Căng thẳng ở Biển Đông thể hiện sự mong manh của chế độ Trung Quốc

Căng thẳng ở Biển Đông thể hiện sự mong manh của chế độ Trung Quốc

Tàu tuần dương Trung Quốc (màu trắng) cản mũi tàu cảnh sát biển Việt Nam trong vùng biển của Việt Nam (ảnh chụp ngày 14/05/2014)

Tàu tuần dương Trung Quốc (màu trắng) cản mũi tàu cảnh sát biển Việt Nam trong vùng biển của Việt Nam (ảnh chụp ngày 14/05/2014)

REUTERS

Trọng Nghĩa

Trung Quốc trong thời gian gần đây đã gây căng thẳng với hầu hết các láng giềng, từ Nhật Bản cho đến Việt Nam, Philippines. Trả lời nhật báo Công giáo La Croix ngày 16/06/2014, chuyên gia Pháp Valérie Niquet, đứng đầu bộ phận châu Á của Hiệp hội Nghiên cứu Chiến lược FRS (Fondation pour la Recherche stratégique) nhận định : Chế độ Bắc Kinh – bị suy yếu từ bên trong – đã sử dụng chủ nghĩa dân tộc và tham vọng bá quyền trên biển để lấy lại tính chính đáng. Chiến lược này, theo bà, không phải là không có rủi ro.

Sau đây là toàn văn bài phỏng vấn :

La Croix : Yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc ở Biển Đông có chính đáng hay không ?

Valérie Niquet : Vấn đề chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc tại Biển Đông hay biển Hoa Đông đã được không chỉ các nước láng giềng của Bắc Kinh (Việt Nam, Philippines,Nhật Bản) mà cả cộng đồng quốc tế nêu lên bởi vì Trung Quốc chỉ đơn thuần giải thích các tuyên bố chủ quyền của họ bằng nguyên nhân lịch sử.

Lập luận của Trung Quốc là gì ? Là kể từ thời Hán – hơn hai thế kỷ trước Công nguyên – các thủy thủ Trung Quốc đã nhận biết khu vực này, và trên cơ sở đó Bắc Kinh đòi chủ quyền trên toàn bộ biển bao quanh Trung Quốc. Nếu như vậy, thì Hy Lạp cũng có thể đòi chủ quyền trên toàn bộ biển Địa Trung Hải…

Vấn đề thứ hai là những tuyên bố chủ quyền khá mới mẻ đó lại không được Trung Quốc xác định rõ ràng như Philippines và Việt Nam đã yêu cầu. Ngày nay, Bắc Kinh dựa trên một đường chín đoạn đã được chính quyền Trung Hoa vẽ ra một cách thô thiển và nhanh chóng vào năm 1948, để đòi chủ quyền trên toàn bộ Biển Đông.

Nhưng người ta không biết là Trung Quốc đòi chủ quyền trên các đảo với các khu vực đặc quyền kinh tế và lãnh hải xung quanh hay là họ muốn toàn bộ Biển Đông mà không dựa vào một vùng lãnh thổ cụ thể nào.

La Croix : Các hành động của Trung Quốc – sự hiện diện của các tàu tuần duyên, việc cắm các giàn khoan dầu… – có thể gây nên hay không một cuộc chiến tranh cục bộ hay rộng lớn hơn, lôi kéo Nhật Bản và Hoa Kỳ nhập cuộc ?

Valérie Niquet : Kể từ cuối những năm 2000 và cuộc khủng hoảng kinh tế, Bắc Kinh đã thay đổi chiến lược trên Biển Đông và quyết định thử sức phản ứng và quyết tâm đáp trả của các nước láng giềng và Hoa Kỳ. Mục tiêu của Trung Quốc là tạo ra một tình huống để phân tích quan hệ quyền lực trong khu vực chứ không phải là một cộng đồng quốc tế được tổ chức hài hòa.

Phải đối mặt với chiến lược thử sức đó, các nền dân chủ như Nhật Bản hay Hoa Kỳ không muốn Trung Quốc đi quá xa, nhưng cũng không sẵn sàng lao vào một cuộc xung đột trực diện Bắc Kinh. Nhưng nguy cơ sự cố đáng tiếc xảy ra không phải là không có : Từ đầu năm đến nay, tại Biển Hoa Đông, Nhật Bản đã cho phi cơ cất cánh hơn 400 lần do các sự cố với Trung Quốc.

Tại Biển Đông, tình hình khác hơn, và có thể xấu đi một cách nhanh chóng. Ở đó, Bắc Kinh đang phải đối mặt với các quốc gia kém dân chủ hơn, chẳng hạn như Việt Nam. Khi Trung Quốc hạ đặt một giàn khoan dầu ở vùng biển mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền, chúng ta không nên quên là nhiều cuộc biểu tình bạo động nhắm vào các cơ sở của Trung Quốc hay Đài Loan đã xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam vào tháng trước.

Trung Quốc hiện nay như đang cho rằng họ ở một thế mạnh và có thể đẩy quân cờ của mình về phía trước. Ta hoàn toàn có thể lo ngại rằng đó là một tính toán sai lầm và cuối cùng Trung Quốc sẽ phải đối mặt với phản ứng dữ dội từ Việt Nam, Nhật Bản hay Hoa Kỳ.

La Croix : Giới hạn mà Trung Quốc không được vượt quá là gì ?

Valérie Niquet : Tại vùng Biển Đông, rất khó mà xác định điều này. Trung Quốc từ lâu đã hiện diện trên quần đảo Hoàng Sa. Và Hoa Kỳ, dù đã tăng cường sự hiện diện quân sự của mình trong khu vực với Philippines, Malaysia và Việt Nam, nhưng chưa sẵn sàng đối đầu với Bắc Kinh để bảo vệ hai hoặc ba hòn đảo do Manila và Hà Nội tuyên bố chủ quyền.

Một trong những lằn ranh mà Mỹ đã đề cập đến trong vấn đề Biển Đông là việc Bắc Kinh thiết lập một vùng nhận dạng phòng không như họ đã làm tại vùng Biển Hoa Đông.

Ngược lại, ở trên Biển Hoa Đông, Bắc Kinh sẽ vượt quá giới hạn nếu dùng võ lực chiếm quần đảo Senkaku/Điếu Ngư do Nhật Bản quản lý. Điều đó sẽ dẫn đến một phản ứng từ phía Hoa Kỳ. Chỉ mới gần đây thôi, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ còn tuyên bố rằng quần đảo đó được che chở bằng thỏa thuận quân sự giữa Washington với Tokyo.

La Croix : Những mối căng thẳng đó liệu có cơ may giảm bớt hay không ?

Valérie Niquet : Tình hình chỉ có thể thay đổi với sự chuyển biến của chính quyền Trung Quốc. Thật vậy, chế độ Bắc Kinh dù mở cửa về kinh tế, nhưng vẫn kiểm soát chặt chẽ về chính trị. Và ngày nay nó xây dựng tính chính đáng trên nền tảng chủ nghĩa đân tộc, điều được gọi là thực hiện giấc mơ về một nước Trung Quốc được phục hưng.

Những tham vọng về một nước lớn đó dùng để bảo vệ tính chính đáng của Đảng Cộng sản giải thích tại sao Trung Quốc rất hung hăng với các láng giềng sát cạnh mình, để cố gắng áp đặt mình vào vị trí một cường quốc không thể tranh cãi và lãnh đạo châu Á.

Các vấn đề tài nguyên, lãnh thổ, năng lượng và thủy sản chỉ là cái cớ. Chúng ta đang phải đối mặt với một cường quốc bị suy yếu từ bên trong và dựa trên chủ nghĩa dân tộc và tham vọng bành trướng để tìm lại tính chính đáng của mình.

Bà Valérie Niquet, Chuyên gia Pháp về Châu Á

 

24/06/2014

 

Nghe (05:58)

 

 

 

 

Bác Học CARREL với PHÉP LẠ LỘ ĐỨC

Bác Học CARREL với PHÉP LẠ LỘ ĐỨC

Alexis Carrel là một bác sĩ nổi danh người Pháp, từng được giải Nobel về y khoa vào năm 1912 vì đã sáng chế ra tim nhân tạo và mạch máu nhân tạo giúp giữ các phần cơ thể con người và thú vật được tiếp tục sống vô thời hạn ngoài thân thể. Ông cũng từng là một người hoàn toàn mất Đức Tin Công giáo.Nhưng sau đó nhờ Mẹ Maria, ông đã tìm lại được niềm tin này.

Dạo năm 1903 Alexis Carrel được một người bạn bác sĩ nhờ tháp tùng một đoàn hành hương Lộ Đức. Trên chuyến tàu hỏa có thiếu nữ Marie Bailly Ferrand, 24 tuổi, bị lao phổi ở thời kỳ chót và lại mắc thêm chứng bịnh sưng màng bụng  đau đớn. Cô đã được bác sĩ nổi danh tên là Broumilloux ở Bordeaux chữa trị mà không chút thuyên giảm. Bác sĩ Carrel cũng khám bịnh cho cô Marie Bailly. Đứng trước trường hợp vô phương cứu chữa của bịnh nhân, Carrel tự nhủ: “ Nếu người bịnh này mà được khỏi, thì thực có phép lạ. Tôi sẽ tin và sẽ đi tu.”

Đến Lộ Đức, cô Marie Bailly lại được bác sĩ Carrel  và một bác sĩ bạn khám nghiệm lần nữa. Khi họ sắp rời bịnh nhân thì một thiếu nữ xin phép mang cô Bailly đến hồ tắm nước suối hang đá Đức Mẹ. Bác sĩ Carrel vặn hỏi: “ Nếu cô ta chết dọc đường thì các người làm sao?”  Thiếu nữ đáp: “ Cô ta nài nỉ tôi mang cô ta nhúng xuống hồ tắm. Chính vì mục đích đó mà cô ta đã từ Bordeaux đến đây.” Bác sĩ Carrel và bác sĩ bạn tin chắc bịnh nhân không còn phương cứu chữa và có thể chết trong vòng một giờ. Nhưng nhờ sự can thiệp của một nữ tu, họ đành cho phép mang cô Marie Bailly đến hồ tắm. Carrel lại nói nhỏ vào tai bác sĩ bạn: “ Nếu cô này mà khỏi bịnh, tôi sẽ tin có phép lạ.”

Cô Bailly được khiêng trên cáng và được đắp chăn. Cái bụng to tướng phình lên và khuôn mặt nhợt nhạt. Cô được đưa vào trong hồ tắm. Nhưng một lát sau người ta khiêng cô ra và nói: “ Các nữ tu chỉ thấm nước rửa bụng sơ sơ cho cô mà thôi chứ không nhúng xuống hồ. Cô Bailly được khiêng đến trước hang đá Đức Mẹ. Bác sĩ Carrel và bác sĩ bạn cũng đi theo. Đôi mắt của Carrel vẫn không rời cô Bailly. Bất chợt Carrel tái mặt. Ông thấy cái bụng của cô Bailly dần dần xẹp xuống và nét mặt của cô không còn nhợt nhạt như trước nữa. Ông tiến lại gần bịnh nhân để bắt mạch và thấy tim cô đập đều hòa. Ông hỏi: “ Cô thấy thế nào?” Bịnh nhân đáp: “ Tôi thấy khỏe khoắn  mặc dù không được mạnh lắm nhưng tôi cảm thấy khỏi bịnh rồi, thưa bác sĩ.”

Bác sĩ Carrel chạy lại văn phòng y khoa, thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Bác sĩ giám đốc Boisarie yêu cầu đưa bịnh nhân trở lại dưỡng đường ngày hôm sau để tái khám.

Ngày hôm sau, cô Marie Bailly được chứng thực là khỏi bịnh hoàn toàn. Quá nửa đêm hôm đó bá sĩ Carrel đi bách bộ trước Vương Cung Thánh Đường Lộ Đức và cuối cùng ông vào nhà thờ cầu nguyện với Đức Mẹ. Ông đã tìm lại được Đức Tin và trong 42 năm còn lại của cuộc đời bác sĩ Carrel đã không ngừng làm chứng cho niềm tin Kitô ấy.

Ký sự của ALEXIS CARREL

Sưu tầm

Lời cuối với vợ trước khi tự thiêu: ‘Bà ở lại trông chừng mấy đứa nhỏ. Tôi đi nghe.’

Lời cuối với vợ trước khi tự thiêu: ‘Bà ở lại trông chừng mấy đứa nhỏ. Tôi đi nghe.’
June 23,  2014

Tự thiêu phản đối giàn khoan HD 981.

Ngọc Lan/Người Việt

WESTMINSTER (NV) – “Ba tôi mất vào lúc 1 giờ 45 phút sáng nay, Thứ Hai, 23 Tháng 6, 2014, tại bệnh viện Tampa General Hospital vì vết bỏng quá nặng.” Chị Hoàng Thục Oanh, con gái của ông Hoàng Thu, người đàn ông tự thiêu tại Florida vào sáng Thứ Sáu vừa qua, nói với phóng viên Người Việt qua điện thoại.

Ông Hoàng Thu, người tự thiêu tại Tampa, Florida vào sáng Thứ Sáu, 20 Tháng Sáu, 2014,

với tâm thư để lại “Hai Yang 981 phải rời khỏi V-N hải phận. Anh hùng tử, chí hùng nào tử.” (Hình: Gia đình cung cấp)

Trong tiếng khóc nức nở, con gái của người đàn ông vừa thực hiện một hành động quả cảm bằng cách tự thiêu để phản đối hành vi xâm lấn của Trung Quốc, cho biết, “Không ai trong nhà biết gì hết về chuyện ba làm như vậy. Ba tôi rất bình thường, không có một biểu hiện gì khác thường hết, ba rất khỏe mạnh, không có bệnh đau gì hết.”

Oanh kể, chị cùng chồng con về Việt Nam từ tối ngày Thứ Hai, 16 Tháng Sáu, và theo dự liệu thì đến 18 Tháng Bảy, “khi chồng tôi trở lại Mỹ trông nhà trông tiệm thì ba má sẽ bay về Việt Nam.”

Thế nhưng khi vừa về Sài Gòn được 2 ngày thì chị Oanh nhận được điện thoại của người bạn cùng xóm gọi báo tin “Ba Oanh tự thiêu.” Lúc đó khoảng hơn 11 giờ sáng Thứ Sáu, 20 Tháng Sáu.

“Tôi không tin, tôi nhờ bạn tôi cho nói chuyện trực tiếp với cảnh sát và họ xác nhận tin đó. Tôi mua vé để cả nhà trở về Mỹ ngay lập tức.” Con gái người quá cố nghẹn ngào.

Chị Thục Oanh trở lại Tampa, Florida vào lúc khoảng 7 giờ tối Chủ Nhật, “chạy liền vào bệnh viện thì thấy ba cháy hết rồi. Người ta trùm lại hết, chỉ còn đưa mặt ra cũng cháy đen hết.”

“Tôi hỏi ‘sao ba bỏ con đi.’ Ba không còn nói gì được, tôi chỉ thấy hình như ba chảy nước mắt. Ba đợi thêm một lát, chồng tôi vào hỏi thêm ba được vài câu thì ba tắt thở. Lúc đó là 1 giờ 45 phút sáng Thứ Hai, 23 Tháng Sáu.” Chị Oanh khóc òa.

Người đàn ông quả cảm Hoàng Thu cùng vợ, bà Lê Thị Huế. (Hình: Gia đình cung cấp)

Người đàn ông tên là Hoàng Thu, sinh ngày 16 Tháng 11, 1942 tại Huế, từng là “lính pháo binh biệt động quan, liên đoàn 9” trong quân đội VNCH. Sau năm 1975, ông Thu cùng gia đình từ Huế trốn vô Sài Gòn, bị bắt đi kinh tế mới ở Đồng Xoài. Từ kinh tế mới trở về, ông Thu chỉ có thể đi làm công việc chân tay, “ai kêu gì làm đó, chứ không thể nào xin được một việc làm ổn định.”

Ông Thu được chị Oanh bảo lãnh sang Mỹ năm 2008. Ông sống cùng vợ và gia đình chị Oanh ở, Silver Lake, Tampa, Florida.

“Ba tôi thích coi tin tức, cũng hay nói những suy nghĩ của ông về tình hình chính trị. Nhưng tôi và má tôi không quan tâm nhiều đến điều này. Ba tôi thường nói nếu mà ba ở California thì ba sẽ làm được nhiều chuyện, tham gia nhiều chuyện, còn ở đây thì không làm gì được hết.” Chị Oanh cho biết.

Tất cả những gì mà gia đình nhận được trước khi ông Thu tự thiêu là “khoảng 15 phút đến 30 phút trước khi tự thiêu, ba tôi gọi điện thoại cho má tôi, khi đó má đang ở ngoài tiệm nail, nói ‘Bà ở lại trông chừng mấy đứa nhỏ. Tôi đi nghe.’” Chị Oanh kể.

“Má tôi thấy lạ có hỏi ông đi đâu? Muốn đi đâu thì phải chờ tụi nó về. Thì ba nói ‘tụi nó về thì tôi không đi được.’ Rồi ba tắt phone. Má tôi gọi lại nhiều lần nhưng ba không nghe. Cho đến khi cảnh sát báo tin cho má tôi biết.” Chị khóc.

Chị Oanh xác nhận tờ giấy có viết dòng chữ “Hai Yang 981 phải rời khỏi V-N hải phận. Anh hùng tử, chí hùng nào tử” là chữ viết của ông Hoàng Thu. “Ba tôi viết chữ đẹp lắm!” Con gái người đàn ông có ý chí kiên cường này nức nở. “Tôi cứ ngỡ như ba tôi ở trên lầu thôi. Tôi không nghĩ là ba tôi chết rồi.” Chị Oanh đau đớn.

Hoa tưởng niệm ông Hoàng Thu được đặt tại nơi ông tự thiêu

để thể hiện sự phản kháng của mình. (Hình: Kenny Diệp)

Theo lời chị Oanh, vì gia đình quá đơn chiếc, không có nhiều bạn bè, người thân nên chị sẽ không tổ chức đám tang cho ba chị, vì làm ra không có ai hết nên “chỉ thiêu rồi mang lên chùa thôi.”

“Ngày mai nhà quàn sẽ đến nói chuyện và chờ 2-3 ngày nữa khi bệnh viện trả xác ba tôi về thì sẽ đưa đi thiêu ngay.” Chị Oanh cho biết.

Ông Hoàng Thu có vợ là bà Lê Thị Huế và hai con, người con gái đầu là chị Hoàng Thục Oanh, người con trai tên Hoàng Huy Quốc hiện còn ở Việt Nam.

 

Liên lạc tác giả: Ngoclan@Nguoi-Viet.com

 

Người Việt tự thiêu ‘vì giàn khoan’ qua đời

Người Việt tự thiêu ‘vì giàn khoan’ qua đời

Thứ ba, 24 tháng 6, 2014

Biểu tình phản đối giàn khoan Trung Quốc tại San Francisco, Hoa Kỳ (hình minh họa)

Tin cho hay người gốc Việt ở bang Florida, Hoa Kỳ, tự thiêu hôm 20/6 với thông điệp phản đối giàn khoan Trung Quốc, đã qua đời.

Người đàn ông 71 tuổi được nói đã tới cổng trung tâm cộng đồng Silver Lake nằm ở góc đường Lockwood Ridge cắt phố 59 Đông vào lúc 11:15 phút sáng thứ Sáu 20/6 và châm lửa tự thiêu.

Sau đó ông này được cấp cứu bằng trực thăng tới bệnh viện đa khoa Tampa trong tình trạng nguy kịch và qua đời sáng thứ Hai 23/6.

Ông để lại hai tờ giấy, hình chụp một tờ viết bằng tay có nội dung: “Hai Yang 981 phải rời khỏi VN hải phận. Anh hùng tử, chí hùng nào tử. Thu Hùng”, đi kèm chữ ký.

Một bản thông cáo được nói là của Cộng đồng Người Việt Quốc gia Tampa Bay, Florida, nói người đàn ông này là ông Hoàng Thu Hùng, cựu sỹ quan pháo binh Việt Nam Cộng hòa.

Trong khi đó báo Người Việt nói ông tên là Hoàng Thu, sinh năm 1942.

Ông sang Mỹ năm 2008, trước khi qua đời sống cùng vợ tên là Lê Thị Huế và gia đình người con gái tại Silver Lake, Tampa, bang Florida.

‘Phật tử tự thiêu’

Cách đây một tháng, một nữ Phật tử tại TP HCM cũng đã tự thiêu với một số biểu ngữ viết tay phản đối Trung Quốc.

Bà Lê Thị Tuyết Mai, Phật tử thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất không được phép hoạt động ở trong nước, đã châm lửa tự thiêu ngay trước Dinh Thống nhất ở trung tâm thành phố ngày 23/5.

Ông Lê Trương Hải Hiếu, Phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân Quận 1 được báo Thanh Niên dẫn lời nói sau đó rằng “theo điều tra ban đầu, nguyên nhân khiến người phụ nữ này tự thiêu là do bế tắc về cuộc sống và bức xúc việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 trái phép, xâm phạm chủ quyền Việt Nam”.

VN ‘đội sổ về đóng góp cho nhân loại’

VN ‘đội sổ về đóng góp cho nhân loại’

Thứ ba, 24 tháng 6, 2014

Việt Nam bị xếp chót trong bảng xếp hạng về đóng góp cho nhân loại

Việt Nam bị một bảng xếp hạng đặt ở vị trí ‘đội sổ’ về đóng góp tổng thể cho nhân loại.

Good Country Index là bảng xếp hạng mới ra mắt của một tác giả, nhà tư vấn chính sách Simon  Anholt.

Kết quả của bảng xếp hạng nói Ireland đứng đầu thế giới, còn Iraq, Libya và Việt Nam ‘cùng xếp hạng dưới đáy’.

Trong ba nước này, Việt Nam (thứ 124) đứng sau cả Iraq (123) và chỉ trên có Libya (125).

Nó dựa trên các khảo sát của các tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc và World Bank.

Tác giả đánh giá đóng góp của 125 nước theo bảy tiêu chí về thành tích như khoa học công nghệ, văn hóa, hòa bình quốc tế và na ninh, trật tự thế giới, khí hậu, thịnh vượng, bình đẳng, sức khỏe…

Trong các yếu tố được xem xét có số lượng sinh viên nước ngoài học tại nước đó, tiền dành cho gìn giữ hòa bình, số lượng giành giải Nobel.

Ireland đứng đầu, và cùng nhóm đầu bảng là các nước vùng Bắc Âu được cho là “có đóng góp chung nhiều nhất cho nhân loại và hành tinh”, hơn hẳn các khu vực khác trên thế giới.

Anh Quốc đứng thứ bảy và Hoa Kỳ đứng thứ 21 trong khi Kenya đứng thứ 26 trên toàn cầu nhưng là quốc gia đứng đầu châu Phi vì đã “nêu ví dụ đầy cảm hứng” về đóng góp có ý nghĩa xã hội.

Tác giả báo cáo nói với báo Financial Times: “Một nước thành công vẫn chưa đủ. Họ phải đóng góp gì đó cho nhân loại.”

Một số kết quả xếp hạng gây tranh cãi, ví dụ về văn hóa, Bỉ được xếp thứ nhất. Ai Cập cũng xếp đầu coh đóng góp cho hòa bình và an ninh quốc tế, mặc dù đang hỗn loạn về chính trị trong nước.

Ông Anholt giải thích những yếu tố nội địa không được ông tính, mà chỉ tính đóng góp của nước đó với thế giới bên ngoài.

“Đức là nước được quản trị rất tốt, nhưng tôi muốn hỏi là Đức làm được gì cho tôi, một công dân Anh?”

Nhiều hạng mục khác nhau

Trong 10 nước đứng đầu thế giới thì chín nước thuộc khu vực Tây Âu, tính tổng thể.

Tuy thế, các chỉ số cụ thể của từng nước lại khác.

Ví dụ, Bỉ đứng đầu thế giới về đóng góp văn hóa, Tây Ban Nha về chăm sóc y tế.

Hoa Kỳ bị tụt xuống hàng thứ 21 vì ‘bị điểm xấu trong mục đóng góp cho hòa bình và an ninh quốc tế’, theo bài báo của Independent.

Nga bị xếp hạng 95, gần với Honduras và Cộng hòa Dân chủ Congo.

Trong bảng xếp hạng này, người ta đánh giá các quốc gia theo những tiêu chí: Khoa học – Công nghệ, Văn hóa, Hòa bình và An ninh Quốc tế, Trật tự Thế giới, Biến đổi Khí hậu, Thịnh vượng – Bình đẳng, Sức khoẻ và Vui sống.

Ngoài các hạng mục này, người ta cũng đưa vào các tiêu chí như số sinh viên nước ngoài đến du học, số tiền một nước bỏ ra để gìn giữ hòa bình và đóng góp cho sự phát triển quốc tế cũng như số giải Nobel có được.

Trong ba nước cuối bảng thì Việt Nam lại có xếp hạng cao hơn hẳn hai nước kia về đóng góp Văn hóa vì đạt vị trí 76 so với Iraq (116) và Libya (124).

Còn về Thịnh vượng và Bình đẳng, Việt Nam đạt mức 79, cao hơn hẳn Trung Quốc (108).

Ngoài ra còn xếp hạng tổng thể (Overall Rankings), theo đó tại châu Á, Trung Quốc đứng thứ 107 thế giới, thua xa Ấn Độ (thứ 81).

Hiện chưa rõ dư luận Việt Nam nghĩ gì về bảng xếp hạng này của Good Country Index.

Hồi đầu năm 2011, một khảo sát quốc tế khác lại cho rằng người Việt Nam ‘lạc quan nhất thế giới’, với 70% người tham gia nói tự tin về triển vọng kinh tế nước này năm 2011.

Khảo sát về chỉ số lạc quan do tổ chức nghiên cứu dư luận BVA của Pháp và Viện Gallup của Mỹ thực hiện ở 53 quốc gia.

Việt Nam nằm trong số 10 quốc gia có chỉ số lạc quan về kinh tế cao nhất, còn Pháp thì ‘đội sổ’ với 61% người được hỏi tỏ ra bi quan về tình hình kinh tế trong năm đó.

 

Con đường gặp Chúa

Con đường gặp Chúa

Chuacuuthe.com

VRNs (23.06.2014) – Sài gòn- Anh Tú và anh Trí là hai anh em từng là tù nhân lương tâm. Họ bị bắt cách đây 14 năm với tội danh: “âm mưu lật đổ chính quyền” dù rằng họ chưa có một hành động cụ thể nào. Mới đây họ được ra tù. Và ngày 21.06 vừa qua, họ được rửa tội tại Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn. Chúng tôi xin gởi đến quý vị và các bạn cảm nhận của người anh Martino Huỳnh Anh Tú về con đường gặp gỡ Thiên Chúa

“Thiên Chúa là Ai ? Giê-su là ai mà tôi thờ lạy chứ? Đó là thách thức ngông cuồng nhất của tôi trước đây. Chỉ có chính mình mới quyết định số phận của mình. Với suy nghĩ ấy, tôi sống bất cần đời, tự mình lo cho vận mạng của mình. Thế rồi cũng với tuổi trẻ bồng bột và tính ngông cuồng đã đưa tôi vào nhà tù Cộng Sản… (tuổi trẻ bồng bột vì không nhận ra được bộ mặt thật của chế độ Cộng Sản; đâu là con đường đúng mà tôi cần phải kiên trì theo đuổi cho ước mơ của mình. Cùng với tính ngông cuồng, đẩy tôi hành động tức thời theo tiếng gọi của lương tâm mà thiếu sự kiên nhẫn chờ đơi). 14 năm trong chốn lao tù, tưởng như cuộc đời đã chấm hết. Khi cánh cửa tù mở ra, tôi là người tự do nhưng cánh cửa cuộc đời hầu như đã khép lại với quá khứ mà Cộng sản ghép tội cho tôi.

Nhưng hôm 21.06.2014, là ngày trọng đại nhất cuộc đời của hai anh em chúng tôi, là ngày anh em chúng tôi chính thức được nhận bí tích Khai Tâm Ki-tô giáo, là ngày tôi được tái sinh trong ơn nghĩa của Chúa…Thật hạnh phúc nào bằng!

Làm sao tôi quên được những năm tháng khốc liệt trong nhà tù Cộng Sản. Vì không tin vào đời sống tâm linh, bản thân luôn nghi ngờ về Thiên Chúa, tôi luôn tự hỏi rằng có Thiên Chúa hiện diện thật trong cuộc đời này không? Với suy nghĩ ấy, nên tâm tưởng tôi lúc nào cũng hoang mang. Có lúc tôi muốn điên loạn vì không biết cuộc đời mình sẽ ra sao? Chốn lao tù với đầy những thủ đoạn đê hèn của những tên cai ngục, chỉ nhằm hãm hại những tù nhân bất đồng chính kiến.

Rồi một đêm nọ, sau song sắt nhà tù, đang cô độc với nỗi tuyệt vọng và tinh thần đang đi dần vào ngõ cụt thì bất chợt trong tâm trí tôi vọng lên một tiếng nói: “hãy cầu nguyện Thiên Chúa đi, xem chừng biết đâu Ngài sẽ giúp ngươi.”

Và tôi đã ngồi dậy cầu nguyện: “Lạy Chúa con là kẻ ngoại đạo, xin Ngài đừng phân biệt mà hãy mở vòng tay cứu rỗi lấy đời con.”  Lặng một hôi, tôi cảm giác trong người rờn rợn, nhưng đồng thời mọi lo lắng, hoang mang dường như tan biến.

Lời cầu nguyện có sức mạnh diệu kỳ như thế sao? Từ đó về sau, mỗi khi tôi lâm vào hoàn cảnh nguy nan khó xử, tôi luôn tìm đến Chúa qua những lời cầu nguyện mong được bình an và sáng suốt để vượt qua.

Trong tù tôi may mắn được quen biết Thầy Sáu Nguyễn Viết Huân dòng Đồng Công. Thầy đã bị bắt trước tôi vài năm cùng các vị linh mục khác thuộc Dòng Đồng Công. Cộng sản gán cho những người chân chính ấy tội danh âm mưu lật đổ chính quyền, nhưng không bao giờ đưa ra được bằng chứng thuyết phục. Tôi tìm đến Thầy mong được học hỏi về đạo Công Giáo. Thầy đã vui vẻ phân tích và giải thích cho tôi rất nhiều về mầu nhiệm trong đạo như: Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Nhập Thể… Tôi cũng tìm đến các bạn trong tù có đạo công giáo để tìm hiểu thêm về giáo lý và nghe họ chia sẻ cảm nghiệm về Đạo.

Trong chốn lao tù ấy, tôi đã học được ba bài kinh căn bản mà tất cả Ki-tô hữu nào cũng thuộc (kinh Lạy Cha – kinh Kính mừng – kinh Sáng Danh ). Kể từ lúc ấy, đêm nào tôi cũng cầu nguyện với Thiên Chúa, với Mẹ Maria qua ba bài kinh này. Thế rồi tâm hồn rất bình an, thanh thản và không còn lo sợ trước bạo quyền của những kẻ vô tâm, vô tri.

Tôi đã hứa với Chúa, ngày nào đó ra tù, công việc đầu tiên của tôi là tìm học giáo lý để hiểu hơn về Thiên Chúa và Đạo để xin được rửa tội.

Sau 14 năm trong lao tù, ngày ra tù cũng đã đến, lòng nặng trĩu cùng những bước chân không định hướng. Cánh cửa tù mở ra nhưng cánh cửa cuộc đời khép lại. Tôi không thể xin được một việc làm ổn định. Vì dòng chữ ghi trên tấm giấy ra tù: “tội âm mưu lật đổ chính quyền!”

Dầu vậy, tôi không bơ vơ vì có Chúa ở với tôi. Khó khăn cứ dồn dập nhưng tâm hồn tôi luôn cảm thấy bình an. Mỗi khi gặp khó khăn tôi đều có những ân nhân, những người chưa từng biết trước đây, họ luôn nhiệt tình giúp đỡ. Thật là phép mầu của Chúa dành cho tôi.  Chúa luôn gởi đến cho tôi những con người để nâng đỡ và trợ giúp cho tôi như: chị Bùi Thị Minh Hằng, Cha Thanh, Cha Thoại, anh Thịnh chị Phượng, vợ chồng em Khanh … Họ luôn quan tâm và lo lắng cho chúng tôi. Có phải đây là sự sắp đặt của Thiên Chúa chăng? Vâng, không còn nghi ngờ gì nữa, con tạ ơn Thiên Chúa, Ngài chưa bao giờ bỏ rơi con. Ngài luôn theo dõi từng bước chân con và luôn an ủi tâm hồn con mỗi lúc con tuyệt vọng.

Hôm nay trước mặt cộng đoàn, con đã mạnh mẽ tuyên xưng niềm tin của con vào Ngài. Hai hàng nước mắt con tuôi rơi khi cha chủ tế hỏi con: “Anh có tin Đức Giê-su Ki-tô là Chúa  không? Con đã mạnh mẽ khẳng khái thốt lên: Thưa con Tin! Ôi hạnh phúc nào bằng, tâm hồn con như cánh đồng lúa khô cằn nay nay đón nhận mưa ân sủng của Chúa.

Tôi, Martino Huỳnh Anh Tú cùng em Anphongsô Huỳnh Anh Trí chính thức gia nhập cộng đoàn Dân Thiên Chúa. Tâm hồn tôi như bay bỗng sau khi tuyên xưng đức tin.

Chúng con cảm tạ Thiên Chúa, chúng con hôm nay thật sự thuộc về Ngài rồi. Từ nay chúng con đã chính thức gia nhập gia đình công giáo đầy tình yêu thương bác ái, con cầu xin Ngài cho con biết tin vào Ngài, yêu mến và phụng thờ Ngài luôn mãi trong suốt phần đời còn lại của con.

Tình thương Chúa không bao giờ kể xiết. Chỉ có Thiên Chúa mới tao nên điều kỳ dịu này trong cuộc đời chúng con…Chính Thiên Chúa đã làm thay đổi cuộc đời chúng con.

Tuy nhiên em của con Anphongsô Huỳnh Anh Trí đang lâm bệnh nặng, không biết con có tham lam không, Con xin Thiên Chúa nhân từ đầy quyền phép làm cho em con sớm khỏi bệnh. Con khấn xin Ngài!

Sau đây là vài hình ảnh trong ngày hai anh em nhận Bí Tích Khai Tâm Ki-tô giáo:

Cha Phụng chia sẻ trong thánh lễ: "hành trình đức tin để nhận ra Chúa là hành trình như hai môn đệ làng Em-mau"

Cha Phụng chia sẻ trong thánh lễ: “hành trình đức tin để nhận ra Chúa là hành trình như hai môn đệ làng Em-mau”

"cha rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần"

“cha rửa con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”

Cha Thanh mời gọi hai anh em tuyên xưng đức tin

Cha Thanh mời gọi hai anh em tuyên xưng đức tin

Anh Trí (ngồi), người em đang bệnh nặng vì hậu quả của chốn lao tù Cộng Sản

Anh Trí (ngồi), người em đang bệnh nặng vì hậu quả của chốn lao tù Cộng Sản

Anh Tú đọc bài đọc I lễ Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô, cũng là ngày anh nhận bí tích Khai Tâm Ki-tô giáo

Anh Tú đọc bài đọc I lễ Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô, cũng là ngày anh nhận bí tích Khai Tâm Ki-tô giáo

 

Hoa hậu Việt bị 3 năm tù tội trồng cần sa

Hoa hậu Việt bị 3 năm tù tội trồng cần sa
June 21, 2014

Nguoi-viet.com

BOTHELL, Washington (NV) – Một hoa hậu người Việt ở tiểu bang Washington vừa bị tuyên án ba năm tù vì tội trồng và phân phối cần sa, theo báo mạng seattlepi.com, dựa trên hồ sơ Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ.

Đó là cô Trish Trâm Bùi, còn có tên Bùi Nguyễn Thị Trâm, 28 tuổi, cư dân thành phố Bothell, Washington, Hoa Hậu Phu Nhân Việt Nam Toàn Cầu 2012 (Mrs. Vietnam Global 2012).

Trish Trâm Bùi, Hoa Hậu Phu Nhân Việt Nam Toàn Cầu 2012. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Cô bị tố cáo cùng chồng, tên Keith K. Lý, một bác sĩ về nắn xương, trồng cần sa tại ba căn nhà ở khu vực ngoại ô phía Bắc Seattle.

Cả hai bị truy tố hồi Tháng Bảy, 2012, và cô vừa bị toà liên bang tuyên án hôm Thứ Sáu. Riêng người chồng sẽ bị xử sau.

Trish Trâm Bùi đăng quang hoa hậu phu nhân do MFC Media (Media Film Company) tổ chức tại Pala Casino Spa & Resort ở San Diego, California, ngày Chủ Nhật, 25 Tháng Mười Một, 2012.

Tuy nhiên, vì đang mang thai, cựu hoa hậu người Việt được Chánh Án John Coughenour cho phép trình diện nhà tù liên bang vào Tháng Hai năm tới, một tháng sau khi sanh con.

Theo hồ sơ, công tố viên Sarah Vogel viết rằng vụ trồng cần sa này sử dụng điện một cách gián tiếp, để tránh bị công ty điện lực để ý.

Luật Sư David Gehrke, đại diện cho cô Trâm, mô tả đây chỉ là một trường hợp “trồng cần sa kiểu bắt chước.”

Hồi Tháng Hai, 2012, trong lúc lái chiếc Mercedes 2005, cô Trâm bị cảnh sát chặn lại và phát hiện một pound cần sa giấu sau ghế tài xế, cùng với $8,900 tiền mặt. Hai vợ chồng cô và đồng phạm Langhak Eung nói với cảnh sát là họ mang cần sa cho người bị bệnh sử dụng.

Sau đó, cơ quan bài trừ ma tuý King County bắt đầu theo dõi hai vợ chồng nghi can, và phát hiện hệ thống trồng cần sa trong nhà.

Tháng Năm, 2012, cảnh sát bắt được 700 cây cần sa trồng trong một căn nhà ở Renton, sau một vụ cháy vì bị chập dây điện.

Cảnh sát cũng bắt được tổng cộng 1,189 cây và 29 pound cần sa trong một căn nhà ở Shoreline, do cô Trâm làm chủ, và tại một căn nhà khác ở Marysville, theo công tố viên Sarah Vogel.

Cần sa trồng trong nhà do cô Trish Trâm Bùi làm chủ. (Hình: Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ)

Cũng theo hồ sơ toà, cô Trâm đến Hoa Kỳ bằng diện hôn nhân, nhưng ly dị người chồng trước khi có quốc tịch.

Sau đó, cô làm việc tại các sòng bài, làm người mẫu, thi hoa hậu, và bán một số lượng lớn cần sa.

Căn nhà ở Renton, Washington, một trong ba nơi trồng cần sa. (Hình: Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ)

Nghi can hiện trong tình trạng có thể bị trục xuất, vì thế, rất khó được hưởng chương trình quản chế tại gia đối với tù nhân có con nhỏ, chỉ dành cho công dân Mỹ, và có thể phải nuôi con ở trong tù. (Đ.D.)

Đánh vợ sảy thai, vẫn làm bác sĩ

Đánh vợ sảy thai, vẫn làm bác sĩ
June 22, 2014

Nguoi-viet.com

CẦN THƠ 22-6 (NV) – Dù bị khởi tố tám tháng nay về tội đánh vợ sảy thai và chờ lãnh án, một bác sĩ vẫn được làm việc bình thường tại bệnh viện đa khoa trung ương Cần Thơ.

Bệnh viên đa khoa cần Thơ, nơi xảy ra rất nhiều sai phạm nhờ quan chức y tế dung dưỡng bao che lẫn nhau. (Hình: Dân Trí)

Tờ Tuổi Trẻ hôm Chủ Nhật kể chuyện lạ mà không mấy lạ ở bệnh viện đa khoa trung ương Cần Thơ về trường hợp của ông bác sĩ tên Phạm Kha Ly, 32 tuổi, đang làm cho bệnh viện này tại khoa tiêu hóa và huyết học.

Theo nguồn tin, đúng ra, phiên tòa hình sự xử Bác Sĩ Ly diễn ra ngày 19/6/2014 phải tiến hành bình thường vì có đủ cả hai bên bị cáo cũng như người tố cáo. Nhưng thẩm phán chủ tọa phiên tòa đã bất ngờ thông báo dời lại, chưa cho biết bao giờ sẽ xử lại.

Bác Sĩ Phạm Kha Ly bị cáo buộc đã đánh vợ đến sảy thai. Theo lời khai của bà Trần Cẩm Loan, vợ ông Ly, hai người cưới nhau Tháng 12-2012.

“Do nghi ngờ bà Loan có quan hệ với người khác, ba tháng sau ngày cưới, khi được bà Loan thông báo có thai, ông Kha Ly đã mua sẵn dây xích và ổ khóa.” Tờ Tuổi Trẻ kể. “Ngày 22-3-2013, ông Kha Ly khóa cửa rào, cửa nhà, cởi hết quần áo bà và dùng dây xích khóa tay, chửi mắng, đánh đập bà rất tàn nhẫn. Một tuần sau đó bà Loan bị sảy thai.”

Đầu tháng 10-2013, cơ quan cảnh sát điều tra công an quận Ninh Kiều đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ngày 20-11-2013 có kết luận điều tra. Bản kết luận điều tra viết rằng “hành vi dùng lời lẽ thô tục chửi mắng, dùng dao cắt tóc, dùng tay chân đánh bà Loan (vợ) gây tổn hại sức khỏe 2% và làm bà Loan sảy thai, do bị can Phạm Kha Ly thực hiện, xâm phạm trực tiếp đến nghĩa vụ phải đối xử bình đẳng giữa vợ chồng được quy định trong Luật Hôn Nhân và Gia Đình.”

Vì vậy, vụ việc được chuyển sang Viện KSND cùng cấp đề nghị truy tố bị can theo điều 151 Bộ luật hình sự. Nhưng từ đó đến nay, Bác Sĩ Phạm Kha Ly vẫn làm việc bình thường tại bệnh viện. Bà Lâm Thị Nhàn, trưởng phòng tổ chức bệnh viện, cho biết bệnh viện không nhận được bất cứ yêu cầu hay văn bản nào từ công an hay tòa án về việc Bác Sĩ Kha Ly bị khởi tố, truy tố nên “không có lý do gì để đình chỉ công tác chuyên môn đối với anh ấy”.

Giữa năm ngoái, chính ông Đặng Quang Tâm, giám đốc bệnh viện đa khoa trung ương Cần Thơ, đã phạm nhiều tội đúng ra phải cách chức và truy tố hình sự nhưng Bộ Y Tế vẫn dung dưỡng và chỉ bắt ông này viết giấy “kiểm điểm rút kinh nghiệm” liên quan đến các quyết định trái luật và số tiền khá lớn.

Một trong những sai phạm của ông Đặng Quang Tâm là vi phạm luật đấu thầu, “tự ý mua sắm tài sản với số tiền hơn 70 tỉ đồng mà không xin ý kiến của lãnh đạo Bộ Y Tế”. Bên cạnh đó, ông còn “xét cho trúng thầu mặt hàng thuốc Harxone chưa được cấp phép mà theo kết luận của Bộ Y Tế là sai pháp luật”.

Theo tờ Dân Trí ngày 17/5/2013, dù vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong công tác quản lý bệnh viện, gây nhiều tổn hại tiền bạc hơn trăm tỉ đồng cho ngân sách nhà nước “nhưng giám đốc Phạm Quang Tâm vẫn được Bộ Y Tế dung dưỡng”. (TN)

Công hàm Phạm Văn Đồng ‘còn tranh cãi’

Công hàm Phạm Văn Đồng ‘còn tranh cãi’

Thứ hai, 23 tháng 6, 2014

Bộ Ngoại giao Việt Nam bác bỏ giá trị pháp lý về chủ quyền của Công hàm Phạm Văn Đồng

Từ tháng Năm, một văn bản ngoại giao cũ lại được Việt Nam và Trung Quốc nhắc đến trong khi quan hệ trở nên căng thẳng vì vụ giàn khoan Hải Dương 981.

Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng nhằm phúc đáp công hàm về chiều rộng lãnh hải của Trung Quốc của Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai.

Văn bản này lại được Trung Quốc nêu ra để khẳng định chủ quyền với Hoàng Sa, trong lúc Việt Nam cũng nhiều lần lên tiếng bác bỏ.

Quan điểm Trung Quốc

Trang web Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 8/6, khi liệt kê các “bằng chứng” về việc Việt Nam công nhận chủ quyền của Trung Quốc, dẫn lại văn bản này.

Trên China Daily, một nhà nghiên cứu, Wu Yuanfu, nói Việt Nam “Việt Nam chỉ thay đổi lập trường sau khi thống nhất Bắc-Nam năm 1975 và kể từ đó luôn cố diễn giải sai lệch và chối bỏ lập trường chính thức đã được nêu rõ trong công hàm”.

Còn Trần Khánh Hồng, Viện Nghiên cứu Quan hệ Quốc tế Hiện đại Trung Quốc, lại nói văn bản cho thấy “chính phủ Việt Nam công nhận quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ của Trung Quốc”.

Trung Quốc còn đưa ra một số luận cứ khác để nói Việt Nam trước những năm giữa thập niên 1970 đã “luôn công khai và chính thức công nhận” Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc. Nhưng như tác giả Ling Dequan viết trên China Daily, hai bằng chứng “quan trọng nhất” cho sự thừa nhận của Việt Nam là công hàm 1958 và Tuyên bố của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 09/05/1965 liên quan tới vùng chiến đấu của quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam.

Việt Nam phản bác

Sau nhiều năm tránh nhắc về Công thư 1958, Việt Nam đã nhiều lần công khai bác bỏ giá trị của văn bản này kể từ khi xảy ra căng thẳng hồi tháng Năm, và gọi đây là “công thư”.

Hôm 23/5, tại cuộc họp báo ở Hà Nội, Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia, Trần Duy Hải, nói khi văn bản của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho Trung Quốc, Hoàng Sa, Trường Sa đang được quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa.

“Việt Nam tôn trọng vấn đề 12 hải lý nêu trong công thư chứ không đề cập tới Hoàng Sa Trường Sa vì thế đương nhiên không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa.”

“Việt Nam tôn trọng vấn đề 12 hải lý nêu trong công thư chứ không đề cập tới Hoàng Sa Trường Sa vì thế đương nhiên không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa.”

Trần Duy Hải, Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia

“Bạn không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền sở hữu, quản lý được. Vậy nên điều đó càng khẳng định công văn của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị pháp lý,” theo ông Hải.

Trong một cuộc phỏng vấn, Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ, nói: “Trong công thư đó, Việt Nam chỉ ủng hộ tuyên bố lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc thôi, không hề nhắc tới chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này.”

“Phía Trung Quốc thì luôn luôn dùng các thủ thuật, thủ đoạn để gán ghép các sự kiện lại với nhau nhằm giành lấy một sự công nhận mặc nhiên về chủ quyền ở đây.”

Một nhà nghiên cứu trong nước, thạc sĩ Hoàng Việt, cũng cho rằng văn bản này “mang một sự cam kết về mặt chính trị hơn là về pháp lý”.

“Đây cũng là một hình thức mà các nước xã hội chủ nghĩa thường hay sử dụng để thể hiện tình đoàn kết trong tinh thần anh em trong phong trào vô sản quốc tế.”

‘Một phần có lý’

Việt Nam bác bỏ tính pháp lý của văn bản

Tuy vậy, trong giới nghiên cứu người Việt ở nước ngoài, có một số ý kiến khác.

Một nhà nghiên cứu gốc Việt cho rằng Trung Quốc không hoàn toàn vô lý khi viện dẫn lá thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958, nhưng ông cho rằng đó chỉ là một nửa sự thật.

Ông Dương Danh Huy, sống ở Anh và là một người Việt nghiên cứu về tranh chấp biển đảo, nói với BBC hôm 20/6.

“Khó nói rằng lập luận Trung Quốc đã đưa ra từ thập niên 1980, mà ngày nay họ đang đưa ra với thế giới một cách mạnh mẽ, về công hàm của ông Phạm Văn Đồng và những hành vi bất lợi khác của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là hoàn toàn vô lý.”

“Sẽ chính xác hơn nếu cho rằng lập luận của Trung Quốc cũng có lý về một nửa vấn đề.”

Ông Huy nói tiếp: “Nửa đó là giả sử như năm 1974 Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Trung Quốc ra Tòa về Hoàng Sa, và Tòa phân xử, khả năng là Tòa sẽ công nhận rằng vào năm đó danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với hai quần đảo này yếu hơn của Trung Quốc.”

“Sẽ chính xác hơn nếu cho rằng lập luận của Trung Quốc cũng có lý về một nửa vấn đề.”

Dương Danh Huy

Nhưng, ông Huy cho rằng còn “một nửa khác của sự thật” mà Trung Quốc bỏ qua.

“Đó là giả sử như năm 1974 Việt Nam Cộng Hòa và Trung Quốc ra Tòa về Hoàng Sa, và Tòa phân xử, khả năng là Tòa sẽ công nhận rằng vào năm đó danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa với quần đảo này mạnh hơn của Trung Quốc.”

“Do đó, phản biện của Việt Nam phải vận dụng nửa này của sự thật, tức là phải vận dụng danh nghĩa chủ quyền mà Việt Nam Cộng Hòa đã duy trì, và cần lập luận cho rằng khi Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra đời năm 1976, quốc gia đó đã thừa kế chủ quyền này.”

Ông Huy cho biết ông đã bày tỏ quan điểm này với các nhà nghiên cứu và phóng viên trong nước. Ông cho rằng trong những thập niên qua Việt Nam cũng biết rằng lập luận về Hoàng Sa, Trường Sa cần có ba điều. Thứ nhất, những tuyên bố và hành động chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa phải có giá trị trong luật quốc tế. Thứ nhì, CHXHNCVN phải thừa kế danh nghĩa chủ quyền mà Việt Nam Cộng Hòa đã duy trì. Thứ ba, phải giảm thiểu giá trị trong luật quốc tế của công hàm của ông Phạm Văn Đồng.

Ông Huy cho rằng thông thường thì điều thứ nhất đi đôi với việc trong quá khứ Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia, nhưng cho đến gần đây truyền thông Việt Nam ít nói thẳng ra. Tuy vậy, trong năm nay đã có ít nhất ba bài trên báo Việt Nam nói thẳng trong quá khứ Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia, và một số quan chức và cựu quan chức Việt Nam trả lời phỏng vấn cũng nói rằng trong quá khứ Việt Nam Cộng Hòa là một chủ thể trong luật quốc tế có chủ quyền lãnh thổ.

Theo ông Huy, “Chủ thể trong luật quốc tế có chủ quyền lãnh thổ là quốc gia.”

Tự thiêu ở Mỹ để ‘phản đối giàn khoan’?

Tự thiêu ở Mỹ để ‘phản đối giàn khoan’?

Thứ hai, 23 tháng 6, 2014

Biểu tình phản đối giàn khoan Trung Quốc tại San Francisco, Hoa Kỳ (hình minh họa)

Tin cho hay một người gốc Việt ở bang Florida, Mỹ, hiện đang trong tình trạng nguy kịch sau khi tự thiêu, để lại thông điệp phản đối giàn khoan Trung Quốc.

Báo Bradenton Herald ở quận Manatee, tiểu bang Florida, hôm 21/6 đăng Bấm bài tường thuật vụ một người đàn ông 71 tuổi tự thiêu bất thành vào một hôm trước đó.

Tờ báo này dẫn lời giới chức địa phương nói người đàn ông không nêu danh tính đã tới cổng trung tâm cộng đồng Silver Lake nằm ở góc đường Lockwood Ridge cắt phố 59 Đông vào lúc 11:15 phút sáng thứ Sáu 20/6 và châm lửa tự thiêu.

Một cặp vợ chồng đi ngang qua đó thấy ông này nằm trên cỏ, người bốc cháy và bên cạnh là một can xăng. Họ đã dập lửa cứu người đàn ông, trong khi ông ta được nói đã kêu gào: “Tôi muốn chết, hãy để cho tôi chết”.

Sau đó ông này được cấp cứu bằng trực thăng tới bệnh viện đa khoa Tampa và hiện đang trong tình trạng nguy kịch.

Cảnh sát cho hay ông đã để lại trên bảng chỉ đường vào trung tâm cộng đồng Silver Lake hai tờ giấy “có viết tiếng nước ngoài”.

Hình chụp một tờ đăng trên Bradenton Herald cho thấy đây là tiếng Việt, được viết bằng tay với nội dung: “Hai Yang 981 phải rời khỏi VN hải phận. Anh hùng tử, chí hùng nào tử. Thu Hùng”, đi kèm chữ ký.

Hiện chưa rõ đây có phải lý do chính khiến người đàn ông tự thiêu hay không.

‘Phật tử tự thiêu’

Cách đây một tháng, một nữ Phật tử tại TP HCM cũng đã tự thiêu với một số biểu ngữ viết tay phản đối Trung Quốc.

Bà Lê Thị Tuyết Mai, Phật tử thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất không được phép hoạt động ở trong nước, đã châm lửa tự thiêu ngay trước Dinh Thống nhất ở trung tâm thành phố ngày 23/5.

Ông Lê Trương Hải Hiếu, Phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân Quận 1 được báo Thanh Niên dẫn lời nói sau đó rằng “theo điều tra ban đầu, nguyên nhân khiến người phụ nữ này tự thiêu là do bế tắc về cuộc sống và bức xúc việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 trái phép, xâm phạm chủ quyền Việt Nam”.

Xin xem thêm:

Một người Việt ở Mỹ tự thiêu phản đối giàn khoan của TQ ở Biển Đông(VOA)

Cách đây một tháng, Bà Lê Thị Tuyết Mai, 67 tuổi, cư dân quận Bình Thạnh đã tử vong sau khi tự thiêu trước Dinh Thống Nhất để đòi Trung Quốc rút giàn khoan khỏi vùng biển Việt Nam.

Cách đây một tháng, Bà Lê Thị Tuyết Mai, 67 tuổi, cư dân quận Bình Thạnh đã tử vong sau khi tự thiêu trước Dinh Thống Nhất để đòi Trung Quốc rút giàn khoan khỏi vùng biển Việt Nam.

Xin xem thêm:

Florida: Cụ ông gốc Việt tự thiêu phản đối giàn khoan Trung Quốc (Nguoi-viet.com)

“Ca những điệu ngọc vàng, cao sang sảng,”

“Ca những điệu ngọc vàng, cao sang sảng,”

“Lời văng xa, truyền nhiễm đến vô song.”

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mt 16: 13-19

Điệu ngọc vàng, nhà thơ đã ca lên, vẫn vang rền những điều truyền nhiễm đến vô song, đầy huyền-nhiệm. Giọng trân-châu, nhà Đạo còn hát mãi đi vào hạo-nhiên lồng-lộng Nước trời, nhiều phấn-kích.

Bài đọc ngày lễ kính thánh Phêrô và Phaolô, tập-trung tiếng hát vô song, huyền-nhiệm có Đức Chúa ở cùng, nhiều ân-sủng. Ân-sủng Chúa ban, đã giúp đỡ các ngài trở-thành đấng thánh trụ-cột duy-trì thánh Hội, rất nhiều thời.

Thánh Phêrô và Phaolô đều có điểm đặc biệt: vừa giống nhau lại vừa khác-biệt, rất chân-chất. Hai thánh giống nhau ở điểm: cả hai đều là người Do-thái nhiệt-thành, xuất chúng. Trong khi thánh Phêrô, xuất thân từ làng chài bình dị ở Galilê, học hành không nhiều nhưng cung-cách rất riêng tư, khi hành-xử. Còn thánh Phaolô, là vị thánh có quốc-tịch Rôma, từng xuất thân từ trường lớp rất La Mã, nhưng thuộc thế-giới Do-thái hạnh-đạo.

Thánh Phêrô từng dẫn dắt những người theo Chúa Giêsu, nên biết Ngài rất rõ. Còn thánh Phaolô chỉ gặp gỡ Ngài trong thoáng chốc trên đường đi Đa-mát nhưng lại thông-hiểu Chúa Sống lại, hơn ai hết. Thánh Phêrô là con người bồng-bột, giản-dị phạm nhiều sai sót. Trong khi thánh Phaolô thì tính-khí phức-tạp, không dễ gì làm hoà được với nhiều người.

Do có khác-biệt về tính-khí, nên hai thánh đã hiểu lầm, xung-đột và bất đồng chánh-kiến, rất nhiều lần. Tuy thế, các ngài vẫn luôn gắn bó tình mến-thương cùng một Thày Chí Thánh cả vào khi chấp-nhận cái chết cho lòng Đạo Thày răn dạy. Điểm son ấy, lại cũng xuất từ tính giản-đơn và kết-hiệp nơi Đức Kitô, Đấng thiếu vắng tính cao-siêu, phức-tạp. Nét đẹp sáng-tạo là do sự bất-đồng nhưng lại hài-hoà từ sự khác-biệt của các yếu-tố tạo-thành.

Gương lành dị-biệt giữa tín-hữu thời tiên-khởi và đặc biệt giữa thánh Phêrô và Phaolô là lời mời gọi Hội-thánh cũng như mỗi người trong ta hãy tôn-trọng sự đa-dạng nơi lập-trường/quan-điểm, sức bén nhạy và phong-phú nơi nét đặc sắc khác-biệt ấy.

Bài đọc 1, sách Công Vụ cho thấy bầu khí vui tươi ban đầu khi thánh Phêrô sử-dụng quyền-bính với đồ-đệ và người theo Chúa, sau ngày Ngài khuất vãn. Cộng-đoàn khi ấy đều đã kết-hiệp nguyện-cầu ở phòng kín, có cửa đóng then cài. Lúc ấy, duy chỉ mỗi thánh Phêrô vắng mặt vì bị giam-giữ. Nhưng rồi, thánh-nhân thoát ngục cách lạ kỳ như chuyện trinh-thám. Ra tù, là chuyện dễ. Nhưng vào với cộng-đoàn Hội-thánh lại không thế. Bởi, thánh Phêrô là loại người có cung-cách diệu-kỳ luôn thu hút mọi người cả những chuyện không đâu lẫn việc đón-nhận ân-huệ mới, giống con trẻ.

Bài đọc 2, diễn-lộ đoạn cuối công-trình hoạt-động của thánh Phaolô, khi ấy xem chừng cũng đã mỏi mệt, già đi với mộng ước thường có, tính-khí cũng phức-tạp bởi cứ than-phiền là mọi người như thánh Máccô và Barnaba hằng lánh thân để thánh-nhân lại một mình, trơ trọi. Nhưng niềm tin ngài có vào Đức Kitô vẫn không hề chuyển lay và thánh-nhân cũng duy-trì niềm tin sắt-son cho đến chết như thánh Phêrô.

Trình thuật thánh Mát-thêu đưa ta về lại với lời tuyên-tín của thánh Phêrô và sứ-vụ Chúa giao trong đó có trọng trách dẫn dắt thánh hội. Lời thánh Phêrô tuyên xưng là câu đáp-trả khi Đức Giêsu hỏi mãi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” một câu hỏi đượm tính mật-thiết đặt nặng lên từ-vựng “bảo”. Bảo đây, tức nói lên niềm-tin vào Thày mình là “Đức Kitô, Con Thiên-Chúa hằng sống.”

Niềm tin, thật ra không chỉ là động-thái nội tại nơi tâm can, cũng không chỉ là nhận-định mang tính thiêng-liêng, tinh thần. Nhưng vẫn cần nói ra bằng lời nói cũng như hành-động. Bằng ngôn-ngữ riêng-tư, bình dị, của chính ngài thánh Phêrô tuyên-xưng thiên-tính của Đức Giêsu, Thày mình.

Điều đó có nghĩa: Thày chính là Đấng Thiên-Sai. Là, Con Một của Thiên Chúa hằng sống. Và về sau, thánh-nhân còn tuyên-tín như thế cũng rất dài bằng những tháng ngày cuộc sống dẫn đến cả nỗi chết, cũng vì Thày. Tất cả, đều là sự nối dài, nới rộng của lời tuyên-tín rất đáng tin được thánh-nhân phát nên lời.

Hệt như thế, thánh Hội là cộng-đoàn gồm những người, những vị từng lĩnh-nhận thông-điệp về Đức Kitô nơi lời lẽ rất đáng tin của thánh Phêrô. Lời lẽ ấy, là cung-cách khiến thánh cả tuyên-xưng Thày mình đích-thị là Ai, Đấng nào.

Mỗi người chúng ta, là thành-viên cũng như cơ-phận của thánh Hội do Thày Giêsu đặt để, cũng phải biết đáp trả câu hỏi của Đức Giêsu Thày Chí Ái như thánh Phêrô từng làm. Nói bằng lời, là cung-cách giúp ta khẳng-định được niềm tin mình vẫn có xưa nay. Nói bằng lời hay hành-động, còn là chuyển-dịch những lời lẽ ấy vào cuộc sống biết phục-vụ người khác. Là, chuyển-ngữ Lời Chúa thành sự việc rất hiện-thực, trong đời mình.

Hôm nay đây, hai cột-trụ của thánh hội là thánh Phêrô, đại diện cho 12 vị đồ-đệ được Đức Giêsu mời gọi vào thời ấy, và cột-trụ kia là thánh Phaolô là đấng bậc đầu tiên đến với Chúa cũng khá trễ nhưng được gọi để trở thành nhân-chứng cho những gì Đức Giêsu từng làm.

Giống như hai thánh cả là cột-trụ của Hội thánh, mọi người chúng ta cũng được mời gọi ra đi tuyên-xưng và rao truyền Tin Mừng bằng cách sống thực Lời Lẽ của Ngài. Ra đi loan báo Tin Vui cho mọi người, bằng cung-cách sống-thực điều mình rao báo.

Nhưng, như thế vẫn chưa đủ. Ta còn được mời gọi rao truyền bằng lời lẽ, tuyên-xưng niềm tin mỗi ngày và mọi ngày trong đời mình ngang qua phụng-vụ và lời nguyện cầu, dâng lên Chúa. Ta làm nhiều hơn thế trong lời ca chúc tụng ngợi khen, ngang qua Đức Giêsu Kitô Con Một Thiên Chúa, là Chúa chúng ta. Nhiều vị, lại cũng được kêu mời bằng lời rao giảng, hoặc diễn-giải Lời của Chúa, rất hăng say.

Làm cách nào cũng là làm, nhưng điều quan-trọng là nối-kết lời lẽ mình diễn-giải hoặc rao truyền vào với cuộc sống đích-thực hằng ngày. Và, vào với hy-vọng rằng Đức Giêsu sẽ đáp-trả lời ta tuyên-xưng Ngài bằng cách cũng tuyên-dương cảm kích mối thịnh-tình của ta trước Thiên-Chúa-là-Cha Ngài.

Trong tinh-thần phấn-kích quyết tuyên-xưng, ta lại về với lời thơ những ngâm rằng:

“Ca những điệu ngọc vàng cao sang sảng,

Lời văng xa truyền nhiễm đến vô song.

Bầu hạo-nhiên lồng lộng một màu trong,

Không rung động bởi tơ huyền náo nức.”

(Hàn Mặc Tử – Ngoài Vũ Trụ)

Ca vang điệu ngọc cao sang sảng, lại cũng là và mãi mãi là tuyên-xưng niềm tin ta có với Chúa không chỉ bằng lời mà thôi. Nhưng, bằng cả cuộc đời hăng say, cảm-kích rất phấn-chấn được làm con và là đồ đệ của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống, rất như thế. Mãi một đời.

Viện phụ Armand Vielleux, OCSO (Scourmont, Bỉ) trước tác.

Mai Tá lược dịch bản tiếng Anh

do Lm Kevin O’Shea CSsR dịch từ tiếng Pháp