XE BUS “LỘI NƯỚC” Ở HOÀ LAN .
Xuân ca – Dậu Nguyễn
Xuân ca – Dậu Nguyễn
httpv://www.youtube.com/watch?v=98H5CqoYNNo
Trung Quốc bắt tàu cá nước ngoài phải xin phép khi vào Biển Đông
Trung Quốc bắt tàu cá nước ngoài phải xin phép khi vào Biển Đông
Bản đồ Biển Đông
Qua một hành động bị gọi là « leo thang » trong chiến lược độc chiếm Biển Đông, Trung Quốc vừa loan báo hai quyết định song song : Tăng cường quyền hạn cảnh sát của họ tại vùng Biển Đông, và bắt buộc tàu đánh cá nước ngoài phải xin phép khi vào hoạt động bên trong vùng biển mà Bắc Kinh nhận là của mình. Quyết định do tỉnh Hải Nam ban hành – có hiệu lực từ ngày 01/01/2014 – gây quan ngại vì bị đánh giá là một hành vi khiêu khích mới nhắm vào các láng giềng đang bị Trung Quốc tranh chấp chủ quyền tại khu vực Biển Đông.
Theo hãng thông tấn Mỹ AP, các quy định mới của Trung Quốc yêu cầu tàu thuyền nước ngoài phải xin phép khi đi vào đánh bắt cá hoặc khảo sát trong vùng biển do tỉnh Hải Nam quản lý. Được tỉnh này thông qua vào cuối tháng 11/2013, các quy định mới chỉ nói chung chung là đơn xin phép phải được gởi đến các « ban ngành có liên quan » của chính quyền Trung Quốc.
Một dấu hiệu cho thấy là Trung Quốc có thái độ ngày càng lấn lướt : Luật của họ cho phép tịch thu không chỉ sản lượng mà ngư dân nước ngoài đánh bắt được, cũng như thiết bị trên tàu bị chặn bắt, mà còn nâng mức tiền phạt người vi phạm lên thành 500.000 nhân dân tệ (tương đương với 83.000 đô la).
Vấn đề là trên nguyên tắc, tỉnh đảo Hải Nam lại là địa phương được Bắc Kinh trao quyền quản lý hầu như toàn bộ vùng Biển Đông mà Trung Quốc cho là thuộc chủ quyền của họ, nằm bên trong tấm bản đồ hình lưỡi bò được chính thức công bố vào năm 2009.
Tính ra, vùng biển mà Trung Quốc muốn độc chiếm trải rộng trên hai triệu km vuông của vùng Biển Đông, bao gồm các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và một số nơi khác tranh chấp với Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, Đài Loan. Đơn vị hành chánh trực tiếp « điều hành » Biển Đông là thành phố Tam Sa mà Bắc Kinh đặt trụ sở ngay trên đảo Phú Lâm, thuộc quần đảo Hoàng Sa, đã bị Trung Quốc chiếm đoạt từ tay Việt Nam vào năm 1974.
Như để phô trương uy lực dằn mặt các láng giềng, hôm 01/01/2014, vào đúng ngày các quy định kể trên có hiệu lực, chính quyền Tam Sa đã tổ chức một cuộc tập trận chung, huy động 14 chiếc tàu và 190 người thuộc các đơn vị biên phòng và các cơ quan thực thi pháp luật khác nhau.
Truyền thông Trung Quốc đã dẫn lời một quan chức cho biết cuộc tập trận đã xử lý một số kịch bản nhằm đối phó với tình « tàu cá nước ngoài vi phạm tràn lan » luật lệ của Trung Quốc.
Đối với hãng tin Mỹ AP, các quy định mới trên đây là một động thái mới nhằm áp đặt chủ quyền của Trung Quốc tại toàn bộ các vùng đang tranh chấp. Quyết định này đã nối tiếp theo thông báo cuối tháng 11/2013, áp đặt vùng phòng không mới trên Biển Hoa Đông, bao trùm lên vùng quần đảo Senkaku/Điếu Ngư đang tranh chấp với Nhật Bản.
Nếu tại Biển Đông, tàu đánh cá ngoại quốc đi vào bên trong đường lưỡi bò phải xin phép Trung Quốc, thì tại vùng Hoa Đông, máy bay nước ngoài khi đi qua khu vực vùng phòng không đó, cũng phải báo trước cho Bắc Kinh.
Ngọc ngữ của Mẹ Teresa
Ngọc ngữ của Mẹ Teresa
Ngày đẹp nhất ? —— Hôm nay
Việc dễ dàng nhất ? —— Phạm tội
Trở ngại lớn nhất ? —— Sợ hãi
Sai phạm nghiêm trọng nhất ? — Tự ruồng bỏ chính mình
Nguồn gốc của mọi sự ác ? —— Ích kỷ
Thú tiêu khiển tốt nhất ? —— Làm việc
Thất bại nặng nề nhất ? —— Chán nản
Thầy dạy tốt nhất ? —— Trẻ em
Nhiêm vụ cần ưu tiên nhất ? —— Hiểu biết lẫn nhau
Điều có thể làm cho người ta vui nhất ? —– Hữu ích với tha nhân
Mê hoặc lớn nhất của đời người ? —– Tử vong
Khuyết điểm lớn nhất của con người ? —– Tính nóng nảy
Nhân vật nguy hiểm nhất ? —— Kẻ nói dối
Cảm giác hèn kém nhất ? —— Hận thù
Tặng vật cao quý nhất ? —— Tha thứ
Điều không thể thiếu ? —— Gia đình
Đường tắt ngắn nhất ? —— Đường thẳng
Cảm giác khiến con người vui nhất ? —— Bình an trong tâm hồn
Bằng chứng của hành phúc nhất ? —— Mỉm cười
Cách giải quyết có hiệu quả nhất ? —— Lạc quan
Thỏa mản lớn nhất ? —— Hoàn thành được việc phải làm
Sức mạnh lớn nhất trên toàn thế giới ? —— Cha mẹ
Một trong những niềm vui lớn ? —— Có người bạn thực sự _ nhận thức được có người cùng đồng hành với bạn,và cũng biết rõ rằng họ không thể giải quyết những vấn đề của bạn.
Điều đẹp nhất trên thế gian ? —— Yêu
Nhưng tất cả những điều tốt đẹp trong cuộc sống, đều xuất phát từ Tình yêu và Ân sủng vô biên của Thiên Chúa.
Người phu xích lô 51 năm trước của tôi và một thông điệp cho mùa Giáng Sinh
Người phu xích lô 51 năm trước của tôi và một thông điệp cho mùa Giáng Sinh
Bạn thân,
Tôi muốn kể hầu bạn một câu chuyện mới xẩy đến cho tôi trong mùa Giáng Sinh năm nay. Ngày 24, một ngày trước Giáng Sinh, tôi nhận được một thiệp Giáng Sinh làm tôi ngạc nhiên.
Thiệp viết như sau:” Kính thẩm phán Phan Quang Tuệ. Em được biết thẩm phán khi còn ở Việt Nam. Thẩm phán đã về hưu, em thấy trong facebook nên để lại message nhưng không thấy thẩm phán trả lời. Xin xem lại message em đã gởi. Em,……., đã gặp trong đêm khuya trên đường Phan t. Giản. Kính chúc thẩm phán có mùa Noel và năm mới với nhiều sức khỏe cùng quý quyến.”
Tôi để tấm thiệp lạ kỳ này qua một bên, trên bàn giấy trong phòng làm việc. Vợ tôi thường để tất cả thiệp Giáng Sinh trên một bàn nhỏ gần cây thông Giáng Sinh trong phòng khách. Tối hôm ấy vợ chồng tôi, em vợ, cháu gái, các con trai, con dâu, cháu nội quây quần trong buổi tiệc gia đình mừng Đấng Cứu Thế ra đời. Chúng tôi mở quà, chơi trò chơi “white elephant”. Mãi đến khuya tiệc tàn, các con cháu ra về. Tôi giúp nhà tôi dọn dẹp.
Sáng hôm sau tôi dậy trong khi nhà tôi còn yên giấc. Tôi vẫn thích không khí yên tĩnh trong nhà trong buổi sáng tinh sương. Tôi xuống dưới nhà, vào phòng giấy, đem tấm thiệp ra ngồi trước computer. Tôi vào facebook và sau một lúc tìm ra được lời nhắn viết cho tôi từ giữa tháng 9. Quả thực tôi đã vô tình không đọc lời nhắn này trên facebook.
Và đây là lời nhắn gởi cho tôi đề ngày 18 tháng 9, 2013 trên facebook. Tôi ghi lại nguyên văn và để y nguyên cách viết:
“Kính chào Thẩm Phán Phan Quang Tuệ. Em đã tìm Thẩm Phán hơn 30 năm nay (vị Ân Nhân của em!). Em xin gợi lại kỷ niệm. Lần gặp đầu tiên trong đêm khuya trên đường Phan Thanh Giản, Saigon (1962…?). Em là đứa 15 tuổi, đạp xe xích lô đã chở Người Ân Nhân về nhà (sát cạnh chợ Bà Chiểu) lúc đó cửa sắt trước nhà của Bác Sĩ Phan Quang Đán bị chính phủ Ngô Đình Diệm niêm phong! Trên đường em chở vị ân nhân này về nhà, em được khuyên bảo: ”em còn nhỏ mà phải sống vất vả quá vậy, em cố gắng học nghe, ba của anh, bác sĩ Phan Quang Đán đang bị chính phủ Ngô Đình Diệm bỏ tù nên anh không có cơ hội giúp em được nhiều, nhưng….Vừa bước xuống xe, ông anh Đẹp Trai móc hết các túi, tìm tiền cho em hết! Ráng học giỏi nghe em…
Với lời nói Chân Tình khuyên bảo đó, và cử chỉ thân thương, mãi mãi còn trong tim óc của em! Từ đó em được “thành công”… em bị động viên khóa 3/68 Thủ Đức ( huynh trưởng khóa 2/68 Thủ Đức). Em đến Mỹ qua tàu Trường Xuân (rời Bến Bạch Đằng, Saigon, chiều ngày 30/4/1975, chưa từng về VN bao giờ).
Thứ 7, 15/9/2013 anh HQB đến nhà em từ Portland, em tâm sự về dịp gặp Ân Nhân khi đạp xe xích lô ở Saigon với số tiền Ân Nhân cho và lời khuyên bảo đáng quý nên em mới được như ngày hôm nay. Anh B nói rằng anh đã được gặp Huynh Trưởng Thẩm Phán rồi, em mừng quá, liền hỏi số điện thoại của Huynh Trưởng Thẩm Phán nhưng anh không nhớ.
Em có vợ và 2 con trai, cả 2 tốt nghiệp từ Georgia Tech; 1 đứa dạy chemistry tại trường này, 1 đứa làm kỹ sư cho công ty Boston Consulting Group, vợ làm manager, pharmacist, có con gái hơn 8 tháng; gia đình 2 đứa đang sinh sống tại downtown Atlanta.
Nếu Huynh Trưởng đọc được những dòng chữ tâm huyết này, xin gọi em gấp để em mừng sau nhiều năm tìm kiếm Huynh Trưởng Thẩm Phán.
Nguyện xin ơn trên trả công bồi hậu cho tất cả gia đình của Huynh Trưởng Thẩm Phán qua nhiều công đức mà Huynh Trưởng đã làm cho em trước đây 51 năm.
Kính chào vị Ân Nhân đáng kính.
Em,…..”
Tôi đã liên lạc với người này sáng hôm sau. Vợ chồng chúng tôi đã chuyện trò với hai ông bà trên điện thoại cả tiếng đồng hồ. Được biết sau lần gặp nhau đêm hôm ấy, người thiếu niên 15 tuổi đã chuyên cần đèn sách, dùi mài kinh sử. Cậu đỗ tú tài ban B (toán). Sau Tết Mậu Thân người thanh niên nhập ngũ khóa 3/68 Thủ Đức (tôi nhập ngũ khóa 2/68). Vì giỏi toán, ông chọn ngành Pháo Binh. Ông trở thành Sĩ Quan Pháo Binh. Năm 1972 ông được gởi đi tu nghiệp tại Hoa Kỳ và mãn khóa trở lại Việt Nam tiếp tục phục vụ trong ngành Pháo Binh. Ngày 30-4-1975 Ông rời Việt Nam trên tàu Trường Xuân của thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy. Tại Hoa Kỳ, hiện nay ông là công chức tại một quận hạt. Bà làm công chức cho tiểu bang. Ông bà có bà con ở San Jose. Hai ông bà được 2 con trai, đều đã thành đạt.
Chuyện xẩy ra cách đây đã 51 năm. Lúc ấy tôi vừa tròn 20, nhân vật phu xích lô trong câu chuyện là một thiếu niên 15 tuổi. Ba tôi bị giam ở Côn Đảo sau cuộc đảo chánh 11-11-1960. Sau một thời gian trốn ở nhà bố mẹ của Vương Quốc Cường (sau này là chánh án Quảng Ngãi), tôi trở lại trường Luật , vừa đi học vừa đi dạy ở một trường tư thục, vừa kèm thêm mấy người con của nhà triệu phú Nguyễn Đình Quát . Thường tôi vẫn đi xe Buýt Vàng để về nhà ở Bà Chiểu, Gia Định. Khi nào về quá khuya, sau giờ xe Buýt Vàng chạy, tôi phải đi xích lô. Và tôi đã gặp người thiếu niên này một buổi tối trên đường Phan Thanh Giản. Câu chuyện đặc biệt không phải ở hành động cử chỉ của người sinh viên Luật 20 tuổi, mà ở tư cách của người thiếu niên 15 tuổi. Đối với tôi chính người này mới là ân nhân, sứ giả của niềm tin trong Mùa Giáng Sinh. Và tôi đã nói như vậy qua buổi tiếp xúc trên điện thoại lần đầu tiên giữa ông bà này với vợ chồng chúng tôi.
Câu chuyện của tôi, của chúng tôi, tuy là một chuyện giữa hai cá nhân, nhưng mang một ý nghĩa, về lòng tin, định mệnh, và đời sống. Tôi nghĩ câu chuyện cần được chia xẻ. Vì thế tôi xin mạn phép gởi đến các bạn câu chuyện như một món quà Giáng Sinh tinh thần.
(Viết trong Mùa Giáng Sinh 2013)
© Phan Quang Tuệ
© Đàn Chim Việt
TỪ BÀN TAY TRẮNG
TỪ BÀN TAY TRẮNG
Ngày Phê rô đổi đời là ngày ông đang gặp thất bại. Chúa can thiệp vào đời ông, ông có chút thành công. Rồi Chúa lại bảo ông bỏ lại thành công đó cho đời, để nghe theo lời gọi mới. Phêrô phân vân, “đâu là thành công thật?”
Cuộc đời Phêrô xoay quanh con thuyền, sóng nước. Nước có lúc bình yên, biển có ngày sóng gió. Đời ông cũng nổi trôi như sóng nước. Có ngày cá vào đầy lưới, ông vui. Ngày cá đi vắng, ông buồn. Ông không nắm chắc liệu cá có bơi qua thuyền mỗi ngày như mọi ngày? Sống trong cái bấp bênh của may rủi là thân phận con người. Ông có thể tính toán giỏi, nhưng ông không đọc được hết tâm tư của sóng nước. Ông cũng chẳng hiểu những chuyến đi thầm lặng của loài cá. Ông sống chờ thời.
Rồi một ngày, ông lên bờ với bàn tay trắng. Ông buồn vì thất bại. Nhưng buồn hơn là thấy đồng nghiệp của mình đang thành công, mà mình thì thất bại. Phúc Âm kể, những người chài lưới khác đang đi rửa lưới. Có cá vào nhiều nên mới đi rửa lưới. Còn lưới Phêrô sạch, không cần rửa! Ông ngồi nhìn con thuyền trống rỗng, nghĩ đến ngày mai bấp bênh. Ông ngồi ngậm nghĩ, giá mà tối hôm qua ông thả lưới ở một vùng nước khác, có lẽ sẽ không đến nỗi tệ như hôm nay. Giá như ông theo đám đông để thả lưới, thì có lẽ cũng kiếm được mớ cá như bao nhiêu người khác. Bao nhiêu tâm trạng “giá mà” vẫn thường quanh quẩn trong tư tưởng mỗi khi thất bại.
Nếu nhìn chung quanh ai cũng đều thất bại, thì có lẽ Phê rô không buồn nhiều. Còn tất cả thành công, mà mình thất bại thì buồn lắm. Mặc cảm cá nhân thường ngăn cản những nụ cười tươi. Chung quanh ông, có nhiều ánh mắt vui của thành công. Còn trong ánh mắt Phêrô có ánh nhìn xa xăm.
Tôi gặp trong dòng đời nhiều ánh mắt như Phêrô, và tôi yêu mến họ. Những ánh mắt buồn vì thất bại trong tình yêu, trong hôn nhân, và trong nghề nghiệp. Ngay cả trong Giáo Hội, những người thất bại ít có tiếng nói, họ đứng bên lề của đời sống phục vụ. Thinh lặng, kiên nhẫn, và đợi chờ. Lối đi nào cũng có những khúc quanh của nó. Lắm khi những khúc quanh cuộc đời khiến người ta ngại tìm một lối đi mới.
Câu chuyện vui của một Cha xứ kể làm tôi nhớ mãi. Một buổi sáng Chúa Nhật, bà mẹ đến gọi con trai.
– Steven, dậy đi lễ.
Steven nghe tiếng gọi, nhưng anh phản ứng.
– Không, con không muốn đi. Đi lễ một mình buồn. Hơn nữa, chẳng mấy ai ở nhà thờ ưa con. Rồi anh kéo mền phủ kín đầu. Người mẹ kiên nhẫn nhưng dứt khoát.
– Có ba lí do con phải đi lễ hôm nay. Thứ nhất, hôm nay là Chúa Nhật, lễ buộc. Thứ hai, con đã ngoài bốn mươi tuổi rồi. Và thứ ba, vì con la Cha Xứ. Dậy nhanh lên con, sắp trễ rồi !
Thất bại làm con người tê liệt, không muốn vươn xa hơn. Phêrô cũng ngại ngần như thế. Ông nhìn con nước trong veo nhưng lòng đầy nghi nan, tương lai ảm đạm. Bất lực. Ông ngồi chờ thời. Rồi ánh bình minh lên cao, có bước chân người tìm đến. Chúa nhìn thuyền Phêrô trống trải, còn ánh mắt ông thì vẫn xa xăm.
Có tiếng nói bên tai, “Cho tôi mượn chiếc thuyền.” Lời đề nghị thân tình làm ông ngạc nhiên. Lâu nay có ai mượn thuyền của ông bao giờ. Phúc Âm kể:
Một hôm, đám đông chen lấn nhau đến sát bên Người để nghe lời Thiên Chúa, mà Người thì đang đứng bên bờ hồ Ghennêxarét. Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. Ðức Giêsu xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simôn, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông. Giảng xong, Người bảo ông Simôn: Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Ông Simôn đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm. Thấy vậy, ông Simôn Phêrô sấp mặt dưới chân Ðức Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Simôn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. Cả hai người con ông Dêbêđê, là Giacôbê và Gioan, bạn chài với ông Simôn, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Ðức Giêsu bảo ông Simôn: “Ðừng sợ, từ nay anh sẽ bắt người như bắt cá. Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.”
Mượn thuyền là để đưa thuyền ra khơi. Chúa mượn thuyền Phê rô, Chúa mượn thuyền đời tôi. Những con thuyền cũng có lần ngại ngùng xuống nước. Rồi một lời đề nghị thả lưới trái quy luật, khó chấp nhận, bởi vì không ai có hy vọng lưới cá ban ngày, nhất là khi nắng đã lên. Cá chỉ xuất hiện nhiều trong đêm. Nắng càng lên cao, cá càng lặn sâu. Thả lưới ban đêm mà vẫn trắng tay, nay lại còn có lời yêu cầu thả lưới ban ngày! Sóng nghi nan trỗi dậy trong lòng. Phép lạ hiếm xảy ra trong cuộc đời chài lưới nhiều kinh nghiệm. Càng thấy mình có kinh nghiệm, càng khó tin lời người khác chỉ bảo.
Rồi từ bàn tay trắng xen lẫn nghi nan, có phép lạ xảy đến. Phép lạ thứ nhất là lòng Phêrô thay đổi. Chưa bắt được cá, nhưng lòng biết lắng nghe là đã mở lối cho nhiệm mầu. Ông để Chúa vào thuyền đời mình. Con thuyền lâu nay ông tự lèo lái, chẳng cần ai. Nay ông thất bại, ông bắt đầu hoài nghi cả chính mình. Cái hay của Phêrô là nhẹ nhàng chấp nhận, “Thôi Chúa cứ dùng, chứ con nản chí lắm rồi.” Sẵn lòng để Chúa dùng con thuyền đời mình, là bắt đầu đón nhận nhiều sự lạ. Chuyện lạ của mẻ cá được bắt đầu từ một thái độ mở lòng, dù nó xen lẫn chút nghi nan.
Cái đẹp của niềm tin là nó được đan quyện trong những giây phút hoài nghi. Tin mà không có chút hoài nghi có thể là một niềm tin tinh tuyền, nhưng cũng có khi nó lại là một niềm tin non trẻ, chưa trải nghiệm sóng gió. Tin mà xen lẫn cả nghi nan, mới thấy rõ Ơn Trời nhiệm mầu. Chúa biết Phêrô hoài nghi, nhưng vẫn can thiệp để biến hoài nghi trở thành niềm tin tưởng. Vì thế, cảm thông cho những giây phút chán nản trong đời của một ai đó là bắt đầu dìu nhau bước vào ánh sáng của niềm tin.
Thay Đổi Giá Trị Sống
Phêrô choáng ngợp trước thành công vật chất quá lớn. Chúa của ông lúc này vẫn là Chúa của ban ơn, Chúa của vật chất, và Chúa của nguồn thành công. Ông vui vì được làm bạn với Chúa, người cho ông quyền lợi, cho ông lợi nhuận. Ông vui vì từ nay ông không còn sợ kinh nghiệm trắng tay. Rồi ông sẽ lên bờ rao giảng cho đồng nghiệp, “Hãy theo Chúa đi, rồi sẽ trúng lớn!” Giá trị cuộc sống của Phêrô cho đến lúc này vẫn chỉ là cá.
Chúa cho Phêrô cá, nhiều lắm, nhưng lại yêu cầu ông từ bỏ nó. Phêrô ngỡ ngàng, “sao Chúa cho con, rồi lại bảo con từ bỏ?” Đây là bài học sâu thăm thẳm trong hành trình gọi mời. “Sao Chúa cho con thành công rồi Chúa bảo con bỏ nó đi?” Rồi sâu trong ký ức, Phêrô lại nghe tiếng nói lúc Chúa mượn thuyền. Lần lắng nghe trước đã làm nên điều kỳ diệu, nên ông muốn tiếp tục lắng nghe. Chúa mách bảo với ông, “cá nhiều thì vẫn là cá. Cá không làm cho anh trở thành người. Bám mãi với cá, đời anh sẽ thoang thoảng với mùi tanh của cá. Nếu anh muốn làm người, hãy đi theo Đấng đã nhập thể làm người.”
Theo Đấng đã nhập thể làm người là bắt đầu thay đổi giá trị sống: là để Chúa đi vào con thuyền đời mình hơn là tự lèo lái, là khám phá thành công vật chất, địa vị, nghề nghiệp, công danh, quyền lực, ngay cả địa vị trong tôn giáo, chỉ là phương tiện để hướng đến giá trị vĩnh cửu hơn là bám víu vào đó như là cứu cánh, rồi để bước chân lên bờ tìm đến những mảnh đời bị lãng quên. Có khi những mảnh đời bị lãng quên đó có mặt ngay trong chính gia đình, trong giáo hội, hay lang bạt giữa chợ đời mênh mông
Trong một thoáng giây choáng ngợp, Phêrô chợt hiểu, thành công thật không phải là kết quả, nhưng là hành trình đáp trả lời mời gọi để đi tìm kiếm con người. Ông bỏ lại phía sau những gì đã đón nhận: con thuyền, mẻ cá, chiếc lưới, chút thành công vội vàng, và cả biển khơi cả cuộc đời gắn bó để theo Đấng đã làm người và mong sao cho mỗi người được trở thành người hơn.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu rằng, thất bại lớn nhất không phải là những lần thua cuộc trong chợ đời, nhưng là những lần không đáp trả lời mời gọi từ trên cao, và nhất là khi không sống đúng với cái hình ảnh mà Thiên Chúa muốn con trở thành. Hôm nay, khi ánh bình minh lên cao, con cũng thấy bước chân của Ngài đi ngang qua con thuyền đời con, con thuyền cũng nhiều lần thất bại trắng tay. Xin cho con hiểu, mỗi một lần thất bại, là mỗi lần con cần tập khám phá ý nghĩa của thất bại trong ánh sáng của Phúc Âm. Mỗi một lần thành công, cũng xin cho con hiểu rằng, thành công là quà tặng. Giữ mãi quà tặng cho riêng mình mà không sinh lợi cho nước Chúa, thì thành công ấy chỉ giống như mẻ cá của Phêrô, có rồi mất theo dòng sông cuộc đời.
Nguyễn Thảo Nam
http://tinvahyvong.blogspot.com/
From: langthangchieutim & Anh chị Thụ Mai gởi
Lễ Độc lập : Miến Điện ân xá hơn 13.000 tù nhân
Lễ Độc lập : Miến Điện ân xá hơn 13.000 tù nhân
Tù nhân rời trại giam Insein : Các nguồn tin độc lập chưa xác định được số lượng tù chính trị được ân xá.- Reuters
Nhật báo Anh ngữ New Light of Myanmar, cơ quan ngôn luận chính thức của chính quyền Miến Điện, vào hôm qua, 06/01/2014 cho biết : Tổng thống Thein Sein hôm 02/01/2014 vừa qua đã ký một lệnh ân xá mới liên quan đến 13.274 tù nhân.
Quyết định đại ân xá trên đây được ban hành một hôm trước ngày Miến Điện kỷ niệm 66 năm ngày giành được độc lập vào năm 1948. Tuy nhiên, chưa biết là có bao nhiều tù chính trị được trả tự do nhân đợt ân xá mới đó.
Theo ghi nhận của hãng tin Anh Reuters, thông tin do nhật báo chính thức Miến Điện đưa ra chưa thể được kiểm chứng bằng các nguồn độc lập, nhất là không xác định được số lượng tù nhân lương tâm được hưởng lệnh ân xá.
Vào tuần trước, Hiệp hội Hỗ trợ Tù nhân Chính trị Miến Điện, một tổ chức có đại diện trong ủy ban do chính quyền thiết lập để xét duyệt các trường hợp tù nhân chính trị, đã cho biết là khoảng 230 tù nhân trong diện này có thể được trả tự do trong khuôn khổ lệnh ân xá mới.
Trong thời gian qua, mà gần đây nhất là vào những ngày cuối năm 2013, đã có hàng trăm tù nhân vì chính kiến tại Miến Điện được rời khỏi nhà tù. Trả tự do cho toàn bộ các tù chính trị là một trong những cam kết của Tổng thống Miến Điện Thein Sein với cộng đồng quốc tế, mà cụ thể là nhân chuyến công du đầu tiên của ông đến Anh Quốc vào tháng 7 năm 2013.
Các quyết định thả tù nhân chính trị, cùng với một loạt các biện pháp cải tổ khác do chính quyền Thein Sein thực hiện trong thời gian hơn hai năm gần đây, đã thúc đẩy Hoa Kỳ và Liên Hiệp Châu Âu đình chỉ hầu hết các biện pháp trừng phạt áp đặt trên chính quyền Miến Điện đồng thời tăng cường các chương trình trợ giúp.
Một trong những dấu hiệu mới nhất cho thấy sự thay đổi quan điểm – theo chiều hướng tích cực – của phương Tây đối với Miến Điện là sự kiện Hoa Kỳ đã nhiều lần gọi đất nước này bằng tên chính thức Myanmar, thay vì tên thông dụng tiếng Anh là Burma như trước đây.
Ví dụ điển hình là sự kiện hôm 03/01 vừa qua, trong một tuyên bố chúc mừng ngày độc lập của Miến Điện, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã hai lần dùng tên Myanmar mà không hề đề cập đến tên Burma.
Trước đó, vào tháng 12/2012, nhân chuyến công du chớp nhoáng Miến Điện, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã không ngần ngại sự dụng song song cả hai tên gọi Myanmar và Burma.
Xuân Muộn -Hoài Linh -Hà Thanh -NNS & Mua Xuan Nao Ta Ve-HCD
Xuân Muộn -Hoài Linh -Hà Thanh -NNS
httpv://www.youtube.com/watch?v=lkJozywJlY0
Mua Xuan Nao Ta Ve -HINH BONG QUE NHA -HCD
httpv://www.youtube.com/watch?v=fQA8kKJpouE&list=PL060B5B097E3F63A6
Thăm Làng Homeless và Người Bất Hạnh Không Nhà Gốc Việt
Thăm Làng Homeless và Người Bất Hạnh Không Nhà Gốc Việt
Tác giả : Lê Bình
http://www.vietbao.com/D_1-2_2-74_4-218721_15-2/
Ở giữa những hàng cây trụi lá, hoặc bên cạnh một giòng suối có nước lững lờ trôi có những chiếc lều màu xanh da trời sáng rực lên, hoặc trên chiếc cầu bắt ngang con suối có người thiếu nữ đang ngồi giặt áo… Thật hữu tình, rất thơ mộng và thậm chí như cảnh thiên đàng, như vườn lộc uyển… Khi nhìn vào những tấm hình chụp từ xa; nhưng, đến gần, đến thật gần thì đó là những chiếc lều vải sắp rách nát, là những tấm bạt ny-long chùm lên những tấm cát-tông xiêu vẹo…Đó là những mái nhà, là “mái ấm” của hàng trăm gia đình đang sống giữa lòng thành phố trong ngày Giáng Sinh 2013. Họ là Những Kẻ Không Nhà.
Con suối mang tên Coyote Creek bắt nguồn từ Gilroy hay Morgan Hill, hoặc từ xa hơn nữa đâu đó trong rặng Santa Cruz Mountain bạt ngàn thông xanh vi vút. Con suối đó đi ngang qua thành phố San Jose để nhập chung vào với giòng Guadaluppe River. Chỗ “giáp nước” đó nằm dọc xa lộ 280 South có con đường Story Rd. chạy theo hướng Đông Tây, và ở đó có khu rừng cây um tùm rậm rạp. Khi lái xe ngang qua đường Story, nơi ngã ba Senter Rd. một bên là sở thú Happy Hallow Zoo, và một bên là ngôi làng.
Theo chân đoàn ủy lạo của CĐVN Bắc California đến thăm những người bất hạnh lâm vào cảnh không nhà. Đoàn Ủy Lạo đến địa điểm vào lúc 11:00am ngày thứ Ba 24/12/2013, có 4 chiếc xe bán thức ăn trưa, Lunch Catering Truck, và nhiều chiếc bàn dài với những bọc quần áo cũ. Tham dự trong công tác từ thiện, phát quần áo, chăn, mền còn có Phật tử Chùa Đại Nhật Như Lai. Trước đó lúc 10:00am, đã có nhiều người đến chuẩn bị địa điểm, sắp xếp bàn ghế, và chuẩn bị thức ăn. Anh Hào Thái, Ủy Viên CĐVN Bắc California, Nhiệm Kỳ 5, đã bảo trợ cho công tác nầy. Anh Hào Thái là chủ một chiếc xe lunch Porkys SJ kêu gọi thêm 3 xe khác cùng cộng tác với anh để cung cấp bữa ăn trưa cho người không nhà vào dịp lễ Giáng sinh. Trong phái đoàn ủy lạo có Ông Nguyễn Ngọc Tiên, Ông Nguyễn Hữu Nhân, Ông Nguyễn Thiếu Nhẫn, Ông Võ Văn Sĩ, Ông Trần Mai, Ông Nguyễn Bữu và nhiều anh chị em làm thiện nguyện.
Khu đất trống nhộn nhịp như một ngày hội chợ, người sa cơ lỡ bước đã đến để dùng bữa ăn trưa, nhận quần áo. Thức ăn có cơm trắng, thịt nướng, rau trộn và trái cây, nước uống, v.v… Những người không nhà vui vẻ chuyện trò và tỏ lòng cảm ơn cộng đồng Việt Nam. Anh Hào Thái cho biết: “Việc làm nầy nhằm chia xẻ một chút khó khăn khi họ gặp cảnh khổ.”
Hình ảnh thăm làng homeless, nơi có nhiều người gốc Việt.
Đi một vòng xuống khu rừng cây hai bên bò suối. Dòng suối có nước chảy róc rách, cây khô trụi lá, những căn lều bạt đủ màu sắc giăng kín khu rừng. Trong đó có nhiều người độc thân, người có gia đình, đàn ông, thanh niên, phụ nữa và em bé. Cuộc sống có khó khăn và bất tiện. Không nước, không điện, không nhà, không có cả những phương tiện tối thiểu để nấu ăn. Những căn lều tạm bợ cất lên dưới những tàng cây bằng vật liệu kiếm được từ những đống rác, hoặc xin từ nhà thờ. Có rất nhiều chiếc xe đi chợ (cart) bỏ lăng lóc chung quanh, và những đống bao ny-long, vật liệu phế thải, v.v… Những người sống nơi đây kiếm tiền bằng cách đi xin, hoặc lượm rác, bao bị, võ chai….bán cho các công ty thu mua phế liệu tái chế biến (recycle).
Cuộc sống tuy có khó khăn nhưng họ vẫn cố tạo cho đời sống những tiện nghi tối thiểu, và cố gắng sống một đời sống bình thường. Ngày lễ đến, cũng có cây thông Giáng Sinh, có hang đá, có giây kim tuyến trang hoàng trên các cành cây. Đều khó khăn nhất nơi đây là nước uống, nước tắm giặt, và việc chăm lo sức khoẻ. Có người cho biết tắm giặc ở nơi vòi nước công cộng, hoăc trong mùa mưa dùng nước dưới suối. Cuộc sống tuy cam go khổ cực, nhưng họ vẫn có những tôn trọng sự riêng tư; không phải tất cả xuống đây đều xô bồ hổn độn. Cũng có những nơi “màn che trướng phủ” có những riêng tư và không muốn ai xâm phạm. Không phải tất cả đều đến nhận thức ăn ủy lạo trong ngày lễ; họ cũng có lòng tự trọng, và không muốn tiếp xúc với người lạ.
Có khoảng trên dưới 200 người sống trong khu rừng nầy, trong số đó có khoảng 10 người Việt Nam. Ông John, mới đến cư trú nơi nầy khoảng vài tháng, ông đến từ San Diego. Ông nói “Tôi lưu lạc đến đây không bạn bè không người thân” Hỏi lý do đưa ông đến nơi nầy, ông trả lời bằng nụ cười buồn. Anh Richard, anh Sam đến đây được vài tháng, chỉ chiếc lều nói “Gia tài của tôi là 8 chiếc mền. Đủ ấm rồi.” Họ không muốn đề cập đến lý do đưa đầy họ vào cảnh khốn cùng.
Hình ảnh thăm làng homeless, nơi có nhiều người gốc Việt.
Người Việt Nam chiếm riêng một góc rừng, dưới chiếc cầu sắt. Nơi đây hơi ẩm thấp và thiếu ánh nắng. Khi tôi đến, anh Nguyễn Phúc Ân đang phơi những chiếc mền, và trang trí gốc cây nơi anh chọn làm “nhà” bằng những cành cây kết nối với nhau thành chiếc cổng hình vòng cung. Phúc Ân cho biết: “Cháu ở Mỹ được 26 năm. Đến Hoa Kỳ với bà nội lúc 8 tuổi.” Ân noí thêm “Ở đây là khổ rồi. Nhưng mà phải chịu vậy thôi. Mỗi con người có một số phận khác nhau.” Em tâm sự có gia đình ở VN, có mồ mả ông bà cũng muốn về thăm một lần nhưng chưa được. Anh Nguyễn Văn Bê, trên 30 tuổi, chưa có gia đình sống trong “làng” vài năm nay, không có việc làm. Anh ít nói. Với Nguyễn Phúc Ân thì cởi mở hơn. Ân tâm tình “Đừng nghĩ rằng tất cả những người sống dưới suối là hút xách, bậy bạ đâu. Cũng có một ít thôi..” em chỉ một căn lều trên triền dốc “Đó là thằng quậy nhất ở đây. Nó hút, nó say, nó làm bậy… nhưng số đó không nhiều. Mình ở đây phải lo giữ gìn. Có ai muốn xuống đây đâu. Cháu nói là mỗi người có mỗi cảnh đời khác nhau…” Ân cho biết Ân sẽ rời nơi đây sớm nếu có cơ hội. Em đã khóc khi tâm tình. Và dường như em có điều chi đó khó giải bày. Thân thể Ân hơi ốm, cao, có xâm hình chi đó trên ngực phía trái. Ân nói tiếng Việt tiếng Anh lẫn lộn và rất rõ ràng mạch lạc. Qua câu chuyện, có thể cho thấy em có chút bất mãn đời sống, em nói nhiều, nhưng em có niềm tin vào đấng thiêng liêng.
Cũng trong khu rừng nầy, con người muốn vươn lên để thoát ra khỏi “cơn bĩ cực”. Trên chiếc vĩ sắt bắt ngang dòng suối, có một cô gái bận chiếc áo đầm trắng, lịch sự đang ngồi rửa mặt và trang điểm, có thể cô ta có một cái hẹn trong đêm Noel chăng? Không biết cô ta đang nghĩ gì, nhưng qua cách phục sức, và cách chăm sóc sắc đẹp, có thể trong lòng cô cũng có ước mơ rất bình thường như những con người khác. Một tình yêu, một cuộc sống tươi đẹp…?
Ở Hoa Kỳ có hàng triệu con người vô gia cư. Có hàng triệu cảnh đời khác nhau. Và có bao nhiêu người là có bấy nhiêu lý do để đưa họ đến cảnh khốn cùng. Dù sung sướng, hay đau khổ. Con người là một tạo vật của Thượng Đế. Ngày hôm nay, cách đây hơn 2,000 năm Chuá Giáng Sinh làm người là muốn chuộc tội cho thiên hạ. Cầu xin Giáng Sinh nay nay sẽ có ít người chịu cảnh khổ.
https://groups.google.com/forum/#!msg/soc.culture.vietnamese/h99WS73wIEw/mCh5onZJ6-oJ
CHỈ CẦN CA NGỢI CHÚA RỒI ƠN LÀNH SẼ ĐẾN (IX)
CHỈ CẦN CA NGỢI CHÚA RỒI ƠN LÀNH SẼ ĐẾN (IX)
Phan sinh Trần
Bạn ơi, từ hơn mấy ngàn năm qua đã có nhiều tiền nhân nói về lợi ích của Ca Ngợi Chúa rồi phải không ?
Người ta mô tả các lợi ích của ca ngợi như :
Ca ngợi làm sáng danh Chúa
Ca ngợi củng cố Tin Yêu
Ca ngợi mang đến giải thoát
Ca ngợi là ngôn ngữ của Thiên Đàng
Ca ngợi tiếp nhiên liệu cho niềm vui cháy mãi .
Ca ngợi làm sụp đổ thành trì kiêu mạn
Ca ngợi làm tê liệt ý chí của Ma thù
Ca ngợi xua tan bóng tối tuyệt vọng
Ca ngợi đi trước, ân huệ theo sau
Ca ngợi làm cho Chúa có quyền pháp lý mà giúp đỡ chúng ta
Chúa ngự đến nơi ca ngợi cùng với quà tặng của Ngài………….
Thời của chúng ta, càng có nhiều tác giả viết về ca ngợi, chỉ tính riêng ông Merlin R. Carothers, đã có 17 triệu bản in của các sách nói về ca ngợi, xuất bản bằng 53 ngôn ngữ trong đó có tiếng Việt.
(nguồn http://www.goodreads.com/author/show/60696.Merlin_R_Carothers)
Trong quyển “ Quyền năng Ca ngợi” (1), Merlin có kể nhiều kỳ công Chúa làm cho con cái loài người khi họ biết chạy đến với Chúa trong ca ngợi. Tôi thích nhất là câu chuyện về người Cha của anh Jim. Ông bị nghiện rượu đã 30 năm, trong suốt những năm đó, mẹ của Jim và sau này chính Jim và vợ đã cầu xin Chúa chữa lành cha mình , nhưng vô hiệu. Cha anh không thú nhận mình say mê rượu chè và vùng vẫy xa lánh khi nghe nói đến Đạo. Một ngày kia Jim nghe nói về quyền năng giải thoát của Chúa trong ca ngợi , Jim nảy ra ý kiến và nói với vợ “ Em à , chúng ta hãy cám ơn Chúa cho người cha say rượu của chúng ta, vì Chúa có chương trình cứu độ tuyệt diệu của Chúa đã hoạch định cho cuộc sống của Cha”. Và trong ngày hôm đó , cả hai vợ chồng Jim cảm tạ và ca ngợi Chúa về tất cả mọi mặt của hoàn cảnh cho dù dưới cặp mắt thế gian nó có vẻ bế tắc . Chiều đến, cả hai cảm thấy một niềm vui và hy vọng mới.
Ngay hôm sau, trong buổi thăm thường kỳ vợ chồng Jim và ăn trưa vào ngày Chúa Nhật , cha của Jim đột nhiên hỏi về một chương trình truyền bá đức tin trên TV :
– Con nghĩ sao về cái gọi là “ Cách Mạng của Đức Giê Su” Có phải đó là cách quảng cáo mới không ? Hay thật sự đã xảy ra chuyện đám trẻ hút ma túy đã được Chúa chinh phục và đã đổi lòng ? Rồi Jim và Cha tiếp tục tranh luận về hiện tượng này.
Sau vài tuần , cha của Jim chấp nhận là ông uống rượu quá nhiều và chìm lỉm trong say sưa. Ông ta ăn năn, trở về với Đức Giê Su Ki tô và ngừng hẳn rượi. Rồi Ông cùng với gia đình làm chứng cho hết mọi người về điều Chúa có thể làm cho ông một khi gia đình biết ca ngợi Chúa trong hoàn cảnh khó và biết cầu nguyện hết lòng phó thác mà dâng sự bê bết của Ông cho Chúa .
Anh Jim đã rút ra được kinh nghiệm này , anh nói với Ông Merlin :
– Thế mà chúng con đã cầu xin Chúa trong 30 năm, xin Ngài thay đổi cha chúng con, trong khi chúng con chỉ ca ngợi Chúa vì hoàn cảnh của ba con trong có một ngày mà đã thu hoạch biết bao nhiêu !
Thực ra, Kinh Thánh đã dậy ta về điều trên đây:
Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Gie Su Ki tô. ( Thessalonica 5: 16-18)
Có một cặp vợ chồng nọ khi nghe ông Merlin thuyết giảng về việc cần ca ngợi Chúa trong mọi sự , ca ngợi Chúa cả khi mình gặp nghich cảnh , chịu đau khổ. Trở về nhà , lòng trí bối rối vì trong suốt mấy tháng vừa qua , họ đã khóc lóc than thở cho đứa con gái xấu số, nó vừa bị bịnh tâm thần phải vào bệnh viên tâm trí và bác sĩ chuyên môn kết luận bệnh thần kinh của cô vô phương cứu chữa. Điều này càng làm cho họ đau lòng và ngỡ ngàng. Làm sao để có thể áp dụng việc ca ngợi trong hoàn cảnh éo le của cặp vợ chồng này ?
Bà vợ phản ứng mạnh :
– Thật là phạm thượng khi cảm tạ Chúa về một điều bỉ ổi như vậy ! Phải chăng là kết án Chúa đã cố tình làm hại con mình khác với những gì tôi nghĩ về Thiên Chúa tình yêu.
Người chồng đồng ý nhưng nói thêm :
– Không, điều này không có vẻ hợp lý. Nhưng giả sử như giảng viên có lý. Dù sao … chúng ta đâu có mất mát gì , nếu chúng ta thử ca ngợi . Vậy chúng ta hãy cứ thử xem.
Và hai người quì xuống. Người chồng thưa:
– Lạy Chúa, chúng con biết rằng Chúa yêu chúng con, và Chúa yêu đứa con này hơn cả chúng con yêu nó. Chúng con đặt niềm tin vào Chúa, và chúng con tin rằng Chúa cho phép xảy ra cho nó là điều tốt nhất cho nó. Chúng con cảm tạ Chúa vì bệnh tình của nó. Cảm ơn Chúa vì nay con gái chúng con đang ở nhà thương. Cám ơn chúa vì các bác sĩ đã chưa tìm được cách trị bệnh. Chúng con ca ngợi Chúa vì sự khôn ngoan và tình yêu Chúa đối với chúng con.
Trong khi cầu nguyện , họ còn xác tín rằng điều xảy ra đó là điều tốt nhất cho họ, để có dịp thao luyện đức trông cậy, nhẫn nại, tín thác một cách hoàn toàn vào Chúa.
Ngay sáng ngày hôm sau, họ được một cú điện thoại của Bác sĩ điều trị từ Bênh Viện:
– Thưa ông, một việc lạ lùng vừa xảy ra làm thay đổi tâm trí của con gái ông. Mời ông đến chứng kiến…
Chưa đầy hai tuần sau, cô con gái được cho xuất viện sau hàng loạt thử nghiệm và xét duyệt. Một năm sau, cô lập gia đình và hiện nay cô đã có con , cô cảm thấy mình là người hạnh phúc nhất trên đời .
Nhờ biết ca ngợi chương trình của Chúa, cặp vợ chồng này đã nhanh chóng đi đến đích kết của một giai đoạn thử thách mà Chúa tập luyện cho hai vợ chồng và con gái của họ . Ca ngợi đã làm gia tăng đức cậy , đức mến, đức tin đến mức có thể chuyển dời núi non .
Còn hàng mấy chục lời chứng về các sự biến chuyển, chữa lành diệu kỳ trong các trường hợp khác nhau, của các quân nhân, y tá, doanh nhân, thường dân, được vị tuyên úy quân đội , trung tá Merlin ghi lại trong sách “ Quyền năng ca ngợi”
Phần minh, tôi có suy nghĩ như thế này, sẽ là tội nghiệp cho tôi biết mấy , nếu tôi lên Thiên đàng mà không biết ca ngợi , vì ca ngợi là ngôn ngữ rất thông dụng trên Thiên đàng. Không biết ca ngợi Chúa thì tôi lạc lõng và “ không giống ai” vì ở đó, ca ngợi Chúa là niềm vui sướng khôn cùng của Thiên Thần cũng như các Thánh. Giống như trong bất kỳ tình yêu nào , đôi uyên ương luôn say đắm trong sự chiêm ngưỡng, trong mỹ cảm dành cho nhau và họ ước ao được bày tỏ sự ngưỡng mộ ra thành lời nói , thành câu hát , ý thơ dành cho nhau . Trên Thiên đàng , nơi tràn ngập ánh sáng và yêu thương thì lời Ca ngợi của các Thánh khi được chiêm ngắm Chúa cực Thánh , cực đẹp theo mọi ý nghĩa của cái đẹp, vị Chúa vô cùng nhân hiền, sẽ là điều tất nhiên.
Ca ngợi được mô tả như hoa quả của môi miệng dành cho Tên cực Thánh Chúa Giê Su khi ta dâng của lễ là lời ca tụng cảm tạ lên Chúa, thư thánh Phao lô gởi tín hữu Do Thái đoạn 13 , câu 15 đã viết như sau :
– Vậy nhờ Ngài, mọi thời, ta hãy hiến dâng Thiên Chúa lễ tế ngợi khen, tức là hoa quả của những môi miệng tuyên xưng danh Người
Có khi nào bạn cảm được vị tuyệt vời của Thiên đàng khi Bạn Ca ngợi Chúa chưa ? Vị tuyệt vời đó , dù là không thể nào so sánh được với niềm vui đích thật trên Thiên Đàng , nhưng nếu có thì nó cũng đủ cho ta vui sướng, hớn hở mừng rỡ phải không ?
Thân chúc bạn , được ơn ca ngợi Chúa hết linh hồn , hết trí khôn, hết con tim để luôn có một niềm vui sâu thẳm , xin cầu chúc cho nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt của bạn luôn nở rộ nhờ biết Ca ngợi Chúa kính yêu .
Các quyển sách của.Merlin_R_Carothers)
(1) Quyền Năng của Tâm Hồn Biết Ca Ngợi ” Linh mục Nguyễn Đức Mầu dịch
THÁNH PADRE PIO (1887-1968)
THÁNH PADRE PIO (1887-1968)
Lễ Kính 23-9
Thánh Padre Piô tên thật là Francesco Forgione, thuộc một gia đình nông dân ở Pietrelcina, miền Nam nước Ý. Ðã hai lần, cha của Francesco phải xa nhà, đi làm việc ở Jamaica, Nữu Ước để nuôi gia đình.
Khi được 15 tuổi, Francesco gia nhập dòng Capuchin và lấy tên Piô. Ngài được thụ phong linh mục năm 1910, và bị động viên trong Thế Chiến I. Sau khi bác sĩ thấy ngài bị ho lao, họ đã cho ngài giải ngũ. Vào năm 1917, ngài được bài sai đến làm việc ở tu viện San Giovanni Rotondo, cách thành phố Bari 75 dặm.
Vào ngày 20.9.1918, trong lúc cầu nguyện cảm tạ sau Thánh Lễ, Cha Piô được nhìn thấy Chúa Giêsu. Khi thị kiến ấy chấm dứt, Ngài được in các dấu thánh ở tay, chân và cạnh sườn.
Sau biến cố ấy, cuộc đời ngài phức tạp hơn. Các bác sĩ y khoa, các giới chức của Giáo Hội, và những người tò mò đến xem Cha Piô. Trong năm 1924 và một lần nữa vào năm 1931, vấn đề dấu thánh được đặt ra; Cha Piô không được phép cử hành Thánh Lễ nơi công cộng hay được giải tội. Ngài không than trách về sự cấm cách này, mà sau đó đã được bãi bỏ. Tuy nhiên, sau năm 1924, ngài không còn viết gì thêm nữa. Những tư liệu của ngài về sự thống khổ của Chúa Giêsu đều được viết trước năm 1924.
Sau khi được in dấu thánh, Cha Piô ít khi rời tu viện, nhưng biết bao người đã đến thăm ngài. Mỗi buổi sáng, sau Thánh Lễ 5 giờ đầy nghẹt người, ngài nghe xưng tội cho đến trưa. Ngài dùng thời gian nghỉ trưa để chúc lành cho người đau yếu và tất cả những ai đến gặp ngài. Sau đó ngài lại tiếp tục giải tội. Vào lúc ấy, việc giải tội của ngài thường kéo dài 10 tiếng một ngày; người muốn xưng tội phải lấy số chờ đợi. Nhiều người nói rằng Cha Piô biết rõ các chi tiết cuộc đời của họ, mà chưa bao giờ họ tiết lộ.
Cha Piô nhìn thấy Chúa Giêsu, trong tất cả sự bệnh hoạn và đau khổ. Theo sự đốc thúc của ngài, một bệnh viện xinh xắn được xây trên rặng Gargano gần đó. Ý tưởng xây cất bệnh viện được phát khởi vào năm 1940; một ủy ban gây quỹ được thành lập. Năm 1946, lễ vỡ đất được bắt đầu. Việc xây cất bệnh viện rất khó khăn về kỹ thuật, vì khó kiếm được nước và phương tiện chuyên chở vật liệu xây cất. Sau cùng, “Nhà Chữa Trị Người Ðau Khổ” được hình thành với 350 giường bệnh.
Nhiều người tin rằng họ được chữa lành qua sự can thiệp của Cha Piô. Những ai được dự Thánh Lễ của ngài đều cảm thấy sốt sắng; còn những người tò mò thì rất xúc động. Như Thánh Phanxicô, đôi khi áo dòng của Cha Piô cũng bị người ta cắt xén để làm kỷ niệm.
Một trong những sự đau khổ của Cha Piô, là vài lần những người thiếu đạo đức rêu rao những điều tiên tri mà họ gán cho là của ngài. Ngài không bao giờ nói tiên tri về các biến cố trên thế giới, và không bao giờ cho ý kiến về các vấn đề, mà ngài cảm thấy thuộc về sự quyết định của các giới chức trong Giáo Hội. Ngài từ trần ngày 23.9.1968, và được phong thánh năm 2002.
Lời Bàn
Hơn bất cứ ai khác, có lẽ người Hoa Kỳ ngày nay rất thích những cuốn sách chỉ dẫn, cùng những chương trình truyền thanh, các bài báo có tính cách chỉ bảo. Chúng ta say mê với tiến bộ kỹ thuật, và không ngừng tìm kiếm các lối tắt để tiết kiệm thời giờ và sức lực. Nhưng như Thánh Phanxicô và Cha Piô biết rất rõ, không có con đường nào ngắn hơn khi sống theo Phúc Âm, không có cách nào tránh được những “giáo huấn khó khăn” của Chúa Giêsu (x. Gioan 6:60). Rao giảng về Kitô Giáo mà không có sự hy sinh cá nhân, không có thập giá, thì cũng không khác gì người mãi võ sơn đông quảng cáo bán thuốc trị bá bệnh. Cha Piô coi sự đau khổ của ngài, như đáp ứng với lời kêu gọi sống Phúc Âm.
Lời Trích
“Cuộc đời Kitô hữu không gì khác hơn là cuộc chiến đấu dai dẳng với chính mình; không có sự thăng hoa của linh hồn để đạt đến sự tuyệt hảo mỹ miều, nếu không phải trả giá sự đau khổ” (Lời của Cha Piô).
*******************
Xác thánh Padre Piô năm dấu thánh được trưng bầy cho dân chúng kính viếng
SAN GIOVANNI ROTONDO –
Một trong những vị thánh đương thời, được coi là đã làm nhiều phép lạ nhất, là Padre Pio. Sau 40 năm, hôm qua thi hài thánh nhân lại được trưng bầy cho những người ngưỡng mộ khắp thế giới đến kính viếng tại nơi ngài đã từng sống và cầu nguyện.
Hai mắt nhắm lại, và trên khuôn mặt thoát ra một vẻ thanh thản dịu dàng như đang ngủ. Tuy nhiên, Padre Piô đã qua đời từ năm 1968 hưởng thọ 81 tuổi, và kể từ hôm qua, 24.4.2008, thi hài thánh nhân lại được quàn công khai tại vương cung thánh đường San Giovanni Rotondo (miền Nam nuớc Ý) cho dân chúng kính viếng.
Hôm qua, có tới 15.000 người tham dự thánh lễ do ĐHY Jose Saraiva Martins cử hành, khi thi hài của thánh Piô được đưa ra trưng bầy. Thi hài của thánh Padre Piô được khai quật hôm 03.3.2008 và cho thấy còn trong tình trạng “vừa phải” sau 40 năm chôn cất. Từ ngày đó đến nay, một nhóm chuyên gia gồm các bác sĩ y khoa và chuyên ngành hóa chất, đã làm việc tận tình để tân tạo thi hài thánh nhân hầu có thể giữ và bảo tồn thi hài được lâu dài hơn, trong suốt thời gian 9 tháng trưng bày cho dân chúng đến kính viếng.
Khi còn sinh thời, Padre Piô từng là vị thánh sống của đại chúng người Ý, và là một Thầy Dòng lạ lùng của thế kỷ XX:
• Cha được in năm dấu đanh (Stigmata) tương tự như Chúa Giêsu khi chịu đóng đanh trên thánh giá, nghĩa là ngực, hai bàn tay và hai bàn chân bị đâm thủng qua, và hằng ngày máu từ các vết thương đó chảy nhỉ ra làm ướt đẫm các khăn băng và cả áo quần, khiến ngài vô cùng đau đớn.
• Cha có thể hiện diện một lúc trong nhiều địa điểm khác nhau: Nhiều lần cha vừa có mặt tại Milanô (miền Bắc Ý), vừa có mặt tại Rôma (miền Trung Ý) để cứu vớt những người tự tử, và đồng thời cha lại ngồi giải tội ở Tu Viện của cha tại miền Nam Ý.
Ba vị Giáo Hoàng đã kết án cha là người giả hình đóng kịch. Nhưng năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng cất nhắc cha lên hàng Thánh Nhân.
Nhưng trước khi được đưa trưng bày công khai cho các tín hữu kính viếng, khuôn mặt thánh Padre Piô đã được sửa sang lại bằng chất Silicon như chúng ta thấy trong hình kèm đây, và thi hài thánh nhân cũng đã được xức thuốc. Hiện người ta chỉ nhìn thấy đầu các ngón tay của thánh nhân hơi bị đen. Còn hai chân được mang tất che kín lại.
Cho đến nay, đã có khoảng 800.000 tín hữu từ khắp mọi nơi kéo về kính viếng và cầu nguyện bên thi hài thánh Padre Piô.
Lạy thánh Padre Piô, xin cầu cho chúng con!
LM Gioan Bosco Nguyễn Hữu Thy
Cha Thánh Padre Piô được trưng bày tại Vương Cung Thánh Đường San Giovanni Rôtndo, Miền Nam Nước Ý, để công chúng được tự do đến chiêm bái.

Cha Thánh Padre Pio Tình Nguyện Chịu Đau Khổ Để Cứu Các Linh Hồn
Trích trong Holy Souls, LM Alessio Parente
Kim Hà dịch thuật
Vào ngày 29 tháng 11 năm 1910, cha Padre Pio đã viết cho cha linh hướng của ngài là LM Benedetto để giải thích về những sự đánh phá của ma qủy và ngài muốn được giải thoát khỏi sự thử thách ấy. Nhưng sau đó, cha Pio xin phép cha linh hướng để được trở nên một nạn nhân đền tội cho các người tội lỗi và cho các linh hồn ở luyện ngục. Cha viết như sau: |
“Thưa cha linh hướng, con xin phép cha để trình bày một việc. Đôi lúc, con cảm thấy có nhu cầu dâng hiến chính mình con lên Chúa như là một nạn nhân để đền tội cho các người tội lỗi và cho các linh hồn ở luyện ngục. Mong ước này lớn mạnh trong trái tim con, đến nỗi con phải gọi là một nỗi đam mê vô biên. Con đã dâng lên Chúa lời thỉnh nguyện này rất nhiều lần. Con cầu xin Chúa cho con gánh chịu mọi sự trừng phạt mà Chúa đã chuẩn bị dành cho các người tội lỗi và cho các linh hồn ở luyện ngục. Xin Chúa hãy trừng phạt con và cho con chịu đau khổ gấp trăm lần để cho các người tội lỗi được ơn hoán cải, và để cho các linh hồn được sớm lên Thiên Đàng. Nhưng con biết, con phải xin phép cha để trở nên của lễ hy sinh. Con cảm thấy Chúa Giêsu rất muốn con làm điều này. Con chắn chắn rằng cha sẽ không gặp khó khăn khi cho phép con.”
Qua sự dâng hiến vô điều kiện để hứng chịu mọi sự trừng phạt gấp trăm lần, hầu mong các người tội lỗi được ơn hoán cải và các linh hồn được giải thoát khỏi luyện ngục, cha Padre Pio đã trao ban cho chúng ta một chìa khóa để hiểu được mầu nhiệm của tình yêu và đau khổ. Cha Benedetto đã cho phép cha Padre Pio làm việc ấy.
Trong lá thư đề ngày 1 tháng 12 năm 1910, cha Benedetto viết:
“Xin cha hãy dâng hiến những gì cha đã nói, và điều này sẽ được Chúa nhận lời. Xin cha hãy mở rộng đôi tay và thánh giá của cha. Bằng cách dâng hiến sự hy sinh, cha hiệp thông với Chúa Cứu Thế, cha hãy chịu đau khổ và cầu nguyện cho những kẻ ác nhân trên trần gian và cho các linh hồn tội nghiệp, là những người đáng cho chúng ta thương xót vì họ đang nhẫn nại chịu đau khổ mà không kể xiết được.”
Nhân danh sự vâng lời, cha Pio đã trở nên một nạn nhân cho giáo hội chiến đấu và cho giáo hội đau khổ. Sự dâng hiến này có thể giải thích bằng các cơn bịnh bí mật, những thử thách, những cuộc chiến đấu với ma qủy. Nhân loại luôn cần sự tha thứ và giáo hội đau khổ luôn cần sự đền tội. Cha Padre Pio trở nên một nạn nhân, vác thánh giá và bị đóng đinh vào cây thánh giá vô hình như Chúa Giêsu đã bị đóng đinh để cứu rỗi nhân loại, Chúa Giêsu đã xuống ngục tối để giải thoát những ai mong chờ sự cứu độ. Chúa Cứu Thế đã ban cho họ sự tự do và đưa họ lên Trời.
Cha Padre Pio qủa là một linh hồn anh hùng và quảng đại. Ngài luôn nghĩ đến tha nhân, cầu bầu cho họ, dâng hiến chính mình ngài như là một nạn nhân cho người khác được ơn cứu độ, những người trong giáo hội chiến đấu và giáo hội đau khổ. Đau khổ và thương yêu là hai con đường mà cha Padre Pio đã dùng để bắt buộc bản thân mình chịu thống khổ.
Cha nói:
“Tôi cảm thấy mình ngụp lặn trong đại dương mênh mông của Đấng Hằng Yêu Thương. Tôi luôn sống trong tình yêu ấy.”
Kề từ khi cha Padre Pio được phép trở nên một nạn nhân, và từ khi cha tình nguyện dâng hiến bản thân mình thì các linh hồn người chết hiện về với cha nhiều vô số kể. Qua lời kể của cha Padre Pio, chúng ta có thể thấy những cuộc hiện ra này xẩy ra rất nhiều lần, và điều này không làm cho cha Pio sợ hãi hay bực mình.
Sự hấp dẫn vượt bực của ĐGH Phanxicô tại Vatican
Sự hấp dẫn vượt bực của ĐGH Phanxicô tại Vatican
Nguyễn Long Thao
1/2/2014
VATICAN 02/01/14.- Tin của Reuters cho biết trong vòng 9 tháng qua, tính từ tháng 3 năm 2013 đến cuối tháng 12 năm 2013, số khách tham dự các nghi lễ với Đức Giáo Hoàng Phanxicô tại tòa thánh Vatican đã vượt quá con số 6.6 triệu người. Trong khi đó, suốt năm 2012 chỉ có 2.2 triệu người đến tham dự các nghi lễ của Đức Giáo Hoàng danh dự Bêneđictô XVI.
Vatican cho biết số liệu 6.6 triệu trên đây dựa theo số vé đã phát ra cho khách hành hương trong các dịp có sự hiện diện của ĐGH như các thánh lễ trọng, các buổi triều yết chung và riêng. Đồng thời cũng dựa theo con số ước tính số người tham dự các buổi triều yết hàng tuần của ĐGH dành cho công chúng tại quảng trường thánh Phêrô. Trong các buổi triều yết hàng tuần, khách hành hương không cần vé mời tham dự.
Các con số trên đây không bao gồm số người tham dự các nghi lễ ĐGH cử hành tại Assisi, Lampedusa ở Ý. Riêng tại bờ biển Copacabana ở Rio de Janeiro vào ngày 28 tháng 7 năm 2013 đã có hơn 3 triệu người tham dự ngày cuối cùng của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới.
Theo ký giả của thông tấn xã Reuters, sở dĩ đông đảo người đến Vatican để được nghe và diện kiến ĐGH Phanxicô là vì ngài có phong cách cởi mở, đơn sơ, thân thiện, khó nghèo và đặc biệt chủ trương của Ngài là cải cách Giáo Hội để Giáo Hội gần gũi với người nghèo và ít lên án.
Tưởng cũng nên nói thêm, vào các ngày Chúa Nhật, thường có trên 100,000 người đến quảng trường Thánh Phêrô để đọc kinh truyền tin với ĐGH. Do vậy cảnh sát Ý đã phải đóng cửa đại lộ dẫn đến Vatican để có thể chứa hết số khách hành hương.
Riêng tại Hoa Kỳ, chúng tôi ghi nhận trong những tháng gần đây, không ngày nào trên các cơ quan truyền hình, báo chí là không có bản tin liên quan đến ĐGH Phanxicô, đến nỗi tạp chí Esquire, chuyên viết chuyện những người lừng danh trong giới điện ảnh nghệ thuật đã bình bầu ĐGH Phanxicô là người đàn ông mặc quần áo đẹp nhất trong năm.(Pope Francis Is Best Dressed Man Of 2013, Says Esquire Magazine)