Lịch sử phải là những câu chuyện có thật

Lịch sử phải là những câu chuyện có thật

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-03-11

03112014-hist-shld-real-stor.mp3

Các mũi tấn công của quân đội Trung Quốc trong chiến tranh biên giới 1979

Các mũi tấn công của quân đội Trung Quốc trong chiến tranh biên giới 1979

Files photos

Nghe bài này

Cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Trung quốc thường được nói tránh đi trong các văn bảng chính thức, trong các bài giáo khoa lịch sử. Lịch sử có nên được trình bày bằng cách thức như vậy để tránh xung đột hay không?

Sự tế nhị mang tên Trung quốc

Các dân tộc cổ xưa sống cạnh nhau không tránh khỏi những mối hiềm khích. Những hiềm khích ấy vẫn còn là những xung đột, lúc ngấm ngầm lúc công khai giữa thời buổi của công nghệ thông tin mà nhiều người tin rằng nhân loại đang đi đến một thế giới phẳng. Người Nga và Ukraine đang thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau. Người Nhật và người Trung quốc lời qua tiếng lại suốt hai năm nay. Và ở chiều ngược lại, những cảm xúc dân tộc chủ nghĩa đó ở Việt Nam lại đang được dồn nén lại, dồn nén tới mức tên của quốc gia gây ra cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 là Trung quốc không được nêu lên.

Một hội thảo tại Hà nội mang tên “Bảo tồn và phát huy những giá trị lịch sử của các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới, hải đảo và chủ quyền quốc gia thời hiện đại” có vẻ muốn làm một điều gì đó đột phá trong cách thức mà những kiến thức lịch sử được truyền tải trong xã hội hiện nay. Trong lời phát biểu kết thức cuộc hội thảo của Giáo sư Phan Huy Lê được TS Nguyễn Xuân Diện ghi lại trên blog của ông như sau: SGK đã đọc lại hết từ phổ thông, riêng về chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc là có, nhưng rất ngắn. Đến mức tôi đọc cũng không hiểu nổi. Vậy các học sinh sẽ học như thế nào. Còn riêng với Hoàng Sa – Trường Sa  không có chữ nào về chủ quyền.

” SGK đã đọc lại hết từ phổ thông, riêng về chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc là có, nhưng rất ngắn. Đến mức tôi đọc cũng không hiểu nổi. Vậy các học sinh sẽ học như thế nào. Còn riêng với HS-TS không có chữ nào về chủ quyền

(blog Nguyễn Xuân Diện)”

Các cuộc chiến tranh mà cuộc hội thảo trên nêu ra đều có liên quan đến Trung quốc. Và lịch sử nói về những cuộc chiến tranh này không được thực hiện như bản thân môn lịch sử phải có là kể lại trung thực những câu chuyện đã xảy ra. Có vẻ như sự thể lại rắc rối hơn khi hai quốc gia láng giềng có lịch sử xung đột với nhau là Trung quốc và Việt nam lại có cùng một mô hình chính trị xã hội là chế độ cộng sản.

Sự rắc rối này thể hiện ở từ tế nhị mà GS Vũ Dương Ninh dùng trong phát biểu với biên tập viên Mặc Lâm của đài Á châu tự do,

Bộ đội Việt Nam bị Trung Quốc bắt năm 1979

Bộ đội Việt Nam bị Trung Quốc bắt năm 1979. files photos

Có một cái sự tế nhị vô hình nào đó luôn ngăn cản việc này. Chúng tôi cho là đơn giản, lịch sử là lịch sử ta cứ đưa vào, nhưng không đơn giản như vậy. Cuối cùng thì thôi ta phải đưa vào nhưng có lẻ mức độ thôi. Mức độ là thế nào? Lúc đầu viết 3 trang 4 trang sau coi đi coi lại mãi cuối cùng được 12 dòng! Khi trả lời nhà báo tôi nói đây là sự cố gắng rất lớn nhưng có lẻ họ không thể hiểu được cố gắng ấy như thế nào.

Có phần chắc là sự tế nhị đó nằm trong sự tương đồng về thể chế chính trị “anh em” của hai nước, vì sự tế nhị tương tự không hề được nêu lên trong những bài học lịch sử có liên quan đến cuộc can thiệp quân sự của người Mỹ vào Việt nam trước đây. Nhưng sự tế nhị đó không tránh được các cuộc biểu tình chống Trung quốc nổ ra mỗi khi có ngư dân trên biển Đông bị lực lượng hải giám Trung quốc đánh đập, không ngăn được lời phát biểu chống ảnh hưởng của Trung quốc của Giáo sư Nguyễn Huệ Chi khi ông được hỏi về việc thành lập Khổng tử học viện tại Việt Nam,

“Đối với sự xâm lấn về tư tưởng về văn hóa của người Tàu đã trở thành máu, tôi không cho rằng những cái gì người Tàu làm là tốt.”

Giáo sư Nguyễn Huệ Chi”

“Đối với sự xâm lấn về tư tưởng về văn hóa của người Tàu đã trở thành máu, tôi không cho rằng những cái gì người Tàu làm là tốt.”

Mặc dù với tư cách một chuyên gia trong lĩnh vực Hán Nôm, ông rất tường tận về sự ảnh hưởng của văn hóa Hán trong xã hội Việt nam.

Sách lịch sử Việt Nam. Files photos

Sách lịch sử Việt Nam. Files photos

Lịch sử dưới mái trường xã hội chủ nghĩa

Lịch sử được giảng dạy dưới mái trường xã hội chủ nghĩa do những người cộng sản điều hành không đơn giản là là những câu chuyện xưa được kể lại một cách trung thực, mà theo những người cộng sản thì nó phải mang tính giai cấp. Tức là nó phải mang quan điểm của giai cấp lãnh đạo mà cụ thể là đảng cộng sản. Do vậy lịch sử dưới mái trường xã hội chủ nghĩa mang tính chính trị rất cao, và thời lượng được tập trung rất nhiều vào giai đoạn từ khi đảng cộng sản ra đời, 1930, trở về sau, tức là vỏn vẹn chưa đầy 100 năm trên hơn 2000 năm của lịch sử dân tộc nếu kể từ khi có những văn bản ghi chép đầu tiên.

Cũng chính vì học thuyết giai cấp ấy trong môn lịch sử mà rất ít học sinh Việt Nam biết về cuộc xâm lăng miền Đông Ba Lan của Liên Xô đầu thế chiến thứ hai, hay là những cuộc nổi dậy Budapest tại Hungary năm 1956, Prague tại Tiệp Khắc năm 1968.

Môn lịch sử-chính trị ấy đang bị các học sinh Việt nam từ chối học, như một tin được đưa trên báo Thanh niên gần đây là tỉ lệ học sinh của một ngôi trường trung học tại thủ đô Hà nội chọn môn lịch sử để thi là…không có em nào cả

Trong những bài học lịch sử mang tính chính trị, thế giới cộng sản được hình dung là các nước anh em, vào thời hoàng kim của nó gồm 13 nước, chống lại hệ thống tư bản bóc lột phía bên kia. Những bài học lịch sử chính trị ấy không làm tránh được những cuộc chiến tranh đẫm máu Xô Viết-Trung quốc năm 1969, và Trung quốc –Việt nam mười năm sau đó. Và trong chừng mực nào đấy là những cuộc chiến dân tộc chủ nghĩa trong không gian hậu Xô Viết khi đế chế Liên xô sụp đổ.

” Môn lịch sử-chính trị ấy đang bị các học sinh Việt nam từ chối học, như một tin được đưa trên báo Thanh niên gần đây là tỉ lệ học sinh của một ngôi trường trung học tại thủ đô Hà nội chọn môn lịch sử để thi là …không có em nào cả.”

Liệu sự tế nhị mà giáo sư Ninh đề cập có tránh được chiến tranh như nó từng xảy ra giữa các quốc gia cộng sản “anh em”? Hay là phải hóa giải những xung đột dân tộc bằng những phương cách khác với sự che dấu (tế nhị) những gì đã thực sự diễn ra?

Và sau cùng sự tế nhị ấy có làm cho học sinh Việt nam trở lại với môn lịch sử? Hay nó chỉ làm những gười Việt biểu tình bên bờ hồ Hoàn Kiếm thêm bực bội vì ngày 17/3 vì tế nhị mà nhường bước cho buổi nhảy đầm dưới chân tượng đài vua Lý? Đây dường như là câu hỏi lớn mà cuộc hội thảo vừa qua cũng chưa cho thấy câu trả lời như lo ngại của nhà báo Nguyễn Hữu Vinh khi kết thúc buổi hội thảo rằng nó sẽ dừng lại ở đâu đó mà không tiến triển gì thêm.

Giáo xứ Cồn Dầu sắp bị xóa sổ

Giáo xứ Cồn Dầu sắp bị xóa sổ

Thanh Quang, phóng viên RFA
2014-03-10

14-huynhngocchenh.jpg

Người dân trong một lần tập trung khiếu kiện về đất đai.

Courtesy of huynhngocchenh

Giáo xứ Cồn Dầu ở Đà Nẵng, hiện chỉ còn lại khỏang 100 hộ, xem chừng như sắp sửa bị “xóa sổ” theo biên bản của một phiên họp hồi tuần rồi giữa quan chức Đà Nẵng và đại diện của dân oan Cồn Dầu.

Hôm mùng 7 tháng Ba vừa rồi, chủ tịch UBND TP Đà Nẵng Văn Hữu Chiến chủ trì buổi họp bao gồm 16 quan chức hàng đầu các ban ngành địa phương và 12 đại diện cho khỏang 100 hộ giáo dân còn ở lại Giáo Xứ Cồn Dầu.

Đúc kết phiên họp, phía quan chức khẳng định, đại ý, rằng việc thu hồi đất của các hộ còn lại này để gọi là triển khai dự án khu đô thị sinh thái Hòa Xuân được thực hiện theo “đúng quy hoạch”, “đúng quy định của pháp luật”; cho rằng yêu cầu của giáo dân được tái định cư tại nơi giải tỏa là “không có cơ sở giải quyết”; và đề nghị “các hộ phải bàn giao mặt bằng trước ngày 15 tháng Tư năm 2014” này.

Nhưng hầu như tất cả đại diện phía giáo dân vừa nói “không đồng ý với sự giải quyết”, “không đồng ý buổi họp”, hay “chưa thỏa đáng”.

Tôi bức xúc lắm. Bởi vì gia đình tôi hiện có mẹ già, 3 con thì còn quá nhỏ. Cho nên tôi không biết gia đình sẽ ở đâu!
– Anh Trần Nhất Huy

Theo kế họach của giới cầm quyền thì trước mắt, họ cưỡng chế  3 gia đình vào thứ Ba ngày 11 tháng này. Gia đình giáo dân Trần Nhất Huy thuộc trong 3 hộ ấy. Anh Huy lên tiếng:

Tôi bức xúc lắm. Bởi vì gia đình tôi hiện có mẹ già, 3 con thì còn quá nhỏ. Cho nên tôi không biết gia đình sẽ ở đâu! Tôi nói thiệt chớ gia đình rất bức xúc trong tình cảnh một mẹ già và 3 đứa con thơ !

Giáo dân Ngô Thị Liên, từng là nạn nhân của hai lần bị cưỡng chế, cho biết:

Giáo dân hiện rất lo sợ. Còn khỏang 100 hộ ở lại Giáo xứ Cồn Dầu. Nhưng giờ chính quyền quyết liệt bắt đầu lại cưỡng chế, mà trước mắt là 3 gia đình, vào thứ Ba 11 tháng Ba này. Nhưng mình chẳng làm chi được. Mọi việc đều do bên chính quyền hết trơn. Giáo dân đi tới TP thì chính quyền cũng không giải quyết. Rồi bây giờ TP Đà nẵng lại ra quyết định cưỡng chế toàn bộ giáo dân vốn đang bám trụ ở Giáo xứ Cồn Dầu. Bây giờ giáo dân đang hoang mang, không biết sẽ đi đâu !

Khi đề cập tới hành động tiếp tục cưỡng chế của giới cầm quyền, một giáo dân khác lưu ý:

Giáo dân chấp nhận bị cưỡng chế chứ họ không chịu đi. Trước đây, cấp phường với quận cưỡng chế, còn bây giờ có thêm TP nhúng tay vào cuộc cưỡng chế này.

Nguyện vọng của giáo dân

Nói chung, số giáo dân hiện còn lại ở Giáo Xứ Cồn Dầu mơ ước chính quyền giải quyết cho họ được ở lại gần Nhà Thờ. Họ cho biết là “bức xúc lắm”, bởi vì nếu như đi thì giáo dân đã đi rồi. Cho đến bây giờ, giáo dân nghĩ rằng đất của tổ tiên, ông bà để lại cho họ lâu nay rồi, nên họ mong được tiếp tục ở lại trên đất của cha, ông. Nhưng nhà nước không chấp nhận và “lúc nào cũng cưỡng chế”. Giáo dân Ngô Thị Liên bày tỏ nỗi niềm này:

Nguyện vọng giáo dân chúng tôi muốn được tiếp tục ở bên cạnh Nhà Thờ, ở trên mảnh đất của mình do ông bà để lại. Đất của mình mà họ kêu bán cho người khác, để người khác được ở mà giáo dân thì không được ở. Giáo dân muốn ở lại quê hương, trên đất của mình, bên cạnh Nhà Thờ để sớm hôm đi lễ, nguyện cầu. Nguyện vọng chừng đó thôi mà cũng không được. Chính quyền đang ra sức cưỡng chế, mà trước mặt là 3 gia đình. Và trong tháng Tư này, họ nói số còn lại phải “trả mặt bằng”, phải giao mặt bằng cho họ, nếu không, họ sẽ cưỡng chế tòan bộ.

Chị Ngô Thị Liên vừa tâm sự đó có lẽ là một trong số giáo dân lâm cảnh oan khuất nhất vì gia đình chị bị cưỡng chế tới hai lần trong khi người chồng thương yêu cũng vừa qua đời. Chị Liên than rằng:

Giáo dân chấp nhận bị cưỡng chế chứ họ không chịu đi. Trước đây, cấp phường với quận cưỡng chế, còn bây giờ có thêm TP nhúng tay vào cuộc cưỡng chế này.
– Một giáo dân

Chính gia đình tôi, chồng tôi vừa mới qua đời mấy ngày. Tôi rất bức xúc. Ảnh cứ lo âu là không có nhà có cửa. Rồi gia đình chúng tôi, sau khi nhà bị cưỡng chế, đang thuê được nhà trong xóm thì họ vô cưỡng chế tiếp. Mình con cái rồi không nhà không cửa. Chồng tôi lo nghĩ quá rồi bị lên máu, bị xuất huyết não. Chứ ảnh thì không có bệnh họan chi hết. Tôi rất là bức xúc, chẳng biết nói làm sao hết. Hiện mẹ con tôi đang bơ vơ đây ! Lỡ mà mai mốt họ lại cưỡng chế nữa thì tôi không còn đường nào mà chạy nữa (khóc) !

Phản ứng trước cảnh nhiễu nhương như vậy, một giáo dân Cồn Dầu không dằn được cơn tức giận:

Hành động này là quá gian ác, tàn bạo. Không phải chỉ chính quyền Đà Nẵng, mà hầu như toàn thể bộ máy chính quyền độc đảng VN quyết làm việc gì là họ không còn nghĩ đến lương tâm nữa. Muốn làm việc gì thì họ làm cho bằng được, bằng mọi giá. Họ muốn nói thế nào là họ nói. Bây giờ TQ đã chiếm Hòang Sa, nhưng mình lên tiếng thì họ bắt nhốt. Bởi vì, mình nghĩ, chính quyền này quá tàn bạo…

Từ cuối năm 2013, dân oan Cồn Dầu đã 3 lần ra Hà Nội để khiếu kiện, mỗi lần đều được chính quyền trung ương cấp giấy đề nghị chính quyền địa phương “giải quyết thỏa đáng” cho yêu cầu tái định cư của giáo dân. Nhưng các quan chức địa phương cố tình “đổ qua đổ lại”, “đùn đẩy cho nhau” để rồi không bao giờ giải quyết cho nguyện vọng chính đáng của dân oan. Và cho đến hôm nay, giới cầm quyền Đà Nẵng mới chính thức tuyên bố không giải quyết theo yêu cầu của giáo dân Cồn Dầu.

Từ North Carolina, Hoa Kỳ, ông Trần Thanh Tùng, đại diện Giáo dân Côn Dầu Hải ngọai, cho biết vào đầu tuần tới, dân oan Cồn Dầu sẽ ra Hà Nội để khiếu kiện và cung cấp những giấy tờ văn bản rõ ràng của chính quyền Đà Nẵng, qua đó cho thấy giấy tờ dự án khu sinh thái Hòa Xuân trình lên chính quyền trung ương chỉ có 110 hecta, vậy 300 hecta còn lại là dự án ‘chui’ để các quan chức địa phương “chia chác nhau”.

 

Người Mỹ gốc Việt hồi hương ???..!!!

Người Mỹ gốc Việt hồi hương ???..!!!

Hồi hương…!!!
Kể từ sau năm 1975, vì biến cố chính trị, số người Việt Nam lưu vong sống trên các đất nước tự do có thể tính bằng con số triệu. Có mọc rễ hay không trên xứ người nhưng phần đông Việt kiều trong thâm tâm luôn nhớ về quê hương nơi chôn nhau cắt rún, nơi chứa nhiều kỷ niệm từ nhỏ cho đến lớn, nơi có đồng bào cùng màu da, cùng tiếng nói. Nhất là những người lớn tuổi về hưu, con cái đã trưởng thành, đã nên người thay thế cha mẹ ra đóng góp cho xã hội thì họ lại thường cảm thấy cô đơn lạc lõng bên xứ người và muốn trở về để gởi nắm xương tàn trên quê hương mình mặc kệ những bất đồng chính kiến, mặc kệ ngày nào đã bất kể sống chết, bỏ lại tất cả để ra đi tìm tự do.
Ông Tâm là một trong số người muốn trở về cố hương đó. Ông là sĩ quan cấp tá của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Sau năm 1975, dĩ nhiên cũng như các sĩ quan khác ông cũng phải đi học tập cải tạo một thời gian dài, nhà cửa bị tịch thu, con cái không được học đến nơi đến chốn vì lý lịch xấu. Ngày ông còn trong tù thì vợ ông đã mất vì quá lao lực, và suy dinh dưỡng. Ra tù ông lại phải sống thấp tha thấp thỏm lo sợ không biết một ngày đẹp trời nào đó bọn ác ôn bắt bỏ tù trở lại; rồi gia đình bị bắt đi kinh tế mới; cuộc sống dưới chế độ mới thiếu thốn, khổ cực trăm bề nên ông cố sống cố chết tìm cách đưa con cái vượt biển. Cũng may nhờ bạn tù giúp đỡ nên chuyến vượt biển thành công. Sau một thời gian ở trại tị nạn gia đình ông được sang định cư ở Hoa Kỳ.
Ông Tâm qua được xứ sở tự do thì ngã bịnh mất khả năng lao động nên được hưởng tiền bịnh do tiểu bang cấp cho. Bốn người con đứa đi học nghề, đứa ra làm việc và từ từ đều lập gia đình có cuộc sống ổn định bên xứ người. Nhưng vì công việc nên mỗi đứa con lại ở một tiểu bang, chỉ thi thoảng mới gặp nhau. Còn cô gái lớn thì ở cùng một tiểu bang với cha.
Ông Tâm ở riêng một mình. Ông không muốn làm phiền đứa con nào vì tính ông độc lập lâu nay, cứ ngại làm mất tự do và đời sống riêng tư của con cái, và ông cũng thích sống một mình cho thoải mái. Ông mua một cái mobile home giá rẻ, cho một hai người thuê phòng ở chung để có thu nhập trả tiền đất, và nhờ bạn bè làm mai giới thiệu cho ông một bà góa để đỡ phòng không chiếc bóng.
Bà góa này tên Tình, coi xấu người mà đẹp tính. Bà Tình hiền lành, dễ tính, biết chịu đựng, biết im lặng nghe ông nói mà không tranh cãi gì cả. Ông chỉ con chó mà nói là con gà thì bà cũng ừ cho đó là con gà; ông bắt bà im thì bà không dám hó hé lấy một tiếng mà nín thinh cả mấy ngày trời cho tới khi ông cho nói bà mới dám mở miệng… Con cái của ông đều quí mến bà mẹ kế này và nhiều khi còn binh bà để phản đối ông quá ăn hiếp:
– Sao cô hiền quá vậy? Ba con nói ngang nói ngược mà cô không cãi cứ để ổng ăn hiếp hoài.
Bà Tình cười hiền lành:
– Thì cô coi như cha, cãi làm chi với cha cho mệt.
Bà Tình làm ở nursing home săn sóc chiều chuộng người già, người bịnh cũng quen nên mới có thể ở chung với ông Tâm được. Tính tình hai người khác nhau như hai thái cực nên có lẽ ở với nhau để bù đắp cho nhau. Bà Tình dễ tính bao nhiêu thì ông Tâm khó bấy nhiêu. Ngày xưa sống trong quân kỷ quen, ông dùng kỷ luật sắt trị lính và trị cả gia đình. Con cái phạm lỗi là ông đét đít không tha. Ði thưa về trình, đúng giờ đúng giấc không được sai một phút. Chiều tối là cửa đóng then cài, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Ra vào cửa phải đóng, quên là bị phạt mở ra đóng lại 100 lần cho quen. Ở xứ Mỹ, bạn bè con cái có bất thình lình ghé ngang nhà thăm ông mà không gọi điện báo trước chớ hòng ông mở cửa tiếp. Có ông bạn thân sẵn đi câu về ghé tặng ông ít cá tươi, gọi cửa hoài ông không mở, chỉ đứng trong nhà ngó ra nên người bạn phải treo bị cá trước cửa rồi bỏ đi. Nhiều, nhiều kỷ luật và nội qui được đặt ra lắm nên đám con không gần gũi cha cho mấy, đứa nào cũng sợ ông như sợ cọp. Bạn bè ai cũng lắc đầu, bảo ông là chướng.
Vậy mà bà Tình cũng hay, sống với ông được đến 4 năm mới chia tay vì có một ngày ông cấm không cho bà về thăm lo cho con cái và cháu ngoại riêng nữa. Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng bà phản đối, chống lại ông. Ông Tâm muốn gì bà cũng chiều ngoài việc này. Tấm lòng người mẹ bao la như biển, lúc nào cũng lo lắng, bảo bọc, và hy sinh cho con thì ông Tâm chẳng thể nào mà chia cách được. Ông Tâm lâu nay quen ra lệnh và bà Tình thì quen tuân theo nên lần này nghe bà phân trần ông đã nổi giận mất khôn mà quát lên:
– Ở trong nhà này phải giữ kỷ luật, phải đi về cho đúng giờ giấc. Mấy hôm nay cứ tối mịt mới về nhà, cứ lấy cớ là về thăm cháu bịnh. Cháu bịnh thì có mẹ nó lo. Bà dẹp đi. Bà đi với thằng nào? Từ nay không có đi thăm cháu chiếc gì nữa. Còn không thì bà đi luôn đi. Nhà này không chứa đàn bà vô kỷ luật, thúi tha, mất dạy.
Bà Tình mở lớn mắt nhìn ông Tâm. Còn gì để nói nữa. Ðã biết rằng khi nổi giận thì ăn nói hồ đồ, nhưng bà không ngờ ông Tâm lại thốt những lời khó nghe và không tôn trọng bà như thế. Bà Tình lẳng lặng vào phòng thu xếp hành lý bỏ gọn trong cái va ly nhỏ. Không nói thêm một tiếng để chào từ giã ông Tâm đang mặt hầm hầm, bà xách va ly ra xe nổ máy chạy đi và không quên gọi cho đứa con gái của ông để báo cho nó biết:
– Chào con, cô chia tay với ba con rồi và sẽ không trở lại nữa đâu. Con nhớ ghé lại săn sóc cho ổng nhen.
– Cô đi luôn à? Con cũng lo sẽ có ngày này vì tính Ba nóng quá. Cô ơi, có gì cô bỏ qua cho vì con biết Ba thương cô lắm.
Cô Tình bùi ngùi nói:
– Cô biết Ba con tính nóng nên lâu nay nhịn và chiều ổng cho xong. Già rồi sống nương tựa với nhau cho vui. Con cái khôn lớn tách riêng thì mình lại càng phải dựa vào nhau để sống và an ủi cho nhau. Có điều Ba con không cho cô về thăm con cháu là không được. Lại còn ghen tuông nói bậy và không tôn trọng cô nữa nên cô buồn lắm. Thôi để tách nhau một thời gian xem sao.
– Cô ơi! Cô ráng giữ sức khỏe nhé. Mai con sẽ qua thăm Ba và khuyên ổng làm hòa lại với cô.
Hôm sau cô con gái đến thăm và khuyên cha:
– Cô Tình hiền và được quá mà sao Ba để cho cổ đi vậy? Ba làm hòa với cổ đi.
Ông Tâm sửng cồ:
– Hiền cái gì mà hiền. Bây giờ dám mở miệng cãi lại rồi còn bỏ đi nữa. Ba không cần thứ bà chằn đó. Ba chỉ thích loại đàn bà nghe lời ba 100 phần trăm, không được cãi mà nói gì cũng phải nghe.
Cô con gái bất mãn nghĩ thầm chứ không dám nói ra:
– Vậy thì ba đi kiếm người câm mà lấy đi. Mà phải vừa câm vừa điếc chứ nghe chửi mà không cãi được chắc họ đánh lại thôi.
Cô Tình bỏ đi không trở lại. Ông Tâm tự ái không làm hòa xin lỗi. Ông lại lủi thủi một mình sống kiếp độc thân góa vợ. Bạn bè cũng giúp ông đánh tiếng mai mối nữa nhưng không bà nào chịu đèn sống chung với ông được đến một tuần. Sức khỏe của ông lại chẳng được tốt cho lắm, bị cao máu, cao mỡ, phải thông tim, phải cắt túi mật, mà lại phải tự lo chợ búa nấu nướng một mình thật mệt mỏi và buồn chán. Cô con gái mỗi tuần chỉ ghé qua thăm cha chớp nhoáng được 1 vài lần vì còn phải đi làm, phải lo cho gia đình con cái. Nhiều khi ông ngồi đó, nỗi cô đơn gặm nhắm, nghĩ đến một ngày thình lình từ giã cõi đời mà con cái không hay để đến khi sình thối lên lối xóm mới biết. Rồi nghĩ đến quê hương bà con bạn bè đông đúc, ra ngõ là có hàng quán cơm tiệm khỏi lo miếng ăn nấu nướng hàng ngày, vui biết bao nhiêu. Ông nghĩ đến một ngày về quê hương, kiếm một miếng đất trồng cây ăn trái, trồng bông hoa cây kiểng, vui thú điền viên sống cho qua tuổi già, có gì chết chôn cạnh mộ bà vợ hiền cũng đỡ lạnh lẽo. Ông chỉ sợ tụi công an đỏ làm khó dễ, nhưng rồi lại tự an ủi mình hy vọng già rồi chắc tụi nó cũng để yên.
Lâu nay ông Tâm cũng thỉnh thoảng liên lạc với một ông bạn thân ở quê nhà tên Phan. Ông Phan có nhà đất ở vùng ngoại ô xa xôi, làm nghề thầy lang vườn, tính tình thuần hậu, chân chất. Ngày trước 75, ông Phan phá đất núi làm rẫy nên ngày nay ông có nhiều đất trên núi lắm. Ông Tâm ngày trước đã giúp đỡ ông Phan rất nhiều và thương tính tình ông Phan nên thường xuyên lui tới thăm nhau. Nay nghe ông Tâm than buồn và có ý trở về sống ở quê hương, ông Phan hăng hái bảo:
– Anh về đi, tôi sẽ tặng anh một mẫu đất sát cạnh nhà tôi để xây nhà ở cạnh nhau sớm hôm hủ hỉ cho vui.
Ông Tâm cảm động:
– Cám ơn anh nhiều. Nhưng tôi biết anh giờ cũng không khá giả gì mấy, tôi không dám nhận đâu. Cho tôi gởi tiền mua lại miếng đất đó để anh có tiền mà lo cho gia đình. Tôi về ở cạnh anh cuối đời anh em có nhau là vui rồi. Chỉ sợ về đó cộng sản làm khó dễ thôi.
Ông Phan đoan chắc:
– Chỗ tôi ở xa làng xa xóm, công an khu vực quen biết thân tình, dễ chịu lắm. Anh về đi không sao đâu. Với lại lớn tuổi rồi tụi nó không để ý làm khó dễ nữa đâu đừng lo. Thỉnh thoảng anh cho nó gói thuốc lá ba số 5 là nó cảm ơn anh lắm lắm, sai gì cũng được.
Bên đòi tặng, bên đòi mua, tình nghĩa tràn trề thật cảm động ứa nước mắt. Cuối cùng ông Phan cũng tặc lưỡi thở dài mà nhận tiền ông Tâm gởi về trả tiền mua miếng đất và xây nhà sẵn giùm để ông Tâm về có nhà ở ngay.
Cô con gái ông Tâm nghe cha đòi về Việt Nam ở thì phản đối:
– Ba à, về đó làm sao sống được với Cộng sản. Tụi nó gian manh thấy Việt kiều có tiền không để yên cho Ba đâu. Ba đã liều thân ra đi mà trở về làm gì.
– Tụi con không hiểu đâu. Ai cũng có cội có nguồn, ba đã già rồi, sống nay chết mai. Ba muốn trở về bỏ nắm xương tàn trên quê hương chứ chết bờ chết bụi ở đây buồn lắm. Ba về ở cạnh bác Phan, có bạn có bè hủ hỉ với nhau đỡ buồn. Ba đã gởi tiền về mua đất xây nhà ở cạnh nhà bác Phan rồi. Bác Phan bảo công an khu vực ở đó dễ lắm mà dân tình cũng hiền lành.
Cô con gái cãi:
– Thì bác ấy muốn ba về ở cạnh nên nói sao cũng được mà. Tụi con đều ở bên đây, Ba về đó lấy ai coi chừng?
Ông Tâm cay đắng:
– Ba ở bên này các con cũng đâu thường xuyên tới thăm được. Con cái ở mỗi đứa một phương mỗi năm họa hoằn về thăm Ba được 1 lần. Còn con thì bận bịu, tất bật suốt ngày. Ba về đó có gia đình bác Phan sát vách, bác bảo sẽ chăm sóc cho Ba. Bác Phan tốt lắm, cho Ba miếng đất để xây nhà mà Ba không lấy đó.
– Ðiều này con không biết. Phải ở lâu mới biết lòng người. Ba về đó lỡ bịnh hoạn đi bác sĩ bệnh viện cũng khó khăn. Nhà bác Phan con nhớ là ở tuốt trên núi khô khan nóng nực, đường đất cheo leo, nhất là không có điện phải xài đèn dầu leo lét, và lại xa thành phố vừa buồn vừa bất tiện. Ba ở đó không tốt đâu.
Ông Tâm cãi:
– Hồi Ba chở tụi con lên nhà bác Phan đến nay cũng hơn chục năm rồi. Càng ngày càng thay đổi tiến bộ chứ. Nghe bác Phan nói đã có điện rồi, dân cư cũng đông đúc hơn nhiều, đã có đường cho xe hơi chạy tới tận nhà.
Cô con gái hỏi nhắc lại:
– Rồi đêm hôm lỡ lên cơn đau tim làm sao đi cấp cứu? Kêu được xe chở được đến nhà thương chắc cũng đã xong đời rồi. Ba bây giờ đâu còn khỏe nữa, ở đây được một nền y khoa tốt gần như là nhất thế giới phục vụ, chăm sóc thường xuyên không tốt hơn sao.
Ông Tâm nghe con gái cản đầu cản đuôi nêu đủ lý do đã không nghe ra mà lại đâm bực. Ông nghĩ chắc lũ con sợ mình về Việt Nam không còn được lãnh tiền già tiền bịnh nữa và sợ phải gởi tiền nuôi cha nên cứ ngăn cản thế kia. Ông bực bội nói:
– Ba đã quyết định rồi. Con đừng cản nữa. Ba về đó tự lo được không cần mấy đứa con phải gởi tiền về giúp mà cứ nói ra nói vào.
Thấy cha bực mình, cô con gái im lặng không cãi nữa. Cô biết tính cha ngang bướng ít khi chịu nghe lời ai khuyên nhất là lời khuyên của con cái mà ông lúc nào cũng nghĩ là con nít con nôi hỉ mũi chưa sạch. Cô hỏi giọng quan tâm:
– Ba tính khi nào thì đi? Ba có muốn con giúp đăng báo bán căn nhà này và đồ đạc không?
Một tuần sau ông Tâm bán được căn mobile home với giá gấp đôi ông đã mua 7 năm về trước. Nhờ đã trả off nên nay ông ôm trọn gói. Ông lại còn “được” hai lần tai nạn xe cộ vào mấy năm trước, chỉ ê ẩm và hư xe sơ sơ nhưng nhờ mua bảo hiểm hai chiều nên được bồi thường vài chục ngàn đô. Tổng cộng được một số tiền cũng khá. Ðã gởi ông Phan tiền mua đất và xây giùm cái nhà gần bằng tiền bán mobile home, vị chi ông còn được tiền đền bảo hiểm xe vài chục ngàn đô. Thời điểm bấy giờ ở Việt Nam tiền đô có giá trị, vật giá cũng rẻ nên theo ông Phan tính toán mỗi tháng ông Tâm chỉ cần tiêu 100 đô là đủ sống. Tằn tiện một chút ông tiêu đến nhắm mắt xuôi tay là vừa. Vậy là bán nhà xong, thu dọn đồ đạc cần dùng vào 2 thùng lớn, ông Tâm Việt kiều bái bai đất nước tự do Hiệp Chủng Quốc đàng hoàng lên máy bay hồi hương, chả bù ngày nào trốn chui trốn nhủi ra đi.
Cả nhà ông Phan gồm vợ con, dâu rể, cháu nội cháu ngoại gần 20 người thuê xe vào Sài Gòn đón bạn vàng hồi hương. Ai nấy cũng tươi như hoa, cười đón Việt kiều thật niềm nở, thân tình. Bà con xa không bằng láng giềng gần, từ nay có gì chạy qua chạy lại đỡ đần nhau cũng vui đấy chứ, hai bên cùng có lợi.
Xe chạy xuyên đêm đến trưa thì về tới quê ông Tâm ở Ninh hòa. Thị trấn giờ tấp nập hơn hồi ông ra đi nhiều. Ông Tâm nhìn lại một số cảnh vật quen thuộc mà lòng bổi hổi bồi hồi nhớ lại những tháng ngày xa xưa với bao thăng trầm vinh nhục. Ngày bỏ quê hương ra đi ông đã thề với lòng chỉ trở về khi không còn Cộng sản, nhưng nay nào có đâu ngờ tự mình lại thất hứa phá bỏ lời thề. Ông như con cá hồi ngược dòng cố sống cố chết vượt bao gian nan bơi về nơi nó sinh ra. Ông đã từ bỏ nơi chốn bình yên có gia đình, sự tiện nghi và nhất là sự tự do để tìm về một chốn mà ông biết trước là địa ngục trần gian chỉ vì nỗi nhớ quê hương trong ông thật tha thiết, mãnh liệt, và nỗi ao ước muốn sau này được yên nghỉ trong lòng đất mẹ hiền.
Ðúng như lời ông Phan nói trước, chiếc xe trung 20 chỗ ngồi cũng len lỏi trên con đường đất gập ghềnh chạy đến tận ngõ nhà mới của ông Tâm. Căn nhà mới quét vôi xanh, mái tôn xám, trông gọn nhỏ và xinh xắn y như trong hình của ông Phan gởi qua. Nhưng xung quanh đất đai có vẻ khô rốc đầy sỏi đá, cây cối lưa thưa và còi cọc, trông thảm thiết như cây cối mọc ở sa mạc.
Ông Phan nói giọng phân bua:
– Cả tháng nay trời không mưa nên cây cối như vậy đấy. Anh dặn tôi mua ít cây ăn trái về trồng nhưng với thời tiết này ngó mòi mấy cây này khó lên nổi.
Ông Tâm an ủi bạn:
– Từ từ rồi tính. Trời không mưa chắc phải làm vòi tưới.
Ông Phan lắc đầu tỏ ý như chuyện này chắc khó rồi ông bảo tài xế đậu xe trước cửa nhà mới của ông Tâm để dỡ hành lý xuống. Vừa bước xuống xe, cái nóng hầm hập cháy bỏng của vùng núi táp vào người cộng thêm sự mệt mỏi của chuyến hành trình vượt đại dương làm ông Tâm choáng váng lảo đảo đứng không vững. Ông Phan vội đỡ ông Tâm bước lên thềm và sai thằng con lấy chìa khóa mở cửa ngay. Một lúc sau ông Tâm mới định thần lại và ngắm căn nhà mới của mình. Nhà chỉ có một phòng khách nhỏ, một phòng ngủ nhỏ đặt vừa cái giường 2 người nằm, một gian bếp nhỏ xíu cỡ 3 mét vuông và một phòng vệ sinh cũng nhỏ xíu. Tổng cộng cả căn nhà chắc khoảng 20 mét vuông. Ðồ đạc sơ sài mới chỉ có bộ bàn ghế gỗ cũ kỹ và cái giường gỗ trải chiếu hoa chắc ông Phan đem từ nhà ông ấy qua.
Ông Phan nói:
– Anh nằm nghỉ ngơi một chút, tôi biểu sắp nhỏ về bưng cái quạt máy qua cho anh và nấu cơm rồi mời anh qua xơi.
Mấy ngày đầu gặp nhau vui vẻ vô cùng. Quà cáp từ bên Mỹ mang về cái gì cũng lạ, đẹp, thơm, và giá trị. Gia đình ông Phan mọi người từ lớn tới nhỏ cứ rảnh ra là tìm tới ông Tâm để nghe kể chuyện hấp dẫn của cuộc sống bên Mỹ. Từ sớm đến tối rộn ràng vui lắm. Ông Tâm bắt đầu mua sắm thêm đồ đạc cần thiết bày biện cho căn nhà của mình. Ông cũng mua tặng bạn mình bộ sofa, cái bếp ga, và cái tủ lạnh. Gia đình ông Phan rất mừng cảm ơn rối rít và càng ân cần coi ông Tâm như thần tài trên trời rơi xuống. Coi vậy mà cũng không tốn kém chi lắm, từ cái lớn tới cái nhỏ, mua đủ thứ mà chỉ tốn xấp xỉ 1200 đô vì đồng đô la lúc này có giá lắm.
Người xưa có câu ca dao:
Thức lâu mới biết đêm dài,
Ở lâu mới biết lòng người thực hư.
Sau tuần lễ đầu tiên vui vẻ, ân cần là những phiền phức, khó chịu dần dần kéo tới. Vợ và con ông Phan thường qua mượn đồ không trả, bọn nhóc thường hay vô tư cầm nhầm món này món nọ nên đồ đạc trong nhà không cánh mà từ từ bay mất. Ông Tâm bực mình lắm nhưng ngại không nói ra. Tính ông cái gì ra cái đó. Xin thì ông cho mà mượn thì phải trả dù là một xu.
Thêm nữa ở lâu ông Tâm dần dần biết được giá cả, vật liệu xây dựng và trị giá đất thời điểm bấy giờ mới hay cái nhà của ông trị giá thật sự chỉ bằng một nửa số tiền ông đã chi. Vậy mà phải mang ơn nghĩa với người ta mới đau. Theo ông thấy ông Phan vẫn là con người đơn thuần, có lòng tốt với bạn bè nhưng vợ con dâu rể của ông thì trái ngược, thích lợi dụng, xin xỏ và có lòng tham không đáy.
Căn nhà mới là do đứa con lớn của ông Phan lo liệu việc xây cất và có lẽ nó đã bỏ túi số tiền chênh lệch khi mua toàn vật liệu xấu và xây quá đơn giản, thiếu tiện nghi. Phòng vệ sinh với loại cầu tiêu trệt ngồi chồm hổm phải múc nước dội. Không có bồn rửa mặt và nhất là không có hệ thống nước máy. Nước dùng để nấu ăn, vệ sinh tắm rửa phải chứa trong hai thùng nhựa lớn mà mấy đứa con nhà ông Phan gánh đổ hàng ngày từ giếng nhà bên ấy. Thấy bất tiện quá nên ông Tâm lại bỏ tiền ra xây hồ chứa nước, bắt máy bơm để bơm thẳng vào nhà và dĩ nhiên là ông phải làm cho cả hai nhà. Ðã không biết đủ rồi chứ, vợ con ông Phan còn xin xỏ ông Tâm giúp đỡ sửa sang đủ thứ cho nhà của họ làm như ông Tâm mang nợ từ kiếp trước không bằng.
Ông Tâm không phải hạng người tính toán keo kiệt. Nhưng cái gì cũng có giới hạn, đâu phải ông là triệu phú và dễ bị dụ. Ông thấy rõ mình bị lợi dụng, bòn rút từng ngày từng ngày một cách trắng trợn. Nơi ông ở hơi vắng vẻ đìu hiu xa thị trấn, lỡ đêm hôm khuya khoắt bịnh hoạn thì phải nhờ hàng xóm láng giềng nên ông bấm bụng chịu đựng tạm thời. Ông đánh tiếng bà con ở thị trấn nhờ thuê một người giúp việc lo dọn dẹp nhà cửa cơm nước riêng cho ông để khỏi phải nhờ vả lệ thuộc nhà ông Phan nữa.
Cô con gái bên Mỹ biết được tình cảnh của ông Tâm thì nhắc cha:
– Ba liên lạc kêu cô Xuân ra ở với Ba để săn sóc cho Ba đi. Con biết cô Xuân vẫn chưa có chồng. Con nghĩ có cổ sẽ an tâm tin cẩn hơn và Ba sẽ có người hủ hỉ đỡ buồn.
Cô Xuân là… bồ nhí của ông Tâm thời ông còn ở trong quân đội phải đi biệt phái xa nhà tận miền Tây. Hai người dây dưa dan díu với nhau gần 2 năm thì ông được phân công tác trở về quê nhà, chia tay với nàng. Rồi nước mất nhà tan ông phải đi học tập cải tạo một thời gian dài. Cô Xuân vẫn chưa lấy chồng, thỉnh thoảng gởi thơ vào tù thăm ông. Sau khi vợ ông mất, cô đến nhà lạy bàn thờ xin lỗi ngày xưa đã phá hoại hạnh phúc của gia đình và xin phép mấy người con được thỉnh thoảng thăm nuôi ông trong tù. Con của ông tư tưởng cũng thoáng nên bây giờ đã gợi ý cho cha liên lạc với cô Xuân để nối lại tình xưa an ủi nhau lúc tuổi già.
Thật ra chẳng đợi con nhắc, ông Tâm cũng đã có ý định đó khi trở lại quê nhà. Cô Xuân thua ông đến 20 tuổi. Ngày ông quen cô thì cô mới 22 tuổi, không đẹp nhưng hiền lành. Cô là con nhà gia giáo nhưng chắc vì duyên nợ từ kiếp trước nên đã phải lòng và yêu ông dù biết ông đã có gia đình. Ðến lúc chia tay với nhau cô vẫn ở vậy không lấy chồng và nghe nói đến nay vẫn còn ở căn nhà cũ với gia đình người em.
Nhà cửa sắm sửa tạm ổn xong, ông Tâm viết thơ liên lạc mời cô Xuân đến ở với ông và cô bằng lòng ngay. Cô Xuân không muốn ông Tâm thuê người làm mà tự mình đảm nhiệm chợ búa, cơm nước và dọn dẹp nhà cửa. Sau hơn 20 năm xa cách cô mới được cơ hội ở chung với người yêu nên vui mừng lắm và tự nhủ sẽ hết lòng săn sóc chàng.
Vậy là gia đình ông Phan mất đi một nguồn thu nhập là lo ăn uống và coi sóc nhà cửa cho ông bạn vàng. Ðến khi ông Tâm từ chối không cho đứa con dâu ông Phan mượn tiền làm vốn đi buôn; không cho thằng Ba của ông Phan mượn tiền mua cái xe cúp đời mới; rồi còn thay ổ khóa và yêu cầu người của nhà ông Phan đừng tùy tiện vào ra nhà của ông mà không gõ cửa thì chiến tranh bắt đầu.
Mấy người đàn bà nguýt háy khi thấy bóng ông Tâm ra vườn:
– Già mà không nên nết! Vài bữa nó dụ hết tiền là sáng mắt.
Hoặc:
– Tưởng Việt kiều là ngon lắm.
Ðúng là ở đời, trâu buộc thường ghét trâu ăn. Bạn bè anh em ai giàu sang ai cùng khổ cứ ở cách xa tít mù chẳng thấy mặt nhau thì thôi, nhưng nếu cái giàu và cái nghèo mà ở sát cạnh nhau thì trước sau cũng sinh ra rắc rối, đố kỵ, tị hiềm. Ông Phan mỗi ngày bị vợ con tác động, nói xấu ông bạn vàng nên cũng bị ảnh hưởng dần. Lại thêm thái độ ông Tâm khi bực dọc thường tỏ ra nét mặt lạnh lùng băng giá nên ông Phan cũng tự ái. Thế là chiến tranh giữa hai nhà càng ngày càng gây cấn. Láng giềng tốt ngày xưa giờ không cho nhà ông Tâm bơm nước giếng để xài, đóng cái cổng chung không cho dùng, phá cây không cho sống… Ðủ thứ cản trở… và cuối cùng đưa nhau ra tòa mới chỉ sau một năm hân hoan đón Việt kiều về nước tay bắt mặt mừng.
Ông Phan kiện đòi lấy nhà đất lại với lý do ông Tâm chiếm đoạt đất xây nhà trái phép. Nhưng cũng may từ khi nhờ vả ông Phan xây nhà, ông Tâm có lần viết thơ hỏi đã gởi tất cả bao nhiêu tiền và ông Phan đã viết thơ trả lời. Có bằng chứng giấy trắng mực đen và có cả thủ tục “đầu tiên” (tiền đâu) nên khi ra tòa ông Tâm đã thắng là ông không chiếm đoạt đất xây nhà trái phép. Nhưng ông Tâm là Việt kiều, đâu được phép mua nhà đất và cũng không được phép ở lâu thường trú trên đất nước Việt Nam. Ông có quốc tịch Mỹ, có visa về Việt Nam nhưng chỉ có thể ở Việt Nam trong vòng 2 năm thôi. Căn nhà này ông không được chủ quyền đứng tên làm chủ. Cuối cùng ông thỏa thuận sang tay để rẻ lại cho bà con của tòa án với giá trị tương đương 5 ngàn đô la Mỹ. Tính ra lỗ hơn hơn chục ngàn đô cho căn nhà và quan trọng nhất là lỗ mất trắng tình bạn.
Ông Tâm mua một căn nhà khác cũng ở xa thị trấn và nhờ cô Xuân đứng tên. Từ ngày về nước ông đã biết được cách chi tiền cho công an khu vực để mua hai chữ yên thân. Cứ mỗi tuần, họ tới thăm và mời “chú Ba” ra nhậu với tụi cháu. Dĩ nhiên chú Ba phải chi cho độ nhậu dù có tham dự hay không. Rồi Tết nhất, rồi mỗi dịp lễ lộc hoặc có chuyện gì trong gia đình họ ông cũng lì xì chút đỉnh. Thành thử ông không cần phải ra khỏi nước để làm lại visa nhập cảnh mà họ cũng không hỏi han làm khó dễ gì cả.
Ðủ thứ chi tiêu chứ không phải như trước kia ông dự trù chỉ cần mỗi tháng một trăm đô. Ăn uống chẳng bao nhiêu nhưng còn những khoản chi không tên mà ông không dự trù trước. Về sống ở đây, không những ông phải chi tốn cho công an mà còn chi cho bạn bè đàn em. Một vài người lính ngày xưa làm việc dưới quyền ông nay gặp lại đều có cuộc sống khó khăn nên nhờ ông giúp đỡ và ông không nỡ chối từ. Một số người nịnh hót nâng ông lên tận mây xanh rồi mượn tiền và hứa chắc như đinh đóng cột sẽ trả nhưng rồi lại trốn mất. Ông như con mồi béo bở, cứ gặp 10 người là đến 9 người xin tiền, mượn tiền nên sau một thời gian ông tránh ra đường sợ gặp người quen mất công từ chối.
Ra đường thì nghi ngại, phải tránh gặp mặt người quen. Ở nhà hoài thì bực mình, dễ gây nhau. Cô Xuân giờ đây không nhu mì hiền lành như ngày xưa nữa. Cô hay mỉa mai, cãi lại. Cô còn hay đi về không đúng giờ giấc, hay lê la nhà hàng xóm, hay giận hờn, và cũng hay xin tiền gởi về giúp đỡ các em của cô có vốn làm ăn. Ông sinh ra nghi ngờ không biết cô đến với ông vì tình hay vì tiền nữa.
Ðúng là “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở. Lấy nhau rồi… chán quá cỡ người ơi.” Về phần cô Xuân thì ngày xưa chỉ nhìn thấy một ông Tâm oai hùng, đẹp trai, uy quyền hét ra lửa. Chàng dịu dàng, chiều chuộng nàng ra phết mỗi khi hẹn hò gặp nhau. Bây giờ thì là một ông lão hết xí quách, hom hem, nhăn nhó, cau có, lại còn khó chịu, độc tài, dễ nổi đóa, ngang như cua và chỉ coi cô như một bà quản gia kiêm đủ thứ hầm bà lằng. Người yêu của cô thay đổi nhiều quá, chẳng giống ngày xưa tí nào cả. Cô bất mãn, cãi lại thì bị ông mắng nhiếc đuổi đi. Cô về quê thì các em lại khuyên cô trở lại với “chồng.” Dầu gì cô cũng đã là một bà cô già, may phước lấy được Việt kiều mỗi tháng có tiền gởi về giúp đỡ gia đình thì đừng dại gì mà bỏ.
Hai người cứ làm hòa rồi lại giận nhau. Cô khăn gói về quê được mấy lần thì đi luôn. Kể ra hai người cũng ở với nhau được hơn 2 năm dài đủ để hát bài “Hai năm tình lận đận, hai đứa cùng xanh xao. Hai năm trời mùa lạnh, cùng thở dài như nhau. Hai năm tình lận đận, hai đứa cùng hư hao. Hai năm tình lận đận, hai đứa đành xa nhau…”*
Ông Tâm hết tình và tiền cũng không còn nhiều. Cũng may ông còn được mấy người con có hiếu, mỗi năm rủ nhau đóng góp gởi về cha già tiêu xài. Ông vẫn cương quyết không về lại Mỹ, không chấp nhận cái sai của mình. Ông tự đánh lừa mình vẫn không nhờ vả con cái khi ghi nợ số tiền các con gởi về coi như mượn tạm để sinh sống vì ngày xưa khi đòi về lại Việt Nam sống ông đã tuyên bố không cần các con gởi tiền về giúp đỡ. Ông cho là căn nhà ông đang ở lên giá gấp 10, khi ông mất con cái bán mà trừ nợ.
Ông Tâm bây giờ phải chi tiêu nhiều lắm. Ngoài tiền ngoại giao với con số không ít còn phải chi cho sức khỏe rất nhiều. Ngày còn ở Mỹ, ông mang đủ chứng bịnh trong người nhưng nhờ y tế của Mỹ rất tốt, lại miễn phí cho người già và bịnh nên ông đi bác sĩ và thuốc men thường xuyên. Nhờ vậy bịnh cao huyết áp, cao mỡ của ông không gì đáng lo ngại. Trở về Việt Nam, ông sống xa thị trấn, bác sĩ nông thôn chẳng có năng lực bao nhiêu, thuốc men không đầy đủ lại thêm ăn uống nhậu nhẹt không kiêng cữ nên sức khỏe của ông giảm sút hẳn. Ông phải nhờ người quen giới thiệu một bác sĩ giỏi ở thị trấn và bao tất cả chi phí để vị bác sĩ kia đến tận nhà khám cho thuốc khi ông trở bịnh. Tiền bác sĩ, tiền thuốc men, và cả tiền quà cáp cho bác sĩ ngốn của ông mỗi tháng rất cao mà bịnh thì chỉ khống chế được giai đoạn ngắn rồi tái đi tái lại. Ðau nhức vẫn hoàn đau nhức, đau tim vẫn hoàn đau tim, và… khó chịu vẫn hoàn khó chịu có khi còn nặng hơn xưa.
Phải, ông Tâm càng ngày càng khó tính. Từ ngày cô Xuân bỏ đi không trở lại, ông nhờ giới thiệu người làm tới nhà lo việc nội trợ và để phòng khi ông bị lên cơn tim bất thình lình thì kêu bác sĩ hoặc đưa đi cấp cứu nhưng không ai có thể ở với ông được hơn tuần. Ông cấm họ không được ra khỏi nhà ngoại trừ thời gian giới hạn cho đi chợ, dễ nỗi giận la mắng ầm ĩ và làm tình làm tội đủ điều nên không ai ở được. Cũng may ông thuê được người nấu ăn mang đến nhà hàng ngày và dọn dẹp sơ nhà cửa. Nhưng cũng vì vậy mà ông càng ở riệt trong nhà và càng ngày càng thu mình trong căn nhà nhỏ, chỉ khi nào rất cần thiết mới ra ngoài.
Con cái về thăm khuyên cha:
– Ba qua lại Mỹ sống với tụi con đi. Ba ở đây mà cứ ru rú trong nhà như vậy thì dễ bịnh lắm.
Ông bảo:
– Sức khỏe của Ba giờ không đi xa được đâu. Ba ở nhà quen rồi, buồn thì ra vườn chăm ngó mấy cây xoài, cây mít cũng vui.
– Nhưng Ba ở có một mình lỡ có chuyện gì bịnh hoạn bất tử ai biết mà cứu?
– Có chị đưa cơm mỗi ngày 2 lần ghé qua đưa cơm nước mà. Với lại Ba có thuê chồng của chỉ mỗi ngày qua nhổ cỏ làm vườn giùm. Không sao đâu, Ba có chuyện gì họ biết liền.
Cô con khuyên:
– Ba chịu khó đi đây đi đó cho thoải mái chứ cấm cung mãi như vầy à?
Ông Tâm lắc đầu:
– Ba ra đường mà cứ sợ gặp người lợi dụng mình thì càng không thoải mái hơn.
Nhưng đâu phải không ra đường cứ ru rú ẩn mình trong nhà là yên. Cứ mỗi tháng vài lần, công an khu vực lại tới hỏi thăm “chú Ba” một cách thân tình:
– Chú Ba ơi, có khỏe không ra quán nhậu vài chai bia với tụi cháu cho vui.
Lâu lâu bọn chúng nài nỉ quá ông Tâm phải ra quán uống 1 ly bia rồi lấy cớ sức khỏe yếu bỏ về, không quên trả trước tiền độ nhậu. Còn thì ông hay móc túi dúi cho chúng vài trăm ngàn cho yên:
– Chú hôm nay bị đau dạ dày. Cầm ít tiền ra đó uống giùm chú vài ly.
Nhiều khi bọn chúng đang nhậu ngoài quán cũng nhớ đến chú Ba gọi phone mời ra tham dự. Dĩ nhiên chú Ba không thể đến nhưng cũng phải biết ý cháu chắt mà hứa sẽ… tiền đi thay người. Vậy mà ông còn khoe với con gái:
– Chút ít tiền chi ra mà Ba sai gì tụi nó cũng làm.
Nói chữ sai là nổ cho vui vậy thôi chứ lâu lâu có rắc rối bên làng xóm cãi cọ ồn ào hoặc bọn lưu manh ở đâu tới phá làng phá xóm ông gọi phone kêu công an khu vực tới can thiệp. Có chú Ba chịu chi thưởng tiền đi nhậu nên khi chú Ba gọi phone là bọn chúng tới giải quyết ngay làm hàng xóm cũng nể nang ông lắm. Rồi có lần con chó cưng của ông chạy ra đường bị thất lạc cũng nhờ mấy cháu kiếm lại giùm. Dĩ nhiên cũng phải hậu tạ.
Chỉ một năm sau khi ông Tâm khoe với con gái về đám “cháu hờ dễ sai” của mình, chuyện xấu xảy ra. Ông nhận được giấy của sở nhà đất thông báo có đơn kiện ông chiếm dụng nhà ở trái phép của cô Trần Thị Xuân và đòi ông phải bàn giao nhà cho cô ta 10 ngày sau. Thơ đến trễ nên 10 ngày sau trong thơ tức là ngày mai. Ông Tâm giật mình nghĩ lại căn nhà mình đang ở ngày đó mua đứng tên cô Xuân chủ quyền vì cô là công dân của nước Việt Nam. Cô bỏ ra đi đã mấy năm nay, mỗi tháng ông đều gởi tiền cho cô sinh sống đã không biết ơn rồi chớ nay lại trở ngược kiện cáo đòi chiếm nhà.
Ông Tâm gọi điện thoại ngay cho cô Xuân nhưng phone reng không ai trả lời. Ông cố gắng gọi liên lạc với 1, 2 người em của cô Xuân nhưng mọi người hình như tránh mặt, không thể nào liên lạc được. Họ tránh mặt là phải vì đã thông đồng ép cô Xuân kiện sở nhà đất đòi lấy căn nhà ông Tâm đang ở để có tiền bù việc làm ăn thua lỗ. Và họ đã đi đêm với sở nhà đất, với công an khu vực nên ngay ngày hôm sau ông Tâm bị đám cháu hờ công an khu vực với những gương mặt lạnh lùng vô cảm cùng với nhân viên nhà đất trục xuất ra khỏi căn nhà ông đang trú ngụ.
Muốn được yên thân gởi nắm xương tàn trên quê hương đâu dễ với tình hình đất nước nhiễu nhương bất ổn, với bọn lãnh đạo bất lương thích đi đêm như hiện nay chuyên xài luật rừng.
Ông Tâm đang trên máy bay trở về Mỹ sau khi được Việt Nam phẫu thuật mổ cho sáng mắt để biết rằng, dùng tiền đi mua lòng người mà nhất là bọn gian tham sẽ không được bền vững trước sau cũng bị phản bội. Và lâu nay cũng chính vì đồng tiền ông đã mất đi bạn bè, người yêu và nhất là sự tự do trên quê hương mình

Kimtrong Lam gởi

THA THỨ.

THA THỨ.

Một thiền sinh hỏi: “Thưa sư phụ, con đau khổ vì cha mẹ tàn nhẫn, người yêu con ruồng bỏ, anh em phản bội, bạn bè phá hoại… Con phải làm sao để hết oán hờn và thù ghét đây?”
Vị sư phụ đáp: “Con ngồi xuống tịnh tâm, tha thứ hết cho họ.”
Vài hôm sau, người đệ tử trở lại: “Con đã học được tha thứ cho họ sư phụ ạ. Thật nhẹ cả người! Coi như xong!”
Sư phụ đáp: “Chưa xong, con về tịnh tâm, mở hết lòng ra thương yêu họ.”
Người đệ tử gải đầu: “Tha thứ thôi cũng đã quá khó, lại phải thương yêu họ thì… Thôi được, con sẽ làm”
Một tuần sau, người đệ tử trở lại, mặt vui vẻ hẳn, khoe với sư phụ là đã làm được việc thương những người mà trước đây đã từng đối xử tệ bạc với mình.
Sư phụ gật gù bảo: “Tốt! Bây giờ con về tịnh tâm, ghi ơn họ. Nếu không có họ đóng những vai trò đó thì con đâu có cơ hội tiến hóa tâm linh như vậy.”
Người đệ tử trở lại, lần nầy tin tưởng rằng mình đã học xong bài vở. Anh tuyên bố: “Con đã học được và ghi ơn hết mọi người đã cho con cơ hội học được sự tha thứ!”
Sư phụ cười: “Vậy thì con về tịnh tâm lại đi nhé. Họ đã đóng đúng vai trò của họ chứ họ có lầm lỗi gì mà con tha thứ hay không tha thứ.”

SUY NGHĨ :

Câu chuyện thật ý nghĩa, chúng ta có thể nhận ra rằng tha thứ giúp cho chúng ta đóng lại những đau thương, bất công trong quá khứ và nhìn nhận các sự việc rõ ràng để buông xuống. Tha thứ giúp cho chúng ta mở rộng lòng yêu thương, giúp cho ta nhìn lại chính mình đã làm hao phí năng lượng khi đánh mất lòng khoan dung.
Tha thứ chính là một tiến trình tiến hóa tích cực của nội tâm, khi chúng ta thật sự đối diện và buông xuống những đau thương, mất mát, bất công… chúng ta sẽ không còn mang lòng oán hận, giận dữ… từ đó giúp cho chúng ta không nuôi dưỡng những niềm cay đắng, phẫn uất, trả thù… để rồi tạo thêm những điều bất thiện ở hiện tại và tương lai lại phải nhận sự khổ đau.
Qua đó, chúng ta nhận rõ tha thứ giúp cho chúng ta sống an ổn hiện tại và tương lai. Vì vậy, có thể nói rằng “tha thứ cho người khác chính là tha thứ cho chính mình”, vì khi chúng ta buông bỏ lòng thù hận, sẽ giúp cho tâm mình luôn bình an. Tâm bình an sẽ là chất liệu để tạo dựng nên lòng yêu thương từ bi cho mình và cho tất cả.
Đọc và suy ngẫm câu chuyện một lần nữa, chúng ta thấy rõ như một trình tự khi bạn biết tha thứ , bạn sẽ có lại tình thương với những đối tượng đã gây cho mình đau khổ mà bấy lâu mình đánh mất vì thiếu lòng khoan dung , hiện khởi Tâm Từ Bi rộng lớn, nhớ ơn tất cả đã cho chúng ta sự thành tựu này và chợt nhận ra rằng “vạn pháp vốn bình đẳng”.
Trên bước đường tu tập của người con Phật, chúng ta phải cảm ơn những bậc thiện hữu tri thức đã đưa đến cho mình nghịch duyên để chúng ta có cơ hội nâng cao đời sống tâm linh của chính mình. Nghịch tăng thượng duyên là vậy! Thật vậy, nếu lúc nào cũng thuận duyên, cũng đều được quí mến thì ta dễ dàng bị ru ngủ trong niềm tự hào, hãnh diện , ta đang biến mình thành nô lệ cho sự cống cao ngã mạn… tự đánh mất chính mình lúc nào không hay. Vì vậy, vị Sư đã dạy người học trò của mình phải biết ghi ơn những người đã đem đến cho mình những phiền não, oan uổng….để chúng ta có cơ hội nhìn lại chính mình, thực hành và chuyển hóa nội tâm, để nhận chân sự thật “chẳng có ai là người tha thứ và được tha thứ cả!”
Với tôi, việc học cách tha thứ và hành theo những lời dạy của Chư Phật, Chư Tổ không phải đơn giản và dễ dàng nhưng cũng không phải là quá khó nếu mình muốn và tôi đã bắt đầu cho những sự việc nhỏ nhất từ trong cuộc sống của chính mình với mọi người xung quanh…để có được sự bình an hạnh phúc chân thật!

Cổ Đức có câu này: “ Càng buông bỏ dưới chân này.
Ấy là chỗ đứng càng ngày càng cao ”

Từ Nguyễn Kim Bằng gởi

Tham: Cơn Cám Dỗ Thời Đại

Tham: Cơn Cám Dỗ Thời Đại

Nguyễn Trung Tây, SVD

Vietcatholic.net

Sau năm 75, cả nhà tôi đói mờ con mắt. Bố mẹ tôi chạy vắt giò lên cổ nhưng gạo vẫn chạm đáy lu. Sáng anh chị em chúng tôi cứ thế mà gặm sắn luộc. Trưa và chiều, cơm độn với bo bo, năm thì mười họa được bữa thịt hoặc cá, nhưng bao giờ cũng kho mặn chát với muối! Gì chứ muối thì chả bao giờ thiếu ở Việt Nam. Vứt ngoài đường cũng không có mấy người hốt. Hèn chi dư thừa để kho cá kho thịt mặn chát cho đỡ tốn. Tôi tham ăn nổi tiếng trong nhà. Mẹ tôi hay mắng, “Cái thằng… Thùng bát chí thình!”, bởi tôi chuyên viên rình rình, không ai để ý, nhanh tay thò đũa gắp nguyên miếng thịt khúc cá cho thẳng vào miệng, nuốt chửng. Hên, chưa bao giờ chết nghẹt, nhưng tối hôm đó, chết khát! Thì ai biểu! Nguyên một miếng thịt, nguyên một miếng muối nuốt trôi, làm chi mà không nước ừng ực. Khát! Chỉ có nước mới trị được. Cứ thế mà uống, uống như chưa bao giờ được uống. Bụng căng phồng. Chạy bằng thích. Tào Tháo rượt. Ơi chạy! Ơi khát!
Học được bài học nhớ đời. Tôi bớt tham… Nhưng lần khát nhớ đời thứ hai thì tôi không được chọn lựa, bởi cơn khát tới khi thuyền gỗ đang bập bềnh sóng nước. Mờ sáng thuyền âm thầm rời bến. Chiều cùng ngày thuyền tiến thẳng vào hải phận quốc tế. Khi đó mới biết, trên thuyền chỉ có vài can nước. Con thuyền với hơn sáu mươi mạng người, chỉ có từng đó nước, cầm cự được mấy hồi? Lênh đênh phận nghèo với cơn khát bốn ngày, thuyền đỗ bến Marang, Mã Lai. Tôi mắt trắng dã, môi khô nứt nẻ từ dưới khoang thuyền ngước lên mở miệng năn nỉ với nhân viên Hội Trăng Lưỡi Liềm Đỏ đang đứng trên bờ,
— Cô ơi, khát quá… Làm ơn cho xin miếng nước.
Cô nhân viên khuôn mặt trắng hồng quay đi ngay. Khoảng hai phút sau, cô quay lại cùng với mấy người thanh niên lực lưỡng, ai nấy khệ nệ bê trên tay mấy thùng nước sinh tố ướp đá lạnh. Cô vội vàng phân phát cho chúng tôi mỗi mạng người hai hộp nước. Chúng tôi xé hộp, uống ngay. Có nước sinh tố, chúng tôi thôi khát, hồi phục!
Dòng thời gian đẩy tới. Tôi định cư vùng Thung lũng Hoa Vàng, người Mỹ gọi Silicon Valley. Tôi đi học, ra trường, làm việc. Có tí ti tiền lương, tôi hăm hở kiếm tìm mua computer mới và laptop mới. Thế là lang thang ghé hết tiệm này sang tiệm khác, Best Buy, Fry’s Electronics, đủ mặt trên từng cây số. Computer hãng Dell, Best Buy đang on sale. Sony Laptop mỏng dính, Fry’s Electronics đang bán rẻ. Giờ ăn trưa, mấy tên bạn cùng phân khu tranh cãi ầm ĩ một góc phố về high tech và giá cả. Cứ như đám cháy nhà. Nhưng khổ! Làm ở hãng điện tử của Silicon Valley, tên nào chả rành sáu câu vọng cổ mùi rệu,
— Diệu em ơi đây là sự thật… The moment you open your computer box… that moment your computer becomes obsolete!/…Giây phút em khui mở máy vi tính, giây phút đó máy của em biến thành…đồ cổ”!
High tech mà, lúc nào cũng phải đi trước thiên hạ cả mấy chục năm. Thế mới tranh được miếng ăn ngon. Thì đấy, cứ nom đi, Windows 2000 xài chưa xong, Windows Vista xuất hiện, rồi bây giờ đang là mùa Windows 7. Memory, giữa thập niên 90, có được 4Mb là sang trọng kẻ cả lắm rồi. Thấm thoát nhảy cái vèo lên 1Gig, rồi 2, 4. Bây giờ là mấy? Chả biết nữa! Cứ thế đuổi theo, mệt nhoài, thở không ra hơi, bở hơi tai. Hồi xưa tham ăn, bây giờ tham high tech, tôi mua thêm software, cài thêm vào máy memory. Nếu không, máy chạy chậm rì như bà bầu. Ơi khát! Tôi uống hết ly nước này đến ly khác. Nhưng vẫn khát, khát khô cả hồn.
Thập niên 80 có được cassette nhạc 60 phút, 90 phút là vui. Trời mùa thu đỏ rực lá vùng thung lũng hoa vàng, tôi nằm mở nhạc nghe Khánh Ly, Khánh Hà. Hạnh phúc! Bước sang giữa thập niên 90, lần đầu tiên nghe tới chữ CD. Tôi tò mò tìm hiểu. Biết CD rồi, tôi như người ma nhập, bỗng nhiên hóa dại! Say mê CD, nhất là CD bán rẻ, 10 đô 3 CD, tôi hăm hở móc tiền mua cả đống. Nhiều quá, có tới hơn cả ngàn. Chất không hết tủ sách, tôi bỏ hộp (case), lấy đĩa cho vào Album, mỗi Album chứa được 100 CD. Giờ đếm lại, nguyên một ngăn tủ, trên dưới 15 cái Album đựng CD. Tưởng thế là thôi, không khát nữa. Nhưng tôi vẫn khát, vẫn cứ hăm hở tìm kiếm CD. Nhất là mỗi khi tiệm bán CD on sale mùa lễ, Tết. Tôi vác lên vai, tôi như người lên đồng, bị ma nhập, khuân về nhà bằng thích. Hết CD này tới CD khác. Thật thà khai báo thì đến là xấu hổ, bởi có những CD đến ngày hôm nay, tôi tình thiệt cũng chưa có dịp nghe qua, dù chỉ là một lần!
Hồi đó băng nhựa VCR, mở đầu máy coi Cô Gái Đồ Long mê tít thò lò Triệu Minh. Nhưng thoáng một cái, thấy thiên hạ bàn tán xôn xao về đĩa DVD. Ủa, DVD là cái chi vậy cà. Bạn tôi nửa đùa nửa thật,
— Muốn biết, cứ việc tới tiệm…
Tôi lái xe tới tiệm. Đúng như lời người bạn, tôi thấy liền DVD phim thời xưa, Cleopatra, Ben Hur, đủ cả, coi sướng cả mắt. Màn ảnh rõ tưởng như giơ tay ra là chạm được người đẹp mắt tím Elizabeth Taylor. Thế là thằng người chết khát chạy rông khắp cùng các tiệm nhặt mua cho bằng được DVD phim ưa thích. Mà lỡ nhìn thấy DVD không thích nhưng đang bán rẻ, mua luôn cho đã cơn khát.
DVD có rồi, nhưng cần tới đầu máy DVD, thế là lại hối hả chạy ra tiệm kiếm đầu máy DVD. Nhưng có đầu máy mà không có TV loại chiến thì làm sao mà đã cơn khát! Thế là lệ khệ bê luôn về nhà màn ảnh TV bự tổ chảng coi cho đã con mắt. Lúc đó mới thấy căn phòng khách nhỏ bằng cái lỗ mũi chứa làm sao cho nổi cái TV super size mới mua. Vậy là liều, tôi ôm nguyên cái TV cũ nhưng còn chạy ngon lành, mang thẳng ra tiệm bán đồ cũ Goodwill, ký tặng tại chỗ!
Ghé vào apartment chơi, mẹ tôi tinh mắt, hỏi liền,
— Ủa, cái TV cũ đâu rồi?
Tôi ngần ngại, ấp úng thật thà xưng tội. Mẹ tôi thoáng cau mặt,
— Mày, chỉ được cái phí của!
Tôi phân bua, một câu nói đụng chạm lung tung,
— Bên Mỹ mà mẹ, đâu phải như bên Việt Nam…
Mẹ tôi yên lặng, không nói chi. Nhưng nhìn mặt, tôi biết mẹ tôi không vui!
Khoảng một thời gian sau, ghé vào nhà người bạn, tôi giật mình nhận ra hắn có cái TV cùng hiệu Sony, nhưng đời mới hơn. Màn ảnh TV lớn hơn, nét rõ hơn cái TV tôi mới mua cách đây mấy tháng. Chiều Chúa Nhật hôm đó rảnh rỗi, tôi ngồi uống mấy lon bia với người bạn, cùng coi TV chương trình ca nhạc mới ra lò. Nhìn màn ảnh sân khấu với đèn sáng lấp lánh, khuôn mặt ca sĩ đẹp rực rỡ qua màn ảnh mới tinh, tôi tiếc hùi hụi cho cái TV mới mua cách đây mấy tháng. Đầu óc tôi lơ mơ nghĩ ngợi lung tung. Cơn khát thời đại cứ thế mà hành!
Tôi có người bạn thân cùng thời đi học. Thời sinh viên hắn cũng nghèo xơ xác như tôi bây giờ. Hai đứa phải thuê chung một căn phòng, nằm dưới đất. Lớp tối học xong, về tới nhà mười giờ khuya, nấu mì gói ăn đều đều. Nghèo! Hai đứa hồi sinh viên thiệt tình là trên răng dưới…khố! Giờ hắn ra trường, kỹ sư trưởng, có gia đình, đã mua nhà. Có lần tôi ghé vào gửi nhờ mấy thùng sách. Nhìn nhà xe của người bạn, tự nhiên tôi ngần ngại, bởi thấy trong đó đồ đạc chất cao có ngọn. Tã trẻ con mấy thùng xếp lớp lớp đụng sát trần. Màn ảnh monitor của computer mấy thùng giấy còn nguyên chưa bóc tem. La liệt… Và còn cả trăm thứ hầm bà lằng khác mà tôi không biết tên… Garage chứa hai xe, bạn tôi một, vợ hắn một. Từng đó thứ nhốt trong garage. Tôi thật sự cũng chẳng có chỗ để mà bước đi.
Thấy tôi cứ chiếu tia nhìn đăm đăm vào mấy thùng tã chất cao, bạn tôi phân bua,
— Bà xã thấy Costco bán on sale, khuân về nhà mấy thùng…
Nhìn đồ đạc chất đống ngổn ngang, bạn tôi giải thích,
— Hai đứa, đi đâu mà thấy đồ bán rẻ là tạt vào ngay…
Thấy mặt tôi ngớ ngấn như người dở hơi, bạn tôi nửa đùa nửa thật,
— Ông cứ lấy vợ đi… Biết liền…
Bạn tôi có gia đình, con mấy đứa. Phải tích cốc phòng cơ. Cho nên không lạ nếu bạn tôi gặp tã bán rẻ, ghé vào mua ngay. Nhưng còn mấy thùng màn ảnh monitor? Nghe tới chữ màn ảnh, người vợ cũng là bạn học thời xưa nói liền,
— Anh ấy, cứ cuối tuần là ghé vào Fry’s Electronics. Giờ xếp đó cả đống monitor, chả biết làm gì!?
Tôi suy nghĩ…tã cho con, bạn tôi không có chọn lựa, tương tự như lần vượt biên, tôi khát; nhưng màn ảnh computer, thì rõ ràng là khác…
Mùa Giáng Sinh về, cũng như mọi người dưới bầu trời Bắc Mỹ, đại gia đình chúng tôi tụ họp tại căn nhà của mẹ ăn tiệc Noel, rồi chia quà. Chị tôi gọi tên từng đứa cháu, tuần tự, từ nhỏ tới lớn. Tôi thấy các tên nhóc đều giống nhau ở một điểm: chẳng có tên nào, sau khi “khui thùng”, chịu khó để ra một hay hai phút, ngắm nghiá món quà Giáng Sinh mới nhận được từ bà, bố mẹ, các dì, các cậu. Nhận được gói quà, tên nào cũng vội vàng xé bỏ tờ giấy gói xinh đẹp, lục tung bên trong tìm kiếm. Thấy chân dung món quà rồi, hắn vội vàng liệng bỏ không thương tiếc món quà mới tinh, rồi hấp tấp quay sang gói quà bên cạnh; rồi lại vội vàng xé bỏ, lại tìm kiếm, lại quẳng bỏ không ngần ngại để quay sang gói quà khác. Cứ thế! Tôi ái ngại và thiệt tình là khó chịu khi nhìn thấy món quà xếp chữ mà anh tôi cất công tìm kiếm mấy tiếng đồng hồ trong thương xá đã được cô con gái rượu sáu tuổi đón nhận rất hững hờ. Tôi thắc mắc nếu cháu tôi chỉ nhận được một món quà Giáng Sinh duy nhất, hắn sẽ còn ơ hờ với bảng hình xếp chữ hay không?
Tôi chia sẻ nhận xét ở trên với người bạn. Thật bất ngờ người mẹ ba con cũng gật đầu đồng ý với tôi. Nhưng không chỉ dừng lại ở cái gật đầu, hai vợ chồng cô quyết định mùa Giáng Sinh vừa qua, thay vì dùng số tiền mua quà Noel cho mấy người con, họ đã tặng hết số tiền đó cho cơ quan từ thiện Salvation Armies. Tôi thiệt tình ngạc nhiên, hỏi liền,
— Ủa! Bộ không sợ mấy cháu tụi hắn buồn hay sao?
Bạn tôi gật đầu với lời nhận xét,
— Ông nói đúng. Hai vợ chồng cũng phải bàn với nhau, phải nói chuyện với mấy cháu, giải thích rõ ràng, là ba cháu vẫn nhận được quà Giáng Sinh từ bố mẹ. Nhưng số tiền dùng để mua quà Noel sẽ được tặng cho người nghèo.
Bạn tôi nói tiếp,
— Tôi còn phải cẩn thận nói thêm, “Bố mẹ muốn tụi con phải biết nghĩ đến người khác. Đồng thời học được bài học bớt đi lòng tham…”
Có một khoảng thời gian hiện tượng Occupy diễn ra nhiều nơi trên thế giới. Occupy thoạt tiên xảy ra tại Wall Street vào ngày 17 tháng 9 năm 2011. Nhiều người kéo về Wall Street biểu tình phản đối lòng tham của những người phú hộ thiên niên kỷ thứ ba. Xuất hiện trên màn ảnh TV bảng hiệu của người biểu tình, tôi đọc được hàng chữ, “Share the world’s resources/Hãy chia sẻ tài nguyên thế giới”; hoặc, “Stop being greedy immediately/Chấm dứt ngay lòng tham không đáy”. Phong trào Occupy ngày càng lan rộng trên nước Mỹ và toàn cầu. Tại San Francisco, “Occupy San Francisco”. Tại Tokyo, “Occupy Tokyo”. Tại London, “Occupy London”. Tại Sydney, Melbourne, phố lớn Úc Châu, “Occupy Sydney”, “Occupy Melbourne”; và thêm nhiều thành phố lớn trên thế giới. Người người tụ tập, giơ cao biểu ngữ phản đối lòng tham không đáy của những nhà tài phiệt.
Người Do Thái có câu chuyện khá độc đáo về cơn khát. Theo như câu chuyện tại một phố kia có ông phú hộ, ngày ngày ông khoác vào người bộ quần áo sang trọng nhất, đẹp rực rỡ nhất cho những yến tiệc linh đình thâu đêm suốt sáng. Nhưng cắc cớ một điều, nằm ngay trước cửa nhà ông phú hộ có người hàng xóm hành khất ghẻ lở đầy mình. Người hành khất bần hàn chỉ có một giấc mơ nhỏ nhoi là được ăn những mảnh vụn thức ăn dư thừa rơi từ bàn ăn phú hộ. Nhưng rất tiếc ước mơ nhỏ nhoi này cũng không bao giờ trở thành hiện thực. Dòng đời đẩy tới, cuối cùng ông phú hộ nhắm mắt buông xuôi hai tay, để rồi ôm vào lòng “one way ticket to hell”! Dưới hỏa ngục, vào một ngày kia ngước mắt lên, ông phú hộ nhìn thấy Ông Trời. Thấy Ông Trời nhân hậu, ông phú hộ mở miệng năn nỉ xin một giọt nước, chỉ một giọt nước mà thôi, bởi ông đang khát khô với những ngọn lửa nóng trong lò lửa bừng bừng thiêu đốt! Nhưng trước lời năn nỉ nhỏ nhoi của ông phú hộ, Trời lắc đầu, nói ngay,
— Trễ quá rồi con! Trễ quá rồi!
Một giọt nước chẳng là chi. Một trăm giọt nước cộng lại hóa ra một chén nước lạnh cũng không là gì. Không ai buôn bán một giọt nước. Chẳng ai nỡ lòng từ chối một chén nước lạnh với người qua đường. Hồi xưa tôi khát, mở miệng xin nước với nhân viên Hội Trăng Lưỡi Liềm Đỏ, họ cho ngay. Nhưng thật lạ lùng, yêu cầu nhỏ nhoi, chỉ xin một giọt nước làm nguội đầu lưỡi của ông nhà giàu trong Hỏa Ngục cũng bị Ông Trời nhân hậu thẳng tay từ chối.
Tôi nghĩ tôi bị cơn khát thời đại hành như ma hành bởi THAM. Hồi ở Việt Nam, tôi tham ăn, hay thò đũa gắp nguyên khúc cá miếng thịt kho mặn chát cho vào miệng, nuốt trôi. Hên là chưa chết nghẹn, chỉ bị khát!
Bởi tham cho nên gặp CD, DVD bán rẻ, dù có là CD hoặc DVD chẳng phải loại mình ưa thích, cũng khuân vác về nhà chật chội căn phòng chung cư bé tí ti.
Bởi tham, cho nên tôi cứ như con bò, ngong ngóng nhìn đồng cỏ xanh tươi của hàng xóm, mà quên đi cỏ xanh ngay trong vườn nhà, với là tới; cho nên có lần đã dám quẳng bỏ nguyên cái TV đang chạy ngon lành!
Bởi tham, cho nên tôi hóa ra người chết khát, cứ ăn, cứ đổ vào trong bao tử bao nhiêu thìa muối, cho nên khát, khát dài dài!
Lòng tham, như một định luật, bao giờ cũng dẫn tới những cơn khát. Lòng tham càng cao, cơn khát càng nhiều!
Tôi hy vọng, chỉ có bớt đi lòng tham lam, khi đó tôi sẽ thôi, không bị hành hạ bởi những cơn khát, trong thiên niên kỷ thứ ba, tôi gọi “cơn cám dỗ thời đại!”.
□ Nguyễn Trung Tây, SVD
www.nguyentrungtay.com

Sống để yêu và yêu để sống

Sống để yêu và yêu để sống
Nhân Ngày Quốc Tế Phụ Nữ, 8.3

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Vietcatholic.net

1. Tình yêu và thời gian

Ngày xưa các vị Thần Hạnh Phúc, Khổ Đau,Tình Yêu,Giàu Sang và nhiều vị khác nữa cùng sống chung với nhau trên một hoang đảo. Một hôm, cơn đại hồng thuỷ tràn đến, hòn đảo xinh xắn sắp chìm trong biển nước.Tất cả các vị Thần đều chuẩn bị thuyền để vượt biển vào đất liền lánh nạn.Riêng Thần Tình Yêu vì quá nghèo nên không có nổi một chiếc thuyền để ra đi.Thần đành ngồi im lặng đợi chờ đến giây phút cuối cùng mới quyết định quá giang các vị Thần khác.

Khi Thần Giàu Sang đi ngang qua,Thần Tình Yêu xin : Anh mang tôi đi cùng với!

Không được đâu, tôi có biết bao vàng bạc quý giá phải mang theo, sao còn chỗ cho bạn.

Thần Đau Khổ đến gần. Thần Tình Yêu nài nỉ: Anh cho tôi đi với nhé!

Tôi bất hạnh và buồn chán quá,tôi chỉ muốn ở một mình thôi.

Thần Hạnh Phúc đi ngang qua cũng thế. Thần quá hạnh phúc đến nổi không nghe được tiếng kêu cứu của Thần Tình Yêu.

Bỗng nhiên có giọng nói của một cụ già : Này tình yêu, tôi sẽ đưa anh vào đất liền.

Thần Tình Yêu nghe thế liền chạy nhanh đến thuyền của cụ già.Quá vui mừng vì thoát nạn,Thần Tình Yêu quên hỏi tên cụ già tốt bụng.

Khi tất cả các vị thần đều đến được đất liền, cụ già lẳng lặng bỏ đi mất. Khi đó Thần Tình Yêu mới sực nhớ là đã quên cám ơn người đã giúp mình thoát nạn liền quay sang hỏi Thần Kiến Thức : Thưa ông, cụ già vừa giúp tôi khi nãy tên gì vậy?
Thần Kiến Thức đáp: Đó là Thần Thời Gian.

Thần Thời Gian ư ? Nhưng vì sao ông ta lại giúp tôi ?

Thần Kiến Thức mỉm cười : Vì chỉ có thời gian mới có thể hiểu được tình yêu vĩ đại như thế nào. (Tuổi trẻ Chúa Nhật, số 44/2000).

Tình yêu và thời gian là hai phạm trù khác biệt nhưng lại có tương quan chặt chẽ.Thời gian nuôi dưỡng tình yêu. Thời gian đo lường tình yêu.Tình yêu lớn lên hay lụi tàn theo thời gian.Sống trong thời gian là yêu để sống.Thời gian không có tình yêu sẽ lạnh lùng buồn chán.Tình yêu ý nghĩa hoá và thắp hồn cho thời gian. Bởi đó, kẻ đang yêu là người sống trong thời gian với đầy ắp niềm vui êm ả. Kẻ biết yêu là người biết nhìn thời gian như dòng ngọc bạc.

Những người yêu nhau, họ muốn đi đến kết hôn với nhau. Họ đã có một thời gian dài để quen biết. Tìm hiểu về gia phong,về tính tình,về sở thích của nhau. Chính qua thời gian họ hợp nhau. Tình yêu nảy nở. Ngày cưới, tình yêu của họ đơm hoa kết trái.
Tình yêu rất kỳ diệu. Nó gõ hồn ta vào những giờ không định như Xuân Diệu viết:

Làm sao cắt nghĩa được tình yêu.
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều,
nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,
bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu.
Tình yêu rất nhạy cảm. Chỉ một lần chạm tay nhau mà về nhà mang bệnh tương tư :

Hôm qua lỡ chạm tay nhau,
về nhà đó có bị đau không nào?
Riêng đây chẳng biết vì sao,
chạm tay lần ấy đau vào đến tim.

Tình yêu rất mạnh mẽ.Khi yêu thì vượt qua tất cả mọi thử thách,mọi khó khăn để có nhau. Ca dao đúc kết:

Yêu nhau mấy núi cũng trèo,mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua.
Yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.
Yêu nhau bất kể giàu nghèo,dù cho lên ải xuống đèo cũng cam.

Yêu nhau chẳng quản chiếu giường,
Một tàu lá chuối che sương cũng tình.

Thiếp xa chàng ăn vàng cũng đắng,
Thiếp gần chàng ăn muối trắng cũng ngon.
Tình yêu rất cần thời gian dành cho nhau.
Năng mưa thì nước năng đầy
Anh năng lui tới mẹ thầy em thương.

Tình yêu cho hai người nên một, vui buồn, hạnh phúc đau khổ luôn có nhau chia sẽ.

Lạ chưa vẫn ở bên em,
mà anh cứ nhớ cứ thèm gần hơn.
Cứ lo em giận em hờn,
mãi mê anh để cô đơn em buồn.
Cớ chi chắp được đôi hồn,
như chim đôi cánh lượn hôn mây trời.
Cớ chi đi suốt đường đời,
như hình với bóng sóng đôi tháng ngày.
Em cười anh cũng vui lây.
Em đau anh lại lệ cay xót thầm.
Qua bao xao động thăng trầm,
tâm ca đựơc mấy tri âm không lời.
Tình yêu là thế em ơi.
Hai người mà hoá một người trăm năm.

Tình yêu thật đẹp và thật kỳ diệu. Vì thế, quyết định sống chung với một người suốt đời là rất quan trọng.Quyết định mà không hiểu biết đó là liều lĩnh và mù quáng sẽ dẫn tới bất hạnh.Sự hiểu biết về mình và đối tượng mình chọn lựa luôn cần thời gian dài khá dài tìm hiểu,thử thách và đo lường.

Thời gian chính là thước đo tình yêu.Chân thật hay giả dối,thuỷ chung hay hời hợt chóng qua,thời gian sẽ xác định cho một tình yêu. Bởi vậy ông bà ta khôn ngoan khuyên con cháu cần phải có thời gian dài để tìm hiểu kỹ lưỡng rồi mới tiến tới hôn nhân.

Con người được sinh ra từ tình yêu, lớn lên trong thời gian rồi trở về với cội nguồn tình yêu.Trong kinh điển An giáo có lời chép: “Tất cả mọi hữu thể đều do tình yêu mà sinh ra, tất cả mọi hữu thể một khi đã sinh ra đựoc sống nhờ tình yêu nâng đỡ, tất cả mọi hữu thể khi chết đều trở về trong tình yêu” ( Taittirya Upanisad III,6).

2. Nét đẹp của phụ nữ

Thời gian yêu nhau là thời gian đẹp nhất.Có nhiều yếu tố dệt nên tình yêu hạnh phúc. Phẩm chất đẹp nhất nơi người phụ nữ là dịu dàng, hiền thục. Phẩm chất đẹp nhất nơi người đàn ông đó là quãng đại, bao dung.Phẩm chất tốt đẹp ấy được kết tinh trong quãng đời sống với cha mẹ, được giáo dục trong gia đình đạo hạnh.

Ca dao khuyên con gái :
Chim khôn làm tổ lựa cành
Gái khôn tìm chốn trai lành gởi thân.

Và khuyên con trai:
Làm trai lấy được vợ hiền
Như cầm đồng tiền mua được của ngon.

Người vợ hiền thục được Thánh Kinh ca tụng.Sách Huấn Ca viết : Phúc thay ai cưới được vợ hiền. Vợ đảm đang làm cho chồng vui sướng. Vợ hiền là tốt số vận may dành cho ai biết kính sợ Chúa. Phúc thay ai cưới được vợ hiền, tuổi thọ người ấy sẽ tăng lên gấp đôi.Có người vợ hiền trong gia đình thì cửa nhà ngăn nắp. Người vợ hiền đẹp như vầng hồng trên chốn cao xanh của Đức Chúa. (Hc 26,16-18).
Cha mẹ hiền lành là điều hạnh phúc cho con cái.

Chẳng tham nhà ngói ba toà
Tham vì một nổi mẹ cha anh hiền

Hay là:
Kiếm nơi cha thảo mẹ hiền
Gởi thân khua sớm bạc tiền chẳng tham.

Sự hiền lành,dễ thương dễ mến chính là nhân đức căn bản giúp người chồng, người vợ sống quãng đại, xây đắp tổ ấm gia đình. Chúa Giêsu mời gọi hãy học với Ngài : Hãy học cùng Thầy vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Hiền lành và khiêm nhường là nền tảng của sự thánh thiện. Đó là con đường nên thánh của người Kitô hữu.

Nhân đức được rèn luyện qua dòng thời gian. Phẩm hạnh đựoc kết tinh qua năm tháng được giáo dục. Con đường nên hoàn thiện cho mỗi người trải dài suốt dòng đời.

Có câu chuyện huyền thoại kể rằng: Một hôm Thiền Sư già kia, nói với đệ tử của mình rằng: “Này anh bạn, ta có một điều tệ nhất là: ta không hiểu biết gì về người phụ nữ cả. Hãy nói cho ta biết phụ nữ là gì đi ?”

Người học trò mỉm cười nói rằng: “Thuở mới sinh ra trái đất, ông thợ Tạo Hóa chỉ dựng nên có một mình ông Ađam, ông lang thang một mình trong vườn địa đàng mênh mông rộng lớn, trong khi các loài vật khác đều có cặp có đôi quấn quýt bên nhau. Thấy ông cô đơn hiu quạnh, thơ thẩn đi vào đi ra. Tạo Hóa thấy thế mà thương, bèn nghĩ rằng: mình phải tạo dựng cho Ađam một người bạn đường thôi, để nó sống một mình cũng không tốt. Lúc ấy Tạo Hóa mới nhớ ra rằng: lúc trước mình tạo dựng muôn vật từ hư vô, nay mọi sự đã trở nên hiện hữu, sao mình không lấy chính cái hiện hữu để tạo thêm một vật nữa nhỉ ?

Trong lúc nan giải, Tạo Hóa suy nghĩ một hồi lâu, rồi quyết định rằng sẽ tập trung tất cả vạn vật lại lấy mỗi thứ một tí để chế tạo ra người phụ nữ. Và Tạo Hóa đã lấy vẻ đầy đặn của mặt trăng tròn 16, đường cong của các loại dây leo, dáng run rẩy của hoa cỏ, nét mảnh khảnh của lau sậy, màu sắc rực rở trên cánh bướm, sự nhẹ nhàng của chiếc lá, sự tinh tế ở đầu vòi voi, cái nhìn ngây thơ của nai tơ, cái xúm xít của đàn ong mật, ánh sáng rực rỡ của mặt trời, nét xa xăm của tầng mây, sự lay động của làn gió, sự lộng lẫy kiêu sa của chim công, chất cứng rắn của kim cương, vị ngọt ngào của trái chín, lòng tàn nhẫn của hùm beo, sức thiêu đốt của ngọn lửa, khí lạnh lẽo của băng tuyết, tiếng kêu khắc khoải của chim quyên, tính nết dối trá của cò vạc v.v…, nói chung, tất cả mọi thứ, mỗi thứ một tí.

Tạo Hóa đem hết thảy những thứ đó, nhào nặn với khúc xương sườn của Ađam để tạo thành người phụ nữ (người phụ nữ phức tạp, với đầy đủ mọi sắc thái, mọi tinh chất của vũ trụ; nên không thiếu một thứ gì mà không có trong con người phụ nữ ấy) rồi tặng cho Ađam”.

Người học trò vừa kể đến đây, chưa kịp đưa ra câu kết, thì ông thầy già liền vội vàng ngăn lại: “Đừng nói gì thêm nữa… điều tệ nhất của ta đã hết hạn!”.

Vâng, người phụ nữ với đầy đủ mọi sắc thái, cá tính, không thiếu một tính chất gì của vũ trụ như thế; nên đã làm cho biết bao nhiêu người trong giới đàn ông, không biết phải đối xử thế nào cho phải, hay suốt đời đàn ông cứ phải chiều phụ nữ ăn đi ăn lại quả trái cấm… Mình nói như thế không biết có quá đáng không nhỉ ?

Nhân loại ngày nay đang biến chuyển nhiều, đang từ từ trả lại cho phụ nữ chỗ đứng và phẩm giá của mình. Mặc khải trong Kinh Thánh cũng đã phần nào soi sáng chúng ta về quá trình biến chuyển trên. Là “Ađam mới”, là “Trưởng Tử trong mọi loài thọ sinh”, Chúa Giêsu qui tụ mọi người lại thành một khối, đàn ông cùng với đàn bà, vượt lên trên mọi ranh giới mà xã hội loài người đã dựng lên trước đó.

Nhờ vậy, con người dù là nam hay nữ hằng ngày khám phá rằng mình nằm trong một mạng lưới gồm vô số tương quan với thế giới xung quanh, trong đó có Thiên Chúa và có anh em. Trong mạng lưới ấy, mỗi người, nam hay nữ, đều góp phần của mình. Bước thăng tiến này của nhân loại là do Đức Kitô dẫn đầu và điều khiển, vì Người là “Anpha và Ômêga”. Nhờ vậy, “không còn chuyện Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà, nhưng tất cả chỉ là một, trong Đức Kitô” ( Gl 3, 28 )

Trong đời sống thiêng liêng của người Kitô hữu, Đức Maria là người phụ nữ tuyệt vời hơn mọi người phụ nữ: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,42). Đức Maria là gương mẫu của mọi người phụ nữ, nét đẹp từ trong tâm hồn, lời nói và đời sống của Mẹ nâng cao phẩm giá giới phụ nữ.

Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Mẹ, Mẹ có Phúc hơn mọi người phụ nữ. Mẹ là Nữ Hoàng của mọi người phụ nữ…Người Phụ Nữ được Thiên Chúa ưu ái đặc tuyển của muôn đời đã từng rất thương đau, nhưng cuối cùng vẫn uy hùng bước vào vinh quang như đạo binh xếp hàng vào trận. Dòng dõi của Người Nữ Diễm Phúc luôn mãi ngời sáng giữa lòng nhân loại hôm nay.

3. Sống để yêu và yêu để sống

Thiên Chúa là tình yêu và là thời gian. Sống giữa cuộc đời để yêu thương nhau. Đó là hồng ân diệu vợi mà Thiên Chúa ban tặng cho mỗi con người. Thánh Gioan đã khẳng định điều đó khi viết: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa” ( 1Ga 4,8).

Sống để yêu và yêu để sống. Tình yêu cho cuộc sống màu xanh. Thời gian luôn đong đầy hạnh phúc. Vì thế phải yêu cho thật tình đừng dối gian nhau. Yêu cho thật nhiều không hề toan tính. Chúa Giêsu đã tha thiết kêu mời: Hãy yêu nhau “Như Thầy đã yêu anh em” (Ga 15,12).Chúa đã yêu bằng hành động cụ thể là hy sinh cho người mình yêu. Khi yêu nhau, người ta có thể hy sinh cho nhau thời giờ, tiền bạc, sức khỏe, công việc…Hy sinh cao cả nhất là hy sinh mạng sống “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Chúa đã thực thi sự hy sinh cao độ ấy “ Đức Kitô đã chết vì chúng ta” ( Rm 5,6; Ep 5,2; 1Ga 3,16), để chúng ta yêu thương “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta phải thương yêu nhau” (1 Ga 4,19), nhờ đó mà “niềm vui được nên trọn vẹn” (Ga 15,9). Tình yêu thật vĩ đại cho những ai sống theo gương Chúa Giêsu trong hành trình cuộc đời mình.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Những vần thơ vui nhân ngày 8.3 (sưu tầm)

1. Phân bua:
Hôm nay mồng tám tháng ba.
Giá hoa thì đắt, giá quà thì cao
Tiền lương tiêu hết hồi nào
Thù lao, tiền thưởng chẳng trao lễ này…
Ai đem quà cáp kềnh càng
Riêng tôi dâng tặng cho nàng thơ thôi
Hoa hồng mấy bữa héo rồi
Còn thơ, thơ tuyệt vời là thơ

2. Tự trào
Là đàn ông tức là mê rửa chén
Mơ lau nhà và háo hức lau xe
Làm đàn ông là tựa cửa đợi vợ về
Nhanh nhảu chạy ra đỡ làn, đỡ nón
Dịu dàng bằng cánh tay năm ngón
Hỏi nàng xem có uống nước không?
Rồi bưng lên trên khay nhỏ màu hồng
Nước giải khát, khăn lau tay, xí muội…

3. Khổ sở
Hôm nay mồng tám tháng ba
Đàn ông xách gói chạy ra chạy vào
Mua hoa mua quà ào ào
Tiền đâu trong túi cứ nhào nhào ra
Hôm sau mồng chín tháng ba
Lục lọi trong túi tiền đâu mất rồi
Mì tôm cả tháng đến hồi
Cố nhai cố nuốt xong rồi tháng ba.

4. Đùa tí
Hôm nay mồng tám tháng ba
Chị em phấn khởi đi ra đi vào
Đàn ông kính cẩn cúi chào
Chị em phấn khởi đi vào đi ra…
Hôm sau mồng chín tháng ba
Chị em tưởng bở đi ra đi vào
Đàn ông hổng có cúi chào
Chị em tiu nghỉu hết vào lại ra…

Chúc quý chị em tận hưởng ngày 8-3 thật vui vẻ trong sự quan tâm săn sóc nhiệt tình của các đấng mày râu!

“Biển nhớ tên em gọi về…”

“Biển nhớ tên em gọi về…”

Lm. VĨNH SANG, DCCT

Chuacuuthe.com

bn

VRNs(10.03.2014) – Sài Gòn-  Vào Mùa Chay, Hội Thánh giới thiệu với chúng ta những gương mặt, qua đó, tình thương và quyền năng của Chúa được biểu lộ một cách rõ rệt trong cuộc đời của họ. Một trong những gương mặt tiêu biểu đó, chính là Môsê.

Bài đọc thứ nhất trong Kinh Sách ngày thứ sáu sau Lễ Tro đã bắt đầu giới thiệu gương mặt này. Môsê được nói đến trong sách Xuất Hành. Ông sinh ra trong một hoàn cảnh nghiệt ngã, Pharaô đã ra lệnh giết chết tất cả các bé trai Do Thái khi chào đời, mẹ ông lén lút nuôi ông, nhưng không thể kéo dài lâu được nữa, bèn bỏ con mình vào một cái giỏ thả trôi sông, xuôi theo giòng nước, nơi có công chúa của Ai Cập đang tắm. Cô chị khôn ngoan của em bé vẫn lần mò theo dõi cái giỏ đang lững lờ trôi trên sông. Công chúa Ai Cập đã vớt được cái giỏ có chú bé nằm trong đó, nàng nhận bé làm con nuôi, qua trung gian của chị bé, công chúa nhờ chính mẹ bé cho bé bú với tư cách là người vú nuôi. Tên Môsê của em bé có ý nghĩa là được vớt từ nước lên ( Xh 2, 1 – 10 ).

Câu 11 – 13, chương 2, sách Xuất Hành kể lại rằng: Môsê lớn lên trong triều đình của người Ai Cập, nhưng lòng ông vẫn nhớ và hướng về đồng bào ruột thịt của mình đang chịu cảnh nô lệ khổ đau, chính giòng sữa mà mẹ ông cho ông bú đã nuôi tâm hồn ông vẫn mãi là người Do Thái chứ không phải là người Ai Cập. Kình Thánh nói vỏn vẹn một câu: “Ông ra ngoài thăm anh em đồng bào và thấy những việc khổ sai họ phải làm” ( c. 11 ), chỉ một câu ấy thôi đủ để diễn tả lòng ông Môsê. Ra ngoài, ông ra khỏi chăn êm nệm ấm, ra ngoài, ông ra khỏi sự phú quí giàu sang, ra ngoài, ông ra khỏi quyền cao chức trọng, ra ngoài, ông ra khỏi những đặc ân đặc lợi.

Xướng đáp Kinh Sách còn nhận định như sau: “Nhờ Đức Tin, ông Môsê khi lớn lên đã từ chối không chịu cho người ta gọi là con của con gái vua Pharaô; ông thà chịu ngược đãi cùng với dân Thiên Chúa còn hơn được hưởng cái sung sướng chóng qua“. Môsê đã chọn lập trường khổ chung cái khổ của dân, đau chung cái đau của dân, chia sẻ nỗi đằng cay với dân của mình nhờ đức tin, cho dù ông đang đầy đủ điều kiện sống trong bình an, sung sướng. Ông không cần tìm, không cần thỏa hiệp, không cần chạy theo tâng bốc kẻ quyền thế, không cần vào hùa chà đạp người khác, ông vẫn có đầy đủ điều kiện để sống giàu sang phú quí.

Nhớ cách đây không lâu, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chia sẻ với mọi người về sứ mạng mục tử của ngài là: “mang lấy mùi chiên”. Chắc chắn mùi chiên không lấy gì là thơm tho, vì hiện nay rất nhiều chiên bị đọa đày, bị đau khổ, bị hành hạ, bị loại trừ, bị đàn áp. Chẳng có chiên nào bị đọa đày, bị đau khổ, bị hành hạ, bị loại trừ, bị đàn áp mà lại thơm tho cả, chúng mang đầy thương tích, thân mình bị ứa máu, lở loét, lấm lem và dơ bẩn. Nhưng mang lấy mùi chiên cũng là mang lấy mùi của Con Chiên Thiên Chúa, Con Chiên của vinh quang, chiến thắng sự dữ, đem lại sự sống đời dời, Con Chiên thơm mùi cây gỗ hồng phúc, Con Chiên thơm mùi máu cứu độ, Con Chiên thơm mùi bánh trường sinh. Bánh trường sinh, máu cứu độ, gỗ hồng phúc từ thân mình đầy những vết thương.

Ông Môsê không thể nào quên mình từ đâu tới, mình ở đâu ra, nơi nào là cội nguồn của mình, ông không thể nào quên mà quay lưng với anh em cốt nhục của mình. Tiếng sóng của giòng sông vẫn vang dội trong ông, trong hồn ông, nhắc ông quay về với đất nước, với dân tộc, với lòng tin, với cội nguồn. Nhắc ông chấp nhận sự chịu ngược đãi để được đồng hành với cội nguồn của ông. Chính ý thức này đưa ông tới sứ mạng mà Chúa sẽ chọn ông.

Có tiếng sóng biển của cội nguồn nào thức tỉnh những ai đang tìm thỏa hiệp, đon đả quỵ luỵ, và cấu kết với sự dữ không nhỉ ?

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

Lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong Un được bầu làm đại biểu Quốc hội với 100% phiếu thuận

Lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong Un được bầu làm đại biểu Quốc hội với 100% phiếu thuận.

Lãnh đạo Bắc Triều Tiên  Kim Jong Un  bỏ phiếu trong cuộc bầu đại biểu quốc hội  ngày 09/03/2014

Lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong Un bỏ phiếu trong cuộc bầu đại biểu quốc hội ngày 09/03/2014

REUTERS/KCNA

Đức Tâm

RFI

Một tỷ lệ phiếu thuận chỉ có thể tồn tại trong một chế độ độc tài, độc đảng lãnh đạo và Quốc hội là bù nhìn. Tại Bắc Triều Tiên, mọi công dân đến tuổi đi bầu cử phải đăng ký và phải đi bỏ phiếu.

Theo kết quả cuộc bầu cử Quốc hội được tổ chức ngày hôm qua, 09/03/2014, được hãng thông tấn chính thức Bắc Triều Tiên KCNA đưa tin, lãnh đạo Kim Jong Un đã được bầu làm đại biểu Quốc hội với 100% số phiếu bầu, không có phiếu trắng hoặc bất hợp lệ.

Vẫn theo hãng tin này thì cuộc bầu cử « thể hiện sự ủng hộ tuyệt đối, lòng tin sâu sắc đối với lãnh đạo tối cao Kim Jong Un ».

Đây là cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên, kể từ khi Kim Jong Un lên nắm quyền lãnh đạo Bắc Triều Tiên, vào năm 2011.

Cũng giống như người cha, Kim Jong Un ra ứng cử tại đơn vị bầu cử số 111, ở Núi Trường Bạch (Mont Paektu). Vô tuyến truyền hình Bắc Triều Tiên chiếu cảnh hàng trăm binh sĩ đứng xếp hàng chờ bỏ phiếu, sau đó, đến nghiêng mình trước trước chân dung Kim Nhật Thành và Kim Jong Il, ông nội và người cha của lãnh đạo Kim Jong Un.

Núi Trường Bạch nằm sát vùng biên giới chung với Trung Quốc được coi là thiêng liêng đối với người dân Bắc Triều Tiên, vì Kim Nhật Thành lập căn cứ kháng chiến chống Nhật tại đây và theo sử sách Bắc Triều Tiên, thì Kim Jong Il cũng sinh ra tại nơi này vào năm 1942.

Ngày hôm nay, KCNA ca ngợi Kim Jong Un xứng đáng là người kế tục Kim Nhật Thành và Kim Jong Il.

Nhiệm kỳ của đại biểu Quốc hội Bắc Triều Tiên là 5 năm và mỗi năm chỉ nhóm họp một hoặc hai lần với hoạt động chính là thông qua ngân sách và các quyết định mà đảng Lao Động Triều Tiên, đảng cầm quyền, đưa ra.

Khóa họp gần đây nhất của Quốc hội Bắc Triều Tiên là vào tháng Tư năm 2013 và đã thông qua một nghị định đặc biệt chính thức hóa quy chế cường quốc hạt nhân của Bắc Triều Tiên.

 

VÀO HOANG ĐỊA

VÀO HOANG ĐỊA

TGM Ngô Quang Kiệt

Ai yêu bóng đá đều say mê theo dõi những trận đấu đỉnh cao giữa các đội ngoại hạng Anh, hoặc giữa các đội tranh Cúp C1.  Ta say mê vì các cầu thủ siêu hạng phô diễn kỹ thuật cá nhân điêu luyện, các đội bóng di chuyển chiến thuật kỳ ảo, các bài bản tinh vi của các huấn luyện viên bậc thầy, các pha phối hợp đẹp mắt giữa các cầu thủ.  Không phải tự nhiên mà các cầu thủ chơi bóng giỏi đến mức độ nghệ thuật như thế.  Họ phải mất nhiều thời gian tập luyện. Tập luyện để đạt được kỹ thuật cá nhân điêu luyện.  Tập luyện để có thể lực dẻo dai.  Tập luyện để có những xử lý thông minh theo tình huống. Tập luyện để hiểu nhau tiến đến những pha phối hợp nhịp nhàng ăn ý.  Những buổi tập rất nghiêm ngặt, đòi hỏi cầu thủ phải có quyết tâm cao, có tinh thần kỷ luật nghiêm túc.  Ai không chịu nổi các bài tập khó, sẽ bỏ cuộc.  Ai vượt qua được những buổi tập nghiêm túc sẽ trở thành những cầu thủ giỏi.

Đời sống tâm linh là một cuộc chiến đấu.  Chiến đấu với ba thù: ma quỷ, xác thịt, thế gian.  Để có đủ khả năng chiến đấu, ta phải được rèn luyện, phải trải qua những thử thách.  Đức Giêsu, sau khi chịu phép rửa, được Thánh Thần đưa vào hoang địa để chịu thử thách.

Hoang địa là nơi hoang vu không nhà không cửa, không người thân, không cây cối, tức là không có một tiện nghi tối thiểu nào, không có một nguồn trợ lực nào. Chỉ có cát đá, thú dữ, ma quỷ, tức là chỉ có những khó khăn thách đố bắt ta phải chiến đấu, phải đương đầu.

Cuộc chiến đấu thứ nhất mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến đấu với thiên nhiên.

Người sống trong hoang địa phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt.  Tại các sa mạc cát phủ, đêm thì lạnh thấu xương, ngày thì nóng như thiêu.  Hầu như không có thực phẩm.  Người sống trong hoang địa phải chịu đói, chịu khát, chịu cái nóng nung người, chịu cái lạnh cắt da, chịu tất cả mọi thiếu thốn của đời sống thường ngày.  Xưa, dân Do Thái được Chúa đưa vào nơi hoang địa để huấn luyện trước khi đưa họ vào Đất Hứa.  Trong hoang địa, người Do Thái không chịu nổi những thiếu thốn, nên đã nhiều lần nổi loạn chống lại Chúa, chống lại ông Môsê, muốn quay trở lại làm nô lệ bên Ai cập để được ăn no ngủ kỹ.  Trái lại, tổ phụ Abraham đã chấp nhận vượt qua hoang địa, nên đã tới Đất Hứa, tiên tri Êlia đã vượt qua hoang địa 40 đêm ngày, nên đã đi đến núi của Thiên Chúa.  Và hôm nay, Đức Giêsu đã thắng được cái lạnh, cái nóng và nhất là đã thắng được cái đói cái khát, đã hoàn toàn làm chủ được bản thân trước những nhu cầu của thân xác.

Cuộc chiến đấu thứ hai mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến đấu chống lại ma quỷ.

Thiên Chúa cho phép ma quỷ thử thách con người.  Từ tạo thiên lập địa, hai ông bà nguyên tổ đã bị ma quỷ cám dỗ và đã thua cuộc.  Ông thánh Gióp cũng đã bị ma quỷ thử thách, mất hết tài sản, mất hết con cái, mất hết danh dự.  Nhờ kiên quyết trung thành với Chúa đến cùng, ông đã thắng được ma quỷ.  Đức Giêsu đã thắng vượt mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới nhờ Người vững lòng tin ở Thiên Chúa.  Những cơn cám dỗ của ma quỷ thường là cám dỗ về đức tin.  Adong và Evà không vững lòng tin nên đã sa ngã.  Ông thánh Gióp vững lòng tin nên luôn đứng vững qua mọi thử thách.  Đức Giêsu luôn vững niềm tin vào Chúa Cha, nên đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ thâm độc nhất của ma quỷ.

Cuộc chiến đấu thứ ba mà Đức Giêsu đã trải qua là cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để tìm thánh ý Chúa Cha.

Hai ông bà nguyên tổ đã tìm ý riêng hơn ý Chúa, nên đã đi trệch đường.  Đức Giêsu luôn tìm thánh ý Chúa Cha, nên Người đã từ bỏ con đường rộng để đi vào con đường hẹp, từ bỏ con đường dễ để đi vào con đường nghèo hèn, từ bỏ con đường riêng tư để đi vào con đường Chúa Cha đã định.  Nên Người đã toàn thắng trong cuộc chiến đấu.

Hoang địa không phải chỉ là nơi thử thách.  Hoang địa còn là nơi gặp gỡ Chúa.  Sau khi đã thắng vượt tất cả các cuộc thử thách, ta sẽ gặp được Chúa, sẽ sống thân tình với Chúa và sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa.  Ông Môsê, sau 40 đêm ngày ở trên núi Sinai, đã trở nên bạn nghĩa thiết của Chúa.  Mặt ông trở nên sáng láng đến nỗi dân Do Thái không dám nhìn thẳng vào.  Tiên tri Êlia, sau khi đi 40 đêm ngày, đã tới núi của Chúa và đã gặp được Chúa.  Đức Giêsu đã gặp gỡ Chúa Cha, đã tìm được ý Chúa Cha và đã kết hiệp mật thiết với Chúa Cha đến độ từ nay Người trọn vẹn thuộc về Chúa Cha.  Thánh ý Chúa Cha đã trở thành kim chỉ nam hướng dẫn đời Người.  Thi hành thánh ý Chúa Cha trở thành lương thực nuôi dưỡng Người.  Người sẽ hy sinh tất cả, kể cả mạng sống để cho thánh ý Chúa Cha được nên trọn.  Chính vì thế mà Người đã được gọi là “Con yêu dấu” của Chúa Cha.

Trong Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi ta hãy vào hoang địa với Đức Giêsu để chịu thử thách, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên cường.  Ta không có điều kiện để vào nơi hoang vắng, nhưng ta vẫn có thể vào hoang địa của cuộc đời.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, thiếu thốn trong đời sống, dù đói nghèo vẫn giữ được tâm hồn tự do, không chịu nô lệ vật chất.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là kiên cường chống trả mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới, luôn vững niềm tin vào Chúa dù gặp những khó khăn thử thách.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là từ bỏ những ý riêng để luôn tìm thánh ý Chúa, sẵn sàng thực hành thánh ý Chúa, dù có phải đau đớn, thiệt thòi.

Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là giữ tâm hồn bình an thanh thản để gặp gỡ Chúa, tiếp xúc thân mật với Chúa, hoàn toàn thuộc về Chúa để trở nên “Con yêu dấu” của Chúa.

Nếu ta chuyên tâm rèn luyện trong suốt mùa Chay, tâm hồn ta sẽ trở nên vững mạnh chống lại được những cám dỗ ma quỷ đưa tới; nhanh nhẹn dấn thân vào những việc đạo đức không ngại khó khăn vất vả; quen từ bỏ ý riêng để tuân theo ý Chúa và sẽ trở nên Con hiếu thảo của Chúa.

TGM Ngô Quang Kiệt

From: langthangchieutim & anh chị Thụ Mai gởi

 

BƯỚC VÀO MÙA TẬP LUYỆN CHIẾN ĐẤU THIÊNG LIÊNG

BƯỚC VÀO MÙA TẬP LUYỆN CHIẾN ĐẤU THIÊNG LIÊNG

Suy niệm Thứ Tư Lễ Tro

(Mt 6, 1-6; 16-18)

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Lễ Tro, khai mạc Mùa Chay Thánh, bằng nghi thức làm phép tro và mỗi người nhận tro trên đầu, cùng lúc đó sẽ nghe được một trong hai câu Lời Chúa : Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng, hoặc : Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi (SLRM).

Mỗi khi Mùa Chay về, chúng ta nghe văng vẳng bên tai lời Chúa mời gọi: “Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van” (Joel 2,12).

Như thế, hai ý tưởng trong Mùa Chay Thánh luôn song hành với nhau, thứ nhất : chúng ta là những con người yếu đuối, tội lỗi; thứ hai : Thiên Chúa là Người Cha giàu lòng thương xót, Ngài luôn yêu thương chúng ta, Ngài sẵn sàng tha thứ và ban cho chúng ta sức mạnh với tình thương. Vì yếu đuối nên cần đến ơn Chúa, vì tội lỗi nên muốn được Chúa thứ tha, nhưng để lãnh nhận được ơn tha thứ thì cẩn phải trở về với Thiên Chúa trong cầu nguyện, trong chay tịnh và nước mắt, hướng tới tha nhân. Đó là ba việc phải làm trong Mùa Chay Thánh.

Ăn chay

Cầu nguyện

Và bố thí

Là ba việc cần phải làm trong Mùa Chay, vì nó diễn tả ba chiều kích, ba mối tương quan giữa đương sự với Thiên Chúa và với anh em. Tương quan với Thiên Chúa là cầu nguyện, với tha nhân là bố thí và với chính mình là ăn chay. Ba tương quan này đồng hành với nhau và thể hiện cùng một lúc trong đời sống thường nhật của người kitô hữu.

Để ba tương quan này gắn kết với nhau, điều kiện đã được Chúa Giêsu nói rõ đó là : nội tâm. Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay xuất phát từ sâu thẳm của tâm hồn hướng lên Thiên Chúa và hướng đến anh em, chứ không phải là hình thức bên ngoài. Vì thế, ăn chay, cầu nguyện cũng như bố thì là những việc được làm vì đẹp lòng Chúa, chứ không phải cho người ta thấy.

Trước hết phải khiêm nhường

Ăn chay, tiếng La tinh là jejunium, nghĩa là : ” tự nhịn bất kỳ thức ăn nào”. Khi nhịn chay, con người nhận ra mình lệ thuộc vào Thiên Chúa, “hạ mình”  trước mặt Chúa, vì cảm thấy mình mỏng giòn, yếu đuối  như tác giả Thánh vịnh nói : ” Phần tôi, những ngày chúng đau yếu, tôi đã từng khoác áo nhặm vào thân, lại ăn chay để hãm mình phạt xác, lòng tôi ấp ủ câu kinh lời nguyện” ( Tv 34, 13).

Khiêm nhường khi ăn chay còn để Chúa thấy rằng chúng ta chẳng là gì nếu không có Chúa và thiết tha kêu cầu Chúa : ” Bấy giờ tất cả con cái Ít-ra-en và toàn dân đã lên Bết Ên; họ ngồi khóc tại đây trước nhan Ðức Chúa. Hôm ấy họ ăn chay cho đến chiều. Rồi họ dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an lên trước nhan Ðức Chúa ” (x. Tl 20, 26) ; ” Vua Ða-vít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất ; Vua trả lời: “Bao lâu đứa bé còn sống, ta ăn chay và khóc lóc vì ta tự bảo: “Biết đâu Ðức Chúa sẽ thương xót ta và đứa bé sẽ sống! ” (2 S 12, 16.22), nhất là nhận biết mình là tội lỗi, là hư vô và cầu xin ơn Chúa tha : ” Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van”. (Dn 9, 3).  Việc giữ chay thể xác chỉ có ý nghĩa khi nhịn ăn đi kèm với việc trách xa tội lỗi : ” Chúng nói: “Chúng tôi ăn chay, sao Ngài không thấy, chúng tôi hãm mình, sao Ngài chẳng hay?”… Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Ðức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc,trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? ” (x. Is 58, 1-12), nếu không nó chỉ là phô trương.

Đừng phô trương

Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo : “Các người hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để cho thiên hạ trông thấy…khi các người bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng… Các ngươi có bố thì, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc ngươi bố thí được giữ kín. Và Cha ngươi, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho người ” (Mt 6, 1-6).

Trong Kinh Thánh, Chúa tố cáo mạnh nhất cái vẻ bề ngoài, hay là giả hình. Vi khi giả hình, con người giáng cấp Thiên Chúa, họ đặt Ngài xuống hàng thứ hai, đặt tạo vật, công chúng lên chỗ nhất: “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thí thấy tận đáy lòng” (1 Sm 16, 7). Trau dồi dáng vẻ bên ngoài của chúng ta hơn tâm hồn chúng ta có nghĩa là coi người phàm trọng hơn Thiên Chúa.

Như vậy, vẻ bề ngoài hay sự giả hình tự bản chất là một sự thiếu đức tin: nhưng đó cũng là một sự thiếu đức bác ái đối với tha nhân theo nghĩa nó có xu hướng qui những con người thành những kẻ say mê. Sự giả hình không công nhận phẩm giá thích đáng của họ, nhưng thấy họ tùy thuộc hình ảnh của chính mình. Thiếu đức tin và thiếu đức bác ái, việc làm sẽ trở nên vô ích, nên không có được công phúc gì.

Sống cậy trông vào Chúa

Sai lầm lớn nhất của nền văn hóa hiện nay là tin rằng con người có thể có hạnh phúc mà không cần Thiên Chúa. Như thế khi loại bỏ điều sâu thẳm trong con người, người ta chối bỏ điều liên kết con người với Thiên Chúa là Đấng ban sự sống … theo Đức Thánh Cha Phanxicô, đó là một tội ác, vì tước mất của người nghèo sự hiện diện của Thiên Chúa, mà cũng vì xem rằng con người có thể sống như thể không có Thiên Chúa, phủ nhận chiều kích thụ tạo và sự lệ thuộc của con người vào Thiên Chúa, không cậy dựa vào Chúa (x. Sứ điệp Mùa Chay 2014).

Người nghèo bị tước mất Thiên Chúa, và người giầu không cần đến Thiên Chúa, cả hai hạng người này đều được Giáo hội quan tâm. Giáo hội nhìn đến những ai đang thiếu thốn, không chỉ do nỗi khốn khổ về tâm linh, vốn thường ẩn chứa trong lòng mọi người và làm cho họ day dứt, dù họ có nhiều của cải… Khốn khổ vật chất là sống trong điều kiện không xứng với phẩm giá con người. Khốn khổ luân lý là nô lệ cho thói xấu và tội lỗi, có thể dẫn đến khốn khổ vật chất, và luôn đi đến chỗ khốn khổ tâm linh, đó là khi người ta xa rời Thiên Chúa, khước từ tình yêu của Ngài.

Đó là lý do mùa chay năm nay Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi chúng ta suy tư lời của thánh Phaolô : “Thực vậy, anh chị em biết lòng quảng đại của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta: Ngài giàu sang, nhưng đã trở nên nghèo vì anh chị em, để anh chị em trở nên giàu sang nhờ cái nghèo của Ngài ” (2 Cr 8,9). Sự giàu có đích thực của Chúa Giêsu là phận làm Con Thiên Chúa, đã nên người nghèo khó để chúng ta được làm con Thiên Chúa, trở nên giàu có nhờ sự khó nghèo của Ngài. Con người giầu vì được làm con Thiên Chúa theo bản tính. Con Thiên Chúa thấy cái nghèo của chúng ta, nên đã thi hành ý Chúa Cha, hạ mình nhập thể, chịu chết, sống lại để cứu chuộc chúng ta. Chúng ta cũng thế, làm sao để cái nghèo của anh em chạm đến con tim chúng ta, hầu chúng ta có thế giúp người anh em ta đang khao khát ơn cứu độ (x. Sứ điệp Mùa Chay 2014).

Xin Chúa Thánh Thần nâng đỡ những quyết tâm của chúng ta trong suốt hành trình của Mùa Chay Thánh này cho nên. Amen.

Tác giả: Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Phóng viên không biên giới phản đối Việt Nam kết án tù Trương Duy Nhất

Phóng viên không biên giới phản đối Việt Nam kết án tù Trương Duy Nhất

Blogger Trương Duy Nhất bị kết án hai năm tù giam (DR)

Blogger Trương Duy Nhất bị kết án hai năm tù giam (DR)

Đức Tâm

RFI

Trong thông cáo được công bố hôm qua, 04/03/2014, tổ chức Phóng viên không biên giới – RSF – có trụ sở tại Pháp, đã bày tỏ phẫn nộ về việc tòa án Việt Nam tuyên án 2 năm tù đối với blogger Trương Duy Nhất.

Theo Phóng viên không biên giới (RSF), cũng như trường hợp luật sư Lê Quốc Quân vừa bị kết án tù gần đây, ông Trương Duy Nhất đã phải trả giá mất tự do cho việc dấn thân đấu tranh vì quyền được có những thông tin khác, ngoài những tin tức của bộ máy tuyên truyền Nhà nước.

Theo ông Benjamin Ismail, phụ trách văn phòng Châu Á Thái Bình Dương, chính phủ Việt Nam cần chấm dứt thái độ bóp nghẹt các quyền tự do, bịt tai và cái nhìn hạn hẹp.

RFS yêu cầu Việt Nam trả tự do ngay lập tức cho ông Trương Duy Nhất và tất cả các blogger khác, những người bị kết án tù chỉ vì đã hành động vì quyền tự do thông tin tại Việt Nam.

Trong suốt phiên tòa, ông Trương Duy Nhất khẳng định mình vô tội. Thế nhưng, tòa án Đà Nẵng, chiếu theo điều 258 bộ Luật Hình sự, vẫn kết án tù giam đối với ông. Hãng thông tấn AFP không được phép dự phiên tòa.

RSF nhắc lại là Việt Nam hiện đứng thứ 174 trong tổng số 180 quốc gia trong bảng xếp hạng của tổ chức này về quyền tự do báo chí. Việt Nam là nhà tù lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc, đối với các blogger và cư dân mạng.

Cũng nhân dịp này, RSF kêu gọi mọi người tiếp tục ký tên vào bản kiến nghị đòi trả tự do cho 35 blogger đang bị cầm tù tại Việt Nam.

Cũng trong ngày hôm qua, sứ quán Mỹ tại Hà Nội đã ra thông cáo bày tỏ « quan ngại sâu sắc bởi việc tòa án Việt Nam kết án Trương Duy Nhất » và Mỹ kêu gọi « chính phủ Việt Nam trả tự do cho Trương Duy Nhất và các tù nhân lương tâm, đồng thời cho phép người Việt Nam bày tỏ quan điểm chính trị của họ một cách ôn hòa ».

Thông cáo cũng cho biết là « Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Wendy Sherman đã nêu vấn đề nhân quyền với chính phủ Việt Nam trong chuyến thăm đến Hà Nội ngày 04/03/2014 ».

Nhà báo, blogger Trương Duy Nhất, 50 tuổi, chủ trang web truongduynhat.vn, trong thời gian từ 1987-2011 từng làm việc trong hệ thống báo chí chính quyền Việt Nam. Ông bị cơ quan anh ninh bắt ngày 26/05/2013 và bị truy tố vì tội « lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” qui định tại điều 258 – Bộ luật Hình sự ».

Ông Trương Duy Nhất đã bị bắt tại Đà Nẵng ngày 26/05/2013. Công an đã khám xét nhà, thu giữ máy tính, điện thoại di động, thẻ điện thoại và USB của ông. Cho đến ngày 25/02/2014, gia đình mới nhận được bản cáo trạng đề ngày 17/12/2013. Trong một phiên xét xử chóng vánh vào sáng hôm qua, tòa án Đà Nắng đã kết án ông Trương Duy Nhất hai năm tù.

 

Tàu cá Việt lại bị tấn công ở Hoàng Sa

Tàu cá Việt lại bị tấn công ở Hoàng Sa

Thứ năm, 6 tháng 3, 2014

Ông Võ Văn Lựu trên tàu cá bị Trung Quốc tấn công

Báo trong nước cho hay một tàu cá tỉnh Quảng Ngãi với 14 ngư dân bị Trung Quốc tấn công, tịch thu ngư cụ, ở gần quần đảo Hoàng Sa.

Báo An ninh Thủ đô nói đây là tàu cá số hiệu QNg 90479ts của ông Võ Văn Lựu, 48 tuổi, trú tại xã Bình Châu, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi.

Tàu cá này về tới cảng Sa Kỳ hôm 3/3 trong tình trạng “mạn tàu bị hư hỏng do tàu sắt Trung Quốc đâm, toàn bộ ngư cụ như đồ lặn, thiết bị máy dò tín hiệu, máy định vị và gần 5 tấn cá, tôm hùm bị người Trung Quốc tịch thu, tổng trị giá trên 350 triệu đồng”.

Được biết chiếc tàu của ông Lựu ra khơi từ một tháng trước đó để đánh bắt tại vùng biển Hoàng Sa.

Vụ tấn công, theo báo An ninh Thủ đô, xảy ra khoảng 15h ngày 1/3.

Một tàu sắt của Trung Quốc với khoảng trên 35 người, mang theo súng và roi điện đã bao vây, tấn công tàu cá Việt Nam.

Ông Võ Văn Lựu cũng cáo buộc đã bị “đánh đập, dùng roi điện chích vào người gây thương tích”.

Ông được dẫn lời cho biết: “Cùng lúc đó, nhiều đối tượng người Trung Quốc khác dùng hung khí khống chế, dồn tất cả 14 thuyền viên về phía mui tàu, úp mặt xuống mạn tàu”.

Những kẻ tấn công chỉ được nhận dạng là người Trung Quốc, không rõ có thuộc cơ quan tuần ngư hay hải giám hay không.

Từ đầu 2014, được biết đã có bốn vụ tàu của ngư dân Quảng Ngãi bị người Trung Quốc tấn công ở Hoàng Sa.

10 năm Vùng Cảnh sát biển 2

Trong khi đó, Bộ Tư lệnh cảnh sát biển Việt Nam đã tổ chức lễ kỷ niệm 10 năm ngày thành lập Vùng Cảnh sát biển 2 vào ngày thứ Tư 5/3.

Tại lễ kỷ niệm, Vùng Cảnh sát biển 2 thông báo trong 10 năm hoạt động đã tổ chức được 318 đợt với 414 lượt tàu làm nhiệm vụ trên biển và xua đuổi 1.348 lượt tàu nước ngoài vi phạm vùng biển Việt Nam.

Như vậy trung bình mỗi tháng có trên 10 lượt tàu nước ngoài vi phạm vùng biển Việt Nam, trong đó có nhiều tàu Trung Quốc.

Vùng Cảnh sát biển 2 quản lý từ đảo Cồn Cỏ tới Cù Lao Xanh (Bình Định), có trụ sở tại huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam.

Khu vực này được cho là tối quan trọng vì có các vùng biển Trung Quốc cũng nhận là của họ.

Năm 2013, trong chuyến thăm nơi này, Thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh nói “Vùng Cảnh sát biển 2 là vùng có vị trí đặc biệt quan trọng… phải đặt nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ lên hàng đầu, trên cơ sở nhận thức đúng và đủ về chủ quyền lãnh thổ”.

Nhân viên lực lượng cảnh sát biển cũng được khuyến cáo “kiên quyết bảo vệ ngư dân, tuyên truyền, vận động ngư dân bám ngư trường, không từ bỏ ngư trường, tích cực cứu hộ, cứu nạn và Tham gia giữ an toàn hàng hải, coi trọng công tác chống cướp biển”.