Thánh Giáo Hoàng Lêô III

Thánh Giáo Hoàng Lêô III

  12 Tháng Sáu

 Sinh ở Rôma, nước Ý, Ðức Lêô là người thủ kho của tòa thánh và là linh mục trưởng ở Santa Suzanna khi ngài được chọn làm giáo hoàng năm 795 để kế vị Ðức Hadrian I, vừa mới từ trần.

 Hai người cháu của Ðức Hadrian I đều mong muốn được làm giáo hoàng, do đó họ xúi giục các thanh niên quý tộc tấn công Ðức Lêô. Trong cuộc rước nhân ngày lễ Thánh Máccô, Ðức Lêô bị bọn côn đồ kéo xuống khỏi ngựa và chúng định cắt lưỡi và đâm mù mắt của ngài. Nhờ sự can thiệp kịp thời của công tước xứ Spotelo, ngài thoát chết và trốn trong tu viện Thánh Erasmus, sau đó ngài đã bình phục mau chóng một cách lạ lùng.

 Ðức Lêô được cảm tình của người thế lực nhất thời bấy giờ, đó là Hoàng Ðế Charlemagne ở Paderborn, và ông đã cung cấp vệ binh để hộ tống đức giáo hoàng trở về Rôma giữa tiếng reo hò của mọi người.

 Tuy nhiên, kẻ thù vẫn không để ngài yên. Họ tố cáo Ðức Lêô về tội thề gian và ngoại tình. Năm 800, Charlemagne đến Rôma và chỉ định một ủy ban điều tra để cứu xét điều cáo buộc Ðức Lêô. Uỷ ban không tìm thấy một chứng cớ nào, và Ðức Lêô đã thề trước hội đồng giám mục rằng ngài vô tội đối với các cáo buộc ấy.

 Vào lễ Giáng Sinh, tại đền Thánh Phêrô, Ðức Lêô đã ban thưởng cho Charlemagne tước vị Thánh Ðế Rôma. Ðiều này là nguyên do hình thành Ðế Quốc Rôma Thánh Thiện — là một cố gắng nhằm thể hiện lý tưởng Thành Phố Thiên Chúa của Thánh Augustine — mà đã ảnh hưởng đến lịch sử Âu Châu trong nhiều thế kỷ.

 Với sự giúp đỡ của Charlemagne, Ðức Lêô đã dẹp được lạc thuyết Thừa Tự (*) ở Tây Ban Nha, nhưng khi Charlemagne muốn thêm chữ Filioque (“và Ðức Chúa Con” *) vào kinh Tin Kinh Nicene thì Ðức Lêô đã từ chối, một phần vì ngài không cho phép giáo dân can thiệp vào nội bộ giáo hội, và một phần vì ngài không muốn chống đối Giáo Hội Byzantine.

 Một cách tổng quát, đức giáo hoàng và hoàng đế hành động ăn khớp với nhau. Theo lời đề nghị của Charlemagne, Ðức Lêô còn thành lập một đạo quân để chống với giặc Saracen, lấy lại được một số tài sản của Giáo Hội ở Gaeta. Tính hào phóng của Charlemagne đã giúp Ðức Lêô canh tân nhiều nhà thờ ở Rôma và Ravenna, cũng như giúp đỡ người nghèo và bảo trợ các công trình nghệ thuật.

 Khi Charlemagne từ trần năm 814 và Ðức Lêô không còn ai bảo vệ, quân thù lại nổi dậy chống đối ngài. Với tất cả uy thế và quyền bính cá nhân, ngài đã dẹp tan âm mưu nổi loạn của giới quý tộc ở Campagna. Tuy nhiên, ngài bị vẫn bị giới quý tộc khinh miệt vì ngài xuất thân từ giới bình dân. Ngài từ trần năm 816 và được phong thánh năm 1673.

 (*) Thuyết Thừa Tự chủ trương Ðức Kitô chỉ là con nuôi của Thiên Chúa, do đó Người không phải Thiên Chúa thật.

 Filioque: Cho đến ngày nay, Chính Thống Giáo Hy Lạp và một số Giáo Hội Ðông Phương vẫn cho rằng Chúa Thánh Thần chỉ bởi Chúa Cha mà ra, do đó, những ai chủ trương rằng Chúa Thánh Thần cũng bởi Chúa Con mà ra thì họ cho là lạc giáo.

nguồn: Từ Maria Thanh Mai gởi 

 

MẸ NGUỒN CẬY TRÔNG, CHƯA THẤY AI XIN MẸ VỀ KHÔNG

MẸ NGUỒN CẬY TRÔNG, CHƯA THẤY AI XIN MẸ VỀ KHÔNG

Lm. VĨNH SANG, DCCT 

Năm 1866, bức Linh Ảnh Đức Mẹ mang tước hiệu Mẹ Hằng Cứu Giúp được Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Pio IX trao cho DCCT với nhiệm vụ quảng bá lòng sùng kính Đức Mẹ, bức Linh ảnh ấy đươc tôn kính tại đền Thánh An Phong, đường Merulana, thành phố Roma, bên cạnh trụ sở trung ương của Hội Dòng. Từ ngày ấy, mỗi bước chân Thừa Sai DCCT đi đến đâu cũng đều được đặt dưới sự bảo trợ của Mẹ Hằng Cứu Giúp, cùng đi với các Thừa Sai, phiên bản bức Linh ảnh được phổ biến khắp nơi.

Năm 1925, ba nhà Thừa Sai đầu tiên DCCT đặt chân đến Huế ( Cha Larouche, cha Cusineau và thầy Barnabe ), trong hành trang của các ngài có phiên bản bức Linh ảnh hay làm phép lạ. Cùng với sự hiện diện của bức Linh ảnh, các Thừa Sai đã nhanh chóng phổ biến các kinh nguyện cầu khấn cùng Mẹ, những lời kinh ngọt ngào, quen thuộc và thân thương với mỗi người dân Việt Công Giáo chúng ta đã được cất lên từ ngày ấy: “Lạy Mẹ Hằng Cứu Giúp, xin che chở mọi kẻ thuộc về con, ban ơn phù hộ cho Đức Thánh Cha, cho Hội Thánh, cho nước con, cho gia đình con, cho kẻ thân nghĩa, kẻ thù nghịch và hết mọi kẻ khốn khó…”, ai trong chúng ta mà chẳng nhớ những lời kinh này.

Trong đời mục vụ, chúng tôi có dịp đi đó đây khắp miền đất nước, từ những Nhà Thờ Chính Toà to lớn đến những ngôi Nhà Nguyện bé nhỏ hun hút nơi vùng sâu, ở đâu chúng tôi cũng bắt gặp phiên bản của bức Linh Ảnh nổi tiếng này, nhìn những bức ảnh được tôn kính chúng tôi biết bước chân của cha anh chúng tôi đã từng đặt đến những nơi đây. Chúng tôi thầm cảm tạ ơn Chúa cùng với sự khâm phục lòng nhiệt thành của cha anh mình.

Câu chuyện “Đức Mẹ lộ hình” tại La Mã Bến Tre là một điển hình. Ngày ấy, hơn 62 năm về trước ( trước năm 1950 ), giữa một vùng sông nước mênh mông, chiến tranh khốc liệt, bức Linh ảnh Mẹ Hằng Cứu Giúp đã xuất hiện một cách lạ lùng ( 5.5.1950 ), kèm theo những phép lạ tỏ tường ( 7.10.1950 ) để cứu vớt che chở người dân quê nghèo khốn khổ ( tìm đọc chuyện Đức Mẹ La Mã Bến Tre ). Ngày nay ngôi Nhà Thờ đã được trùng tu, khuôn viên Nhà Thờ đã được tu bổ, một con đường nhỏ ngang 4 mét vừa được xây dựng để khách hành hương có thể đến với bức Linh Ảnh Đức Mẹ La Mã Bến Tre tương đối dễ dàng, từ Sàigòn nếu di chuyển bằng xe 4 bánh chỉ cần hai tiếng đồng hồ chúng ta đã có thể đến viếng thăm ngôi đền này ( www.ducmelamabentre.com ).

Trong bộ sưu tập về bức Linh Ảnh Mẹ Hằng Cứu Giúp còn một chứng tích tuyệt vời khác nữa. Việt Nam năm 1954, trong hành trình di cư của hàng triệu người từ miền Bắc vào Nam, có một phóng viên đã chụp được cảnh đoàn người di cư, một người phụ nữ lam lũ gồng gánh tất cả mớ gia sản nghèo nàn tả tơi của mình, vậy mà bà đã không quên mang theo bức Linh ảnh Mẹ Hằng Cứu Giúp. Bước chân bà sải đi vững chắc trong niềm tin và cậy trông phó thác trên hành trình hướng về tương lai, ắt hẳn vì Mẹ Hằng Cứu Giúp đang ở cùng bà, ở cùng gia đình bà.

 Bức Linh ảnh người phụ nữ xuôi Nam năm ấy mang theo bây giờ ở đâu ? Được tôn kính ở chốn nào chúng ta không có điều kiện để tìm biết.

Thế rồi bây giờ chúng tôi mới biết được thêm một câu chuyện khác, tình cờ nhưng rất thú vị, cũng là một câu chuyện về một người phụ nữ với bức Linh ảnh, cũng là một cuộc di cư vĩ đại khác của 21 năm sau cuộc di cư khổng lồ năm 1954. Nhẩm tính lại, ngày ấy, năm 1954, người phụ nữ trong câu chuyện chúng tôi sắp kể mới chỉ là một em bé 10 tuổi theo cha mẹ chạy vào Nam.

Chị về Việt Nam đã 4 lần nhưng lần này chị mới có dịp đến DCCT, quận 3, Sàigòn, chị liên lạc và giúp đỡ chúng tôi từ lâu nhưng chỉ biết nhau qua thư từ và hình ảnh trên mạng, chị vào thăm Nhà Dòng và trong những câu chuyện chia sẻ, chúng tôi ghi được một câu chuyện lạ lùng thú vị.

Năm 1975, chị có chồng là một sĩ quan không quân đóng tại phi trường Phù Cát, thành phố Quy Nhơn thuộc miền Trung, tháng Tư chiến tranh ác liệt, cả trại gia binh di chuyển vào Sàigòn để lánh nạn, nhưng chẳng bao lâu lại phải tiếp tục di chuyển ra Côn Đảo, anh vẫn tiếp tục trong đội hình chiến đấu của quân đội miền Nam. Không lâu trước ngày Sàigòn thất thủ 30 tháng 4, chị và các chị em khác hoàn toàn mất tin tức chồng, đau buồn và lo sợ.

Ngày ngày chị lang thang một mình ở bãi biển trông ngóng tin chồng, tình cờ một hôm chị nhặt được một tấm bìa báo xuân của một tạp chí Công Giáo nào đó, trên tấm bìa đó còn ghi hàng chữ “Cung chúc tân xuân” cùng với hình Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp chiếm trọn trang bìa. Tấm bìa trôi dạt ở bãi cát trắng bờ biển, ướt sũng, nhạt nhòa. Chị nhặt lên với tất cả sự tôn kính, mang về khu trại gia binh, hong cho khô và sớm khuya cầu nguyện với bức Linh Ảnh.

Bây giờ nhớ lại, chị kể chị đã hết lòng khẩn khoản nài van Mẹ xin cho được gặp lại chồng. Và chị đã được như ý, khi chị và các con được chuyển đến tạm cư ở đảo Guam, chị đã bất ngờ tìm lại được anh qua hội Hồng Thập Tự Quốc Tế khi mọi sự ngỡ đã hoàn toàn tuyệt vọng. Ai nghe chuyện cũng đều bảo là phép lạ !

 Định cư tại Hoa Kỳ, anh chị đã không quên mang theo bức Linh Ảnh kỳ diệu. Chị tiếp tục cầu nguyện với Mẹ Hằng Cứu Giúp xin cho có thêm một cháu gái vì ba cháu đầu đều là trai, một lần nữa, chị lại được như ý. Theo chị kể, lời vật nài cùng Mẹ có nhiều chi tiết thú vị về bé gái chị xin. Vâng, chị đã xin, đã ngỏ lời với tâm tình rất đơn sơ thân mật y như của một người con gái thủ thỉ cùng bà mẹ dấu yêu của mình. Chị đón nhận tất cả những điều ấy như một hồng ân.

Bức Linh Ảnh đó bây giờ chị đóng khung treo trong phòng ngủ, ngay trên đầu giường của chị.

Chị chia sẻ với anh em chúng tôi: bức Linh Ảnh không đẹp vì chỉ là một bức ảnh in trên bìa một tờ báo cũ, lại được vớt lên từ bãi cát bờ biển Côn Đảo, không đẹp vì đã bị ướt rồi hong khô lại, không đẹp vì kỹ thuật in ấn của những năm thập niên 70 tại Việt Nam, nhưng lại đẹp và quý giá tuyệt trần vì bức Linh Ảnh ấy đã xuất hiện trong những ngày tháng chị lao đao hoang mang nhất, cô đơn gian khổ nhất, đẹp vì chị đã mang theo bên mình suốt 37 năm với những lời nguyện cầu to nhỏ, đẹp vì là sự an ủi và cậy trông của cả cuộc đời chị, đẹp vì bức ảnh đã giúp chị cầu nguyện và vững chắc trong Đức Tin, đẹp vì qua bức ảnh chị nhận được quá nhiều ân huệ của Thiên Chúa.

Chị vẫn hằng cầu nguyện với bức ảnh đó: “Xin cho con biết dùng những năm tháng kế tiếp của cuộc đời để phục vụ Chúa trong Hội Thánh tại Việt Nam”.

Xin cám ơn chị Thanh Lịch, Oklahoma, Hoa Kỳ, chị đã làm chứng về tình thương của Chúa qua lời cầu bầu của Mẹ Maria Hằng Cứu Giúp, Mẹ của tất cả chúng ta…

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 6.6.2012 (Ephata 513)

Thánh Barnabas

 
    Thánh Barnabas
    (thế kỷ thứ nhất)

                                                                                        11 Tháng Sáu

     Thánh Barnabas, một trong những nhà truyền giáo tiên khởi của Giáo Hội, đóng vai trò chủ yếu trong việc loan truyền và chuyển dịch Phúc Âm cho dân ngoại. Qua sách Công Vụ Tông Ðồ, chúng ta được biết ngài là người Do Thái ở Cypriot tên thật là Giuse, và các tông đồ đã đặt tên cho ngài là Barnabas sau khi ngài bán của cải và giao cho các tông đồ cai quản.

     Mặc dù Barnabas không phải là một người trong nhóm Mười Hai nguyên thủy, Thánh Luca coi ngài như vị tông đồ vì ngài được lãnh nhận nhiệm vụ đặc biệt từ Chúa Thánh Thần. Một trong những đóng góp quan trọng của Barnabas là ngài đã đảm bảo cho Saolô, một người mới tòng giáo mà ai ai cũng sợ hãi vì quá khứ bắt đạo của Saolô. Sau đó, Barnabas được sai đi rao giảng ở Antiôkia. Khi công việc ngày càng có kết quả, Barnabas đã xin Phaolô (tên cũ là Saolô) đến tiếp tay; cả hai đã xây dựng một giáo hội thật phát triển. Theo sách Công Vụ Tông Ðồ, chính ở Antiôkia mà “lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô Hữu.”

     Chính trong cộng đoàn siêng năng cầu nguyện này mà “Thánh Thần phán bảo, ‘Hãy dành riêng cho Ta Barnabas và Phaolô để lo cho công việc mà Ta đã kêu gọi hai người ấy.” Sau đó họ ăn chay cầu nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi.” Do đó, Barnabas và Phaolô khởi hành chuyến đi truyền giáo đầu tiên thực sự ở nước ngoài, trước hết đến Cyprus (là nơi họ hoán cải một quan đầu tỉnh người Rôma) và sau đó đến lục địa Tiểu Á. Lúc đầu các ngài rao giảng cho người Do Thái, nhưng bị chống đối dữ dội nên họ quay sang rao giảng cho dân ngoại và đã thành công lớn. Trong một thành phố, người Hy Lạp quá mến mộ các ngài đến nỗi họ tôn thờ Barnabas và Phaolô như các thần Zeus và Hermes. Vất vả lắm thì các ngài mới ngăn cản được đám đông hiếu khách ấy đừng dâng của lễ mà tế các ngài.

    Công cuộc truyền giáo cho dân ngoại nẩy sinh vấn đề là người tòng giáo có phải cắt bì theo luật Do Thái hay không. Phaolô và Barnabas đã chống đối tập tục này và lập trường của các ngài đã làm chủ tình hình trong Công Ðồng Giêrusalem.

    Barnabas và Phaolô dự định tiếp tục công cuộc truyền giáo, nhưng ngay tối trước khi khởi hành, một bất đồng xảy ra là có nên đem theo một môn đệ nữa hay không, là ông Gioan Máccô. Vì vấn đề này mà hai tông đồ tách làm đôi. Phaolô đem Silas đi Syria, còn Barnabas đem Máccô đến Cyprus. Sau này, ba người: Phaolô, Barnabas và Máccô đã làm hòa với nhau.

     Mặc dù không có những dữ kiện rõ ràng, dường như Barnabas, với sự tháp tùng của Gioan Máccô, đã trở về Cyprus. Ở đây, theo truyền thuyết, ngài đã chịu tử đạo vào năm 61.

     Lời Bàn

     Thánh Barnabas được đề cập như một người tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Ngài là người “đầy tràn Thánh Thần và đức tin. Do đó đã lôi cuốn một số đông người về với Chúa.” Ngay cả khi ngài và Thánh Phaolô bị trục xuất khỏi Antiôkia, họ “tràn ngập niềm vui và Thánh Thần.”

 nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Lòng Thương Xót Chúa trong đời tôi…

Lòng Thương Xót Chúa trong đời tôi… 

  Tôi được sinh ra và lớn lên trong một gia đình Công giáo. Đã được rửa tội từ thuở nhỏ. Rước lễ lần đầu vào năm 7 tuổi. Chịu phép Thêm Sức vào năm 14. Rồi sau đó là Bao Đồng. Tất cả đều được chỉ dẫn và dìu dắt ở trong một môi trường Công giáo. Trường hợp của tôi thường được gọi là trường hợp của thành phần đạo gốc, nhưng không biết “gốc” gì đây? Tôi có được sự lựa chọn hay chăng?  Vì nếu không đi xem lễ ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc thì sẽ bị la rầy. Nên đi cho có hình thức bề ngoài. Nhưng trong lòng thì chưa tin vào Chúa cho lắm. Niềm tin của tôi lúc ấy rất yếu.

 Đến năm 17 tuổi, cái tuổi có thể bẻ gẫy xừng trâu ấy, chẳng biết sợ gì, tôi đã ra đi để tìm tự do cho bản thân mình, với ba nguyện vọng đơn sơ: 1- Con nuôi cá; 2- Con nuôi ba má; 3- Ba má nuôi con. Nhưng tự do thật sự ở đâu?

 Được sự che chở của “Lòng Thương Xót Chúa“ nên tôi đã được bình an dừng chân tại trại tỵ nạn Pula Bidong, thế nhưng rồi đệ tam quốc gia nào sẽ nghênh đón tôi đây? Chính những tháng ngày cô đơn ấy, buồn tủi nhất trong đời nên ngày nào tôi cũng cầu xin cùng Chúa và Mẹ Maria trên đồi Công giáo, chứ không phải đồi Canvê là nơi Chúa chết khi xưa.

 Với lòng nhiệt thành và lòng tin tưởng, tôi đã được định cư ở một nơi bấy giờ được gọi là thiên đường hạ giới, một nơi mà có thể nói cả thế giới này, nhất là thành phần tỵ nạn Việt Nam nghèo khổ, ai ai cũng mong mỏi được đặt chân đến…

 Sau 18 giờ bay, đúng 6 giờ 30 phút ngày 12 tháng 5 năm 1989, chuyến bay định mệnh đã hạ cánh tại phi trường Washington DC, nay là phi trường George  W Bush.

 Trước khi ra đi tôi chỉ có 3 nguyện vọng, nay lại được định cư ở một đệ tam quốc gia. Đây có phải là hồng ân của Ba Ngôi Thiên Chúa hay chăng? Chưa biết được…

 Khi giật mình tỉnh giấc giữa đêm khuya tôi mới phát hiện ra mình lại mắc thêm 3 chứng bệnh mà hầu như ai trong chúng ta khi mới qua Mỹ vào lúc bấy giờ không sao quên được, đó là:

1- Bị điếc vì không nghe được tiếng bản xứ;

2- Bị câm vì không nói gì được;

3- Bị què vì không có phương tiện để đi lại.

 Một mình đơn phương nơi xứ lạ quê người. Cơm áo gạo tiền đã gắn liền với cuộc sống. Nhưng “believe in gold and take care yourself” đó là những câu nói dường cột của chúng bạn. Cho nên “gần mực thì đen….”. Công danh và sự nghiệp đã lôi cuốn tôi vào cơn lốc xoáy, cơn lốc của cuộc đời. Từ đó, tôi dần dần xa Chúa và Mẹ Maria từ lúc nào tôi chẳng biết.

 Công danh và sự nghiệp là chi??? Đó là hai miếng mồi ngon và bổ nhất. Thử hỏi trong chúng ta ai mà chẳng vớ lấy cho bằng được. Thế là cuộc hành trình lại được bắt đầu từ đây.

 Để cố gắng khắc phục ba cái «bị» ở xứ lạ quê người khi mới sang Mỹ năm 1989 trên đây, tôi đã “cầy ngày không đủ phải tranh thủ làm đêm“. Chính vì cơm áo, gạo tiền cộng thêm hơn thua và ganh tỵ mà tôi đã lãng quên đi Chúa và Mẹ Maria từ lúc nào. Tiếng chuông nhà thờ vẫn vang vọng hằng đêm, nhưng tiếng lương tâm của lòng tôi đã chết lịm từ lúc nào rồi? Vì “lương tâm so ra không bằng lương tháng“.

 Để tạo cho mình một bước đi vững vàng, tôi đã lập gia đình. Người bạn đời của tôi không cùng tôn giáo với tôi, và đã được hai cháu. Vì lo công danh và sự nghiệp, nên tôi chẳng làm trọn bổn phận là một người cha Công giáo của chúng…. Tính ra đã hơn 20 năm tôi đã lầm đường lạc lối. Cuối cùng, Chúa đã thức tỉnh tôi với một cơn bệnh lạ đời, kéo dài trong vòng 3 năm trường không phải là ngắn.

 Đúng thế, nếu “Vinh danh Chúa cả trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm!” (Lk 2 :14) thì, đối với tôi, chính vì «tâm» không lành nên long thể bất an xẩy ra cho tôi vào mùa hè năm 2009. Chúa đã thức tỉnh tôi bằng một cơn bệnh ù-tai và chóng mặt. Lỗ tai lúc nào cũng có tiếng như ma kêu quỉ khóc. Còn chóng mặt thì chỉ còn nằm trên giường mà nhắm mắt, từ 16 đến 20 giờ đồng hồ mỗi ngày. Mở mắt ra thì trời đất quay cuồng, say xẩm. Chỉ có ói mửa cho tới mật xanh thôi. Nằm im đó để mà nhìn công danh cùng sự nghiệp tan tành như mây khói.        

                   Lúc thất thế con quì bên chân Chúa

                     Khi gặp thời con đạp đổ lư hương…

 Chính vì bệnh tật nên tôi phải xa rời tất cả chuyện làm ăn và vui chơi cùng bạn bè. Bởi không sao chịu được những tiếng ồn nơi công cộng. Trong ba năm, tôi đã trải qua 4 lần MRI và 3 lần chụp CT, các bác sĩ không tìm được bệnh gì. 

 Không biết cậy nhờ vào ai. Lúc này tôi lại gục đầu bên chân Chúa mà cầu nguyện, với bao đêm ngày cầu nguyện cùng Chúa. Suốt ba năm trường tại sao Chúa lại chẳng nhận lời ? Vì tất cả tôi chỉ muốn Chúa làm theo ý của riêng tôi, nên  tôi đã nhiều lần oán trách Chúa, mà Chúa vẫn chỉ im lìm theo dõi bước chân tôi.

 Thất vọng ê chề. Vì bệnh trạng của tôi vẫn không thể nào chữa được. Rồi từ đó tôi lại oán trách Chúa đủ điều… Tôi đã hoàn toàn tuyệt vọng với bao nỗi chán chường. Một hôm, giữa đêm khuya, khi cả gia đình đã ngủ say, tôi quì trước bàn thờ và khẽ nói: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa, con xin dâng linh hồn và thể xác con trong vòng tay từ ái của Chúa. Xin Chúa hãy chỉ dạy cho con“.

 Cuối cùng Ngôi Ba Thánh Thần đã soi sáng cho tôi và  tôi đã bay về Việt Nam để cầu may…    

 Nhìn những người bạn cùng chuyến bay ung dung bước ra khỏi phi trường để đoàn tụ cùng gia đình, tôi cảm thấy tủi thân! Vì bấy giờ tôi phải có người hộ tống, bởi tôi đi đứng không được, phải ngồi trong xe lăn.  

 Gặp lại con trong hoàn cảnh thê thảm như thế, người cha đạo hạnh của tôi, thương hại nhìn con, sau đó nhìn lên trời một hồi lâu và nhìn thẳng vào mặt tôi với giọng ồn tồn của người cha nhân hậu khẽ nói. Con ơi “vì lời lãi của thế gian này mà đánh mất đi linh hồn thì chẳng được ích gì”, hãy nghỉ vài ngày cho khoẻ, gia đình mình sẽ chung sức cầu nguyện cùng Chúa và Mẹ Maria xin các Ngài giúp cho con.

 Đúng vậy, nơi miền quê nghèo nhỏ bé, Chúa đã chữa khỏi bệnh chóng mặt cho tôi , chỉ cần qua một người y tá quèn ở vùng quê hẻo lành. Còn ở Mỹ, nơi những bệnh viện nổi tiếng, các bác sĩ có bằng cấp cao lại chẳng chữa nổi cho tôi . Tại sao vậy???

 Thế rồi, vào một buổi sáng kia, tôi tập thể dục và chạy ngang qua Nhà thờ Thánh Tâm. Một sức mạnh nào đó như cứ thôi thúc trong tận đáy lòng của tôi, đến độ tôi  phải ghé vào để than thở cùng Mẹ Maria.

 Một lần không chịu ghé. Lần hai cũng không ghé. Thôi thì nhất quá tam nhì ba bận nên cuối cùng tôi đành ghé lại. Đây là lần thứ nhất Mẹ Maria nhìn tôi. Mẹ nhìn tôi với đôi mắt buồn rầu, sầu thảm không sao tả được! Vài ngày sau, khi tôi đứng ngoài hàng rào nhà thờ cầu nguyện, Mẹ quay lại nhìn tôi cũng với ánh mắt như lần trước… Hơn một tuần, sau thánh lễ Chúa Nhật, giáo dân hợp nhau đọc kinh ở núi Đức Mẹ và Thánh Cả Giuse, sự lạ lại xẩy ra một lần nữa: Mẹ Maria lại âu yếm nhìn tôi ! tôi quay sang hỏi Cha Xứ cùng bà con xung quanh xem có ai thấy gì hay chăng? Tất cả đều lắc đầu không hiểu  tôi đang nói gì… “Mẹ ơi, thật sự Mẹ muốn gì ở nơi con? Xin Mẹ hãy chỉ dạy và soi sáng cho con!”

 Ba ngày sau đó, theo sự soi sáng của Ngôi Ba Thánh Thần, tôi cùng với gia đình và anh em đi hành hương viếng thăm Đức Mẹ ở các nơi khác nhau, như ở Trung Tâm Fatima Bình Triệu Sài Gòn, ở Tapao, và có ghé ngang qua một bức tượng Đức Mẹ trên đường đi Đà Lạt về, không nhớ rõ địa danh, chỉ biết rằng đài Đức Mẹ nằm ngay trên quốc lộ.

 Mỗi lần nói chuyện cùng Mẹ thì tôi lại nhận được sự bình an không sao tả được: “Mẹ ơi, con là đứa con tội lỗi, không đáng để được Mẹ tha thứ. Nhưng người bạn đời của con và hai đứa con thơ dại của con thì không biết gì về Mẹ và Chúa Giêsu hết. Xin Mẹ hãy soi sáng và chỉ dẫn cho vợ con và hai đức con thơ dại biết nhận ra Mẹ là ai và Chúa Giêsu xuống thế gian này để làm gì nghe Mẹ“.

 Về đến Mỹ, giấc ngủ của tôi bị trái giờ, hơn nữa, tôi lại nhớ ba má cùng anh em bà con ở Việt Nam, nên tôi không ngủ được bình thường như trước. Tuy nhiên, nhờ dịp này, theo sự sắp đặt của Mẹ Maria, con đã biết đến, qua lời giới thiệu của đứa em rể tên Minh Phong thuộc giáo xứ Trà-Long giáo phận Cần Thơ, qua trang web tinvui.info do Cha Giuse Trần Đình Long Dòng Thánh Thể phụ trách thuộc Giáo Xứ Chí Hòa, (chứ không phải là khám Chí Hòa đâu nhé). 

 Qua trang web này, tôi thật sự cảm nghiệm được « Lòng Thương Xót Chúa ». Nhờ ơn Chúa, cha đã có được những lời giảng khôi hài, mộc mạc, đơn sơ, thực tế nhưng có sức quyến rũ và mời gọi một cách lạ thường.

 Sau vai tuần nghe những bài giảng của cha ở trang web tinvui.info, tôi đã viết email để xin cha và cộng đoàn «Lòng Thương Xót Chúa » cầu nguyện giúp tôi . Bà xã của tôi, thấy tôi hầu như đêm nào cũng nghe giảng qua trang web này. Tuy nhiên, có lần tôi đột nhiên không nghe nữa thì nàng lại hỏi tôi tại sao? và đồng thời tỏ ý muốn nghe. Vài ngày sau, nàng đã khăn gói lên đường trở về nhà Cha, vì: “Ai xin sẽ được, ai gõ cửa sẽ được mở ra cho” (Mt 7:7).

 Nhờ nghe lời Chúa mà nàng và hai đứa con đã trở thành những người dự tòng Kitô hữu, và vào dịp Lễ Vọng Phục Sinh đêm ngày 7 tháng 4 năm 2012 chính thức trở thành con cái Chúa. Ôi, còn nỗi vui mừng nào hơn là được làm con cái Chúa : “Hồng ân Thiên Chúa bao la, muôn đời con sẽ ngợi ca danh Người” –

 Mặc dù tôi đã được ơn trở lại sau hơn 20 năm rời xa Chúa và Mẹ Maria, bao nỗi ưu tư và phiền muộn vẫn còn vương vấn trong tâm hồn tôi. Biết bao điều thắc mắc vẫn còn đó, không biết tìm ai để được giải tỏa những thắc mắc của riêng mình.

 “Hãy đến với Cha, hơi tất cả những ai mệt mỏi và nặng gánh, Cha sẽ bổ sức cho các con” (Mt 11:28). Đó là chủ đề cho cuộc Tĩnh Tâm của Cộng đoàn Công giáo Việt Nam tại Giáo Xứ Các Thánh Anh Hài thuộc Tổng Giáo Phận Philadelphia. Người phụ trách chia sẻ các bài nói theo chủ đề này đó là một người giáo dân từ miền Nam California tới: Hiệp Sĩ Trái Tim Mẹ – Tông Đồ Chúa Tình Thương Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh.

 Cuộc tĩnh tâm 3 ngày (24-26/2/2012) mở màn cho Mùa Chay này hoàn toàn về Lòng Thương Xót Chúa, bao gồm 9 bài nói, tất cả đều được trình bày và chia sẻ bởi người tín hữu giáo dân ấy, một nhân vật tôi chưa hề quen biết và nghe tiếng. Những bài nói của vị hướng dẫn tĩnh tâm này (Tối Thứ Sáu 1 bài, Ngày Thứ Bảy 5 bài, và Chúa Nhật 3 bài), thứ tự sau đây:  

                1.      Thời Điểm Cánh Chung của Lòng Thương Xót Chúa (nội dung về tình trạng Nửa Đêm Nghênh Đón);

                2.      Tội Lỗi – Vực Thẳm của Lòng Thương Xót Chúa;

                3.      Tội Nhân – Mồi Ngon của Lòng Thương Xót Chúa;

               4.      Thánh Giá – Chân Dung của Lòng Thương Xót Chúa;

               5.      Cơn Khát Núi Sọ của Lòng Thương Xót Chúa (nội dung về hai câu Chúa nói: “Cha khát” – “Xin cho Cha uống”);

               6.      Điểm Hẹn Thần Linh của Lòng Thương Xót Chúa (nội dung về Trái Tim Mẹ: Nơi Nương Náu – Đường Đến Chúa, tức Đến Chúa Qua Mẹ );

              7.      Bối Cảnh Lịch Sử của Lòng Thương Xót Chúa (nội dung về Bí Mật Fatima);

               8.      Sứ Điệp Cứu Độ của Lòng Thương Xót Chúa (nội dung về những gì Chúa muốn như Ảnh Thương Xót, Lễ Thương Xót, Kinh Thương Xót…);

             9.      Hồn Nhỏ Hy Tế của Lòng Thương Xót Chúa (nội dung về gương sống Lòng Thương Xót của 3 Thiếu Nhi Fatima và Chị Thánh Faustina).

Sau ba ngày tĩnh tâm đặc biệt trên đây, tất cả mọi thắc mắc cũng như ưu phiền của tôi đã được giải đáp qua lời giảng thuyết hùng hồn của người tín hữu giáo dân này.

 Tháng 2 hằng năm, vùng Đông Bắc Hoa Kỳ vẫn còn đang ở trong mùa đông. Ngoài trời thì lạnh, nhưng trong cõi lòng của mỗi một người Kitô hữu hiện diện ở đấy đã được sưởi ấm và nung nóng với bàn tiệc lời Chúa. Biết bao nhiêu anh em Kitô hữu đã bỏ cả công ăn việc làm, không ngại đường xá xa xôi đến để tham dự.

 Tôi nhớ rất rõ là vào ngày Thứ Bảy 25/2/2012, trong lúc ngoài trời gió rất mạnh, cộng thêm tuyết rơi, thế nhưng trong hội trường, anh chị em Kitô hữu cùng nhau lắng nghe lời Chúa. Mặc dù lời của Chúa thật xa xưa nhưng chính giây phút này đã trở thành những gì hiện thực nơi lời chia sẻ của vị giảng thuyết cũng như nơi cảm nghiệm thấm thía của thành phần tham dự viên. Lúc ấy, hơn bấy giờ hết, tôi cảm nghiệm thấy được sự hiện diện thần linh của Chúa ở giữa chúng tôi: “Vì ở đâu có hai hay ba người hợp lại vì danh Thày thì Thày ở giữa họ” (Mt 18:20).

 Âm vang của những giây phút tĩnh tâm về Lòng Thương Xót Chúa ấy vẫn còn âm ỉ nơi tôi, qua tâm tình và kinh nguyện của tôi với Chúa Giêsu và Mẹ Maria.

 Những chuỗi Mân Côi hằng ngày sẽ làm dịu đi nỗi đau của Trái Tim Mẹ. Hãy đến với Mẹ mỗi ngày để than thở và khóc lóc. Dâng lên Mẹ những nhọc nhắn khó khăn trong cuộc sống. Qua lời chuyển cầu của Mẹ thì tất cả mọi ước nguyện của chúng ta sẽ được nhận lời. Mẹ biết và hiểu được những gì ta đang cần.

 Lạy Chúa Giêsu, xin hãy giúp con biết mở lòng con ra mà đón nhận Chúa. Xin hãy ngự trị trong tâm hồn con và giúp con biết yêu mến Chúa từng giây, từng phút, để con luôn được bình an trong vòng tay của Chúa: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Ngài” với tất cả tâm hồn và thể xác của con đây.

 Xin Mẹ Maria luôn gìn giữ, bao bọc, che chở gia đình con và Giáo Hội trên toàn thế giới trong vòng tay quyền năng từ ái của Mẹ. Amen.

 Mùa Chay 2012

Inhaxio/Phêrô Randy Khâm Nguyễn

Giáo Xứ Các Thánh Anh Hài, Tổng Giáo Phận Philadelphia.

Mẹ Chúng Ta

 Mẹ Chúng Ta

 Một ngày kia, thánh Gioan Bosco rao giảng về vinh quang của Mẹ Maria tại nhà thờ chính tòa Torino. Giữa lúc đang thao thao bất tuyệt, ngài bỗng dừng lại thinh lặng một hồi lâu rồi đặt câu hỏi với cử tọa như sau: “Ai trong anh chị em có thể nói cho tôi biết Ðức Mẹ là ai?”

Thánh nhân phải lập lại câu hỏi đó đến ba lần mới nghe được một tiếng trả lời yếu ớt từ phía cuối nhà thờ như sau: “Thưa Cha, Ðức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa”. Thánh Gioan Bosco gật đầu nói tiếp: “Ðúng thế, Ðức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng nói thế vẫn chưa đủ. Tôi muốn anh chị em kể hết những tước hiệu của Mẹ Maria”. Liền sau đó, cử tọa liền kể ra tất cả những tước hiệu của Mẹ: Mẹ là cửa Thiên Ðàng, Mẹ là Ðấng an ủi những kẻ có tội, Mẹ là Ðấng phù trợ các tín hữu, Mẹ là Ðấng cứu chữa kẻ bệnh tật v.v…

Sau khi nghe kể hết những tước hiệu mà người ta gán cho Ðức Maria, thánh Gioan Bosco mỉm cười nói tiếp: “Ðức Maria là tất cả những gì anh chị em vừa kể ra, nhưng vẫn chưa hết. Tôi muốn noid thêm về Ðức maria…”.

Chờ mãi vẫn không thấy có câu trả lời nào, thánh nhân mới nói: “Tôi xin được nói với anh chị em Ðức Maria là ai: Ngài là Mẹ chúng ta. Phải, Mẹ chúng ta. Ðó là điều đáng nói nhất về Mẹ Maria. Trên trần gian này, không ai có thể gần gũi thiết thân với chúng ta cho bằng Mẹ chúng ta, không ai yêu thương chúng ta hơn Mẹ chúng ta. Cũng thế trên Thiên Ðàng không có vị thánh nào yêu thương chúng ta và sẵn sàng lắng nghe chúng ta cho bằng Mẹ Maria…”.

Chính lúc Ðức Maria đứng câm lặng dưới chân thập giá, mà Chúa Giêsu đã long trọng trối phó Ngài cho thánh Gioan và đồng thời cũng trao phó thánh Gioan cho Mẹ.

Sự sinh nở nào cũng diễn ra trong đớn đau. Chính trong niềm đau tột cùng của những giây phút đứng kề bên thập giá Chúa Giêsu mà Ðức Maria mới sinh hạ chúng ta, đã trở thành Mẹ của chúng ta. Thánh Gioan cũng tiếp nhận Mẹ trong niềm hiệp thông sâu xa vào thập giá của Chúa Giêsu.

Thập giá là nguồn ơn cứu rỗi, nhưng mãi mãi vẫn là biểu trưng của tội ác. Sự độc ác tột cùng mà người Do Thái và La Mã ngày xưa đã trút xuống trên Chúa Giêsu qua thập hình, ngày nay vẫn còn được con người tiếp diễn dưới muôn hình thức khác. Tựu trung khi con người chối bỏ chính mình, khi con người chà đạp người khác, thì đó là lúc con người dựng thêm những thập giá mới.

Thập giá vẫn luôn có mặt trong cuộc sống con người như một nhắc nhở về tội ác của mình. Kết hiệp với Chúa Giêsu trong cuộc tử nạn của Ngài chính là cố gắng chiến đấu chống lại tội lỗi.

Sứ điệp của Ðức Maria trong tất cả những lần hiện ra đều có chung một nội dung: đó là kêu gọi loài người ăn năn sám hối, cải thiện cuộc sống. Cũng như ngày xưa, đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu, Mẹ đã câm lặng nuốt từng nỗi đớn đau, ngày nay khi nhìn thảm cảnh của những người con cái đang chối bỏ lẫn nhau, đang chém giết nhau, đang đóng đinh nhau, Mẹ cũng bày tỏ một niềm đau.

Muôn Vàn Phép Lạ

      Muôn Vàn Phép Lạ  

                                                                                            trích Lẽ Sống

   Một vị ẩn sĩ nọ, sau 60 năm sống khắc khổ giữa sa mạc, bỗng cảm thấy chán nản khi nghĩ rằng mình chưa hề làm được phép lạ nào như các vị tiền bối.

     Ông quyết định rời bỏ sa mạc để trở về đô thị sống một cuộc sống tiện nghi, bình thường như mọi người.

     Nhưng đôi mắt Chúa lúc nào cũng dõi theo từng suy nghĩ, từng đường đi nước bước của ông. Biết ông đang toan tính bỏ cuộc để trở lại đô thị, Thiên Chúa bèn sai một thiên thần đến với ông. Vị sứ thần đã nói với ông như sau: “Ngài đang toan tính điều gì thế? Ngươi hãy thử nghĩ có phép lạ nào kỳ diệu nào hơn chính cuộc sống của ngươi không? Ai đã ban cho ngươi sức mạnh để có thể cầm cự được trong nơi hoang vu này trong mấy chục năm qua? Ai đã chúc lành cho cây cỏ ngươi đã dùng trong thời gian qua mà không hề gây nguy hại cho ngươi? Ngươi lại đây và xin Chúa ban cho ngươi thêm lòng kiên nhượng…”.

     Ðược lời của vị sứ thần nâng đỡ, nhà ẩn sĩ ở lại trong sa mạc và tiếp tục cuộc sống tu trì của ông với niềm tin vững rằng mỗi một phút giây qua đi trong cuộc sống là một phép lạ mà Thiên Chúa đang thực hiện cho ông.

     “Ðây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ”. Giáo Hội mượn lời Kinh Thánh này để mời gọi chúng ta sống một cách sung mãn giây phút hiện tại. Mỗi một giây phút hiện tại là một hồng ân cứu độ. Thiên Chúa vẫn tiếp tục biến mỗi phút giây của cuộc sống chúng ta thành một phép lạ.

     Không là phép lạ sao tim của chúng ta vẫn tiếp tục đập, mũi chúng ta vẫn tiếp tục hít thở! Còn gì kỳ diệu bằng chính sự sống mà Thiên Chúa vẫn tiếp tục trao ban cho chúng ta. Còn gì kỳ diệu bằng niềm tin Ngài đã trao ban để chúng ta tiếp tục tiến bước trong cuộc lữ hành này.

     Chúng ta vẫn thường nói: ngạc nhiên là khởi đầu của khám phá! Nếu tất cả những khám phá của khoa học đều bắt nguồn từ những câu hỏi mà con người tự đặt ra khi nhìn ngắm vũ trụ, thì sự ngây ngất trước những kỳ công của sáng tạo, trước cuộc sống, trước tình người cũng phải là động lực giúp người tín hữu Kitô chúng ta thấy được, cảm mến được sự hiện diện và tác động kỳ diệu của Thiên Chúa.

     Cái nhìn ấy sẽ giúp chúng ta thấy được giá trị của những công việc âm thầm từng ngày của chúng ta. Cái nhìn ấy sẽ mang lại cho chúng ta sức mạnh để tiếp tục phấn đấu khi phải đương đầu với bệnh tật, với thử thách, với mất mát trong cuộc sống. Một Thiên Chúa luôn làm những kỳ diệu cũng chính là Ðấng có mặt trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta để đem lại cho chúng ta những điều thiện hảo đôi khi vượt quá khỏi cái nhìn nông cạn, sự thẩm định giới hạn của chúng ta.

nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Thánh Ephrem

     Thánh Ephrem
    (306-373)

                                                                                 9 Tháng Sáu

     Là nhà thơ, nhà giáo, nhà hùng biện và bảo vệ đức tin, Thánh Ephrem là người Syria duy nhất được xưng tụng là Tiến Sĩ Giáo Hội. Ngài tự mặc cho mình một trọng trách là chống với các học thuyết lầm lạc đang lan tràn vào thời ấy, và luôn luôn là người bảo vệ đức tin Công Giáo mạnh mẽ.

     Sinh ở Nisibis, Mesopotamia, Thánh Ephrem được rửa tội khi là thanh niên và nổi tiếng là một thầy giáo nơi quê của ngài. Khi hoàng đế nhượng lại phần đất Nisibis cho người Ba Tư, Ephrem cùng với các Kitô Hữu khác trốn sang Edessa (thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) để tị nạn. Ngài được cho là đã đem lại vinh dự lớn lao cho một trường kinh thánh ở đây. Ngài được phong chức phó tế nhưng không muốn làm linh mục.

     Ngài có tài sáng tác văn chương và các tác phẩm phản ảnh sự thánh thiện của ngài. Mặc dù không phải là một học giả vĩ đại, các văn bản của ngài cho thấy sự hiểu biết sâu rộng về Kinh Thánh. Khi viết về mầu nhiệm của sự cứu độ loài người, Thánh Ephrem cho thấy một tâm linh nhân bản dễ mến và thiết thực cũng như sự sùng kính lớn lao đối với nhân tính Ðức Giêsu và Mẹ Maria.

   Người ta nói rằng vào năm 325, ngài đã tháp tùng đức giám mục Giacôbê của Nisibis đi tham dự Công Ðồng Nicea. Chắc chắn rằng các văn bản của ngài là một bảo vệ hùng hồn cho thiên tính của Ðức Giêsu Kitô. Ngài còn sáng tác thi ca để chống với lạc giáo Gnostic. Ngài lấy những bài ca bình dân của người lạc giáo, và dùng chính âm điệu của họ, biến đổi thành những thi ca mang ý nghĩa chính truyền. Thánh Ephrem là người đầu tiên đưa thánh thi vào phụng vụ chung của Giáo Hội như một phương tiện để dạy dỗ người tín hữu. Ngài sáng tác thi ca nhiều đến nỗi được xưng tụng là “Ðàn Thụ Cầm của Chúa Thánh Thần.”

     Thánh Ephrem yêu quý một đời sống thanh bạch, khắc khổ trong một hang nhỏ ở ngoại ô thành phố Edessa. Ngài cũng thường vào phố để rao giảng. Trong thời kỳ nạn đói năm 372, ngài tiếp tay phân phối thực phẩm cho người đói, và tổ chức việc chữa trị người đau yếu. Ngài tận tụy trong công việc này đến nỗi kiệt sức, lâm bệnh và từ trần vào khoảng năm 373.

    Lời Bàn

    Nhiều người ngày nay vẫn khó chấp nhận việc ca hát trong nhà thờ. Tuy nhiên, ca hát là một truyền thống có từ thời Cựu Ước và Tân Ước. Ðó là một phương cách tuyệt vời để biểu lộ cũng như kết tạo tinh thần hợp nhất và niềm vui cho cộng đoàn. Thi ca của Thánh Ephrem được một sử gia thời xưa xác nhận là đã “đem đến vẻ lộng lẫy cho cộng đoàn Kitô Hữu.” Ngày nay, chúng ta cũng cần có những người như Thánh Ephrem để cộng đoàn thêm thánh thiện trong lời ca tiếng hát.

 nguồn: Từ Maria Thanh Mai gởi 

 

Đức Mẹ Hiện Ra Tại Fatima 1917

Đức Mẹ Hiện Ra Tại Fatima 1917

 Tác giả: Cát Minh

 Ba Trẻ Lucia, Jacinta và Phanxicô là ba em bé chăn chiên thuộc gia đình nghèo làng quê Fatima, nước Bồ Đào Nha. Các trẻ em này thuộc giáo phận Leiria. Hàng ngày các em được gia đình, cha mẹ trao phó việc dẫn đoàn súc vật: chiên, cừu đi ăn cỏ ở các vùng đồi núi quanh đó. Các em thường có thói quen sau khi để bầy súc vật ăn cỏ, liền qùi gối trên bãi đất trống đọc kinh, lần chuỗi mân côi chung với nhau. Mùa Xuân năm 1916, một thiên thần đã hiện đến ba lần và báo trước về các lần hiện ra của Đức Mẹ.

Vào mùa hè năm 1917 lúc đó thế chiến thứ nhất đang tiếp diễn, ngày 13 tháng 5 năm 1917, khi các em chăn dẫn đàn vật tại thung lũng Cova da Iria, một nơi có nhiều cây sồi và cây ôliu và lúc các em đang sốt sắng đọc kinh, lần chuỗi mân côi lúc gần giữa trưa, một luồng chớp chói lòa làm các em bỡ ngỡ, kéo hoàn toàn sự chú ý của các em về những ngọn cây trên đồi Cova da Iria, một Vị sáng láng hiện ra, Thiếu Nữ ấy xin các em cầu nguyện cho những người tội lỗi ăn năn trở lại, chiến tranh sớm kết thúc.

Đức Trinh Nữ Maria xin các em hãy trở lại vào các ngày 13 trong những tháng sau đó. Sứ điệp của Đức Mẹ kêu gọi sám hối, lần hạt Mân Côi, và dâng hiến thế giới cho Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ. Lần nào hiện ra, Đức Mẹ cũng yêu cầu các em hãy lần chuỗi hằng ngày. Mẹ còn dạy các trẻ một lời nguyện để thường xuyên dâng lên Thiên Chúa các biến cố đời sống, nhất là các hành vi khổ chế và hy sinh của các em:

Lạy Chúa Giêsu, việc này xin vì lòng mến Chúa, xin cho các tội nhân trở lại, và đền tạ những xúc phạm người ta đã gây ra cho Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria.

Thiếu Nữ dặn các em hãy trở lại nơi này vào ngày 13 mỗi tháng. Theo lời Thiếu Nữ căn dặn, các em tới đó và được nhìn thấy Thiếu Nữ hai lần sau đó vào ngày 13 tháng 6 và ngày 13 tháng 7. Ngày 13 tháng 8, nhà cầm quyền địa phương ngăn cản các em không cho tới Cova da Iria, nhưng Thiếu Nữ đã hiện ra với các em vào ngày 19. Ngày 13 tháng 9, Thiếu Nữ xin các em lần hạt Mân Côi để cầu cho chiến tranh sớm kết thúc. Ngày 13 tháng 10, Thiếu Nữ hiện ra và xưng mình là Mẹ Rất Thánh Mân Côi.

Mẹ mời gọi các em cầu nguyện và làm việc đền tạ. Lần này, một hiện tượng rất lạ đã xẩy ra làm rúng động mọi người: Chính quyền, dân chúng và các nhà báo chứng kiến hiện tượng gọi là Mặt Trời múa hay thái dương như rơi khỏi bầu trời và lao xuống đất. Ngày 13 tháng 10 năm 1930, sau nhiều năm điều tra, xác minh và cầu nguyện, tìm hiểu, Đức Giám Mục Leira đã công nhận chính thức việc Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ tại đồi Cova da Iria, Fatima, Bồ Đào Nha và cho phép tổ chức các việc đạo đức để cung kính Đức Maria Mân Côi nơi Mẹ đã hiện ra vào năm 1917.

Sứ Điệp và Mệnh Lệnh Fatima 

 Đức Mẹ đã hiện ra đúng như lời Mẹ loan báo trước và sự kiện thái dương như muốn rơi xuống đất, làm khiếp kinh hồn vía mọi người, đã minh chứng quyền năng của Thiên Chúa. Qua biến cố lạ lùng như thế, Mẹ Maria Rất Thánh Mân Côi kêu mời nhân loại hãy ăn năn sám hối. Sứ điệp của Fatima là hãy cầu nguyện cho các tội nhân, lần chuỗi Mân Côi và sám hối. Ngày 13 tháng 10 năm 1917, Đức Mẹ dậy:

”Mẹ đến kêu nài các tín hữu hãy lần hạt Mân Côi. Mẹ mong ước nơi đây có một nguyện đường tôn kính Mẹ. Nếu người ta cải thiện đời sống thì chiến tranh sớm kết thúc“.

Đức Mẹ đã hiện ra với ba trẻ để qua các em, Mẹ nhắn nhủ nhân loại siêng năng cầu nguyện, năng lần chuỗi Mân Côi và thống hối ăn năn. Mẹ đã trao cho ba trẻ nhiều bí mật và căn dặn các em sống thánh để cầu nguyện cho những kẻ có tội và cứu vãn thế giới.

Được chiêm ngưỡng Đức Mẹ hiện ra, ba trẻ Lucia, Jacinta, Phanxicô đã sống theo ý Chúa, tuân lời Đức Mẹ. Chúa có con đường của Ngài và Ngài dọn chỗ cho con người tùy lòng xót thương của Ngài. Phanxicô được nhìn thấy Đức Mẹ, nhưng không được nghe lời Đức Mẹ nói, đã qua đời ngày 04 tháng 4 năm 1919, Giacinta qua đời ngày 20 tháng 2 năm 1920. Chúa để Lucia sống trong tu viện kín nhiều năm sau trước và sau khi bí mật được công bố. Ba trẻ đã được hạnh phúc chiêm ngưỡng và nghe lời Đức Mẹ chỉ bảo, dậy dỗ. Với sứ điệp Fatima, Mẹ Maria Rất Thánh Mân Côi muốn nói lên một sự thật tuyệt vời: con người đang hư đi, thế giới đang dần xa Thiên Chúa, họ chỉ có thể được cứu vãn bằng những phương thế mà Mẹ dậy. Ðức Mẹ đã truyền phải thực hiện 3 mệnh lệnh Fatima để cứu nhân loại và cứu các linh hồn khỏi lửa luyện ngục. Ba Mệnh lệnh đó là:

1. Ăn năn đền tội, cải thiện đời sống
2. Tôn sùng Trái Tim vẹn sạch Ðức Mẹ
3. Lần Chuỗi Mân côi

Các Bí Mật Fatima

  Bí Mật Fatima là những gì Đức Mẹ tỏ ra cho hai mục đồng là Lucia (bấy giờ 10 tuổi) và Giaxinta (bấy giờ 7 tuổi) biết vào lần hiện ra thứ ba, ngày 13/7/1917, và bảo các em không được tiết lộ với bất cứ một ai, ngoại trừ một mình Phanxicô là em cũng được thấy Đức Mẹ hiện ra như các em song không nghe thấy Mẹ nói gì hết.

Thật ra không phải là có 3 Bí Mật Fatima khác nhau như người ta vẫn quen nói mà là Bí Mật Fatima có ba phần khác nhau, như chính chị Lucia đã xác nhận trong phần mở đầu cuốn Hồi Ký Thứ Ba của chị.

Phần thứ ba của Bí Mật Fatima được chị Lucia viết ra vào ngày 3/1/1944. Thế nhưng, để viết phần bí mật này, một trong ba phần bí mật quan trọng nhất đã được Mẹ Maria căn dặn chung là “không được nói với ai”, song chính vì hai phần kia đã được tiết lộ mà ai cũng muốn biết thêm về phần bí mật còn lại này, kể cả giáo quyền địa phương bấy giờ, đến nỗi đã ngỏ ý muốn chị viết ra, nên để giải tỏa bối rối cho Lucia, Mẹ Maria đã phải hiện ra với chị ngày 2/1/1944, bảo chị biết rằng đã đến lúc chị nên viết ra phần bí mật còn lại này để trình lên giáo quyền.

Đức giám mục sở tại nhận được phần bí mật thành văn này ngày 17/6 cùng năm, song mãi tới năm 1957 Tòa Thánh mới để ý tới nó và lưu giữ nó từ ngày 4/4/1957. Như chị Lucia cho biết, thì phần bí mật này chỉ có một mình Đức Thánh Cha mới được phép tiết lộ, nhưng hoàn toàn tùy ý ngài. Các Đức Thánh Cha Gioan XXIII và Phaolô VI cũng đã đọc phần bí mật này song không công bố gì cả. Theo ý của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh tòa thánh là Angelo Sodano đã công bố phần bí mật này.

Trước khi tuyên bố “Phần thứ ba của bí mật Fatima”, Ðức TGM Tarcisio Bertone, Tổng Thư ký Bộ Giáo lý Ðức tin, đã nhiều lần đến Tu viện Coimbra để tiếp xúc với Nử Tu Lucia. Và nữ tu Lucia đã xác nhận  bản tuyên bố là đúng với những điều Ðức Mẹ đã tiết lộ cho ba em.

Sau đây là cuộc phỏng vấn Ðức Cha Bertone dành cho nhật báo “Tương Lai”:

Hỏi – Ðức Cha có thể cho biết Chị Lucia đã viết gì trong cuốn sách được Ðức Cha nói đến?

Ðáp – Ðây là cuốn lược tóm tất cả những bút tích thiêng liêng, từ các sứ điệp Fatima, Chị Lucia viết lại cách đơn sơ và cụ thể hóa bằng những gợi ý, những lời khuyên. Bị tràn ngập bởi những câu hỏi về những lần hiện ra và những lời Ðức Trinh Nữ, cần được giải thích, và vì không thể trả lời cho từng người được, Chị Lucia xin và được phép Tòa Thánh để viết một cuốn sách “Os apelos da Mensagem de Fatima” (Những lời kêu gọi của sứ điệp Fatima). Ðây là đầu đề cuốn sách được viết ra, để trả lời chung các câu hỏi đã nhận được. Ðiểm tham khảo liên lỉ và như là cơ cấu của cuốn sách tức là lời kêu gọi của Ðức Trinh Nữ: “Ðừng xúc phạm Thiên Chúa nữa. Người đã bị xúc phạm quá nhiều rồi” (lần hiện ra ngày 13.10.1917).

Xét chính nội dung, cuốn sách không thêm bớt gì sứ điệp Fatima, nhưng giải thích, phổ biến với những áp dụng thực hành của đời sống Kitô. Vì thế có thể sẽ làm ích nhiều cho những ai cảm thấy nơi bản thân sự lo lắng, sự không chắc chắn và hồ nghi về số phận đời đời của mình.

Hỏi – Khi nào sẽ xuất bản?

Ðáp – Cuốn sách gồm 334 trang đánh máy. Tôi nghĩ rằng: có thể xuất bản tại Bồ đào nha trong thời gian tương đối ngắn, nếu không trong năm nay, thì vào đầu năm 2001.

Hỏi – Trong cuộc gặp gỡ, Chị Lucia có kể cho Ðức Cha về các lần hiện ra khác nữa không?

Ðáp – Trong cuộc nói chuyện, chúng tôi không nói đến các lần hiện ra khác, bởi vì cuộc nói chuyện chỉ xoay chung quanh những lần hiện ra năm 1917 mà thôi và cách riêng lần hiện ra ngày 13 tháng 7. Nhưng do các bức thư của chị Lucia, tôi biết Chị còn có những lần hiện ra hoặc những thông truyền khác do “Ðức Bà”, lúc chị ở Pontevedra và ở Tuy, bên Tây ban nha (nơi Chị Lucia tu trước khi trở về Ðan viện Coimbra, bên Bồ đào nha), từ năm 1925 trở đi và sau năm 1952 tại Bồ đào nha, ở Coimbra; có thể cho đến năm 1984. Như vậy cuộc đàm thoại với Ðức Trinh Nữ đã được tiếp tục và kéo dài, như để minh chứng sự giúp đỡ ân cần của một Người Mẹ và Người Thầy cho công việc giải thích đúng nghĩa và thông truyền trung thành sứ điệp của Người.

Hỏi – Có phải với việc giúp đỡ này chúng ta có thể chắc chắn rằng “thị kiến trong phần thứ ba của Bí mật Fatima” hướng về quá khứ không?

Ðáp – Ðây là một việc tiếp theo của các sự kiện lịch sử: các sự kiện này xem ra được thực hiện đúng như những dự tính trước của thị kiến. Trước hết, đây là một con đường Thánh giá về các đau khổ của Giáo hội, do những cuộc bách hại mà Giáo hội phải chịu trong suốt thế kỷ XX. Rồi đến vụ mưu sát “bằng vũ khí” vào chính ngày kỷ niệm việc hiện ra lần thứ nhất của Ðức Trinh Nữ Maria tại Fatima. Ðây là sự kiện độc nhất trong thế kỷ này: một vị Giáo Hoàng bị tử thương và thực sự xém chết. Thị Kiến “nói lên sự thật”, như ÐTC và ÐHY Ratzinger đã nhận xét; thị kiến cho phép nhận ra một sự phù hợp, sự phù hợp này hơn nữa đã được Chị Lucia xác nhận.

Hỏi – Cái gì đã làm cho Chị Lucia nghĩ rằng thời gian tốt nhất để tiết lộ Bí Mật Thứ Ba là sau năm 1960?

Ðáp – Ðây là một câu hỏi không tìm ra câu trả lời dễ dàng. Như tôi đã tả lại trong cuộc nói chuyện với Chị Lucia: những lời của Chị mang đến cho ta một giải thích có thể chấp nhận được, nhưng việc giải thích này thực sự chưa thỏa mãn. Chúng ta cần nhớ điều này là Chị Lucia đã viết lại các chuyện xẩy ra năm 1944, và có thể năm 1960 đối với Chị, đánh dấu một chân trời đủ xa cách, để việc tiên tri kia thành sự thật.

Hỏi – Chị Lucia có nói lên những tâm tình của mình khi biết tin về vụ mưu sát Ðức Gioan Phaolô II không?

Ðáp – Chị Lucia đã bị xúc động sâu xa, bởi những tin tức về vụ mưu sát Ðức Phaolô VI tại Manila xẩy ra ngày 27 tháng 11 năm 1970. Chúng ta còn nhớ Ðức Phaolô VI là Vị Giáo Hoàng đầu tiên đến Fatima trong năm 1967 (kỷ niệm 50 năm Ðức Trinh Nữ hiện ra tại đây) và ngài đã gặp người được thấy Ðức Mẹ hiện ra (Chị Lucia). Năm 1981, chiến thuật và sự trầm trọng của vụ mưu sát Ðức Gioan Phaolô II thể hiện sự thật kinh khủng của phần thứ ba của Bí Mật Fatima. Chị Lucia một lần nữa đã sống chiều ngày 13 tháng 5 năm 1981 sự đau khổ kinh khửng mà ba trẻ em mục đồng đã cảm thấy trong lúc nhận được thị kiến; Chị Lucia không thể quên được lời nói đầy âu yếm của Giaxinta trong lúc đó: “Thật tội nghiệp Ðức Thánh Cha; tôi phải ăn năn đền tội nhiều cho các người tội lỗi”.

Hỏi – Ngày nay Chị Lucia nghĩ gì?

Ðáp – Chị Lucia không phải là một người gây thảm hại quá mức độ. Chị rất bình thản và vui mừng, bởi vì lịch sử đã theo một con đường khác với những dự kiến buồn thảm được nghe nói trong năm 1917. Xem ra có người không đồng ý, vì lời tiên tri không hoàn tất đúng như bản văn đã nói: “cái chết tức khắc (của ÐTC) và về đệ tam thế chiến, chiến tranh nguyên tử, gây nên chết chóc và tàn phá kinh khủng”. Nhưng thái độ “bi quan” này, như Ðức Hồng Y Ratzinger đã nói, thì phù hợp với Thuyết định mệnh không thể tránh được, hơn là phù hợp vói sự tín nhiệm dựa trên niềm hy vọng Kitô. “Không có một số phận nào lại không thể thay đổi được.Ðức Tin và lời cầu nguyện là những sức mạnh có thể ảnh hưởng trong lịch sử và sau cùng lời cầu nguyện trở nên hiệu lực hơn các viên đạn bắn ra, đức tin hùng mạnh hơn hơn những chia rẽ”.

Hỏi – Câu hỏi sau cùng. Thưa Ðức Cha, có thể có nguy hiểm này hay không: là khi bí mật được tiết lộ rồi, thì cả sứ điệp Fatima sẽ đi vào trong lãng quên của một thế giới, hiện vẫn còn bị chiến tranh, bạo động, bất công và sai lạc luân lý?

Ðáp – Thực ra có nguy hiểm. Nhưng tôi hy vọng rằng: sứ điệp Fatima không ngừng nói với các tín hữu. Chính vì thế giới còn chiến tranh, chia rẽ, bạo động, bất công và những sai lạc luân lý, nên cần phải khởi sự lại từ trung tâm điểm Phúc Âm. Ðàng khác, những tấn công chống lại Giáo hội và các tín hữu, với sức đè nặng của đau khổ mà Giáo hội và các tín hữu mang trên mình, từ năm 1981, vẫn không hết, trái lại vẫn còn tiếp tục. Cho dù lời kêu gọi trở lại và ăn năn xám hối, được rao giảng từ đầu thế kỷ XX và cách riêng cho thế kỷ này, lời kêu gọi vẫn giữ trọn tính cách thời điểm của nó. Như ÐTC đã viết trong một sứ điệp năm 1996: “Lời mời gọi liên lỉ của Ðức Maria rất thánh về ăn năn sám hối không là gì khác, mà chỉ là việc biểu lộ sự lo lắng của Người Mẹ đối với số phận của gia đình nhân loại: cần phải trở lại và xin ơn tha thứ”.

Ngày 13/05/2000, Chị Lucia đã hiện diện tại Fatima, trong lúc đại diện Giáo hội tiết lộ các Bí mật, sau thánh lễ Phong Chân phước cho Phanxicô và Giaxinta.

 BI MẬT PHẦN THỨ NHẤT:

Ðức Bà cho chúng con thấy một biển cả lửa hồng dường như ở dưới mặt đất. Chìm ngập trong lửa này là quỷ dữ và các linh hồn dưới hình thể con người, giống như những cục than hồng trong suốt, đen đủi hoặc xám xịt. Họ nổi lên trong đám cháy, bị các ngọn lửa nâng lên cao, những ngọn lửa này phát ra từ thân mình họ cùng với một đám khói lớn. Họ lại rớt xuống mọi phía, giống như những tia lửa trong một đám cháy lớn, vô trọng lượng hoặc mất thăng bằng, và giữa những tiếng la hét và rên rỉ vì đau đớn và tuyệt vọng, làm

 

 kinh khiếp chúng con và làm chúng con run lên vì sợ hãi. Các quỷ dữ có thể được phân biệt do các hình thù gây kinh hãi và ghê tởm, giống như những con vật khủng khiếp và chưa bao giờ thấy, tất cả đều đen đủi và trong suốt. Thị kiến này kéo dài một lúc. Làm sao chúng con có thể bày tỏ lòng biết ơn cho xứng với Mẹ yêu dấu trên trời của chúng con, Ðấng đã báo trước cho chúng con trong lần Hiện ra thứ nhất khi hứa rằng Ngài đem chúng con về trời. Bằng không, con nghĩ rằng chúng con sẽ chết điếng vì sợ hãi và kinh khiếp.

 BÍ MẬT PHẦN THỨ HAI:

Sau đó mắt chúng con hướng về Ðức Bà. Ngài hết sức âu yếm và buồn bã nói với chúng con:

“Chúng con đã thấy hoả ngục, nơi mà các linh hồn tội lỗi đáng thương đi vào. Ðể cứu vớt họ, Thiên Chúa muốn thiết lập trên thế giới việc sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm. Nếu điều Mẹ nói với các con được thực hiện, nhiều linh hồn sẽ được cứu và sẽ có hoà bình. Chiến tranh sẽ kết thúc: nhưng nếu dân chúng không ngừng xúc phạm đến Thiên Chúa, một cuộc chiến tranh tồi tệ sẽ xảy ra trong triều Giáo hoàng của đức Piô XI. Khi chúng con thấy một đêm tối được chiếu sáng bởi một ánh sáng chưa từng biếât, chúng con hãy biết rằng đó là dấu chỉ lớn lao mà Thiên Chúa ban cho các con để biết rằng Người sắp trừng phạt thế gian vì những tội ác của nó, bằng chiến tranh, đói kém, và những bách hại đối với Hội Thánh và Ðức Thánh Cha. Ðể tránh điều này, Mẹ sẽ xin hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ, và Hiệp thông đền tạ vào ngày Thứ Bảy đầu tháng. Nếu lời cầu xin của Mẹ được chấp nhận, Nước Nga sẽ hoán cải, và sẽ có hoà bình; nếu không, nó sẽ phổ biến những lầm lạc trên khắp thế giới, gây nên những chiến tranh và bách hại cho Hội Thánh. Những kẻ lành sẽ bị giết hại; Ðức Thánh Cha sẽ đau khổ nhiều; nhiều quốc gia sẽ bị tiêu diệt. Cuối cùng, Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ sẽ toàn thắng. Ðức Thánh Cha sẽ hiến dâng Nước Nga cho Mẹ, và nó sẽ được hoán cải, và một giai đoạn hoà bình sẽ được ban cho thế giới”.

 BÍ MẬT PHẦN THỨ BA:

Sau hai phần mà con đã giải thích, phía bên trái của Ðức Bà và cao hơn một ít, chúng con đã thấy một Thiên thần cầm một thanh gươm bằng lửa nơi tay trái; nó lấp lánh và phát ra những tia lửa dường như sẽ đốt cháy thế gian; nhưng chúng tắt ngúm khi chạm đến ánh quang chiếu toả từ tay phải của Ðức Bà hướng về trần gian: chỉ về trái đất bằng tay phải, Thiên thần lớn tiếng thốt lên: ‘Ðền tội, Ðền tội, Ðền tội!’. Và chúng con thấy trong một luồng sáng lớn là Thiên Chúa: ‘một cái gì tương tự như cách người ta xuất hiện trong một tấm gương khi người ta đi ngang qua’ một Giám mục bận đồ trắng ‘chúng con có cảm nhận đó chính là Ðức Thánh Cha’. Các Giám mục, các Linh mục, các tu sĩ nam nữ khác leo lên một ngọn núi dốc thẳng, trên đỉnh núi có một Thánh giá lớn làm bằng thân cây thô nhám như thể của một cây bần với vỏ cây; trước khi đến đó, Ðức Thánh Cha đi qua một thành phố lớn, một nửa bị tàn phá và một nửa rung chuyển, với bước chân nghiêng ngả, buồn khổ vì đau đớn và ưu phiền, ngài cầu nguyện cho các linh hồn của những thân xác ngài gặp trên đường; khi đã lên đỉnh núi, quỳ dưới chân Thánh giá lớn, ngài đã bị một nhóm lính giết hại bằng đạn và mũi tên, và cùng một cách thức như thế các Giám mục, Linh mục, tu sĩ nam nữ khác, và các người giáo dân thuộc mọi giai cấp và địa vị xã hội khác nhau lần lượt bị giết hại. Bên dưới hai cánh tay của Thánh giá có hai Thiên thần, mỗi vị cầm trong tay một chiếc bình bằng pha lê, trong đó các ngài hứng máu của các vị Tử đạo và với máu đó các ngài rảy trên các linh hồn đang tiến về Thiên Chúa.

 Những Điểm Đáng Chú Ý Của Các Lần Hiện Ra Ở Fatima

 1.  Ngày Chúa Nhật 13/5/1917, Đức Mẹ đã hiện ra với 3 trẻ tại Cova Da Iria, làng Fatima và nói: “Ta từ trời xuống.  Ta muốn các con đến đây củng vào giờ này ngày 13 mỗi tháng cho đến tháng 10.  Ta sẽ cho biết Ta là ai? Và muốn gì?”. Hãy đọc Kinh Mân Côi hàng ngày để xin ơn hoà bình cho thế giới và chấm dứt chiến tranh.

2.  Ngày thứ Tư 13/6/1917, Đức Mẹ hiện ra lần 2, và nói với Luxia: “Chúa muốn cho con ở lại trần gian lâu hơn để làm cho người ta biết Ta và yêu mến Ta. Mẹ mong muốn các con cầu Kinh Mân Côi hằng ngày.

3.  Ngày thứ Sáu 13/7/1917, Đức Mẹ hiện ra lần thứ 3, ban cho các em điều Bí Mật, cho các em thấy Hỏa Ngục, và khuyên dạy các em cầu nguyện: “Lạy Chúa Jesu, con xin dâng các việc này cho Chúa để cải hóa các kẻ có tội, và đền tạ những sự xúc phạm đến Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ. Mẹ mong muốn các con tiếp tục đọc Kinh Mân Côi hằng ngày để tôn vinh Ðức Mẹ Mân Côi, để xin ơn hoà bình thế giới và chấm dứt chiến tranh, vì chỉ Người người mới có thể cừu giúp các con … Mỗi khi các con đọc Kinh Mân Côi, sau mỗi mầu nhiệm hãy đọc: “Ôi Chúa Giêsu của chúng con, xin tha thứ cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi lửa hỏa ngục. Xin dẩn đưa các linh hồn lên Thiên Ðàng, nhất là những linh hồn cần Chúa thương xót hơn hết.

4.  Ngày Chủ Nhật 19/8/1917, Đức Mẹ hiện ra lần thứ 4 (vì ngày 13/8 các em đang bị bắt giữ để điều tra), khuyên bảo các em tiếp tục cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi, và phán bảo Luxia hãy dùng các phẩm vật người ta dâng cúng, để xây 1 nhà nguyện tại đây. Mẹ muốn các con tiếp tục đọc Kinh Mân Côi hằng ngày.

5.  Ngày thứ năm 13/9/1917, Đức Mẹ hiện ra lần thứ 5, và cũng khuyên bảo các em tiếp tục cầu nguyện chuỗi Mân Côi để được hòa bình. Hãy tiếp tục đọc Kinh Mân Côi để xin chấm dứt chiến tranh.

6.  Ngày thứ bảy 13/10/1917, Đức Mẹ hiện ra lần thứ 6, và cũng là lần cuối cùng, và phán bảo: “Ta là Nữ Vương Mân Côi.  Các con hãy tiếp tục lần chuỗi Mân Côi.  Các kẻ có tội cần phải tự cải hóa và ăn năn xám hối.  Chúa bị xúc phạm quá nhiều rồi.  Chớ chi người ta đừng làm mất lòng Chúa nữa.  Cũng trong ngày hôm nay, Đức Mẹ đã làm một phép lạ cả thể, cho mặt trời nhảy múa trên không trung, phát ra nhiều ánh sáng kỳ dị, làm cho mọi người ăn năn thống hối và tin.

 BIẾN CỐ FATIMA VÀ ĐỨC THÁNH CHA GIOAN PHAOLÔ II

 Ngày 13/5/1981, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bị một thanh niên người Thổ Nhĩ Kỳ tên là Mehmet Ali Agca 23 tuổi ám sát hụt tại Quảng Trường Thánh Phêrô. Mehmet Ali Agca đã bắn 4 phát súng 9mm về phía Đức Thánh Cha lúc đó đang đứng chào dân chúng và Ngài đã ngã ra phía sau. Viên đạn thứ nhất trúng bụng, viên thứ 2 trúng tay trái, viên thứ 3 trúng ngực một bà Mỹ 60 tuổi, và viên thứ 4 trúng tay người phụ nữ Jamaica 21 tuổi. Lý do tại sao Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bị ám sát vẫn còn nằm trong vòng bí mật. Mehmet Ali Agca, sinh ngày 9 tháng 1 năm 1958, đã bị kết án tù chung thân về tội mưu sát ÐTC Gioan Phaolô II.

Trong Đại Năm Thánh 2000, ĐTC đã xin tổng thống Ý tha cho người sát hại Ngài, và Ali Agca sau 20 năm trong tù đã được Ý trao trả cho Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 2001, và tiếp tục ở tù ở quốc gia của mình vì tội sát hại một vị giám đốc nhật báo vào năm 1979.  Ngài đã vào tù thăm người đã bắn Ngài và đã tha thứ cho anh. Ali Agca có lẽ đã cảm kích cử chỉ của Đức Thánh Cha nên đã quỳ xuống hôn tay Ngài cách trân trọng.

Chính anh Ali Agca người đã bắn những cú chí tử vào Ðức Gioan Phaolô II, đã  hết sức ngạc nhiên, tại sao bị thương như vậy, mà ÐTC đã không chết. Việc ÐTC không chết, là vì có bàn tay Ðức Mẹ Fatima. Chính ÐTC đã công nhận như vậy và ngày 12-13/05/1982, ngài đã đến Fatima hành hương, để tạ ơn Ðức Mẹ và tuyên bố rõ ràng: “Ðức Mẹ Maria đã cứu sống tôi”.

Ðể ghi nhớ muôn đời, một trong các viên đạn được lấy ra lúc giải phẫu cho ÐTC,  tại Bệnh viện Bách Khoa Gemelli ở Roma, đã được ghép vào triều thiên của Ðức Mẹ tại Ðền Thánh Fatima trong dịp ÐTC đến hành hương tạ ơn 13/05/1982. Trong cuộc hành hương Năm Thánh 2000, ÐTC còn để lại một kỷ niệm khác nữa: đặt dưới chân Mẹ chiếc nhẫn Giám mục quí giá, do Ðức Cố Hồng Y Stefan Wyszynski, Giáo chủ Ba lan và TGM Varsovie, tặng cho ngài khi được bầu làm Giáo Hoàng (16/10/1978).  Còn chiếc giây lưng trắng bị đẩm máu trong vụ mưu sát tại Quảng trường Thánh Phêrô lúc 17giờ 10 phút ngày 13/05/1981, đã được để lại làm kỷ niệm tại Czestochowa, Ðền Thánh quốc gia Ba lan, nơi ÐTC đã đến hành hương nhiều lần trong những năm sinh sống tại Ba lan và cả sau khi đã làm Giáo Hoàng.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đã cho phổ biến chuỗi Mân Côi thứ 4, tức Chuỗi Sự Sáng thêm vào 3 chuỗi Mân Côi đã có từ lâu, có lẽ cũng xuất phát từ lòng tri ân Mẹ.

 THẾ GIỚI SAU CÁI CHẾT CỦA CHỊ LUCIA

Chị Lucia là một sơ nổi tiếng được nhiều người biết đến nhất của thế giới hôm nay cũng như Mẹ Têrêsa Calcutta. Thế nhưng, Chị Lucia vẫn sống trong vâng lời và yên lặng, chu toàn công việc tầm thường hằng ngày trong Tu viện Camêlô ở Coimbra, Bồ Đào Nha, chị không tìm cho mình được nổi tiếng ngoài công cộng, không bao giờ nói gì hơn những gì Mẹ Maria nói với chị.

Sự qua đời của chị là một dấu chỉ thời gian, nhất là chị qua đời vào ngày 13, ngày mà Đức Mẹ chọn để hiện ra mỗi tháng tại Fatima, có lẽ cũng là một dấu chỉ từ thiên đàng. Thế giới hôm nay đã xảy ra và đang đứng trước những biến cố lớn lao của chiến tranh, khủng bố, bệnh dịch, AIDS, thiên tai, bom nguyên tử, vi trùng, đặt bom nhà thờ và những giáo phái phản Kitô. Những gì sẽ xảy ra trên thế giới sau cái chết của chị Lucia vẫn tuỳ thuộc vào việc nhân loại thi hành các mệnh lệnh của Mẹ ra sao. Người Kitô hữu bước vào Mùa Chay, chuẩn bị cho cuộc Thương khó của Chúa Giêsu, chúng ta cần ăn chay, cầu nguyện nhiều hơn nữa cho sự ăn năn, trở về với Thiên Chúa của nhân loại.

Bước vào ngàn năm thứ ba, thế giới chứng kiến sự ra đi của hai người phụ nữ nổi bật về nhân phẩm, một là Mẹ Têrêsa Calcutta, một phản ảnh của tình yêu Thiên Chúa giữa những người cùng khổ; người kia là chị Lucia phản ảnh sự vâng lời, khiêm nhường, đơn sơ của Mẹ Maria. Và một nhân vật có liên quan tới biến cố Fatima và sự sụp đổ của thế giới cộng sản là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đang cần được mọi người cầu nguyện cho.

Thủ tướng Bồ Đào Nha Pedro Santana Lopes đã tuyến bố ngày thứ Ba là ngày quốc gia truy niệm tưởng nhớ sự qua đời của chị Lucia. Chị Lucia được nhiều người mến mộ, đặc biệt người Bồ Đào Nha và đã qua nhiều năm con mắt tâm linh luôn để ý tới những gì xảy ra với chị. Chi sẽ được chôn cất tại nhà dòng và một thời gian sau sẽ được di chuyển sau về gần Fatima, là trung tâm hành hương thu hút nhiều người.

nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

ĐẠO ÔNG BÀ

ĐẠO ÔNG BÀ

                                                            tác giả:  Phan Cường, OP

 Cha con, con hãy hết lòng tôn kính,

 Và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng đẻ đau

 Hãy luôn nhớ công ơn dưỡng dục sinh thành,

 Công ơn ấy, con sẽ lấy chi đáp đền cho cân xứng?

 (He 7,27-28)

 Đạo, theo người Á Đông, chẳng phải là tôn giáo với những cơ chế, giáo điều, nghi thức. Đạo cũng chẳng phải con đường tìm kiếm Chân lý cách thông thái minh triết khôn ngoan. Ngay nói về Đạo, người Việt cũng chẳng biết, mà phải đợi đến khi có các bậc thánh hiền Trung Hoa cũng trong vùng văn minh nông nghiệp trồng lúa nước nói lên cho.

 Ngàn năm làm ruộng, ngàn năm sống cùng thiên nhiên trời đất, ngàn năm xum vầy khôn lớn bên công cha nghĩa mẹ và tình thân ái xóm làng, người nông dân Việt Nam “thấy” tất cả thực tại gắn bó thiết thân đói no sống chết với mình là Đạo (Đạo ẩn trong đời).

 Như vậy, đối với người dân Việt, Đạo trở nên một lối sống không còn là luật lệ cứng nhắc phải giữ, như bữa cơm hằng ngày gia đình xum vầy, như những ngày lễ hội vui của làng hay của cả đất nước…

 I. NGUỒN GỐC ĐẠO ÔNG BÀ

 1.1. Tại sao phải thờ ông bà tổ tiên

 Dân tộc Việt Nam là dân tộc có tinh thần trọng nông do ảnh hưởng nông nghiệp trồng lúa nước, do đó có tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, phản ảnh đậm nét nguyên lý âm dương (thờ cúng trời đất, chim thú, tiên rồng…), khuynh hướng đề cao nữ tính (Bà Trời, Mẹ Đất, Bà Thuỷ, Bà Hoả, các nữ thần Mây-Mưa-Sấm-Chớp…), qua đó thể hiện rõ tính đa thần, tính cộng đồng (Thành Hoàng, tập thể gia tiên, ba vị thổ công…) và tính dân chủ, con người có trách nhiệm thờ cúng thần linh và ngược lại, các vị thần linh có trách nhiệm phù hộ độ trì cho con cháu sinh sống làm ăn. Thậm chí, còn mang tính bổn phận con thảo đối với ông bà cha mẹ hay thể hiện một niềm tin đối với một đạo nào đó.

 Với những phong tục tốt đẹp như vậy, việc cúng lễ là cần thiết và việc trọng kính tổ tiên không thể không có được. Đối với người lương (không theo đạo Công giáo) thì việc trọng kính tổ tiên là thờ phụng tổ tiên.

 1.2. Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên và con người

 1.2.1. Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên

 Trong con người có vật chất và tinh thần, vật chất gắn liền với tự nhiên, là giai đoạn chủ yếu trong quá trình phát triển của con người. Người Việt Nam truyền thống sống bằng nghề nông, trồng lúa nước, nên rất phụ thuộc vào tự nhiên; do đó, hình thành tín ngưỡng đa thần. Đó là những Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước, thần Mặt Trời, các Bà Mây, Mưa, Sấm, Chớp là những hiện tượng tự nhiên có vai trò to lớn trong cuộc sống của cư dân nông nghiệp. Ngoài ra, người Việt còn thờ các vị thần không gian (được hình dung theo thuyết Ngũ Hành Nương Nương, Ngũ Phương chi hành, Ngũ Đạo chi thần: coi sóc trung ương, bốn hướng và các ngã đường) và thần thời gian là Thập Nhị Hành Khiển (12 vị thần, mỗi vị coi sóc một năm theo Tí, Sửu, Dần, Mão…).

 Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên còn có việc thờ động vật và thực vật. Trong khi nếp sống trọng sức mạnh của những người du mục dẫn đến tục tôn thờ thú dữ (sói, hổ, chim ưng, đại bàng…) thì nếp sống tình cảm hiếu hoà của người Việt trồng lúa nước lại có tục thờ những con thú hiền như trâu, cóc, hươu, nai, chim, giao long…

 1.2.2. Tín ngưỡng sùng bái con người

 Như đã nói ở trên, đời sống con người gồm hai phần vật chất và tinh thần. Vật chất là những gì ở bên ngoài, cụ thể, ta có thể cân đo đong đếm để định giá và do đó có thể bắt nó phục vụ cho lợi ích của mình. Ngược lại, phần tinh thần của con người thì trừu tượng, khó nắm bắt, và bất cứ ai nếu một lúc nào đó nghĩ về ý nghĩa cuộc sống đều tin và công nhận có một đời sống Tâm Linh, và đó chính là đầu mối của tín ngưỡng sùng bái con người.

 Tín ngưỡng thờ cúng ông bà tổ tiên không phải là một tôn giáo, do đó không thể gọi là đạo được. Là một đạo phải có giáo chủ và giáo luật và việc hành đạo phải qua trung gian giáo sĩ. Người theo đạo Thiên Chúa, tuy không tôn thờ tổ tiên nhưng không phải là không trọng kính tổ tiên. Đặc biệt là những ngày giỗ. Tục ta tin rằng dương sao âm vậy: người sống cần gì, sống làm sao thì người chết cũng như vậy nghĩa là họ có một CUỘC SỐNG ở cõi âm như cuộc sống người trần trên dương thế. Hơn nữa, tục còn tin rằng các vọng hồn của người đã khuất luôn ngự trị trên bàn thờ để gần gũi con cháu, theo sát và giúp đỡ con cháu trong những trường hợp cần thiết; và ngược lại, nhiều người vì sợ vong hồn tổ tiên buồn nên đã tránh những hành vi xấu xa nên khi làm việc gì cũng suy tính kỹ lưỡng: không làm những việc trái với lương tâm, tỏ lòng hiếu thảo với tổ tiên và hợp tình với những người thân thuộc.

 Việc sùng bái con người có nhiều dạng khác nhau: sùng bái ông bà tổ tiên, sùng bái các vị thần tại gia (như đất có Thổ Công, sông có Hà Bá, Thần Tài, Tiên Sư, Tiên Chủ, Đức Thánh Quan, Thổ Địa…).

 Ngoài các vị thần sùng bái ở tư gia, còn có các vị thần chung của thôn xã hay toàn quốc được thờ tự nơi công cộng như Thành Hoàng: ngài là một vị thần cai quản toàn thể thôn xã, che chở cho dân trong thôn trong xã chống lại mọi ác thần, giúp đỡ cho thôn xã được thịnh vượng. Ví như các vị anh hùng dân tộc như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Lý Ông Trọng, Hai Bà Trưng, Bà Lê Chân… Khi sinh thời các vị này đã từng cứu sự nan nguy của quốc gia, giết giặc lập công, lúc chết được nhà vua và nhân dân nhớ ơn lập đền thờ tôn kính.

 Trong các vị thần được dân chúng Việt Nam tôn thờ, còn có 4 vị thần được coi là Tứ Bất Tử, tục truyền các vị này đã không chết và biến về trời. Tứ bất tử là: Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh Công Chúa, Tản Viên Sơn Thần và Phù Đổng Thiên Vương.

 1.3. Nghi lễ tế tự ở gia tộc

 Dân tộc Việt Nam là dân tộc có nhiều tín ngưỡng do tự tâm hay do được truyền đạo từ Trung Quốc, Ấn Độ, Châu Âu. Mỗi đạo đều có những giáo luật và giáo sĩ cũng như những nơi cử hành nghi lễ. Trong phạm vi này em xin nói phần tế tự ở gia tộc.

 Nhà nào sùng kính gia tộc cũng có bàn thờ tổ tiên ở giữa nhà. Nhà người tộc trưởng thường để gian giữa làm nhà thờ họ (từ đường). Trên bàn thờ, ngoài các đồ thờ như: đỉnh trầm, cây sáp (đồ tam sự hay ngũ sư), mâm bồng, giá chén; thì ở giữa có bài vị của tổ tiên. Những bài vị ấy của tổ tiên tứ đại, từ đời cụ trở xuống, vì bài vị tổ tiên ngũ đại (đời cố) thì phải chôn đi.

 Người chủ trì việc tế tự tổ tiên là gia trưởng, con trai trưởng, ở trong gia đình nhỏ, và tộc trưởng, trưởng nam, ở trong gia tộc. Những ngày phải tế tự là những ngày giỗ và tết. Mỗi năm cứ đúng ngày thọ chung của mỗi vị tổ tiên, tức là ngày kỵ hay ngày huý, thì gia trưởng phải liệu hương vàng trầu rượu cỗ bàn để cúng giỗ. Đầu thì khấn toàn thể tổ tiên, sau khấn riêng vong linh vị ấy về hưởng lễ.

 Ngoài ngày giỗ mỗi vị tiên nhân, còn các ngày tết Hàn Thực (3/3 ÂL, tết Thanh Minh (tháng 3 ÂL), tết Trùng Cửu (9/9 ÂL), tết Cơm Mới (tháng 9 ÂL), tết Thượng Nguyên (rằm tháng giêng), tết Trung Nguyên (rằm tháng 7), tết Hạ Nguyên (rằm tháng 10), và nhất là tết Nguyên Đán (từ 30 tháng chạp đến mồng ba tháng giêng thì có lễ tế chung cả tổ tiên, lễ rước và đưa ông bà). Ngoài các ngày giỗ tết ra, mỗi khi trong nhà có việc vui mừng, như lễ cưới, lễ thọ, ăn mừng thi đậu, khao vọng hay có việc buồn như lễ tang, lễ chay cũng đặt lễ để cáo tổ tiên.

 Những ngày tết lớn, người gia trưởng làm lễ ở nhà, rồi còn phải đến nhà thờ họ để làm lễ nữa.

 Vì việc tế tự tổ tiên là một nghĩa vụ nghiêm mật, con cháu không khi nào được bỏ, cho nên các nhà khá giả, người ta thường trích trong di sản một phần tư tài sản gọi là “phần hương hoả” giao cho người tộc trưởng hoặc người chi trưởng để lo tế tự tổ tiên ở nhà thờ họ và nhà thờ chi.

 Thường có một quyển sổ để ghi chép thế thứ và tên họ cùng ngày tháng sinh tử của tổ tiên gọi là gia phả. Những nhà phú quí thì gia phả thường chép cả công nghiệp sự trạng của tổ tiên như một bản sứ của gia tộc.

 2. ĐẠO ÔNG BÀ VÀ KITÔ GIÁO

 2.1. Trước Công đồng Vatican II

 Trong quá trình đi rao giảng Tin Mừng, một số thừa sai đã thấy tầm quan trọng của việc hội nhập văn hoá, cần có biện pháp cải tổ trên cơ sở nghiên cứu các tôn giáo lâu đời, học thuyết và tập tục của người bản địa. Người khởi xướng là Cha Mateo Ricci, dòng Tên: ngài lấy tên là Ký Mã Thi và phục sức theo lối Trung Quốc. Các vị này thấy sự gần gũi giữa Nho giáo với Tin Mừng của Chúa Giêsu. Các vị cho rằng: có thể chấp nhận một số tập tục truyền thống của Trung Quốc: thờ cúng tổ tiên với vài cải tổ mà vẫn phù hợp với luật Chúa và Giáo Hội.

 Giáo hoàng Alexandre VII kế vị Đức Innocente X, sau khi nghe toà điều tra phúc trình, ngày 23-3-1656, ngài đã ký sắc lệnh ủng hộ (ngược lại với sắc lệnh của vị tiền nhiệm) sáng kiến của các vị thừa sai này. Năm 1669, Đức Clêmentê cho phép tuỳ nghi sử dụng cho thích hợp. Tuy nhiên, ngày 19-3-1715, Đức Clêmentê XI ra Tông chiếu “Ex illa die” buộc mọi người phải thông hảo với Toà thánh, ra vạ tuyệt thông cho ai giữ lễ nghi đã bị bác bỏ, đồng thời buộc các thừa sai Đông phương phải tuyên thệ trung thành với Toà Thánh. Vua Khang Hy (Trung Quốc) coi việc bác bỏ lễ nghi này như một hành động nhục mạ quốc thể Trung Hoa, ông ra lệnh triệt hạ các Thánh đường, trục xuất các thừa sai và cấm dân Trung Hoa theo đạo. Những vị Giáo hoàng tiếp theo do áp lực của Giáo hội Tây Âu và một số dòng truyền giáo ở vùng châu Á (như Đa Minh) đã kịch liệt phản đối và tuyên bố phạt vạ tuyệt thông đối với ai vi phạm.

 Tại Việt Nam, Cha Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) cũng theo các thừa sai dòng Tên bên Trung Quốc cho phép giáo dân Việt Nam được thờ cúng Ông Bà Tổ Tiên. Tuy nhiên, các vị đã bị cấm cản từ phía Giáo Hội, Cha Bá Đa Lộc bị doạ phạt và tuyệt thông.

 Ngày 13-5-1658, Bộ Truyền giáo Lamã chỉ thị thật rõ khi cử hai giám mục đầu tiên sang Trung Hoa và miền Đông Á: “Có gì vô giá vô nghĩa cho bằng đem vào Trung Hoa và châu Á: nước Pháp, Tây Ban Nha, Ý hoặc một nước nào khác ở Âu châu, bổn phận chúng ta là đem Tin mừng cho họ. Đức tin không loại bỏ, không huỷ hoại mà còn bảo vệ lễ nghi và tập tục của các dân tộc, miễn là những lễ nghi và tập tục đó không có gì xấu (Trương Bá Cần, tạp chí Đối Diện số 1, tháng 7–1969).

 Trở lại lịch sử Giáo Hội những thời kỳ đầu, ta thấy Giáo Hội được đón nhận rộng rãi ở Châu Âu, có một phần đóng góp không nhỏ là Giáo Hội đã chấp nhận cái hay, cái tinh tuý của văn hoá đó, thánh hoá nó và mặc cho nó một ý nghĩa mới phù hợp với Tin Mừng. Ví dụ: Lễ Giáng Sinh vốn là lễ thờ thần mặt trời của người Lamã, Deus từ tiếng Zeus trong thần thoại của La-Hy. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Nhập gia tuỳ tục, đáo giang tuỳ khúc”.

 Các vị chức trách trong Giáo Hội thời đó không thấy được rằng các quốc gia Đông phương đã có một nền văn hoá đã định hình và phát triển lâu đời, không giống với các miền mà nền văn hoá đang còn buổi ban sơ. Các ngài muốn truyền đạo đã thấm nhuần nền văn hoá phương Tây, thiếu tôn trọng nếu không muốn nói là coi thường nền văn hoá phương Đông.

 Chúng ta: “Không nên oán trách họ (các thừa sai) nhưng phải nhận rằng họ đã để lại cho Giáo hội Á châu một di sản nặng nề (các Giám mục Á châu nhóm họp tháng 12-1970, tại Manila, nhân chuyến công du của Đức Giáo hoàng Phaolô VI tại đây).

 Vốn sẵn có ác cảm với đạo Công giáo, lại thêm sự khắt khe, cấm đoán trong việc thờ cúng Ông Bà Tổ Tiên, các nhà Nho lên án đạo này và cho đó là một thứ đạo ngoại lai; những người theo đạo là những người bất hiếu với Ông Bà Tổ Tiên. Cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu, một nhà nho yêu nước đã viết mạnh mẽ rằng:

 “Thà đui mà giữ đạo nhà,

 Còn hơn sáng mắt ông cha không thờ”.

 Các vị thừa sai trong thời ấy coi việc thờ cúng Ông Bà Tổ Tiên là một việc làm xấu xa, thậm chí còn xem đó là việc làm của ma quỉ, các vị không thể hiểu được người Châu Á nói chung và người Việt Nam nói riêng. Thánh Phanxicô Xaviê khi được những người Nhật Bản mới theo đạo hỏi về số phận Ông Bà Tổ Tiên của họ đã qua đời nhưng chưa kịp chịu phép Rửa, ngài trả lời họ không nghĩ ngợi: “Họ sa hoả ngục tất cả”. Chúng ta không thể trách những vị ấy được vì khi đó các ngài hiểu về các tôn giáo khác như thế: “Ngoài Giáo hội không có ơn cứu độ”.

 Ngày 26-3-1936, Thánh Bộ Truyền giáo ban Huấn dụ Pluries instantergue cất đi gánh nặng từ lâu đè lên lương tâm người Kitô hữu Nhật Bản: những lễ nghi hoàn toàn chỉ biểu lộ tinh thần quốc gia trong Thần đạo (Shintoisme). Trong huấn dụ Flane compertum est ngày 8-12-1939 về nghi lễ Trung Hoa đối với Khổng Tử và tổ tiên, ngày 9-4-1940 về nghi lễ Malabar bên Ấn Độ: thay bái gối bằng chắp tay cúi đầu, dùng đèn dầu thay đèn cầy, ngồi bàn toạ trên nền cung Thánh trong giờ cử hành lễ nghi phụng vụ.

 2.2. Đạo Ông Bà Tổ Tiên ở Việt Nam sau CĐ. Vatican II

 Công đồng Vatican II (1962-1965) bắt đầu thời kỳ “mở cửa” của Giáo hội Công giáo. Các nghị phụ của Công đồng đã xem xét, bàn bạc đến mọi lĩnh vực của Giáo Hội. Công đồng như một cột mốc chuẩn bị cho thời đại đổi thay mà chúng ta ngày nay đang sống. Vấn đề VĂN HOÁ được đặt ra mở đường cho phong trào hội nhập văn hoá và Tin Mừng hoá trong nửa sau thế kỷ 20 và bước vào thiên niên kỷ thứ ba.

 2.2.1. Thiên Chúa chỉ cho nhân loại con đường cứu rỗi

 Đức Giêsu một nhân vật lịch sử. Kitô giáo được thiết lập trên đất Palestin, trong môi trường văn hoá Sêmit và trên phương diện nào đó tiếp nối một phần tín ngưỡng Do Thái. Đức Giêsu, Đấng sáng lập, đã sai các môn đệ của ngài đi khắp thế gian rao truyền Tin Mừng cho tới tận cùng thế giới. Kitô giáo nguyên thuỷ được truyền lan và mau chóng hoà nhập vào trong những môi trường xã hội mới. Qua thời gian, Giáo Hội của Đức Giêsu ngày càng vững mạnh và trở nên cứng nhắc dẫn đến những chia rẽ.

 Suốt từ thời Trung Cổ và kéo dài cho đến tận những năm 60 của thế kỷ 20, những nhà truyền giáo thuộc Giáo hội Công giáo vẫn tự coi mình như những người đem “ánh sáng”, “ánh sáng Chúa Kitô”, đến cho những dân tộc bản xứ vốn còn trong “bóng tối”. Nền văn hoá, niềm tin, và cách thực hành tôn giáo của những dân tộc này là sai lầm. Chính các thừa sai tự coi mình như những người đem lời và sự hiện diện của Thiên Chúa cho những dân tộc không có đức tin này.

 Thực sự thì các thừa sai “chẳng đem Chúa” đến cho ai cả, vì Thiên Chúa luôn hiện diện trước mặt những con người đó nhưng họ chưa nhận ra. Có chăng các ngài đến làm chứng cho tính cách phổ quát của tình yêu Thiên Chúa, đến để sống đạo yêu thương của Đức Giêsu trong hoàn cảnh cụ thể. Giả sử mọi nền văn hoá khác đều là “ngoại lai”, “ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ”, thì xem ra Thiên Chúa của Kitô giáo là Thiên Chúa ích kỷ. Ngài chỉ ở giữa các Kitô hữu và hướng dẫn họ mà thôi, còn những người khác thì mặc. Đó hiển nhiên là một Thiên Chúa hà khắc và thiên tư của Cựu ước, chứ không phải là Đấng yêu thương toàn thể nhân loại.

 “Thánh Công đồng tuyên bố rằng chính Thiên Chúa đã chỉ cho nhân loại biết con đường, để nhờ đó, trong khi phụng thờ ngài, con người có thể được cứu rỗi và hạnh phúc trong Chúa Kitô” (Tuyên ngôn về Tự do Tôn giáo – Dignitatis Humanae).

 Công đồng Vatican II đã vẽ lại hình ảnh về một Thiên Chúa yêu thương khi công nhận giá trị tốt đẹp của các tôn giáo khác.

 “Các tôn giáo khác trên hoàn cầu đều cố công làm cho tâm hồn con người thoát khỏi những băn khoăn bằng nhiều phương thế khác nhau, bằng cách vạch đường chỉ lối, tức đề xướng những giáo thuyết và luật sống cũng như những lễ nghi phụng tự.

 Giáo hội Công giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó. Với lòng kính trọng chân thành, Giáo Hội xét thấy những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết kia, tuy có nhiều điểm khác với chủ trương mà Giáo Hội duy trì, nhưng cũng thường đem lại ánh sáng của chân lý, chân lý chiếu soi cho hết mọi người. Tuy nhiên, Giáo Hội rao giảng và có bổn phận phải kiên trì rao giảng Chúa Kitô, Đấng là “Đường, Sự Thật và Sự Sống” (Ga 14,6) nơi Người, con người tìm thấy đời sống tôn giáo sung mãn và nhờ người, Thiên Chúa giao hoà mọi sự với mình.

 Vì thế, Giáo Hội khuyến khích con cái mình nhìn nhận, duy trì và cổ động cho những thiên ích thiêng liêng cũng như luân lý và những giá trị văn hoá của các tín đồ thuộc các tôn giáo khác, bằng con đường đối thoại và hợp tác cách thận trọng và bác ái với tín đồ các tôn giáo ấy mà vẫn là chứng tá của đức tin và đời sống Kitô giáo” (Tuyên ngôn về Liên lạc của Giáo hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo).

 Tại Việt Nam, Hội đồng Giám mục cũng có một văn bản trình bày quan điểm của Giáo Hội đối với việc thờ kính ông bà tổ tiên.

 Chúng tôi, các Giám mục chủ toạ khoá hội thảo VII về Truyền bá Phúc Âm toàn quốc, tại Nha Trang từ ngày 12 đến 14-11-1974, đồng chấp thuận cho phổ biến và thi hành trong toàn quốc, những quyết nghị của Uỷ ban Giám mục về Truyền bá Phúc Âm ngày 19-4-1972, chiếu theo Thư Chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam ngày 14-6-1965, về các nghi lễ tôn kính ông bà tổ tiên như sau:

 “Để đồng bào lương dân dễ dàng chấp nhận Tin Mừng, hội nghị nhận định: “Những cử chỉ, thái độ, lễ nghi sau đây có tính cách thế tục, lịch sử, xã giao, để tỏ lòng hiếu thảo, tôn kính và tưởng niệm các Tổ tiên và các bậc anh hùng liệt sĩ, nên được thi hành và tham dự cách chủ động” (Thông báo HĐGMVN, 14-6-1965).

 1. Bàn thờ Gia Tiên để kính nhớ ông bà tổ tiên được đặt dưới bàn thờ Chúa trong gia đình, miễn là trên bàn thờ không bày biện điều gì mê tín dị đoan, như Hồn bạch…

 2. Việc đốt nhang hương, đèn nến, trên bàn thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ, giường thờ tổ tiên, là những cử chỉ thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép làm.

 3. Ngày giỗ cũng là ngày “Kỵ nhật” được “cúng giỗ” trong gia đình theo phong tục địa phương, miễn là loại bỏ những gì là dị đoan mê tín. Như đốt vàng mã… và giảm thiểu, cải cách những lễ vật để biểu dương đúng ý nghĩa thành kính, biết ơn ông bà tổ tiên, như dâng hoa trái, hương đèn.

 4. Trong hôn lễ, dâu rể được làm “Lễ Tổ, Lễ Gia Tiên” trước bàn thờ, giường thờ Tổ tiên, vì đó là nghi lễ tỏ lòng biết ơn, hiếu kính trình diện với ông bà. 

5. Trong hôn lễ, được vái lạy trước thi hài người quá cố, đốt hương vái theo phong tục địa phương để tỏ lòng cung kính người đã khuất, cũng như Giáo Hội cho đốt nến, xông hương, nghiêng mình trước thi hài người quá cố…

 6. Được tham dự nghi lễ tôn kính vị Thành Hoàng, quen gọi là “Phúc Thần” tại đình làng, để tỏ lòng cung kính biết ơn những vị mà theo lịch sử đã có công với dân tộc, hoặc là ân nhân của dân làng, chứ không phải vì mê tín như đối với các “yêu thần, tà thần”.

 Trong trường hợp thi hành các việc trên đây nếu sợ có sự hiểu lầm, nên khéo léo giải thích qua những lời phân ưu, khích lệ, thông cảm… Đối với giáo dân, cần phải giải thích cho hiểu việc tôn kính Tổ tiên và các vị anh hùng liệt sĩ, theo phong tục địa phương, là một nghĩa vụ hiếu thảo của đạo làm con cháu, chứ không phải là những việc tôn kính liên quan đến tín ngưỡng, vì chính Chúa cũng truyền “phải thảo kính cha mẹ” là giới răn sau việc thờ phượng Thiên Chúa.

 2.2.2. Thực tiễn sinh động

 Cộng đồng Vatican II kết thúc đã gần nửa thế kỷ, Thượng Hội đồng Giám mục Á Châu vừa họp xong chưa đầy một năm, có nhiều đổi thay nhiều cách nhìn mới trong Giáo Hội về vấn đề văn hoá. Nhưng đối với đa số người Việt nói chung và người Việt công giáo nói riêng, những đổi mới đó vẫn còn xa lạ vì thế vẫn còn tồn tại những hiểu lầm đáng tiếc (người tân tòng là con trai trưởng, hôn nhân không cùng tôn giáo…). Nhưng xét cho cùng đó chỉ là cớ che đậy những mâu thuẫn, những bất đồng khác.

 Quan niệm theo Chúa là bỏ bàn thờ ông bà tổ tiên không còn đúng nữa. Trong nhà, bàn thờ tổ dù có hay không, được trưng bày cách này hay cách khác, nhưng tấm lòng của con cháu vẫn tưởng nhớ về những bậc sinh thành đã khuất. Lòng tưởng nhớ đó được thể hiện qua việc cầu nguyện, trong thánh lễ hay kinh nguyện chung của con cháu, cho linh hồn người đã khuất trong ngày giỗ kỵ. Với nhiều người không Công giáo Việt Nam, rằm tháng 7: ngày xá tội vong nhân, người Công giáo có tháng 11 cầu cho các đẳng linh hồn. Thanh minh trong tiết tháng 3, cũng như những người Việt Nam khác, các tín hữu Công giáo cũng lợi dụng tiết xuân trở về thăm lại nơi yên nghỉ của những người thân thuộc ông bà cha mẹ, sửa sang lại phần mộ của họ. Tại nhiều nơi, ngày 2-11 và ngày Mồng Hai tết hằng năm, thánh lễ được tổ chức ngay tại nghĩa trang. Trong bầu không khí tĩnh lặng của buổi chiều tàn, từng làn khói hương trầm nghi ngút, cả gia đình cùng quây quần bên phần mộ của người thân cùng hiệp dâng thánh lễ cầu cho ông bà tổ tiên. Thật cảm động bầu khí linh thiêng của mầu nhiệm Hội thánh cùng hiệp thông.

 Trong tâm thức người Việt, sự tôn kính các đấng sinh thành (dù còn sống hay đã qua đời) đã ăn sâu trong lòng như hình ảnh cây đa cổng làng, như luỹ tre xanh… Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, lòng tôn kính này đã giảm sút ít nhiều. Việt Nam đang trên con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá. Ngôi làng với luỹ tre xanh đang dần được thay thế bằng những toà nhà bê tông sừng sững mang đường nét mạnh mẽ nhưng cô đơn như những con người sống trong đó. Mái nhà che chở cho gia đình 3 thế hệ đang lung lay.

 Tại Thượng Hội đồng Giám mục Á châu 1998, một nghị phụ đã nêu lên một vấn đề về mục vụ liên quan đến công cuộc rao giảng Tin Mừng tại Lục địa Á châu: “Đó là vấn đề liên quan đến việc tôn kính ông bà tổ tiên tại Việt Nam. Dù là một thiểu số, nhưng sự hiện diện của người Công giáo Việt Nam rất quan trọng trong việc thăng tiến con người. Nhưng chính vì tính cách thiểu số này, mà người ta cần phải có can đảm đề nghị và củng cố tại Á châu một “Giáo Hội như một gia đình” dấn thân rao giảng Tin Mừng, mà đặc điểm là tình yêu thương, chớ không phải là một tính toán hoặc trục lợi. Và tiêu chuẩn duy nhất để đo lường việc rao giảng là chính tình yêu đối với Chúa Kitô và tính cách nhưng không của các ơn Chúa ban”. (Thượng Hội đồng Giám mục, Phiên khoáng đại thứ 9, thứ sáu 24-4-1998, prepared for internet by Msgr. Peter Nguyễn Văn Tài, Radio Veritas Asia, Philippines).

 Như vậy, đạo ông bà tổ tiên không phải chỉ là kính nhớ người đã khuất, nhưng còn là sự chia sẻ hiệp thông với tha nhân, những người sống xung quanh ta, nhất là ông bà chú bác trong dòng họ. Đó chính là sống Tin Mừng, sống tình yêu Thiên Chúa nơi trần gian này với Đức Giêsu đã dạy:

 “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).

 KẾT LUẬN

 Là người Việt, ai chẳng thuộc lòng câu ca dao:

 “Công cha như núi Thái Sơn

 Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

 Một lòng thờ mẹ kính cha

 Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.

 Thờ cha kính mẹ không chỉ là tôn kính đối với những người sinh thành dưỡng dục ta nên người mà còn là những người đã xây dựng nên và gìn giữ cho giang sơn gấm vóc này được thanh bình. Như vậy, việc thờ kính ông bà tổ tiên là truyền thống hết sức quí báu của dân tộc ta. Trong đà tiến công nghiệp và đô thị hoá, người Việt Nam cần phải bảo tồn và phát huy truyền thống tốt đẹp này hầu trụ đỡ cho rường mối gia đình ngày càng phải chịu nhiều áp lực của xã hội tiêu thụ hướng chiều về vật chất. Người Công giáo lại càng phải ra công học hỏi để hội nhập nét văn hoá rất Việt Nam này vào trong Kitô giáo để tiến tới xây dựng Giáo hội Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.

                                                                ***

 Tài liệu tham khảo

 Tạp chí

 – Thái Sơn, “Ngẫm nghĩ về cuộc nhập thể văn hoá của Giáo hội Việt Nam”, Thời sự Thần học, số 10-1997.

 – GROOME, Thomas, K’Bao dịch, “Hội nhập văn hoá xúc tiến thế nào trong khung cảnh mục vụ”, Thời sự Thần học, số 12-1998.

 – Hoành Sơn, “Hội nhập văn hoá và tầng nền tâm hệ Việt Nam”, Hợp tuyển Thần học (tập phổ biến thần học, phát hành không định kỳ), số 16 năm VI (1996).

 – Đặng Chí San OP, “Đạo ẩn trong đời” Nguyệt san Công giáo và Dân tộc, số 43, tháng 7-1998.

 Các sách

 – Thánh Công đồng Vatican II, Phân khoa Thần học, Giáo Hoàng học viện Pio X, Đà Lạt.

 – Lm. Bùi Đức Sinh, OP, Lịch sử Giáo hội Công giáo, in lần thứ hai, Chân lý, Sài Gòn, 1994.

 – Lm. Bùi Đức Sinh, OP, Giáo hội Công giáo ở Việt Nam.

 – Lm. Bùi Đức Sinh, OP, Dòng Đaminh trên đất Việt, in lần hai, Sài Gòn, 1993.

 – Lm. Thiện Cẩm, OP, Tạ ơn người đã chết.

 – Lm. Thiện Cẩm, OP, Cỏ dại ven đường (tập I), Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế, in lần thứ ba, 1997.

 – Nguyễn Chính Kết, Thích ứng và hội nhập văn hoá trong truyền giáo, TP. HCM, 1998.

 – Lý Chánh Trung, Tôn giáo và dân tộc (in lần thứ nhất), Sài Gòn, Lửa thiêng 1973.

 – Kỷ yếu hội nghị khoa học tại TP. HCM ngày 11-12/3/1988. Một số vấn đề lịch sử đạo Thiên Chúa trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Viện KHXH & Ban Tôn giáo (Lưu hành nội bộ), TP. HCM 1988.

 – Đào Duy Anh, Việt Nam văn hoá sử cương, Xuất bản Bốn Phương, Viện Giáo khoa – Hiên Tân Biên (tái bản).

 – Toan Ánh, Tín Ngưỡng Việt Nam (quyển thượng), TP. HCM, NXB TP. HCM, 1992.

 – Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, TP. HCM, NXB TP. HCM, 1996.

 (TSTH số số 1-2010)

 Phan Cường, OP

Nguồn: Đaminh VN

nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Tìm hiểu về bàn thờ Ông Thiên

Tìm hiểu về bàn thờ Ông Thiên

 Tục thờ Thông Thiên

 Tục thờ Thông Thiên là một tín ngưỡng thờ Trời phổ biến ở miền Nam nước ta. Theo tín ngưỡng dân gian, Trời được xếp trước Phật trong các đối tượng được thờ, theo thứ tự “Trời – Phật – Thánh – Thần”, nên việc thờ Trời là việc đầu tiên của mỗi người, mỗi nhà.

 Trước năm 1975, ở các vùng quê Nam Bộ, hầu như nhà nào cũng có đặt một bàn thờ Thông Thiên trước nhà (nhiều khi gọi là bàn thờ Ông Thiên). Bàn thờ thường được làm bằng gỗ đơn sơ, gồm một cây cột cao khoảng 1,5 m, phía trên đặt một tấm ván hình vuông, mỗi cạnh dài khoảng 0,4 m, khá giả thì đổ cột bê-tông và dán gạch men. Trên bàn thờ lúc nào cũng có một lư hương và mấy ly nước mưa (loại ly nhỏ uống trà).

 Vào những ngày quan trọng như mồng một, ngày rằm thì có thêm hai chén đựng gạo, muối và mấy dĩa hoa quả. Hằng ngày, vào lúc chập tối, chủ nhà đốt một nén nhang, chắp tay đứng trước bàn thờ khấn vái, cầu Trời ban phước lành, sức khỏe, bình an… hy vọng qua làn khói nhang tỏa lên Trời mang theo những lời cầu khẩn của gia chủ, để nguyện vọng được “thông” đến Trời (thông thiên), để Trời phù hộ cho người thân và gia đình mình.

 Bàn thờ Thông Thiên

 Bàn thờ Thông Thiên là nơi nối kết tâm linh giữa con người với Trời, với tổ tiên, nơi giữ mối liên hệ giữa Trời và Đất, giữa người sống và người đã khuất. Điều này thể hiện bằng việc thắp nhang thường xuyên mỗi ngày, vào lúc chập tối – là thời điểm giao nhau giữa ngày và đêm, nén nhang được cắm trên lư hương – nơi ở giữa Trời và Đất.

 Hình thức thờ Trời cũng được thực hiện trong nhiều tôn giáo xuất hiện ở miền Nam. Đạo Cao Đài thờ Thiên Nhãn, có nghĩa là “mắt của Trời”, với biểu tượng hình một con mắt, tượng trưng cho Thượng Đế toàn năng, thấu rõ tất cả những hành vi của con người. Đạo Hòa Hảo ngoài việc thờ Cửu Huyền Thất Tổ và các anh hùng liệt sĩ có công với đất nước, mỗi gia đình tín đồ còn có một bàn thờ Thông Thiên trước sân nhà để tưởng nhớ Trời Đất.

 Đối với người nông dân, ông Trời được xem là đối tượng có tài năng, có phép màu và có lòng từ bi để cứu giúp con người, nên mỗi khi gặp tai nạn thì “cầu Trời, khẩn Phật” để cho “tai qua, nạn khỏi”. Trời có khi lại hữu hình, và cũng đồng dạng với con người nên được gọi là “Ông”, ông Trời có mắt: “Trời ơi ngó xuống mà coi. Vợ tôi nó đánh bằng roi trâm bầu” (ca dao), và cũng có tai “Ai ơi chớ có ăn lời. Bụt kia có mắt, ông Trời có tai” (ca dao). Và ông Trời là người có trách nhiệm nên người ta tin rằng “Trời sinh voi, Trời sinh cỏ”, “Trời sinh, Trời dưỡng”, “Trời không phụ lòng người”.

 Như vậy, ông Trời từ một “đấng siêu nhiên” đã đi vào nhà người nông dân Nam Bộ, thấu hiểu tâm tư, tình cảm, chứng kiến những vui buồn, thấy được những khó khăn, vất vả của người nông dân và sẵn sàng ra tay cứu giúp. Ông Trời trở nên gần gũi như ông bà, cha mẹ, như người thân trong gia đình, nên việc thờ Trời là hết sức bình thường, hết sức tự nhiên.

 Người Nam Bộ vốn chất phác và phóng khoáng trong cuộc sống và sinh hoạt nên sự hỗn dung trong việc thờ tự cũng được biểu hiện rõ nét. Người ta dễ nhận thấy nhiều bàn thờ Thông Thiên đôi khi còn có kết hợp thờ ông Tà bên cạnh, có khi là mấy hòn đá đặt bên cạnh lư hương, có khi là một góc nhỏ dưới chân bàn thờ Thông Thiên. Gặp ngày giỗ ông bà, hoặc ngày lễ, ngày Tết, cúng tổ nghề, tổ nghiệp… người ta cũng kết hợp luôn để cúng “ông Trời”.

 Nếu trong nhà có một mâm cơm cúng thì trên bàn thờ Thông Thiên cũng có lễ vật, hoặc là hoa quả, hoặc dĩa xôi, có khi rượu thịt. Ngày tất niên, gia đình nào cũng có mâm ngũ quả đặt trên bàn thờ Thông Thiên, hoặc trái dưa hấu tròn đầy đặn để cúng Trời, cầu nguyện cho sự sung túc cả năm.

 Hiện nay, nhiều địa phương ở Nam Bộ vẫn còn giữ tục lệ này, nhất là những vùng nông thôn. Quan sát bàn thờ Thông Thiên có thể nhận thấy sự mộc mạc, giản dị và chân thành của người dân đất phương Nam. Tuy nhiên, ẩn sâu trong đó là triết âm – dương đã tồn tại qua hàng ngàn năm với biểu tượng vuông – tròn vốn hiện hữu lâu đời trong tâm thức của người Lạc Việt.

 Bàn thờ hình vuông tượng trưng cho đất (thuộc âm), lư hương hình tròn tượng trưng cho Trời (thuộc dương). Khát khao vươn đến sự hoàn hảo của người phương Nam được thể hiện thường trực hằng ngày qua hình ảnh bàn thờ Thông Thiên: có vuông – có tròn, có âm – có dương.

 Theo Huỳnh Thăng (Cà Mau Online

 Bàn Thông Thiên

Huỳnh Ái Tông

http://thatsonchaudoc.com

 Trong tín ngưỡng dân gian miền Tây, người ta thấy có hình thức thờ phượng ở ngoài sân, thường gọi là Bàn Thông Thiên.

 Bàn Thông Thiên là danh từ để chỉ cho chỗ thờ phượng ở ngoài trời, thông thường nó gồm có một cây trụ cao hơn mặt đất chừng 2 thước, đặt ở trong sân nhìn thẳng vào chính giữa nhà, trên cây trụ người ta đặt một miếng ván vuông, hoặc một tấm xi măng cốt sắt cũng vuông, cạnh chừng 3 tấc, đơn giản nhất là người ta dùng miếng gạch tàu đặt lên đó.

 Trên chỗ thờ này, nhất thiết có một lọ cắm hương hình trụ bằng sành, đặt ở phía sau cùng, bên cạnh phía tay phải của người nhìn vào là một bình cắm hoa, trước lọ cắm hương đặt một cái dĩa đựng 4 chén chung nước. Dĩ nhiên nhà giàu người ta dùng toàn đồ sứ, nhà nghèo có khi người ta dùng lon sữa bò để cắm hương, dùng cái chai xá xị hay hủ tương để cắm hoa.

 Phía sau Bàn Thông Thiên có thể là cái hàng rào, hoặc trồng một cây hay chậu kiểng để làm bình phong, phía trước Bàn Thông Thiên người ta đắp đất cao hơn xung quanh, hoặc lót gạch, để sau cơn mưa nền khô ráo cúng lạy dễ dàng, xung quanh người ta trồng hoa hay đặt những chậu kiểng, làm tăng thêm chỗ trang nghiêm thờ phượng.

 Mỗi tối người ta thắp hương cúng trên bàn thờ ông bà ở trong nhà, sau đó ra thắp hương cho Bàn Thông Thiên. Lạy bàn thờ ông bà bốn lạy, người ta cũng lạy Bàn Thông Thiên bốn lạy.

 Vì sao có Bàn Thông Thiên, đây là câu hỏi chưa có trả lời thỏa đáng, có người cho rằng xưa người ta lập hương án trước nhà để nghinh đón vua, sắc thần … vì lập rồi dẹp, dẹp rồi lập cho nên người ta làm như vậy cũng như hương án để lưu niên, khỏi tốn công lập và dẹp. Thoạt tiên nghe thuyết này cũng có lý nhưng không thực tế, vì đất miền Nam mới có sau này, vua chẳng hề ngự tới, còn sắc thần rất ít làng có, làng nào có mỗi năm cúng một hai lệ, đâu có phải hàng ngày, hàng tháng mà phải làm rồi để luôn biến hương án thành Bàn Thông Thiên.

 Có người cho rằng Bàn Thông Thiên là tín ngưõng dân gian thờ Trời Đất, Trời tròn là cái lọ cắm hương hình trụ, thân có miệng tròn, còn Đất vuông là cái bàn bằng gỗ hay xi măng hoặc miếng gạch tàu. Dựng lên thuyết này xét ra hợp lý, như Vua hàng năm tế ở Đàn Nam Giao, gồm có một nền tròn xây trên một nền vuông, biểu hiện cho Trời, Đất đạo lý Âm, Dương ngũ hành sinh hóa. Bàn Thông Thiên nôm na thờ Trời Đất là hợp lý, nhưng thêm ý nghĩa Trời tròn, đất vuông chỉ là lối giải thích, bởi vì nó quá sâu sắc đối với người bình dân, họ không dụng tới nghĩa lý sâu xa ấy.

 Làm sao để giải thích vì sao người Nam có Bàn Thờ Thông Thiên này tức là thờ Trời Đất, nó không phải là một thứ Đạo như Đạo Cao Đài, Đạo Hòa Hảo, nhưng nó là tín ngưỡng. Cho rằng nó không phải là một Đạo vì nó không có giáo chủ, không có quy luật hành trì. Vậy thì do đâu mà có Bàn Thông Thiên ?

 Theo chúng tôi nghĩ, người Việt chúng ta vốn có sẵn tín ngưỡng, trong mỗi gia tộc đều có Từ đường, mỗi năm con cháu tụ tập lại để cúng quảy ông bà, thôn làng thì có đình chùa, đình thờ Thần hoàng, Thổ địa, chùa thờ Phật, Bồ Tát. Khi những người đầu tiên vào Nam lập nghiệp, những nơi có quy hoạch lập thành xóm, thành làng thì người ta cũng dựng ngôi Đình để thờ Thần, nhưng Thần không có Sắc của vua phong, không có tên tuổi là người ta thờ Thần linh để cầu được phước gọi nôm na là Phúc Thần.

 Có những người sống lẻ loi ở vùng đất mới, không thể dựng nên cái Đình, nhưng do có lòng tin ông Trời là đấng tạo hóa muôn loài, nên người ta lập bàn thờ lộ thiên ở trước sân nhà, chỗ trang trọng nhất để thờ đấng Tạo hóa, rồi nhà nọ bắt chước nhà kia, lâu ngày thành một thứ tín ngưỡng.

 Đã thờ Trời, thì phải gọi là Bàn Thờ Ông Trời cũng như Bàn Thờ Ông Địa ở trong nhà, sao lại gọi là Bàn Thông Thiên, có người cho rằng thoạt tiên gọi là Bàn Ông Thiên nhưng dần dần biến âm thành Thông Thiên, theo thiển nghĩ của chúng tôi, dân gian tin rằng ông bà thì ở trên bàn thờ, nhưng ông Trời không ở trên cái bàn thờ giữa sân đó, ông Trời vẫn ở trên Trời cao, cho nên thông qua chỗ thờ tự đó người ta kính ngưỡng, cầu nguyện “đấng Hoàng Thiên, hậu Thổ”, chính vì vậy mà người ta gọi là Bàn Thông Thiên, không ai gọi đó là Bàn Thờ Thông Thiên mà cũng không gọi là Bàn Ông Thiên.

 Đến năm Kỷ Mão 1939. ông Huỳnh Phú Sổ khai sáng đạo Phật Giáo tại làng Hòa Hảo tỉnh Châu Đốc, được gọi là đạo Phật Giáo Hòa Hảo, tín đồ tôn xưng ông là giáo chủ. Người đặt ra những bài cúng lạy Cữu huyền ở trong nhà, lạy bốn phương tám hướng ở Bàn Thông Thiên, cũng như ngày xưa đức Phật đã dạy Kinh Lục Phương cho chàng thanh niên Thiện Sinh vậy.

 Việc cúng lạy thì hàng ngày người ta thay nước cúng, thay hoa, buổi chiều tối thắp hương cúng lạy, nguyện: “Hoàng Thiên, Hậu Thổ phù hộ cho quốc thái, dân an mùa màng được thịnh vượng”. Những ngày rằm, mồng một, nhất là những ngày lễ Thượng Ngươn, Trung Ngươn, Hạ Ngươn, đêm Giao thừa người ta cúng trái cây hay bánh.

 Bàn Thông Thiên là tín ngưỡng của hầu hết người miền Nam, không riêng gì người ở Miền Tây hay Phật Giáo Hòa Hảo.

 Ngày 13-01-2012

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

“Này là Mình Máu Ta”

“Này là Mình Máu Ta”

                                                                                          tác giả: Tuyết Mai

 Đang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: “Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta”. Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông: “Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người”. (Mc 14, 12-16. 22-26).

Ai trong chúng ta trên trần gian này lại yêu nhau đến độ có thể dâng hiến chính thân xác và máu của mình cho người mình yêu bao giờ chưa nhỉ!? Một tình yêu tự hiến. Một tình yêu vô vị lợi. Một tình yêu mà không cần có sự đáp trả. Một tình yêu không có sự tính toán trước, không so đo, không tiếc nuối, không đắn đo, không cần đòi hỏi ở sự gì nơi người mình yêu. Yêu người một cách tuyệt đối. Yêu người một cách thiết tha. Yêu người một cách điên rồ. Yêu người một cách dại dột. Yêu người một cách thinh lặng, không một tiếng than, không một lời trách móc, không một hành động kháng cự.

 Yêu người mà người lại chẳng yêu ta, yêu một cách nhưng không, yêu một cách mù quáng, yêu một chiều, yêu chỉ biết chờ đợi. … một tình yêu đáp trả dù là thật khiêm nhường ở nơi người mình yêu như nhận được một nụ cười, một ánh mắt thông cảm, hay dù là một sự chờ đợi chẳng bao giờ có, vì làm sao có thể cắt nghĩa cho người mình yêu hiểu được rằng Người vẫn chờ vẫn đợi, dẫu biết rằng sự chờ đợi ấy vẫn hoài không.

Yêu người mà người chẳng biết chẳng hay. Yêu người mà cứ mong mỏi đợi chờ cho dù người yêu của mình đã ngoảnh mặt làm ngơ, hay còn tệ hơn nữa là biết tình yêu dâng hiến của Người, nhưng lại nhẫn tâm chà đạp một mối tình trinh nguyên thiêng liêng đó!?.   Người đã yêu con người, cho con người, và chết vì con người. Người đã hy sinh mạng sống của mình vì con người, và vì Người có một trái tim luôn rực lửa đỏ của yêu thương của trao ban và của mời gọi. Người sinh ra đời trên cõi trần gian này cũng vì Người muốn mời gọi con người đến cùng Người để được chia sẻ, cảm thông, an ủi, và yêu thương.  

 Vì Thiên Chúa hiểu được rằng trần gian là bể khổ. Trần gian là Sinh, Bệnh, Lão, Tử. Trần gian là đầy những Tham, Sân, Si. Nên Người muốn cùng chia sẻ với con người hiểu được rằng sự sống vĩnh viễn và hạnh phúc không phải là ở trên trần gian này, nên cho Con của Người là Giêsu đã phải được sinh ra trên trần gian này sống suốt 33 năm, rao giảng về Nước Thiên Chúa, là nơi mà Người Con Giêsu đã xuất thân, sẽ trở về, là Nơi mà Thiên Chúa muốn mời gọi tất cả con cái của Người cùng được sống hạnh phúc bên Người.

Thiên Chúa yêu con người đến đỗi Con của Người phải trải qua một cuộc đời sống tạm, trong thân xác yếu đuối của một người phàm, và để vinh danh Thiên Chúa Cha qua tình yêu trao ban nhưng không của Người Con là Thiên Chúa Ngôi Hai Giêsu. Một tình yêu vô bờ bến ấy, quả không thể nào tìm ra một ai khác trong chúng ta, ngoài ông Giêsu người Nazareth mà thôi!.

Trong chúng ta không biết có những ai đã từng trải qua một mối tình tuyệt vọng tương tự như ông Giêsu chưa nhỉ!?.   Tôi thiết nghĩ tình yêu một chiều này chắc hẳn cho chúng ta những sầu khổ, buồn tủi, đau đớn, và tuyệt vọng lắm lắm!.   Còn không thì trong cõi dương gian, chúng ta cũng đã từng đọc được rất nhiều chuyện tình hay xem được rất nhiều loại phim đại loại như thế!.   Tình yêu một chiều xẩy ra rất nhiều và rất thường cho những cậu học trò con nhà nghèo nhưng lại trèo cao, đi thương một mỹ nương con nhà giầu, để ngày thì thổn thức đêm về thì thức trắng ôm một mối tình tuyệt vọng.   Chỉ dám mơ tưởng về người yêu của mình trong giấc ngủ chập chờn, và thỉnh thoảng cũng được mãn nguyện vì được gặp người mình yêu trong giấc chiêm bao. … !!!?

Thưa tình yêu đời thường của con người đối xử với một con người là chỉ có thế, rất hạn hẹp, rất tính toán, như 2 lần 2 là bốn thực tế vậy mà khôn. … như trong một bài hát mẹ dậy con gái chọn chồng trước năm 75 mà tôi thường thỉnh thoảng nghêu ngao hát. Có phải trên đời yêu nhau phải biết tính biết toán, chứ không thì sẽ gặp hiểm họa trên đời nếu yêu nhau cái kiểu một túp lều tranh với 2 quả tim vàng như nghệ sĩ Hùng Cường và Mai Lệ Huyền đã một thời làm rung chuyển cả sân khấu khi 2 anh chị trình diễn bài hát ấy!.

 Nhưng tình yêu hải hà và độ lượng của Thầy Giêsu của chúng ta thì sao?. Trên thế gian trần tục này đã được mấy ai là tin vào Ngài thật sự?.   Đã có mấy ai là tin vào Bí Tích Thánh Thể mà Ngài trao ban nhưng không cho chúng ta hằng ngày?.   Tin mà tin ở mức độ nào cơ chứ?.   Tin đến mức độ mà chúng ta có thể nghĩ được rằng Ngài hiện diện với tất cả chúng ta qua mỗi Thánh Lễ?.   Và phép lạ của Ngài là có thể chữa lành cho thể xác và tâm hồn của chúng ta ngay cả chúng ta chỉ có mặt trong Thánh Lễ?.   Vì Ngài thật sự có hiện diện trên Cung Thánh và trong nhà thờ anh chị em ạ!.   Điều đó đã được xác nhận bao nhiêu ngàn năm nay rồi!.   Chỉ vì chúng ta không muốn nhìn nhận và tin vào Ngài đấy thôi!.   Chỉ vì chúng ta vẫn cứng lòng tin cho nên phép lạ vẫn không chữa cho chúng ta được. Cho nên chúng ta kiếm đủ mọi cớ để không tìm đến với Ngài.

Sở dĩ chúng ta muốn xa lánh Chúa, vì có phải trong chúng ta đang chất chứa đầy dẫy muôn ngàn thứ tội, mà chúng ta cố tình không muốn bỏ, cho nên chúng ta tìm kiếm muôn ngàn triệu cớ để không đến với Chúa?.   Chỉ cần một chiến dịch cúm heo (swine flu) là làm cho tất cả chúng ta có sự e dè và biểu lộ sự sợ hãi một cách thật lộ liễu và thật ngây ngô hay không?.   Thường đến giờ vị linh mục phán: “Các con hãy chúc bình an cho nhau” thì toàn thể giáo dân bắt tay nhau và trao cho nhau bình an của Chúa, nay sao lạ thế????.   Ai cũng sợ phải nắm tay nhau vì cái bệnh cúm heo, mà theo thống kê chính xác của bộ y tế trên toàn cầu thì số tử vong cho chúng ta một con số thật khiêm nhường, là chỉ độ vài chục người mà đã làm cho đức tin của chúng ta ra rung rinh và yếu kém đến độ thế ư!??.   So sánh sao bằng cái chết đói xẩy ra hằng ngày cho bao nhiêu con người sống trên một đất nước nghèo. Tôi thiết nghĩ đó mới là điều chúng ta đáng để ý tới, đáng để tâm, và đáng được chúng ta đem lòng thương xót và giúp đỡ họ.

Rồi thì đức tin vốn đã yếu kém của chúng ta, lại ngăn cản chúng ta không đến rước Máu Thánh Chúa, vì sợ lây bệnh cúm heo???.   Ôi, lậy Thiên Chúa lậy Thiên Chúa chúng con! Có phải Chúa đã từng chữa cho bao nhiêu người què quặt được đi đứng bình thường, bao nhiêu người mù được trông thấy, bao nhiêu người điếc được nghe, bao nhiêu người liệt lào được chỗi dậy và ca hát khen ngợi Thiên Chúa đấy sao!.    Bao nhiêu người phong cùi mà còn được lành sạch, người hoại huyết cũng được ơn Chúa ban cho lành sạch.  

 Chúa chữa lành cho tất cả những ai có lòng tin tưởng vào Ngài và ngay cả những người lương giáo. Còn chúng con là ai? Chúng con có phải hằng tuyên xưng đức tin của chúng con hằng ngày giữa muôn người là chúng con là người Kitô hữu. Người Kitô hữu phải tự hào về Thiên Chúa của mình tôn thờ chứ!.   Vâng, chúng ta phải biết hãnh diện về Thiên Chúa của chúng ta, vì Ngài chứng minh cho toàn thế giới biết rằng Ngài vẫn hằng ngày hiện diện trong nhà thờ, trong mọi Thánh Lễ, trong Bí Tích Thánh Thể, nhưng trong thực tế chẳng mấy ai tin Ngài có mặt và hiện diện ở đấy!.

Bởi đức tin của chúng con vẫn cứng cỏi quá Chúa Giêsu nhỉ! Nên chẳng phải cùng là con cái Chúa mà ai cũng may mắn gặp được Ngài cả đâu!.   Như có phải Ngài vẫn thường trách mắng những dân phariseu, biệt phái, và những nhà thông luật đạo đức giả xưa là bọn này sống giả hình.   Chúng sống y như những mồ mả tô vôi thật đẹp đẽ bên ngoài còn bên trong lòng của chúng thì chẳng khác nào chứa đựng những con giòi con bọ lúc nhúc trông thật ghê tởm. Chúng chỉ tôn thờ Ta trên môi miệng. Chúng chỉ đè những gánh nặng trên đôi vai của những người nghèo khổ còn chúng ư! Một ngón tay chúng cũng không muốn bị mỏi mệt.

 Chúng ăn cắp của những bà nghèo góa. Vâng, muôn đời thì ở mọi thời đại nào Chúa cũng vẫn gặp những con người như thế! Nhưng Thiên Chúa vẫn luôn chờ luôn đợi chúng con, và luôn cho chúng con có cơ hội để tìm gặp Ngài và trở về cùng Ngài, như tên tử tội cùng được đóng đinh bên phải của Chúa. Vì anh biết ăn ăn hối cải, nên Chúa Giêsu đã hứa ngay với anh trước khi Ngài trút hơi thở cuối cùng là anh sẽ được lên Trời ngay ngày hôm nay cùng với Ngài.

Lậy Chúa Giêsu Thánh Thể!

Chúng con là những con người bất toàn, bất xứng, tội lỗi, đớn hèn, không đáng để Chúa ghé mắt, nhưng vì chúng con được sinh ra trong một thân xác luôn yếu hèn hay chết này, chúng con luôn luôn cần có Chúa trong cuộc sống ngày lại ngày này!.   Lậy Chúa xin cho tất cả chúng con đồng hiểu được rằng, cuộc đời trần gian chỉ là nơi sống tạm, và cuộc sống Trên Trời mới là quê Hằng Sống miên viễn muôn đời, là cùng đích chúng con phải tìm đến.   Nếu chúng con không chịu sửa đổi thì e rằng linh hồn của chúng con sẽ bị ở một nơi mà lửa đời đời sẽ nung nấu chúng con đến thật khủng khiếp không có ngày ra Chúa ơi!!!!!.

Nguyện xin Ba Ngôi Thiên Chúa từ bi nhân hậu, chớ chê chớ bỏ lời chúng con nguyện, một luôn yêu thương và hằng dậy dỗ chúng con, như Chúa đã hằng yêu thương bang trợ cho tất cả con người nhân loại chúng con từ thuở muôn đời. Amen.

 ** Xin bấm vào mã số dưới đây để hát theo:

    http://www.youtube.com/watch?v=r5IedqhL7dU

    (Mình và Máu Thánh Chúa Kitô)

 Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

Mình Và Máu Thánh Chúa Kitô

By baohanh tran| 1 video

  1.  

Watch

TẠ ƠN CHÚA THÁNH THẦN

  TẠ ƠN CHÚA THÁNH THẦN

                                                                            Lm Phêrô Vũ Văn Hài

Reeng… reeng….

 – Alô! Cha ơi… Bà xã con bị bệnh rồi, đang trên đường đến bệnh viện. Xin cha giúp lời cầu nguyện cho bà xã của con nhá.

 – Được rồi. Chúng ta cùng cầu xin Chúa Thánh Thần thêm sức mạnh, giúp chị vượt qua cơn đau và xin Người thánh hóa và ủi an…

 Thế là chúng tôi, ở hai nửa quả địa cầu tâm đầu ý hợp cùng nhau cầu xin Chúa Thánh Thần.

 Hết một đêm trắng trên xe và nằm chờ vật vã trước phòng khám của Đại Học Y Dược tại Sài Gòn, cuối cùng cũng đến phiên của Chị vào khám bệnh. Thật là hồng ân của Chúa Thánh Thần, Chị chỉ bị “thiếu máu” và suy nhược mà thôi, ngoài ra không có bệnh gì trầm trọng. Anh Chị rộn rã lên đường về quê. Nỗi lo lắng sợ hãi và mệt nhọc sau 1 đêm trắng biến tan như bọt xà phòng.

 – Về tới nhà, lời đầu tiên mà Anh nhắc Chị là: “Lát nữa em đến nhà thờ để xin lễ tạ ơn Chúa Thánh Thần!”.

 – Chị ngạc nhiên: “Anh nói gì kỳ vậy?! Có thấy ai xin lễ tạ ơn Chúa Thánh Thần bao giờ đâu?”.

 – “Thì hôm qua mình xin ơn với Chúa Thánh Thần, hôm nay nhận được ơn, không tạ ơn Chúa Thánh Thần thì tạ ơn ai?” Anh trả lời gọn khô!

 – Chị… bí… nhưng xem chừng còn ấm ức, nên nhấc điện thoại gọi cho mình: “Cha ơi, ông xã con bảo phải xin lễ tạ ơn Chúa Thánh Thần. Con thấy kỳ kỳ sao ấy! Có xin lễ như thế được không cha?”

 – Được chứ. Được chứ. Quá được là khác! Đúng rồi, phải tạ ơn Chúa Thánh Thần!

 Mình trả lời chị mà lòng thẹn thùng. Cái cảm giác tẽn tò của “người thầy” đang ba hoa, thao thao bất tuyệt về mớ kiến thức suông bị “học trò” dạy cho một bài học cụ thể về việc áp dụng những lý thuyết ấy vào trong thực tế.

 Sau giây phút tịnh tâm, cảm giác thẹn thùng biến mất, thay vào đó là tâm tình tạ ơn Chúa vì một người giáo dân bình thường, lại là “đạo theo” mà có “lòng đạo” nhiệt thành, đức tin vững vàng và lòng mến sắt son đến thế. Tạ ơn Chúa Thánh Thần vì Người đã dạy mình một bài học thật cụ thể và sống động qua thái độ biết ơn chân thành của một người giáo dân.

 Thật thế, với một cách thế rất đặc biệt, Chúa Thánh Thần hiện diện trong cuộc đời ngay từ lúc mình cất tiếng khóc oe oe chào đời. Người thánh hóa mình trong Bí Tích Rửa Tội khiến mình nên con của Thiên Chúa và phần tử trong Giáo Hội. Chúa Thánh Thần đổ tràn 7 ơn thánh sủng trên cuộc đời trong ngày mình lãnh Bí Tích Thêm Sức. Người tác động cách hữu hiệu trong Thánh Lễ khiến bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa Kitô – lương thực thần linh nuôi hồn. Rồi trong ngày mình lãnh nhận thánh chức Linh mục, chính Chúa Thánh Thần thánh hoá và xức dầu cho mình tham dự vào chức Linh Mục thừa tác của Chúa Kitô. Và tiếp tục mãi như thế, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và ban ơn cho mình mỗi ngày để mình chu toàn sứ vụ Chúa trao phó cho đến khi mình dâng hy lễ cuối cùng của cuộc đời trong giờ phút trở về Nhà Cha.

 Hoạt động thánh hóa của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội, trong thế giới và trong chính bản thân mình là điều không thể phủ nhận. Mình xác tín điều này. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên mình được nghe một người giáo dân ngỏ ý “xin lễ tạ ơn Chúa Thánh Thần”, nên nghe “kỳ kỳ sao ấy” cũng phải. Từ xưa đến nay mình vẫn thường nghe, thường nói, thường làm và thường dạy giáo dân phải “cầu xin Chúa Thánh Thần” trước mỗi công việc, trước mỗi biến cố, trước mỗi dự tính… để Chúa Thánh Thần thêm sức, hướng dẫn, thánh hoá và kiện toàn. Nhưng tuyệt nhiên sau những công việc và những biến cố, mình chẳng còn nhớ gì đến Chúa Thánh Thần nữa. Có chăng chỉ “tạ ơn Chúa”! Đành rằng khi ta tạ ơn Chúa thì lời tạ ơn dâng lên Ba Ngôi Cha-Con-Thánh Thần. Nhưng để nhớ đến Chúa Thánh Thần cách đặc biệt qua hành vi tạ ơn Người thì dường như chưa hề có.

 Lạy Chúa Thánh Thần,

xin dạy con biết luôn chạy đến với Ngài

để được thêm sức và đỡ nâng

trong cuộc sống còn nhiều gai chông.

Xin dạy con luôn biết tạ ơn Ngài

trong từng biến cố, từng công việc và trong từng ngày sống của con.

Như thế, cuộc đời con mãi luôn là lời “tri ân”

vì con luôn cảm nhận rằng đời mình được bao bọc bởi biết bao hồng ân.

 http://yeuthuongvahienminh.blogspot.com

Lm Phêrô Vũ Văn Hài

nguồn: Maria Thanh Mai gởi