
Một màu tím ngát trải dài ở một khu vườn Nhật Bản, khung cảnh đẹp như trên thiên đường |














Một màu tím ngát trải dài ở một khu vườn Nhật Bản, khung cảnh đẹp như trên thiên đường |
SỐNG NĂM ĐỨC TIN : TÍN THÁC
Lm. Giuse Trần Đình Long
Dòng Thánh Thể
Ngày 11/10/2012 toàn thể Giáo Hội bắt đầu cử hành và sống Năm Đức Tin theo lời mời gọi của Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI trong tự sắc Porta Fedei “Chúng ta mong ước Năm Đức Tin sẽ khơi dậy nơi mỗi tín hữu khát vọng tuyên xưng Đức Tin trong sự toàn vẹn và với
một niềm xác tín được đổi mới, trong niềm tín thác và hy vọng. Năm này sẽ là một cơ hội thuận lợi để tăng cường việc cử hành Đức Tin trong phụng vụ, nhất là trong phép Thánh Thể, vốn là chóp đỉnh mà hoạt động của Giáo hội hướng tới, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào sức mạnh của Giáo hội. Đồng thời, chúng ta ước mong việc làm chứng bằng đời sống của các tín hữu sẽ tăng tiến trong sự khả tín. Tái khám phá nội dung Đức Tin được tuyên xưng, được cử hành, được thể hiện qua đời sống; cầu nguyện và suy tư về chính việc làm của lòng tin, đó là nhiệm vụ mỗi tín hữu phải thực hiện, nhất là trong Năm Đức Tin này.”
Một trong những điểm mà chúng ta có thể suy tư về chính việc làm của Đức Tin, đó là Sống Đức Tin trong niềm Tín Thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
Khi đề cập đến việc tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa, Đức Giêsu nói : “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này
mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Mt 6, 24).
Đức Giêsu lại nói tiếp : “Anh em đừng lo lắng tự hỏi : ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây ? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần
tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,31-33).
Một em bé cần một ổ bánh mì, nếu có 5000 đồng, nó sẽ có một ổ bánh mì thơm ngon dòn nóng một cách dễ dàng. Nhưng nếu nó đọc một kinh Kính Mừng mà trong tay không có 5000 đồng, chắc chắn nó không thể nào có được một ổ bánh mì như mơ ước. Điều này hiển
nhiên, vì một lời kinh không phải là cái máy chế biến ra bánh mì. Hơn nữa quyền năng của Thiên Chúa không phải để cho người ta thử thách, như ma quỷ đã thách thức Đức Giêsu trong hoang địa : “Nếu ông là con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!” (Mt 4,3). Thế nhưng hôm nay vẫn còn có người nói, “nếu không có tiền thì lấy đâu ra bánh mì ?” Ở Liên Xô thời ông Stalin, cái trò lừa bịp ấu trĩ này người ta đã thường làm ở các lớp mẫu giáo để phủ nhận Thiên Chúa và đánh lừa trẻ em.
Sống Đức Tin trong niềm Tín Thác vào Chúa quan phòng ngày hôm nay vẫn gây nhiều thắc mắc cho một số đông người có đạo và cũng là đầu đề cho những người vô thần châm chích Hội Thánh. Họ cho rằng đây là những lời dạy tiêu cực đối với lao động. Thực sự Lời
Chúa ít khi nghe êm tai lắm. Kinh thánh nói “Lời sắc như gươm hai lưỡi, nó cắt vào tận hồn phách người ta”.
Trước khi suy niệm việc Sống Đức Tin trong niềm Tín Thác vào Chúa quan phòng hôm nay chúng ta cũng nên ghi nhận một sự việc sau đây. Khi Đức Giêsu nói “Thịt Ta là của ăn, Máu Ta là của uống”, thì người Do Thái la ó rồi bỏ đi không thèm nghe nữa. Nhưng khi nghe bài giáo huấn về niềm Tín Thác vào Chúa quan phòng này, thì người Do Thái không la ó gì cả. Họ yên lặng, nghĩa là họ đón nhận bởi vì dân Do Thái đã trải nghiệm cuộc sống bốn mươi năm chẳng làm ăn gì cả cứ lang bang trong sa mạc cát nóng mà Giavê Thiên Chúa nuôi họ, bụng không hề đói, áo xống không sờn rách, giầy dép đầy đủ, chân không hề bị phỏng suốt bốn mươi năm như thế.
Nhưng hôm nay chúng ta không sống bằng cảm nghiệm thực tiễn như người Do Thái, mà chúng ta sống bằng cảm nghiệm Đức Tin (ăn uống máu thịt Con Thiên Chúa). Tuy vững chắc hơn người Do Thái nhưng cũng làm một số người chao đảo. Vì hôm nay vấn đề gay gắt
nhất là lo lắng cho cuộc sống vẫn còn đó. Đành rằng, “Có làm thì có ăn. Tay làm hàm nhai, tay quai hàm trễ!” Câu này rất đúng thôi. Chỉ có kẻ trây lười biếng nhác mới nghĩ khác. Nhưng làm đến tối tăm mặt mũi, lo đến xanh mặt mà vẫn chưa đủ ăn, cái đó mới bi đát. Thế mà lời Đức Giêsu lại nói : “Thầy bảo cho anh em biết : đừng lo cho mạng sống : lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể : lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao ? Hãy xem chim trời : chúng không gieo, không gặt, không
thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao ? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm dù chỉ một gang không ?… Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc cho đẹp như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin ? “ (Mt 6,25-33).
Lời Chúa còn đó, nhưng sự thúc bách của đời sống thực tiễn cũng vẫn còn đó. Những kẻ tin hôm nay vẫn phải chiến đấu với những dằn vặt trong đời sống hàng ngày, gay gắt đến độ mà Kinh Thánh gọi là sự quằn quại rên xiết nơi mình “muôn loài thọ tạo cùng rên xiết và
quằn quại như sắp sinh nở “(Rm, 8.22t). Nếu kẻ tin mà không mở toang đời mình cho Đức Giêsu Kitô thì sẽ thấy vấn đề cơm ăn áo mặc, nhà ở nó khẩn trương đến độ Lời Chúa có thể bị vấp phạm ngay nơi chính bản thân mình.
Không chịu làm, cứ ở đó mà kinh kệ thì gây cớ vấp phạm cho người khác, bởi vì Thiên Chúa của chúng ta có nói “Ta là Thiên Chúa của kẻ sống”. Những kẻ sống thì làm việc, còn những
kẻ chết thì không làm việc. Kẻ chết là kẻ không tin vào Thiên Chúa mà tin vào tiền bạc. Việc làm của những kẻ tin vào tiền bạc chẳng đáng giá gì trước mặt Chúa.
Sau khi phục sinh, Đức Giêsu hiện ra với Nhóm Mười Hai và nói với Tôma “hãy ở
như người thành tín” (Ga 20, 27). Chúng ta là Kitô hữu, chúng ta là những kẻ thành tín nhờ lòng tin vào Đức Kitô. Về phần những người cuồng tín thì họ nói “Không làm lấy gì mà ăn ?” Họ tin vào sức lực, tin vào việc làm của mình, tin vào tiền bạc. Gọi là cuồng tín, bởi vì lòng tin của họ đến độ có những câu “với sức người sỏi đá cũng thành cơm”.
Hãy nhìn những biến cố ngay trước mặt chúng ta đang làm rung chuyển cả thế giới. Những dân tộc, những quốc gia trong bao nhiêu năm trời đã cuồng tín đến độ chỉ tin vào sức lao động vào sức mạnh của những bàn tay vàng, tay thép, ngày hôm nay những dân tộc ấy
đang rã rời, tơi tả vì có làm mà không có ăn, vì kinh tế sụp đổ, nói rõ ra rằng, vì đói ăn thiếu mặc. Cũng vậy khi một cộng đoàn không tin vào Thiên Chúa, mà chỉ tin vào tiền của, vào quyền lực trần gian thì hậu quả là phân hoá rã rời, rồi hết muốn nhìn nhau nữa.
Kitô hữu là những người có một đức tin lành mạnh, mỗi ngày được trưởng thành nhờ sự canh tân đổi mới của Thánh Thần. Vậy chúng ta không thể là những người cuồng tín được. Chúng ta thành tín, vì chúng ta một lòng một dạ tin vào Đức Giêsu. Như Đức Giêsu đã
một lòng một dạ tin vào Cha, tín thác vào Cha, nên Người đã phục sinh. Hôm nay
Đức Chúa Phục Sinh đang cầm vận mệnh các dân các nước và vận mệnh của từng người. Giêsu Kitô là Chúa, một Đức Chúa đã từng chịu dãi dầu như chúng ta, vì thế Ngài là Đức Chúa biết xót thương. Trước Philatô, đại diện quyền lực thế gian, Ngài nói : “Ta là vua!” Nhưng trước nỗi thống khổ của đoàn dân chúng bơ phờ đông đảo, Ngài nói : “Ta là đấng chăn chiên tốt lành”. Đức Chúa nhân hậu ấy không chỉ biết rõ những nỗi cơ hàn của chúng ta về cơm ăn áo mặc nhà ở bệnh tật, mà còn xót xa cả nỗi khốn cùng của chúng ta, vì thấy chúng ta thiếu vắng Thiên Chúa trong cuộc đời của mình, mà vì thiếu vinh quang Thiên Chúa nên các nỗi cơ hàn về thân xác kia lại càng làm cho chúng ta lo âu, sợ hãi xao xuyến
gấp bội.
Đức Chúa ấy nói : hãy xem chim trời, có con nào chết đói đâu. Hãy ngắm nhìn hoa huệ, có bông nào meo mốc đâu ! Chúng đáng là gì mà Cha anh em còn nuôi ăn mặc đẹp cho như thế ? Đừng có lo, đừng có hốt hoảng ! Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, ai trong anh em chỉ lo mà có thể làm cho đời mình dài thêm ra một gang nữa không ! Vậy thì anh em đừng có lo mà nói rằng ! Ta sẽ ăn gì ! Sẽ lấy gì mà mặc ! Cha biết anh em cần các điều ấy mà ! Có một điều anh em phải lo mà lo trước hết mà anh em lại không lo đó là “Hãy tìm nước Thiên Chúa và sự công chính của ngài (cứ tìm Thiên Chúa đi) các điều lo kia Cha sẽ ban cho anh em”.
Lời Chúa không thể tranh cãi, không thể lý luận, chỉ có tin hay là không tin.
Nếu tôi tin và đặt đời tôi vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, tôi mới thấy
quyền năng của Ngài và mới biết được Ngài yêu thương và chăm sóc tôi biết bao
nhiêu. Nếu không tin thì tôi sẽ chẳng thấy xảy ra sự gì của Ngài trong đời tôi,
mà những lo âu, xao xuyến, bất an, của tôi vẫn còn đó. Vì với khả năng hạn hẹp
của tôi, làm sao mà làm nó tan biến, làm sao mà cất nó ra khỏi đời tôi và ra
khỏi gia đình tôi được.
Để có thể Sống Đức Tin trong niềm Tín Thác vào Chúa quan phòng, chúng ta đặt hết lòng tin vào Cha trên trời và nghe lại lời tha thiết này : Giavê đã bỏ tôi ! Đức Chúa đã quên tôi. Mẹ nào lại quên con đẻ của mình, cạn lòng thương đối với đứa con dạ đã mang? Cho
dù chúng quên được nữa thì phần Ta, Ta sẽ không hề quên con đâu ?
Chúng con đặt hết lòng tin tưởng vào Cha trong Đức Kitô Chúa chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa. Amen.
Lm. Giuse Trần Đình Long
Dòng Thánh Thể
nguồn: Maria Thanh Mai gởi
Mệt mỏi giữa đời thường
WGPSG — Câu chuyện của một người bạn
Bạn tôi làm kế toán cho một công ty đã hơn bốn năm qua. Vừa rồi, bạn ấy than thở rằng: “Em thấy chán và mệt mỏi quá anh ơi! Chuyện gì giám đốc và mọi người cũng đổ lỗi cho em. Em bị rầy la. Em bị nghi kỵ. Nếu không có người yêu của em trên này thì em đã về quê lâu rồi. Làm lương chẳng bao nhiêu mà áp lực thì nhiều quá!”
Bạn thân mến, con người ai mà chẳng trải qua những giây phút mệt mỏi trong cuộc đời. Mệt mỏi vì áp lực công việc. Mệt mỏi vì đời sống hôn nhân không hạnh phúc. Mệt mỏi vì cha mẹ suốt ngày cãi cọ v.v… Tựu trung lại, đó là những mệt mỏi giữa đời thường. Mệt mỏi thể xác. Mệt mỏi tinh thần. Ai cũng thế và ở đâu cũng vậy thôi. Vậy, làm thế nào để vượt qua những giờ phút mệt mỏi trong đời?
Mệt mỏi thể lý
Trước tiên, con người thường mệt mỏi thể lý. Nhiều công nhân mệt mỏi vì suốt tuần tăng ca ở công ty. Nhiều sinh viên và học sinh mệt mỏi vì thức khuya học bài thi cử. Nhiều bệnh nhân mệt mỏi bởi những chứng bệnh phải mang trong người. Nhiều bạn trẻ mệt mỏi vì thức khuya uống bia tới sáng v.v… Mệt mỏi thể xác làm ta chán ăn. Mệt mỏi thể xác làm ta mất ngủ. Mệt mỏi thể xác làm ta thấy nhức đầu v.v… Bởi vậy, một bạn gái đã thốt lên: “Em thật sự cảm thấy mệt mỏi, thấy bức bối, thấy uất ức một điều gì đó mà lúc này em chưa gọi nó ra
thành tên được.” Những lúc mệt mỏi như thế khiến bạn và tôi chẳng muốn làm gì cả.
Thật vậy, nhịp sống và lối sống Sài Gòn đô thị hiện đại dễ làm con người ta mệt mỏi thể lý. Họ nhức đầu bởi tiếng ồn của xe cộ. Họ khó thở bởi khí độc ở nhiều khu công nghiệp thải ra. Họ bất ngờ mang những chứng bệnh bởi nhiều thức ăn nước uống có nhiều hóa chất v.v… Quả thế, môi trường sống làm cho con người trở nên mệt mỏi thể lý. Những mệt mỏi thể xác kéo theo những mỏi mệt của tinh thần. Vậy, những mệt mỏi tinh thần của phần đông con người thời đại hôm nay là gì?
Mệt mỏi tinh thần
Tiếp đến, con người thường mệt mỏi tinh thần. Ngạn ngữ Latinh có câu: “Một tinh thần minh mẫn trong một thể xác tráng kiện” (Mens sana in corpore sano). Vì thế, nếu mệt mỏi thể xác thì tinh thần không thể sáng suốt được. Những lúc nằm trên giường bệnh người ta thường suy nghĩ tiêu cực bi quan. Nhịp sống hối hả và bận rộn của Sài Gòn dễ làm con người ta căng thẳng, lo lắng và trầm cảm. Họ thấy chán nản. Họ thấy bất an. Họ muốn tự tử v.v… Dù vậy, người ta vẫn phải chấp nhận thích nghi với cuộc sống với bộn bê lo toan ấy thôi. Ví dụ một bạn trẻ chân thành thổ lộ rằng: “Công việc cơ quan thì bề bộn, cộng với
bao nhiêu sự thay đổi trong nhân sự, đổi mới trong công nghệ tại công ty. Mà phòng em thì anh quá biết rồi, vì đặc thù công việc nên phòng chỉ toàn nữ thành ra sự rắc rối càng nhân lên gấp bội. Em thấy mệt mỏi vì sự đố kỵ, kèn cựa lẫn nhau… và bao nhiêu điều khác nữa mà em không thể gọi nó ra thành tên.”
Chị tôi đã trải nghiệm quá nhiều về sự mệt mỏi tinh thần. Thất bại trong chuyện mở quán ăn làm chị chán nản. Mệt mỏi vì phải lo lắng chuyện trả lại mặt bằng. Mệt mỏi vì phải tìm người mua lại chén tô, bàn ghế. Mệt mỏi đi thuê một căn nhà cho con chị đi học ở Sài Gòn. Chị quá mệt mỏi tinh thần vì phải bon chen với cuộc sống thị thành. Ngoài ra, chị ta còn mệt mỏi vì tánh chồng chị hay ghen bóng ghen gió. Điều này cho thấy sự mệt mỏi thường xảy ra do ngoại cảnh tác động. Hơn nữa, sự mệt mỏi tinh thần thường xảy ra trong đời sống
gia đình. Người vợ mệt mỏi vì ông chồng suốt ngày cờ bạc, say xỉn. Người chồng mệt mỏi hoang mang vì vợ chỉ lo chuyện công ty đi sớm về khuya. Sự mệt mỏi thường dẫn đến những đổ vỡ trong đời sống hôn nhân. Bởi lẽ, sức chịu đựng của con người luôn có giới hạn. Vì thế, biết chấp nhận và vượt qua những lúc mệt mỏi tinh thần là một kỹ năng sống quan trọng cho con người hôm nay. Vậy, chúng ta phải làm gì?
Làm thế nào để vượt qua mệt mỏi?
Người bạn của tôi tâm sự như thế này: “Mình thích cảm giác của ngày thứ Bảy cuối tuần. Được nghỉ ngơi vì sáng mai Chúa nhật không phải đi làm. Nhưng tới sáng thứ Hai thì thấy mệt mỏi vì lại phải đi làm tiếp.” Điều này cho chúng ta thấy nghỉ ngơi và thư giãn là nhu cầu cần thiết cho con người. Và đó cũng là cách giúp ta vượt qua những lúc mệt mỏi. Nghỉ ngơi để giảm bớt mệt mỏi thể lý. Thư giãn để đầu óc thoải mái bớt căng thẳng. Vì thế, người Sài Gòn thường đi mua sắm, ăn uống và du lịch Suối Tiên, Đầm Sen… trong những ngày cuối
tuần. Đối với các linh mục Sài Gòn thì được nghỉ ngơi vào ngày thứ Hai v.v… Sự
mệt mỏi bởi cuộc sống bộn bề lo toan ảnh hưởng đến đời sống đạo của chúng ta.
Vậy, phải làm sao?
Cuối cùng, Chúa Giêsu đã khuyến khích các môn đệ: “Chính anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6,31). Thật vậy, mỗi Kitô hữu cần nghỉ ngơi lắng đọng tâm hồn. Chúng ta cần tĩnh tâm. Chúng ta cần cầu nguyện. Điều này sẽ ích lợi nội tâm và đời sống đạo của chúng ta. Bởi thế, một người Công giáo đã tâm sự chân thành: “Mới đây tôi nói với một người bạn rằng tôi có thể đi đâu đó vài ngày để tĩnh tâm. Bạn tôi là người đã có gia đình với ba đứa con, nói rằng: ‘Tôi có thể đánh đổi tất cả
mọi sự chỉ để được vài ngày trong thanh vắng!’ Điều đó cũng còn cho thấy đối với hầu hết mọi người cuộc sống hiện đại tất bật làm sao!”
nguồn: Maria Thanh Mai gởi
Thánh Cecilia |
22 Tháng Mười Một
(Thế kỷ III)
Mặc dù Thánh Cecilia là vị tử đạo thời danh trong Giáo Hội Rôma, những câu chuyện quen thuộc về thánh nữ thì không thấy ghi chép trong văn bản chính thức. Vào thời tiên khởi
cũng không thấy dấu vết của sự tôn kính ngài. Chỉ có một mảnh đá thời thế kỷ thứ tư có ghi khắc tên của một nhà thờ mang tên thánh nữ, và ngày lễ kính được cử hành vào khoảng năm 545.
Theo truyền thuyết, Cecilia là một thiếu nữ Kitô Giáo của giai cấp quyền quý kết hôn với một người La Mã tên là Valerian. Cecilia mặc áo nhặm, ăn chay, và thường cầu khẩn các thánh, các thiên thần, các trinh nữ xin họ gìn giữ sự trinh tiết của ngài. Và thánh nữ nói với
đức lang quân, ” Em sẽ tiết lộ cho anh một sự thật, nhưng anh phải hứa đừng nói với ai.” Và khi ông hứa, ngài nói: “Có một thiên thần luôn trông chừng em, và gìn giữ em khỏi bị ai đụng chạm đến.” Ông nói, “Em yêu dấu, nếu đó là sự thật, hãy cho anh thấy vị thiên thần ấy,” và ngài trả lời, “Anh chỉ có thể thấy nếu anh tin vào Thiên Chúa, và được rửa tội.”
Ngài gửi đức lang quân đến gặp Thánh Giáo Hoàng Urbanô để được rửa tội; và khi ông trở về nhà, ông thấy Cecilia đang cầu nguyện trong phòng, và cạnh đó là một thiên thần với đôi cánh rực lửa, tay cầm hai triều thiên bằng hoa hồng và hoa huệ đặt trên đầu của hai người, và biến đi. Sau đó, Tibertius, người em của Valerian, bước vào phòng và ông ngạc
nhiên khi ngửi thấy mùi hoa nồng nàn cũng như vẻ mỹ miều của các bông hoa.
Khi ông này được kể cho biết các chi tiết của câu chuyện, ông cũng muốn được rửa tội. Sau đó, cả hai anh em ông tận tụy hy sinh chôn cất các vị tử đạo mà thời ấy xảy ra hàng ngày, dưới quyền tổng trấn Turcius Almachius. [Không có tổng trấn nào mang tên này cả]. Họ bị bắt và bị đưa ra trước quan tổng trấn, và khi họ từ chối thờ cúng các tà thần họ đã bị
chém đầu.
Trong khi đó, Thánh Cecilia, qua lời rao giảng ngài đã đưa bốn trăm người trở lại đạo và được Ðức Giáo Hoàng Urbanô rửa tội. Sau đó thánh nữ bị bắt, và bị xử tử bằng cách trấn nước cho đến chết. Ngài bị dìm trong bồn nước một ngày một đêm, sau đó quan cho nổi lửa đun sôi bồn nước, nhưng thánh nữ không hề hấn gì. Khi tổng trấn Almachius nghe biết
điều này, ông sai người đến chặt đầu thánh nữ ngay trong bồn nước. Lý hình chém đến ba lần mà đầu thánh nữ vẫn chưa đứt. Hắn để mặc cho máu tuôn đổ. Ðám đông đổ xô đến để thấm máu trong khi ngài vẫn rao giảng cho họ. Ba ngày sau, ngài trút hơi thở cuối cùng, và được Ðức Giáo Hoàng Urbanô và các phó tế chôn cất.
Vào thời Phục Hưng, người ta thường vẽ ngài với đàn vĩ cầm và phong cầm nhỏ.
Lời Bàn
Như bất cứ Kitô Hữu tốt lành nào khác, Thánh Cecilia dùng miệng lưỡi để ca ngợi Thiên Chúa với tất cả tấm lòng. Ngài tiêu biểu cho sự tin tưởng của Giáo Hội rằng thánh nhạc là một phần căn bản trong phụng vụ, có giá trị lớn lao hơn bất cứ nghệ thuật nào khác. Trong
thời đại hỗn độn của âm nhạc ngày nay, có lẽ chúng ta cần đọc lại những lời của Công Ðồng Vatican II dưới đây.
Lời Trích
“Hành động phụng vụ thêm cao quý khi các nghi thức thánh được âm nhạc trang trọng hóa, với sự phụ giúp của các thừa tác viên chức thánh và sự tham dự của giáo đoàn… Phải luôn luôn khuyến khích các ca đoàn, nhưng các giám mục và cha sở phải để ý rằng, bất cứ
lúc nào phụng vụ được cử hành với thánh nhạc, toàn thể giáo đoàn phải có thể góp phần tham dự cách tích cực vì đó là quyền lợi của họ… Bình ca phải có vị trí xứng đáng trong các nghi lễ, so với các loại nhạc khác. Nhưng điều đó không có nghĩa gạt bỏ các loại thánh nhạc khác, nhất là loại đa âm điệu… Thánh ca dành cho giáo dân phải khéo léo chọn lựa, để trong việc phụng tự và nghi lễ, họ có thể cùng góp tiếng hát” (Sắc Lệnh Về Phụng Vụ, 112-118).
nguồn: Maria Thanh Mai gởi
Hàng triệu người đói trong lúc 40% thực phẩm ở Mỹ bị phí phạm
WASHINGTON — Lễ Tạ Ơn là một lễ hội truyền thống mùa thu hoạch bắt nguồn từ quá khứ nông nghiệp của nước Mỹ. Nhiều người Mỹ mừng ngày này cùng gia đình và bạn bè quanh một bàn tiệc đầy các món như gà tây quay, khoai lang, rau xanh, sốt cranberry, bánh ngọt, bánh nhân và nhiều món khác.
Giữa sự thừa mứa này, phần lớn người Mỹ sẽ kinh động khi biết rằng trên thực
tế, số thực phẩm bị phí phạm ở Hoa Kỳ nhiều đến mức nào. Theo một bản phúc
trình mới, khoảng 40% thực phẩm sản xuất ở nước này mỗi năm cuối cùng bị vứt
vào thùng rác.
Thông tín viên VOA Rosanne Skirble tìm hiểu về thực phẩm bị vứt đi ở nước Mỹ và về một tổ chức đang tìm cách thu hồi số thực phẩm bị bỏ đi để giúp những người không có đủ mà
ăn.
Ông Gregory Jones mỗi ngày nấu 5.000 bữa ăn cho D.C. Central Kitchen, một tổ chức bất vụ lợi ở thủ đô giúp nuôi ăn những người thiếu thốn. Vào ngày hôm nay, ông điều khiển những người tình nguyện lóc xương một loạt các con gà tây vừa nấu chín.
Ông Jones lấy những miếng gà rồi bỏ thêm đậu hạt và mì vào một cái nồi to đến độ ông phải dùng một cái thìa to như cái mái chèo để quậy đều.
Vừa dốc muối vào nồi, ông vừa ra lệnh cho dây chuyền sản xuất: “Các bạn ơi, bỏ phần da đi, chỉ lấy thịt thôi.”
Ông Gregory Jones mỗi ngày nấu 5.000 bữa ăn cho D.C. Central Kitchen, một tổ chức bất vụ lợi giúp nuôi ăn những người thiếu thốn.
Ông Jones yêu thích công việc này, và nói nó đã cứu vớt đời ông. Từng là một người nghiện ma túy, ông đã được đào tạo trong chương trình Nghệ thuật Nấu ăn của tổ chức Kitchen và
đã cai được ma túy từ đó.
Ông Jones cho biết: “Ðiều kỳ diệu của công việc này, và điều khiến tôi yêu thích công việc này là bạn có thể đền đáp lại những gì mà Thượng Ðế cao cả đã giúp tôi có được.”
Trưởng ban quản trị Mike Curtin cho biết câu chuyện của Jones là trọng điểm
trong nền tảng hoạt động của tổ chức – phí phạm là sai lầm.
Ông Curtin nói: “Sự phí phạm có thể là thực phẩm. Nó có thể là những đầu óc xây dựng. Nó có thể là những cái bếp không được sử dụng một cách hữu hiệu.”
Số lượng phí phạm không thể tưởng tượng được. Một báo cáo mới của Hội đồng Bảo vệ Tài nguyên Thiên nhiên uớc lượng hàng năm số thực phẩm còn tốt nguyên có thể ăn được trị giá tới 165 tỷ đôla thường bị người tiêu thụ ở nhà bỏ đi, hay không được dùng tới tại
các nhà hàng hoặc bị bỏ phí không thu hoạch tại các nông trại. Và báo cáo nêu ra rằng trong khi số thực phẩm này bị phí phạm, thì cứ 1 trong 6 người Mỹ bị thiếu ăn kinh niên hoặc không có tiền để mua thức ăn. Nhà khoa học phụ trách dự án của Hội đồng vừa kể, đồng thời là tác giả cuộc khảo cứu Dana Gunders nói đa số người Mỹ không nhận thức được vấn đề này.
Bà Gunders nói: “Thực là điều đáng kinh động khi nghĩ rằng chúng ta phí phạm nhiều thực phẩm như thế trong khi có thể nuôi ăn chính dân chúng của mình. Chúng tôi ước tính là nếu chỉ giảm thiểu mức phí phạm thực phẩm khoảng 15% thì cũng ngang với số lượng thực phẩm cần để nuôi sống 25 triệu người Mỹ. Những người bị thiếu ăn.”
Từ hơn 20 năm, tổ chức D.C. Central Kitchen đã hoạt động để thay đổi tình trạng đó. Những người lái xe hàng ngày đi thu nhận số thực phẩm thặng dư được hiến tặng từ các cửa hàng bách hóa, các hãng buôn thực phẩm, nhà hàng và nông trại. Vào ngày hôm nay, một
chiếc xe tải tiến vào nông trại của ông bà Carl và Carol Brady ởMitchellville, Maryland để
nhận 2 tấn dưa chưa được thu hoạch.
Nông trại của ông bà Carl và Carol Brady ở Mitchellville, Maryland tặng 2 tấn dưa cho
tổ chức D.C. Central Kitchen.
Bà Brady cho biết: “Tôi ghét phí phạm và chịu khó thêm một chút là tôi có thể làm một việc tốt bằng cách gom góp số dưa đó lại. Ðem cho thì mất công hơn, nhưng việc đó nằm trong
tiến trình. Tôi cần phải đưa số dưa ấy ra khỏi đồng. Nó cần phải đưa đi và sử
dụng cho bớt phí phạm.”
Lượng thực phẩm dư thừa của nhà nông đó trở thành bữa ăn ngày hôm sau khi nó
được đưa miễn phí đến các nhà tạm trú của những người vô gia cư, những trung
tâm từ thiện nuôi ăn được gọi là nhà bếp súp, và các chương trình ở trường học
như trung tâm huấn luyện sau giờ học mà bà Denise Lacey điều hành tại một khu
của những người có lợi tức thấp tại thủ đô Washington. Hôm nay, bà Lacey bỏ vào
đĩa các phần ăn to gồm thịt gà tây nóng, mì và sốt cà chua cho các em nhỏ đang
chờ được ăn và thường là không biết bữa ăn tiếp theo sẽ ở đâu ra.
Trẻ em được cung cấp một bữa ăn tại nhà bếp của tổ chức D.C. Central Kitchen
Bà Lacey nói: “Tôi chọn phục vụ bữa tối bởi vì nhiều em nhỏ trong khu này có thể không được ăn tối khi về nhà.”
Trở lại trụ sở D.C. Central Kitchen, giám đốc Mike Curtin tóm lược ngày làm
việc. Ông nói bằng cách thu góp thực phẩm, tổ chức này cũng thu góp lại những
cuộc đời, không tiêng cho những người mà họ phục vụ, mà cả cho nhân viên của
ông, một số bản thân đã trải qua những lúc sa cơ lỡ vận.
Ông Curtin nói tiếp: “Chúng tôi muốn mọi người hiểu để cho người khác đói là điều sai trái đến mức nào, thật là sai trái. Nhưng bằng cách dùng số thực phẩm, chúng ta có thể giải
quyết vấn đề đã gây ra tình trạng thiếu ăn và giảm bớt số người đói, chúng ta có thể đạt được sự thành công với tư cách một cộng đồng và trở thành một nơi tốt đẹp hơn.”
Ðầu bếp Gregory Jones cũng đồng lòng với các tư tưởng đó. Ông tươi cười nói: “Tôi đang làm một việc mà tôi vẫn hằng mong muốn. Nó đem lại một nụ cười trên gương mặt tôi.”
nguồn: Anh Lê Khôi gởi
Baomai.blogspot
Trẻ em chết ngoài đường : 8 quan chức Trung Quốc bị kỷ luật
Loại thùng rác ngoài đường phố, nơi phát hiện thi hài của các trẻ em (DR)
Theo AFP hôm nay, tám quan chức địa phương của một tỉnh miền tây nam Trung Quốc đã bị kỷ luật sau khi xảy ra cái chết thương tâm của năm em nhỏ trên đường phố. Vụ việc còn làm dấy lên cuộc tranh luận về tình trạng phân hóa giàu nghèo trong xã hội Trung Quốc, cường quốc kinh tế thứ 2 thế giới.
Sự việc xảy ra tại thành phố Tất Tiết, tỉnh Quý Châu, hôm 16/11 vừa qua, một người dọn rác của thành phố đã phát hiện thấy 5 em nhỏ bị chết trong một thùng xe chứa rác sau một đêm trú ẩn trong đó để tránh rét. Dường như các em nhỏ này bị chết ngạt do khí monoxyde carbonne khi dùng than để đốt lò sưởi.
Những trẻ nhỏ này đều bỏ học, sống lây lất lang thang vì cha mẹ của các em phải đi kiếm sống ở những nơi xa. Không có ai chăm sóc, các em này phải đi lang thang khắp nơi tự kiếm ăn.
Cái chết của những đứa trẻ xấu số này đã gây xúc động mạnh trong dư luận xã hội. Trên các mạng Twitter của Trong Quốc bùng nổ những bình luận tỏ phẫn nộ trước thái độ bàng quang vô cảm của chính quyền và tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc trong xã hội.
Đa số ý kiến trong dư luận đều cho rằng cái chết thương tâm của 5 em nhỏ là bằng chứng cho sự xuống cấp của chăm sóc xã hội và giáo dục ở Trung Quốc. Tuy nhiên, một số tiếng nói của cư dân mạng cũng đòi phải trừng phạt gia đình vô trách nhiệm đã để các em nhỏ phải lang thang kiếm sống.
Báo chí chính thức cho biết, đầu tuần này, chính quyền địa phương đã kỷ luật thải hồi và đình chỉ chức vụ 8 quan chức phụ trách các vấn đề xã hội và giáo dục của thành phố Tất Tiết. Thời gian gần đây dư luận xã hội ở Trung Quốc đều nhận thấy một thực tế đáng báo động đó là kinh tế phát triển, nhiều người giàu lên đồng thời kéo theo là sự phân hóa
giàu nghèo sâu hơn, trong khi các chính sách xã hội công cộng không được chăm
lo. Chính quyền Trung Quốc ngày càng tỏ ra vô trách nhiệm và vô cảm với số phận
của người dân nghèo.
Đức Giáo hoàng kêu gọi không nghe những lời tiên đoán về tận thế
Đức Giáo Hoàng Benedicto 16.
Trong khi một số nhà tiên tri loan báo ngày tận thế là ngày 21/12/2012, Đức Giáo hoàng
Benedicto thứ 16 trong thánh lễ hôm nay 18/11/2012 tại Vatican đã kêu gọi các
tín đồ công giáo không nên dừng lại ở « sự tò mò về thời điểm và các lời dự báo
».
Từ cửa số bao lơn nhìn ra quảng trường Thánh Phêrô, Đức Giáo hoàng Benedicto 16 đã rao giảng bài Phúc âm trong ngày, trong đó Chúa Giêsu nói với các thánh tông đồ về ngày
Ngài lại xuống thế gian vào lúc tận thế, khi « bầu trời trở nên âm u » và « các vì sao rơi rụng xuống từ trời ».
Theo Đức Giáo hoàng, thì Chúa Giêsu không hành động như một « nhà tiên tri » mô tả « ngày tận thế », mà ngược lại muốn giải thoát vĩnh viễn các môn đệ khỏi các lời tiên đoán
về thời điểm thế giới sẽ bị tận diệt.
Đức Giáo hoàng Benedicto 16 giải thích, Chúa Giêsu “muốn mang lại cho các tín đồ chiếc chìa khóa cho sự suy ngẫm sâu sắc hơn, đúng bản chất hơn, và nhất là chỉ ra con đường phải đi hôm nay và ngày mai để bước vào cuộc sống vĩnh hằng”. Ngài nói tiếp : « Tất cả rồi sẽ trôi qua, nhưng lời của Chúa không hề thay đổi ».
ĐỨC TIN CÔNG GIÁO MANG LẠI TÌNH YÊU, HÒA BÌNH VÀ VĂN MINH!
Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt
Vào hậu bán thế kỷ XIX nơi đảo Sicilia ở miền Nam nước Ý có một người gây rất nhiều tiếng vang ồn ào và lôi kéo sự chú ý của mọi người. Ông tên Ercole Antonio Calascibetta và là thành viên cuồng tín của bè tam điểm. Ông còn là đảng viên nhóm ái quốc cực đoan. Nói
tắt một lời, ông trổi vượt mọi người về lòng oán thù. Một thứ oán thù đến từ âm phủ do quỷ dữ xúi giục chống lại tôn giáo, đặc biệt là đạo thánh Công Giáo.
Ông Calascibetta không bao giờ vắng mặt trong các buổi họp chính trị của đảng phái. Và cứ mỗi lần như thế ông đều lợi dụng lớn tiếng chửi rủa công kích các Linh Mục, các tu sĩ nam nữ và tất cả những ai dám công khai bày tỏ tâm tình của một tín hữu Công Giáo chân chính. Ông như bán trọn linh hồn và xác cho ma quỷ và ông làm chuyện này cách công khai chứ không e dè dấu diếm!
Nơi tấm thiệp thăm viếng, tên của ông Ercole Antonio Calascibetta được viết trên đôi cánh mở rộng của một tên quỷ với màu máu đỏ chói. Ông như muốn mọi người thấy và hiểu ông bay lượn trên lông cánh của Satan. Dĩ nhiên điều đáng lo sợ nhất là ông không có niềm tin gì ráo trọi.
Nhưng vượt ngoài các khốn khổ trên đây, ông Ercole Antonio Calascibetta lại được hồng phúc có một người vợ hiền đức. Tạm gọi tên bà là Maria Rita. Bà Maria Rita giống như một thiên thần của lòng nhân hậu mà THIÊN CHÚA Từ Bi đặt bên cạnh các tội nhân để đưa các tội nhân trở về cùng THIÊN CHÚA.
Bà Maria Rita vô cùng đau đớn, vừa khóc vừa nói với chồng:
– Anh viết tên anh trên đôi cánh của một thằng quỷ sứ. Phần em trái lại,
em ghi tên anh trên Trái Tim Vô Nhiễm của Hiền Mẫu MARIA Thiên Quốc. Chúng ta cùng chờ đợi xem ai sẽ là người chiến thắng!
Cứ mỗi lần có chút giờ rảnh rỗi bà Maria Rita chạy nhanh đến quỳ dưới chân bức
tượng Đức Mẹ MARIA, Nữ Trạng Sư bênh vực cho các kẻ có tội. Bà khóc lóc van xin
Đức Mẹ biến đổi tâm lòng chai cứng, đầu óc luôn chống đối tôn giáo của chồng.
Thế rồi một ngày ông Ercole Antonio Calascibetta lâm trọng bệnh. Bà Maria Rita túc trực ngày đêm và âu yếm chăm sóc chồng từng ly từng tý. Ông Calascibetta ngỡ ngàng xúc động trước tấm lòng bao la khoan hậu của hiền thê. Ông suy đi nghĩ lại. Ông âm thầm lý luận rằng lòng tận tụy với tình yêu dạt dào chỉ có thể nẩy sinh từ Kitô Giáo, một tôn giáo ông từng quyết liệt chống phá, nhưng lại mù tịt về giáo lý của đạo thánh! Ông nhất định dành thời giờ để nghiên cứu để học hỏi. Càng học hỏi ông càng khám phá ra nét cao cả, sự thánh thiện của một tôn giáo đến từ trời cao, từ THIÊN CHÚA chí tôn chí thánh! Kitô Giáo chiếm trọn tâm trí và con tim của ông. Ông thay đổi tận gốc rễ. Ông không còn như trước nữa.
Ông Ercole Antonio Calascibetta khiêm tốn trở về với Giáo Hội Công Giáo thánh
thiện duy nhất và tông truyền. Từ đó cho đến khi trút hơi thở cuối cùng, ông sống
đúng nghĩa một tín hữu Công Giáo chân chính. Ông cũng không quên đền bù tội lỗi
quá khứ bằng cách lớn tiếng ca tụng vẻ đẹp và nét cao cả của Đức Tin Công Giáo.
Chỉ duy nhất Đức Tin Công Giáo là suối nguồn mang lại tình yêu, hòa bình và văn
minh!
… Kinh Cầu Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
Lạy Rất Thánh Đồng Trinh MARIA, Mẹ đã vui lòng nhận lấy tước hiệu là Mẹ Hằng Cứu Giúp, cho được giục lòng chúng con trông cậy vững vàng, thì con nài xin Mẹ dủ lòng thương, cứu giúp con trong mọi nơi mọi lúc, khi phải các cơn cám dỗ, khi sa phạm tội, và khi gặp các sự khốn khó trong đời con, và nhất là trong giờ chết. Lạy Mẹ hay thương, xin cho con siêng năng chạy đến cùng Mẹ luôn luôn. Con tin rằng, con siêng năng chạy đến cùng Mẹ, thì làm cho Mẹ càng sẵn lòng nghe lời con. Xin Mẹ ban cho con ơn trọng này, là siêng năng cầu xin Mẹ, và được lòng trông cậy Mẹ như con thảo, ngỏ cho Mẹ nghe lời con hằng cầu xin, mà hằng cứu giúp con, và ban cho con được ơn bền đỗ đến cùng. Lạy Mẹ yêu dấu hay thương giúp, xin Mẹ ban phúc lành cho con, và cầu bàu cho con khi này và trong giờ lâm tử. AMEN.
Lạy Mẹ Hằng Cứu Giúp, xin che chở mọi kẻ thuộc về con, ban ơn phù hộ cho Đức
Thánh Cha, cho Hội Thánh, cho nước Việt Nam con, cho gia đình con, cho kẻ thânnnghĩa, kẻ thù nghịch và hết mọi kẻ khốn khó. Sau hết cho các Linh Hồn đángnthương trong Lửa Luyện Ngục.
Thánh MARIA, lạy Mẹ Hằng Cứu Giúp, xin cầu bàu cho con.
Lạy Thánh Anphongxô là quan thầy bào chữa con, xin giúp đỡ con trong những khi khó ngặt thiếu thốn biết chạy đến cùng Đức Bà MARIA.
Lạy Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, cầu cho chúng con.
Lạy Thánh Anphongxô, cầu cho chúng con.
(”La Mia Messa”, 1 Ottobre 2012 – 31 Dicembre 2012, Anno VI, vol.IV, Casa
Mariana Editrice, trang 304-305)
Sr.Jean Berchmans Minh Nguyệt
Lời cầu nguyện của một nhà giáo
Lạy Chúa,
Chiều nay, cùng với cộng đòan Giáo xứ, chúng con, những nhà giáo đã và đang cống hiến cho sự nghiệp giáo dục, họp nhau trong nhà thờ này . Bên chúng con đây có các em thanh thiếu nhi, là những học sinh của chúng con, các bậc cha mẹ mà tất cả đều trải qua một thời áo trắng học trò. Có cả các vị cao tuổi từng là thầy dậy của không ít thầy cô giáo hôm nay. Nhờ sự dạy dỗ của các vị mà hôm nay chúng con được vinh dự được nhận hai tiếng “ Đồng nghiệp “ thân thương.
Lạy Chúa,
Ai sinh ra đời mà không có thầy dạy, kể cả những người chưa từng đặt chân đến trường học, vì bệnh tật từ nhỏ hay vì thiếu điều kiện đến trường . Sinh thành là bởi cha mẹ, nhưng để trở nên NGƯỜi đúng nghĩa, có lễ nghĩa, tri thức , đạo đức ắt phải có người dạy dỗ. Người dạy dỗ là Cha mẹ, người thân trong nhà, rồi bạn hữu, người trong xóm ngõ. Tuổi đến trường, được đi học có các cô giáo Mầm non, thầy cô tiểu học , trung học rồi đại học chăm sóc, chỉ dạy . Về phương diện đạo lý thì được các Soeurs, qúi Thầy, các Linh Mục, Anh chị Giáo lý viên, huynh trưởng dạy dỗ. Chính Chúa Giêsu, khi còn thơ ấu được Tin mừng thuật lại, Người đã từng ngồi nghe giảng dạy và đối đáp với các vị Thầy trong dân Do Thái,” Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và lời đối đáp của cậu”. Trong cuộc đời công khai, Chúa cũng chọn con đường của một Ngôn sứ. Những môn đệ của Gioan chính là những học trò đầu tiên, sau đến nhóm Mười Hai và còn biết bao môn đệ khác . Chúa không chỉ là Thầy dạy về đạo lý, Người con là vị Thầy Thuốc chữa bệnh tâm hồn và thân xác con người.
Ngày hôm nay, những nhà giáo chúng con đang bước theo con đường Chúa đã dọn.
Bởi chính Chúa là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Chính việc truyền đạt tri thức, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội là mở mắt, mở tai, mở lòng, mở trí cho con người. Truyền đạt đạo đức, nhân bản, luân lý là nâng con người trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa, Đấng sáng tạo vũ trụ, tạo dựng con người và muôn vật muôn lòai.
Nguyện xin cho các thầy cô giáo còn đang miệt mà với phấn bảng hay đã lui về nghỉ sau
nhiều chục năm cống hiến cho sự nghiệp trồng người, dù đang phải vất vả, vật lộn với cuộc sống còn nhiều khó khăn về lương bổng, về áp lực công việc luôn giữ vửng Thiên chức Trồng người. Ý thức sứ mạng thiêng liêng mà Thiên Chúa trao, là tiếp tục nối dài cánh tay dẫn dắt và rao giảng của Thầy dạy Giêsu. Tiếp tục triển khai con đường mà Đức Kitô đã vạch ra là đem lại ánh sáng chân lý, xây dựng nền văn minh tình thương, nền Văn hóa chân thật, trong sáng, lành mạnh, nhân bản. Xây dựng cuộc sống tươi đẹp hơn, một xã hội yêu thương
hơn,chan hòa hơn, công bằng hơn với mong ước mọi người được sống và sống dồi dào hôm nay . Và ngày sau sẽ được cùng họp mặt trong Trường Chúa dạy đặng hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên Nước trời . AMEN .
Fx Đỗ Công Minh
nguồn: Maria Thanh Mai gởi
httpv://www.youtube.com/watch?v=4nnLxpzFvHg&feature=fvwrel
httpv://www.youtube.com/watch?v=boddaPf7Qlg
TÂM TÌNH BIẾT ƠN
Cám ơn Người luôn nhớ đến con
Cho con biến đổi từ thân xác
Cho con niềm trung trinh tín thác
Dù biết tình con đã nhạt nhòa.
Cám ơn Người vẫn chưa quên
Một gã phong cùi mất tuổi tên
Mất luôn tất cả tình xưa cũ
Đời con phiêu bạt sống bên đường.
* * * * *
Bạn thân mến! Hơn hai ngàn năm trước đây, tôi đã sinh ra và lớn lên trong vùng Samari bên miền đất Do Thái ngày nay. Từ ngày khôn lớn, vì cuộc sống lam lũ nghèo đói, tôi đã phải bôn ba vất vả hàng ngày để kiếm sống, và cũng từ ngày đó, tôi đã mang trong người căn bệnh hiểm nghèo: bịnh phong cùi. Ngày tháng trôi qua, căn bệnh không có thuốc chữa này đã lấy đi những ngón tay ngón chân của tôi, nó cũng làm cho khuôn mặt của tôi biến đổi thành dị hợm khó coi.
Vào thời đó, luật lệ và quan niệm của con người cho rằng người mắc bệnh phong là
người tội lỗi, là hiện thân của hình phạt mà Thiên Chúa đã giáng xuống. Người mắc bệnh phong cũng bị thân nhân và người đời ruồng bỏ, bị gạt ra khỏi cộng đoàn xã hội. Hàng rào ngăn cách bởi luật lệ ngăn cấm tôi không được tiếp
xúc với những người không mắc bệnh. Chính vì điều này mà những người mắc
bệnh phong như tôi đã phải liên kết với nhau để nâng đỡ nhau, sống quây quần
bên nhau làm thành một xã hội của những người phong cùi.
Một ngày kia, tôi nhìn thấy Giêsu trên đường đi. Tôi đã nghe người ta nói nhiều về Giêsu, về quyền năng mà Giêsu đã chữa lành cho các bệnh nhân, về tình yêu thương an ủi nâng đỡ mà Giêsu đã trao ban cho nhiều người, đặc biệt là những người nghèo khó và cùng khốn như tôi. Khi nhìn thấy Giêsu trên đường đi, nỗi vui mừng đã tràn ngập lòng tôi, với niềm
tin tưởng dâng cao, tôi tự nhủ:
– Phen này chắn hẳn tôi sẽ được cứu, sẽ được chữa lành !!!
Nhưng luật lệ đã ngăn cấm không cho phép tôi đến gần Giêsu. Biết làm sao đây? Tôi cùng
với những người bạn cùi, chúng tôi phải đứng xa xa và mạnh dạn cất tiếng kêu xin lòng thương xót của Giêsu:
– Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương xót chúng tôi (Lc.17:13)
Giêsu đã vượt qua luật lệ, Ngài đã phá tan bức tường ngăn cách kỳ thị, Giêsu đã đến đứng bên cạnh tôi. Trước mặt tôi là một Giêsu với gương mặt phúc hậu, với đôi mắt rưng
rưng ngấn lệ …Giêsu giơ tay đụng đến thân xác tàn tạ bệnh hoạn của mỗi người
chúng tôi. Cuối cùng Ngài lên tiếng nói :
– “Hãy đi trìnhdiện với các Tư Tế” (Lc.17:14)
Tôi giơ bàn tay lên cao để nhìn. Bàn tay vẫn như cũ, ngón tay vẫn còn bị mất, vết thương lở lói với máu mủ vẫn còn nguyên vẹn. Căn bệnh vẫn còn đó trên thân xác này, thế
mà Giêsu lại bảo tôi đi trình diện với các tư tế để được khám xét, để được chứng thực là đã sạch bệnh. Lạ quá nhỉ? Tôi hoang mang phân vân không biết phải làm gì. Chẳng lẽ tôi không được Giêsu chữa lành hay sao? Ngài không nghe tiếng tôi van xin; không dủ lòng thương xót cho con người cùng khốn của tôi hay sao? Nhưng với niềm tin tưởng phó thác nhỏ bé trong tôi, tôi bước đi và làm theo lời Ngài chỉ dạy. Nhưng lạ thay, trên đường đi
đến trình diện các tư tế, tất cả mười người chúng tôi đều được khỏi bệnh. Niềm vui mừng hân hoan trào dâng trong lòng tôi. Giêsu đã nghe tiếng tôi nài xin. Ngài đã dủ lòng thương tôi, đã chữa lành cho tôi. Giờ đây tôi mới hiểu ra là Ngài muốn có sự cộng tác của tôi để việc cứu chữa mà Ngài thực hiện nơi tôi trở nên trọn vẹn hơn, hoàn hảo hơn và nhiều ý nghĩa hơn… Giêsu ơi! Tình thương của Ngài sao quá bao la!!!
Trước khi gặp Giêsu, tôi là một gã phong cùi bị xã hội và con người coi là phường tội lỗi, bị thân nhân và người đời xa lánh ruồng bỏ, phải sống lang thang vất vưởng đầu đường xó chợ.
Sau khi gặp Giêsu, tôi được chữa lành và được biến đổi thành một con người mới, được hòa nhập vào cộng đoàn xã hội, không còn bị khinh chê, bị thân nhân và người đời ruồng bỏ nữa. Giêsu đã cải hóa con người tôi, Ngài đã làm tất cả những điều này vì yêu thương tôi. Lòng biết ơn đã thôi thúc tôi quay về với Đấng đã cứu chữa tôi. Tôi phải trở về gặp Ngài, xấp mình dưới chân Ngài để nói lời tạ ơn, để thấy mình được bao bọc bởi tình yêu thương, và cũng để làm mọi sự để đáp lại tình yêu đó.
Gặp lại Giêsu, Ngài trao cho tôi ánh mắt yêu thương trìu mến. Ngài ân cần nhỏ nhẹ lên tiếng nói với tôi:
-“Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” (Lc.17:17-18)
Chín người kia đâu? Họ đi đâu rồi? Họ là những người Do Thái mà! Họ là người “trong
đạo” và là người dân được Thiên Chúa tuyển chọn. Ấy vậy mà họ không nhìn ra quyền năng Thiên Chúa đã làm trên cuộc sống và thân xác của họ hay sao?
Chín người kia đâu? Họ đã cùng tôi đi chung một đoạn đường dài trong những năm tháng
đắng cay cuộc đời, họ đã cùng tôi chia sẻ tấm áo miếng cơm trong cuộc sống đầu đường xó chợ, và mới vài giờ trước đây, họ đã đi chung một con đường với tôi để đến trình diện các tư tế. Nay được khỏi bệnh, có lẽ họ không còn tiếp tục sống chung với tôi, chia sẻ vui buồn sướng khổ với tôi như trước nữa. Họ tách riêng ra và không thể cùng tôi đi chung một con đường. Họ đã bị ngăn cản bởi hàng rào ngăn cách của kỳ thị “trong đạo-ngoại đạo” gây
ra. Họ được giải thoát khỏi bệnh tật nhưng họ lại bị nô lệ vào luật lệ và quan niệm khắt khe của người đời.
Chín người kia đâu? Tôi không biết giờ này họ ở đâu, nhưng tôi biết chắc chắn một điều
là họ đã được khỏi bệnh như tôi, và họ đã quên người đã làm cho họ khỏi bệnh. Chắc hẳn họ đã có lòng tin nên được khỏi bệnh, nhưng họ lại thiếu lòng biết ơn cần thiết của một con người. Họ đã khỏi bệnh phần xác nhưng căn bệnh hiểm nghèo trong tâm hồn của họ vẫn còn cần được cứu chữa.
Trong sự kính trọng và vâng phục, tôi xấp mình dưới chân Giêsu để nói lên tâm tình tạ ơn. Ngay lúc đó, Giêsu đã cúi xuống và nâng tôi lên. Ngài nói nhỏ vào tai tôi:
– “Ðứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. (Lc.17:19)
Tôi đứng dậy bước đi nhưng lòng còn mang nặng ơn nghĩa với Giêsu. Chân tôi bước đi nhưng lòng trí và ánh mắt của tôi cứ hướng về Giêsu. Tiếng Ngài cứ vang vọng trong tâm trí của tôi “ về đi…về đi ”. Ngài muốn tôi về với cuộc sống bình thường ngày xưa, về với gia đình làng xóm, về với cộng đoàn xã hội… “ về đi ” để làm chứng cho Ngài, để nói về Ngài cho những người xung quanh tôi, để rao truyền Tin Mừng và ân sủng mà Ngài đã trao ban cho tôi hôm nay. Tôi vừa bước đi vừa nói với Ngài trong thinh lặng: ”Vâng lời Ngài, con đi về…Nhưng Giêsu ơi! xin ở cùng con luôn mãi…”
* * * * *
Lạy Chúa! Xin cho con luôn ý thức để nhận ra những hồng ân mà Chúa đã ban cho con từng giây từng phút, để con cũng biết dâng lời cảm tạ từng phút từng giây. Xin cho con biết cảm nhận tình thương, sự hy sinh và cử chỉ yêu thương của những người chung quanh, để con biết đáp trả bằng chính tình yêu chân thành và sự hy sinh của con. Xin cho con luôn sống tâm tình biết ơn; biết ơn Chúa và biết ơn người, để cuộc đời con luôn là một bài trường ca tri ân cảm mến. Amen.
( Linh Xuân Thôn)
Anh chị Thụ & Mai và langthangchieutim gởi