Sản phụ tử vong, nhiều bà bầu vội vàng chuyển viện

Sản phụ tử vong, nhiều bà bầu vội vàng chuyển viện

– Một sản phụ đã tử vong sau sinh vào ngày 19/8 tại Bệnh viện (BV) Đa khoa Hiệp Hòa (Bắc Giang) khiến nhiều bà bầu khác hốt hoảng… chuyển viện vì lo lắng.

Vụ việc xảy ra vào ngày 19/8, người tử vong là sản phụ N.T.T. (31 tuổi, trú tại xã Đại Thành, huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang). Chị T. nhập viện để sinh cháu thứ tư.

Trước đó, vợ chồng chị đã có ba mặt con, nhưng là con gái. Chồng chị, anh H. làm nghề thợ xây, mong muốn có đứa con trai nối dõi nên hai vợ chồng đã quyết tâm “vượt kế hoạch”.

sản phụ, tử vong, chuyển viện, BV đa khoa Hiệp Hòa, Bắc Giang

BV đa khoa Cần Thơ, nơi vừa xảy ra vụ việc 2 mẹ con sản phụ tử vong. (Ảnh: VietNamNet)

Tại Khoa sản của BV Đa khoa Hiệp Hòa, các bác sỹ tiến hành mổ đẻ cho sản phụ. Tuy nhiên, ngay sau khi sinh, sản phụ đã tử vong vì mất máu.

Sáng 20/8, rất đông người nhà nạn nhân đã tập trung tại Khoa sản của bệnh viện yêu cầu đối chất với các bác sỹ tiến hành mổ đẻ cho chị T. Theo những người nhà của nạn nhân, sản phụ tử vong do bị nhau tiền đạo nhưng không được các bác sỹ cho chuyển lên tuyến trên để cấp cứu.

Anh Nguyễn Văn Nam, người đưa vợ đi đẻ tại khoa sản, chứng kiến sự việc cho biết, người nhà nạn nhân đã rất bức xúc, yêu cầu đối chất với nhóm bác sỹ sản trực tiếp mổ đẻ cho chị T.

Họ còn nói, chị T. bị mất nhiều máu, khoa sản không cho chuyển viện lên tuyến trên mà cố giữ lại, đồng thời yêu cầu gia đình nạn nhân nộp 6 triệu để truyền 2 đơn vị máu.

Trưa 20/8, thi thể của sản phụ đã được bệnh viện bàn giao cho người nhà nạn nhân đưa về quê mai táng. Cháu bé (con của sản phụ) được đưa đi cấp cứu tại BV Đa khoa tỉnh Bắc Giang. Được biết, sau sinh, cháu bị gãy tay.

Nhiều người có mặt tại Khoa sản (BV Hiệp Hòa) rất xót xa về sự việc trên.

Trao đổi với VietNamNet, ông Trương Quang Vinh, PGĐ Sở Y tế Bắc Giang thông tin: Sở Y tế Bắc Giang đang chỉ đạo BV Đa khoa Hiệp Hòa làm rõ nguyên nhân dẫn đến tử vong của sản phụ.

Khi vụ việc xảy ra, người nhà nạn nhân đã kéo đến Khoa sản của BV Hiệp Hòa vì quá bức xúc. Tuy nhiên, chưa có hành động nào quá khích xảy ra.

“Chúng tôi không thấy các bác sỹ sản khoa xuất hiện. Nhiều gia đình có người nhà nằm chờ sinh đã tìm cách chuyển viện vào sáng ngày 20/8 vì quá lo lắng. Công an huyện Hiệp Hòa cũng đã có mặt tại bệnh viện” – anh Nam nói.

Vụ việc đang được các cơ quan chức năng Bắc Giang vào cuộc làm rõ.

Thái Bình

Mẹ không phá thai, hai con song sinh làm linh mục

Mẹ không phá thai, hai con song sinh làm linh mục

Nguyễn Long Thao

8/20/2013

Hai linh mục người Chile là anh em song sinh cho hãng tin Công Giáo Hoa Kỳ CNA biết, nhờ thân mẫu kiên quyết không chịu phá thai mà hai anh em đã được sinh ra và nay trở thành linh mục.

Hai linh mục đó là cha Paulo Lizama và cha Felipe Lizama sinh ngày 10 tháng 9 năm 1984 tại thành phố Lagunillas de Casablanca. Cha Felipe sinh trước, cha Paulo sinh sau 17 phút

Cha Felipe kể rằng mẹ ngài là bà Rosa Silva, khi biết mình có thai, đã xin đi chiếu điện và sau đó đã được siêu âm bào thai. Bác sĩ cho biết bào thai của bà có một cái gì lạ: “Thai nhi có 3 tay, hai cái đầu, chân thì quấn lấy nhau.”

Bác sĩ cho biết, tính mạng bà có thể bị nguy hiểm nếu giữ bào thai và cách chữa trị là phá thai. Phá thai ở Chile được luật pháp cho phép. Tuy nhiên, bà Rosa, mẹ của hai Linh Mục, đã không bằng lòng và kiên quyết từ chối lời đề nghị phá thai. Bà nói, bà chấp nhận những gì Thiên Chúa trao cho bà.

Cha Felipe nói: “Chúa đã tạo dựng bào thai song nhi. Tôi không biết các bác sĩ đã sai hay có chuyện gì”

Còn cha Paolo nói: “ Tôi thì luôn luôn nhớ tới lòng yêu thương và dịu dàng trong trái tim của mẹ tôi là người đã cho chúng tôi sự sống”.

Cha Paulo kể thêm rằng “ Khi anh ngài là cha Felipe sanh rồi, thì cuống nhau vẫn chưa đứt ra khỏi cung lòng mẹ nên bác sĩ đã đề nghị nạo bào thai để lấy cuống nhau ra. Bà Rosa Silva, mẹ của hai Linh Mục từ chối và nói bà cảm thấy còn một đứa bé nữa ở trong cung lòng. Và quả thế 17 phút sau, cha Paulo đã được sinh ra.

Trước sự kiện này cha Paolo nói: “ Chi tiết cuối cùng này có ý nghiã rất quan trọng đối với tôi. Mẹ tôi biết tôi còn ở trong bụng, tôi sinh ra trễ nhưng đã được sinh ra. Nếu bác sĩ nạo cung lòng mẹ tôi thì chắc chắn tôi đã bị thương nặng rồi”.

Câu chuyện hai cha đã được sinh ra thế nào chỉ được hai cha biết đến khi đang học năm thứ Sáu tại chủng viện

Cha Paolô kể tiếp: “Điều chắc chắn là sự khôn ngoan của mẹ tôi và tâm hồn của bà đã đúng lúc cho chúng tôi được biết chuyện kỳ diệu như thế ”

Rồi ngài kể tiếp: “Hồi tưởng lại chuyện đó trong khi trước đây tôi vẫn nghĩ rằng ơn kêu gọi làm linh mục của tôi chỉ bắt đầu từ thời thanh xuân, nhưng sau này tôi mới nhận ra rằng Chúa đã can thiệp vào đời tôi ngay từ thuở ban đầu nhờ cái tiếng “Xin Vâng” của mẹ tôi”.

Thời còn bé, dù được lớn lên trong gia đình Công Giáo, nhưng cả hai anh em đã mất đức tin và thôi không dự thánh lễ nữa. Rồi chính việc cha mẹ ngài ly dị mà hai anh em lại đã trở về với Giáo Hội và chịu phép Thêm Sức.

Cha Paolô kể tiếp rằng dù lúc mất đức tin, nhưng hai anh em vẫn cảm thấy mình bị hấp dẫn bởi Mình Thánh Chúa, thánh ca và việc âm thầm cầu nguyện.

Cha Felipe thì kể rằng chính cha Reinaldo Osorio đã kéo ngài trở về với Chúa. Và sau này cha Reinaldo Osorio đã hướng dẫn hai anh em trong chủng viện để lên chức linh mục.

Cha kể với cơ quan truyền thông CNA: “ Chúa đã gọi tôi, tôi nhận ra rằng chính Chúa và mọi sự trong Chúa làm tôi rất hạnh phúc. Chắc chắn tôi muốn làm linh mục”.

Điều ngạc nhiên là dù hai anh em sống gần nhau nhưng không bao giờ nói cho nhau biết về ơn kêu gọi của mình. Cha Paolo nói “ Tôi không biết anh em tôi ai đã nghe tiếng Chúa gọi trước, nhưng tôi nghĩ Chúa đã chọn đường lối tôn trọng sự tự do đáp trả của anh em tôi.”

Tháng 3 năm 2003, cả hai anh em gia nhập chủng viện. Ban đầu gia đình băn khoăn về quyết định của họ, nhưng sau một năm sống trong chủng viện, mẹ ngài thấy hai con hạnh phúc nên bà đã an tâm.

Vào ngày 28 tháng 4 năm 2012, hai anh em song sinh, thầy Felipe và thầy Paulo chịu chức linh mục và cử hành lễ mở tay tại quê hương của các ngài là Nhà Thờ Đức Mẹ Ban Ơn ở Lagunillas.

Sau một năm chịu chức, giờ đây cha Felipe phục vụ tại giáo xứ Thánh Martin of Tours ở Quillota, và cha Paolo phục vụ tại giáo xứ Đức Mẹ Mông Triệu tai Achupallas.

Kết thúc câu chuyện về đời mình với CNA Cha Felipe nói: Chúa không làm chuyện linh tinh với chúng ta. Ngài muốn chúng ta hạnh phúc, và chức linh mục là ơn gọi tuyệt vời làm chúng tôi vô cùng hạnh phúc.

Còn cha Paolô kết luận “ Theo Chúa Giêsu không phải là dễ, nhưng là chuyện tuyệt vời. Chúa Giêsu, Giáo Hội và thế giới cần chúng ta, nhưng không phải cần bất cứ bạn trẻ nào, mà chỉ cần những bạn nào được trao ban sự thật của Thiên Chúa để chính đời sống họ sẽ chuyển tải sự sống, nụ cười của họ mang theo niềm hy vọng, diện mạo của họ chuyển tải đức tin, và hành động của họ sẽ mang theo niềm tin yêu”

THỤ PHONG LM. LÚC 71 TUỔI ĐÃ CÓ 8 NGƯỜI CON VÀ 18 CHÁU NỘI NGOẠI

Trm Hương Thơ
8/20/2013

Cảm động về một ơn gọi bền đỗ.

Nhờ nền giáo dục Công Giáo mà cậu Enrique nhận được từ gia đình cha mẹ là người gương mẫu trong cách sống đạo. Từ khi còn là một cậu giúp lễ bên bàn thờ Enrique đã cảm thấy mình có ơn gọi làm lm. và ở tuổi 17 Henry bước vào chủng viện Tổng Giáo Phận Chihuahua ở Mexicô. Tuy nhiên Enrique phải bỏ học vì lý do sức khỏe.

Sau bao nhiêu cố gắng chiến đấu với bệnh viêm xương và xoang mũi và sức khỏe có phần tốt hơn nên Enrique xin trở lại chủng viện để học tiếp theo con đường ơn gọi. Nhưng sau một thời gian không lâu thì bệnh cậu lại tái phát nên lại phải từ giã chủng viện để trở về đời sống thường.

Sau một thời gian sức khỏe kha khá trở lại thì cậu xin được việc làm ở một khu mỏ sắt. Vẫn tiếc nuối ơn gọi nên lần thứ ba cậu đã cố gắng xin để trở về chủng viện nhưng đã bị từ chối vì những hậu quả của bệnh.

Sau đó một thời gian dài thì cậu gặp được Wilhelmina cả hai cùng đồng chí hướng trong việc tông đồ. Cảm nhận rằng Chúa đã gọi mình trong cuộc sống hôn nhân, và họ kết hôn vào ngày 14 tháng 10 năm 1967 tại xứ đạo Santa Rosalia. Enrique. cách chọn lựa của hai người là luôn sẵn sàng sống trong công việc tông đồ trong bậc hôn nhân Sau này Enrique được sự đồng ý của vợ nên đã theo học và được chịu chức phó tế vĩnh viễn 08 tháng 9 năm 1981 với người bạn của ông Cornelius Corral.

Họ hai có sáng kiến lập qũy đoàn kết và tương trợ để giúp cho các trẻ em được học hành, và họ đã thành công trong việc quyên góp và quản lý để xây dựng một trường mẫu giáo, trường tiểu học và trung học, một trạm y tế và xây dựng một nhà nguyện.

Hai vợ chồng hạnh phúc đã có được tám người con: Francis, Henry, Celia, Isela, Roque, Mark, và Celina Melina Patricia Dew. và 18 đứa cháu nội ngoại từ 1 đến 17 tuổi.

Mặc dù không có đủ khả năng tài chánh để thực hiện cho tất cả các con đi học đại học. Nhưng Enrique luôn luôn cố gắng hết mình phục vụ giáo xứ và công việc chung. Nhưng quan trọng là luôn nhận được sự hỗ trợ từ người vợ thân yêu của mình.

Sau một thời gian mang căn bệnh ung thư người vợ đã qua đời vào ngày 07 tháng 2 năm 2011. Một sự mất mát to lớn trong đời đối với Enrique. Đó là một thời điểm thử thách rất quan trọng. “Nếu bạn sống luôn sẵn sàng để Thiên Chúa quyết định, thì cái chết tự nó không phải là một bi kịch, nhưng là đường đời đích thực nơi chúng ta đi về”

Sau cái chết của Wilhelmina người vợ thân yêu độ nửa năm Enrique được sự gợi ý của một số người thân và xin với tòa giám mục học thêm để trở thành linh mục. Đức Tổng Giám Mục Constancio Miranda đã gởi thơ lên Tòa Thánh sau một năm rưỡi thì được thông báo rằng có thể tiến hành với lễ thụ phong.

“Tôi muốn trở thành linh mục là vâng phục Thiên Chúa, chứ không phải để lựa chọn một con đường riêng” Người mà tôi đã luôn luôn tôn thờ và cảm thấy gần gũi. Đây là thời điểm quyết định quan trọng nhất của cuộc đời tôi, vì vậy tôi sẽ tiếp tục thực hiện theo ý muốn của Thiên Chúa,

Hôm thứ năm 15. 08 2013 ngày lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời tại Giáo phận Chihuahua, Enrique Martinez được thụ phong linh mục.”Cùng với những hạnh phúc của anh chị em và con cháu và Giáo Hội. Con gái Celia của ông cho biết lễ thụ phong linh mục của cha cô là một phước lành từ Thiên Chúa”, là một món quà cho các giáo phận và các gia đình .”

Linh mục Enrique sẽ dâng Thánh lễ mở tay và tạ ơn tại nhà thờ Đức Mẹ Guadalupe.

Lược dịch theo (CNA/EWTN)

Bông hồng trắng

Bông hồng trắng

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 12:36 Sáng 21/08/13

VRNs (21.08.2013) – Sài Gòn – Rằm Tháng Bảy được giới Tăng Ni Phật tử gọi là Đại Lễ Vu Lan, dịp đặc biệt để con cái báo hiếu các bậc sinh thành, tổ tiên đã khuất. Theo tín ngưỡng dân gian, Vu Lan còn là ngày xá tội vong nhân. Đây là Mùa Báo Hiếu, những ai còn mẹ thì được gắn Bông Hồng ĐỎ, những ai mất mẹ thì được gắn Bông hồng TRẮNG.

Mỗi năm đến dịp lễ Vu Lan tôi lại cảm thấy “ghen” với những người còn cha mẹ – nhất là còn mẹ, vì tôi thấy họ là những người may mắn! Người Trung quốc xác định: “Phúc đức tại mẫu”. Người có công trực tiếp với chúng ta nhất chính là Cha Mẹ: Mẹ khởi đầu cho cuộc sống, tình yêu và hạnh phúc; Cha khởi đầu cho ý chí, niềm tin và sức mạnh.

Mẹ già như chuối ba hương

Như xôi nếp một, như đường mía lau

Vu Lan nhắc nhớ chúng ta về chữ Hiếu mà có lẽ ngày nay có chút gì đó bị lu mờ. Người Việt nói riêng, và người Á Đông nói chung, rất trọng chữ Hiếu. Như vậy, Vu Lan là một nét văn hóa đẹp đáng tôn trọng và duy trì. Điều này hẳn không sai lệch, vì ai trong chúng ta cũng nhờ thừa hưởng từ cha mẹ mà có hình hài, có thân thể này. Sự trao truyền đó là huyết thống. Mọi điều hay, dở hoặc tốt, xấu của chúng ta là niềm vui mừng hoặc đau khổ của cha mẹ. Bổn phận làm con không bao giờ được quên ơn nghĩa sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ, vì đó là thâm ân, không thể chối cãi, không thể bác bỏ. Thiết tưởng cũng nên biết một chút về lễ Vu Lan – vì nhiều người Công giáo có thể chưa biết rõ!

TÍCH XƯA. Bồ tát Mục Kiền Liên là đại hiếu tử, vì ông đã cứu mẹ mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ.

Sau khi đã chứng quả A La Hán, ông tưởng nhớ và muốn biết mẹ mình thế nào nên dùng huệ nhãn dò tìm. Thấy mẹ rơi vào ngục A Tỳ làm quỷ, bị đói khát, khổ sở, vì đã gây nhiều nghiệp ác, ông đem cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ. Tuy nhiên, do đói lâu nên khi ăn, mẹ ông đã dùng một tay che bát cơm để không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, thế nên khi thức ăn vừa được đưa lên miệng thì lập tức hóa thành lửa đỏ. Quá thương cảm, Mục Kiền Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ. Phật dạy: “Dù ta thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Rằm Tháng Bảy là ngày thích hợp lập trai đàn để cầu siêu, thiết trai diên để mời chư tăng thọ thực. Trước khi thọ thực, các vị này sẽ tuân theo lời dạy của Phật mà chú tâm cầu cho cha mẹ và ông bà bảy đời của thí chủ được siêu thoát”.

Rằm Tháng Bảy là ngày chư tăng tự tứ (kết thúc hạ an cư), dùng thức ăn uống đựng trong bồn Vu Lan cúng dường Tam bảo sẽ được vô lượng công đức, cứu được cha mẹ 7 đời.

Tôn giả Mục Kiền Liên làm đúng như lời Phật dạy. Quả nhiên vong mẫu của ông được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ mà sanh về cảnh giới lành. Cách thức cúng dường để cầu siêu đó gọi là Vu Lan Bồn Pháp, lễ cúng đó gọi là Vu Lan Bồn Hội (tiếng Phạm là Avalambana), đó là nghi thức cầu siêu độ cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân thuộc nhiều đời, được cử hành vào ngày Rằm Tháng Bảy âm lịch hàng năm, theo lời Phật dạy trong kinh Vu Lan Bồn. Còn bộ kinh ghi chép sự tích trên thì gọi là Vu Lan Bồn Kinh.

Theo Phật Quang Đại từ điển, Vu Lan (tiếng Phạn là Ullalambana), cũng gọi là Ô-lam-bà-noa. Hán ngữ dịch là Đảo huyền (nghĩa là “treo ngược” – nỗi khổ của người chết giống như cái khổ của người bị treo ngược, cực kỳ đau đớn), cũng gọi là Vu Lan Bồn Hội hoặc Bồn Hội.

Và thế là mỗi năm, khi ngày này đến gần, các phụ nữ trong gia đình lại bận rộn hơn với công việc chuẩn bị cúng rằm nhớ ơn tổ tiên, lên chùa khấn cầu Phật phù hộ cho gia đình, cha mẹ được bình an phúc đức. Theo truyền thuyết Trung quốc, Vũ đế vương nhà Lương là người đầu tiên cử hành hội Vu Lan Bồn Hội.

Theo Từ điển Văn hóa Cổ truyền Việt Nam, Vu Lan (bồn) là cái chậu đựng hoa quả, phẩm vật dâng cúng. Lễ Vu Lan được cử hành vào Rằm Tháng Bảy âm lịch hàng năm, là lễ dâng các phẩm vật cúng chư tăng đựng trong chiếc Vu Lan để cầu siêu cho vong hồn người thân thoát khỏi địa ngục. Rằm Tháng Bảy âm lịch gọi là ngàu vong nhân xá, là ngày các vong hồn được tha tội. Bởi vậy người ta thường đốt vàng mã cúng gia tiên.

SUY TƯ. Người nào thấy cha mẹ già có vẻ lẩm cẩm một chút hoặc không văn minh hiện đại mà xem thường cha mẹ là có tội lớn. Dù cha mẹ lẩm cẩm bao nhiêu đi nữa, có kém kiến thức hơn mình, hoặc có là gì đi nữa, thì đó vẫn là những đấng sinh thành đáng kính. Chúng ta phải nhớ rằng bản thân mình là một phần thân thể cha mẹ, không thể tách rời, không thể đứng riêng, dù muốn chối bỏ cũng không chối bỏ được. Thân này đã là của cha mẹ mà mình phụ rẫy, vong ân bội nghĩa thì thật vô lý, không xứng đáng là một con người, vì một danh nhân đã nói: “Chỉ có ai biết yêu thương mới xứng đáng nhận danh hiệu con người”. Do đó, lòng hiếu thảo đối với chúng ta là một chân lý. Trên đời này không có ơn nào cao trọng bằng ơn cha nghĩa mẹ. Nếu ơn cao nghĩa dày như vậy mà chúng ta quên đi thì những ơn khác trong xã hội – ơn của bạn bè, tình làng nghĩa xóm, ơn của người vãng lai,… – làm sao chúng ta có thể biết ơn và đền ơn?

Kinh thánh dạy: “Hãy thảo kính Cha Mẹ” (x. Tb 4:3; Hc 3:8), còn Kinh Phật dạy: “Tột cùng thiện không gì bằng CÓ HIẾU, tột cùng ác không gì bằng BẤT HIẾU”. Không có gì đối lập, dù đạo hay đời. Thật tuyệt! Sau khi Đức Maria và Đức Thánh Giuse tìm thấy Chúa Giêsu và “trách yêu”: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2:48), nhưng rồi Chúa Giêsu vẫn ngoan ngoãn theo cha mẹ về Nadarét và hằng vâng phục các ngài (x. Lc 2:51). Vì vậy, lễ Vu lan gợi nhớ tinh thần cao đẹp của chúng ta dành cho tổ tiên. Nghĩ đến tình thương cha mẹ đối với chúng ta như thế nào để cố gắng tu thân, cố gắng đền ơn đáp nghĩa “chín đức cù lao” của song thân phụ mẫu, như thế mới phần nào xứng đáng là người con có hiếu – dù có thể chúng ta không theo kịp “nhị thập tứ hiếu” (chuyện 24 người con chí hiếu).

Hãy thắp một nén nhang mỗi tối và cầu nguyện cho những người đã khuất. Đó vừa là văn hóa vừa là đạo đức và sống đức tin Công giáo vậy!

TRẦM THIÊN THU

ĐỨC TIN CỦA ANH CHỊ EM TÂN TÒNG.

ĐỨC TIN CỦA ANH CHỊ EM TÂN TÒNG.

Phan Sinh Trần

08/2013

Ngày nay mốt thời thượng của nhiều bạn Trẻ là từ bỏ Đức Tin, nhưng trong số đó, cũng có nhiều người đang tỏ lộ một Đức Tin mạnh mẽ đáng cảm phục.

Làm sao để biết đức tin của Ta là mạnh hay yếu về phẩm và Đức Tin của người khác là nhiều hay ít về lượng. Làm sao đo lường Đức Tin?

ĐỨC TIN MẠNH ĐO BẰNG HIỆU QUẢ TRONG LỜI CẦU :

Năm 2011 chúng tôi có dịp hỏi về cách cầu nguyện của một Anh trong lớp Tân Tòng thuộc Giáo xứ Đức Kitô Ngôi Lời Nhập Thể , Houston , TX. Anh cho biết Anh cầu nguyện rất có kết quả cụ thể là cách đó khoảng mấy tuần, trong công việc lát gạch làm cho một nhà thầu nọ, khi đó, anh bí không thể lát được vì mặt phẳng đổ bê tông quá méo mó, không thể nào lát gạch được, trước đó đã có mấy thợ khác bó tay chịu thua. Ông nhà thầu liền chỉ định cho anh đến giúp, tính tới, tính lui anh cảm thấy mình cũng bị bí kế như họ, thế là … anh quì gối ngay tại chỗ làm, khoanh tay anh hỏi Chúa: “Cha, con bí rồi, Cha tính sao thì tính dùm đi” … Cầu nguyện xong, anh bắt tay làm ro ro một hồi , … khi làm xong , Ông chủ của Anh đến xem và còn khen là lát gạch đẹp nữa. Anh đơn sơ cho biết “ Cầu nguyện với đức tin thì rất kết quả”. Phần tôi thì rất thích cách cầu nguyện trong lòng tin, gọi Chúa bằng “Cha” của anh này. Anh đã nói “ Cầu nguyện với lòng Tin thì hầu hết trong mọi trường hợp đều được Cha ban cho nếu đó là điều có lợi cho mình”.

Rồi một thanh niên mới biết Chúa khác tên là Phúc ở Hội Thánh Baptist , Houston, TX. Anh rất hăng hái học hỏi Lời Chúa, một ngày nọ có một Chị tên là Nh trong nhóm chia xẻ Lời Chúa bị sưng phù chân, mắt cá chân sưng múp míp và kéo dài lên tới phần dưới của bắp vế cũng bị phù to, chị không thể đi đứng bình thường và nhờ cầu nguyện, Phúc được ông trưởng nhóm khuyến khích cầu nguyện cho Chị N, em quì xuống, cầu xin nhân danh tên quí yêu là Chúa Giê Su và truyền cho bệnh tật phải tan biến. Ngay ngày hôm sau, khi Nhóm họp lại thì đã thấy bàn chân của Chị N rút hết phù , bàn chân khô tóp lại và lộ cả mắt cá. Chị đi đứng nhanh nhẹn và bình thường như chưa hề bị đau chân.

Bạn biết không , anh Thanh Niên này cùng với cả nhà mới tin Chúa có ba năm rưỡi trời thôi ! nhưng đức tin, yêu Chúa Giê Su của anh đã mạnh hơn nhiều . Anh đã tin đến mức đạt được lời hứa của Chúa Giê Su: “Hãy xin, thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ gặp; hãy gõ thì sẽ mở cho” (Luca 11:9)

Nếu bạn cho rằng hiệu quả của lời cầu xin cũng là thước đo Đức Tin của một người , thì có lẽ bạn cũng sẽ nhận thấy nhiều Anh Chị Em Tân Tòng có lòng tin vượt qua cả những Tín Hữu già cỗi là chúng ta nữa.

ĐỨC TIN MẠNH ĐO LƯỜNG BẰNG ĐỘ TRUYỀN TẢI:

Lúc đó là vào khoảng năm 2007 , khi Chị Ng còn là một dân chơi , không tuần nào không viếng vũ trường Diamond Club , Houston, và từng trải đủ các món ăn chơi, cũng như các tranh cạnh của cuộc chơi trong giang hồ. Rồi một hôm, sự say mê tin Chúa của con Chị đánh động chị , chị thắc mắc , con bé đó làm sao mà nó chịu đựng các la lổi, dằn vặt của mình từ ngày nó đi theo đạo Chúa và Nhóm Thánh Linh , làm sao mà nó cứ ở trước cái hộp nhỏ đựng bánh lễ trong nhà thờ hoài, nó quì có đến hàng giờ mà không biết chán, làm sao và làm sao, từ tò mò chị đến thử và được Chúa thu hút làm đệ tử hồi nào không hay ! Đức Tin bằng việc làm, bằng đời sống của con Chị đã cảm hóa Chị , rồi Chị cảm hóa Anh cũng trở nên giống như con và Chị . Đức Tin sống động từ Chúa thật có tính truyền tải cao, Đức Tin rất hay lây !

Thạt là tuyệt nếu đức tin của ta cũng có độ truyền tải cao như của cả nhà Chị Ngọc. Căn nhà Chị ở, trên đường Elridge, nay đã trở thành nơi ca ngợi Chúa cho nhiều anh em ngoại đạo. Từ chỗ một nhóm vài ba người nay đã lên đến hơn ba chục người , từ chỗ cầu nguyện trong một hai giờ nay đã lên đến ba bốn giờ và hai lần mỗi tuần. Xin Chúa cho đức tin của ta mạnh như Đức Tin Truyền Tải này của các Anh Em Tân Tòng !

ĐỨC TIN MẠNH ĐO BẰNG THÁI ĐỘ DẠN DĨ LÀM CHỨNG CHO CHÚA:

Một người có đức tin mạnh mẽ thì rất dễ biết vì đi đến đâu họ cũng mạnh dạn đứng lên làm chứng cho Chúa. Trường hợp của Chị Nh , có tiệm hớt tóc trên đường Bellaire, trong khu Salomon, Houston. Chị vốn theo đạo Phật Giáo Hòa Hảo từ nhỏ .Khi chị được biết về Chúa, thì tình yêu của Chúa thu hút Chị , đời sống của Chị được thay đổi, từ bệnh hoạn sang mạnh khỏe , từ buồn lo đến độ đau bao tử trở nên vui tươi bằng an. Từ tình trạng tan hoang gia đình đến độ phát quẩn , không còn đủ lý trí thành ổn định và hòa giải trong tình Mẹ Con, Vợ Chồng. Do đó , Chị Nh không bao giờ quên làm chứng cho Chúa về những ơn lành Chúa đã và đang ban cho từ ngày biết và yêu kính Chúa. Chị nói về ơn Chúa cho bắt cứ ai đến tiệm hớt tóc, muốn nghe về vị Chúa cứu khổ , cứu nạn của Chị , cho dù đó là Mỹ đen, Mễ hay người Việt , người Hoa. Cũng có khi gặp một vị khó tánh cho là Chị quá độ, Chị cũng không quê độ hay sợ hãi, chùn bước vì Chị cho rằng: “ ai nói gì mặc kệ họ, phần Chị không thể nào không tìm cách cứu giúp người ta để họ cũng được Chúa cứu như chị nhất là được Chúa cho sự sống đời đời ” .

Đối với Anh Chị Em Tân Tòng đi trong Tin Yêu trên đường Giê Su thì Đức Tin quả là một hồng ân.

Còn Chúng ta , những cây lâu ngày trong Giáo Hội thì sao?. Đúc Tin của chúng ta mạnh hơn hay yếu hơn, nhiều hơn hay ít hơn. Xin Chúa cho bạn và tôi có thể noi gương các Anh Chị Em Tân Tòng đạt đến viến tượng như Chúa muốn như trong sách Mat Thêu 13, 31-32:

“Về Nước Trời, thì cũng in như hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. Nó nhỏ tí, thua mọi thứ hạt giống, nhưng khi nó đã lớn lên, thì to lớn hơn rau cỏ mà thành một cây, đến đỗi chim trời đến nương náu nơi cành nó”.

Phan Sinh Trần

Nữ tu, người lội ngược dòng

Nữ tu, người lội ngược dòng

Đăng bởi lúc 12:34 Sáng 20/08/13

VRNs (20.08.2013) – Sài Gòn – Vào lúc 9g sáng thứ bảy, ngày 17-08-2013 tại nhà nguyện Dòng Mến Thánh Giá Gò Vấp, 523 Lê Đức Thọ – P. 16 – Q. Gò vấp, đã diễn ra thánh lễ Tuyên Khấn vĩnh viễn của Nữ tu Cé-ci-li-a Nguyễn Thị Thuý Hường.

Nữ tu Cé-ci-li-a từ nhỏ sống bên Đức, sau tám năm sống trong nhà dòng bên Đức, nay Nữ tu trở về Nhà Mẹ tại Việt nam để Tuyên Khấn vĩnh viễn trước mặt Mẹ Bề Trên Tổng Quyền.

Cha Giu-se Trần Hoà Hưng Bề trên Giám tỉnh Dòng Don Bosco chủ tế và chia sẻ Lời Chúa. Trong bài chia sẻ, Cha đã cho cộng đoàn và Nữ tu thấy được sự cao cả của việc tuyên khấn, đó là làm chứng cho thế gian biết rằng sự có mặt của Thiên Chúa trong cuộc sống sẽ làm cho ta thấy hạnh phúc. Nữ tu Cé-ci-li-a đã dám lội ngược dòng nhằm giúp mọi người thấy rằng trong đau khổ và đắng cay vẫn có sự hiện diện của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa làm cho con người trở nên hạnh phúc. Vì có Chúa là niềm vui của cuộc đời, làm cho đời thêm phấn khởi và vui tươi. Hình ảnh người Nữ tu hôm nay tuyên khấn nói lên sự tín thác tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài sẽ không bỏ rơi chúng ta. Cho dù chúng ta có ích kỷ hay phản bội, Ngài vẫn yêu và yêu thương cho đến cùng, vì Ngài muốn cho con người được hạnh phúc.

Kết thúc bài chia sẻ Lời Chúa là phần Tuyên Khấn vĩnh viễn của Nữ tu Cécilia trước mặt Thiên Chúa, Mẹ Bề Trên Tổng Quyền cùng quý cha, quý tu sĩ nam nữ và cộng đoàn tham dự.

Trong thánh lễ còn có sự hiện diện Cha Ma-ri-a Mát-thêu Nguyễn Bá Linh, Viện Phụ Đan Viện Xi-tô Thánh Mẫu Thiên Phước, Cha Giu-se Hồ Sĩ Hữu thư ký Toà Giám Mục Phan Thiết, cùng với 6 Cha đồng tế và cộng đoàn tham dự.

Kết thúc thánh lễ, Quý Cha, Quý tu sĩ nam nữ và cộng đoàn tham dự tiệc Agape trong tình huynh đệ và đầy yêu thương.

Sau đây là vài tấm hình trong ngày lễ Tuyên Khấn vĩnh viễn.

GB. Vân Anh, CSsR

Chìa khóa hạnh phúc.

Chìa khóa hạnh phúc.

 

“Một người biết nắm chắc chìa khóa niềm vui hạnh phúc của mình thì người đó không đợi chờ người khác làm cho mình vui”.

Image

– The Key to Happiness ” Key to Happiness “

Phóng viên nổi tiếng Sydney Harries và một người bạn dừng chân mua báo ở một quầy bán báo, người bạn mua xong rất lịch sự nói lời “Cám ơn!” nhưng người chủ quầy báo thì ngược lại, mặt lạnh như tiền, một tiếng cũng không thèm mở miệng.

Hai người rời quầy báo tiếp tục đi về phía trước, Sydney Harries hỏi:

– Ông chủ đó thái độ kỳ quái quá phải không?

– Cứ mỗi buổi tối là anh ta đều như vậy cả – Người bạn đáp lại.

– Như vậy, tại sao bạn lại đối xử tử tế với ông ta chứ? – Sydney Harries lại hỏi tiếp

– Tại sao tôi để ông ta quyết định hành vi của tôi chứ? – Người bạn trả lời.

Một người biết nắm chắc chìa khóa niềm vui của mình, thì người đó không đợi chờ người khác làm cho mình vui mà ngược lại mình còn có khả năng đem niềm vui đến cho người khác. Trong tâm của mỗi người đều có “Chiếc chìa khóa của niềm vui hạnh phúc”, nhưng chúng ta lại không biết nắm giữ mà đem giao cho người khác cầm giữ.

 

– Một người phụ nữ thường than phiền trách móc: “Tôi sống rất buồn khổ, vì chồng tôi thường vắng nhà!”, cô ta đã đem chìa khóa niềm vui của mình đặt vào tay chồng.

– Một người mẹ khác thì nói: “Con trai tôi không biết nghe lời, làm cho tôi thường xuyên nổi giận!”, bà đã trao chìa khóa niềm vui của mình vào tay con trai.

– Một vị trung niên của một công ty thở dài nói: “Công ty không thăng chức cho tôi, làm tinh thần tôi giảm sút…!”, anh ta lại đem chìa khóa niềm vui của cuộc đời mình nhét vào tay ông chủ.

– Bà cụ kia than thở: “Con dâu tôi không hiếu thuận, cuộc đời tôi sao mà khổ!”.

– Một thanh niên trẻ từ tiệm sách bước ra la lên: “Thái độ phục vụ của ông chủ đó thật đáng ghét…”.

Những người này đều có một quyết định giống nhau, đó là để người khác chế ngự tình cảm của mình. Lúc chúng ta cho phép người khác điều khiển và chế ngự tinh thần chúng ta, chúng ta có cảm giác như mình là người bị hại, đối với tình huống hiện tại không có phương pháp nào khác nên trách móc và căm giận, việc này trở thành sự lựa chọn duy nhất của chúng ta.

Chúng ta bắt đầu trách móc người khác đồng thời chúng ta cũng truyền tải một yêu cầu là: “Tôi khổ như vậy là do người khác và họ phải chịu trách nhiệm về nỗi khổ này!”. Lúc đó chúng ta đem trách nhiệm trọng đại phó thác cho những người xung quanh và yêu cầu họ làm cho chúng ta vui.

Chúng ta dường như thừa nhận mình không có khả năng tự chủ lấy mình, mà chỉ có thể nhờ người nào đó xếp đặt và chi phối mình. Những người như vậy khiến nhiều người không muốn tiếp xúc, gần gũi, lý do đơn giản là bởi khi nhìn thấy họ ta chỉ thấy toàn sự trách móc, giận hờn.

Nhưng, một người biết nắm chắc chiếc chìa khóa niềm vui của mình thì người đó không đợi chờ người khác làm cho mình vui mà ngược lại mình còn có khả năng đem niềm vui đến cho người khác. Tinh thần người đó ổn định, biết chịu trách nhiệm về chính mình không đổ lỗi cho người khác; biết làm chủ xúc cảm và biết tạo, cũng như giữ được niềm vui cho chính mình. Như thế thì trong cuộc sống và công việc hằng ngày, người đó sẽ luôn thảnh thơi, vui vẻ và không bị áp lực từ người khác.

Chiếc chìa khóa niềm vui của bạn ở đâu rồi? Đang nằm trong tay người khác phải không? Hãy nhanh lên mà lấy lại bạn nhé!

Chúc mọi người đều giữ được chiếc chìa khóa niềm vui hạnh phúc của mình!

Haley

(Dịch từ Life-goal)

From: terengocnga

& Anh chị Thụ Mai gởi

Ðiều Kỳ Diệu”

Ðiều Kỳ Diệu”

Sức mạnh con người là điều chi .
Chẳng phải gươm đao, súng đạn gì .
Nhưng là yêu thương và gắn kết .
Vượt qua được hết cảnh lâm nguy .

Chuyện cảm động về cặp song sinh 1 trai 1 gái. Trong khi bé trai khỏe mạnh, bé gái lại rất yếu và nguy kịch buộc lòng bác sỹ phải để hai bé nằm trong 2 lồng kính riêng. Nhưng một hôm, cô y tá phá lệ đặt 2 bé nằm cạnh nhau. Bất ngờ cậu anh trai giang tay ôm lấy em gái mình trong nhiều giờ đồng hồ. Kỳ diệu hơn là nhịp tim cô bé cũng bắt đầu đập bình thường, sức khỏe dần hồi phục và thoát khỏi bàn tay tử thần.
Ðôi khi sức mạnh kỳ diệu không ở đâu xa, mà chỉ đơn giản là một vòng tay ấm áp từ những người thân yêu bạn nhỉ!?

Ðó chính là “Ðiều Kỳ Diệu”

S.T.

Năm 2050: Tp. HCM trong tốp các thành phố ven biển thiệt hại vì lụt

Năm 2050: Tp. HCM trong tốp các thành phố ven biển thiệt hại vì lụt

RFI

Bão nhiệt đới Mangkhut gây ngập lụt tại Hà Nội hôm 08/08/2013.

Bão nhiệt đới Mangkhut gây ngập lụt tại Hà Nội hôm 08/08/2013.

REUTERS/Kham

Anh Vũ

Đến năm 2050, 136 thành phố ven biển lớn trên thế giới có thể sẽ bị thiệt hại tới một nghìn tỷ đô la Mỹ bởi lũ lụt nếu như không có các biện pháp đối phó quyết liệt. Thành phố Hồ Chí Minh cũng được xếp trong tốp đầu rủi ro cao. Đây là một số liệu cảnh báo đáng ngại trong một nghiên cứu do các chuyên gia thuộc Ngân hàng Thế giới tiến hành vừa được công bố ngày hôm qua 18/08/2013.

Dựa trên những dữ liệu về dân số cũng như tổn thất về nhà cửa, thương mại hay công nghiệp của 136 thành phố ven biển, bản báo cáo được đăng trên tạp chí Nature Climate Change do nhà kinh tế Stephan Hallegatte cùng các đồng nghiệp thực hiện đã đưa ra con số thiệt hại ngay từ giờ của riêng bốn thành phố Miami, New York, New Orleans (Mỹ) và Quảng Châu (Trung Quốc) đã lên tới có số là 6 tỷ đô la mỗi năm, tức chiếm 43% tổng thiệt hại do lũ lụt của các thành phố biển trên thế giới.

So sánh tỉ lệ thiệt hại với tăng trưởng dân số thành phố, khả năng phòng vệ trước lũ lụt, mực nước biển dâng cao do biến đổi khí hậu … Nhóm chuyên gia xác định nếu các thành phố biển tăng cường đầu tư các biện pháp chống lũ thì tổng thiệt hại có thể hạn chế được ở mức độ 52 tỉ đô la mỗi năm vào năm 2050. Ngược lại trong kịch bản không có các biện pháp ứng phó tích cực, tổn thất của hơn một trăm thành phố biển nêu trên có thể vượt quá con số một nghìn tỷ đô la mỗi năm.

Nghiên cứu cho thấy kể cả khi tăng cường các biện pháp phòng chống lũ lụt, thiệt hại vẫn sẽ gia tăng. Các chuyên gia ước tính, dù có hệ thống đê điều hiện đại, đến 2050, vì lũ lụt hàng năm cách thành phố như Quảng Châu vẫn sẽ thiệt hại 13,2 tỷ, Thẩm Quyến 3,1 tỷ ; các thành phố Ấn Độ như Bombay 6,4 tỷ, Calcutta 3,4 tỷ ; Guayaquil của Ecuador 3,2 tỷ đô la…

Thành phố Hồ Chí Minh của Việt Nam cũng bị xếp vào trong nhóm thiệt hại cao với con số 1,9 tỷ đô la xếp sau Thiên Tân của Trung Quốc, New York và Miami của Mỹ. Một con số quá nặng nề cho thủ phủ kinh tế của Việt Nam, cho dù từ nay đến đó thành phố này có đạt mức tăng trưởng kinh tế như thế nào đi chăng nữa.

Theo phân loại của nghiên cứu thì các thành phố giàu có được cho có nhiều khả năng đối phó với lũ lụt tốt hơn các thành phố nghèo thì vẫn là nơi thường xuyên bị thiên tai tàn phá. Lấy thí dụ như trường hợp thành phố Amsterdam của Hà Lan, một thành phố biển giàu có và nổi tiếng với các biện pháp phòng chống hiệu quả nhưng hàng năm vẫn bị mất đi 3 triệu đô la vì lũ lụt.

Nhà kinh tế Hallegatte cho biết 136 thành phố cần phải đầu tư hàng năm khoảng 50 tỷ đô la để cải thiện các biện pháp phòng chống lũ lụt để giảm thiểu thiệt hại hàng năm xuống còn từ 60 đến 63 tỷ đô. Mức tổn thất này được cho là có thể chấp nhận được.

Trên đây là những số liệu nghiên cứu của các chuyên gia về nguy cơ thiệt hại kinh tế do lũ lụt gây ra cho 136 thành phố ven biển trong tương lai. Nhưng lũ lụt nặng nề đã và vẫn đang xảy ra khắp nơi trên thế giới thường xuyên hơn và dữ dội hơn. Các cơn hồng thủy không chỉ đe dọa các thành phố duyên hải. Đầu mùa hè năm nay, người ta đã chứng kiến sức tàn phá ghê gớm của những trận lũ lụt đổ xuống khắp vùng đông và nam Âu trong suốt nhiều tuần. Ngay lúc này, đó đây ở Trung Quốc, Philippine, Bangladesh, Pakistan hay Nga những trận lũ lụt vẫn đang liên tiếp hoành hành cướp đi sinh mạng và đe dọa cuộc sống của hàng nghìn người.

Có thể hiệu ứng nhà kính, bầu khí hậu nóng nên không phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra lũ lụt nhưng rõ ràng đó là những yếu tố góp phần làm gia tăng nguy cơ của hiện tượng được xếp hàng đầu trong các các tai họa thiên nhiên.

Thương tâm cho Nghề “NEO” của người Việt ở Mỹ

Thương tâm cho Nghề “NEO” của người Việt ở Mỹ

NGƯỜI VIỆT HÀNH NGHỀ NAILS ở MỸ CẦN LƯU Ý

BS Vũ văn Dzi, MD., Chuyên Khoa Nội Thương

Đa số người Việt sang định cư, du lịch làm bán thời gian kiếm tiền ở Mỹ họ hái ra tiền bằng nghề “NEO”, nhưng có mấy ai thấu được nghiệp chướng này. Chỉ có các bác sĩ là người Việt  ở Mỹ mới thấy hết vấn đề nguy hại về sau cho những anh chị em sinh nhai bằng cái nghề mà dân bản xứ ở Mỹ ít ai chịu làm.

Những nguy hiểm của nghề sơn sửa móng tay

Một thống kê của Bộ Lao Động cho biết là cộng đồng Việt Nam ở Mỹ và tại một số quốc gia khác như Canada, Úc, Tây Âu.. đã gần như chiếm độc quyền một nghề mới có gần đây là nghề sơn, sửa móng tay, tạm gọi là nghề làm “nails”.

Từ các thành phố lớn cho đến nhỏ nhất đâu đâu cũng có một tiệm sơn/ sửa móng tay do người Việt làm chủ nhân và sau đó mở trường dạy nghề khiến mỗi ngày lan rộng đi khắp nơi. Một phóng sự của Đài truyền hình CNN cho biết là nghề làm móng tay đã phát triển ở Mỹ là nhờ một sáng kiến của nữ tài tử Tippi Hedren (đóng phim The Birds) khi bảo trợ giúp 19 gia đình Việt Nam sang định cư tại California thì sau đó đã hướng dẫn một số phụ nữ Việt Nam học cách sơn sửa móng tay do người thợ riêng của bà chỉ dẫn và sau đó theo học tại những trường dạy làm móng tay.

Nhờ tài khéo léo, chăm chỉ và kiên nhẫn nên sau đó những người này thành công mau chóng và từ đó giúp đỡ thân nhân sang sau và những thế hệ kế tiếp đi theo con đường làm “nghề nails“ và cho đến nay thì người Việt gần như chiếm độc quyền trên cả nước và cùng một lúc giúp cho người dân Mỹ trung lưu có dịp được hưởng một dịch vụ mà trước đây chỉ dành riêng cho những người thật giàu có như các tài tử Hollywood..

Những hóa chất độc hại..


Nhưng nghề làm móng tay, móng chân cũng có những nguy hiểm vì trong các loại thuốc sơn móng tay hay rửa móng tay có những hóa chất sau khi hít phải hay thấm phải vào trong cơ thể thì
có thể gây ra một chứng bệnh như ung thư máu, viêm phổ mãn tính hoặc nguy hiểm hơn cả tại những phụ nữ mang thai thì có thể gây ra những dị tật bẩm sinh hoặc bệnh tự kỷ (autism) ảnh hưởng lên các bào thai nhất là trong thời gian 3 tháng đầu tiên khi mà cơ thể của bào thai có những tăng trưởng mau lẹ khiến các dị tật dễ xảy ra..

Trong các hóa chất sơn móng tay thì gần đây có chất Dibutyl Phthalate tức DBT được nghiên cứu nhiều hơn cả được pha vào trong các chất nhựa dẻo và sơn móng tay. Chất DBT đã được thí nghiệm trên loài chuột và gây ra ung thư gan và có thể gây ra bệnh suyễn ở những người thường xuyên hít phải hơi độc của DBT. Hiện nay DBT đã bị các nước Âu châu cấm dùng trong lãnh vực chế tạo các mỹ phẩm.
Ngoài ra còn chất toluene và formaldehyde (được dùng để ướp xác hoặc tại VN, TQ dùng để bảo quản bánh phở và mì gói..). Một số công ty chế tạo mỹ phẩm như Elizabeth Arden, Avon đã không còn dùng hai chất này nữa vì gây ra ung thư gan và ung thứ máu (leukemia).

Acetone tức 2 propanone được dùng để rửa sơn móng tay và là một hóa chất dễ cháy và bốc hơi nên người dùng dễ hít phải rồi bị nhiễm độc bởi khói và bị suyễn hoặc viêm phỗi mãn tính. Nhưng cho đến nay chưa có bằng chứng gây ra ung thư phổi hay không vì chưa đủ thời gian để kiểm chứng.

Những người dùng acetone để rửa móng tay trong một thời gian ngắn thì không nguy hiểm nhưng đối với những người phải thường xuyên tiếp xúc với hơi của acetone như trong các tiệm sơn/sửa móng tay thì sau một thời gian thì có thể bị những chứng bệnh kinh niên đường phổi (chronic bronchitis). Riêng chất benzene thì Y học đã chứng minh từ lâu là gây ra bệnh ung thư máu (leukemia) và ngày nay vẫn còn được dùng trong công nghiệp hóa chất, nhựa dẻo..

Chất toluene cũng được dùng để rửa móng tay và có thể thấm vào trong cơ thể và có những tác hại lâu dài gọi là systemic effects ví dụ như lên các cơ quan sản xuất ra các tế bào máu trong tủy xương (bone marrow) và lâu ngày dẫn đến ung thư máu (leukemia) rất nguy hiểm và khó chữa và đôi khi cần phải được ghép tủy xương (bone marrow transplant).

Hiện nay có một số thuốc rửa móng tay được quảng cáo là thiên nhiên (natural products) hoặc non–acetone nail remover nhưng sự an toàn của những loại hóa chất này cũng chưa được kiểm chứng rõ ràng..

Nói chung thì hiện nay vẫn chưa có một loại thuốc rửa móng tay thật an toàn và tốt nhất vẫn là áp dụng những biện pháp bảo vệ môi trường và cá nhân.
Nếu rửa móng tay ở nhà thì nên làm ở chỗ thoáng khí và tránh hít phải hơi độc. Các tiệm chuyên sơn/ sửa móng tay thì cần có hệ thống hút hơi làm thoáng khí thật an toàn và đúng tiêu chuẩn của EPA. Đây là điểm quan trọng nhất vì không những bảo vệ sự an toàn cho khách hàng mà cho cả người hành nghề nhất là khi phải tiếp xúc với hơi độc mỗi ngày nhiều tiếng đồng hồ hoặc vì ham lợi nhuận làm “overtime”..

Những chai lọ đựng thuốc sau khi dùng xong cần được bỏ vào những thùng chứa được đóng kín và đem đi phế thải an toàn (air tight container) do những công ty chuyên môn (waste removal). Cần kiểm chứng các loại mỹ phẩm có chứa những chất độc kể trên hay không hoặc tham khảo chủ nhân dùng những loại mỹ phẩm có an toàn hay không..

Những người chuyên nghiệp thì cần bảo vệ cho bản thân và nhất là những bà mẹ đang mang thai (nhất là trong 3 tháng đầu) thì tuyệt đối nên tránh bị nhiễm phải những hơi độc của những hóa chất vì những chất độc này có thể nhiễm vào bên trong cơ thể rồi qua đường máu huyết truyền sang cho bào thai đang trong thời kỳ phát triển mau lẹ khiến dễ bị những dị tật bẩm sinh và nhất là bệnh tự kỷ (autism) mà ở Mỹ ngày nay rất được quan tâm và điều trị hết sức tốn kém. Một thống kê cho biết là trên 150 trẻ sơ sinh thì trung bình có 1 em bị chứng bệnh này mà việc điều trị có thể kéo dài cả đời..mà không có gì có thể thay thế được..

Hội chứng Sick building syndrome..


Gần đây Y học có mô tả một hội chứng gọi là Sick building syndrome nghĩa là có những căn nhà, căn phòng mà khi bước vào thì bị ho hen suyễn, khó thở. Nguyên nhân là lối thiết kế nhà cửa ở Mỹ hiện nay thường được kín gió hòng tiết kiệm năng lượng (energy efficient, well insulated) nên các hơi độc không được thoát ra bên ngoài nếu không có một hệ thống thoát hơi an toàn. Hiện nay cơ quan bảo vệ môi sinh EPA coi việc ô nhiễm không khí là 1 trong 5 nguyên nhân gây tử vong ở Mỹ và những người làm nghề sơn sửa móng tay là một trong những nghề hay bị nhất. Ngoài những hóa chất bay hơi (volatile organic chemicals) thì còn có thêm những chất mốc meo (molds), khói thuốc lá.. cũng gây ra ô nhiễm cho những người làm việc lâu dài và hàng ngày phải tiếp xúc với chất độc.

Ngay cả một số đồ vật trang trí nội thất như cây cỏ, hoa lá bằng nhựa dẻo, màn cửa, thảm lót nhà, gỗ sơn bóng cũng có thể thải ra những hóa chất gây bệnh..nói chung là đời sống công nghiệp ở Mỹ không thể tránh khỏi sự ô nhiễm hóa chất gây ra..

Gần đây có một khảo cứu dựa trên các cuộc thí nghiệm trên các phi thuyền không gian dùng một số cây cỏ trồng trong nhà gọi là houseplants để khử độc những hóa chất trong không khí. Một số cây cảnh trồng trong nhà có khả năng hút những chất độc như acetone, toluene, benzene rồi sau đó truyền xuống hệ thống rễ cây gọi là rhizosphere mà ở trong có một số vi khuẩn có khả năng tẩy uế và phân hóa những hóa chất này trở nên vô hại.

Càng ngày càng có nhiều bằng chứng là các cây cỏ trong thiên nhiên từ những khu rừng nhiệt đới cho tới những đám rừng rong biển cho tới những khu vực sinh thái bờ biển, đầm lày đã có những vai trò tối quan trọng giữ cho các môi trường không bị hủy hoại rồi một ngày kia dẫn đến ngày Tận Thế khi mà không còn sinh vật nào tồn tại nữa. Một vị trưởng lão da đỏ bộ lạc Snoquamish tên Chief Seattle (tên được đặt cho một thành phố lớn vùng Tây Bắc) đã có lần khuyên các di dân Mỹ đến định cư khi thấy họ phá hủy các khu rừng quý tại đây là “nếu các ông tiếp tục phá hoại môi sinh và thải ra những chất độc hại thì một ngày kia các ông và con cháu các ông sẽ chết ngộp trong những đống rác do các ông tạo nên..”

Hội chứng Sick Building syndrome chỉ là một trong những “chứng bệnh” do ô nhiễm môi sinh trong đó có những cửa tiệm sơn sửa móng tay. Ngoài hệ thống thoát hơi thì có thể trồng một số cây cỏ có khả năng tẩy độc như loại cây pothos, English ivy, peace lily, philodendron, diffenbachia.. là những loại cây trang trí để lọc không khí và có thể sống lâu trong nhà dễ dàng thay vì dùng những loại cây bằng nhựa dẻo nhân tạo vừa giữ bụi và vừa có thể gây bệnh cho căn phòng của hội chứng “sick building syndrome”.

BS Vũ văn Dzi, MD., Chuyên Khoa Nội Thương

CHỨNG MINH SỰ HIỆN HỮU CỦA THIÊN CHÚA

CHỨNG MINH SỰ HIỆN HỮU CỦA THIÊN CHÚA

Lm. ĐAN VINH, Hiệp Hội Thánh Mẫu

Trích EPHATA 575

Vấn đề 9: Bạn là người Công Giáo, nghĩa là bạn tin có Thiên Chúa. Vậy bạn hãy chứng minh có Thiên Chúa đi xem.

1. LỜI CHÚA:

“Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thinh không kể ra sự nghiệp tay Ngài” ( Tv 18, 2 ).

2. SUY NIỆM:

Khoa học không bàn đến vấn đề Thiên Chúa, không thể quả quyết có Thiên Chúa hay không, vì đây không thuộc lãnh vực nghiên cứu tìm hiểu của nó. Tuy nhiên khoa học vẫn có thể giúp các tín hữu chúng ta dễ dàng nhận biết sự hiện hữu của Thiên Chúa nhờ những khám phá của nó về vũ trụ thiên nhiên, về những định luật chi phối hoạt động của các sinh vật và nhất là loài người, những sự điều tra khách quan về các hiện tượng lạ thường trái với định luật thiên nhiên cho thấy có sự can thiệp của một quyền lực siêu nhiên… như sau:

PHẦN A. VŨ TRỤ MINH CHỨNG CÓ THIÊN CHÚA

a. Đại vũ trụ minh chứng có Thiên Chúa:

Mở mắt nhìn xung quanh, ta thấy vũ trụ bao la vô hạn. Khoa học giúp chúng ta hiểu rõ các hiện tượng và sức chuyển động trật tự của mọi vật trong đó. Với con mắt thường, ta có thể đếm được khoảng 5000 ngôi sao lấp lánh trên bầu trời bao la. Nhưng nhờ viễn vọng kính đặt trên núi Wilson, các nhà thiên văn học có thể nhìn thấy hơn 200 triệu ngôi sao. Còn biết bao nhiêu ngôi sao khác người ta đã nhận biết, nhưng vì ở quá xa, nên tới nay các nhà thiên văn vẫn chưa thể xác định được. Nguyên trong giải ngân hà mà thái dương hệ của chúng ta chỉ chiếm một phần nhỏ bé, người ta cũng đã tính được tới 50 tỷ định tinh và hằng tỷ ngôi sao đã chết. Mà không phải chỉ có một giải ngân hà, hiện nay người ta đã biết được có hằng tỷ giải ngân hà rồi.

Những vì tinh tú to lớn làm sao, mấy hành tinh ở gần chúng ta như Uranus đã lớn hơn trái đất 14 lần, Neptune to hơn 17 lần, Saturne 93 lần, Jupiter 1279 lần, và mặt trời to hơn những 1.300.000 lần. Sao Sirius còn to hơn mặt trời 12 lần, còn nhiều sao khác còn to hơn sao Sirius nữa…

Những vì tinh tú ở cách xa nhau đến nỗi ta không thể đọc bằng con số thường, mà phải lấy đơn vị là quang niên ( năm ánh sáng ) như sau: Vận tốc ánh sáng trong một giây đồng hồ là 299.792.458km, tương đương 300.000 km/ giây. Mỗi phút có 60 giây, mỗi giờ có 60 phút, mỗi ngày có 24 giờ, mỗi năm có 365 ngày ¼. Vậy một quang niên sẽ là 299.792.458 km x 60 x 60 x 24 x 365,1/4 sẽ thành 9460 tỷ cây số. Ánh sáng từ mặt trời đến trái đất chúng ta phải mất thời gian 8 phút 20 giây, từ trái đất đến mặt trăng phải mất hơn 1 phút. Nhưng nếu từ trái đất vượt qua thái dương hệ đến ngôi sao gần nhất trong chòm sao Nhân Mã phải mất thời gian 4 năm ( 4 quang niên ). Nhờ thiên lý kính ta biết được những tinh vân xa 140 triệu quang niên. Càng ngày với những kính viễn vọng kính tối tân hơn, người ta lại càng xem thấy xa hơn nữa.

Trái đất mỗi ngày quay chung quanh mình một vòng, đang khi nó vẫn chạy theo quỹ đạo mặt trời với vận tốc 30 km/giây, hoặc 108 ngàn km/giờ không bao giờ sai trật, đến nỗi các nhà bác học có thể tính trước được ngày giờ của các hiện tượng nhật thực, nguyệt thực.

Bầu trời rộng rãi bao la vô hạn thế mà mấy phi công lái máy bay thỉnh thoảng lại đụng nhau gây nên biết bao tang tóc ! Vậy mà từ tạo thiên lập địa đến nay vẫn chưa có một hành tinh nào chạm nhau giữa bầu trời nhiều tinh tú như thế.

Vậy thì vũ trụ bao la với trật tự kỳ diệu, tuân theo những định luật lạ lùng chính xác như thế lại không phải là bằng chứng chắc chắn có sự sắp đặt an bài của Đấng Tạo Hóa hay sao ? Becquerel đã nói: “Chính các công cuộc khảo cứu khoa học của tôi đã đưa tôi đến chỗ nhận biết có Thiên Chúa tạo hóa và làm cho tôi có Đức Tin”.

b. Tiểu vũ trụ cũng chứng minh có Thiên Chúa:

Vũ trụ tinh tú khổng lồ thật là một kỳ công. Nhưng vũ trụ nguyên tử tý hon cũng không kém phần lạ lùng kỳ diệu. Nếu đem phân tích vật chất, ta sẽ thấy như sau:

– Đơn chất: Mọi vật chất trong vũ trụ thiên nhiên đều được cấu thành bởi những đơn chất. Chẳng hạn: Cái bàn do nhiều đơn chất gỗ hợp lại thành. Chiếc nhẫn là do nhiều đơn chất vàng cấu tạo nên… Những đơn chất này rất nhỏ, nhỏ đến nỗi mắt thường của chúng ta không thể phân biệt được chúng với nhau.

– Nguyên tử: Mỗi đơn chất nói trên lại được cấu tạo bởi một số nguyên tử nhất định. Chẳng hạn: Chất nước gồm một nguyên tử Ôxy và 2 nguyên tử Hyđrô kết hợp thành đơn chất H2O.

Các nguyên tử đều khác nhau tùy theo mỗi vật: nguyên tử đồng khác nguyên tử sắt; nguyên tử vàng khác nguyên tử gỗ…Những nguyên tử này ở rải rác khắp nơi trong vũ trụ, khi thì kết cấu với cái này, khi thì với cái khác làm thành sự biến hóa vật chất không ngừng trong thiên nhiên. Ta có thể ví các nguyên tử giống như 24 chữ cái a,b,c…hợp tan, tan hợp, làm thành các tiếng. Đến nay các nhà bác học đã xác định được 92 nguyên tử khác nhau.

Nguyên tử nhỏ lắm, nhỏ đến nỗi những kính hiển vi phóng đại mạnh nhất cũng không thể nhìn ra được. người ta chỉ căn cứ vào dấu vết nó đi qua để nhận biết sự hiện hữu của nó. Hiện nay những kính hiển vi tối tân nhất có thể nhìn những vât nhỏ bằng 2 phần 10 triệu milimét. Nhưng như thế vẫn còn lớn hơn nguyên tử hằng mấy triệu lần !

Mỗi nguyên tử là một thái dương hệ, có một nhân ở trung tâm giống như mặt trời, gồm các dương điện tử ( Proton ) và trung hòa tử ( Neutron ) liên kết với nhau. Lượn chung quanh nhân là chi chít những âm điện tử ( Electron ). Các âm điện tử này chạy chung quanh trung tâm với tốc độ 297.000 km/giây. Thật không khác gì các hành tinh lượn chung quanh mặt trời và cách xa nhau tương đối cũng bằng khoảng cách của các hành tinh đối với mặt trời vậy.

Khoảng giữa các nguyên tử, có gì không ? Thực không có gì hết. Nếu các nguyên tử sát lại với nhau thì ta không thể nâng nổi đầu của một cái kim khâu. Trọng lượng của các vật nặng nhẹ khác nhau là vì cách xếp đặt nguyên tử của các vật đều khác nhau. Nếu người ta có thể dồn ép các nhân dương điện tử trong một nguyên tử, và các nguyên tử trong thân thể con người khít lại gần nhau, thì thân thể ta chưa chắc to bằng một hột đậu, mà vẫn cân nặng như hiện nay !

Có một sức lực ghê gớm đã giữ cho trái đất và các hành tinh quay chung quanh mặt trời, thì cũng có một sức lực tương tự giữ âm điện tử quay chung quanh trung tâm nguyên tử như vậy. Nếu lợi dụng được sức mạnh mẽ đó, thì người ta sẽ có một sức mạnh kinh khủng. Đó là điều các nhà bác học đã làm để chế tác bom nguyên tử với chất Uranium. ( Bom nguyên tử là một thứ khí giới tối tân nhất có sức tàn phá do những hạt nguyên tử bị tách ra, Radium luôn luôn chiếu ra những quang tuyến “A.B.Y” và quang tuyến Y luôn luôn phát ra những chất cực nhỏ có thể xuyên qua những tấm sắt dầy 20cm. Chỉ có lớp chì dày mới có thể cản được sức tàn phá của nó ).

Những điều nói trên cho ta thấy có sự xếp đặt, an bài trật tự từ cái cực to đến cái cực nhỏ, trật tự ấy lại rất hoàn hảo không thể làm khác đi được. Nếu cố tình làm sai thì sẽ gây nên những hậu quả tai hại khôn lường.

Một câu chuyện xảy ra chứng minh trật tự thiên nhiên hoàn hảo đến độ nào: một con ong dù không có trí khôn, nhưng nó luôn phải bó buộc làm theo bản năng thúc đẩy. Theo bản năng thiên phú, khi làm tổ chứa mật, ong tự nhiên xây bình chứa hình lục lăng. Các nhà bác học đã quan sát nghiên cứu cách xây dựng tổ ong, và đã đo rất nhiều bình do nhiều loại ong thực hiện, bao giờ góc tù của bình ấy cũng là 109028’ và góc nhọn cũng là 70032’.

Nhà bác học REAMUR một ngày kia đặt câu hỏi thế này: Giả sử muốn làm một cái bình hình lục lăng có khả năng chứa nhiều nước nhất thì phải làm mỗi góc của bình ấy bao nhiêu độ ? Một nhà bác học ra công tính toán những con tính rắc rối với việc sử dụng cả bảng tính Logarithme, cuối cùng tuyên bố kết quả: muốn cho bình chứa được nhiều nước nhất phải làm góc tù là 109026’ và góc nhọn là 70034’. Chỉ sai biệt với bình chứa của ong làm có 2’.

Thế rồi một ngày nọ xảy ra tai nạn làm hỏng một chiếc tầu. Thuyền trưởng không chịu trách nhiệm và cho rằng mình đã làm đầy đủ bổn phận, đã tính toán rất đúng. Vậy sở dĩ có rủi ro là vì đường vĩ tuyến có sự sai lầm nào đó. Sau khi tìm tòi lâu ngày, người ta mới khám phá ra rằng trong bảng tính Logarithme có một chổ sai, khiến vị thuyền trưởng làm tính sai và gây ra tai nạn cho chiếc tầu. Chữa lại chỗ sai trong bảng tính rồi thử lại với cách tính 2 góc của hình lục lăng nói trên thì các nhà bác học mới thấy mình đã làm sai 2’. Phải thực hiện chiếc bình theo góc tù là 109028’ và góc nhọn cũng là 70032’ như con ong đã làm mới đúng.

Vậy loài ong không có trí khôn biết tính toán như con người, chỉ biết làm theo bản năng thiên phú, thế mà lại làm đúng hơn cả những nhà bác học thông minh nhất ! Đứng trước sự kiện hiển nhiên ấy, loài người phải đặt vấn đề: Cái trật tự hoàn hảo trong thiên nhiên nói trên do đâu nếu không bắt nguồn từ một trí khôn siêu việt, đã từng sáng tạo vạn vật và an bài theo một trật tự hoàn hảo được gọi là định luật thiên nhiên nơi vũ trụ và bản năng nơi các sinh vật. Nguyên nhân ấy chính là Thiên Chúa.

PHẦN B. SINH VẬT CHỨNG MINH CÓ THIÊN CHÚA:

Sự sống tràn đầy trên mặt đất, đâu đâu ta cũng nhận thấy có sinh vật hoạt động. Nhưng cho tới nay, sự sống vẫn còn là một huyền nhiệm mà khoa học bất lực không thể giải thích được lý do. Sự sống sẽ là một điều phi lý nếu người ta không công nhận có Thiên Chúa:

a. Huyền nhiệm của Sự Sống:

Sự sống là một cái gì đó huyền bí. Người ta chỉ có thể cảm nghiệm hay thấy được hiệu quả của sự sống, chứ không thể nhìn được chính sự sống nơi cơ thể một sinh vật sống động. Người ta cũng có thể làm thay hình đổi dạng, cắt cụt một phần cơ thể con vật, có thể làm cho nảy nở nhanh chóng hơn, hoặc kéo dài them chút ít sự sống, nhưng không bao giờ có thể thay đổi được nguyên lý của sự sống nơi con vật. Chẳng hạn: con chó đã được cấu tạo trở thành loài chó, thì không có cách nào làm cho nó hóa ra loài bồ câu được.

Để tìm hiểu sự sống, các nhà bác học đã phân chất một quả trứng gà, rồi dùng các chất y như vậy để làm nên một quả trứng gà khác với đầy đủ mọi tính chất như trứng gà thực. Tuy vậy, dù được cấu tạo giống hệt như nhau, mà khi đem cả hai vào máy ấp thì trứng gà đẻ ra thì sống và nở ra gà con, còn trứng gà của các nhà bác học “ đẻ” thì chết và bị hư thối. Sở dĩ trứng nhân tạo không thể sống, dù các yếu tố vật chất trong quả trứng ấy vẫn hoạt động đúng theo định luật vật lý hóa học, là vì không có một sức lực vô hình liên kết các hoạt động ấy theo một hướng chung, phát triển theo một mô thức chung. Chính sức lực vô hình ấy là bí mật của sự sống. Bác sĩ ALEXIS CARREL ( 1873 – 1944 ) là nhà giải phẫusinh vật học người Pháp đã được trao Giải Nobel Sinh Lý và Y khoa năm 1912, đã trình bày về sự tăng triển kỳ diệu của sự sống từ một tế bào, rồi tế bào ấy tự phát triển theo một mô thức đặc biệt để trở thành con vật sống động như sau:

“Con vật được cấu tạo bởi những tế bào, cũng giống như cái nhà được xây dựng bằng những viên gạch. Nhưng con vật xuất phát từ một tế bào duy nhất, như thể cái nhà chỉ bắt nguồn từ một viên gạch mà thôi. Một viên gạch đầu tiên tự tạo lấy những viên gạch khác, chỉ với nước suối, những chất muối hòa tan trong nước vá khí trời. Rồi những viên gạch ấy không cần đến kiến trúc sư vẽ kiểu, khong cần đến bàn tay của thợ hồ, đã tự động kết hợp thành những bức tường. Các viên gạch cũng tự động biến thành các tấm kính để làm cửa, ngói để lợp mái, than để đốt lò, nước để làm bếp.” ( Alexis Carrel: “L’Homme, cet inconnu” – P. 160 ).

Như vậy thì hình như mầm giống con vật sinh sống đã biết trước cái nhà mà nó xây dựng. Hiện tượng kỳ lạ ấy diễn ra hằng triệu lần mỗi ngày cho hằng triệu giống vật sinh sống, cũng như diễn ra âm thầm trong bụng những con vật mẹ.

Khi nhìn vào sinh vật thượng đẳng là con người chúng ta lại càng phải thán phục sự tinh vi kỳ diệu và hoàn hảo của sự sống: hai buồng phổi là một xưởng máy sản xuất dưỡng khí thật hoàn hảo. Dạ dày là một nhà máy chế biến đồ ăn trở thành chất bổ nuôi dưỡng cơ thể. Gan là bộ máy phát ra sức nóng và sức chuyển động. Thận là nhà máy lọc các chất dơ. Trái tim là thứ máy bơm hai chiều. Óc và hệ thần kinh là nhà máy điện tử với một hệ thống liên lạc để điều khiển toàn thân. Hai tay là hai cơ quan hành động hữu hiệu. Chân là cơ quan để di chuyển. Mắt là một thứ máy chụp tự động tối tân nhất. Tai là đài ra đa sống động. Họng là máy phát thanh hoàn hảo… Có thể nói: cơ thể sống động của con người thực là một hiện tượng thần kỳ và khó hiểu nhất trong vũ trụ thiên nhiên, là một kỳ quan lớn nhất trong các kỳ quan trên thế giới.

Vậy sự sống bí nhiệm lạ lung nơi các sinh vật từ hạ đẳng đến thượng đẳng nói trên bởi đâu xuất hiện ?

b. Nguồn gốc của sự sống:

Nói về nguồn gốc sự sống do đâu mà xuất hiện thì có rất nhiều giả thuyết khác nhau được nêu ra:

– Một số người quả quyết sự sống vẫn có ngay từ buổi đầu, ngay từ khi trái đất bắt đầu thành hình.

Nhưng theo các nhà khoa học thì trái đất khi mới xuất hiện là một khối lủa có nhiệt độ rất cao ở thể chảy lỏng rồi phải mất một thời gian dài mới nguội dần. Như vậy, sự sống làm sao có thể chịu nổi sức nóng kinh khủng thuở ban đầu ấy được ? Ông Cuvier, một nhà cổ sinh vật học trứ danh, đã quả quyết như sau: “Nhất định sự sống không bắt đầu cùng với trái đất. Một nhà quan sát sẽ dễ dàng nhận biết lúc nào sự sống mới xuất hiện và lưu lại vết tích dưới các tầng đất của địa cầu”. Vậy lúc đầu tiên không có mà ngày nay ta thấy sự sống đã tràn lan trên mặt đất. Thế thì sự sống ấy do đâu mà có nếu phủ nhận sụ sáng tạo của Thiên Chúa ?

– Có người lại cho rằng sự sống ngày nay có được là do các mầm sống từ một nơi nào đó trong vũ trụ rơi xuống mặt đất, rồi sau đó sinh sôi nảy nở thêm ra và lan rộng ra khắp nơi.

Nhưng nếu thực sự có mầm sống từ không trung rơi xuống như thế, thì lại phải giải thích cái mầm sống ấy từ đâu ra ? Hơn nữa, theo những khám phá mới nhất của khoa học không gian thì những hành tinh gần chúng ta như Mặt trăng ( cũng là một hành tinh ngang hàng với trái đất chứ không phải phát xuất từ trái đất ! ), Kim tinh, Hỏa tinh đều không có dấu hiệu nào cho thấy có sự sống cả. Đàng khác, nếu có mầm sống rơi như vậy, thì theo các nhà khoa học: mầm sống ấy chắc chắn không thể sống được, mà đã bị các tia phóng xạ của ánh sáng mặt trời tiêu diệt rồi.

– Cũng có người lại chủ trương sự sống tự nhiên mà có. Theo họ, trong một điều kiện nào đó về nhiệt độ và khí hậu… thì vật chất sẽ tự hóa sinh ra các sinh vật. Chẳng hạn: Cái bàn bằng gỗ sau thời gian ít năm sẽ tự nhiên bị mọt ăn, hoa quả thối chin sẽ tự nảy sinh ra dòi bọ…

Nhưng thuyết sự sống tự phát sinh này đã bị Pasteur và Tyndall chứng minh ngược lại. Hai nhà bác học thời danh này đã làm một thí nghiệm cho thấy: không bao giờ có sự tự hóa sinh. Hai ông đã cô lập hóa một vài môi trường mà sự sống thường phát sinh. Rồi tìm cách loại bỏ, giết chết tất cả các mầm sống có sẵn trong môi trường ấy. Hai ông cho biết: dù có đủ mọi điều kiện thích hợp, môi trường bị cô lập kia cũng không bao giờ tự hóa sinh sự sống nữa. Vậy sở dĩ có trường hợp vật chất hóa sinh sự sống là vì đã có sẵn mầm sống trong vật chất đó, nên khi đủ điều kiện nó liền tự nảy nở ra. Thực sự không có vấn đề ngẫu sinh hay tự hóa sinh cả.

Ngoài ra, tất cả những thí nghiệm nhằm tạo nên tế bào sống đều thất bại. Một vị giáo sư sinh vật học nọ một ngày kia đã thử làm một hạt giống nhân tạo. Ông phân chất một hạt giống thật, rồi dùng những chất liệu như vậy để chế tạo ra một hạt giống khác. Sau một thời gian quan sát, ông nhận xét: hạt giống nhân tạo cũng mọc lên, có rễ, có thân, nhưng vẫn không có sự sống, không thở, không lưu chuyển nhựa sống. Sở sĩ cây có mọc lên mà không sống là vì thiều hai đặc tính quan trọng của sự sống là : có tổ chức và tự dinh dưỡng. Còn sự mọc rễ, mọc thân nói trên cũng chỉ là một hiện tượng vật lý hóa học của các chất hữu cơ, chứ không có chút dấu vết nào của sự sống thực sự. Bác sĩ Halluin giải thích them về hiện tượng mọc rễ mọc thân như sau: “Hạt giống mọc lên thực nhưng núi đá cũng mọc lên mà vẫn không sống, cũng như một quả bóng người ta thổi hơi vào cũng phình ra mà vẫn không sống, thân cây rong biển khô, được đặt vào nơi ẩm ướt cũng phình lên to, nhưng sự phồng lên đó không phải dấu của sự sống.”

Nhà bác học Delage đã làm một thí nghiệm về sự thụ thai nhân tạo: ông cho một con hải đởm cái thụ thai mà không theo cách thức thông thường là giao hợp với con đực. Mượn lấy thí nghiệm ấy, một số người vô tín đã vội lên tiếng quả quyết: “Loài người đã tạo dựng lên được sự sống”. Nhưng chính Delage lại phủ nhận quả quyết mà người ta đã gán cho thí nghiệm của ông như sau: “Khi tôi làm được cho con hải đởm thụ thai và sinh con như thế, người ta kêu ầm ĩ lên rằng: tôi đã tạo ra được sự sống. Nhưng thực sự tôi chẳng tạo ra được gì cả. Những ống tiêm của tôi chỉ có thể ảnh hưởng đối với trứng của con vật kia, khi tiêm vào đó một chất hữu cơ. Còn nói rằng tôi đã tạo ra được sự sống thì thực là lầm to !”

Như vậy, không có vấn đề ngẫu sinh, không có tự hóa sinh tuyệt đối. Khoa học không thể làm được một vật sống động nếu không có sẵn một mầm sống trước đó. Nếu sự sống không tự nhiên có thì phải nhận có sự sáng tạo của một nguyên nhân tối hậu nào đó. Nguyên nhân ấy là Thiên Chúa. Chính Ngài đã sáng tạo sự sống cách trực tiếp hay gián tiếp bằng cách xếp đặt một trật tự, một định luật trong vật chất, để khi có đủ điều kiện thì mầm sống ấy sẽ xuất hiện.

Ngoài ra, khi tìm hiểu vũ trụ thiên nhiên, người ta cũng nhận ra rằng: có một sự xếp đặt nhằm bảo tồn sự sống nơi các định luật thiên nhiên chi phối sự vận hành của các hành tinh trong vũ trụ.

c. Bảo tồn sự sống:

Khoa học cho biết: sự sống chỉ có thể tồn tại và phát triển nếu hội đủ điều kiện về khí hậu, nhiệt độ, ánh sáng… Nếu thiếu một trong các điều kiện quan trọng thì sinh vật khó long sống được. thế mà khi quan sát các hiện tượng thiên nhiên, người ta lại đi kết luận chung như sau: Có một sự xếp đặt nào đó để bảo tồn sự sống trong vũ trụ. Thực vậy:

– Tốc độ quay của trái đất cũng giúp bảo tồn sự sống: Trái đất hiện đang quay với tốc độ 1600 km/giờ ở đường xích đạo. Nếu quay chậm đi 10 lần, thì ngày và đêm trên địa cầu sẽ dài gấp 10 lần hiện nay. Như vậy một số cây sẽ bị chết khô, số còn lại sẽ bị chết cóng.

– Khoảng cách giữa mặt trời và trái đất cũng giúp bảo tồn sự sống: Nhiệt độ của mặt trời là 5.500 độ. Trái đất cách quãng xa vừa đủ để cho chúng ta được sưởi ấm. Nếu giảm đi một nửa khoảng cách để xa mặt trời hơn thì mọi sinh vật sẽ chết vì lạnh. Nhưng nếu them một nửa khoảng cách để đến gần mặt trời hơn thì mọi vật sẽ bị chết cháy hết.

– Độ nghiêng của trái đất cũng giúp bảo tồn sự sống: Trái đất phải ở vị trí hiện nay, nghĩa là nghiêng 23 độ thì mới có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông và hai cực mới khỏi bị chồng chất băng tuyết. Nếu nghiêng ở vị trí khác thì mùa màng sẽ thay đổi khác hẳn, sẽ ảnh hưởng tới sự đâm chồi nảy lộc và đơm bông kết trái của cây cối.

– Khoảng cách giữa trái đất và mặt trăng cũng giúp bảo tồn sự sống: Nếu mặt trăng gần lại trái đất 80.000 cây số thì mỗi ngày nước biển sẽ bao phủ lục địa 2 lần và sẽ cuốn trôi mọi vật ra biển.

Như vậy, trước những lý chứng hiển nhiên nói trên, mọi người có trí khôn đều phải công nhận: phải có một trí khôn siêu việt và một bàn tay quyền năng nào đó đã tạo dựng nên sự sống cách trực tiếp hoặc gián tiếp, và đã an bài xếp đặt chúng có những điều kiện thiên nhiên hoàn hảo như hiện nay. Trí khôn siêu việt và bàn tay quyền năng ấy chính là Thiên Chúa sáng tạo vậy.

C. LUẬT LUÂN LÝ MINH CHỨNG CÓ THIÊN CHÚA:

a. Nơi mỗi người đều có luật luân lý:

Ai trong chúng ta cũng đều nghe thấy một tiếng nói thầm kín khuyên bảo phải làm điều lành và tránh làm điều ác. Đồng thời ta sẽ cảm thấy niềm vui thỏa sau khi thực hiện được một điều thiện, trái lại sẽ cảm thấy ray rứt bất an nếu cố tình làm trái tiếng nói thầm kín ấy. Đó là tiếng nói của lương tâm, một luật tự nhiên vẫn có sẵn trong tâm trí mỗi người từ khi sinh ra.

Luật tự nhiên này có những đặc tính khác hẳn những định luật vật lý hóa học, hoặc luật lệ xã hội như phong tục tập quán hoặc luật pháp của quốc gia.

+ Luật lý hóa một khi đủ điều kiện thì đương nhiên phải xảy ra. Chẳng hạn: lửa gặp rơm khô ngoài khí trời tất nhiên sẽ phải cháy. Còn luật luân lý thì không những lệ thuộc điều kiện khách quan bên ngoài, nhưng còn lệ thuộc vào sự lựa chọn chủ quan. Chinh do sự lựa chọn tự do này mà con người trở thành một loài vật giá trị ưu việt nhất, khác hẳn các loài vật hành động hoàn toàn do bản năng mù quáng thúc đẩy. Văn hào Chateaubriand đã nói: “Con hổ xâu xé con mồi rồi ngủ ngay được. Duy chỉ có con người, sau khi đã nhúng máu thì khó lòng nhắm mắt bình an, vì những hình ảnh báo oán của kẻ bị hại luôn hiện lên trước mắt y.

+ Luật xã hội do con người trong xã hội quy định gọi là phong tục tập quán. Luật pháp quốc gia do một số người đại diện có trách nhiệm thiết lập nên và được ghi chép lại thành văn để mọi người trong quốc gia ấy tuân giữ. Trong khi luật luân lý vẫn có sẵn trong mỗi người từ khi sinh ra, chứ không nhất thiết phải có ai dạy mới biết, không được ghi chép thành văn giống như luật quốc gia ở trên. Thế mà hầu như mọi người không phân biệt thời đại, dân tộc, quốc gia… cũng đều biết cùng một bộ luật căn bản giống nhau là: phải làm việc lành và tránh làm điều ác, không được giết người vô tội, không được ăn cắp hoặc cướp đoạt tài sản của người khác cách bất công, phải thảo hiếu cha mẹ, trọng kính người trên v.v… Mà nếu cố tình làm trái các điều trên thì đương nhiên con người sẽ bị lương tâm cáo trách, cho dù các việc làm ấy không ai hay biết. Câu chuyện Cain trong Thánh Kinh chứng tỏ điều đó.

Cain vì ghen tuông nên đã phạm tội giết đứa em ruột là Aben, rồi sau đó đã chạy trốn con mắt lương tâm theo dõi nhưng không sao chạy thoát. Cuối cùng Cain đã phải tự tìm đến cái chết treo cổ để đền tội. Nhà văn hào Plutarque người Hy Lạp cũng kể câu chuyện nội dung như sau: Một gã kia tên là Pessus phạm tội giết cha. Dù không ai hay biết việc làm của hắn, nhưng có điều lạ là từ hôm đó, Pessus luôn nghe thấy những con chim én lặp đi lặp lại: “Mày là thằng giết cha, mày là thằng giết cha !” dù thực sự loài én chỉ biết kêu một âm thanh như thường lệ. Hắn tìm cách phá hết mọi tổ én, nhưng vẫn không xong. Cuối cùng hắn đã buột miệng nói với người khác rằng những con chim én luôn kêu hắn là kẻ giết cha. Sinh nghi, người ta mở cuộc điều tra và việc giết cha của hắn đã bị đưa ra ánh sáng.

b. Tiếng lương tâm hay luật luân lý trong con người:

Các câu chuyện trên cho thấy có một thứ luật luân lý tự nhiên gọi là tiếng lương tâm, chi phối mọi hành động của con người có trí khôn, thuộc mọi thời đại, mọi dân tộc, màu da, tiếng nói… Vậy luật ấy do đâu mà có ?

Nguồn gốc của luật luân lý nơi con người: Có một số người nói rằng luật luân lý tự nhiên nơi mỗi người là do tự mình đặt ra cho mình, hoăc cũng có thể do xã hội giáo dục từ nhỏ rồi nhập tâm dần dần mà ra. Nhưng khi đi sâu vào việc nghiên cứu tìm hiểu, chúng ta thấy không phải như vậy vì những lý do như sau:

Lương tâm mỗi người không phải tự mình đặt ra: Vì nếu mỗi người tự đặt ra luật cho mình thì chắc người ta sẽ phải đặt ra những luật dễ giữ và có lợi cho bản thân, đồng thời sẽ loại bỏ những luật có hại cho bản thân mình. Nhưng luật luân lý có những đặc tính khác hẳn: khó giữ vì không luôn phù hợp với khuynh hướng xấu của con người, nên chắc không phải do tự mỗi người đặt ra cho mình. Đàng khác, nếu mỗi người đều tự lập ra luật riêng cho mình thì chắc luật luân lý sẽ phải khác nhau chứ không thống nhất giống nhau như ta thấy trong luật luân lý nơi con người được.

Luật luân lý cũng không phải do xã hội giáo dục, khuôn đúc hình thành dần dần trong tâm hồn mỗi người từ nhỏ đến lớn vì:

+ Xã hội là do nhiều cá nhân kết hợp lại thành. Nếu luật luân lý do xã hội giáo dục thì chỉ những ai sống trong cùng một xã hội mới hiểu biết và mới giữ luật ấy. Nhưng trong thực tế có những người sống một mình từ nhỏ tới lớn, không tiếp xúc, cũng không chịu ảnh hưởng của xã hội, thế mà họ vẫn biết cùng một thứ luật luân lý như nhau. Như vậy, luật luân lý tự nhiên chắc chắn không phải do xã hội, cũng không bắt nguồn từ xã hội.

+ Đàng khác, nếu luật luân lý bắt nguồn từ xã hội thì chắc sẽ phải thay đổi tùy theo mỗi xã hội, chứ không thể có tính đồng nhất trong mọi xã hội như tiếng nói của lương tâm mỗi người được.

Vậy phải đi đến kết luận: luật luân lý tự nhiên có sẵn trong tâm hồn mỗi người ngay từ khi mới sinh ra, chứ không phải mỗi người tự đặt ra luật riêng cho mình; Cũng không phải do xã hội khuôn đúc giáo dục hình thành. Cha mẹ, thầy dạy hay xã hội chỉ đóng vai trò phụ thuộc, giúp cho luật ấy phát triển mau lẹ và rõ ràng hơn trong tâm hồn đứa trẻ mà thôi. Luật luân lý tự nhiên ấy phải do Tạo Hóa in sẵn trong tâm hồn con người có lý trí, tương tự như một thứ bản năng của thân xác. Đấng ấy chính là Thiên Chúa. Giám Mục Jacques Bénigne Bossuet đã nói: “Những chân lý vĩnh cửu và bất biến của luật luân lý bó buộc ta phải công nhận có một Đấng mà chân lý vĩnh cửu luôn tồn tại nơi Ngài.”

D. NHỮNG VIỆC LẠ LÙNG MINH CHỨNG CÓ THIÊN CHÚA:

Ngay trong thế kỷ 21, thế kỷ khoa học tiến bộ vượt bậc trong việc tìm hiểu và khám phá những định luật chi phối vũ trụ thiên nhiên, chi phối mọi sinh vật, động vật kể cả con người… Thế mà vẫn không thiếu những trường hợp lạ lùng trái ngược luật tự nhiên xảy ra khắp nơi: khỏi bệnh nan y một cách tức khắc không do sự chữa trị thông thường, mà do một thứ quyền lực thiêng liêng nào đó ngoài tầm hiểu biết của khoa học. Những hiện tượng xáo trộn trật tự vũ trụ như mặt trời quay ở Fatima Bồ Đào Nha vào đầu thế kỷ 20 ( năm 1917 ) đã được hằng vạn người chứng kiến v.v… Tất cả những hiện tượng ấy gọi chung là các phép lạ.

a. Có phép lạ thực hay chỉ là bịa đặt:

Từ 11 tháng 2 đến 16.7.1858, Đức Mẹ đã hiện ra 18 lần với Bernadette Soubirous. Lần thứ 9, Đức Mẹ chỉ cho Bernadette tìm được nguồn suối dưới chân hang đá Massabielle. Nơi đây trở thành Linh Địa, mỗi năm có hơn 6 triệu khách hành hương uống và tắm trong nước suối. Từ 150 năm nay có 7 ngàn trường hợp khỏi bệnh không thể cắt nghĩa được.

Vào trung tuần tháng 10, mưa hồng ân đổ xuống Lộ Đức ( Lourdes ). Vị Giám Mục Giáo Phận Casale Monferrato ở miền bắc nước Ý chính thức công bố quyết định công nhận phép lạ thứ 68.

Đức Cha Nicolas Brouwet, Giám Mục Lộ Đức đã tuyên đọc sắc lệnh công nhận, với sự chứng kiến của bác sĩ Alessandro de Franciscis, chủ tịch Văn Phòng Y Chứng Lộ Đức ( BCM ). Phép lạ chữa lành cho Nữ Tu Luigina Travetrso được ghi nhận vào ngày 23.7.1965.

Sœur Luigina Traverso sinh năm 1934, bị liệt cột sống. Vị Nữ Tu này chịu giải phẫu nhiều lần vẫn không khỏi. Ủy Ban Y Khoa Quốc Tế Lộ Đức ( CMIL ) đã chứng thực ngày 23.7.1965, trước hang đá Lộ Đức, vị Nữ Tu này đứng dậy được từ xe lăn, đi đứng bình thường. Đây là phép lạ thứ 68 được chính thức công nhận.

Đức Mẹ đã phán bảo: ‘‘Các con hãy đến uống và tắm nước suối.’’ Từ đó, nhiều người được khỏi bệnh. Năm 1884, Giáo Hội Công Giáo thành lập Văn Phòng Y Chứng để xem xét các lời khai. Sau khi được văn phòng này chấp nhận, hồ sơ được chuyển qua Văn Phòng Y Khoa Quốc Tế. Sau đó, Giáo Phận của người được lành bệnh chính thức mở cuộc điều tra. Nữ Tu Luigina Traverso là trường hợp thứ 68 được công nhận được khỏi bệnh nhờ phép lạ.

Thành viên của Văn Phòng Y Chứng và Văn Phòng Y Khoa Quốc Tế gồm cả những những bác sĩ không Công Giáo. Các chuyên gia cần chứng nhận trường hợp khỏi bệnh không thể giải thích được bằng khoa học. Các tiêu chuẩn xét nghiệm gồm việc:

– Người bệnh được chẩn đoán một cách minh bạch;

– Bệnh trạng đã được xác nhận trước khi xảy ra phép lạ;

– Người bệnh được hoàn toàn lành bệnh tức khắc và vĩnh viễn, sau này không bị tái phát;

– Việc trị liệu y khoa không phải là nguyên nhân được chữa lành bệnh.

Văn phòng bác bỏ nhiều lời khai không đáp ứng được các tiêu chuẩn vừa kể.

Sau đây là số liệu các phép lạ Đức Mẹ Lộ Đức: 1858 – 1870: 7 trường hợp; 1908 – 1913: 33; 1946 – 1965: 22; 1976 – 1978: 2; 1989: 1; 1999: 1; 2005: 1; 2011: 1.

Ngoài phòng khám bệnh khoa học của các bác sĩ, vào năm 1905, Hội Đồng Giám Mục cũng đã thành lập một ủy ban điều tra chính thức của Giáo Quyền nhằm phân quyết những trường hợp nào là phép lạ, trường hợp nào là không. Ủy ban làm việc môt cách cẩn thận và vô tư theo cách thức của một tòa án. Những trường hợp được tuyên bố là phép lạ thì không thể hồ nghi gì được nữa. Từ năm 1905 đến 1913, ủy ban này đã công bố 32 phép lạ thực.

Như vây, phòng khám nghiệm của các y sĩ cũng như ủy ban các Giám Mục đều đã xác nhận tại Lộ Đức đã có những trường hợp khỏi bệnh cách lạ lùng. Trong tạp chí Études ấn hành năm 1909, Linh Mục Teilhard de Chardin đã đưa ra quan điểm của Giáo Hội về phép lạ Lộ Đức như sau: ‘‘Các phép lạ Lộ Đức là các sự kiện không thể chối cãi được, chứng minh tác động sáng tạo của Thiên Chúa.’’ ( nguồn: Vietcatholic news ).

b. Phép lạ bởi đâu ?

Những người không tin có Thiên Chúa khi đứng trước những trường hợp lạ lùng khoa học không thể giải thích được, đã đem ra rất nhiều lý lẽ để phủ nhận sự can thiệp của Thiên Chúa như sau:

– Khỏi bệnh vì nguyên nhân tự nhiên: Vì trong nước suối ở hang Lộ Đức có pha lẫn một thứ chất hóa học có năng lực chữa được một số bệnh tật.

Nhưng thực sự, khi đem phân chất thì kết quả cho thấy nước suối ấy cũng chỉ là một thứ nước lã bình thường như bao thứ nước khác, không có thêm một chất nào khác có thể chữa bệnh cả. Đàng khác, có nhiều trường hợp bệnh nhân không xuống đến nước, cũng không uống chút nước ấy, thì bảo khỏi bệnh tại nước thế nào được ?

– Khỏi bệnh là vì lý do tâm lý: Vì quá tin và muốn được khỏi cách mãnh liệt, nên đã ám thị mình đến độ trở thành sự thực.

Nhưng nếu tin tưởng và ám thị có thể chữa được bệnh, thì nếu muốn được khỏi, bệnh nhân trước hết đã phải biết tin, biết ám thị. Thế mà có nhiều trường hợp trẻ con chưa có trí khôn, chưa biết gì hết mà vẫn được khỏi nhờ lời cầu nguyện của cha mẹ hay người khác, thì khỏi bệnh đâu phải tại tin hay tại ám thị. Thực ra, ám thị cũng có thể có đôi chút ảnh hưởng đến một vài thứ bệnh tâm lý, đau thần kinh, điên loạn, chứ không có thể chữa được các bệnh do vi trùng hay siêu vi trùng gây ra như: Bệnh phong cùi, ung thư, thổ huyết, lao phổi…

– Khỏi bệnh là vì quy luật tự nhiên: do ảnh hưởng của một thứ quy luật tự nhiên bí mật nào đó chi phối mà người ta chưa khám phá ra:

Nhưng nếu vậy thì luật ấy phải có tác dụng điều hòa, đồng nhất, bất di dịch, cho dù người ta có biết hay không biết thì luật đó vẫn tác dụng. Hễ cứ hội đủ điều kiện khách quan là đương nhiên kết quả phải xảy ra. Chẳng hạn, người mù trước làm thế nào để được khỏi mù thì các người sau cứ làm đúng như thế sẽ đương nhiên được sáng mắt. Nhưng ở Lộ Đức ( Lourdes ) thì tình trạng lại khác hẳn: Có người được khỏi khi tắm, người khác thì khỏi khi đang cầu nguyện vào những thời gian khác nhau trong ngày: sáng, trưa, chiều, tối… Ở điều kiện nào cũng có người được khỏi. Có những trường hợp hai người bệnh cùng trong một hoàn cảnh, cùng một thứ bệnh giống nhau, mà người thì được khỏi, người thì không. Như vậy, không thể nói có một luật bí mật được.

– Khỏi bệnh do có sự lừa dối nào đó: cần phải chờ sự phán quyết của các nhà bác học hoàn toàn vô tư.

Alexis Carrel ( Ảnh kèm theo ), một vị tiến sĩ y khoa, giáo sư giải phẫu học tại Đại Học Lyon Pháp, trước khi đi Lộ Đức quan sát tận nơi cũng đã nghĩ như vậy. Ông cho rằng: có lẽ các nhà khoa học chưa khám nghiệm kỹ đủ, có thể còn một vài sơ suất chưa cân nhắc tường tận. Theo Carrel: Ngoài những sự kiện khoa học tìm ra và kiểm chứng rõ ràng thì không còn chân lý nào khác có giá trị. Không thể có phép lạ được ! Nhưng trước sự khỏi bệnh lạ thường của Marie Ferrand, một cô gái đang hấp hối vì bệnh lao ruột ở giai đoạn chót mà các bác sĩ đều từ chối không dám mổ cho cô, mà Carrel đã chứng kiến tận mắt từ khi cô gái này mới đến Lộ Đức cho tới lúc khỏi bệnh tức khắc mà không thể cắt nghĩa được. Ông đã chịu khuất phục và ghi chú trong nhật ký: “Thật là một chuyện không có thể, nhưng có thực. Quả là bất ngờ: một phép lạ vừa mới xảy ra.” Ngay lúc đó không còn tin ở mình, Carrel lập tức mời hai bác sĩ bạn ông tới chứng kiến và các ông này cũng đều chứng nhận: “Cô này không còn bệnh gì hết, cho cô ra khỏi nhà thương.”

Việc bác sĩ vô thần Carrel thay đổi tâm hướng đã nói lên một sự thật mà con người dù yêu sách đến đâu cũng phải suy nghĩ: Quả thật, có Đấng Tạo Hóa, có Thiên Chúa. Ngài là Đấng đã thiết lập trật tự trong vũ trụ thiên nhiên, thì trong môt vài trường hợp đặc biệt, Ngài cũng có thể để xảy ra ngoài trật tự ấy. Đó chính là phép lạ vậy.

TÓM LẠI:

Trước những trật tự lạ lùng trong vũ trụ thiên nhiên, trước việc sự sống tràn đầy trên mặt đất, trước những luật luân lý in sâu trong tâm hồn mỗi người, trước những phép lạ mà khoa học đành bất lực không thể tìm ra lời giải thích hợp lý… Chúng ta phải công nhận có ĐẤNG TẠO HÓA; CÓ THIÊN CHÚA SÁNG TẠO. Chính Ngài đã tạo dựng nên vũ trụ và đã an bài chúng theo một trật tự chung mà khoa học gọi là định luật thiên nhiên. Chính Ngài là nguồn gốc của sự sống, đã tạo thành mọi sinh vật từ thấp kém đến cao quý nhất, và đã phú cho chúng những bản năng riêng để tự phát sinh và tồn tại. Cũng chính Ngài là tác giả của bộ luật luân lý tự nhiên in sẵn trong tâm trí con người từ khi sinh ra. Sau cùng, Ngài còn là tác nhân của những trường hợp đặc biệt xảy ra ngoài trật tự tự nhiên mà khoa học không thể giải thích được.

Như vậy, tuy khoa học không thể chứng minh có Thiên Chúa một cách trực tiếp vì ngoài phạm vi nghiên cứu của nó, nhưng khoa học vẫn có thể góp phần quan trọng trong việc tỏ rõ kỳ công của Ngài. Chính nhờ những hiểu biết rõ ràng chính xác do khoa học đem lại, con người dễ dàng sử dụng trí khôn suy luận để nhận ra có bàn tay quyền năng, có trí khôn siêu việt đã xếp đặt và tạo dựng nên vũ trụ vạn vật. Bàn tay và trí khôn ấy là của Thiên Chúa Tạo Hóa.

Newton, một nhà thiên văn học lừng danh đã dám mạnh dạn lên tiếng quả quyết: “Tôi đã nhìn thấy Thiên Chúa ở đầu thiên lý kính của tôi”. P. Termier cũng cho biết: “Mọi khoa học đều chuẩn bị trí khôn ta nhận biết Thiên Chúa hiện hữu. Hơn mọi người khác, nhà bác học dù chuyên về khoa nào cũng thế, bao giờ cũng dễ dàng nhận thấy mọi vật đều biến chuyển, hỗn hợp, khuyết điểm… có cùng đích và rất phức tạp. Do đó, nhà khoa học sẽ dễ dàng có y tưởng về một Đấng Tạo Hóa bất biến, tự hữu, đơn thuần, hoàn hảo, và là Đấng duy nhất an bài mọi sự. Chính vì thế người ta bảo: KHOA HỌC DẪN ĐẾN THIÊN CHÚA. VŨ TRỤ VẬT CHẤT CHÍNH LÀ BÍ TÍCH CỦA THIÊN CHÚA”.

3. THẢO LUẬN:

– Bạn có nên tranh cãi với người vô tín về sự hiện hữu của Thiên Chúa không ? Tại sao ?

– Bạn nên làm gì khi có người yêu cầu trình bày Giáo Lý về sự hiện hữu của Thiên Chúa để giúp họ thêm xác tín vào quyền năng của Ngài ?

4. NGUYỆN CẦU:

Lạy Thiên Chúa Cha Toàn Năng, Đấng tạo thành trời đất. Xin cho chúng con thêm xác tín vê sự hiện hữu cua Chúa trong vũ trụ thiên nhiên va nơi mỗi chúng con. Xin cho chúng con năng cầu xin Chúa ban thêm Đức Tin, giống như người cha có đứa con bị quỷ câm ám đã thưa với Đức Giêsu: “Tôi tin ! Nhưng xin Thầy trợ giúp lòng tin yếu kém của tôi” ( Mc 9, 24 ).

Lm. ĐAN VINH, Hiệp Hội Thánh Mẫu

PHỤ CHÚ:

NĂM ĐƯỜNG LỐI CHỨNG MINH CÓ THIÊN CHÚA
CỦA THÁNH TÔMA TIẾN SĨ

Thánh Thomas d’ Aquin ( 1225 – 1274 ), một vị tiến sĩ Thần Học rất nổi tiếng thời Trung Cổ đã đề ra 5 đường lối chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa như sau:

1. Sự chuyển động của vũ trụ chứng minh có Thiên Chúa:

Bất cứ một vật nào đang chuyển động cũng phải lệ thuộc vào một động lực khác. Chẳng hạn: một chiếc xe đang chạy là do người tài xế đã rồ máy và điều khiển tay lái, một viên đạn bay ra khỏi nòng súng, một nồi nước đang sôi lên sung sục là do tác dụng của lửa làm nóng nước lên. Vậy thì khi nhìn vào vũ trụ, ta thấy có sự chuyển động của các hành tinh, thì cũng phải có một động lực nào đó đã ảnh hưởng tới và làm cho chúng xoay vần di chuyển trong không gian. Động lực ấy chính là Thiên Chúa.

2. Luật nhân quả chứng minh có Thiên Chúa:

Nhìn vào vũ trụ vật chất, ta nhận thấy có sự liên hệ mật thiết giữa vật này với vật kia, vật có sau lệ thuộc vào một nguyên nhân có trước. Chẳng hạn: có khói là đã phải có lửa, có con là đã phải có cha mẹ… Nếu cứ suy luận lên mãi thì cuối cùng phải đi đến một nguyên nhân tự mình hiện hữu, không bị lệ thuộc vào một nguyên nhân nào khác mới hợp lý. Nguyên nhân tự hữu ấy là Thiên Chúa.

3. Sự sắp xếp trật tự minh chứng có Thiên Chúa:

Kinh nghiệm cho ta biết: sự may rủi bao giờ cũng đi đôi với vô trật tự và hỗn độn. Chẳng hạn: Lấy 24 chữ cái A B C D… viết vào các mảnh giấy rồi bỏ trong một chiếc hộp, sau đó lắc hộp và đổ các mảnh giấy ra. Không bao giờ bạn đạt được thứ tự như cũ: A B C D… Trái lại, bất cứ vật gì ta thấy được xếp đặt trâ\ật tự thì đều là kết quả của một trí khôn nào đó. Chẳng hạn: nhìn xem một vườn cây ăn trái được sắp đặt thứ tự, cây cối tùy loại mọc ngay hàng thẳng lối… ta quả quyết đã phải có một trí khôn làm chủ vườn cây ấy. Cũng vậy, khi quan sát vũ trụ thiên nhiên, ai ai cũng thấy có sự xếp đặt kỳ diệu từ cái cực to là các hành tinh, đến cái cực nhỏ như nguyên tử; Từ sự sống thấp nơi thảo mộc cây cối đến sự sống phức tạp, trổi vượt nhất nơi loài người… Từ đó, họ sẽ đi đến kết luận: Phải có một Đấng nào đó toàn năng siêu việt… đã an bài cho vạn vật hình thành và phát triển hài hòa trật tự. Đấng toàn năng ấy chính là Thiên Chúa.

4. Bậc thang giá trị nơi vạn vật minh chứng có Thiên Chúa:

Khi quan sát vạn vật trong vũ trụ ta thấy chúng có những bậc thang giá trị khác nhau: Có vật thì không mấy thẩm mỹ, có vật lại rất mỹ miều và đáng yêu, có vật ít hữu ích nhưng cũng có vật lại ích lợi rất nhiều, có vật lại tầm thường, nhưng cũng có những vật thật là cao quý… từ đó, ta suy ra: phải có một vị nào đó có mọi điều tốt đẹp, cao quý nhât… làm tiêu chuẩn cho vạn vật trong vũ trụ hữu hạn này. Đấng tuyệt đối ấy chính là Thiên Chúa.

5. Cứu cánh của vạn vật minh chứng có Thiên Chúa:

Cứu cánh nghĩa là cùng đích, là mục đích chính yếu cuối cùng tuyệt đối. Mỗi người chúng ta đều tự nhiên cảm thấy có ước muốn, khát vọng vô bờ bến. Không một sự gì đã đạt đươc lại có thể làm ta thỏa mãn và đem lại cho ta hạnh phúc hoàn toàn. Do đó, bên trên mọi điều mong ước, về vật chất cũng như tinh thần, ta ước muốn một điều gì bền bỉ, hoàn hảo, vĩnh viễn… Sự hoàn hảo tuyệt đối mà con người mong muốn đạt tới ấy gọi là cứu cánh của con người. Cứu cánh ấy không thể có trong vạn vật ở trần gian mà chỉ có được ở nơi Thiên Chúa. Chính sự khát vọng tuyệt đối, sự hướng về cứu cánh tuyệt đối ấy là bằng chứng cho thấy có Thiên Chúa. Thánh Augustin nói: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng lên con hướng về Chúa, nên tâm hồn con luôn xao xuyến mãi cho tới khi nào con được nghỉ yên trong Chúa”.

TÓM LẠI:

Với trí khôn suy luận từ sự vận chuyển của các vật bị động đến một động lực không bị động; Từ các vật không thể tự mình mà có đến một Đấng Tự Hữu; Từ sự trật tự của vũ trụ đến một trí khôn toàn năng đã an bài xếp đặt; Từ các bậc thang giá trị của vạn vật đến một giá trị tuyệt đối vô hạn; Từ sự mong ước tuyệt đối đến một Đấng là Cứu Cánh mà vạn vật hướng về

Tất cả đã chứng minh cho chúng ta một điều không thể chối cãi được. Đó là: vũ trụ vạn vật đã do Thiên Chúa tạo dựng nên. Nhưng Thiên Chúa ở đây vẫn chỉ là một vị Thiên Chúa trừu tượng, xa xôi, không có liên hệ bao nhiêu với mỗi người chúng ta. Đây là Thiên Chúa của các triết gia mà thôi. Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là một Thiên Chúa của tình thương, liên hệ chặt chẽ với loài người và đã bày tỏ bản tính của Ngài qua các tổ phụ, các tiên tri Cựu Ước, và qua chính Con Một Ngài là Đức Giêsu Kitô thời Tân Ước.

Tất cả những điều Thiên Chúa mặc khải ấy đã được chép lại thành môt bộ sách gọi là Thánh Kinh. Do đó, ngoài việc dùng lý trí suy luận để biết có Thiên Chúa, con người còn có bổn phận phải tìm hiểu học hỏi Thánh Kinh để biết Chúa là ai, nhờ đó sẽ tỏ lòng biết ơn bằng cách tôn thờ, cảm tạ, yêu mến, cầu xin và vâng Lời Ngài.

Cảm tưởng Ngày Thánh Mẫu 2013 tại Carthage,MO. USA

Bách Việt
8/13/2013

Đoàn hành hương của chúng tôi khởi hành hành từ Nhà thờ giáo Xứ Lavang,Houston,TX, trực chỉ Carthage MO dự Ngày Thánh Mẫu tại chi dòng Đức Mẹ Đồng Công, Carthage MO. lúc 6 giờ sáng

ngày thứ năm mùng 8/8/2013 và đã tới nhà dòng lúc 5:45 PM cùng ngày, để kịp khai mạc Ngày Thánh mẫu lúc 7:00PM.

Chủ đề Ngày Thánh mẫu năm nay:

PHÚC CHO BÀ LÀ KẺ ĐÃ TIN (Lc 1:45)

và nhân dịp

*Giáo Hội Cử Hành Năm Đức Tin

*Kỷ Niệm 25 năm Các Thánh Tử Đạo VN được Phong Thánh

*Mừng Kỷ Niện 60 năm Thành Lập Dòng Đồng Công

Chuyến hành hương của chúng tôi gồm 2 xe Bus (1 to,1 nhỏ) khởi hành và đi về cùng lúc do hội Knight of Columbus của giáo xứ Đức Mẹ Lavang,Houston,TX tổ chức. Trong chuyến xe Bus của tôi do chị Ngọc Oanh( in charge) Gồm có 55 chổ ngồi, trong số hành khách có 1 Linh Mục và 5 sisters (diện du lịch và du học từ VN), làm chuyến hành huơng của chúng tôi, thêm nhiều hứng khởi và thích thú.

trên đường trở về từ NTM hôm Chúa Nhật 11 tháng 8,2013 đoàn hành hương chúng tôi ghé qua chỗ xe bus hành hương MO bị lật kỳ 8/2008 để cầu nguyện cho 17 nạn nhân và gia đình nạn nhân. trong chuyến hành hương này 1 cô con gái của 1 nan nhân cũng đi NTM để chủ ý cầu cho bố.

trên đường đi hành hương chúng tôi cùng đọc kinh văn côi, Chúa tình thương, chia sẻ cảm nghiệm, kể những câu chuyên tiếu lâm, văn nghệ… làm cho cuộc hành trình hình như chóng hơn và thêm nhiều kỷ niệm. chúng tôi cũng nhắc nhở nhau cùng cầu nghuện cho các nạn nhân vụ xe Bus Hành hương NTM, MO kỳ 8/2008 làm cho 17 người hành hương tử nạn và rất nhiều người bị thương…cũng khởi hành từ Houston,TX.

Năm nay khí hậu tại NTM Carthage MO trong nhửng ngày hành hương thật tốt đẹp, trời cũng đe dọa mưa, nhưng không có mưa to chỉ mưa lất phất 1 tý, làm cho khí hậu perfect, ban đêm thì phải đắp chăn,nên mọi chương trình ngày Thánh mẫu được thi hành đầy đủ.xố người tham dự NTM năm nay thật là đông đảo, tôi đến đất nhà dòng vào ngày chiều thứ năm mà đã đầy up các tents, lều, xe cộ khắp nơi, tới thứ Bảy thì còn kinh khủng hơn nữa, nhất là lúc kiệu Tượng Đức Mẹ Fatima, ước tính khoảng 60-70 chục ngàn người. các cha đồng tế có tới hơn 2 trăm cha, các tu sỉ, nữ tu thì cũng khá nhiều. Có rất nhiều người muốn đi rước kiệu với cộng đoàn của mình, nhưng không thể tìm tới nơi được vì số người tham gia qúa đông. chật cứng không thể di chuyển.

Năm nay nhà dòng xây dựng thêm 2 mái che bên cạch lể đài chính nên trông rất là vỉ đại và hoành tráng,nếu có bị mưa thì cha cụ, các sisters, Brothers, ca đoàn củng không bị ướt, và các cha đồng tế không phải mặc “bao rác” che mưa như những năm bị mưa trước đây!

Các bài giảng, hội thảo rất là nhiều và hay,gồm hai ngôn ngữ hợp cho các lứa tuổi, do các giảng thuyết viên nổi tiếng, kinh nghiệm như cha Vũ thế Toàn,cha Hy,Nguyển Đình Thắng, lại còn buổi thuyết trình về cuộc tiến trình phong thánh cho cha Bửu Diệp do cha Trần thế Tuyên, cũng là cáo thỉnh viên cho việc vận động này, sau đó ngài cho biếu không, T, shrit, dvd, book về cha Bửu Diêp, hy vọng kết qủa sẻ được trong ngày rất gần.

Riêng tôi tòi còn nhớ hai bài giảng rất hay và cảm động: truyền giáo của cha Nguyển hải Dương ngày lể sáng thứ Sáu và bài giảng hạnh phúc thay cho nhửng ai và dân tộc nào có, và sống Đức Tin như guơng Đức Mẹ… ngày thứ Bảy trong Thánh lễ Đại trào của cha Hy.

trong những NTM này có 4 Đức Cha Tham dự:

4 Đức Cha: 2 Đức Cha Mỹ Và 1 Đức Cha VN đến từ Địa phận Quy Nhơn(Nguyễn văn Khôi) và 1 từ Canada(Đức Cha (Nguyên Mạnh Hiếu).

còn văn nghệ và sổ số gồm rất nhiều mục vũ, hài kịch rất đẹp và hay của các cộng đoàn, cả băng các ca sĩ nổi tiếng, ái mộ từ Paris By Night trình diễn,góp vui.

Các quán ăn thì đông nghẹt người là người, nhất là quán Đồng Hành,( Arlington,TX. lúc nào đầy người, chắc là hốt bạc! vì quán này nhiều món ăn hấp dẩn, nóng và nhiều người phục vụ. còn qún bán đá của truyền thanh tin mừng từ CA có lẽ đói vì khí hậu qúa mát mẻ, nên đá(ice) không bán được là bao, tội nghiệp,tội nghiệp.

trong những ngày hành hương, tôi nhiều lần phải rơi lệ, cầu khẩn xin Chúa và Đức Mẹ cho tôi 1 đức Tin mạnh mẽ, biết tin tưởng,phó thác vào Chúa Mẹ dù trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc đời.

Tôi rất cảm phục vì thấy các thành phần tham dự: người lớn, cụ già, con nit, hay choai choai, cùng tới đây tham dự ngày Thánh Mẫu, có người tới đây lái xe tới 24 giờ, họ từ Boston,Canada, hay ngay cả âu châu,Úc châu,VN. Ai ai cũng hớn hở,cười,nói. Họ tới đây, đất Mẹ vì nhiều lý do, có kẻ để gặp gỡ bạn bè,học hỏi, và tăng thêm cho đời sống tinh thần, đức tin,sống đạo có kẻ để cầu khấn, vui chơi hay bất cứ vì lý do gì, tôi cũng rất là cảm phục.

Bách Việt