CHÂN PHÚC GIOAN PHAOLÔ II, VỊ BẢO TRỢ CÁC GIA ĐÌNH!

CHÂN PHÚC GIOAN PHAOLÔ II, VỊ BẢO TRỢ CÁC GIA ĐÌNH!

                                                         nguồn: vietvatican.net
 

Xin trích 3 chứng từ tri ân viết từ Ý gởi đến Văn Phòng Án Phong Chân Phước và Hiển Thánh cho Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

… Thư thứ nhất đề ngày thứ tư 15-2-2012.
Con là Anna Rita Meloni, mẹ của Leonardo 22 tuổi, sinh viên ngành kỹ sư. Ngày 28-12-2011 con trai con bị tai nạn lưu thông trầm trọng. Chiếc xe hư tan tành nhưng con trai con không hề hấn gì, kể cả không bị một vết trầy! Con xác tín rằng chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã can thiệp cứu sống con trai con. Thật thế. Vài ngày trước tai nạn, đã xảy ra hiện tượng sau đây. Hôm ấy con ở nhà, có cả con trai con nữa. Bỗng con nghe một tiếng động lớn. Con quay lại thì thấy bức ảnh treo trên tường bị rớt xuống. Đó là bức ảnh Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II còn trẻ đang giơ tay ban Phép Lành Tòa Thánh cho cả gia đình con. Con rất buồn vì thấy bức ảnh rơi nằm dưới đất, nhưng ngạc nhiên biết bao khi cầm lên thì thấy bức ảnh không hề hấn gì! Con đưa bức ảnh cho Leonardo xem và nói: ”Sẽ xảy ra điều gì đó, nhưng chúng ta sẽ được cứu sống!”
Con xin thêm một chi tiết khác. Vào buổi chiều xảy ra tai nạn, bên trong chiếc xe có cuốn sách của Antonio Socci ”Caterina”. Con bỏ sách này trong xe để đọc mỗi khi ngừng lái xe. Con liền lấy cuốn sách và vài vật dụng khác trong xe rồi đem về nhà. Mấy ngày sau, khi mở sách ra đọc thì ngạc nhiên biết bao, con thấy bên trong sách có ngăn bức ảnh Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kèm theo lời nguyện đã được Tòa Giám Quản Roma chuẩn y. Nhìn thấy bức ảnh, con càng thêm xác tín rằng, vào ngày xảy ra tai nạn, chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã âu yếm bảo trợ và cứu sống Leonardo.
Con xin bày tỏ cùng Cha lòng tri ân chân thành của con, hỡi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II kính yêu, về ơn lành Cha đã cầu bầu cùng Chúa cho chúng con. Xin Cha tiếp tục hiện diện với tình yêu thương trong gia đình con. Con cũng đặc biệt cầu nguyện cho tất cả các bạn trẻ luôn nhiệt thành yêu mến Cha. Con yêu mến Cha biết bao, hỡi vị Giáo Hoàng thánh thiện của chúng con.

… Thư thứ hai đề ngày thứ sáu 17-2-2012.
Con là Lara Facchini. Lần thứ nhất Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ra tay cứu giúp con diễn ra vào thời điểm ngài từ trần. Vài tháng trước đó con phải chịu một bạo hành tính dục khiến con vô cùng khiếp sợ khi phải ở nhà một mình hoặc phải đi ra ngoài một mình. Con trở thành một người luôn bám sát vào người thân trong gia đình! Các chữa trị tâm sinh lý lẫn thuốc men không đưa đến hiệu quả nào đáng kể. Chúa Nhật 3-4-2005 – hôm sau ngày Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II từ trần – con tự cảm thấy có sức mạnh lớn lao, và con ra khỏi nhà một mình để mua vé đi từ Milano về Roma. Tại nhà ga xe lửa con gọi điện thoại cho hôn phu hỏi xem anh có thể đến với con được không. Anh hiểu ngay tức khắc là có chuyện gì đó lớn lao lắm đang xảy ra. Kể từ giây phút ấy, con nắm trở lại trong tay cuộc đời con. Con không bao giờ quên cái kinh hoàng ghê tởm con trải qua, nhưng con cất nó vào văn khố và con khởi sự cuộc sống như trước.

Lần thứ hai Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II can thiệp vào cuộc đời con xảy ra cách đây không lâu. Tháng 5 năm 2011 con mất đứa con đang ở tháng thứ hai. Đây là cuộc mang thai đầu tiên rất mong muốn và chờ đón. Đến tháng 10, người ta tặng con lời kinh Tuần Cửu Nhật đọc cùng Đức Gioan Phaolô II. Cùng với hiền phu, chúng con làm Tuần Cửu Nhật để xin Chúa cho con một món quà đẹp nhất vào dịp Lễ Giáng Sinh. Vào ngày vọng lễ Giáng Sinh, con đến nhà thương lấy kết quả cuộc phân tích trước đó. Và con ngạc nhiên biết bao khi biết mình đã mang thai với ngày chính xác là 8-12-2011!

Giờ đây bào thai đã được 12 tuần lễ và mọi sự tiến triển tốt đẹp. Hàng tháng, hiền phu con và con đều làm Tuần Cửu Nhật với Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Hàng ngày, chúng con cầu nguyện cùng Đức Bà Mân Côi Pompei. Chúng con xin Đức Mẹ MARIA cho mọi sự tốt đẹp hầu con có thể ôm chặt vào vòng tay đứa con bé bỏng thân yêu của chúng con. Đã không biết bao nhiêu lần con kêu cầu cùng Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và mỗi lần đều được ngài ra tay cứu giúp con. Quyền năng chuyển cầu của ngài thật lớn lao! Đối với con, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã là Vị THÁNH!

… Thư thứ ba đề ngày thứ tư 18-1-2012.
Con là Sandra Maconi 35 tuổi và có 4 đứa con. Tháng 5 năm 2011 kết quả cuộc khám nghiệm cho biết con bị ung thư vú. Con bắt đầu ngay các cuộc chữa trị bằng hóa chất. Và hôm nay, ngày 18-1-2012, các bác sĩ nơi nhà thương bách khoa Modena cho biết là con đã khỏi bệnh! Con là người luôn kính mến Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và chúng con đã thành khẩn kêu cầu cùng ngài. Con tin chắc mình đã nhận được phép lạ khỏi bệnh nhờ lời chuyển cầu của Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan Phaolô II!

… KINH XIN ƠN NHỜ LỜI CHUYỂN CẦU CỦA ĐỨC CHÂN PHÚC GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

Lạy Ba Ngôi Chí Thánh, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho Giáo Hội Đức Chân Phúc Gioan Phaolô II và biểu dương nơi người lòng ưu ái của tình phụ tử Chúa, vinh quang thánh giá Đức KITÔ và sự huy hoàng của Thánh Thần Tình Yêu. Nhờ sự phó thác vô điều kiện của người nơi lòng thương xót vô biên của Chúa và nơi sự chuyển cầu từ mẫu của Đức Mẹ MARIA, người đã cho chúng con một hình ảnh sống động của Đức GIÊSU Chăn Chiên Nhân Lành và đã chỉ cho chúng con đường nên thánh, chiều kích thanh cao của đời sống kitô thường ngày, là con đường duy nhất đạt tới niềm hiệp thông vĩnh cửu với Chúa. Nhờ lời chuyển cầu của người, xin Chúa ban cho chúng con, tùy theo thánh ý Chúa, ơn chúng con van nài, với niềm hy vọng mãnh liệt người sẽ được nâng lên hàng Các Thánh của Giáo Hội.

(”www.karol-wojtyla.org”, Ioannes Paulus P.P.II, Karol Józef Wojtyla, Beatificationis et Canonizationis Servi Dei, Totus Tuus ego sum, Maria, et omnia mea tua sunt! Testimonianze)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

TRẺ BỤI ĐỜI

 

 TRẺ BỤI ĐỜI

Chăn gió màn sương đắp tối nay,
Trăn trở tuổi thơ kiếp lưu đày,
Đêm chưa tròn giấc ngày đã đến,
Mộng mị thế nào vẫn trắng tay…
Mưa bay lất phất hạt mưa bay,
Áo em rách nát đã bao ngày,
Đói lòng theo gót em từng bước,
Lôi kéo đời em thê thảm thay…
Sáng đi móc bọc chiều đem bán,
Tối ngủ góc nhà đói miên mang,
Tiền khô cháy túi mòn đôi dép,
Phố xá người đông chẳng ngó ngàng…
Liverpool.17/6/2012.
Song Như.


 CANH LÁ TÀU BAY

 Canh bầu canh bí khác chi nhau,
 Cớ sao vẫn nhớ canh thuở nào,
 Rừng xưa mẹ nấu ăn mỗi buổi,
 Chỉ lá tàu bay con ruốc khô…

 Ngọt cả đời con từng củ chuối,

Ấm áp lòng con miếng gừng tươi,
 Xa quê mới biết tình yêu nước,
Len lỏi trong hồn từng chút thôi…

Liverpool.15/6/2012.
Song Như.

VIỄN XỨ,

Làm sao quên được đời lưu lạc
Viễn xứ, QUÊ HƯƠNG vẫn ngập lòng
 Cũng bởi tình người luôn ấm áp
NƯỚC VIỆT muôn đời của cha ông

 Nên vẫn ấp ôm hoài bão lớn
HẬN SẦU đau buốt nỗi ly hương
 Vẫn muốn trao về niềm hạnh phúc
 Đời sau, con cháu khỏi tha phương.
 Liverpool.15/6/2012.
 Song Như.

NƯỚC VIỆT ngàn năm, QUÊ HƯƠNG tôi,
Hồn thiêng vang động bốn phương trời,
 Xa Xôi …xin nhớ về quê cũ,
 Cách núi, ngăn sông chớ đổi dời.

 Gom góp tình người khắp muôn nơi,
 Trao ban ân phước đến cho đời,
 HẬN SẦU xin hãy thôi lưu luyến,
 Gieo mầm hạnh phúc, đáp ơn THIÊN

Phan thị Kim Phượng

Thánh Gioan Fisher

Thánh Gioan Fisher
    (1469-1535)

 

                                                                          17 Tháng Sáu

     Thánh Gioan Fisher thường có liên hệ với Erasmus, Thomas More và những người thuộc phong trào nhân bản thời Phục Hưng. Bởi đó, cuộc đời ngài không có nét bề ngoài như đời sống các thánh khác. Ðúng hơn, ngài là một con người học thức, thân quen với giới trí thức và chính trị thời bấy giờ.

     Gioan Fisher sinh ở Beverley, Yorkshire Anh Quốc, tốt nghiệp Ðại Học Cambridge, thụ phong linh mục năm 1491 và lấy bằng Tiến Sĩ Thần Học năm 1501. Ngài có tài quản trị nên được nhà trường lần lượt giao cho các chức vụ tổng giám thị, phó chưởng ấn và chưởng ấn. Trong thời gian này, ngài là cha giải tội của mẹ vua Henry VII và đã khuyên bảo bà dùng của cải một cách bác ái, cũng như đưa môn thuyết giảng vào hai đại học lớn ở Anh. Cũng chính thời gian này, ngài làm bạn với Erasmus và Thomas More.

     Vào năm 1504, ngài được làm giám mục ở Rochester và cai quản giáo phận nghèo nàn này trong ba mươi năm; ngài đích thực là một giám mục, sống làm gương cho các linh mục và chú ý đến đời sống tâm linh của họ. Chính Ðức Giám Mục Fisher là một văn bút và vị giảng thuyết sáng giá. Các bài giảng của ngài về ăn năn sám hối được tái bản đến bảy lần trước khi ngài từ trần. Với sự tràn lan của giáo phái Luther, ngài đã tham dự vào các cuộc tranh luận. Tám cuốn sách ngài viết để chống với lạc giáo đã đem lại cho ngài địa vị hàng đầu của các thần học gia Âu Châu. Cần nhận xét ở đây là Ðức Gioan Fisher không bao giờ dùng lời lẽ hạ cấp để nhục mạ đối phương như trong các cuộc tranh luận thời bấy giờ, nhưng ngài dùng lý lẽ để khuyên bảo những người lầm đường lạc lối.

     Vào năm 1527, ngài được yêu cầu xem xét vấn đề hôn nhân của vua Anh là Henry VIII. Nhà vua muốn li dị hoàng hậu hiện thời là bà Catherine ở Aragon vì bà không sinh được con trai nối dõi. Ðức Fisher đã làm vua Henry tức giận khi tuyên bố hôn nhân cũ của nhà vua vẫn còn giá trị, và sau này Ðức Fisher còn từ chối không chấp nhận Henry là thủ lãnh tối cao của Giáo Hội Anh Quốc như nhà vua tự xưng.

     Trong mưu toan hãm hại Ðức Fisher, đầu tiên vua Henry buộc tội ngài là không phúc trình các “mặc khải” chống đối nhà vua của sơ Elizabeth Barton. Sau đó ngài bị triệu đến để thề chấp nhận Ðạo Luật Thừa Kế. Tất cả các quan trong triều đều tuyên thệ chấp nhận, ngoại trừ Ðức Giám Mục Fisher và Thomas More, cả hai từ chối vì Ðạo Luật này hợp pháp hóa sự li dị của Henry cũng như chấp nhận ông là thủ lãnh của Giáo Hội Anh. Cả hai người bị tống ngục Tower, khi ấy Ðức Fisher đã sáu mươi lăm tuổi và bệnh tật đang làm hao mòn sức khỏe của ngài.

     Vào năm 1535, đức giáo hoàng tấn phong Ðức Gioan Fisher làm hồng y, nhà vua lại càng thêm tức giận và đã gài bẫy để đưa Ðức Gioan ra tòa về tội phản quốc. Ngài bị kết án và bị hành quyết, thi thể ngài bị để nằm nguyên ngày trên giàn chém và đầu của ngài bị treo trên cầu Luân Ðôn. Hai tuần sau, Thomas More cũng bị xử tử.

     Ðức Gioan Fisher và Thomas More được phong thánh năm 1935.

     Lời Bàn

     Ngày nay, có nhiều vấn đề được nêu lên về việc tích cực tham gia sinh hoạt xã hội của linh mục và giáo dân. Ðức Gioan Fisher đã trung thành với ơn gọi giám mục của ngài. Ngài cương quyết duy trì giáo huấn của Giáo Hội; lý do ngài bị tử đạo là vì trung thành với Rôma. Ngài đã can dự đến các sinh hoạt văn hóa cũng như tranh chấp chính trị thời bấy giờ. Sự can dự này khiến ngài phải thắc mắc về tư cách đạo đức của người lãnh đạo quốc gia. “Giáo Hội có quyền, đúng hơn là nhiệm vụ, để đề cao sự công bằng trong lãnh vực xã hội, quốc gia và quốc tế, để lên án những bất công, khi các quyền căn bản của con người và sự cứu độ của họ đòi hỏi” (Công Bình Trong Thế Giới, Thượng Hội Ðồng Giám Mục 1971).

     Lời Trích

     Erasmus đã nói về Ðức Gioan Fisher như sau: “Ngài là con người mà thời bấy giờ không ai sánh được về sự chính trực của đời sống, về học thuật và về nét cao quý của linh hồn.” 

 

 CẢM TẠ CHÚA VÌ ĐÃ BAN CHO CHÚNG TA 1 THIÊN THẦN HỘ THỦ NƠI THẾ GIAN

NGƯỜI CHA TRẦN THẾ DUY NHẤT CỦA MỖI NGƯỜI

nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Thánh Gioan Phanxicô Regis

Thánh Gioan Phanxicô Regis
    (1597-1640)

                                                                                   16 Tháng Sáu

 

    Sinh trong một gia đình giầu có ở Narbonne, Languedoc nước Pháp, ngay từ nhỏ, vì quá mến mộ các thầy giáo Dòng Tên nên Gioan Phanxicô luôn ao ước gia nhập dòng này. Và ngài đã thực hiện ý định ấy khi 18 tuổi. Trong thời gian tu tập, mặc dù học trình rất nghiêm nhặt nhưng ngài đã dành nhiều thì giờ cầu nguyện hàng đêm.

     Sau khi được thụ phong linh mục, Cha Regis đi truyền giáo trong một vài thành phố ở Pháp. Ðặc biệt, ngài lưu tâm đến người nghèo và rất siêng năng thi hành mục vụ. Ngay từ sáng sớm ngài đã có mặt ở tòa giải tội sau khi cử hành Thánh Lễ; vào buổi chiều ngài đi thăm các bệnh nhân và tù nhân. Vào năm 1631, khi trận dịch hạch tấn công thành phố, ngài làm việc trong bệnh viện ở Toulouse với “những công việc tầm thường nhất ở trong bếp nhưng lúc nào cũng vui vẻ và sẵn sàng.”

     Vào thời bấy giờ, vì thiếu giám mục và các linh mục thì chểnh mảng, giáo dân không biết gì đến bí tích có trên 20 năm. Nhiều hình thức Tin Lành phát triển mau chóng trong khi hàng giáo sĩ vẫn giữ thái độ lãnh đạm trong nhiều lãnh vực. Trong ba năm trường, Cha Regis đã đi khắp địa phận, tổ chức các buổi học hỏi, xưng tội trước khi mời đức giám mục đến thăm. Ngài thành công trong việc hoán cải nhiều người và đã đưa họ trở về với đời sống đạo tốt lành.

     Về đời sống cá nhân, ngài càng khó khăn với chính mình bao nhiêu thì ngài lại nhân từ với người khác bấy nhiêu. Thức ăn của ngài thường là rau trái và bánh thô, nhiều khi vì số người đến xưng tội quá đông đến độ ngài không còn thời giờ để ăn uống. Ðể hy sinh hãm mình, mỗi đêm, ngài ngủ không quá ba giờ đồng hồ.

    Mặc dù Cha Regis ao ước đi truyền giáo cho người da đỏ Bắc Mỹ ở Gia Nã Ðại, nhưng suốt cuộc đời ngài đã tận tụy phục vụ Thiên Chúa trong những nơi hoang vu nhất ở ngay quê hương của ngài. Ở đó ngài phải chịu sự khắc nghiệt của thời tiết và nhiều thiệt thòi khác. Tuy nhiên, sự thánh thiện của ngài ngày càng gia tăng và được nhiều người biết đến.

     Trong bốn năm cuối đời, ngài rao giảng và làm việc trong các tổ chức xã hội, nhất là cho người tù, người bệnh và người nghèo. Vào mùa thu năm 1640, dù cảm thấy cái chết đã gần kề, Cha Regis vẫn cố gắng trong công tác mục vụ, nhằm đưa các linh hồn về với Chúa. Sau khi làm việc cả ngày Giáng Sinh không ngừng nghỉ, vào ngày hôm sau, sau khi lên toà giảng ngài đã ngất xỉu vì kiệt sức. Bốn ngày sau đó, trước khi thở hơi cuối cùng, ngài đã thốt lên: “Lạy Chúa Giêsu, con phó linh hồn con trong tay Chúa.” Lúc ấy ngài mới 43 tuổi.

     Ngài được phong thánh năm 1737. 

 

 XIN CHO CON CÓ TRÁI TIM MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI NHƯ MẸ, 

LẠY ĐỨC NỮ ĐỒNG TRINH MARIA

nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Lịch sử ngày của cha

Lịch sử ngày của cha 

 

 Ngày của cha xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1910, được khởi xướng bởi Sonora Smart tại Spokane, Washington. Ngày của cha được xem là ngày dành cho con cái bày tỏ, thể hiện sự kính trọng, yêu thương của mình đối với cha của mình.

Ý tưởng tổ chức Ngày của cha bất chợt đến với Sonora khi cô đang nghe một bài giảng về Ngày của mẹ vào năm 1909.

Sau khi mẹ cô mất, Sonora cùng với các anh chị em do một tay cha cô – ông William Jackson Smart – nuôi nấng, dạy dỗ. Sonora muốn nói với cha rằng ông quan trọng và ý nghĩa với cô biết dường nào. Cha của cô sinh vào tháng 6, vì thế cô đã chọn tổ chức ngày của cha lần đầu tiên tại Spokane, Washington vào ngày 19 tháng 6 năm 1910.

Vào năm 1972, Tổng Thống Mỹ Richard Nixon đã quyết định chọn ngày Chúa Nhật thứ 3 của tháng 6 chính thức là Quốc Lễ dành riêng cho những người cha. Như thế, Ngày của cha đã được hình thành từ ký ức và lòng biết ơn của một người con gái luôn tin rằng cha của cô và tất cả những người cha khác đều xứng đáng được tôn vinh vào một ngày thật đặc biệt.

Như thường lệ, Ngày của cha năm nay cũng sẽ được tổ chức vào ngày Chúa Nhật thứ ba của tháng 6 – tức ngày 17 tháng 06 năm 2012.

Vào ngày này, mọi người thường tự làm thiệp gửi những lời yêu thương, những lời chúc tốt đẹp nhất đến cha mình hoặc mua hoa, mua quà tặng cho cha.

PTH sưu tầm

nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Đôi Mắt Người Cha

Đôi Mắt Người Cha

                                                  tác giả: Hoài Việt

 

                        Xin cho, Chúa chẳng hẹp hòi

               Gõ Ngài mở cửa, tìm soi thấy liền.

 Một người cha chỉ có một đứa con trai duy nhất sống chung với ông, hai bố con đều say mê môn túc cầu trái na (football), nên hai người rất  hợp tính tình và thương yêu nhau thật là mật thiết. Ngay từ khi ở trung học đệ nhất cấp (lớp 7 đến lớp 9), người con xin ghi danh chơi “Football” cho trường, ông bố ưng thuận liền.

 Để khích động tinh thần con mình ông luôn luôn tham dự các trận đấu, vỗ tay hoan hô cổ võ tinh thần cho đội của con ông. Tuy biết đứa con chưa từng được tham dự các trận đấu, nhưng ông không nản vẫn luôn luôn đến xem không bỏ sót một trận đấu nào của nhà trường.

 Biết con trai mình có thân hình nhỏ nhất so với đồng đội trong lớp, nên ông luôn luôn khuyến khích và cầu nguyện. Tuy nhiên để an ủi con, ông khẳng định với con là không cần thiết phải chơi môn thể thao này nếu người con không thích. Ông khuyên nhủ:

      – Nếu con muốn, hãy đặt trọn niềm tin nơi Thiên Chúa, đối với Chúa không một điều gì không làm được. Lời khuyên của Cha giúp người con niềm tin tưởng. Nên anh rất mê say, tiếp tục ghi danh tham dự khi chuyển lên trường trung học đệ nhị cấp (lớp 10 đến lớp 12) trong suốt ba niên học. Anh đã cầu nguyện và vận dụng tất cả khả năng của mình trong các buổi thực tập, hy vong sẽ được chơi khi bắt đầu lên lớp 12. Dù anh chưa bao giờ bỏ một buổi tập dợt hoặc một trận đấu nào của trường, nhưng trọn ba năm trung học anh vẫn chỉ là người ngồi dự khuyết. Thân phụ của anh tiếp tục tham dự các trận đấu cổ võ anh.

Rời ngưỡng cửa trung học, anh tiếp tục ghi danh vào đại học. Anh quyết định cố gắng theo đuổi một lần nữa môn thể thao mà anh ưa chuộng bằng cách tự do tình nguyện chơi cho nhà trường không đòi hỏi học bổng. Trong thời gian thực tập tuyển chọn, mọi người nghĩ rằng anh sẽ bị loại; nhưng khi niêm yết danh sách cuối cùng các sinh viên chính thức được chọn cho niên khóa trong đó có tên anh. Có lẽ nhờ anh đã tận tụy và nỗ lực trong mọi cuộc tập dợt, đồng thời anh cũng có một tinh thần đồng đội rất cao như khuyến khích, giúp đỡ trông nom tận tình những đồng đội bị thương vì những thoi húc quá mạnh.

 Khi nhìn thấy tên mình trong danh sách cầu thủ chính thức, anh mừng rỡ vội vàng điện thoại báo tin cho Thân Phụ biết. Ông rất vui mừng và để cùng chia sẻ nỗi vui mừng với con, ông đã nhận mua vé tất cả các trận chơi của trường.

 Trong bốn năm ở đại học, anh rất chăm chỉ không vắng mặt một buổi tập dợt nào, nhưng anh chưa bao giờ được chính thức ra sân. Đã tới hồi chấm dứt mùa giao đấu của năm học chót. Vào chiều Thứ Hai tuần chót của mùa giao đấu, anh cùng với các cầu thủ đang tập dượt chuẩn bị cho trận đấu vòng loại rất quan trọng; nghe thày gọi, anh hoảng hốt rời sân tập và vội vã chạy tới trình diện thày huấn luyện viên trưởng. Ông trao anh bức điện tín. Anh đọc điện tín rồi như chết đứng trong yên lặng. Cố nghẹn ngào nuốt buồn tủi, lập cập nói với thày: 

 – Cha con vừa qua đời sáng nay! Xin thày cho phép con vắng mặt buổi tập dượt hôm nay được không? Huấn luyện viên nhẹ nhàng đặt tay trên vai anh ôn tồn chia buồn cùng anh và nói:

 – Con hãy nghỉ trọn tuần, và cũng không cần phải tới tham dự trận đấu Thứ Bảy này.

 Anh lặng lẽ vội vàng về phòng thu xếp những gì cần thiết rồi lên đường về lo thu xếp ma chay cho người Cha. Sau khi an táng cha xong vào 10 giờ sáng Thứ Bảy, anh vội vã trở lại trường hy vọng kịp xem trận đấu khai mạc vào 5 giờ chiếu. Khi anh tới nơi thì trận đấu đã qua hiệp nhì. Trước đối thủ có hạng cao, đội của anh đã tận dụng khả năng nhưng vẫn chưa thay đổi tỷ số dầu chơi ở sân nhà. Gần hết bán hiệp nhì, đội của anh đã bị gác 10 điểm. Anh lặng lẽ lẻn vào phòng thay quần áo, đổi y phục cầu thủ, rồi anh chạy ra vỉa sân chơi phía đội nhà đang đứng, Các huấn luyện viên và các đồng đội rất sửng sốt khi nhìn thấy cầu thủ nhiệt thành tý hon đã trở lại quá sớm sau tang lễ của bố. Anh ta nói:

 – Thưa thày, đây là trận chót, xin thầy cho phép con được chơi hôm nay, con ước ao được chơi để biểu diễn khả năng của con ngày hôm nay? Ông giả vờ như không nghe anh hỏi. Ông thầm nghĩ, không thể nào để một cầu thủ kém cỏi nhất ra sân trong trận đấu vòng loại quan trọng như thế này được. Nhưng anh ta năn nỉ hoài, làm ông mủi lòng nhất là khi nghĩ đến cái đại tang bất hạnh của anh , và nhận thấy cũng không hy vọng có thể trở thắng nổi nên ông gật đầu:

 – Thôi được, ta thuận để con chơi.

 Thế là anh được phép ra sân. Chỉ trong giây lát, các cầu thủ và huấn luyện viên đứng ngoài nhìn, mọi người đều ngạc nhiên không thể tin vào con mắt của họ. Vì một cầu thủ vô danh tiểu tốt chưa từng giao đấu một trận nào trước đây, nhưng anh ta đã thi thố tài năng biểu diễn rất chính xác trong tất cả vị trí.

 Các địch thủ không làm sao chặn anh ta nổi. Ôm banh chạy, chuyền banh, chặn đường húc, bắt banh, ngăn địch thủ thật hữu hiệu và chính xác hơn cả những cầu thủ từng danh tiếng lỗi lạc của đội. Khiến đồng đội của anh phấn khởi, chơi rất hăng say. Chỉ trong mấy phút đã gỡ hòa. Rồi vào giây chót của trận đấu, đối thủ có banh, định làm kiểu bất ngờ “Hail Mary!” liệng banh thật xa để tránh bị mất banh ở sân nhà. Anh tiên đoán được và nhanh chân đuổi theo rồi nhảy lên chặn bắt được banh, chạy ngược lại như bay xuống cuối sân đặt trái banh kết thúc trận đấu với chiến thắng bằng 6 điểm. Cả đội tràn ra sân ôm anh và kiệu trên vai, hoan hô như chưa từng thấy bao giờ!

 Cuối cùng, sân không còn một người, các cầu thủ đã tắm rửa, thay quần áo và rời phòng. Riêng thày huấn luyện viên trưởng nhìn thấy cầu thủ “tý hon” khác thường kia đang ngồi yên lặng một mình trong góc tường. Ông đến và nói:

– Này con, ta không thể nào tin được. Con tuyệt diệu như vậy ! Hãy nói cho ta biết, đã có phép lạ gì trong con? Làm sao con có thể biểu diễn được những điều lỗi lạc đó như vậy hôm nay? Anh ta nhìn lên thày huấn luyện viên với hai dòng lệ tuôn trào từ khóe mắt nói:

 – Vâng, Thày biết Thân Phụ con đã ra đi vĩnh viễn!  Nhưng có điều . . . Thày chưa từng biết, Cha con . . . mù hai mắt! Anh cố nuốt nghẹn rồi mỉm miệng cười, bước theo thày huấn luyện viên và tiếp:

 – Thiên Chúa đã mở mắt Cha con, Người đã đến xem và mục kích trận đấu của con hôm nay. Đây cũng là lần đầu tiên Cha con được nhìn thấy con chơi, nên Chúa muốn con chứng tỏ cho Cha con rằng con có thể làm được những việc đó!

                   Cảm Đề

 Có người hãnh diện vì ta

Yêu thương cầu nguyện cho ta vững lòng

Cậy trông  Thiên Chúa quan phòng

Để ta luôn được sống trong an bình.

                          ***

 Mắt mù tâm sáng lại anh linh

Hiện tượng siêu nhiên vượt trí mình

CHÚA muốn ban cho đều được cả

Người cầu nhận thức tuyệt vời xinh

Cha luôn khích lệ lòng trông cậy

Con quyết vâng tuân ý tiến trình

Kết quả phô bày thành tích lập

Hồng ân nhắc mãi rực Tân Kinh.

(Mt 21:22)

   Hoài Việt

nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

TÌNH CHA NGHĨA MẸ

TÌNH CHA NGHĨA MẸ

BÁI CHÚC :  “NGỌC HÔN KHÁNH HỶ”
& THƯỢNG THỌ BÁT TUẦN PHỤ MẪU
Trời mùa hạ nắng vàng vương vấn dịu
Chúng con đây đồng quy hợp kính tôn
Bái Chúc Mẹ Cha “Khánh Hỷ Ngọc Hôn”
“Đức Nguyên” giòng tộc: Khang Ninh Thọ Phúc
Chúng con tạc – khắc sâu trong tâm thức
Tình cha cao hơn núi chẳng phai tàn
Thương đàn con cha gánh nhận nguy nan
Luôn tận tụy dìu chúng con tiến bước
Tuy Tuổi Hạc Bát Tuần tràn hồng phước
Cha một lòng vẫn mẫu mực hy sinh
Đem tâm can nhiệt huyết lãng quên mình
Dâng hiến Chúa cuộc đời vui buồn khổ
Lời Cha dạy, lòng chúng con hằng nhớ
Sống yêu thương và hiếu đễ, tu thân
Dẫu đường trần bao chìm nổi gian truân
‘Đức thắng số’, tiếng Cha vang trìu mến
Lòng Mẹ yêu thiết tha vô bờ bến
Tình rộng sâu như biển cả bao la
Đẹp vô ngần như bảo ngọc châu sa
Để muôn đời chúng con vâng phục kính
Dạy dỗ con sao nên người liêm chính
Tiếng dịu hiền âu yếm Mẹ bảo ban
Bao công lao gian khổ chẳng tiếc than
Mẹ vui thỏa nhìn đàn con vững tiến
Tình Cha Mẹ cao sâu hơn trời biển
Trọn một đời con nguyện mãi khắc ghi
Ơn sinh thành! con biết đáp đền chi
Nguyện xin Chúa ban Mẹ Cha vạn phúc.
Kim Anh Miller
Geneva July 24, 1999

nguồn: Từ Trần văn Thức gởi

Josephine Cẩm Vân: Nữ bác sĩ – Thiếu tá hải quân phi hành Hoa Kỳ

Josephine Cẩm Vân: Nữ bác sĩ – Thiếu tá hải quân phi hành Hoa Kỳ

                                                                  nguồn: VOA

Bác sĩ quân y phi hành – Thiếu tá hải quân Hoa Kỳ Josephine Nguyễn Cẩm Vân trong một chuyến đi Việt Nam giúp bệnh nhân nghèo

                                                                              Trà Mi-VOA

                                                                               15.06.2012

Một cô gái trẻ Việt Nam vừa là bác sĩ vừa là thiếu tá hải quân Hoa Kỳ. Đó là câu chuyện thành công của bác sĩ-thiếu tá quân y phi hành Josephine Nguyễn Cẩm Vân mà Tạp chí Thanh Niên có dịp giới thiệu với quý vị trong chương trình hôm nay.
 
Thiếu tá Cẩm Vân: Cả hai chị em tôi đều vào Học viện Hải quân Mỹ và tốt nghiệp năm 1999. Chúng tôi tham gia quân đội vì ảnh hưởng từ cha mình. Ông từng phục vụ hải quân của miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Cha tôi thường nói về tình yêu và sự cống hiến cho đất nước. Vì thế, chị em tôi quyết định tham gia quân đội Mỹ để phục vụ đất nước đã cưu mang và cho mình cơ hội phát triển. 
 
Trà Mi: Chị có thể cho biết đôi chút về công việc của chị hiện nay?
 
Thiếu tá Cẩm Vân: Tôi đang khám chữa bệnh tại Trung tâm quân y Walter Reed, bệnh viện tại bang Maryland này chuyên phục vụ các quân nhân trong quân đội và hải quân Mỹ. Ngoài ra, tôi còn chịu trách nhiệm tuyển dụng các sinh viên gia nhập hải quân. Tôi cũng nằm trong ban xét duyệt cấp học bổng cho các sinh viên muốn theo học y khoa, rồi sau khi ra trường, họ sẽ làm việc cho hải quân trong 4 năm. Tôi đi nhiều nơi trên nước Mỹ thuyết trình với sinh viên để chia sẻ kinh nghiệm trong hải quân. Tôi hoàn tất thời gian làm bác sĩ nội trú tại đại học Pensylvania chuyên khoa da liễu vào năm 2010. Sau đó tôi được lệnh tới trung tâm Walter Reed công tác. 
 
Trà Mi: Trước đó, công việc của chị thế nào? Là một thiếu tá hải quân phi hành chắc chị thường xuyên công tác xa nhà?
 
Thiếu tá Cẩm Vân: Sau khi tốt nghiệp Học viện Hải quân, tôi vào trường y Stanford ở California trong 4 năm. Hoàn thành thời gian thực tập, tôi vào trường bay ở Florida. Thời gian học bay đối với bác sĩ quân y là nửa năm. Sau đó tôi sang Nhật, làm y sĩ phi hành khoảng 2 năm.
 
Trà Mi: Một cô gái Việt Nam tham gia quân đội chắc chắn có nhiều khó khăn, thử thách. Chị có thể sơ lược một vài khó khăn mà chị cảm thấy lớn nhất đối với chị trên con đường binh nghiệp?
 

Thiếu tá Cẩm Vân: Bước vào Học viện Hải quân, tôi phải rời ba mẹ, không còn được cha mẹ bên cạnh chăm sóc như trước, phải tự lập hoàn toàn và học cách trở thành một người lãnh đạo. Thêm vào đó là những yêu cầu về thể chất và những kỷ luật nghiêm ngặt của quân trường. Đó là những cái tôi sợ nhất lúc đó, nhưng giờ đây nhìn lại, tôi hiểu rằng để trưởng thành, người trẻ cần phải bước ra khỏi vành đai an toàn của riêng mình. Bốn năm ở Học viên Hải quân là những năm gian khó nhất đối với tôi. Tôi chỉ tập trung vào đèn sách và học tập nền giáo dục của quân đội. Để thực hiện ước mơ trở thành bác sĩ, tôi phải nỗ lực từng ngày. Và tôi gặt hái được thành quả khi tôi tốt nghiệp với thứ hạng á khoa. Đối với tôi, thử thách lớn nhất là học cách trở thành một người lãnh đạo từ chính những giá trị của mình. Giờ đây tôi vui mừng vì đạt được vị trí hôm nay để với những giá trị Á Châu mà tôi thừa kế tôi có thể cống hiến trong lĩnh vực y khoa lẫn trong vị trí lãnh đạo ở hải quân.

Trà Mi: Theo chị, tinh thần lãnh đạo có ý nghĩa thế nào đối với nữ giới nói riêng, cũng như đối với tuổi trẻ, nói chung.
 

Thiếu tá Cẩm Vân: Người có tinh thần lãnh đạo là người luôn đặt người khác lên trước bản thân mình, luôn sẵn sàng làm việc nhiều nhất và không bao giờ vụ lợi cá nhân. Khi tôi tốt nghiệp trường y Stanford và Học viện Hải quân, nhiều người cho rằng chắc là tôi hạnh phúc và hãnh diện lắm. Mặc dù bên ngoài tôi nói là tôi rất phấn khích, nhưng trong lòng tôi không vui lắm. Nhiều năm qua tôi đã suy nghĩ về điều này và lý do mà tôi không vui là vì tôi đã quá tập trung vào công việc của riêng mình để được vào những trường danh tiếng, ra trường hạng cao, và trở thành một bác sĩ. Nhưng giờ đây, trong cương vị một bác sĩ, tôi hướng sự tập trung của mình vào bệnh nhân, vào những người xung quanh tôi. Đó mới chính là thành tựu làm tôi hài lòng nhất. Trách nhiệm mới của tôi trong Hải quân là tuyển dụng sinh viên gia nhập vào hải quân và trở thành các bác sĩ quân y. Tôi đặc biệt chú ý tới những sinh viên gốc Á, đặc biệt là người Việt Nam. Các giá trị của người Việt dạy tôi về truyền thống gia đình, tinh thần làm việc chăm chỉ, và biết nghĩ đến người khác. Các giá trị của người Mỹ dạy tôi phải vươn ra ngoài vành đai an toàn của mình, đặt mình vào những tình huống khó khăn, và phát triển thành một người lãnh đạo. Đó là những điều tôi muốn chia sẻ với các bạn thanh niên để các bạn trở thành những nhà lãnh đạo, thành công trong các lĩnh vực mà các bạn đam mê.
 
Trà Mi: Giờ đây nhìn lại chặng đường đã trải qua, điều gì chị hài lòng nhất và điều gì chị cảm thấy chưa thật sự hài lòng?
 

Thiếu tá Cẩm Vân: Bây giờ là lúc tôi cảm thấy mình hạnh phúc nhất vì tôi không còn tập trung vào bản thân mình hay những gì mình mong muốn cho bản thân nữa mà vào những người xung quanh và giúp đỡ họ.
 
Trà Mi: Chị có về Việt Nam 3 lần, trong những chuyến đi đó chị đi với tư cách cá nhân hay với tổ chức? Các chuyến đi kéo dài bao lâu và chị đã làm được những gì tại Việt Nam?
 
Thiếu tá Cẩm Vân:
Một chuyến tôi đi với Project Vietnam, một tổ chức được nhiều người biết đến ở bang California hằng năm về Việt Nam khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo. Hai lần khác tôi đi cùng bạn bè. Chúng tôi đã tự mua các thiết bị y tế mang về giúp một số làng quê nhỏ bé ở miền Nam Việt Nam. Từ những chuyến đi này, tôi học được bài học rằng chúng ta không nên than phiền mà hãy sống và giúp đỡ người khác hết lòng. Tôi muốn nói với các bạn trẻ rằng các bạn đừng than phiền, mà ngược lại, hãy chấp nhận những khó khăn và học hỏi từ đó. Hãy luôn mỉm cười và giữ thái độ lạc quan. Khó khăn sẽ giúp chúng ta trưởng thành và trở thành những thành viên đóng góp hữu ích cho xã hội.
 
Trà Mi: Trong tương lai, chị có dự định trở lại Việt Nam?
 

Thiếu tá Cẩm Vân: Vâng, mùa hè năm nay, tàu bệnh viện của hải quân Mỹ USS Mercy sẽ thực hiện chuyến đi nhân đạo 3 tháng tới khu vực Châu Á-Thái Bình Dương bắt đầu từ tháng 7. Chúng tôi sẽ ghé Việt Nam 2 tuần trong chuyến đi này. Tôi tham gia với tư cách là một bác sĩ quân y Hoa Kỳ trong đoàn khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo.
 
Trà Mi: Bài học lớn nhất từ tất cả những kinh nghiệm chị đã trải qua tại quân trường với hải quân và trong ngành y là gì?
 
Thiếu tá Cẩm Vân: Có rất nhiều điều tôi học được trong những năm qua và thời gian gần đây tôi đọc rất nhiều sách về khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Tới được Hoa Kỳ là cơ hội tốt nhất mà tôi và gia đình tôi có được. Vì vậy, tôi muốn đóng góp lại cho nước Mỹ bằng cách tham gia vào các vấn đề đối ngoại, ứng dụng các giá trị Á Châu và kinh nghiệm có được trong quân đội Mỹ để giúp cải thiện các mối quan hệ giữa Mỹ với các nước.
 
Trà Mi: Trên chặng đường thành công, chị ứng dụng các giá trị của người Việt Nam và các giá trị của một người Mỹ bao nhiêu phần trăm?
Chị bị ảnh hưởng nhiều bởi những giá trị Việt Nam truyền thống hay bởi những giá trị của nước Mỹ nhiều hơn?

 
Thiếu tá Cẩm Vân: Ai hỏi tôi rằng tôi là người Việt hay người Mỹ, tôi sẽ trả lời tôi là cả hai. Tôi thấy người Việt là người tử tế nhất. Tôi học được cách giao tế, tương tác với mọi người từ việc tiếp xúc với những người Việt quanh mình. Sinh trưởng ở Mỹ cho tôi những cơ hội mà ở Việt Nam không có được. Cả hai yếu tố này tạo nên con người tôi ngày nay và tôi biết ơn cả hai.
 
Trà Mi: Chị quyến luyến, gần gũi với nguồn gốc và quê hương của mình, nếu có thể góp phần cho quê hương của mình, chị sẽ làm gì?
 
Thiếu tá Cẩm Vân: Câu hỏi này cũng là điều tôi suy nghĩ hằng ngày. Tôi muốn khuyến khích các bạn trẻ Việt Nam đừng tập trung vào bản thân mình mà hãy nghĩ về những người xung quanh. Thành tựu lớn nhất trong đời sống là sự phục vụ người khác. Mục tiêu của tôi trong tương lai là tiếp tục về Việt Nam cho dù là trong sứ mạng nhân đạo với hải quân. Đó là điều tôi rất đam mê và hy vọng sẽ tiếp tục.
 
Trà Mi: Cảm ơn chị rất nhiều về thời gian dành cho cuộc trao đổi này. Xin chúc chị nhiều thành công trong sự nghiệp và trong những chuyến đi nhân đạo về Việt Nam.
 
Tạp chí Thanh Niên vừa gửi đến quý vị câu chuyện thành công của một cô gái trẻ Việt Nam, bác sĩ quân y phi hành-thiếu tá hải quân Josephine Nguyễn Cẩm Vân, hiện đang công tác tại Trung tâm quân y Walter Reed, tiểu bang Maryland, Hoa Kỳ. Để nghe lại câu chuyện này cùng nhiều gương thành công khác của giới trẻ Việt Nam, mời quý vị vào trang nhà voatiengviet.com.
 
Tạp chí Thanh Niên chia tay với quý vị và các bạn tại đây và hẹn tái ngộ cùng quý vị trong một câu chuyện mới vào giờ này, tuần sau.

Nếu chỉ còn một ngày để sống…

 

Nếu chỉ còn một ngày để sống…

 

                                                               tác giả:  TRẦM THIÊN THU

 

Nếu chỉ còn một ngày để sống…, tôi sẽ phản ứng thế nào và sẽ làm gì? Quả thật, đó là một giả-thuyết-thực-tế, một cái “nếu” rất thật, thật đến nỗi điều đó có thể xày ra bất kỳ lúc nào, thậm chí là ngay bây giờ, dù bạn mới vài tuổi hoặc xấp xỉ… trăm tuổi!

Tình cờ nghe ca khúc “Nếu chỉ còn một ngày để sống” của Hoài An – nhạc sĩ ngày xưa đã cao niên, trong một chương trình của Paris by Night, tôi thực sự xúc cảm cái “đẹp” (đúng nghĩa ĐẸP – vì có những cái Đẹp mà không tốt, nhưng cái Tốt thì luôn Đẹp) ở trong đó về phương diện tích cực. Vâng, ca từ của ca khúc này đầy tính nhân bản, nguyên văn như sau:

Nếu chỉ còn một ngày để sống, người đưa tôi về đến quê nhà, để tôi thăm làng xưa nguồn cội, cho tôi mơ… mơ tiếng mẹ cha. Nếu chỉ còn một ngày để sống, người cho tôi một khúc kinh cầu, người tôi thương êm ấm môi cười, cho con tôi bước đời yên vui.

Nếu chỉ còn một ngày để sống, làm sao ta trả ơn cuộc đời, làm sao ta đền đáp bao người, nâng ta lên qua bước đời chênh vênh? Nếu chỉ còn một ngày để sống, làm sao ta chuộc hết lỗi lầm, làm sao ta thanh thản tâm hồn, xuôi đôi tay đi giữa hừng đông?

Cho tôi như bóng mây, lang thang qua cõi này, cho tôi được ngắm sao trên trời giữa hương đồng cỏ nội. Cho tôi như khúc ca, bay đi xa rất xa, cho tôi được cám ơn cuộc đời, cám ơn mọi người. Cho tôi được sống trong tim người bằng những lời ca.

Nếu chỉ còn một ngày để sống, muộn màng không lời hối lỗi chân thành? Buồn vì ai, ta làm ai buồn, xin bao dung tha thứ vì nhau. Nếu chỉ còn một ngày để sống, chợt nhận ra cuộc đời quá đẹp, phải chăng ta có lúc vội vàng, nên ra đi chưa được bình an?

Giai điệu đẹp và ca từ cũng đẹp. Vâng, nếu chỉ còn một ngày để sống… Tôi chợt nhớ tới vị thánh “nhí” Saviô. Khi đang giờ chơi, Saviô được hỏi: “Nếu bây giờ con chết thì con làm gì?”. Saviô đáp ngay: “Con vẫn tiếp tục chơi”.

Thật tuyệt vời, vì đó là thi hành Ý Chúa trong hiện tại. Giờ nào việc nấy. Dù là việc đọc sách thiêng liêng hay đọc kinh, thậm chí là cầu nguyện, nếu không “đúng lúc” thì cũng vô nghĩa.

Vậy đó. Con người quá yếu đuối, quá nhỏ bé, dù là gì thì cũng không là gì cả. Tôi không dám chê trách hay chỉ trích ai. Tôi chỉ nói ra cảm nhận mà tôi khả dĩ chân nhận, tất nhiên không tránh khỏi tính chủ quan. Tôi biết tôi chỉ là số zero, một “số không” lớn nhất trong những “số không” khác. Đó là thực tế, dù rất có thể tôi không muốn… chấp nhận!

Theo tôi, dù là ai thì trước tiên vẫn là con người, mà là con người thì cuối cùng phải… chết. Đó là một thực tế vừa minh nhiên vừa mặc nhiên. Có sợ chết cũng không thoát chết, giàu sang, danh vọng hoặc địa vị thế nào thì cũng “trắng tay” khi nhắm mắt xuôi tay. Vậy tại sao lại cứ tranh giành nhau? Phải chăng đó là ảo tưởng? Con người rất dễ ảo tưởng, càng “lớn” càng dễ ảo tưởng, càng dễ độc đoán. Nhưng người ta không dám… nhận!

 

TRẦM THIÊN THU

Đàn gảy tai trâu !

Đàn gảy tai trâu !

                                                              nguồn: baomai.blogspot.com

 image

 Vào một buổi sáng lạnh mùa đông năm 2007, tại một ga metro ở Washington DC, một thanh niên với chiếc đàn vĩ cầm, đứng chơi những bài nhạc nổi tiếng của Bach, Schubert, Massenet… trong vòng 45 phút.

 image

 Trong khoảng thời gian ấy có khoảng chừng 2 ngàn người đi ngang qua, đa số đang trên đường đến sở làm của họ. Dường như không một ai có vẽ chú ý đến sự có mặt của anh.
Sau khoảng 3 phút, một người đàn ông đứng tuổi đi qua và nhận thấy có một nhạc sĩ đang đứng đó chơi vĩ cầm. Ông đi chầm chậm, dừng lại chừng vài giây, và rồi lại vội vã đi tiếp cho kịp giờ của mình.

4 phút sau:

Người nhạc sĩ vĩ cầm ấy nhận được đồng đô la đầu tiên: một người đàn bà ném tiền vào thùng đàn của anh và không hề dừng lại, tiếp tục bước đi.

6 phút:

Một người thanh niên trẻ đứng dựa vào tường lắng nghe anh, nhìn đồng hồ đeo tay của mình và rồi lại tiếp tục bước đi.

10 phút: 

Một đứa bé dừng lại nghe, nhưng mẹ của em vội vàng lôi em đi tiếp. Ðứa bé tiếp tục dừng lại nhìn anh nhạc sĩ vĩ cầm, nhưng mẹ của em đẩy mạnh, và em lại phải tiếp tục bước đi, nhưng em vẫn cứ ngoái đầu quay nhìn lại. Và điều này đã cũng xảy ra với nhiều những đứa bé khác. Và cha mẹ nào cũng đều lôi kéo các em, bắt các em phải đi nhanh lên.

45 phút:

Người nhạc sĩ vĩ cầm ấy vẫn tiếp tục chơi nhạc không ngừng. Chỉ có 6 người dừng lại và lắng nghe trong vài ba phút rồi bỏ đi. Khoảng chừng 20 người cho anh tiền, trong khi vẫn tiếp tục bước đi bình thường, và không hề dừng lại. Chàng nhạc sĩ ấy thâu được tổng cộng là 32 đô la.

1 giờ sau:

Anh ta ngừng chơi, không gian im lặng trở lại. Không ai chú ý đến anh. Không một tiếng vỗ tay, và cũng không một lời tán thưởng.

image 

 Không ai biết người ấy chính là Joshua Bell, một trong những nhạc sĩ vĩ cầm nổi danh nhất trên thế giới. Trong hơn 45 phút qua anh đã chơi những bài phức tạp nhất trong các bài nhạc trình tấu, và cây đàn vĩ cầm mà anh chơi trị giá khoảng 3.5 triệu đô la. Hai ngày trước đó, Joshua Bell đã trình diễn tại một nhà hát ở thành phố Boston, vé bán hết không còn chỗ ngồi, giá của mỗi vé là 100 đô la. Và ban tổ chức sẵn sàng trả 1000 đô la mỗi phút cho tài năng của anh!

Ðây là kết quả của một cuộc thử nghiệm do báo The Washington Post tổ chức. Trong cuộc thử nghiệm này, Joshua Bell phải ăn mặc thật bình thường, quần jean, áo thun, mũ kết, và chơi đàn trong giờ cao điểm, 7:45am. Họ chọn nơi biểu diễn là trạm ga L’Enfant Plaza, vì nơi đây những người khách metro đi ngang qua đa số là thuộc tầng lớp trung lưu, chuyên nghiệp, trí thức, phần lớn làm việc với chính phủ liên bang.

 image

 Trước khi tổ chức, các nhà thử nghiệm nghĩ rằng tại Washington DC, một trong những đô thị phát triển nhất nước Mỹ về classical music, nhạc giao hưởng, Joshua Bell có thể sẽ thu hút một số lượng lớn khán thính giả dừng lại nghe, và họ có lẽ sẽ phải nhờ cảnh sát đến để giữ trật tự. 

Nhưng chỉ có một người duy nhất nhận ra Joshua Bell, vì trước đó ba tuần cô ta có đi xem anh trình diễn ở Library of Congress, nên nhận ra anh ngay. Cô ta đã bỏ vào hộp đàn của Joshua Bell 20 đô la và tự giới thiệu mình khi anh ngưng chơi đàn. 

image 

Tờ Washington Post viết, mục đích của cuộc thử nghiệm này để xem rằng: chúng ta có thể nhận diện, ý thức được những gì hay và đẹp đang có mặt giữa cuộc sống bận rộn của mình, và trong những hoàn cảnh bình thường hằng ngày không?

Và nếu như trong cuộc sống chúng ta không thể dừng lại trong giây lát để lắng nghe một nhạc sĩ lừng danh nhất trên thế giới, chơi những giai điệu hay nhất từng được sáng tác, với một nhạc cụ tốt đẹp nhất, và nếu như cuộc sống quá bận rộn đến nỗi chúng ta không còn có thời gian để dừng lại, khiến ta trở nên lãng quên trước những điều hay và đẹp, thì trên con đường ta đi mình còn vô tình bỏ qua và đánh mất bao nhiêu những điều đáng quý nào khác nữa chăng? 

 image

 Trong thời đại ngày nay, dường như đa số chúng ta có khá đầy đủ, nhưng duy có một điều mà chắc chắn trong chúng ta ai cũng đều rất thiếu thốn là thời giờ của mình, phải thế không bạn?
Trên con đường chúng ta đi, có lẽ ta cũng sẽ có dịp nghe được tiếng đàn vĩ cầm của Joshua Bell, và bao nhiêu những điều hay đẹp khác chung quanh ta, nâng cao tâm hồn mình, giữa những bận rộn và ngay trong hoàn cảnh bình thường nhất, nếu chúng ta biết tập bước chậm lại một chút…

Thánh luật

Thánh luật

(Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, năm B)

                                                  tác giả: TRẦM THIÊN THU

 Nói đến trái tim là nói đến tình yêu, một hệ lụy không thể tách rời. Thánh Tâm Chúa Giêsu là nguồn mạch yêu thương, dạt dào dòng thương xót. Và chỉ có những gì từ trái tim mới có thể đến được trái tim: Ngài không cần biết chúng ta là ai hoặc là gì, và đối xử với Ngài thế nào, Ngài chỉ biết một điều là “yêu đến tận cùng, yêu bằng mọi giá, yêu vô điều kiện”. Đó là phương trình: Thánh Tâm Chúa Giêsu = Tình yêu + Lòng Thương Xót + Cứu độ.

“Thánh Tâm Chúa Giêsu nguồn êm ái dịu dàng, xin hãy ban xuống hồn con ngọn lửa say yêu một Chúa. Thánh Tâm Chúa Giêsu tràn lan niềm thương xót, xin thương những người đã dám cả lòng vấp phạm đến Thánh Tâm Cha”. Đó là ca từ đẹp trong bài thánh ca “Thánh Tâm Chúa Giêsu”, của Linh mục Nhạc sĩ Huyền Linh, rất quen thuộc với người Công giáo. Bài thánh ca có giai điệu đơn giản mà có sức làm lòng người lắng đọng.

 Chúa Giêsu nhắn nhủ: “Anh em hãy mang lấy ách của Tôi, và hãy học với Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11:29).

 Chúa Giêsu đã mặc khải cho Mẹ Carmel tại Milan (Ý) trong thời gian từ 1968-1969. Ngày 20-4-1968, Mẹ Carmel hỏi: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn con làm gì?”. Chúa Giêsu nói: “Hỡi con gái của Cha, con hãy viết. Con sẽ làm Tông đồ Tình Yêu Đầy Thương Xót của Cha. Cha sẽ chúc lành cho con. Và Cha sẽ đổ xuống trên con muôn vàn ơn Thánh, và những ân thưởng lớn lao. Cha cám ơn con đã phổ biến Thánh Nhan của Ta. Ta sẽ chúc lành cho các gia đình trưng bày hình ảnh của Ta, và Ta sẽ cải hoán những kẻ tội lỗi sống trong các gia đình đó. Ta sẽ giúp kẻ lành tự cải tiến thêm, và những kẻ nguội lạnh trở nên sốt sắng hơn. Ta sẽ để mắt đến các nhu cầu của họ, và sẽ giúp họ trong mọi sự cần thiết, vật chất cũng như siêu nhiên”. Rồi Ngài nói rõ: “TA LÀ GIÊSU ĐẦY LÒNG THƯƠNG XÓT”.

Phàm cái gì cũng có luật. Vì con người thoái hóa nên phải có luật để giữ trật tự xã hội, kỷ cương nghiêm minh. Vậy luật có sau con người để phục vụ con người, nghĩa là luật vì con người, chứ con người không lệ thuộc luật. Tình yêu có luật của tình yêu. Ngay cả tự do cũng có luật, chứ không phải tự do là “xả láng sáng về sớm”. Một gia đình hoặc một nhóm (dù chỉ vài người) cũng có luật. Mỗi người cũng phải có luật riêng mình.

Ông Ê-li-a vào một cái hang và nghỉ đêm tại đó. Đức Chúa nói với ông: “Ê-li-a, ông làm gì ở đây?” (1 V 19:9). Rồi Ngài nói thêm: “Hãy ra ngoài và đứng trên núi trước mặt Đức Chúa. Kìa Đức Chúa đang đi qua” (1 V 19:11). Gió to bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá tảng trước nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa không ở trong cơn gió bão; sau đó là động đất, nhưng Đức Chúa không ở trong trận động đất; sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa; sau lửa có tiếng gió hiu hiu. Thiên Chúa ở trong “gió hiu hiu”. Điều đó chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa nhân hiền, không muốn những gì bạo động.

 Vừa nghe tiếng đó, ông Ê-li-a lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài đứng ở cửa hang. Ông không dám nhìn Ngài, phần vì ông thấy mình bất xứng, phần vì ông sợ người ta nhận diện. Bấy giờ có tiếng hỏi: “Ê-li-a, ngươi làm gì ở đây?” (1 V 19:13). Ông thưa: “Lòng nhiệt thành đối với Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh, nung nấu con, vì con cái Ít-ra-en đã bỏ giao ước với Ngài, phá huỷ bàn thờ, dùng gươm sát hại các ngôn sứ của Ngài. Chỉ sót lại một mình con mà họ đang lùng bắt để lấy mạng con” (1 V 19:14). Các ngôn sứ khác đều bị thủ tiêu, chỉ còn lại ông Ê-li-a, nhưng lòng nhiệt thành vẫn thôi thúc ông. Chắc chắn là Thiên Chúa đã tiền định sứ vụ cho ông. Đức Chúa mách nước: “Ông hãy đi con đường ông đã đi trước qua sa mạc cho tới Đa-mát mà về. Tới nơi, ông sẽ xức dầu phong Kha-da-ên làm vua A-ram; còn Giê-hu con của Nim-si, ông sẽ xức dầu tấn phong nó làm vua Ít-ra-en. Ê-li-sa con Sa-phát, người A-vên Mơ-khô-la, ông sẽ xức dầu tấn phong nó làm ngôn sứ thay cho ông” (1 V 19:15-16).

 Không ai xứng đáng trước mặt Chúa, nhưng thật may mắn cho chúng ta, vì Thánh Tâm Ngài có đầy Tình Yêu Thương và giàu Lòng Thương Xót. Ngài chỉ chờ chúng ta kêu cầu: “Lạy Chúa, cúi xin Ngài nghe tiếng con kêu, xin thương tình đáp lại” (Tv 27:7) thì Ngài sẽ ban cho chúng ta những điều ngoài sức tưởng tượng. Như vậy, chúng ta phải tự nhủ: “Hãy tìm kiếm Thánh Nhan” (Tv 27:8). Chúng ta tin tưởng và miệt mài tìm kiếm Thánh Nhan Ngài, chắc chắn Ngài không ẩn mặt.

 Tuy nhiên, chúng ta là những tội nhân bất xứng, nên luôn phải van nài: “Tôi tớ Ngài đây, xin đừng giận mà ruồng rẫy, chính Ngài là Đấng phù trợ con. Xin chớ bỏ rơi, xin đừng xua đuổi, lạy Thiên Chúa, Đấng cứu độ con” (Tv 27:12). Cứ “vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 27:13). Đừng ngần ngại, vì Thánh Tâm Chúa Giêsu đầy lòng thương xót: “Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào! Hãy cậy trông vào Chúa!” (Tv 27:14).

 Luật Cựu Ước khác Luật Tân Ước. Luật Thiên Chúa khác luật loài người. Thánh Luật khác nhân luật. Chúa Giêsu nói: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5:27-28). Nếu chúng ta thấy một phụ nữ đẹp mà nhìn thì không sao, chúng ta có quyền ngắm nhìn và thưởng lãm tác phẩm mỹ thuật mà Ngài đã khéo léo tạo nên; nhưng nếu nhìn và ham muốn thì mới nguy hiểm. Chúa Giêsu gọi động thái đó là ngoại tình. Các loại ham muốn khác cũng bị Chúa kết án tương tự!

 Chúa Giêsu phân tích: “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục” (Mt 5:29-30). Luật Cựu Ước dạy: “Ai rẫy vợ thì phải cho vợ chứng thư ly dị”. Còn Chúa Giêsu có Luật Tân Ước. Ngài cho biết: “Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình” (Mt 5:32). Quá rõ ràng, không hề mơ hồ!

 Đó là Thánh Luật của Thiên Chúa. Ai không yêu Ngài thì không chuộng Luật Ngài, ai yêu Ngài thì vui sẽ“vui thú với lề luật Chúa, nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày” (Tv 1:2), luôn “thích làm theo Thánh Ý và ấp ủ Luật Chúa trong lòng” (Tv 40:9). Vì “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn” (Tv 19:8), thế nên “hạnh phúc thay ai sống đời hoàn thiện, biết noi theo Luật pháp Chúa Trời” (Tv 119:1).

 Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu giàu lòng thương xót, xin cho chúng con nên như lưỡi đòng, không phải để làm Ngài thêm đau khổ, mà là để chúng con được vĩnh cư nơi Thánh Tâm Ngài và tắm gội trong dòng Thương Xót của Ngài suốt đời. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị cùng Đức Chúa Cha và Đức Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.

 TRẦM THIÊN THU

HÃY CHO TÔI MỘT NGƯỜI CHA

HÃY CHO TÔI MỘT NGƯỜI CHA

                                                                                nguồn: conggiaovietnam.net

 Nếu đã có bao tiếng van nài tha thiết “Hãy cho tôi một người cha” vọng từ niềm đau của những con người bất hạnh: không biết cha mình là ai từ lúc chào đời, có khi cho đến hồi mãn cuộc hành trình dương thế vẫn mãi còn là một khát khao bỏng cháy…

 Nếu đã có tiếng than van “Hãy cho tôi một người cha” thương gửi đến những người cha vô tình, không dám nhìn nhận con mình đang chơi vơi giữa dòng nhân sinh oan nghiệt, một thân một mình phận tầm gửi như bọt bèo trên đầu sóng ngọn gió lênh đênh…

 Nếu đã có những tiếng oán hờn “Hãy cho tôi một người cha” trách cứ người cha đành đoạn chia lìa tổ ấm yêu thương êm đềm hạnh phúc, để sống trong góc trời riêng của lòng ích kỷ nhỏ nhoi, với chút hạnh phúc ảo mà từng đêm lương tri  không chút giày vò, đay nghiến…

 Nếu cũng đã có đâu đó tiếng buồn mênh mang vô vọng tưởng chừng như bất tận “Hãy cho tôi một người cha” vẫn thầm lặng đêm đêm của những đứa con bất hảo bị cha chối từ, bỏ rơi trong các trại cải tạo, trong trại phục hồi nhân phẩm, trong các trại phung cùi, trại khuyết tật, trong các nhà cuối đời của những bệnh nhân HIV….

 Nếu đã có những tiếng thất thanh khản giọng “Hãy cho tôi một người cha” cùng với giọt lệ nghẹn ngào của những người con lăn trên mộ cha mình, vì cha đã sớm từ biệt cõi đời lúc tuổi đời đương xuân phơi phới…

 Và nếu đã có biết bao tiếng gọi ới ời “Hãy cho tôi một người cha” của muôn vàn cảnh ngộ bi đát khác nhau trong cuộc đời đầy nước mắt…

 Thì bạn hãy cảm nếm niềm hạnh phúc tuyệt vời của bạn, vì bạn “đang có một người cha” trước khi bạn muốn la lên: “Hãy cho tôi một người cha hoàn hảo”.

  Thiết tưởng, chưa nói đến những luận lý triết học, thần học về vai trò người cha, nhưng chỉ cần một vòng đời lắng nghe, cảm nhận và thấu hiểu những điều trông thấy, cũng đủ nhận ra rằng người cha trong gia đình giữ một vai trò quan trọng và cần thiết là dường nào! Dân gian của ta không thể diễn tả tầm vóc ấy cách nào hơn câu: “Công cha như núi Thái Sơn”.

 Từ trăn trở trước trào lưu theo chủ nghĩa cá nhân đang có tín hiệu làm mờ dần hình ảnh của người cha, và làm mai một niềm hiếu thảo nơi người con, hai cuộc thi “Viết Về Cha” của năm 2011 và 2012 do Chương Trình Chuyên Đề Giáo Dục trực thuộc Ban Mục Vụ Gia Đình TGP Sài Gòn đề xướng và tổ chức đã mở ra cho mọi người lối về Nguồn Cội của Con Người: “Tình Cha”.

 Được diễm phúc đọc tác phẩm thi ca của các tác giả tham gia cuộc thi, tôi không thể cầm được những cảm xúc trào tràn khi nhận thấy các tác giả đã cảm nếm niềm hạnh phúc tuyệt vời chính mình đang thụ hưởng: “Tôi có một người cha” như một quà tặng vô cùng quí giá của vị Ân Nhân nào đó, mà có thể là có người chưa định hình được, hoặc cũng có người đã định hình được Thiên Chúa Cha: Cội Nguồn của Sự Sống Con Người.

 Có thể là khó diễn tả chăng, mà các tác giả có vẻ như vẫn giấu kín khẳng định người cha đã hình thành trong chúng ta một con người mới có thân xác trí khôn, có linh hồn bất tử, có cả nhân vị và nhân cách? Hay đúng hơn, cha đã hình thành cho chúng ta cả một cuộc đời từ là một thai nhi con người đến một con người hoàn hảo. Tuy vậy tôi vẫn tìm được những ẩn tình khi gặp những cụm từ “đức công sanh” “cây cao bóng cả” hay “núi Thái Sơn” để chỉ “ơn sinh thành” đáng trân trọng:

 “Chấp bút – thay con viết lòng thành

Kính dâng thơ đến đức công sanh”

(Nguyễn Như Phượng – Mãi sống cùng lời cha)

 “Cây cao bóng cả vươn chồi
     Chắn che giông bão suốt đời cho con”

(Huỳnh Nhi Tình Cha )

 Trong lòng con, núi Thái Sơn:

Dáng hình cao ngất, gió vờn mây bay

Núi cao thêm mỗi tháng ngày

Cứ theo tâm tưởng đắp dày công Cha

(Bùi Văn Bồng – Cao dần một ngọn Thái Sơn)

 “Con đã biết ôm hôn một bóng hình cao cả

Của một người, con mãi gọi tên cha!”

(Nguyễn Thị Minh Thư – Hình bóng của Cha)

 Khi đã tác thành nên hình hài của người con trong lòng người mẹ, cũng là lúc người cha khởi đầu một hy tế – hy tế cả đời mình: tàn lụi đời mình đi, cho đời con lớn lên, chết đời mình đi, cho đời con được sống và sống dồi dào. Đa số tác giả đã tập trung khai thác và ghi nhận “công dưỡng dục” hơn là “ơn sinh thành” của người cha, cũng là điều dễ hiểu, bởi nó cụ thể đến nỗi:

“Chiều nay chớp bể, nguồn vần vũ

Bóng Cha già lụ khụ áo tơi”

……

“Cánh cò cõng nắng còn mòn mỏi

Cha cõng tháng ngày đổi cái ăn”

(Nguyễn Thị Thanh Hương – Cha mình)

 Cha ngày ngày bán mặt vào ruộng đất
Mong đến ngày con cái trưởng thành hơn

(Song Ninh Cha tôi)

 “Chúa trao bổn phận cho người cha

Lao khổ làm ăn nuôi cả nhà”

(Nguyễn Minh Thông – Phận làm cha)

 “Những trận mưa rừng ào ào dốc đổ

Cuốn lòng Cha theo nương lúa mịt mờ”

(Nguyễn Thi Thanh Hương – Khắc họa tình cha)

 Tóc cha bạc từ mùa rơm thành khói
     Nước sông quê loang đục đón lũ về
            (Song Ninh – Cha tôi) 

Cả ba lĩnh vực đức dục, trí dục và thể dục đều là điểm nhắm tới  trong khi thi hành nhiệm vụ cao cả của người cha để có một người con thật tuyệt vời như lòng cha mong ước, và để xã hội có thêm một thành viên hữu ích cho đời. Các tác giả ghi nhận mình được hình thành nhân cách từ “chữ viết của ba”, từ lời dặn dò cách sống nhân hậu, tình làng nghĩa xóm, đối nhân xử thế, đến chữ tín, niềm tin và cả hành trình trên con đường Thập Giá:

 “…Con kì kèo: “Ba! tập cho con viết!”

     Dòng đầu tiên con tự viết thành lời
            Là tỏ tình: “Con yêu ba lắm”

Ba sống hoài trong nét chữ con thơ”

(Võ Ngọc Bảo Châu Tập viết)

 “Lời Cha con nhớ ĐỨC làm đầu

NIỀM TIN – CHỮ TÍN nối liền sau

Cha hỡi có hay lòng con trẻ,

Hứa sẽ mang theo suốt cuộc đời”

(Nguyễn Như Phượng – Mãi sống cùng lời cha)

 “Đêm vằng vặc trăng treo hiên trước lán

Tập cho con cách giã gạo nhịp nhàng

Cùng tiếng hò ấm ngọt vọng mênh mang

Để biết sống chứa chan tình làng xóm”

(Nguyễn Thị Thanh Hương – Khắc họa tình cha)

 “Biết bao trăn trở âu lo

Rộng lòng nhân hậu dành cho mọi người

…..

Đêm đông trở giấc ổ rơm

Vẫn đem nồng ấm thảo thơm cho đời”

(Bùi Văn Bồng Cao dần một ngọn Thái Sơn)

 Bố như là gió,

Nâng con vươn cao sống đời bác ái.

Bố như là mây,

Cho con biết chở che những bé thơ giữa chốn chợ đời.

Bố như là mưa,

Mảnh đất đời con thấm nhuần tình yêu thương đồng loại”

(Nguyễn Thị Như Hà – Bố và con)

 “Ai bảo nghèo, tâm linh cằn cỗi?

Cha giàu lòng sớm tối cậy,tin

Đối nhân xử thế quên mình

Yêu thương tha thứ, an bình thánh gia”

 (Nguyễn Thị Thanh Hương – Cha mình)

 Nhiều thử thách, là dấu ấn yêu thương

Chịu khổ đau, rèn đức tính khiêm nhường

Cùng tha nhân con sẻ chia Thập Giá”

(Nguyễn Thị Thanh Hương – Khắc họa tình cha)

 Của lễ dâng đã trọn, hy tế cao vời đã nên ý nghĩa để đời cho con cháu. Có đôi lần trong đời con chưa kịp hiểu thấu, thì ngày cha vượt qua cõi tạm của kiếp phù du  này, chính là lúc con dâng trào dòng lệ nuối tiếc, ân hận: không còn cha để thân thưa lời yêu thương tha thiết với lòng biết ơn sâu thẳm, không còn cha để nói một lời tạ tội những ngộ nhận, những yêu sách vu vơ, không còn cha để ôm cha vào lòng như thưở bé thơ, không còn cha để hỏi con đường đi trước mặt…Chỉ còn lại một niềm thương đến quặn lòng, nỗi nhớ đến vô biên, và chút lạc loài cô vắng tưởng chừng như đến thiên thu vạn đại.

 Con trở về úp mặt vào tay cha

Nghe từng thớ thịt sạn chai thành đá sỏi

Rồi mai này con sẽ trở về đâu

Để được ôm cha như những ngày bé dại

(Phạm Văn Ninh Trở về)

 Em về thắp nến hai hàng

Để tang một chuyến đò ngang vô hình

…..

Người đi trống vắng chiều tà…

Xót xa vạn dặm sơn hà, hanh hao

(Nguyễn Thị Hoa – Người đi xa mãi)
        “Bâng khuâng theo khúc hát ve

Con chạy ùa về thắp mấy nén nhang…”

(Nguyễn văn Đông – Nhớ ba)

 Thưa quí tác giả, chúng tôi, những người đọc thơ của quí tác giả đều có chung một niềm vui mừng khôn tả, khi được đọc những dòng thơ dồi dào sức sống: sức sống của hôm nay, của hiện tại khởi nguồn từ tình yêu vô biên và lòng hy sinh không bến bờ của người cha; và đặc biệt hơn: sức sống của tương lai, của mai sau của vĩnh cửu khởi đi từ niềm tin mãnh liệt vào sự sống đời sau, sự phục sinh vĩnh cửu dành cho người cha thật công bằng. Dù là Niết Bàn hay Thiên Đàng, dù là Suối Vàng hay Miền Cực Lạc, cũng là niềm hy vọng chính đáng của lòng thảo hiếu cùng với ước mong ngày hạnh ngộ, ngày đoàn viên với Đấng Sinh Thành:

Nguyện cầu tình Chúa bao la

Thiên Đàng vĩnh phúc cho cha cõi về

(Nghinh Nguyên – Ngày Xuân Viếng Mộ Cha)

 “Cầu mong ở chốn SUỐI VÀNG

Hồn cha siêu thoát NIẾT-BÀN thảnh thơi”

(Nguyễn Thị Bích Liên – Viếng mộ cha)

 “Con nghe lòng nhớ tim đau nhói

Muôn ánh huy hoàng đã về đâu?

Cầu xin ơn trên con khấn nguyện

Cứu rỗi giúp con một linh hồn”

(Phạm Lê Anh Kiệt Tảo mộ)

Và từ niềm hy vọng ấy, hình thành trong mỗi người con một quyết định đạo đức để nối tiếp hành trình ý nghĩa của cha trong cuộc đời, và hơn thế nữa, để khắc họa tình yêu của Thiên Chúa Cha: Nguồn Cội của sự sống nhân loại.

“Nay Cha khuất bóng bên trời

Trong tôi vẫn ngấm sâu lời chỉ răn

Thái Sơn – công đức cao dần

Tình Cha vẫn mãi luôn gần bên con”

(Bùi Văn Bồng Cao dần một ngọn Thái Sơn)

 “Gương Cha sống thật nhân lành cao cả

Sáng trangTin Mừng Chúa đã mở ra

Đời các con sẽ nối tiếp đời Cha

Luôn khắc họa tình Chúa Cha từ ái”

(Nguyễn Thị Thanh Hương – Khắc họa tình cha)

  Xin chân thành cảm ơn quí tác giả. Ước mong những tác phẩm của quí vị là lời tri ân và cũng là thông điệp chân thành nhất gửi đến tất cả những người cha: “Hãy cho tôi một người cha hoàn hảo”.

 TM . Ban Giám Khảo

PM. Cao Huy Hoàng

Chủ Nhiệm Chuyên Trang Đồng Xanh Thơ,    dunglac.org