, Hành Chánh TC, các Trung Tâm HCTV Tiểu khu , và kết quả vẫn là câu “Trời Phật nhất định sẽ không phụ lòng hiếu thuận của cháu đâu, rồi có ngày cha con mẹ con lại đoàn tụ”

Anh thất vọng, bỏ cách thức tìm kiếm từ các đơn vị Quân đội, và quay về với đầu mối cũ mà ba má nuôi anh từng tìm, đó là các Trại tù Cải tạo, từ Bắc chí Nam. Anh được tiếp xúc với rất nhiều người tù Cải tạo, chứng kiến cuộc sống của họ, những vất vả và cố gắng của họ làm anh ngậm ngùi và xúc động, những lúc như vậy, anh lại thầm nghĩ đến ba mẹ, “nếu ba mẹ còn sống, con sẽ không để ba mẹ vất vả đâu”.

Vào năm cuối của Biomedical scientist, Thuận nghe tin có một vị Linh mục ở nhà tù Trại Đưng, Thanh Hóa, biết tin về một Sĩ quan tên Trác, trốn trại bị Việt cộng bắn chết, Thuận đã bỏ nửa chừng để bay đi Nouvelle Calédonie (Tân đảo), nơi cha Stanislas Cosca Hoa đang làm cha xứ, để hỏi thăm tin tức,

– Thưa cha con là Thái Ngọc Thuận, ở xa đến xin gặp cha để hỏi về tin của ba con là Thái ngọc Trác, đây là hình của gia đình chúng con.

– Hình mờ quá, tôi nhìn không rõ, nhưng mà tôi cũng không biết gì về ông cụ đâu. Ai nói cho anh biết tin này?

– Một người quen ở Tân Tây Lan nói cho con, nhưng họ cũng không biết đích xác, họ chỉ bảo con viết thư hỏi tin tức ở cha mà thôi.

– Thật là tội nghiệp, lòng của con Chúa sẽ biết. Đã đến đây thì hãy ở vài ngày coi cho biết Tân Đảo, người Việt ít có ai đi du lịch tới nơi này.

– Thưa cha ở đây có bao nhiêu giáo dân.

– Chừng hơn 500 người, nhưng lòng tin kính Chúa thì rất sốt sắng.

Thuận rời Giáo xứ Nouméa Kitô Vua mà lòng mang đầy nỗi tuyệt vọng mênh mông.

Trở về Thuận viết thư nhờ bà Khúc Minh Thơ giúp đỡ, rồi theo dõi Chương trình HO của các người đi tù cải tạo trở về, nhưng vẫn không tìm ra manh mối của gia đình, người thân, nội hay ngoại. Điều đáng tiếc là Thuận không biết cấp bậc của ba, đơn vị của ba, hay của cậu Tuấn, cậu Hưng, để mà dò la, cho nên đến chổ nào, hay viết thư đi đâu cũng không ai biết cách nào giúp đỡ. Hàng năm, kể từ sau khi tốt nghiệp, Thuận xông xáo vào các hoạt động của cộng đồng người Việt, nhất là của các hội Cựu Quân Nhân để làm quen hỏi thăm , nhưng câu hỏi mà Thuận luôn luôn nghe là “ba cháu cấp bậc gì, đơn vị sau cùng ở đâu?” Thuận chỉ lắc đầu không biết, có người thấy vậy còn nghi ngờ Thuận có lòng tới quấy nhiễu đã tỏ thái độ xua đuổi.

Hình ảnh cuối cùng còn rõ nhất trong đầu Thuận là buổi chiều ra đi, mẹ ôm Thuận và dì Út vừa mếu máo vừa nói, “Gia đình chỉ còn hai dì cháu, em phải lo cho cháu giúp anh chị, rồi mẹ cúi xuống hôn anh và nói, con phải nghe lời dì Út nhé” và Thuận thấy nước mắt chảy đầy trên mặt mẹ khi anh và dì Út bước lên chiếc xe ra đi.

Cuộc hành trình vượt biên xảy ra như thế nào thực sự Thuận không hay biết, vì anh và nhiều người khi bước lên tàu, đã bị đưa xuống hầm tàu nằm co ro không biết ngày đêm, chỉ khi nào đói thì kêu dì Út, cho đến một ngày dì Út bảo là đã hết thức ăn, hãy cố ngủ đi, và rồi không biết bao nhiêu ngày Thuận đã mệt lả bất tĩnh cho đến lúc được tàu vớt và đưa lên đảo, tỉnh lại, Thuận mới biết là dì đã chết.

Nhờ được ba má nuôi người Mỹ tận tình dưỡng dục, Thuận đã có hoàn cảnh thuận lợi để học hành, thành đạt và anh luôn luôn thương kính ba má nuôi. Khi ông bà còn sinh tiền, vào những ngày lễ như ThanksGiving, Christmas, anh luôn luôn đem vợ con về ở chơi một hay hai ngày với ba má, làm cho ông bà cũng rất hãnh diện và thực sự vui vẻ. Nhưng rồi liên tiếp hai năm, ba nuôi mất rồi má cũng mất. Cuộc tìm kiếm ba mẹ ruột và em trai đã trở thành vô vọng.

Hàng năm, Thuận lấy ngày 30 tháng 4 làm ngày giỗ cho ba mẹ và em, ngày ấy cả nhà đi lễ cầu nguyện cho gia đình.

Điều làm Thuận thương cảm nhất là anh không còn hình dung ra được ba mình như thế nào, trong đầu óc anh khi nghĩ về ba, chỉ là hình ảnh nhạt nhòa trên tấm hình trắng đen mà mẹ trao cho lúc ra đi, và mỗi lần nhìn lại tấm hình, Thuận không làm sao kềm được cảm xúc và các con anh đã bắt gặp rất nhiều lần, những khi như vậy, bao giờ vợ anh cũng chỉ vổ về anh bằng câu nói ” hãy cố quên đi, cố vui với các con, và hãy cầu nguyện cho họ, biết đâu như người ta nói, xa tận chân mây, nhưng gần lại trước mặt, nếu ba mẹ chưa mất, thế nào gia đình mình cũng có ngày đoàn tụ”.

Là một y sĩ, Loan hiểu nỗi khắc khoải của Thuận và luôn tìm cách chia sẻ nỗi ưu tư của chàng, nhưng Thuận còn một nỗi niềm riêng, mà không cách nào anh có thể chia xẻ với vợ: cho tới nay, hai vợ chồng chưa có con trai. Nếu ba mẹ và em đã chết, quả là dòng họ Thái đành đứt đoạn, Thuận thấy mình có lỗi với ba mẹ và ông bà nội hay tổ tiên. Tư tưởng này cứ nhậm gấm tâm hồn Thuận mỗi khi nhìn vợ con vui vẻ bên nhau.

Câu chuyện xảy ra đã mấy chục năm, và cơ hội tìm gặp ba mẹ và em Thuận đã gần như không nghĩ tới. Đúng lúc ấy thì có cuộc phỏng vấn tuyển chuyên viên Biomedical Sciences và cô gái họ Thái xuất hiện.

Khuôn mặt, nụ cười tiếng nói của cô gái họ Thái làm Thuận trằn trọc mãi. Trong bong đêm, Thuận nhắm mắt như cầu nguyện “Ba mẹ ơi, đây là Thành phố Hy Vọng, City of Hope, con và những người làm việc ở đây lúc nào cũng mong ước đem được hy vọng đến cho từng người, và dù chỉ có một tia hy vọng nhỏ nhoi, chúng con và cả những bệnh nhân, cũng không bao giờ dám bỏ lỡ. Ba mẹ hãy chỉ cho con biết phải làm thế nào, nếu quả thật ba mẹ đã về nơi yên nghỉ, xin hãy báo mộng cho con”!

Cuộc trùng phùng hy hữu của một gia đình HO trên đất Mỹ(2)

Cuộc trùng phùng hy hữu của một gia đình HO trên đất Mỹ (2)

2. Như Một Giấc Mơ

Vi về đến khách sạn mà Biomedical Research đặt cho Vi ở để interview, việc đầu tiên là nàng báo cho ba mẹ biết đã xin được việc làm sau 3 ngày interview liên tiếp, “thật hú vía và bất ngờ”, nàng nói với mẹ qua điện thoại, và báo cho ba mẹ biết đón nàng ở phi trường.

Nàng phải trở về công ty cũ để báo nghĩ việc và thu xếp để cùng đem ba mẹ rời tiểu bang lạnh, nơi mà gia đình Vi đã định cư từ ngày đến nước Mỹ cho tới hôm nay. Ước vọng của Vi là làm sao đưa ba mẹ rời được xứ lạnh để không thấy ba còm cỏi, lụ khụ mỗi mùa tuyết đổ. Lạnh và giá buốt làm nhức các khớp xương ngón tay, ngón chân, đầu gối và cổ chân mà ba than phiền mỗi khi đông đến, làm Vi nghe cũng xót xa. Nhất là sau ngày ba mẹ nghỉ hưu, “Ngồi nhà nhìn tuyết rơi thật là chán quá”, đó là câu mẹ Vi vẫn thường than mỗi ngày tuyết đổ.

Cái ông anh “nối dõi” của Vi còn ở tận bên Trung đông, làm Vi vừa thương vừa lo, để mặc ba mẹ cho một mình Vi phải bận tâm. Nói thế nhưng thực ra, cuộc sống của ba mẹ và Vi lúc Vi chưa ra trường, anh đã gánh vác rất nhiều. Tiền lương của ba mẹ chỉ đủ chi dùng cho cuộc sống gia đình, còn tiền tiêu của Vi, nhất là những kỳ Vi không lấy được học bổng toàn phần, đều nhờ cả vào anh. “Con trai độc thân đi làm dĩ nhiên là đưa tiền cho mẹ, không lý anh lại đi phấn son hay làm thẩm mỹ để cua người đẹp bên đó, mà có khi cũng phải, vì bên đó con trai được cưới 3, 4 bà vợ, mai mốt mẹ tha hồ có người hầu hạ”. Đó là những câu trêu chọc Vi tặng cho anh, những ngày anh về nghỉ với gia đình.

Nghĩ tới việc rời xa Life technology, Vi cũng có chút ngậm ngùi. Vi ra trường, tìm được việc ở công ty này, trong lúc rảnh rỗi, Vi vào trang web của Chính phủ, biết được Biomedical Research cần người, Vi liền gởi Resume xin việc. Resume gởi đi gần 2 tháng trời không có tin tức, Vi tưởng là đã chìm xuống Thái Bình Dương rồi, không ngờ lại được thư gọi interview và được nhận. Vi hồi tưởng lại khuôn mặt người interview mình sau cùng, cũng là người quyết định nhận Vi, thấy anh ta thật dễ thương và rất bình dị, không có vẻ kiêu kỳ, lạnh lùng như những người giữ chức vụ đó. Trông anh ấy giống Đại Hàn hơn là người Việt, nếu anh ta không nói câu sau cùng “Chúc mừng cô gia nhập biomedical research … “, thì Vi không thể biết anh là người Việt. Để mai mốt đi làm, mình tìm hiểu về anh ta thử xem là đã đến Mỹ lâu chưa mà giữ chức vụ ấy, không chừng mình gặp được quới nhân cũng nên. Vi mỉm cười với ý nghĩ của mình và vui mừng vì những ngộ nghĩnh, mà may mắn nàng đã gặp.

Vi theo gia đình đến Mỹ theo Chương trình HO dành cho những tù nhân chính trị như ba Vi, lúc đó Vi mới 7 tuổi. Nàng theo học từ Elementary, đến High School rồi Biomedical sciences. Thời gian đầu nàng thật không thích trường lớp tý nào. Đi học về hôm nào cũng khóc, mãi cho đến khi lên High school nàng mới có bạn và mới thích nghi được sinh hoạt học đường ở Mỹ.

Vi có rất nhiều kỷ niệm ở xứ lạnh này. Cuộc đời học trò, thủa chân ướt chân ráo của những ngày đầu bước chân vào lớp học. Nhìn những học sinh Mỹ, Vi sợ nhiều hơn là vui, không dám làm quen, chúng nói gì Vi cũng không nghe, không hiểu, chỉ cầu xin mau mau hết giờ để mẹ đón về, về nhà lại khóc vì sợ phải đi học, phải mất đến mấy tháng Vi mới quen, mới bắt đầu nghe hiểu. Một điều rất may là Vi rất giỏi toán, những bài toán, hay là các bài tập homework Vi chỉ đọc một lần hoặc liếc qua là hiểu và làm rất nhanh và rồi từ từ, Vi lên High school rồi lấy Biomedical Sciences mà đôi khi nghĩ lại, Vi thật cũng không ngờ. Điều may mắn Vi gặp được thời gian ở High school là Vi có một bà cô dạy Bio rất thương Vi, quê bà ở Nhật, lấy chồng Tân Tây Lan, làm việc cho một bệnh viện tại Mỹ, chuyên về Vi trùng học. Bà cô này đã khuyến khích Vi học biomedical, lương cao, dễ xin việc, và không vất vả như các ngành Medicine, hay Pharmacy . . .

Cuộc đời thật có những việc không ngờ, như việc Vi theo gia đình đến Mỹ. Vi nhớ khi đến đây nhằm vào mùa tuyết, tuyết rơi giống như hoa bông dưới ánh đèn đêm, Vi thích thú vô cùng. Mấy năm đầu, tuyết thật dễ thương, không thấy lạnh gì lắm, nhưng những năm về sau, mùa tuyết bỗng như lạnh hơn, nhất là những khi có ánh nắng, Vi không hiểu được tại sao, chỉ biết là khi tuyết đang rơi, người ta thấy ấm hơn là những ngày tuyết mà có ánh mặt trời.

Mười mấy năm sống ở đây, Vi đã quen thân từng dãy phố, góc đường, Tiệm Cafe, bánh ngọt… Những khuôn mặt khả ái mà mỗi khi bắt gặp vẫn dùng một kiểu xã giao trên đất Mỹ “long time no see” bây giờ phải xa họ, Vi không khỏi xao xuyến trong lòng. Tiếc nuối cũng đành ra đi, vì ba má đã già không chịu nổi giá tuyết ở nơi đây, vả lại công việc mới thích hợp với ngành học của nàng hơn, mà đặc biệt là lương cao hơn. Nàng miên man trong dòng cảm xúc của mình, thì tiếng điện thoại reo . . .

– Vi phải không, mẹ đây, vậy là mấy giờ con sẽ đến phi trường?

– Nếu không bị trễ là 10 giờ 45, nếu ba mẹ sợ lạnh thì khi nào xuống máy bay con sẽ gọi ba mẹ ra không sao.

– Ba con bảo hỏi cho chắc thôi, ba con nhờ mấy ông bạn già bên đó tìm nhà thuê giùm, họ bảo nhà cho thuê nhiều lắm, trong hai tuần thế nào cũng tìm ra nhà, mình sang sẽ có nhà ở rồi. Coi bộ ba con vui lắm, vì thoát khỏi mùa Đông ở đậy, mà nhất là gặp lại đám bạn già của ba ở bên đó.

– Được vậy thì tốt lắm, thôi nha mẹ, để con thu xếp và gọi book vé về khỏi trễ.

– Bye bye con.

Vé máy bay đi và về đã được Biomedical Research đặt sẵn cho những ai được mời interview, cả về ăn ở, do vậy Vi chỉ cần báo ngày giờ cho hãng Hàng Không là được.

Chuyến bay Vi đi thật đúng giờ, 10:50 Vi rời máy bay, vô quầy nhận hành lý thì đã thấy ba mẹ chờ ở đó, Vi ôm ba mẹ và nói tíu tit như rất vui mừng, niềm vui bộc lộ hẳn ra trên khuôn mặt, nụ cười.

– Nhìn con thì biết là công việc này con thích thú lắm phải không.

– Phải rồi mẹ ạ, tiền lương cao hơn Life technology nhiều, nơi làm việc thật khang trang với mấy dãy building vây quanh, đẹp như một thành phố, con thích lắm

– Thôi về nhà đi rồi hãy nói chuyện, ba Vi xen vào.

Về nhà, lúc ngồi ăn cơm Vi kể cho ba mẹ nghe cuộc Interview nàng đã gặp,

– Run lắm ba mẹ biết không, tới 3 người interview con trong ngày đầu, và hơn 6 tiếng liên tiếp, con phải trả lời theo sách vở, những gì đã học, và cứ lo lắng không hiểu những câu mình trả lời đúng hay là sai, nhất là về Immunology và Cellular and molecular Biology, cho đến khi đứng dậy, một trong 3 người họ bảo con, hôm nay cô làm tốt lắm, ngày mai cô có mặt đúng 8 giờ. Ngày thứ 2, con lại gặp 3 người khác, họ hỏi con về những việc con làm tại Life technology và các loại tools hay equipment con đã dùng, những dụng cụ trong phòng lab mà con biết xử dụng, nhưng chưa sử dụng, rồi họ dẫn con đến các departments như là Immunology, Molecular and Cellular Biology, Molecular medicine… Và sau cùng là Molecular Pharmacology. Họ yêu cầu con sử dụng một vài dụng cụ trong lab như Ocular Micrometer, Micropipettor, một vài software dùng trong research, tên software mà con đang sử dụng và testing… Nghĩa là họ hỏi con đủ thứ. Con vừa hồi hộp vừa lo sợ mình làm không xong, một lúc con chợt nghĩ tới bỏ cuộc. Rất may là chính lúc ấy họ bảo con “Chắc là cô đã mệt, cô có thể về, và ngày mai Mr. James sẽ gặp cô từ 9:30 đến trưa”.

Ngày thứ 3 con có mặt lúc 9 giờ, chờ chừng 15 phút thì Bác sĩ James tới gặp con, ông hỏi về Chemistry và Bio, DNA (DeoxyriboNucleicAcid), RNA, (RiboNucleicAcid), ASO (Alle Specific Oligonucleotide), PCR (Polymerase Chain Reaction) rồi một vài kiến thức về Pharmacology, sau đó ông giới thiệu về Department của ông, Molecular and cellular Biology, công việc chính của Department là nghiên cứu về di truyền (Gene structure), các mẫu của kháng thể (Modeling of antibodies) và lý thuyết của sinh học (Theoretical biology). Sau đó ông đưa con vào phòng họp của Staff và chờ interview lần chót.

Con hồi hộp đến muốn khóc khi ngồi chờ ở đây, căn phòng không rộng, nhưng cảm giác vắng vẻ làm con sợ hãi như lần làm bài thi tốt nghiệp cuối cùng. Thật là hú vía, cuối cùng rồi người interview con cũng mở cửa bước vào, con run đến nỗi quên câu chào xã giao khi đưa tay cho ông ta bắt, mà nghệ thuật interview dạy phải làm.

Ba mẹ biết không, ông phỏng vấn con cuối cùng là người Việt, cũng là người có thẩm quyền quyết định mướn con hay từ chối mướn. Thoạt nhìn, con cứ tưởng là người Đại Hàn, rất ít nói, nhưng khi nói lại có vẻ nhiệt tình và thân thiện, ông ta luôn luôn nhìn mặt con, làm con rất bối rối, con phải xin phép ra ngoài để bớt căng thẳng, điều mà khi interview không hề cho phép, con nghĩ là fail rồi, nhưng khi trở vào, ông ta chỉ hỏi con OK không, có thể tiếp tục không, và những câu ông hỏi rất nhẹ nhàng, như về antibodies, transgene, Southern blot method, và về dược học. Cuối cùng, ông ta đứng dậy bắt tay chúc mừng con tham gia vào Biomedical Research… và cho con biết bác sĩ James muốn con về làm ở Department của ông ta, (Molecular and cellular Biology). Nhờ ông ta chúc mừng bằng tiếng Việt, lúc đó con mới biết ông ta là người Việt.

-Chắc là còn trẻ và đẹp giai, nên con bối rối !

– Hì hì . . . Không phải đâu, ai mà nghĩ như má, lúc đó con rất lo sợ và hồi hộp thôi.

– Bà làm như con bà đẹp lắm, ba Vi xen vào.

– Dĩ nhiên con gái tôi thì bảnh rồi.

*

Thế là gia đình Vi rời tiểu bang lạnh giữa mùa Đông. Sau hơn 4 giờ bay, gia đình Vi đã đến nơi , và bác Tuân, bạn của ba Vi đã chờ sẵn ở phi trường để đón về nhà bác ấy tạm trú trong lúc chờ mướn nhà.

Vi có 3 ngày để chưng diện cho chính mình trong ngày đầu tiên nhận việc và mua tạm một chiếc xe để đi làm. Mẹ nàng cũng đã dặn đi dặn lại phải chưng diện một chút cho tươi tắn, “ở đây nắng ấm, không nên lùi xùi như xứ lạnh nha con”.

Vi đến chổ làm trước 15 phút, nàng vào HR để làm các thủ tục cần thiết, và làm thẻ vào cửa, rồi đến thẳng Department of Molecular and Cellular Biology gặp bác sĩ James như HR hướng dẫn, và được bác sĩ James giới thiệu với các đồng nghiệp và chỉ dẫn vắn tắt công việc của nàng, ông cho biết nàng có 4 tuần training, và giới thiệu với nàng Bác sĩ John Martin, người sẽ training và là Lead của nàng.

Đến lúc này Vi cảm thấy nhẹ nhàng thực sự, nàng nghĩ thầm, có tới 4 tuần training thì mình đâu có lo gì làm không xong. Bác sĩ John cho nàng biết về thời gian làm việc, giờ cơm và không ấn định giờ nghĩ giữa buổi, giờ nghĩ này có thể là 10 giờ, 10 giờ 30, tùy theo công việc của mỗi người, và có thể không lấy giờ nghĩ cũng không sao. Nhưng giờ làm việc ấn định là từ 8 giờ , có thể trễ một chút, nhưng phải giữ đúng mỗi ngày là 8 giờ làm việc, riêng thời gian training, bác sĩ John yêu cầu nàng đi theo giờ của ông ta là 8 giờ 30 sáng phải có mặt.

Thế là Vi đi làm đã được 4 ngày, Vi rất mong gặp lại người interview nàng lần cuối cùng, để cám ơn ông ta một tiếng, mà lúc đó nàng mừng rỡ quá đã quên mất, nhưng không gặp được ông ta, nàng cũng không dám hỏi người khác vì sợ người ta hiểu lầm là mình o bế giám đốc! Đã hết giờ, Vi vừa thu dọn hồ sơ vừa suy nghĩ, thật là may mắn, mọi người ở đây rất tử tế và thân thiện, chỉ là mình chưa gặp lại anh ấy mà thôi. Vi bước ra khỏi phòng, đi về hướng parking, mà lòng dâng lên một niềm vui nhè nhẹ… Chợt có tiếng hỏi:

– Cô là người mới tới làm ở đây phải không?

Vi giật mình quay lại,

– Dạ vâng, sao bà biết?

– Nhà tôi có bảo là mới interview một cô người Việt nên tôi đoán thôi. Ở đây không có nhiều người Việt đâu, bà bắt tay Vi và tự giới thiệu, tôi là bác sĩ Michelle, ở khoa ngoại.

– Ồ thì ra người mướn tôi là ông nhà, tôi cũng đang mong gặp ông ấy để cám ơn ông ta đã nhận tôi, mà chưa gặp được, thú thật với bà là lúc đó vui mừng quá nên tôi đã quên mất cám ơn.

– Anh ấy cũng mong gặp cô. Chỉ tiếc là anh ấy phải về trường đại học làm việc đến cuối tuần nên chưa gặp cô đó thôi.

– Thưa bà, ông bà được mấy cháu?

– Cám ơn cô, chúng tôi có 2 cháu gái, 8 tuổi và 5 tuổi. Đừng gọi bằng bà, gọi tôi là chị Loan, hay Michelle, tôi sẽ gọi cô là cô hay em cho thân mật, ở đây chỉ có 4 người Việt, một dược sĩ, một bác sĩ mới vào. Để anh ấy về, tôi mời cô tới chơi cho biết nhà, anh ấy quí người Việt lắm, nhất là những người học giỏi như cô.

– Chị quá khen, anh chị mới giỏi chứ, anh là Scientist, chị là doctor. Chắc anh chị ở gần đây?

– Cách đây chừng 30 phút lái xe.

Hai người còn đang nói chuyện thì tiếng cell phone reo lên,

– Phone của chị đó,

-Vâng, xin lỗi tôi nghe phone một chút: “Alo, Doctor Michelle. . .”

Vi không nghe được gì, nhưng một lúc sau, bác sĩ Michelle tắt phone và nói, tôi phải về phòng mổ, không hiểu có chuyện gì, xin lỗi nhé, thế nào tôi cũng gặp lại em, vừa nói vừa bước lên xe và lái đi.

Vi nhìn chiếc xe chạy ra khỏi parking mà mang cảm giác như mất một vật gì, lòng bổng nghe buồn buồn và miệng lẩm bẩm “anh ấy hạnh phúc quá.”

*

Chiều thứ Sáu, xong công việc với trường đại học, Thuận lái xe về nhà mà trong lòng vẫn băn khoăn nghĩ tới cô nhân viên mới tuyển dụng, không hiểu cô ấy có gặp trở ngại gì không, nhất là khi hay tin BS. James đã bảo nàng theo học với John, một vị bác sĩ giàu kinh nghiệm, và thông minh, nhưng lại quá nghiêm túc nên sợ mấy người trẻ sẽ gặp phản ứng.

Đã nhiều lần chàng tự hỏi mình là tại sao lại bận tâm tới cô ấy như vậy? Tình cảm này vốn vi diệu hơn bất cứ những mối tình bạn bè, hay chồng vợ, ngay cả đối với ba má nuôi chàng. Khi ba má nuôi mất đi, lòng chàng cảm thấy trống rổng và cô đơn vô cùng, nhưng nỗi đau ấy và tình cảm đó hoàn toàn khác biệt với cái nhẹ nhàng nhưng lại quấn quít và ràng buộc như tình cảm mà Thuận cảm nhận khi nghĩ đến cô nhân viên người Việt này. Nó lại càng không phải là mối tình cảm nam nữ háo hức và luyến ái, hoặc chiêm ngưỡng và mong muốn chiếm hữu.

Thật là khó mà phân tích mà không hiểu được tại sao? Chỉ biết một điều là trong những ngày qua, lúc nào Thuận cũng lo sợ cô ấy gặp phản ứng bất lợi từ các vị bác sĩ và chuyên viên kinh nghiệm trong công việc hàng ngày. Thuận đã từng có ý nghĩ cần phải để lộ một vài ưu ái cho mọi người hiểu rằng chàng thực sự cần đến người trẻ này và mọi người cần quan tâm đào tạo cô trở thành một người đảm lược của Department Research. Mà cùng chính vì điều này mà chàng thấy cần phải gặp bác sĩ James và bác sĩ John để hỏi xem khả năng cô ta như thế nào, có mẫn tiệp, và nhạy bén hay năng động với công việc hay không?

Về đến nhà, khi ngồi ăn cơm, vợ Thuận đã kế cho anh nghe cuộc gặp gở giữa nàng và cô nhân viên mới,

– Chỉ tiếc là lúc chúng em đang nói chuyện thì Phòng mổ gọi em về nên chưa hỏi thăm được gì cả, nhận xét của em là cô ấy còn vô tư, nhưng đẹp và dễ thương lắm.

– Em lại có ý kiến gì?

– Anh nên để tâm đến cô ấy một chút, nếu cô ấy gặp trở ngại, còn không thì hãy để bình thường là được rồi. Đồng hương ở đây rất ít, mà cô ta lại mang họ của anh, anh hãy tìm cơ hội gỡ đi cái rắm rối trong lòng, để tìm lấy sự thanh tịnh cho tâm hồn mà làm việc, em nghĩ đó là điều tốt nhất

– Để thứ hai anh sẽ hỏi ý kiến của John và James về khả năng cô ta trước.

– Vậy là tốt nhất.

Sáng thứ 2, sau khi họp đầu tuần với các Manager và Lead xong, Thuận đã gặp riêng bác sĩ John và hỏi về khả năng thích ứng với công việc của Vi, ông ta cho biết cô ấy rất thông minh và thích ứng rất mau chóng. Nghe vậy Thuận như bỏ được nỗi ưu tư trong lòng, và bắt đầu lo công việc hàng ngày của chàng.

Công việc của Biomedical Research thật ra rất phức tạp và bận rộn, nếu thiếu quan tâm một chút là sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng vô cùng. Từ nghiên cứu (basic research), đến ứng dụng (Applied research), hay việc đánh giá phương pháp chữa trị mới (Evaluation new treatment), cả về an toàn lẫn hiệu quả của phương pháp (Clinical trials), điều nào cũng đòi hỏi khả năng và tính nhẫn nại. Đó là chưa nói đến các nghiên cứu về Hóa Sinh, các cell và gene structure, hay là về Dược học (Pharmacology), các phát minh về thuốc và ứng dụng của nó trong các clinics, vân vân và vân vân… Do vậy, dù đã hỏi ý kiến bác sĩ John, Thuận vẫn muốn gặp Thủy Vi vào chiều nay, để lượng định khả năng cô ta và cũng là để thăm dò những điều còn khúc mắc trong lòng Thuận.

Thuận đi ngang qua nơi Vi đang training, anh thấy Vi đang chăm chú vào công việc và có vẻ bận rộn lắm, nên bỏ ý định gặp Vi trong lúc này, hãy để lúc thuận tiện đã, Thuận nghĩ vậy và trở lại văn phòng, vừa lúc vợ gọi điện thoại đến :

– Hello em đây, con gái anh đòi chiều nay đi ăn món ăn Việt Nam có được không?

– Được, nhưng anh về đón cả nhà phải không?

– OK, đúng vậy.

– Được rồi, 5 giờ anh về.

Thuận nhìn đồng hồ, còn 30 phút nữa là 5 giờ, chàng thu dọn giấy tờ trên bàn, soát xét lại công việc, ghi lấy những điều cần làm cho ngày mai và đóng cửa ra về. Đến Parking, anh thấy Vi còn mở máy xe, nhưng xe không nổ,

– Xe cô không nổ máy

– Em không biết nữa, sáng nay đi còn ngon lành.

– Cô mang từ bên đó sang?

– Không, em mua ở đây $4,500.00 đó.

– Để tôi xem thử, Vi bước ra khỏi xe, nhường chỗ cho Thuận, anh mở máy liên tiếp hai lần, không có dấu hiệu nạp điện, biết là bình acquy hết điện,

– Không sao, tại ac quy thôi, cô biết boost không?

– Không đâu.

– Được, hãy làm theo tôi dặn,

Thuận lái xe chàng tới parking lot đối diện, để đầu xe của chàng gần sát đầu xe của Vi rồi lấy cáp nối bình acquy xe chàng và xe Vi,

– Cô vào xe của cô mở máy thử đi.

– Vi làm theo sự chỉ dẫn của Thuận và chiếc xe nổ máy.

– Xe cũ là như vậy, bình cũng cũ luôn, hoặc là thay bình, hoặc là cô mua chiếc mới, cô có thể down payment một vài ngàn rồi trả hàng tháng được mà.

– Vâng để em thử, cám ơn anh nhiều lắm. Trong lúc đó điện thoại của Thuận lai reo…

– Em đây, anh ra cửa chưa,

– Anh ra rồi, nhưng xe cô Vi hết bình, anh vừa boost cho cô ấy,

– Vậy há, dịp may đấy, anh mời cô ta đi ăn theo nhà mình đi, hãy nói là birthday của con gái anh, may ra cô ta mới chịu đi.

– Ok để anh thứ nha.

– Cô Vi ạ, nhà tôi vừa gọi điện thoại tới muốn mời cô đi ăn tối với chúng tôi, chẳng có gì quan trọng đâu, chỉ là Birthday của con gái thôi.

– Ủa Birthday cháu há? Vậy cho em đi theo, nhưng em không chuẩn bị quà gì cho cháu cả, thật ngại lắm.

– Có gì đâu, coi như cô nợ cháu vậy, mai mốt cô đền cho cháu là được rồi.

– Birthday mà cũng có thể nợ quà sao?

– Ở bên này cái gì cũng có thể, huống chi là quà Birthday!

– Được, vậy thì cho em theo anh.

Thuận gọi vợ cho biết là có Vi cùng đi, và hỏi tên nhà hàng và địa chỉ, để anh đưa Vi tới mà không muốn ghé về nhà nữa sợ phiền Vi.

Thuận và Vi tới nơi thì vợ con Thuận đã tới rồi, vợ Thuận giới thiệu các con với Vi và bảo chúng gọi Vi bằng cô, trong lúc chờ chọn thức ăn, Vi gọi về nhà cho ba mẹ biết là nàng sẽ về muộn vì đi ăn Birthday của con gái boss, và dặn ba mẹ ăn cơm trước. Lấy cơ hội ấy, vợ Thuận liền hỏi Vi,

– Gia đình Vi có bao nhiêu người, Vi được mấy anh chị em?

– Em có một ông anh là quân đội, đang đóng ở bên Trung đông, ở đây chỉ còn em với ba mẹ, gia đình em cũng ít người lắm.

– Cô đang ở đâu, gần đây không?

– Em nghĩ là cũng gần, tý nữa em phải nhờ anh chị chỉ đường về mới được, gia đình em đang ở tạm nhà của bạn ba em. Còn anh chị thì sao, ông bà nội ngoại cũng ở đây?

– Ba má tôi đã qua đời, tôi là con một, nhà tôi cũng vậy.

Hai người đàn bà mãi lo nói chuyện, còn Thuận thì vui đùa với hai con, nhưng chàng vẫn để ý theo dõi câu chuyện và biết Vi chỉ có hai anh em và ba má mà thôi, đột nhiên Thuận nghe lòng mình trống rỗng, và tiếng nói của vợ dường như từ xa xôi đồng vọng dội về .

– Xin mời quí khách dùng bữa.

– À quên mất, cô Vi thích món gì? Và uống gì đây, anh gọi thức uống đi.

– Chị uống gì cho em thứ ấy, còn thức ăn thì em đã thấy trên bàn rồi.

– Món gì?

– Cá hấp cuốn bánh tráng.

– Trời ơi, sao ăn giống ông Thuận nhà này vậy.

– Anh Thuận cũng thích cá hấp hả?

– Đúng vây, món ruột của anh ấy đó.

– Hai người ăn đi chứ, nguội hết rồi, cua và tôm nếu để nguội sẽ mất ngon? Thuận nói.

– Em xin lỗi, bất ngờ quá, em không mua quà mừng sinh nhật cho cháu được, thật là ái ngại.

– Vợ chồng Thuận nhìn nhau mỉm cười, rồi quay sang hai cô con gái, vợ thuận hỏi,

– Hôm nay sinh nhật ai vậy? Dionne hay Dianna?

– Đâu có má. Ừm hừm … Ma mi vo gạo, Dionne nói.

– Mami vo gao. À ha . . . Dianna thêm vào!

– Con mới vo gạo, con mà không ăn nhanh thì đúng là vo gạo!

– Vo gạo là sao? Vi nhìn hai đứa nhỏ và hỏi.

Dionne và Dianna nhìn mẹ mĩm cười không nói. Thuận vo đầu Dianna giải thích, khi vo gạo, cô nghe âm thanh phát ra xào xạo, nên hai đứa nhỏ bảo là mẹ nói dối.

– Wow . . . con của anh chị nói tiếng Việt giỏi quá xá, biết cả tiếng lóng.

– Cũng phải cám ơn sư phụ của hai cháu đấy!

– Không có đâu, trong nhà tôi chỉ là sư đệ thôi, Thuận trả lời và tiếp, nhà tôi sợ mời cô, cô không đi nên bảo tôi nói dối là sinh nhật của cháu.

– Ra là thế, thôi hôm nay anh chị đãi em, để mướn nhà xong, em mời anh chị và hai cháu đến ăn tân gia. Nhìn thức ăn ở đây, nhất là rau em thấy ngon quá, mấy tuần nay mẹ em đi chợ toàn mua rau và cá, chả bù cho tiểu bang lạnh.

– Tôi cũng nghe người ta nói thế. À mà bây giờ cô đang ở đâu? Vợ Thuận hỏi..

– Cả nhà đang ở tạm nhà bạn của ba em.

Đột nhiên bé Dionne cắt ngang câu chuyên,

– Mẹ ơi, cô đẹp quá ha mẹ.

– Phải rồi, cô đẹp và dễ thương, lại học giỏi nữa, mai mốt con lớn phải giống cô nha.

– Dạ mẹ, Dionne trả lời.

– Hai cháu mới đẹp chứ, mai mốt nhất định là học giỏi giống ba má rồi.

– Thôi ăn giùm, cô cháu đừng có khen lẫn nhau nữa, người ta nghe thì mắc cở lắm, vã lại hình như trễ rồi, cô phải về kẻo hai bác lo, mà hai con cũng phải về ngủ để mai còn đi học, vợ Thuận nói.

– Cô về khuya có ngại không? Thuận hỏi.

– Em không sao, anh chỉ hộ em đường về là được rồi.

– Cô ở đâu?

– Em ở . . . ngã tư Poway và Bernard Rd.

– Ồ gần thôi, tý nữa cô ra thì quẹo phải, bỏ 2 ngã tư, đèn xanh đèn đỏ, đến ngã thứ 3 quẹo trái là tới rồi.

– Anh rành ở đây quá vậy?

– Nhà tôi là ông Địa ở đây đó cô.

– Em à, chúng ta để cô Vi về kẻo hai bác ở nhà đợi, vã lại hai đứa nhỏ cũng phải về ngủ, trễ rồi.

– Hai con đứng dậy chào cô đi rồi về, và vợ Thuận gọi tiếp viên tính tiền . . .

Về đến nhà, vợ Thuận bảo, thật tiếc là trong gia đình anh không có em gái. Nếu có thì đúng cô ta phải là em gái anh. Cô ta có những nét rất giống anh, như là khi cười, khi nói, mà nhất là khi cô ấy ăn, kể cả cử chỉ đưa tay lên mà nói cũng giống như anh luôn, lại còn sở tích về ăn nữa chứ. Em thật chưa cam!

Sáng hôm sau Thuận đi làm, khi ngang qua nơi Vi làm việc, nhìn sau lưng Vi, anh lại mang cảm giác lạ lùng của ngày đầu mới găp, dường như hình bóng Vi luôn luôn lẩn quất trong đầu anh. Thật là khó mà hiểu, không lý mình yêu thầm cô ta, Thuận chợt nghĩ!

Về phần Vi, cô cũng thầm hỏi, tại sao hai vợ chồng họ lại tốt với mình như vậy, phải chi chỉ có anh ấy cư xử tốt với mình thôi thì thật là dễ hiểu. Tuy nhiên Vi dấu kín tình cảm của mình và không kể cho mẹ nghe giống như những lần trước.

*

Mấy tuần nay, thứ 7 nào Vi cũng đưa ba mẹ đi tìm nhà.

– Con thấy căn nhà này ra sao Vi? Câu hỏi của ba Vi đưa Vi rời cơn mộng,

– Ừ, dạ . . . con thấy cũng tốt lắm.

– Con có sao không Vi? Bệnh há? Mẹ Vi hỏi,

– Không có, tại con đang suy nghĩ thôi. Nhà này được đó ba, 3 phòng ngủ 2 phòng tắm, thêm một Restroom, 2 garages, giá phải chăng, được phải không mẹ?

– Phải có phòng cho anh con khi nó về nữa chứ!

– Ừ thì anh “nối dõi” 1 phòng, con 1 phòng, ba mẹ 1 phòng.

Nghe Vi nhắc đến người anh nối dõi, mẹ Vi lại tưởng nhớ đến người con lớn. Đã mấy mươi năm rồi bà vẫn chưa hết ân hận việc bảo em gái của bà dẫn đứa con đi vượt biển, lúc nào bà cũng mang trong lòng cảm giác đưa con và em đi chết, và những lúc nghĩ tới việc này, bà chỉ khóc thầm rồi đấm ngực ăn năn! Thấy Vi nhìn mình, bà vội đánh trống lảng,

– Nhà này không hiểu có xa chổ con làm không?

– Để con hỏi chủ nhà xem sao?

Vi hỏi lại chủ nhà, được biết nhà này cách chợ Việt Nam 20 phút, chỉ 10 phút đi bộ qua bên kia góc đường là nhà Thờ Sainte Gabrielle, còn nơi cô làm việc . . . chắc 25 đến 30 phút. Tôi biết chắc chắn không xa đâu.

– Tường à, từ nhà này tới ngã tư Albert và Calmet mấy phút lái xe?

– Con lái thì 22 đến 25 phút, con đi hàng ngày mà. Con trai ông chủ trả lời.

Vừa lúc ấy, người bạn già của ba Vi chạy ngang qua bắt gặp, bác Thụ, bác đậu xe lại và hỏi,

– Này gia đình tính mướn nhà này há?

– Vâng, bác cho ý kiến đi.

– Nhà tôi cách đây một ngã tư, bác đi bộ tới tôi khoảng 10 đến 15 phút, mướn đi, để tôi và bác đi bộ cho vui, khu này an toàn lắm, mấy chục năm tôi ở đây thật không có gì cả.

– Vi à, vậy mình mướn nha con? Ba Vi lên tiếng.

Trên đường về, nàng dặn ba mẹ ở nhà cứ gói đồ lại rồi chiều về con chở đi từ từ ngày một ít, hy vọng tuần tới mình sang nhà mới được.

Thứ hai nàng đi làm về thì đồ đạc đã chở hết, chì còn đồ dùng hàng ngày của mỗi người mà thôi. Ba nàng và bác Tuân đang nói chuyện tâm tình, thấy Vi về, bác Tuân bảo Vi, đã đi thì để bác chở cho, lại coi xem giường, nệm, bàn ghế phòng khách, phòng ăn nhà bếp . . . cần thứ gì để bác giúp gọi điện thoại đặt mua, không cần khách sáo, rồi quay nhìn ba Vi ông nói, “Tôi vẫn còn một chút tiền có thể giúp bác được. Bạn già như bác và tôi hay ông Thụ, còn được mấy người, nói là bạn thì như mấy đứa chúng mình mới là bạn, làm bạn cũng phải trải qua thời gian, có quá khứ và kỷ niệm, như ông với tôi, chơi với nhau từ thời tiểu học, lên đệ Tam mới gặp ông Thụ, ba đứa thân nhau từ đó đến giờ, đâu phải là bạn bè khi sang đây mới gặp, thấy nhau ở các hội hè, họp mặt hay shopping, . . . Bắt tay bắt chân, nhưng khi xa nơi đó rồi mỗi người một cõi, không liên lạc, không thăm hỏi, có đâu thâm tình, có đâu tri kỷ”.

Vâng, bác, tôi và ông Thụ quả thật là tri âm mà cũng là tri kỷ, chỉ là khi đi tù cải tạo, tôi không gặp hai bác, có hỏi vài người, nhưng không ai gặp, đâu có ngờ hai bác không được “vi hành xuất tuần” thị sát dân tình Hà Bắc, Thăng long, Thanh hóa để được dàn chào ở ga Hàng Cỏ như tôi !

Cứ mặc hai ông già kể chuyện, Vi nhẫm tính túi tiền, nàng thấy vẫn còn đủ chi dùng, vã lại nàng sẽ có lương trong tuần tới, nên khi nghe bác Tuân nói tới tiền bạc Vi dặn mẹ tìm cách từ chối.

*

Công việc nhà cửa thế là đã ổn, Vi yên tâm đi làm, hàng ngày ở nhà ba mẹ nàng có thể qua nhà bác Thụ, hay đi bộ dạo chơi cho quen khu phố mình ở, không phải co ro như ngày còn ở tiểu bang lạnh.

Hai tuần sau, Vi trang hoàng xong nhà cửa, so với nơi ở cũ quả là khang trang hơn nhiêu, mẹ Vi bảo thế, còn ba thì rất vui thích, ba bắt đầu nghe lại những bản nhạc xưa như ” Chiều mưa biên giới, Tấm ảnh ngày xưa, Hoa soan bên thềm cũ, Sang ngang . . . Ba nghe hoài mỗi ngày làm Vi cũng thuộc luôn.

Vi nói với ba mẹ là nàng muốn mời gia đình ông boss của nàng tới nhà ăn cơm, và ba mẹ cũng nên mời các bác Tuân, bác Thụ và mấy bạn già của ba tới chơi cho phải lễ, khi mình tới đây được họ ân cần đón tiếp.

Dĩ nhiên là ba Vi mong muốn như thế rồi, và Vi muốn là tối thứ 7 tuần tới, để sáng thứ 7 nàng cần mua sắm chút ít đồ trang trí cho ra vẻ thanh tân.

Nhưng một chuyện bất ngờ đã xảy ra, mà sau này Vi cứ gọi đùa ba mẹ là” những vĩ nhân tạo ra kỳ tích”!

Sáng thứ 7 của hôm mời khách, Ba đưa Vi và mẹ tới chợ Vons mua khăn giấy, đĩa, muổng, nĩa, khăn bàn . . . để dùng cho tiện, không mất công rửa. Khi đi ngang qua mấy người bán bông, Vi nói với mẹ nàng muốn mua bông, và xuống xe, còn ba mẹ thì đưa xe vô parking đậu, nhưng có lẽ xe chưa nằm gọn trong lằn ranh, ông de lui de tới, đụng phải chiếc Hummer ở hàng phía sau, ông nghe tiếng đụng rồi tiếng khóc của trẻ con, nên hốt hoảng đậu xe nguyên chổ, bước ra xe cùng với vợ chạy tới xin lỗi chủ xe và coi tình hình đứa nhỏ,

– Không sao, không sao, ba mẹ đây. Người đàn bà dỗ con.

– Xin lỗi, tôi vô ý, hai cháu có sao không? Ba Vi nói.

Người đàn bà ngước nhìn ông có vẻ không hài lòng, còn người đàn ông thì hỏi lại,

– Bác có sao không? Hai cháu không sao đâu, xe đậu mà, chúng chỉ hoảng sợ thôi,

– Anh à, hãy thăm chừng xem các con đã, cẩn thận vẫn hơn.

– Để anh xem, anh trả lời vợ và hỏi các con,

– Dionne con đau chổ nào, ghế có đụng con không?

– Không có, con sợ thôi, ba hỏi em đi.

– Em đâu có sao, I’m sure!

Anh nhìn lại chiếc xe đụng xe mình bổng thấy chiếc xe quen quen, bảng số cũng quen quen hình như thấy chổ nào, nhưng thoạt nhiên anh không nhớ được.

– Anh à, hỏi bảo hiểm của bác ấy đi, xe bác bị hư, đề phòng bất trắc, ý của người đàn bà là sợ ông bà này thưa ngược lai, người đàn ông ngần ngại một lúc, rồi hỏi ,

– Bác có thể cho cháu xem giấy bảo hiểm của bác được không, hay bằng lái xe cũng được?

– Vâng, ông già trả lời và móc ví lấy bằng lái xe đưa cho người đàn ông và nói,

– Giấy bảo hiểm con gái tôi giữ, nó đang mua bông đằng kia, ông quay sang vợ, “Bà gọi con Vi tới đây đi”.

Nghe vậy người đàn ông chưa kịp coi bằng lái xe đã vội hỏi,

– Xe này của cô Vi phải không? Cô Vi làm ở Biomedical Research? Vậy bác là ba cô Vi?

– Vâng, Vi là con tôi.

Hai vợ chồng chủ chiếc Hummer cùng nhìn nhau cười, rồi cùng nhìn bằng lái xe, Thái, Trác-Ngọc, DOB 1947. Bằng lái xe rơi khỏi tay người chồng, rớt xuống đất, khuôn mặt anh nhợt nhạt, bà vợ hiểu tình trạng chồng mình liền ôm anh và bảo, hãy bình tĩnh, anh hãy bình tĩnh … Vừa lúc đó Vi và mẹ chạy tới, thấy vợ chồng Thuận, Vi sửng sốt, vội hỏi?

– Anh có sao không chị?

– Chỉ xúc động thôi, để tôi xoa bóp thái dương cho anh ấy một lúc sẽ không sao.

Nhìn ba mẹ, Vi bảo,

– Đây là bác sĩ Michelle, vợ anh Thuận, anh Thuận là Giám đốc của con.

Lúc ấy Thuận mở mắt và bảo nhỏ vợ, anh hơi mệt, em hỏi thử bác ấy đi,

– Vâng, vợ Thuận trả lời, và hỏi,

– Xin lỗi, tên bác là Thái Ngọc Trác, sinh năm 1947, Thái Ngọc Trác hay Thái Trác Ngọc?

– Thái Ngọc Trác,

– Vậy bác có thể cho nhà cháu biết tên bác gái được không?

Nghe vậy Vi hơi ngạc nhiên, nhưng cũng thay mẹ trả lời, mẹ em là Chung Thị Ngọc Hân.

Thuận lẩm bẩm một mình, Thái Ngọc Trác, Chung Thị Ngoc Hân, Thái Ngọc Trác, Chung thị Ngọc Hân . . . Và vội vàng lấy trong ví ra tấm hình mà 32 năm trước đây mẹ đưa cho anh, rồi hỏi,

– Hai bác có nhận ra tấm hình này không?

Ông già nhìn tấm hình còn phân vân, người vợ vội dành lấy tấm hình xem rồi lật mặt sau ra đọc, Thái Ngọc Trác (1947), Chung Thị Ngọc Hân (1953), Thái Ngoc Thuận (1970), Thái Ngọc Trị (1973) bà vô cùng xúc động vì nhìn ra tấm hình gia đình và nét chữ của mình, bà run run giọng hỏi, “Đây là hình gia đình tôi, tại sao anh có”?

Thuận vươn tới ôm bà cùng với ông già mà nói với giọng đầy cảm xúc, gần như đứt đoạn,

– Ba mẹ ơi, con là thằng Thuận đây, con tìm ba mẹ và em hơn 30 năm rồi, tìm khắp nước Mỹ, Úc, Canada, cả Tân Đảo… Và òa lên khóc như một đứa tre.

– Thuận, con là Thuận đây sao, bà ôm Thuận và khóc trong nỗi vui mừng lẫn xúc động. Vi và Vợ Thuận cũng bước tới ôm lấy mọi người và kêu lên “Ba… mẹ…“

– Ba Vi với tay choàng lấy nàng và nói, đây là em gái con, ba đi tù về mẹ con mới sinh nó.

Vợ Thuận quay lại mở cửa xe bảo hai đứa con ra chào ông bà nội, khi hai đứa nhỏ bước tới, Thuận lấy tay lau nước mắt và nói, “Đây là hai đứa con gái của con, đây là vợ con, tên Loan”.

Vợ Thuận bảo Vi,

– Em xem xe còn lái được không thì đưa về rồi hẳn hay.

– Vâng để em thử.

Cả nhà đưa nhau về căn nhà Vi mới dọn vào, rồi bao nhiêu tâm tình hơn 30 năm Thuận và ba mẹ ngồi kể lại cho nhau, mà lòng không hết bi ai lẫn mừng rỡ.

Chiều nay, gia đình Vi không những mời bạn bè tới dự bữa cơm tân gia, mà còn là bữa ăn chúc mừng sự đoàn tụ sau hơn 30 năm chia lìa và lưu lạc.

 

Chúng ta phẫn nộ để làm gì?

Chúng ta phẫn nộ để làm gì?

Mẹ Nấm (Danlambao)Chúng ta phẫn nộ khi thấy trẻ con bị đánh, người dân bị án oan 10 năm vì bức cung, người lao động nghèo bị bóp cổ, tham nhũng tràn lan trong xã hội… Và chúng ta phẫn nộ trong im lặng bởi nó chưa đụng chạm đến cuộc sống của chúng ta bằng mắt thường. Và mọi thứ cứ lặng lẽ trôi qua như một ấm nước sôi sùng sục rồi trở nguội, không có gì thay đổi. Vậy thì chúng ta phẫn nộ để làm gì?…

Khắp các mặt báo tràn ngập thông tin về việc hai cô bảo mẫu ở Thủ Đức (Sài Gòn) bạo hành trẻ mầm non.

Các phóng viên báo Tuổi Trẻ đã kiên trì theo dõi khá lâu để có một đoạn phóng sự khiến dư luận phẫn nộ.

Trên mạng xã hội hàng loạt status và comment đòi phải trừng trị hai bảo mẫu kia thật nghiêm minh.

Phản ứng thường thấy của những người lớn khi trẻ con bị bạo hành đó là đòi đánh đập, xé xác, bắt những con người dã man kia phải hứng chịu những hình phạt như họ đã làm với con trẻ.

Phản ứng khác hơn một chút có người đưa ra giải pháp khác là nên đưa con đến các nhà trẻ tốt hơn, tin tưởng hơn với giá cao hơn.

Vấn đề chúng ta cần bình tĩnh xem xét nghiêm túc rằng đây không phải là lần đầu tiên vấn nạn trẻ mầm non bị bạo hành nhức nhối trên mặt báo.

Đã có bao nhiêu lần bạo hành xảy ra, đã bao nhiêu lần trẻ con bị ngược đãi?

Hành vi sử dụng bạo lực để nuôi dạy trẻ của mẹ con bà Quản Thị Kim Hoa đã bị phóng viên Đài Phát thanh – Truyền hình Đồng Nai ghi hình và phát sóng vào ngày 15/1/2008, gây bức xúc dư luận cả nước. Kết quả mức án 18 tháng tù giam có làm giảm đi nạn bạo hành trẻ mầm non không?

Xin thưa là không.

Mới nhất là ngày 16/11/2013, cháu bé 18 tháng tuổi Đỗ Ngọc Long đã bị bảo mẫu Hồ Ngọc Nhờ xách ngược lên doạ khi cháu không chịu ăn và làm té xuống sàn, sau đó lại bị đạp liên tiếp vào bụng dẫn đến tử vong.

Chúng ta phẫn nộ, chúng ta sục sôi khi đọc tin nhưng chúng ta ngồi im để sự phẫn nộ ấy trôi qua như một tiếng chặc lưỡi.

Chưa bao giờ chúng ta – những người lớn, những người đã, đang và sẽ làm cha làm mẹ nghĩ đến việc lên tiếng để yêu cầu phải có thay đổi từ hệ thống giáo dục – nguồn gốc chính dẫn đến tình trạng rối ren và ảnh hưởng đến tương lai của con cái chúng ta.

Xem xét kỹ lại các tình huống đã xảy ra những vụ bạo hành thương tâm, đa phần là ở các nhà trẻ tư, nơi có nhiều công nhân nghèo xa quê sinh sống.

Chúng ta – những người lớn, chưa một lần nghiêm túc nghĩ đến việc lên tiếng để bảo vệ quyền lợi của thế hệ tương lai.

Năm 2008, báo Sài Gòn Tiếp Thị có đăng bài “Khi sữa mẹ còn chảy ròng ròng trên ngực áo” (1) của nhà báo Trung Hồ. Và đến nay lời đề nghị “Thưa ông bộ trưởng bộ Giáo dục và Đào tạo, xin hãy ra ngay một lệnh buộc các trường mầm non nhận ngay các cháu kể từ bốn tháng tuổi, khó khăn nếu có sẽ cùng tìm ra cách giải quyết” của nhà báo này đã rơi vào quên lãng.

Đã có lúc nào chúng ta, những người lớn nghĩ rằng mình sẽ phải lên tiếng để yêu cầu các cơ quan chức năng phải nghiêm túc giải quyết vấn đề nhận giữ trẻ ngay khi các bà mẹ kết thúc giai đoạn nghỉ thai sản quay lại làm việc chưa?

Chúng ta phẫn nộ vì sự tàn ác của các bảo mẫu nhưng có lúc nào chúng ta thật sự quan tâm đến việc các khu công nghiệp có công nhân nghèo xa quê phải có các nhà trẻ được đăng ký và giám sát chặt chẽ bởi hệ thống công quyền chưa?

Có nhiều cha mẹ quan tâm đến chất lượng và sự quản lý đào tạo ở các nhà trẻ của các cơ sở tôn giáo nhưng ít biết rằng các cơ sở này rất khó khăn khi muốn cấp phép hoạt động bình thường như bao cơ sở khác. Và chúng ta sẽ phải làm gì nếu muốn lựa chọn những trường học như thế này cho con cái chúng ta?

Chúng ta phẫn nộ để làm gì? Cần bao nhiêu lần chúng ta phẫn nộ nữa để chấm dứt tình trạng bạo hành trẻ mầm non?

Chính chúng ta – những người lớn cũng có lỗi vì không bảo vệ được trẻ em khỏi sự bạo hành này.

Chúng ta phẫn nộ mỗi ngày khi có sự việc xảy ra, nhưng lại chấp nhận sống chung với nguyên nhân gây ra sự phẫn nộ ấy chỉ vì nó chưa đụng chạm đến con em mình. Đó là một hình thức dạy dỗ con em chúng ta trở nên ích kỷ với cuộc sống xung quanh.

Chúng ta phẫn nộ khi thấy trẻ con bị đánh, người dân bị án oan 10 năm vì bức cung, người lao động nghèo bị bóp cổ, tham nhũng tràn lan trong xã hội… Và chúng ta phẫn nộ trong im lặng bởi nó chưa đụng chạm đến cuộc sống của chúng ta bằng mắt thường.

Và mọi thứ cứ lặng lẽ trôi qua như một ấm nước sôi sùng sục rồi trở nguội, không có gì thay đổi. Vậy thì chúng ta phẫn nộ để làm gì?

Đã đến lúc đừng để sự phẫn nộ của chúng ta dần trở nên một phản ứng bình thường và vô cảm nếu chúng ta muốn mọi thứ thay đổi thật sự.

Mẹ Nấm

danlambaovn.blogspot.com

Nỗi đau cuối đời của ông Lê Hiếu Đằng

Nỗi đau cuối đời của ông Lê Hiếu Đằng

Phạm Nhật Bình

Gửi cho Diễn đàn BBC từ Hoa Kỳ

Thứ ba, 17 tháng 12, 2013

Ông Lê Hiếu Đằng đã lên tiếng tuyên bố rời bỏ hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt Nam

Tin ông Lê Hiếu Đằng đang trải qua những giờ phút lâm chung đang làm cho nhiều người rất buồn.

Có nhiều lý do để buồn, nhưng có lẽ nỗi buồn lớn nhất là vì cảm được những điều đau lòng nơi một người nhiều tâm huyết như ông Đằng trong những năm tháng cuối đời.

Không đau lòng sao được khi vào những năm tháng cuối đời lại phải thừa nhận một sự thật phũ phàng.

Đó là biết bao hy sinh đóng góp của mình và rất nhiều đồng đội lại chỉ góp phần tạo ra một tầng lớp thống trị mới, còn khắt khe và tàn bạo hơn cả thời kỳ thực dân Pháp đô hộ.

Thêm vào đó, cái gọi là “chế độ ngụy quyền” mà ông và nhiều đồng đội đã từng cố gắng lật xuống cho bằng được để xây dựng chủ nghĩa xã hội, lại là chế độ nhiều nhân bản, yêu nước, và có khả năng xây dựng mọi mặt xã hội hơn thể chế cộng sản chuyên chính hiện nay rất nhiều.

Trong suốt gần 40 năm qua, nhân dân tiếp tục sống trong đói nghèo suốt từ thời toàn trị sang đến thời mở cửa; và sống với các giá trị con người mà nhân loại đã xác định từ lâu.

Chỉ có giai cấp cai trị là thay đổi từ sướng ít trong thời toàn trị lên sướng nhiều và cực giàu trong thời mở cửa.

Không đau lòng sao được khi sau bao công sức đóng góp, đến cuối đời ông chỉ thấy đất nước càng ngày càng bế tắc và thụt lùi.

Thụt lùi so với cả nước Miến Điện nghèo nàn, lạc hậu.

Sau 40 năm bóp chết sức sống của đất nước và vì thế không còn sức chống trả hiểm họa mất chủ quyền vào tay Bắc Kinh, giới độc tài quân phiệt Miến, chưa hề vỗ ngực là “đỉnh cao trí tuệ loài người”, cũng còn biết đặt vận mạng đất nước họ lên trên hết. Họ gấp rút chọn con đường dân chủ để đưa đất nước thoát hiểm.

Đến cả nước Campuchia, một nước từng bị kéo về tận thời cộng sản nguyên thủy dưới tay Pol Pot và thường bị Hà Nội coi như chư hầu, cũng đã qua mặt Việt Nam trên con đường dân chủ hóa.

Miến Điện được chào đón trên trường quốc tế sau thay đổi dân chủ

Nỗi đau của ông Lê Hiếu Đằng cùng những đảng viên còn tâm huyết và tự trọng càng lớn khi họ tự nhận ra chính mình cũng phải lãnh một phần trách nhiệm trước tình trạng từng mảng chủ quyền đất nước đang biến mất dần.

Từ những cánh rừng đầu nguồn ở biên giới phía Bắc đến vùng Tây Nguyên mang tính chiến lược quân sự đến các vùng biển đảo nhiều tài nguyên đều đã bị giới lãnh đạo của ông Đằng xem là những vùng “đã mất rồi” và nay chỉ phản đối lấy lệ trước mắt dân chúng mà thôi.

Đó là chưa kể hàng trăm những khu hoàn toàn biệt lập của “công nhân” Trung Quốc trên khắp nước Việt, đặc biệt tại những vùng hệ trọng chiến lược, cứ tiếp tục mọc lên trước sự làm ngơ hoặc tiếp tay của giới cầm quyền.

Những ước hẹn với Bắc Kinh trong Hội nghị Thành Đô năm 1990 sẽ giao chủ quyền Việt Nam từng bước và hoàn tất vào năm 2020 (đúng thời hạn 30 năm) không chỉ còn là cơn ác mộng nữa nhưng đã trở thành một phần hiện thực rất lớn rồi.

‘Muốn lo cho nước’

Nhưng khó ai hiểu hay tin được những nỗi dằn vặt trên nếu không có những bước chân xuống đường biểu tình chống Trung Quốc của ông Lê Hiếu Đằng năm 2011 và các phát biểu của ông từ đó, đặc biệt là bức thư tính sổ đời mình trên giường bệnh vài tháng trước đây.

Từ sự cảm thông với tấm lòng chân thành của ông, người ta bắt đầu thấy đây là một tấm gương can đảm đáng quí phục.

Và càng đáng quí phục hơn nữa khi có những đảng viên cao cấp hơn ông nhiều, biết rõ hơn ông nhiều về các nguy cơ cho đất nước và vai trò tác hại của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng vẫn không dám lên tiếng hay có một hành động nào xứng đáng, chỉ vì bổng lộc cá nhân và quyền lợi chế độ ban phát cho con cháu họ.

Biết thời giờ của mình không còn nhiều, ông Lê Hiếu Đằng đã nhắn gởi các đảng viên cộng sản Việt Nam khác:

“Lẽ ra bây giờ phải đoàn kết nhau lại để đấu tranh, phải có dũng khí, nếu ai cũng sợ cho bản thân mình, sợ cho bản thân gia đình mình thì đất nước sẽ ra thế nào, đất nước này ai lo?”.

“Nếu ai cũng sợ cho bản thân mình, sợ cho bản thân gia đình mình thì đất nước sẽ ra thế nào?”

Ông Lê Hiếu Đằng

Ông cũng bộc bạch với bạn hữu trong giới trí thức:

“Bao giờ cũng vậy, xã hội nào cũng vậy, thời kỳ nào cũng vậy, nhân sỹ trí thức phải đi đầu, phải giương cao ngọn cờ đấu tranh, phải dũng cảm, đừng có sợ.”

Nhưng liệu những lời kêu gọi tha thiết của ông Lê Hiếu Đằng có rơi vào khoảng không im lặng đáng sợ không? Đặc biệt, thế hệ đảng viên cùng thời với ông Đằng có còn ai chia sẻ những dằn vặt lương tâm này không?

Ngày nay, tại các nước cộng sản Đông Âu và Liên Xô cũ, nhiều đảng viên cộng sản thời đó đang bị chính thế hệ con cháu họ nhìn với ánh mắt khinh bỉ.

Những đảng viên ấy từng bảo vệ và bám lấy các chế độ cộng sản để hưởng lợi lộc cho đến những ngày tháng chót, bất kể sự tàn phá của các chế độ này đối với đất nước và dân tộc họ.

Ngay cả những lời của các cựu đảng viên này ngày nay chỉ trích các chế độ độc tài cũ cũng chẳng ai muốn nghe vì đã quá trễ và vì thế càng trở nên nham nhở.

Liệu cảnh ấy có lại xảy ra tại Việt Nam trong tương lai không?

Nhìn vào xu thế của nhân loại và ngay tại vùng Đông Nam Á, rõ ràng thời giờ không còn nhiều.

Và có lẽ nay là thời điểm thích hợp nhất để những đảng viên cộng sản Việt Nam – những người còn muốn giữ lại thanh danh và liêm sỉ đối với bản thân, đối với thế hệ con cháu, và đối với dân tộc – chọn con đường công khai rời bỏ đảng vì vừa chính mình vừa vì đất nước.

Đừng để đến khi quá muộn.

Những con người đáng kính trọng như Dương Quỳnh Hoa, Nguyễn Hộ, Trần Độ, Trần Xuân Bách…những Huỳnh Nhật Tấn, Huỳnh Nhật Hải, Phạm Quế Dương, Vi Đức Hồi, Phạm Đình Trọng, Nguyễn Chí Đức, Nguyễn Ngọc Diễm Phượng, … và nay Lê Hiếu Đằng, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Đắc Diên đã chọn con đường danh dự đó.

Tuổi hưu và phúc lợi ở Mỹ

Tuổi hưu và phúc lợi ở Mỹ

Bùi Văn Phú

17.12.2013

Sau hơn ba thập niên sinh sống và làm việc ở Mỹ, thỉnh thoảng anh em, bạn bè gặp nhau chúng tôi cũng bàn đến chuyện tương lai về hưu sẽ sống ra sao hay sống ở đâu.

Như ở mọi nơi trên thế giới, sau thời gian làm việc đóng góp cho xã hội, người dân Mỹ đến tuổi già cũng phải nghỉ hưu. Nhìn lại quá khứ rồi hướng về tương lai thì thấy nếu một người ra đời làm việc năm 25 tuổi, là khi mới tốt nghiệp đại học, đến 65 tuổi thì đã có 40 năm làm việc, khi đó là tuổi được hưởng trọn số lương hưu là tiền của chính mình và chủ đã đóng vào quỹ an sinh xã hội trong thời gian lao động.

Thực ra một người lao động Mỹ khi vừa bước vào tuổi 50 đã nhận được thư mời tham gia hội AARP (American Association of Retired Persons) – Hiệp hội người Mỹ Hưu trí – dù thời gian phải tiếp tục làm việc vẫn còn ít nhất 15 năm trước khi chính thức nghỉ hưu.

Thành lập từ năm 1958, AARP hiện có gần 40 triệu hội viên trên toàn quốc. Hội viên đóng lệ phí 16 đô là một năm và sẽ thường xuyên nhận được tạp chí với nhiều thông tin liên quan đến chính sách và sức khoẻ của lớp người ở tuổi 50 hay cao hơn. Hội cũng vận động hành lang cho quyền lợi của người đã nghỉ hưu hay sắp sửa. Là hội viên, khi thuê xe, đặt phòng khách sạn, mua các loại bảo hiểm còn được giảm giá ít nhiều.

Rất ít người Mỹ về hưu ở tuổi 50 và ngay cả tuổi 55 hay 60 cũng còn ít. Trừ người thật giầu hay những ai là công chức thành phố, tiểu bang, liên bang, là thành phần cảnh sát, cứu hỏa hay giáo chức với quỹ hưu bổng riêng và có thể nghỉ hưu sau 25, 30 năm trong những nghề đó.

Theo Sở Thống kê Dân số, tuổi hưu trung bình của người Mỹ là 62 và thời gian sống hưu là 18 năm.

Về tiền hưu trí, quỹ an sinh xã hội chỉ cho lãnh sớm nhất khi 62 tuổi. Một người về hưu ở tuổi đó thì còn phải tự lo bảo hiểm y tế trong ba năm nữa cho đến 65 tuổi là lúc được đăng ký vào chương trình bảo hiểm y tế của chính phủ dành cho người cao tuổi, tức Medicare. Vì vậy, dù 62 tuổi nhưng nhiều người vẫn còn đi làm để có bảo hiểm sức khoẻ từ nơi làm việc, nếu không phải tự bỏ tiền ra mua thì một tháng có thể phải chi cả nghìn đô cho một người, mà nếu chỉ có lương hưu duy nhất là tiền an sinh xã hội thì sẽ không đủ chi tiêu.

Ngân sách quỹ an sinh xã hội và y tế của liên bang là do chính tiền của người lao động đóng vào và do chính phủ quản lí. Hiện nay thuế Medicare ở mức 2.9% số lương, cá nhân đóng một nửa, chủ đóng một nửa. Cũng như thuế cho quỹ an sinh xã hội là 12.4% và người đi làm đóng một nửa, tức 6.2%, chủ chịu một nửa.

Thuế an sinh xã hội có giới hạn, chỉ đóng đến mức lương 113,700 đô cho năm 2013, tăng lên mức 117 nghìn cho năm 2014 và tiếp tục tăng đến 165,600 vào năm 2022. Số lương cao hơn những mức nêu trên không phải chịu thuế này. Còn thuế y tế Medicare không có giới hạn mức lương.

Như thế chính phủ lúc nào cũng thu hai khoản tiền thuế, tổng cộng là 7.65% từ lương công nhân. Những ai làm chủ cơ sở thương mại hay làm việc riêng cho chính mình thì phải đóng gấp đôi, vừa là thợ vừa là chủ, tức 15.3% tổng số thu nhập. Không thể trốn vào đâu được. Các chủ nhân không làm kế toán rõ ràng cho các khoản thuế này sẽ bị phạt nặng.

Dưới thời Tổng thống Bill Clinton, ông bổ nhiệm một phụ nữ vào nội các, trước khi được Thượng viện phê chuẩn thì báo chí phanh phui sự việc bà này đã có mướn người giúp việc trong nhà nhưng không khai và không đóng thuế an sinh xã hội cho người làm, như thế là phạm luật khiến bà phải rút lui khỏi chức vụ được đề cử.

Ngân sách hiện tại của quỹ an sinh xã hội đang cạn dần vì thành phần trẻ vào đời làm việc ít đi, trong khi đó số người già càng nhiều và càng sống lâu, trung bình đến 81 tuổi cho phụ nữ và 76 cho nam giới. Trước đây cứ 4 người đi làm đóng thuế để trả cho một người nghỉ hưu, nay con số này xuống còn 2.5 và theo một ước tính của cơ quan nghiên cứu Quốc hội, đến năm 2033 quỹ chỉ còn đủ để trả 77% tiền hưu của người được hưởng.

Số tuổi để hưởng trọn vẹn phúc lợi tài chánh khi về hưu ngày càng tăng lên. Trước đây là 65 tuổi cho những ai sinh năm 1938 trở về trước. Luật mới qui định người sinh từ năm 1943 đến 1954 thì tuổi hưu là 66, từ 1955 đến 1959 mỗi năm tăng lên hai tháng tuổi hưu. Sinh sau năm 1960 thì đến 67 tuổi mới được hưởng lương hưu trọn vẹn. Nếu nghỉ hưu non vào năm 62 tuổi, tiền an sinh xã hội chỉ được khoảng 70% so với lương về hưu đúng tuổi. Cùng với việc tăng tuổi hưu, thuế an sinh xã hội và thuế y tế Medicare cũng tăng lên.

Theo Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD), số người Mỹ ở tuổi từ 65 đến 69 vẫn còn làm việc là 20%, so với Anh 10%, Đan Mạch 9%, Na Uy và Thụy Sĩ 7% trong khi Đức, Hà Lan 3% còn Pháp, Ý chỉ có 1%.

Hiện nay phúc lợi an sinh xã hội trung bình cho một người Mỹ nghỉ hưu là 1230 đô la một tháng. Dù không còn nợ nhà, nhưng số tiền này cũng khó đủ cho một người sống riêng biệt vì các khoản chi tiêu bao gồm thực phẩm, điện nước, xăng dầu, bảo trì xe, thuế nhà đất. Vì thế chính phủ còn có phụ cấp SSI – Supplemental Security Income, người Việt thường gọi là tiền già hay tiền bệnh – phụ cấp tiền thuê nhà, giảm giá điện ga cho người nghèo.

Trong thực tế ngày nay, với tiền an sinh xã hội không thôi, nhiều người cao niên chỉ đủ sống. Vì thế trong lúc còn làm việc chính phủ khuyến khích tiết kiệm thêm bằng cách bỏ tiền vào các quỹ 401(k) hay IRA. Với quỹ 401(k) có khi chủ nhân cũng đóng góp thêm vào cho công nhân và có giới hạn vài trăm đô một tháng. Số tiền tiết kiệm sinh lời và sẽ không bị đánh thuế, nhưng không được rút ra cho đến năm 60 tuổi hay cao hơn để chi tiêu lúc về hưu.

Hiện nay, một cặp vợ chồng bắt đầu về hưu năm 2013 vào tuổi 65 hay cao hơn thì mỗi tháng một người lãnh khoảng 2500 đô tiền an sinh xã hội. Nếu nợ nhà đã trả hết, với 5 nghìn đô là dư tiêu trong một tháng cho hai người. Ốm đau, thuốc men có chính phủ lo.

Với số tiền đó thì có thể bàn đến việc nghỉ hưu ở một nước ngoài. Nhưng trở ngại duy nhất là Medicare vì dịch vụ y tế này chỉ cung cấp cho cư dân sống tại Mỹ. Sống ở nước khác, phải tự mua bảo hiểm y tế riêng ở nơi đó. Vì thế nhiều người Mỹ nếu quyết định nghỉ hưu ở nước ngoài họ thường chọn nơi có mức sống rẻ, hệ thống y tế tốt hay những nơi gần Hoa Kỳ, như nam Mỹ và các đảo quốc trong vùng biển Caribbean, phòng có gì khẩn cấp cũng chỉ vài giờ bay là đã về lại Mỹ để được chăm sóc y tế.

Một khảo sát mới đây của InternationalLiving.com xếp hạng mười nơi tốt cho người Mỹ và Canada nghỉ hưu là Ecuador, Panama, Malaysia, Mexico, Costa Rica, Uruguay, Colombia, Spain, Thailand và Malta.

Nhiều người Mỹ gốc Việt làm việc đã gần 40 năm, nay nghỉ hưu cũng có khả năng tài chính để ra nước ngoài sống, nhưng về Việt Nam có thể khó vì xa xôi và nhất là điều kiện y tế chưa tốt cho tuổi già.

Với một số người Việt cao tuổi ở Mỹ chuyện về Việt Nam sống còn là điều không thể vì đang nhận phúc lợi xã hội và y tế qua chương trình phụ cấp của chính phủ dành cho người già. Khi nhận phụ cấp thì chỉ có thể ra nước ngoài chơi ít tuần, còn nếu ở lâu các khoản trợ cấp sẽ bị cắt.

Bạn bè chúng tôi trong lứa tuổi sấp xỉ 60 cũng đã bắt đầu nghĩ đến chuyện hưu và cũng có đề nghị nếu vào nhà tập thể cho người cao tuổi thì cũng tìm nơi sống chung để chiều chiều lai rai nhậu, đàn hát bên nhau cho vui những lúc cuối đời.

Hàng may mặc trẻ em của Trung Quốc chứa chất độc

Hàng may mặc trẻ em của Trung Quốc chứa chất độc

18.12.2013

Một báo cáo của tổ chức Hòa bình xanh Đông Á công bố ngày 18/12 cho biết hàng may mặc trẻ em sản xuất tại hai thành phố ở Trung Quốc có chứa chất gây rối loạn hormone và hóa chất độc hại đối với hệ sinh sản.

Từ tháng 6 đến tháng 10 năm nay, tổ chức Hòa bình xanh đã mua 85 mặt hàng may mặc trẻ em tại hai thành phố sản xuất nhiều nhất Trung Quốc là Trị Lý ở tỉnh Chiết Giang và thành phố Thạch Sư ở tỉnh Phúc Kiến.

Các cuộc kiểm nghiệm được phòng thí nghiệm của bên thứ ba thực hiện độc lập phát hiện thấy chất NPE, một chất gây rối loạn hormone, trong hơn phân nửa số mẫu trong khi chín trên 10 mặt hàng làm bằng polyester dương tính với chất antimon độc hại. Chất phthalate, được biết có độc tính đối với hệ sinh sản, cũng được phát hiện ở nồng độ cao ở hai mẫu.

Lee Chih An, một giới chức của Hòa bình xanh Ðông Á, cho biết quần áo trẻ em mà tổ chức này điều tra được bán cho 98 phần trăm thành phố ở Trung Quốc và nhiều nước khác khắp thế giới bằng hình thức truyền thống và thương mại điện tử vốn đang ngày càng phổ biến.

 

Giới chức này nói cuộc điều tra gửi một tín hiệu nghiêm trọng cảnh báo phụ huynh của hơn hai trăm triệu trẻ em Trung Quốc và các đối tác nước ngoài của họ.

Ngành công nghiệp sản xuất quần áo trẻ em ở Trung Quốc trị giá khoảng 165 tỉ đô la với mức tăng trưởng hàng năm dự kiến là 30 phần trăm, là một trong những ngành kinh tế phát triển nhanh nhất ở Trung Quốc.

​Tuy nhiên, ông Lee nói không có sự quản lý chặt chẽ những hóa chất được sử dụng trong hàng may mặc cho trẻ em. “Một tiêu chuẩn an toàn quốc gia đối với những hóa chất độc hại sử dụng trên hàng may mặc trẻ em nằm trong ngăn kéo của những người làm chính sách đã sáu năm nay, và chúng tôi không biết khi nào thì nó mới được ban hành,” ông Lee nói tiếp.

Ngay cả cơ quan quản lý chất lượng của Trung Quốc cũng đồng tình rằng quần áo trẻ em có thể gây nguy hại. Tháng 5 năm nay, Tổng cục Giám sát Chất lượng của Trung Quốc phát hành cẩm nang tiêu dùng khuyến cáo chọn mua quần áo trẻ em nhạt màu, không có chất làm sáng dạ quang hay có in sắc tố.

Một cuộc khảo sát của Hiệp hội Người tiêu dùng Bắc Kinh hồi tháng 6 cho thấy 38 phần trăm quần áo trẻ em không đạt tiêu chuẩn chất lượng.

Hòa bình xanh nói Trung Quốc không nên tiếp tục liều lĩnh với sức khỏe của trẻ em ra và hối thúc nước này thiết lập một chính sách quản lý hóa chất mang tính toàn diện và nghiêm ngặt.

Nguồn: Greenpeace, USA Today

Mỹ cảnh cáo ý đồ Trung Quốc lập vùng phòng không ở Biển Đông

Mỹ cảnh cáo ý đồ Trung Quốc lập vùng phòng không ở Biển Đông

Tổng thống Philippines Benigno Aquino (P) tiếp Ngoại trưởng Mỹ John Kerry tại Phủ Tổng thống Malacanang, Manila, 17/12/2013

Tổng thống Philippines Benigno Aquino (P) tiếp Ngoại trưởng Mỹ John Kerry tại Phủ Tổng thống Malacanang, Manila, 17/12/2013

REUTERS/Brian Snyder

Tú Anh

RFI

Sau ba ngày thămViệt Nam, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã đến Philippines vào hôm nay 17/12/2013. Trong bối cảnh tham vọng của Trung Quốc lấn chiếm biển đảo, Ngoại trưởng Mỹ ủng hộ Manila cảnh cáo Bắc Kinh về ý đồ lập vùng phòng không tại biển Đông Nam Á mà Bắc Kinh gọi là Hoa Nam.

Trung Quốc không được đơn phương thành lập một vùng (phòng không) tại biển Đông như đã làm tại một nơi khác trong khu vực. Trên đây là lời cảnh cáo của Ngoại trưởng Mỹ John Kerry trong cuộc họp báo vào hôm nay tại Manila.

Trong chuyến công du đầu tiên tại Philippines kể từ khi nhậm chức, Ngoại trưởng John Kerry đã công khai ủng hộ quốc đảo Đông Nam Á này, được xem là « đồng minh then chốt » đối đầu với tham vọng bành trướng của Bắc Kinh.

Trong chương trình thăm viếng hai ngày, ông John Kerry sẽ đi thăm nạn nhân cơn bão Haiyan mà Hoa Kỳ đã hỗ trợ hơn 20 triệu đôla cùng một đội hùng hậu có cả hàng không mẫu hạm, tuần dương hạm và một lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến.

Ngược lại, Trung Quốc lúc đầu chỉ thông báo viện trợ cho nạn nhân Philippines 100.000 đôla và chỉ miễn cưỡng tăng lên 2 triệu, sau khi Bắc Kinh bị công luận trong và ngoài nước chế nhạo.

Theo giới phân tích, thái độ khiêu khích của Trung Quốc với vùng phòng không tại Hoa Đông và mưu toan tương tự ở biển Đông Nam Á làm cho Manila vừa bất bình vừa lo ngại. Người ta chờ đợi Mỹ và Philippines nhanh chóng đạt thỏa thuận mới về hợp tác quân sự ,cho phép quân đội Mỹ đồn trú đông đảo hơn và thường xuyên hơn tại Philippines. Một hình thức để Washington trấn an các nước khu vực là lúc nào cũng có Hoa Kỳ bên cạnh.

Bản đồ 9 đoạn của Trung Quốc mà Việt Nam gọi là « lưỡi bò » lấn chiếm hơn 80% diện tích Biển Đông, gần như là tất cả biển và đảo của Philippines và Việt Nam.