Những ‘thiên tài’ bất hiếu

Những ‘thiên tài’ bất hiếu

Nguoi-viet.com


Tạp ghi Huy Phương

Nói về chuyện “bất hiếu” thì trong một bài báo trước đây chúng tôi đã nói chuyện ông cụ thân sinh của ông Hồ Ngọc Nhuận đã nói rằng: “Ðời cha sợ nhất là mất con! Có ba cách mất: một là con theo gánh hát, hai là theo cộng sản, ba là theo Công Giáo!” (Hồi ký – Chương I – trang 8 – XB 2010.) Ông Hồ Ngọc Nhuận không theo gánh hát, cũng không theo đạo Công Giáo, nhưng ông mang tội bất hiếu, quên lời căn dặn của cha mà đi theo cộng sản!

Có một người còn tệ hơn ông Hồ Ngọc Nhuận rất nhiều, về tội bất hiếu là ông nhạc sĩ Phạm Tuyên, tác giả bài hát lừng danh “Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Ðại Thắng!”

Nhạc sĩ Phạm Tuyên. (Hình: Wikipedia.org)

Nhạc sĩ Phạm Tuyên sinh năm 1930 là con thứ chín của học giả Phạm Quỳnh, người đã bị Việt Minh Cộng Sản giết và chôn trong một khu rừng thuộc làng Hiền Sĩ, Thừa Thiên, năm 1945. Phạm Tuyên là người đã sáng tác hàng chục bài hát ca ngợi ông Hồ và đảng Cộng Sản: Từ Làng Sen, Việt Bắc Nhớ Bác Hồ, Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Ðại Thắng, Ðảng Ðã Cho Ta Sáng Mắt Sáng Lòng, Suối Lê Nin,… trong đó, bài hát “Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Ðại Thắng” được đông đảo khán, thính giả thuộc lòng, vì bài hát ngắn, dễ thuộc, lại có điệp khúc lặp đi lặp lại mấy tiếng Việt Nam-Hồ Chí Minh.

Bài hát mà trước đây ông Luật Sư Nguyễn Hữu Liêm ghi lại “Cảm nhận được một dòng điện chạy từ đáy lưng theo xương sống lên trên cổ trên đầu như là khoảnh khắc thức dậy và chuyển mình của năng lực Kundalini,” “khi vừa hết bài quốc ca, mấy chục cô và bà đại biểu từ Pháp đang chạy ùa lên sân khấu, vỗ tay đồng ca bài Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Ðại Thắng. Tôi nhìn qua các thân hữu Việt kiều từ Mỹ, và ngạc nhiên khi thấy hầu hết – kể cả những người mà tôi không ngờ – đang vỗ tay hào hứng la to, Việt Nam-Hồ Chí Minh!”

Bài hát này, bọn tù “cải tạo” chúng tôi cũng đã thuộc lòng, trong suốt thời gian bị giam cầm phải vỗ tay đồm độp hát cả nghìn lần, và rống lên cái điệp khúc “chống đói:” Việt Nam-Hồ Chí Minh!

Phạm Tuyên đúng là một thiên tài, bài hát của ông nổi tiếng đến đỗi sau Tháng Tư, 1975, đứa trẻ nào ở Sài Gòn cũng thuộc và đã được chúng đổi lời thành “Như có Bác Hồ trong nhà thương… Chợ Quán! Vừa bước ra bị xe cán bể đầu…” và một lời khác: “Như có Bác Hồ trong cầu tiêu đậy nắp” hay “Như có Bác Hồ đang ngồi binh xập xám, ngồi kế bên là ông Nguyễn Cao Kỳ… Việt Nam… Hồ Chí Minh ăn gian… ăn gian… Việt Nam… Hồ Chí Minh ăn gian, ăn gian!”

Thân sinh ra ông nhạc sĩ “đại bất hiếu” này là cụ Phạm Quỳnh bút hiệu là Thượng Chi, sinh năm 1892 là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn. Ông là người đi tiên phong trong việc quảng bá chữ quốc ngữ và dùng tiếng Việt – thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp – để viết lý luận, nghiên cứu.

Ông được xem là người chiến đấu bất bạo động cho chủ quyền độc lập, tự trị của Việt Nam, cho việc khôi phục quyền hành của triều đình Huế trên cả ba miền, chống lại sự bảo hộ của Pháp và kiên trì chủ trương chủ nghĩa quốc gia với chính thể quân chủ lập hiến. Năm 1930, Phạm Quỳnh đề xướng thuyết lập hiến, đòi hỏi người Pháp phải thành lập hiến pháp, để quy định rõ ràng quyền căn bản của nhân dân Việt Nam, vua quan Việt Nam và chính quyền bảo hộ.

Ngày 11 Tháng Mười Một, 1932, sau khi Bảo Ðại lên ngôi, ông được triều đình nhà Nguyễn triệu vào Huế tham gia chính quyền, thời gian đầu ông làm việc tại Ngự Tiền Văn Phòng, sau năm 1944 là Thượng Thư Bộ Học (Bộ Trưởng Giáo Dục) và cuối cùng giữ chức vụ Thượng Thư Bộ Lại (Bộ Trưởng Nội Vụ).

Tháng Ba, 1945, Nhật đảo chính Pháp, chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập, ông Phạm Quỳnh về sống ẩn dật ở một biệt thự bên bờ sông đào gần Phủ Cam, Huế.

Khi Việt Minh cướp chính quyền, ông được “gọi đi làm việc” ngày 23 Tháng Tám, 1945 nhưng lại bị đưa vào nhà lao Thừa Phủ, Huế, sau đó bị giết cùng với nguyên Tổng Ðốc Quảng Nam Ngô Ðình Khôi (anh ruột Ngô Ðình Diệm) và Ngô Ðình Huân (con trai của Ngô Ðình Khôi).

Di hài ông được tìm thấy năm 1956 trong khu rừng ở Hiền Sĩ, Thừa Thiên (phía Bắc thành phố Huế 17km), và được cải táng ngày 9 Tháng Hai, 1956 tại Huế, trong khuôn viên chùa Vạn Phước.

Cộng sản thường nói quanh co trong việc giết người, thường đổ tội cho cấp dưới, cho rằng có lệnh cấp tốc chuyển Ngô Ðình Khôi, Phạm Quỳnh và Ngô Ðình Huân ra khỏi Huế để đề phòng những chuyện bất trắc xẩy ra. Nhóm du kích áp tải các ông đến một quãng rừng cách xa Huế (Hiền Sĩ) thì nghe tiếng tàu bay Pháp ầm ì trên đầu, tưởng đâu như tiếng máy bay thả biệt kích, sợ không hoàn thành trách nhiệm áp tải, nên nhóm du kích này đã tự động thủ tiêu cả ba người mà không chờ chỉ thị của cấp trên. Cũng không nghe nói cấp trên lúc bấy giờ là ai.

Các ông Phạm Quỳnh, Ngô Ðình Khôi, Ngô Ðình Huân bị giết như thế nào? “Một người nấp trong bụi cây gần đấy thấy Phạm Quỳnh bị đánh vào đầu bằng xẻng, cuốc rồi mới bị bắn ba phát. Ngô Ðình Khôi không bị đánh chỉ bị bắn ba phát. Ngô Ðình Huân hoảng sợ vùng chạy, bị bắt lại, rồi bị bắn ngay vào đầu. Cả ba bị xô xuống mương rồi vội vàng lấp đất.” Phạm Quỳnh ở dưới cùng, đầu hướng về phía núi, Khôi và Huân nằm đè lên, đầu hướng về phía sông. Khi cải táng, ông Phạm Tuân (con thứ 12 của Phạm Quỳnh, hiện ở Virginia) thấy sọ của thân phụ có một vết nứt ngang như vết cuốc, xẻng đánh mạnh vào, “ba bộ hài cốt nằm chồng chất lên nhau… Hài cốt của thầy tôi rất dễ nhận vì dài và ngay cạnh tôi nhận ra được đôi mắt kính cận.” (phamquynh.wordpress.com/2009/02/18/phụ-lục)

Ông Nguyễn Văn Bồng, một nhân viên cũ của Phạm Quỳnh, cho rằng, “không phải là Việt Minh giết cụ Phạm Quỳnh, mà chính con cháu cụ Nguyễn Hữu Bài đã tìm được cơ hội khử Phạm Quỳnh để trả thù cho cha, về vụ năm ông thượng thư (trong đó có ông Nguyễn Hữu Bài) bị mất chức” khi ông Phạm Quỳnh được trọng dụng.

Nhưng chúng ta cũng biết rằng Nguyễn Hữu Bài có mối thâm giao với gia đình ông Ngô Ðình Khả và đã có lúc muốn gả con gái mình cho ông Ngô Ðình Diệm, không lẽ “người nhà” này lại muốn giết luôn cha con ông Ngô Ðình Khôi? Và nếu con cháu của Nguyễn Hữu Bài (không có tài liệu nào nêu tên) giết Phạm Quỳnh thì vì sao Ủy Ban Khởi Nghĩa tỉnh Thừa Thiên lại làm công tố, kể tội trạng của Phạm Quỳnh như là lời kết của một bản án tử như sau: “Phạm Quỳnh, một tay cộng sự của Pháp ở Ðông Dương, đã bao phen làm cho quốc dân phải điêu đứng. Phạm Quỳnh đã giúp sức cho quân cướp nước làm mê muội dân chúng Việt Nam. Với cái nghề mại quốc cầu vinh, Phạm Quỳnh đã từ một tên viết báo nhảy lên một địa vị cao nhất trong hàng quan lại Nam triều. Phạm Quỳnh lại còn dựa vào thế lực Pháp và địa vị của mình bóc lột, vơ vét tài sản của quốc dân. Mặc dầu chính quyền của giặc Pháp đã bị truất sau ngày đảo chính 9 Tháng Ba, 1945, nhiều triệu chứng, chứng tỏ rằng Phạm Quỳnh chỉ chờ cơ hội rước bọn thực dân Pháp đến làm cho diệt nước chúng ta.” (văn bản gửi Tòa Án Quân Sự Thuận Hóa (tức Huế), đăng trên báo Quyết Thắng Tháng Mười Hai, 1945).

Quyết Thắng là cơ quan tuyên truyền và tranh đấu của Việt Minh Trung Bộ, số 11 ra ngày 9 Tháng Mười Hai, 1945, cũng đã loan tin: “Cả ba tên Việt Gian đại bợm (Ngô Ðình Khôi, Phạm Quỳnh, Ngô Ðình Huân) bị bắt ngay trong giờ cướp chính quyền, 2 giờ (chiều) ngày 23 Tháng Tám và đã bị Ủy Ban Khởi Nghĩa kết án tử hình và đã thi hành ngay trong thời kỳ thiết quân luật.”

Hai người con gái của Phạm Quỳnh thì cảm động khi nghe “cụ Hồ” chối tội: “Trong lúc khởi nghĩa, cũng không sao tránh được sự nhầm lẫn. Rất tiếc khi ấy tôi còn đang ở trên Việt Bắc.” Ai chứ “cụ Hồ” thì ta cũng không lạ gì, “cụ” đã từng chấm nước mắt khi nói về cuộc đấu tố, cải cách ruộng đất ở Bắc Việt, sau khi đã xử tử 15,000 nông dân vô tội (Con số của tuần báo Time ngày 1 Tháng Bảy, 1957).

Thời Việt Minh, gia đình hai ông Phạm Quỳnh và Ngô Ðình Khôi có làm đơn khiếu nại lên Ủy Ban Cách Mạng Lâm Thời thì được đổ vấy cho rằng những việc trước đây thuộc thẩm quyền của Ủy Ban Khởi Nghĩa!

Ðể hợp thức hóa việc giết Phạm Quỳnh, bản án của Ủy Ban Khởi Nghĩa tỉnh Thừa Thiên hoàn toàn là một sự vu vạ, trái ngược với gì Phạm Quỳnh đã chủ trương, giết trước, kể tội sau để bào chữa.

Chỉ tiếc là ông mất đi, để lại cho đời một đứa con khá bất hiếu. Cha ông bị chết thảm thương, chôn vùi trong một xó rừng, ông lại cam tâm chuyên viết nhạc nịnh hót ông Hồ và đảng. Có công làm thơ ca tụng “bác” và đảng như Tố Hữu còn leo đến chức phó thủ tướng, còn Phạm Tuyên cũng có những bài nhạc “hết lời” nhưng danh vọng chỉ tới chủ tịch Hội Âm Nhạc Hà Nội, làm ủy viên thường vụ Ban Chấp Hành Hội Nhạc Sĩ Việt Nam từ năm 1963 đến năm 1983, chứ không được là ủy viên Bộ Chính Trị như Tố Hữu (1980). Ðiều đó chắc Phạm Tuyên cũng biết vì gốc gác của ông là con “Việt gian” Phạm Quỳnh chứ không phải ba đời bần cố nông.

Có người biện hộ cho Phạm Tuyên cho rằng “theo thời thì phải thế!” nhưng có phải ai lỡ ở lại miền Bắc với cộng sản cũng “hồ hởi” “phấn khởi” ca tụng Bác và đảng như thế không, nhất là gia tộc ông đang có một mối oan cừu với Việt Minh Cộng Sản.

Người đời thường nói: “Năm ngón tay có ngón ngắn ngón dài,” nay học giả Phạm Quỳnh có tới 13 người con, không may có một đứa con là Phạm Tuyên, thuộc loại “thiên tài… đại bất hiếu!” Người cộng sản hình như chỉ biết đảng mà ít biết đến cha mẹ!

Trong bản nhạc “Ðảng Ðã Cho Ta Sáng Mắt Sáng Lòng!” Phạm Tuyên đã reo vui, ca ngợi: “Ðảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng! Ðảng ta ơi, cám ơn người dạy dỗ.” Chỉ tiếc rằng, thân phụ ông đã chết oan khuất dưới bàn tay của đảng, không biết gia đình này có ngày giỗ cha hay không?

 

Trung Quốc bác tố cáo của Việt Nam tại các diễn đàn quốc tế

Trung Quốc bác tố cáo của Việt Nam tại các diễn đàn quốc tế

Ảnh chụp từ video của tàu Tuần duyên Việt Nam 2016 cho thấy tàu Tuần duyên Trung Quốc 46001 đuổi theo tàu của Việt Nam gần địa điểm giàn khoan 981.

Ảnh chụp từ video của tàu Tuần duyên Việt Nam 2016 cho thấy tàu Tuần duyên Trung Quốc 46001 đuổi theo tàu của Việt Nam gần địa điểm giàn khoan 981.

16.06.2014

Trung Quốc mạnh mẽ bác bỏ trước các diễn đàn quốc tế tất cả các cáo giác về xâm phạm chủ quyền Việt Nam ở Biển Đông khi Bắc Kinh đưa giàn khoan 981 và lực lượng bảo vệ trên biển, trên không vào vùng biển Hà Nội nói thuộc vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam.

Tại Hội nghị Các nước thành viên Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển hôm 14/6 ở New York, trưởng phái đoàn Bắc Kinh nhấn mạnh những tố cáo của Việt Nam là ‘vô căn cứ’ và rằng Bắc Kinh có ‘chủ quyền hoàn toàn’ tại quần đảo Hoàng Sa.

Truyền thông Trung Quốc dẫn phát biểu của Phó đại diện thường trực Trung Quốc tại Liên hiệp quốc, Vương Dân, nói sự dối trá của Việt Nam không thể che dấu được sự thật và việc thổi phồng sự thật không thể hợp pháp hóa cách hành xử bất hợp pháp.

Ông Vương tố cáo ngựợc lại rằng Việt Nam quấy nhiễu hoạt động bình thường của giàn khoan 981 trong vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa cũng như cho phép các cuộc biểu tình bạo động chống Trung Quốc diễn ra nhắm mục tiêu vào công dân, doanh nghiệp Trung Quốc khiến 4 người Trung Quốc thiệt mạng và 300 người khác bị thương.

Đại diện của Trung Quốc cũng phủ nhận sự tranh chấp vì, theo lời ông Vương, trước 1974 Việt Nam đã công khai thừa nhận Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc.

Ông Vương tuyên bố tại diễn đàn này rằng ‘nếu Việt Nam quay ngược lại với chính những tuyên bố của họ thì làm sao thu phục được lòng tin của cộng đồng quốc tế? Không ai có thể tin vào những lời hứa hẹn của Việt Nam.’

Phó đại diện thường trực của Trung Quốc tại Liên hiệp quốc yêu cầu Việt Nam tôn trọng chủ quyền của Trung Quốc và ngừng ngay các hành động ‘gây rối’ để xoa dịu căng thẳng.

Mới tối qua, Trung Quốc một lần nữa bác các tố cáo của Việt Nam trước cộng đồng quốc tế khi đại diện của Bắc Kinh tại thượng đỉnh nhóm G77+Trung Quốc chỉ trích Hà Nội là bên khơi mào căng thẳng Biển Đông.

Trong phiên bế mạc cuộc họp ở Bolivia, đại diện thường trực của Việt Nam ở Liên hiệp quốc, đại sứ Lê Hoài Trung, tố cáo việc Trung Quốc vận hành giàn khoan 981 trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam và gửi tàu chiến tới xua đuổi tàu Việt Nam là xâm phạm chủ quyền Việt Nam.

Ông Trung cũng yêu cầu đưa các cáo giác này vào bản tuyên bố chung cuộc của 2 ngày họp thượng đỉnh. Tuy nhiên, theo Tân Hoa xã, yêu cầu này đã bị các thành viên tham gia cuộc họp khước từ.

Phó Vụ trưởng Vụ các Tổ chức và Hội nghị Quốc tế thuộc Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Lạp Dực Phàm, nói tất cả các chính phủ Việt Nam trước năm 1974 đã chính thức thừa nhận Hoàng Sa là một phần của lãnh thổ Trung Quốc từ ngàn xưa.

Ông Lạp chỉ trích việc đại sứ Việt Nam nêu vấn đề tại thượng đỉnh G77+Trung Quốc là ‘không thích hợp’.

Ông Lạp nói đây là diễn đàn để phát huy hữu nghị-hợp tác giữa các nước đang phát triển, chứ không phải là nơi để khuấy động tranh cãi và yêu cầu các tranh chấp nên được giải quyết song phương với Trung Quốc.

Những tuyên bố của Trung Quốc kịch liệt phản pháo Việt Nam trước công luận quốc tế được đưa ra giữa lúc có tin Việt-Trung chuẩn bị đối thoại cấp cao trong tuần này.

Tờ Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng loan tin Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc phụ trách đối ngoại, ông Dương Khiết Trì, sẽ sang dự phiên họp của Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc diễn ra tại Hà Nội.

Đây là giới chức cấp cao nhất của Trung Quốc tới Việt Nam kể từ khi Bắc Kinh đặt giàn khoan 981 gần Hoàng Sa, làm leo thang căng thẳng đôi bên ở Biển Đông. Việt Nam nói đã nhiều lần đề nghị đối thoại với Trung Quốc để xoa dịu căng thẳng liên quan đến giàn khoan 981, nhưng không được Bắc Kinh hồi đáp.

Chưa thấy Bộ Ngoại giao hai nước thông báo về sự kiện này, nhưng tờ Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng dẫn nguồn tin từ Tiến sĩ Trần Trường Thủy thuộc Học Viện Ngoại giaocủa Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết dịp này ông Dương Khiết Trì sẽ hội đàm với Ngoại trưởng Phạm Bình Minh.

Vẫn theo lời ông Thủy, nội dung chính của cuộc gặp lần này dự kiến sẽ tập trung vào vấn đề Biển Đông.

Nguồn: Xinhua, CCTV

 

Giận, hờn, buồn, tủi của những đứa con trong Ngày Lễ Cha

Giận, hờn, buồn, tủi của những đứa con trong Ngày Lễ Cha
June 14, 2014

Nguoi-viet.com

Ngọc Lan/Người Việt

WESTMINSTER (NV) – Như luật bất thành văn, không thể khác hơn, khi nói về cha mẹ, bao giờ người ta cũng được nghe những lời hoa mỹ, đẹp đẽ nhất từ những đứa con. Bởi, “Cha mẹ dù gì cũng là cha mẹ, con không thương cha mẹ là bất hiếu, sẽ bị trời đánh!”

Thế nhưng, cuộc đời không phải lúc nào cũng như sách vở. Có những đứa con phải lặng lẽ quẹt nước mắt khi nhìn thấy sự thương yêu trìu mến của ba người ta. Có những đứa con từng “vái trời cho ba chết đi để mình không phải bị đánh đến nỗi phải vào bệnh viện.” Hay có những đứa con mang cả ước mơ một lần được cha bảo bọc, chở che đi vào giấc ngủ.

Không phải đứa con nào cũng được cha cầm tay dắt qua một chặng đường đời. (Hình minh họa: Getty Images)

Chính vì thế, trong Ngày Lễ Cha, nếu có ai đó náo nức, hướng lòng về người đã góp phần cho mình hình hài, vóc dáng thì cũng có những đứa con không biết phải diễn tả tình cảm đối với người mình vẫn gọi là cha như thế nào, bởi vì “nó trống rỗng và lạt lẽo, vô hồn.”

Như một trong những người được phỏng vấn bộc bạch, “Không ai muốn nói những điều không tốt về cha mẹ mình,” nhưng nói ra được những ẩn ức, những gút mắc cứ nằm bấy lâu trong lòng âu cũng là một cách để người tâm sự có dịp nhìn lại chính mình, và đâu đó, những người cha, có thể nghe được nỗi lòng của con mình, nhất là trong hôm nay, Ngày Từ Phụ.

Hùm dữ không ăn thịt con, nhưng ba tôi từng cầm dao đòi giết tôi’

“Không biết có phải do từ nhỏ đã phải chứng kiến quá nhiều chuyện không vui xảy ra xung quanh mình hay không mà gương mặt tôi không có vui, không có cười. Phải chăng vì điều này mà ba ghét tôi?” Henry Ngô, người đàn ông độc thân gần 40 tuổi, mở đầu câu chuyện.

Theo lời Henry, người hiện sống tại thành phố Santa Ana cùng cha mẹ, khi anh chưa tròn 1 tuổi thì ba anh đã “bị bắt đi học tập cải tạo.” Sau 6 năm tá túc nơi quê ngoại, ngày ba Henry ra tù cũng là ngày gia đình anh dọn lên Sài Gòn ở cùng bên nội.

“Tôi không hiểu vì sao ngày đó ba tôi thường mua quà bánh cho con của cô chú tôi, trong khi anh em tôi thì không có. Ngày đó còn nhỏ nhưng tôi đã hiểu được một điều gì đó đau khổ, hờn tủi trong lòng. Thành ra những khi ba cho mấy đứa kia đồ ăn thì anh em tôi bỏ đi chỗ khác, hay có khi dư ra, ba cho tôi thì tôi cầm rồi mang quăng đi.” Henry tâm sự.

Không chỉ vậy, cuộc sống chung đụng trong một ngôi nhà đông người, sự va chạm giữa những đứa trẻ dẫn đến sự xung đột của những người lớn, những tiếng cãi vả, “chửi lộn, đánh nhau” vô tình khắc sâu thêm trong tâm trí của một đứa trẻ như Henry một nỗi buồn dai dẳng.

Lúc dọn ra thuê nhà ở riêng, cuộc sống của gia đình anh dường như cũng không có tiếng cười. Henry cho rằng, “Tôi thật sự không biết do sự bức bối về kinh tế hay bởi tính gia trưởng, độc đoán, chỉ biết bản thân của ba tôi mà cuộc sống trong nhà tôi ngột ngạt lắm.”

Không biết cha Henry có còn nhớ hay không, nhưng với Henry, sự cau có, vẻ khó chịu của ba anh khi thấy anh quá ốm yếu không thể phụ bưng bê những thùng nước ngọt, những két bia trong công việc mua bán của gia đình, mãi là một nỗi gì đó hằn sâu trong anh.

Không biết cha Henry có còn nhớ hay không, khi anh dùng tiền ăn sáng chắt chiu dành dụm mang đi mua những tấm hình diễn viên Hồng Kong về sưu tầm – một thú vui của nhiều đứa trẻ lúc bấy giờ – lại bị ba anh nghi ngờ, chửi mắng vì “ba nghĩ tôi ăn cắp tiền của ba đi mua”, đã như một vết sẹo tinh thần đến giờ vẫn chưa lành trong Henry.

Nhưng có lẽ không thể nào phai nhạt được trong ký ức của người đàn ông này là lần “Ba tôi cầm dao muốn giết tôi, năm đó tôi 16, 17 tuổi gì đó. Tôi không nhớ mình đã làm gì, chỉ nhớ hình ảnh ba cầm dao và thoáng trong đầu tôi là chữ ‘chạy’. Mẹ tôi giữ ba tôi lại cho tôi chạy trốn.”

“Tôi cũng nhớ ngày đó mẹ tôi làm ăn thua lỗ, bị người ta giựt nợ mà không dám cho ba hay, cứ mượn đầu này đầu kia để trả. Đến khi chị tôi trúng số, được số tiền khá lớn, mẹ tôi đã lấy một phần tiền đó đi trả nợ. Ba tôi biết được, ông điên tiết lên đi tìm mẹ tôi để giết. Mẹ trốn khắp nơi không dám về nhà. Vài ngày sau, vô tình tôi nhìn thấy mẹ nằm trốn ngay dưới giường của tôi.” Henry lắc đầu, cố xua đi những hình ảnh đen tối ngày nào.

Henry cười một cách mỉa mai khi nhớ lại, “Ngày gia đình đi xuất cảnh, tôi mang theo rất nhiều hình diễn viên Hồng Kong và tạp chí điện ảnh, ba tôi nói hành lý nhiều quá, tôi phải đưa cho ba tôi một số tiền thì ông mới đồng ý cho tôi mang chúng theo.”

Henry cho rằng hiện tại anh không ghét ba anh, cũng không giận, không hờn, mà chỉ là một sự trống rỗng, hiếm nói chuyện với nhau, dù vẫn sống chung nhà.

“Nếu hỏi tôi có thương ba tôi không. Tôi không có câu trả lời. Tôi chỉ kể chị nghe chuyện này. Vừa mới đây thôi, khi chở ba vào bệnh viện thăm mẹ, tôi hỏi ba, ‘Lúc chị hai bệnh nặng, nếu không có tiền thì ba làm sao?’ Ba tôi không trả lời. Tôi kể cho ba nghe hồi đó mẹ đã phải chạy mượn tiền để cứu chữa cho chị hai thì ngay lập tức ba tôi nói ‘Mượn tiền vậy rồi lấy đâu mà trả!’ Tôi chưng hửng, rồi nói ‘Ba nghĩ sao nói tụi con cũng làm y như vậy khi ba bệnh nặng?’ Ba tôi làm thinh.” Henry kể trong sự ngao ngán.

Trả lời câu hỏi của người phỏng vấn, “Sau này có con, anh sẽ đối với con anh như thế nào?”, Henry chậm rãi trả lời, “Người ta nói mình bị gì không tốt lúc tuổi thơ thì sẽ hành hạ con mình như vậy. Tôi thì nghĩ khác. Tôi muốn làm cho cuộc sống của con tôi phải tốt hơn những gì tôi đã trải qua.”

Được vui đùa cùng cha là ước mơ đi vào giấc ngủ của nhiều đứa trẻ trên thế giới này. (Hình minh họa: Getty Images)

Hồi nhỏ thì ghét, lớn lên thì giận vì ba cố chấp quá!

“Em nhớ hôm đó là sinh nhật lần thứ 12 của em. Em đã ngồi chờ từ sáng đến tối khuya mà vẫn không thấy ba gọi điện thoại về, trong khi mọi năm trước ba vẫn làm. Sau này thì em biết, thời gian đó ba từ Mỹ về Việt Nam cưới vợ khác.” Hạnh Lưu, hiện sống tại Riverside, nhớ lại thời khắc mà cô bắt đầu cảm thấy ghét ba của mình.

Ba Hạnh khai “độc thân” để đi xuất cảnh cùng ông bà nội khi Hạnh được 3 tuổi. Từ ngày đó, cô sống ở Sài Gòn cùng mẹ, chỉ chuyện trò với ba qua điện thoại, thư từ.

Giữa năm 2008, theo lời khuyên của mẹ “hãy đi để có một tương lai tốt đẹp hơn”, Hạnh một mình sang Mỹ với sự bảo lãnh của ba, trong khi mẹ cô vẫn ở lại Sài Gòn.

Những tưởng nỗi hờn ghét trẻ con ngày nào sẽ tan biến khi được sống bên cạnh cha ruột của mình, nhưng ai ngờ những xung đột trong vấn đề cách nghĩ, lối sống, kiểu hành xử đã đẩy hai cha con Hạnh ngày càng đi xa nhau hơn, đến mức không còn nói chuyện với nhau nữa.

Hạnh kể, “Sang Mỹ sống cùng ba và dì được 4 tháng là em không thể nào chịu đựng thêm được nữa. Ba không cho em giao tiếp với bạn bè ở trường, không cho xài điện thoại, internet thì phải thật hạn chế.”

Theo lời kể Hạnh vì không thể chịu được sự gò bó trong cách sống như vậy, cô xin ba cô cho dọn qua tiểu bang khác ở với gia đình bạn của mẹ cô, người nhận cô làm con đỡ đầu để “tự do, thoải mái hơn.” Ba cô đồng ý.

Thế nhưng ngày Hạnh xách hành lý chuẩn bị ra phi trường thì “ba lấy passport, khóa cửa và chửi mẹ em bằng những lời nặng nề lắm, cho rằng mẹ xúi biểu em. Chưa hết, ba còn đẩy em xuống cầu thang như muốn giết chết em vậy đó. May là em kịp vịn lại. Em không nghĩ là ba em vô tình, vì cho đến bây giờ, ba vẫn chưa bao giờ tỏ ra hối hận về việc đó.”

Chưa hết, cảm xúc “ghét ba” trở nên nhiều hơn là khi cha mẹ nuôi Hạnh chờ nơi phi trường để đón cô nhưng không thấy cô đâu. Điện thoại ba cô không nghe, họ bèn phải gọi cảnh sát giúp đỡ. Cảnh sát đến nhà trong lúc hai cha con hãy còn đang giằng co. Do có thể bị qui vào tội giam giữ người trái phép nên theo yêu cầu của cảnh sát, ba Hạnh phải đồng ý cho cô ra khỏi nhà vì Hạnh đã trên 19 tuổi.

Tuy nhiên, “Trước khi đi, ba em bắt phải mở hết vali ra cho ba xét, nói sợ em lấy đồ của ba. Ngày em mới đến, ba có cho em một số tiền và cái headphone. Hôm đó ba bắt phải trả lại hết, ngay cả mấy đồng tiền xu ba cũng lấy lại cho bằng hết rồi mới để em đi.” Hạnh kể.

Cũng từ đó, Hạnh không nhận được bất cứ lời hỏi thăm nào từ ba của mình. Không chỉ vậy, “Sinh nhật các con sau của ba, em mua quà gửi cho tụi nó nhưng ba gửi trả lại tất cả.”

Hạnh tâm sự, “Dù ba chưa một lần gọi thăm em, nhưng năm 2011 em có trở lại thăm ba, mời ba đi ăn trưa.”

Thế nhưng, theo lời người con gái này thì “Ba em đã nói thẳng với em rằng ba không cần em nữa, coi như không có em trong đời, ngoại trừ khi em phải xin lỗi ba, nhận là em sai. Nhưng mà em có làm gì sai đâu. Trước khi đi em có xin phép ba mà.”

Kể từ ngày đó, Hạnh và ba mình không còn có thêm một cuộc nói chuyện nào nữa. Và để diễn tả cảm xúc hiện tại của mình về ba, Hạnh cho rằng “Em giận.”

“Em giận gì ba cố chấp quá. Ai đúng ai sai đâu phải là điều quan trọng nhất. Tình cảm cha con mới quan trọng chứ. Ba không liên lạc với em mà em vẫn về thăm, vậy mà ba vẫn đối xử với em như vậy.” Hạnh trách.

“Theo em, điều gì có thể hàn gắn tình cảm giữa em và ba em?” Tôi hỏi.

Hạnh đáp, “Chỉ cần ba suy nghĩ thoáng hơn, không cố chấp nữa.”

“Vậy em có nghĩ một lúc nào đó sẽ gọi cho ba em không?” – “Em có gọi hỏi thăm dì, nhưng với ba thì không. Em có lòng tự trọng của mình. Em đã về thăm ba, nhưng ba xua em đi, em mà gọi nữa chắc ba nghĩ em xin tiền hay muốn gì nữa thì mệt.” Hạnh dứt khoát.

“Thế nếu ba gọi cho em thì em làm gì?” Tôi nêu giả thuyết.

“Ba gọi thì em nghe. Nhưng mà ngày đó chắc không đến đâu.” Hạnh lắc đầu.

Thương yêu, thông cảm, biết lắng nghe là điều nhiều người không tìm thấy được ở cha mình. (Hình minh họa: Getty Images)

Giận ba vì ba hay đánh đòn

Không đến nỗi căng thẳng hay lạt lẽo như hai trường hợp trên, nhưng những trận đòn ngày thơ bé đã làm nên lằn ranh khiến Tom Nguyễn không thể nào gần ba của mình được.

Tự nhận xét về tình cảm của cha con mình, Tom chia sẻ, “Nói rằng ghét ba thì không đúng hẳn. Giận thì đúng hơn, tại vì ba hay đánh tôi, dùng vũ lực để răn đe tôi từ nhỏ cho đến tận năm tôi học lớp 11.”

Lý do để bị đòn là gì? “Khi ba đi nhậu về, nghe mẹ méc thì ba đánh, làm bài tập sai cũng bị đánh, viết chữ xấu cũng bị đánh, em tôi làm sai thì tôi cũng bị lôi ra đánh luôn.”

Đánh như thế nào? “Bộp tay, đánh vào đầu. Đánh từ nhà ngoại sang nhà nội, chửi nặng lời trước mặt dòng họ, bạn bè, không cần nể nang gì hết, đó là cách ba tôi hay làm với tôi.”

Tom cười nhớ lại, ‘Khi tôi còn ở Việt Nam, ông nội từ Mỹ viết thư về cho tôi lúc nào cũng bắt đầu câu ‘Ba còn đánh con không?’”

Theo lời Tom, năm anh 3 tuổi, một lần ba anh đánh mặt anh sưng cả lên phải vào bệnh viện.

“Chuyện tưởng nhỏ vậy thôi nhưng ảnh hưởng đến tâm lý rồi có khoảng cách với ba hồi nào không hay. Đến giờ ba hình như cố gắng muốn gần các con nhưng sao tôi cứ cảm thấy ngượng ngượng. Thực sự thì hỏng có biết cảm giác là ghét hay giận hay thương ba nữa.” Tom giải thích.

Vì bị đòn quá nhiều như vậy, nên “có lần tôi nghĩ dại là cầu ba chết quắc cho rồi để không còn ai đánh đập mình nữa.”

Tuy nhiên, những trận đòn của Tom đã dừng lại khi Tom học lớp 11. “Khi đó tôi tỏ thái độ giận ba, mấy ngày liền tôi không ăn cơm với ba, ba la tôi cũng không ăn. Mà hình như lúc đó ba cũng nhận ra là tôi đã lớn, không đánh nữa nhưng chửi nặng thì vẫn còn đến giờ.”

Tom từng mơ ước được ba dẫn đi chơi, như cách nhiều ông bố vẫn làm trong các bộ phim mà Tom được xem vì “từ trước đến giờ chưa một lần nào ba dẫn tôi cũng như cả nhà đi chơi. Có đi là tôi chỉ đi ké bên nhà nội ngoại thôi.” Rồi lại mơ ước được bố thương bằng cách không đánh chửi nữa.

Dù vậy, với Tom, “Ba tôi là người có trách nhiệm với gia đình nhỏ và gia đình nội ngoại, nhưng rất ư là sĩ diện, không bao giờ cho mình là sai. Tôi nghĩ là tôi có thương ba tôi, nhưng không gần được.”

Từ hình ảnh người cha của mình, Tom suy ngẫm, “Tôi nghĩ cha mẹ dạy con thì cũng có thể đánh con nhưng quá đáng lắm mới đánh và phải đánh vào mông. Nhưng đánh là thể hiện sự bất lực của mình đối với con.”

Liên lạc tác giả: Ngoclan@Nguoi-viet.com

 

Taliban chặt ngón tay ai đi bỏ phiếu

Taliban chặt ngón tay ai đi bỏ phiếu

Thứ hai, 16 tháng 6, 2014

Những cử tri Afghanistan bị cắt đứt ngón trỏ

Phiến quân Taliban đã chặt ngón trỏ của 11 người dân Afghanistan đã đi bỏ phiếu trong cuộc bầu cử tổng thống vòng một hôm thứ Bảy ngày 14/6, các quan chức nước này cho biết.

Vụ việc xảy ra ở tỉnh miền tây Herat, phát ngôn nhân cảnh sát Raoud Ahamdi cho biết.

Trước đó, Taliban đã cảnh báo người dân Afghanistan không được đi bỏ phiếu.

Hai ứng viên tranh cử là cựu Ngoại trưởng Abdullah Abdullah và cựu Bộ trưởng Tài chính Ashraf Ghani Ahmadzai.

Cả hai ông đều cam kết cải thiện quan hệ với phương Tây và sẽ ký một hiệp ước an ninh bị trì hoãn cho phép gần 10.000 quân Mỹ ở lại đất nước này thêm hai năm nữa.

Cuộc bỏ phiếu hôm 14/6 được mô tả là ‘tương đối yên bình’ mặc dù có một loạt vụ tấn công của Taliban mà giới chức cho biết khiến cho hơn 50 người thiệt mạng.

“Bằng lá phiếu của mình, người dân Afghanistan đã đánh bại những kẻ cổ súy khủng bố và bạo lực.”

Jan Kubis, đại diện đặc biệt của Liên Hiệp Quốc ở Afghanistan

Trong số các nạn nhân có năm nhân viên bầu cử thiệt mạng khi xe của họ bị trúng bom đặt bên đường ở tỉnh Samangan.

Phái bộ hỗ trợ của Liên Hiệp Quốc ở Afghanistan đã lên án vụ chặt ngón tay ở tỉnh Herat.

“Cũng giống như hàng triệu công dân Afghanistan khác, những người dân này đang thực hiện quyền cơ bản của họ là quyết định con đường tương lai của đất nước bằng con đường bầu cử chứ không phải bằng bạo lực và ức hiếp,” ông Jan Kubis, đại diện đặc biệt của Liên Hiệp Quốc ở Afghanistan, nói.

“Bằng lá phiếu của mình, người dân Afghanistan đã đánh bại những kẻ cổ súy khủng bố và bạo lực.”

Ủy ban Bầu cử Độc lập cho biết con số thống kê ban đầu cho thấy hơn bảy triệu người dân Afghanistan đã bỏ phiếu hôm 13/6, chiếm khoảng 60% trong số 12 cử tri đủ điều kiện đi bỏ phiếu ở đất nước này.

Video -Lời Đức Giáo Hoàng nhắn nhủ WorldCup

Video -Lời Đức Giáo Hoàng nhắn nhủ WorldCup

Dòng Tên Việt Nam

Trước giờ khai mạc trận đấu World Cup 2014, vì không thể hiện diện trực tiếp nên Đức Thánh Cha Phanxicô đã gởi một video về những lời nhắn nhủ của ngài tới World Cup. Nội dung những lời phát biểu đó như thế nào, xin mời chúng ta cùng xem đoạn video sau để biết rõ:

httpv://www.youtube.com/watch?v=cP5qwfMG2Y4&list=PLosRt-84-9uQpGtGu3wlbuDX2YT8JetLq

Video – Nên xem một lần trong đời

Video – Nên xem một lần trong đời

Dòng tên Việt Nam

Trong cuộc sống, có rất nhiều điều làm cho chúng ta dễ thất vọng, chán nản và bỏ cuộc. Khi rơi vào những tình cảnh như vậy chúng ta nên xem đoạn video này, hy vọng nó sẽ  giúp chúng ta tìm được sức sống mới cho cuộc đời tương lai của mình…

httpv://www.youtube.com/watch?v=lvCOsdWZxqQ&list=PLosRt-84-9uQpGtGu3wlbuDX2YT8JetLq

ĐỪNG BAO GIỜ THẤT VỌNG

Sự bất lực của con người và niềm tin vào Thiên Chúa

Sự bất lực của con người và niềm tin vào Thiên Chúa

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Dongten.net

buồn

Các bạn trẻ thân mến,

Vì một phút nông nỗi, Ađam và Eva đã đánh mất đi niềm hạnh phúc Địa Đàng. Ân huệ nguyên thủy đã không còn nữa. Họ đành phải sống hết kiếp con người trong đau khổ, mỏi mệt, cho đến khi trở về với tro bụi, nơi mà từ đó họ được dựng nên. Họ và con cháu đời sau phải đối diện với biết bao thăng trầm của cuộc sống mà không sao thoát ra được. Gia đình đổ vỡ, tương quan rạn nứt, phải làm nô lệ cho những hoàn cảnh và cảm xúc của mình.

Như một dấu chỉ mang tính định mệnh, ngày từ lúc sinh ra, con người đã chào đời bằng tiếng khóc, chứ không phải bằng tiếng cười hân hoan. Rồi sự sống cứ xoay vần theo nhịp: sinh ra, lớn lên, trưởng thành, già nua, rồi lại chết. Từ hư không, con người xuất hiện, rồi sau một khoảng thời gian ngắn ngủi được hít bầu không khí dưới bầu trời, con người lại trở về với hư không, như thể chưa bao giờ tồn tại. Trong suốt khoảng thời gian ngắn ngủi tại thế ấy, hạnh phúc và niềm vui chỉ như mây bay, còn bao khổ đau và lo lắng cứ chất chồng như núi. Kiếp con người, một kiếp sống âm u, tăm tối. Con người sinh ra rồi chết đi, để lại điều gì trên trần gian, có chẳng cũng chỉ là những dấu vết của một thời nặng gánh mỏi mệt, đau xót. Có lẽ vì cảm nhận như thế nên nhiều người đã ví cái chết như một sự “an nghỉ”, một cuộc giải thoát, một giấc ngủ bình yên sau ngày dài bương chải những truân chuyên.

Có mấy ai trong chúng ta hoàn toàn thoát khỏi những vướng bận của bụi trần? Lúc nào trên vai ta cũng là những gánh trách nhiệm nặng nề. Ta lo có miếng cơm manh áo để tồn tại, rồi đến lo cho cha mẹ, cho gia đình, người thân. Xuân về, hạ qua, thu đi, đông đến, bốn mùa luân phiên thay đổi. Ta chờ hoài đến giây phút được an nhàn thong dong, nhưng chẳng bao giờ thấy. Lúc nào ta cũng có cảm giác như mình đang ở tha hương. Tận cõi lòng, ta khao khát tìm về một chỗ nghỉ ngơi, để tựa đầu, để thanh thản. Ta cứ mãi tìm hoài hết điều này đến điều kia để khỏa lấp tâm hồn mình, nhưng sao ta cứ luôn thấy thiếu. Khoảng trống trong tâm hồn vẫn cứ còn đó, gắn chặt với đời ta như bóng với hình. Ta muốn vươn dậy, muốn bay lên nhưng thân phận nhân sinh cứ kéo ghì ta xuống.

Ta buộc phải đối diện với những người ta không ưa, phải làm những điều ta không thích, trong khi người ta yêu mến cứ luôn mãi xa ta, chuyện ta muốn làm vẫn xa tầm tay với. Những tương quan làm ta hạnh phúc thì chẳng kéo dài được bao lâu, trong khi người làm mệt mỏi thì hằng hà sa số. Ta mang trên mình một thân xác diệu kỳ, nhưng cũng mong manh yếu ớt. Gió trở trời là đã cảm thấy có gì bất ổn. Những mầm mống bệnh tật như kẻ trộm chực chờ ta. Tâm trí ta được kết cấu hết sức tinh vi, nhưng chỉ cần một cú va chạm nhỏ, ta có nguy cơ trở thành một sinh vật vô tri không hơn không kém. Những mong ước của ta, có khi là rất chính đáng, bao lần được cuộc sống này thỏa mãn? Ngày với đêm vần vũ xoay, ánh dương lên rồi vầng nguyệt xuống. Tất cả vẽ lên một bức tranh bất định của lịch sử.

Nhìn ra xã hội, ta cũng thấy bóng dáng sự xấu hoành hành. Chuyện mua bằng mua cấp. Chuyện quay cóp để được điểm cao. Chuyện hối lộ để được trắng án. Chuyện có quyền thì chà đạp công lý. Chuyện có tiền thì đánh đổi cả lương tri. Nhiều khi ta cũng muốn làm cái gì đó để xây dựng cuộc đời, nhưng những nỗ lực của ta cứ như hạt cát nơi sa mạc mênh mông, như giọt sương sánh với đại dương rộng lớn. Chẳng mấy người còn tin vào tình thương, chẳng mấy ai còn tin vào tha thứ. Con người giải quyết những xung đột của nhau bằng súng đạn, bằng bạo tàn, chứ không cùng nắm tay nhau để gắn lại vết thương rạn nứt. Trước sự dữ đang hoành hành giữa thế gian, ta cảm thấy mình bất lực hoàn toàn. Phận ta, ta còn lo chưa xong, huống hồ gì chuyện thay đổi cả thế giới.

h5

Thế nhưng, tuy sức mạnh của sự dữ lớn thật đấy, ta cũng không hoàn toàn bị mất hút. Giữa hàng vạn cây cổ thụ ngã xuống, vẫn có tỷ tỷ hạt giống âm thầm nảy sinh. Nhìn bề ngoài, ta cảm giác có vẻ như sự dữ đang thắng thế, nhưng thực chất, Thiên Chúa vẫn âm thầm hoạt động. Đích thực là tự sức chúng ta, chúng ta không thể làm được gì. Nhưng với sức mạnh của Thiên Chúa, ta hoàn toàn có quyền hy vọng vào một tương lai tươi sáng. Dưới vực sâu của kiếp tro bụi, ta hãy ngước mắt nhìn về phía trời cao, kêu nài bằng tiếng than van ai oán nhất của cõi lòng, đánh thức dậy nơi Thiên Chúa lòng trắc ẩn của Ngài. Ta tin rằng Ngài sẽ hạ giới đến cứu chúng ta. Ta hoàn toàn có quyền dám mơ đến chuyện ơn trời sẽ xuống và làm bừng dậy nơi chốn bùn lầy đen tối và hôi tanh của thế gian những cánh sen tươi đẹp và thơm ngát.

Đức Giêsu đã từng ví rằng Nước Trời giống như hạt cải nhỏ xíu, nhưng khi lớn lên, nó trở thành một loại cây lớn đến độ chim trời có thể đến ẩn náu. Hay Nước Trời giống như chút men vùi vào đấu bột và làm cho cả khối bột dậy men. Thiên Chúa đã không thi triển quyền năng của mình một cách ồn ào và khủng khiếp như sự dữ vẫn làm hay như người ta vẫn tưởng. Ngài đã làm đảo lộn tất cả những giá trị và logic của con người. Thiên Chúa đã làm cho những người nghèo trở nên giàu có. Ngài chọn những con người thấp bé để truyền giảng Phúc Âm. Ngài đã chọn những tội nhân để khiến họ trở thành những vị thánh. Ngài đã thực hiện một công trình tạo dựng mới từ chính cây thập giá trên đỉnh đồi cao. Sức mạnh của Thiên Chúa vẫn hoạt động không ngừng, âm thầm và liên lỉ. Nơi đâu tưởng chừng bế tắc, Ngài khai mở lối đi. Nơi đâu chỉ toàn bóng tối, Ngài cho lóe sáng ánh hào quang chỉ đường. Sự dữ tuy ồn ào và tưởng chừng thắng thế, nhưng chưa bao giờ có thể đánh gục được những điều tốt đẹp mà Thiên Chúa đã khởi sự nơi trần thế này.

Chúng ta hãy cứ tin vào Chúa dù có vẻ như chẳng còn gì để tin. Chúng ta hãy cứ bám vào Chúa dù có lúc ta chẳng thấy Chúa ở chỗ nào. Bất cứ khi nào con diều còn dính vào sợi dây, nó tha hồ tung tăng trong gió mà không sợ bị cuốn đi. Bất cứ khi nào con thuyền được neo bến, nó vẫn cứ yên vị dù những luồng chảy của dòng sông có tấn công nó dồn dập ra sao. Chúa là chỗ dựa của đời ta, là nơi duy nhất ta có thể tìm được nơi trú ẩn an toàn. Hướng về Ngài và cố gắng cảm nghiệm được những gì Ngài làm trên cuộc đời ta, dù phong ba của kiếp con người có lớn mấy đi chăng nữa, ta cũng cảm thấy được bình yên và an vui trong cuộc sống. Các bạn có tin điều đó không?

Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

 

Nguồn gốc “Ngày của bố”

Nguồn gốc “Ngày của bố”

Hôm nay là “Father’s Day” rồi, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về lịch sử của ngày lễ đặc biệt này nhé các bạn!

Chúng mình đã quen với ngày lễ của Mẹ, ngày quốc tế phụ nữ (08/03), ngày phụ nữ Việt Nam (20/10),… vậy còn những ngày lễ cho “đấng mày râu” thì sao nhỉ? Những ngày lễ để tôn vinh “phái mạnh” không nhiều bằng “phái đẹp”. Thế nên, “Ngày của Bố” thực sự là dịp để vinh danh những cống hiến của “giới XY” cho sự hoàn thiện của cuộc sống chúng ta.

Tuổi đời non trẻ nhưng “Ngày của Bố” là ngày lễ tôn vinh một nửa dân số thế giới. Đây là dịp để các bà mẹ, con cái thể hiện sự quan tâm, chia sẻ về người chồng, người bố của mình rõ ràng nhất.

“Ngày lễ của Bố” được tổ chức lần đầu tại nước Mỹ vào năm 1972. Kể từ đó tới nay nó gần như đều được diễn ra ở hầu hết các nước vào ngày chủ nhật thứ ba của tháng 06 hàng năm.

Lịch sử

Thực tế, “Ngày của Bố” đã được diễn ra đầu tiên ở Fairmont , Tây Virginia vào ngày 05/07/1908. Nó được tổ chức bởi bà Grace Golden Clayton, người muốn kỷ niệm cuộc sống của 210 người đàn ông (họ đều đang làm bố) đã bị hy sinh trong thảm họa khai thác mỏ Monongah vài tháng trước đó tại Tây Virginia. Clayton đã chọn ngày chủ nhật gần nhất, ngày sinh nhật người bố của bà vừa mới qua đời để tổ chức buổi lễ. Thật không may, ngày lễ đó đã bị lu mờ bởi các sự kiện khác trong thành phố. Tiểu bang Tây Virginia cũng không chính thức đăng ký cho buổi lễ, từ đó nó không được tổ chức trở lại.

Sau sự kiện ở Tây Virginia 2 năm, cô Sonora Louise Smart Dodd, sống tại Shokane, Washington, nghĩ ngay đến một ngày để vinh danh các người bố khi nghe bài thuyết giáo ngày của mẹ năm 1909. Sonora là con gái lớn nhất trong sáu chị em. Bố cô là ông William Jackson Smart, còn mẹ cô qua đời trong lúc sinh. Sonora yêu quý và kính trọng bố vì đã một thân nuôi gia đình.

Năm 1910, Sonora đã chọn ngày 19 tháng 6 là “Ngày của Bố” vì ngày đó là sinh nhật của bố cô. Với sự giúp đỡ từ Hội Bộ trưởng Spokane và YMCA (Young Men’s Christian Association — Hiệp hội thanh niên Thiên chúa giáo), “Ngày của Bố” đầu tiên được tổ chức vào ngày 19 tháng 6 năm 1910.

Lễ kỷ niệm

Năm 1966, Tổng thống B. Johnson (Mỹ) đã đưa ra lời loan báo đầu tiên tôn vinh bố, ông chỉ định chủ nhật thứ ba trong tháng sáu là “Ngày của Bố”. Sáu năm sau, ngày kỷ niệm ý nghĩa này đã được thực hiện một cách trang trọng như một kỳ nghỉ lễ thường xuyên hàng năm tại Mỹ khi Tổng thống Nixon đã ký nó thành luật vào năm 1972.

Từ đó, “Ngày lễ của Bố” dần dần được phổ biến rộng rãi và được tổ chức khắp thế giới, đặc biệt là tại châu Mỹ và châu Á. Tuy nhiên, ở một số nơi thời điểm tổ chức và hình thức lại không đồng nhất, nó mang những nét đặc trưng riêng của từng quốc gia và sự sáng tạo đặc trưng trong các buổi lễ.

Mỹ

Đây là quốc gia tổ chức “Father’s Day” rộn ràng nhất thế giới. Một ngày được nghỉ lao động, trẻ em được ra đường vui chơi như ngày quốc tế thiếu nhi. Báo đài, các quan chức chính quyền luôn đề cập về ngày lễ đặc biệt này. Đồng thời rất nhiều quà cáp, thư từ và điện thoại được chuyển đi để bày tỏ sự quan tâm về người bố trong ngày lễ. Ở Mỹ, ngày lễ của bố được tổ chức vào ngày chủ nhật thứ ba của tháng 06 hàng năm.

Việt Nam

“Ngày lễ của Bố” mới được du nhập vào Việt Nam những năm gần đây. Hiện nay, giống như một số nước, Việt Nam kỷ niệm ngày lễ của bố vào ngày chủ nhật thứ ba của tháng sáu hàng năm (năm nay là ngày 15/06/2014).

Tại nước ta, đây không phải là ngày được nghỉ lễ, tuy nhiên vẫn có những sự thăm hỏi, quan tâm bằng thư từ, điện tín được truyền đi rất nhiều trong ngày này. Đa số ngày lễ chỉ được tổ chức với các buổi sum họp gia đình, bạn bè, người thân.

Đức

Tại đất nước châu Âu này, “Ngày của Bố” được tổ chức trùng với ngày lễ Thăng Thiên. Lễ được kỷ niệm vào ngày thứ năm gần nhất sau 40 ngày kể từ ngày lễ Phục Sinh.

Ở Đức “Ngày của Bố” còn được gọi là “Lễ quý ông”. Đây là một lễ hội liên bang và là dịp để mọi người thực hiện các chuyến du lịch thiên nhiên (đa số là đàn ông).

Thái Lan: tổ chức “Ngày của Bố” vào ngày sinh nhật của vua Bhumibol, đó là ngày 05/12.

Hàn Quốc: lễ được tổ chức vào ngày 08/05 ngày “Lễ của Bố – Mẹ”.

Rất nhiều thời gian và hình thức tổ chức khác nhau diễn ra để kỷ niệm “Ngày của Bố”. Nhưng mục đích chung cuối cùng là thể hiện sự biết ơn về những cống hiến của người bố trong gia đình.

Bố ơi, con nhớ Bố .

Cháu gái từ Mỹ gởi chúc mừng ngày Người Cha . Không rõ các nước có mừng Cha khác nhau không,  nhưng Cha chỉ có 1 và luôn là người ít được nhớ hơn bà Mẹ dịu dàng, gần gũi con cái.

Tôi cũng gần Mẹ hơn Cha , nhưng trong kí ức của tôi người Cha quá cố vẫn nguyên vẹn hình bóng nhân hậu, lặng lẽ thương yêu gia đình, con cháu, anh em và những người bên dưới của ông, kể cả khi ông rầy rà con cháu ngỗ nghịch  . Ông ít nói , ít tranh cãi , ít ra lệnh, mà chỉ sống bằng hành động theo đạo lý của tôn giáo và  thế hệ ông, cho gia đình và cuộc sống quanh ông. Công bằng, bác ái  và chân thực là điều ông đã dậy tôi qua những ngụ ngôn của La Fontaine và giáo lý của chúng tôi .

Là con út nhỏ hơn người anh kế gần 10 tuổi , tôi được ông ” chiều” hơn anh chị một chút . Ông ăn 1 lóng mía tôi cũng được ngồi bên, tôi lại chỉ thích khúc “đầu mặt” khi ông cắt thêm vào khúc ” mía thịt ” dài hơn cho tôi, Mẹ tôi không chịu được mùi thịt trâu bò, thịt chó, bơ sữa , anh chị tôi theo mẹ , mâm hai Bố con ăn riêng khi có những món đó đã giúp tôi thành ” Vô Kị” khi ra đời . Lúc 3 chị em còn sống với Bố Mẹ  chưa ai lập gia đình ,  ví tiền của ông chỉ mình tôi dám lục khi thèm quà vặt do Mẹ không hề cho tiêu tiền . Ông lĩnh lương là đưa hết cho Mẹ,  Mẹ thường “lục” ví ông kiểm soát để ” châm” thêm tiền cho ông ăn sáng , tôi lục để tìm tiền lẻ . Có lần tôi thèm kem quá mà trong ví ông chỉ có tờ bạc 50 chục tôi liều lĩnh một cách ngu ngốc lấy tờ 50 chục này định chiều về trả lại tiền dư , hôm đó ông ăn phở Tầu Bay mở ví không còn tiền phải để ông tài xế của sở  trả , chiều về ông âm thầm hỏi tôi khi tôi đưa ra 1 nắm tiền đúng…49 đồng. Ông  kéo tôi ra 1 góc để tránh Mẹ và từ đó tôi được nghe nhiều lần chuyện ngụ ngôn ” Au Loup” , con chó sói của cậu bé đùa dối hô hoán giả tạo và lần sau cậu đã chết vì chó sói thật do không ai đến cứu . Là người Bắc trong nhà không có chuyện con trai ở trần mặc quần đùi, tối đi ngủ dù trời nóng cũng phải mặc pyjama hay quần ta dài, áo may ô , ông không bao giờ la rầy tôi khi phá luật mà chỉ ” dũa” ông anh không chăm dậy  em. Sáng sớm thức dậy ông bắt mỗi anh em vào toilet ngồi 15 phút , anh em  tôi thoát khỏi di truyền bệnh táo bón khủng khiếp của Mẹ chính nhờ “cữ ” mặc niệm bắt buộc mỗi sáng này của ông .

Ông còn cả kho ca dao, cách ngôn cho mọi trường hợp để dậy tôi . Hay sang nhà bạn thì ” Năng mưa thì tốt lúa đường – Năng qua lại   lắm xem thường nhau đi ” , quần áo luộm thuộm thì ” Y phục xứng kì đức ..” . Duy có một điều  ông không hề dậy tôi bằng lời nhưng từ hành vi của ông, có lần ông đưa cả tháng lương cho người thuộc cấp than thở vợ con đau bệnh không có tiền lo , lâu quá  Mẹ hỏi lương thì ông mới rì rầm nói” Nhà nó nghèo quá , đưa cả rồi !!” , khi làm ở Báo Văn Nghệ Tiền Phong đám kí giả văn nghệ sĩ  thưòng nắm áo ông vay tiền trước , ông ” vay” từ túi Mẹ đưa họ rồi chịu im lặng nghe bà cằn nhằn. Sống như thế nhưng ông không uống thứ nước nào ngoài nước đun sôi , không trà, rượu, cà phê, tất nhiên không thuốc lá và đàn đúm bạn bè , chỉ có công việc, nhà thờ  và gia đình , thỉnh thoảng gia đình tụ họp em cháu  cuối tuần mở canh Bài Chắn giải trí ông chơi rất dở , có khi còn bị Mẹ tôi  cấm vận , tôi hay lấy nê con út lăn vào cầm bài cho Bố để bà thôi cằn nhằn .

Các cháu con chị tôi ở Thủ Đức thường nhắc chuyện sau 75 ông đã gần 80 mà vẫn đạp xe từ Tân Bình lên ra vườn dọn dẹp cây cối , hỏi han vài điều, uống li nước lạnh rồi lại đạp xe về lo cho đám cháu nội ở Saigon, lúc đó cả hai anh em tôi đều còn cải tạo. Thời gian trước  khi ông mất năm 2005 , ông đã hơi lẫn và chướng, nằm bệnh viện bác sĩ muốn vô nước biển ông nhất định là ” Nó định đầu độc tôi cho thuốc giả  “, các cháu phải gọi tôi về thủ thỉ giải thích, ông lại cười nói ” Bố phải cảnh cáo trước ” rồi đưa tay cho vô thuốc. Những năm cuối đời của Cha Mẹ,  tôi  thật may phước được gần bên để cùng con cháu chăm lo cho hai vị , được các cụ thường đòi có mặt khi nhập viện hay tưởng là trăn trối lần cuối . Cha tôi đã mê man ít ngày trước khi mất , người không trăn trối điều gì cho con cháu được ngoài ” thương hiệu ” di sản của một con người  hiền hòa, nhân hậu, bình dị . Mất nhiều năm tôi mới hiểu lí do mình gần Mẹ hơn ông , bà trò chuyện với tôi nhiều hơn ông , dậy dỗ con cái  nghiêm khắc hơn ông , cũng làm nhiều quyết định và gánh vác đời sống gia đình, gia tộc nhiều hơn ông . Sự sắc sảo, khôn ngoan rất chính đáng của bà chi phối không chỉ gia đình mà còn toàn gia tộc và mỗi giai đọan quan trọng trong đời tôi  ,khi ở xa đau yếu, khó khăn thì chính bà là người chủ trì bàn tính hay đích thân lo liệu, các con, cháu tôi, anh chị tôi , cháu ông bà cũng một tay bà lo liệu .

Ông chỉ gần tôi khi tôi đã rất trưởng thành , gần 10 năm cuối đời ông thì hầu như tôi là điểm tựa , sự an tâm, vui thú  của  ông , là người bạn trẻ duy nhất của ông khi kiên nhẫn giải thích những điều ông hỏi, khi đưa ông đi đây đó  vẫn để ông thỏa thích nghiền ngẫm, quan sát , hỏi han về những điều mới lạ quanh ông, suốt đời ông không khi nào nắm giữ, đòi hỏi  tiền bạc, tài sản nhưng gần cuối đời ông thường nói tôi đưa tiền , chỉ những số tiền rất nhỏ , khi ” Để Bố hớt tóc “, khi ” Để bỏ nhà thờ hay cho kẻ khó ” , kể cả khi ông đã lẫn thường đến một tiệm thuốc Tây quen gần nhà tự định bệnh, tự kê toa đòi lấy thuốc và nói :  ” Cháu T. sẽ trả tiền ” . Anh dược sĩ quen đồng ý với tôi cứ đưa ông 1 liều thuốc bổ vô thưởng vô phạt cho ông vui.

​ Vâng, đó là cha tôi , người con cả thừa kế của một gia đình ​địa chủ giầu ruộng đất, được đi học trường Tây trên tỉnh, ” Cậu Cả ” đã có  xe đạp từ thời trước Thế Chiến thứ Hai , về làng cũng ngấm nghé các cô xinh đẹp, nhưng suốt đời ông từ khi cưới Mẹ tôi ông bà không rời nhau được một ngày mà không bồn chồn, bà chỉ đi thăm bà con vài tiếng ông đã bắt cháu đi tìm , khi ông mất bà đã lẫn , khi tỉnh khi mê nhưng khi tỉnh biết ông đã mất bà đã gào khóc làm chúng tôi đau đớn bội phần ” Ông ơi , sao ông không gắng sống thêm cho tôi hầu hạ ông . Các con ơi, các con mồ côi Bố rồi !!!”

Xin chúc mừng các người Cha là anh, là bạn, là con cháu tôi, nhân viên của tôi hôm nay . Xin những bạn còn Cha hãy tận hưởng tình cha con thân thiết và lòng thảo hiếu dành cho người lúc tuổi gìa bóng xế .

Bố ơi, con nhớ Bố .

Chúa Nhật 15/6/2014 Saigon

Lâm Mạnh Di và Tình tự của một người cha, người ông

Lâm Mạnh Di và Tình tự của một người cha, người ông

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2014-06-14

VHNT06142014.mp3

Freddy-Lam2-305.jpg

Bé Freddy Lâm Gia Nghi.

Photo courtesy of Lâm Mạnh Di

Trong dịp Father’s day năm nay, Mặc Lâm xin giới thiệu bài viết cảm động của tác giả Lâm Mạnh Di về người con trai cũng như đứa cháu nội hai dòng máu mà ông rất thương yêu. Tình tự của một người cha, người ông trong hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử Việt Nam có lẽ khiến những cung bậc tình cảm tăng theo với dòng chảy một thời buồn bã của rất nhiều gia đình. Tác giả Lâm Mạnh Di đã gửi gấm niềm xúc động của ông qua hai bài viết Tình phụ tử và Tháng 4, Những giòng chữ cho Freddy Lâm Gia Nghi.

Lâm Mạnh Di: Tôi có tất cả là 4 người con trai, và cháu Thi, đứa mà tôi đề cập trong bài viết Tình phụ tử ra đời trong một hoàn cảnh thật đặc biệt. Cháu ra đời trong một trại tỵ nạn mà lúc đó tôi còn ở lại Vũng Tàu có lẽ vì lý do đó mà tôi có một tình cảm thật đặc biệt với cháu. Nhưng tôi nghĩ trong hoàn cảnh đất nước của chúng ta thì không ít các cháu đã ra đời trong hoàn cảnh nghiệt ngã như vậy.

Tình phụ tử – Lâm Mạnh Di

Vũng Tàu khoảng 16h chiều…

Trời còn rất nóng, rất khó chịu. Một căn phòng nhỏ trên đường Nguyễn An Ninh gần ngã tư giếng nước. Phòng chứa toàn sách vở ngổn ngang, bàn ghế chẳng có gì xa xỉ. Một ông già có lẽ chưa đến 60 cặm cụi sắp sếp lại các cuốn sách cho ngăn nắp. Ông mỉm cười khi cầm cuốn Album hình ảnh gia đình ông trên tay, cứ đến mỗi trang ông xem lại lẩm nhẩm vài tiếng, chen lẫn với tiếng thở dài…

Có tiếng gõ cửa thật lớn, ông già hơi ngạc nhiên vì ông rất ít bạn bè đến thăm ông. Bạn bè thân thiết của ông hiện đang ở khắp nơi trên thế giới, nếu có về Việt Nam thăm ông đều báo trước cho ông biết…

Ông ra mở cửa và ngạc nhiên đến nghẹn ngào: “Trời ơi, con đấy à”… T. ôm bố, nước mắt dàn dụa, bằng giọng nói tiếng Việt không thành thạo…”bố ơi, con về thăm bố đây…!”

Ngày Father’s day tôi chỉ biết cầu nguyện ơn trên hãy thương xót cho dân tộc Việt Nam, thương xót cho những cháu bé trong hoàn cảnh nghiệt ngã.
-Lâm Mạnh Di

T. tên thật là Lâm Gia Thi, và ông bố chính là người đang ngồi viết những dòng chữ này…

Thi và bố gặp nhau đã nhiều lần, nhưng chưa lần nào ở Việt Nam và bất thình lình như lần này. Thi nhân cơ hội đi họp ở vùng Đông Nam Á về thăm bố và mang về cho bố đủ loại thuốc.

Bố dẫn Thi đi xem Vũng Tàu, đi mua sắm ở chợ Năm Tầng… Nét mặt Thi rạng rỡ, không còn căng thẳng như qua buổi họp, lúc nào đi bên bố cũng nhè nhẹ đấm lưng cho bố.

Thi ơi, trong những đứa con của bố, có lẽ bố thương Thi nhất. Vì ngày Thi chào đời không có sự hiện diện của bố, con chào đời trong 1 trại tỵ nạn.

Tôi dẫn Thi ra biển, những cơn sóng vỗ về, tiếng sóng và gió biển dạt dào làm tôi nhớ 1 ngày nào đó năm 1980. Tôi chỉ cho Thi nơi mẹ cùng anh Huy xuông thuyền đi vượt biên. Lúc đó Thi còn là 1 thai nhi trong bụng mẹ … Cuộc đời là tử biệt sinh ly, có ai ngờ sau 25 năm Thi lại trở về đây và đang đứng lặng lẽ bên tôi.

Thi nhìn xa xăm ra khơi, nơi có những ánh đèn chớp tắt của người đi đánh cá đêm. Tôi bắt gặp những giọt nước mắt chảy trên má Thi mà thương con vô cùng.

Hai bố con ngồi với nhau trên bãi biển, chẳng để ý đến thời gian qua mau… Có lẽ buổi tối hôm đó là ngày sinh nhật đẹp nhất đời tôi, chỉ có 2 bố con ngồi cô đơn nghe sóng biển, nghe đời mình như những cơn mơ…

Năm giờ sáng tài xế đến Vũng Tàu để đón Thi trở lại Sài Gòn, Thi có kể cho tôi biết về dự án mà Thi có trách nhiệm. Và Thi đã quyết định làm việc tại Việt Nam 1 thời gian. Lý do duy nhất cho quyết định này là chỉ để được gần bố.

Thương con quá …!

Lâm Mạnh Di: Hôm nay các con tôi đã trưởng thành và tôi cũng hạnh phúc được thành ông nội của ba đứa cháu thật ngoan và hiền. Có cháu mang hai dòng máu Việt và Mỹ. Đương nhiên về tuổi già khi nhìn thấy con cháu như vậy thì tôi cũng rất hạnh phúc và có đôi chút nào đó tự hào…

Tháng 4 – Những giòng chữ cho Freddy Lâm Gia Nghi

064_IS09AH48I-250.jpg

Hình minh họa. AFP PHOTO.

Hơn 30 năm về trước, bà Nội con lũ lượt theo giòng người bỏ xứ ra đi, mang theo bố con trong bụng, một thai nhi vừa đươc vài tháng, và bác Huy của con lúc đó vừa tròn 7 tuổi.

Lần đầu tiên trong đời ông mới biết thế nào là đau khổ của sự chia ly. Có lẽ dùng chữ đau đớn mới đúng. Ví ai biết được có còn ngày tao ngộ?

Và ông cũng chẳng ngờ, trong đời ông lại có 1 đứa cháu nội mang 2 giòng máu, đứa cháu nội thật xinh, có cặp mắt to với hàng lông mi cong vút. Mỗi lần con theo cha mẹ con về thăm ông, dẫn con ra đường chẳng ai biết là 2 ông cháu, ai cũng khen con hiền và đẹp, cứ ngỡ ông là người giúp việc cho 1 gia đình người ngoại quốc nào đó.

Trong cuộc sống khép kín cô đơn của ông, dường như ông chỉ vui được vài tuần ngắn ngủi khi bố mẹ con dẫn con về thăm ông. Về lần cuối thì con cứ huyên thuyên nói với ông bằng tiếng Tây Ban Nha, thay vì tiếng Mỹ như thường lệ, làm ông chẳng hiểu cứ ôm cháu vào lòng mà cười. Cái nghề nghiệp cứ bắt bố con vài năm là lại phải đi đến 1 nước khác làm việc kể cũng tốt cho con.

Thời gian hạnh phúc nhất trong đời ông, có lẽ đó là lúc bố con về Việt Nam làm việc, lúc đó con vừa thôi bú mẹ. Ông chăm sóc con cẩn thận lắm, cứ cầm quạt phe phẩy cho con suốt ngày vì sợ có con muỗi nào nó chích vào da thịt non nớt của con. Ba năm trời được sống bên con, bên cha mẹ con, là những giờ phút ông luôn có nụ cười, làm ông quên được những tháng năm sống trong hẩm hiu đau khổ. Và ông cũng chẳng ngờ, càng lớn con càng quấn quít ông hơn bố mẹ con, lúc nào hai ông cháu mình cũng cứ quanh quẩn bên nhau.

Ba năm trời qua nhanh như 1 giấc mơ, rồi ông phải ngậm ngùi chia tay những người mình thương yêu nhất đời. Hôm đưa gia đình con trở lại Mỹ, đó là một ngày mưa tầm tã. Mẹ con dù là người phương Tây cũng rơi lệ, tim ông quặn đau khi con cứ nắm chặt tay ông không chịu rời. Phi trường Tân Sơn Nhất hôm đó sao mà ảm đạm… rồi bóng dáng 3 người thân yêu cứ xa dần, xa dần… Ông còn nghe tiếng con gào khóc sau bức tường cách ly của phi trường.

Thế là hai ông cháu mình xa nhau thật rồi, nước mắt ông dàn dụa… và ông ngã quỵ trong tay hai người bạn cùng đi theo. Về lại nhà, ôi sao mà trống vắng, tiếng cười nói của con còn loáng thoáng đâu đây. Ông nằm liệt giường cả tuần, chẳng màng đến cơm nước…

Tôi nghĩ trong hoàn cảnh đất nước của chúng ta thì không ít các cháu đã ra đời trong hoàn cảnh nghiệt ngã như vậy.
-Lâm Mạnh Di

Bây giờ con đã 8 tuổi, một học sinh thông minh và hiền hậu. Con có đôi mắt thật buồn của bà Nội, có chuyện vui buồn gì cũng gọi điện thoại cho ông. Bố con biết ông thích bài Bên Cầu Biên Giới nên nhờ thầy dạy nhạc dạy cho con đàn bài này… nghe tiếng đàn piano của con qua điện thoại, ông cũng hát nhỏ theo “Bên cầu biên giới… Tôi lặng nghe dòng đời từ từ trôi… Sông nước xa xôi… mây núi khắp nơi… Không tỏ một đôi lời…”

Freddy, ông biết con thương ông lắm. Cả bố mẹ con nữa, mọi người đều muốn ông rời Việt Nam để theo gia đình. Khi nào con đủ lớn khôn có lẽ con sẽ hiểu vì sao ông không muốn bỏ Sài Gòn mà ra đi. Chính phủ này là 1 Chính phủ tàn bạo trong các Chính phủ tàn bạo trên thế giới, họ đã làm gia đình mình và hàng triệu gia đình tan nát. Nhưng ông vẫn chọn cuộc sống ở đây chỉ vì ông thương yêu bao nhiêu là kỷ niệm. Sài Gòn là quê hương của ông, nơi đây ông gặp bà Nội và đó là lần đầu tiên ông biết yêu. Những con đường, những hè phố, những buổi trưa nắng oi ả, những người bạn thân thương, những quán cóc bên đường… là tất cả những gì ông còn giữ lại cho đời mình.

Ông không biết mình sẽ làm gì trong 1 không gian xa lạ, nếu ông rời Việt Nam. Rồi khi cha mẹ con đi làm bận rộn, con phải đi học, có lẽ ông sẽ co ro 1 mình trong phòng…

Cháu ngoan, con ráng học hành cho giỏi nhé. Và nhớ mỗi năm theo bố mẹ về thăm ông vài tuần, như vậy là ông vui lắm rồi. Ông sẽ cố gắng đi học tiếng Tây Ban Nha, để về kỳ tới có thể chuyện trò với con, hay ít ra ông có thể dịch lá thư này để mai mốt con đọc.

Ông viết lá thư này vào những ngày tháng 4, thời gian này cũng là thời điểm của những bọn lố nhố lăng nhăng đang sửa soạn ăn mừng chiến thắng trên hàng triệu xác người. Ông chẳng màng đến họ, những con diều hâu đang rỉa thây dân tộc Việt Nam, vì ông bây giờ chỉ sống với hình ảnh con cháu, vui khi con cháu điện thoại về thăm ông. Đó là những sức mạnh của yêu thương, vực ông dậy để sống trong những ngày cô quạnh.

Lâm Mạnh Di: Tôi đọc báo và được biết các thế hệ con cháu người Việt tỵ nạn được lớn lên và học hành ở nước ngoài đa số là đã thành công trong cuộc sống và có những cháu làm rạng rỡ cho quê hương của chúng ta.

Ít nhiều gì khi nói đến đây tôi lại thấy thương các cháu sinh ra trong những gia đình nghèo khó tại Việt Nam. Những hình ảnh các cháu lam lũ đến trường với quần áo rách rưới có lẽ ai trong chúng ta khi nhìn những hình ảnh đó sẽ thấy trong lòng quặn đau. Có những cháu tuổi vừa lên 10, 11 gì đó đã phải vất vả làm những công việc thật nặng nhọc để giúp đỡ cho gia đình các cháu.

Trong ý nghĩa của ngày Father’s day tôi chỉ biết cầu nguyện ơn trên hãy thương xót cho dân tộc Việt Nam, thương xót cho những cháu bé trong hoàn cảnh nghiệt ngã. Có cháu phải lội sông lội suối đến trường, hãy thương hãy độ trì cho các cháu có được bữa ăn no áo quần tươm tất và được học hành đến nơi đến chốn…

 

Hiểu lầm chính sách, vị thành niên Trung Mỹ ào ạt vượt biên vào Mỹ

Hiểu lầm chính sách, vị thành niên Trung Mỹ ào ạt vượt biên vào Mỹ
June 14, 2014

Nguoi-viet.com

WASHINGTON (Washington Post) Hiện đang ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy sự tăng vọt hàng chục ngàn trẻ vị thành niên từ vùng Trung Mỹ vượt biên giới Mexico để vào Texas đang xảy ra phần lớn vì cho rằng sẽ được ở lại Mỹ theo chính sách mới về di trú của Tổng Thống Obama.



Một sĩ quan tuần tra biên giới khám một di dân bất hợp pháp tại biên giới Mexico và Texas. (Hình: Scott Olson/Getty Images)

Các giới chức chính quyền liên bang Mỹ, khi trước đã hoàn toàn bác bỏ các báo cáo này, nay phải có phản ứng bằng cách cảnh cáo giới cha mẹ ở các quốc gia khác đừng gửi con cái vượt biên bất hợp pháp, trong khi giới hữu trách đang hết sức vất vả để nuôi giữ hàng chục ngàn trẻ hiện đã ở Texas.

“Những người vượt biên giới trái phép, ngay cả trẻ em, sẽ không được vào quốc tịch,” Bộ Trưởng Nội An Jeh Johnson tuyên bố tuần này. “Những người bị chặn bắt ở biên giới Mỹ sẽ có ưu tiên trục xuất… bất kể là hạn tuổi nào.”

Cuộc khủng hoảng về di trú hiện nay là một vấn nạn chính trị mới cho Tổng Thống Barack Obama và là cơ hội để phía Cộng Hòa chỉ trích dự luật cải tổ di trú ông muốn thông qua.

Phía chính phủ Obama từng giải thích rằng sự tăng vọt trong số trẻ tràn vào Mỹ là do tình hình bạo động băng đảng ở Guatemala, Honduras và El Salvador. Số trẻ vị thành niên bị chặn bắt trong chín tháng qua chỉ riêng từ ba quốc gia này đã lên tới 34,611 người, tăng 31.5 lần so với cả năm 2012.

Năm 2012 là năm ông Obama lần đầu tuyên bố sẽ không trục xuất trẻ di dân bất hợp pháp từng được cha mẹ mang theo vào Mỹ trước năm 2007.

Một văn thư nội bộ của cơ quan Biên Phòng Mỹ hồi tháng qua ước lượng rằng khoảng 90,000 trẻ sẽ bị chặn bắt năm nay và tăng lên 142,000 trong năm tới.

Không chỉ phía Cộng Hòa, ngay cả nữ Nghị Sĩ Dianne Feinstein, Dân Chủ, tiểu bang California cũng cho hay rằng nhân viên văn phòng bà có được bằng cớ cho thấy gia đình các trẻ nhỏ được thành phần đưa người vượt biên bất hợp pháp hứa hẹn chúng sẽ không bị trả về vì đây là chính sách mới của chính phủ Obama. (V.Giang)