Mẹ vẫn chờ con

Mẹ vẫn chờ con
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Người ta kể rằng: có một cô gái ở nơi xa về thăm nhà, vừa mới xuống xe đã nhìn thấy mẹ đứng phía trước. Cô gái rất ngạc nhiên vì mẹ cô không hề biết cô sẽ trở về liền hỏi: ”Sao mẹ biết con về vậy?”. Thì ra cuối tuần nào người mẹ cũng ra chỗ này để “đón” cô.

Tâm tư người mẹ luôn như vậy, luôn lấy thường xuyên thành trùng hợp, biến có thành không khiến những đứa con không khỏi ngạc nhiên cũng không đoán trước được. Mẹ thường che dấu tình cảm của mình. Nước mắt của mẹ luôn chảy ngược vào tim khiến con cái không thể thấy nỗi khổ của mẹ mà chỉ thấy sự diu ngọt từ mẹ. Quả đúng như ai đó đã nói:

“Mẹ là dòng suối nước trong

Thơm, ngon, mát, ngọt như lòng mẹ yêu

Mẹ là gió nhẹ ban chiều

Khẽ ru con ngủ cưng chiều con thơ”

Tình mẹ thật mênh mông. Tình mẹ không có bến bờ chỉ có dạt dào tình yêu và tuôn chảy trên cuộc đời con cái. Vì:

Mẹ là biển rộng xanh lơ

Tình thương bát ngát đôi bờ đại dương

Mẹ là mây phủ ngàn phương

Chở che con dại trên đường nắng rơi

Mẹ là tất cả mẹ ơi!”

Là những người con khi đã nhận ơn của mẹ thì luôn mong mỏi được sống bên mẹ. Không chỉ để được mẹ yêu mà còn để phụng dưỡng ơn mẹ. Không chỉ để được mẹ vỗ về mà cả thèm nghe sự la rầy đầy tình yêu nồng nàn của mẹ.

“Con mong bên mẹ từng giây

Con thèm nghe tiếng la rầy mắng yêu

Bên mẹ nắng sớm mưa chiều

Để con săn sóc mẹ yêu suốt đời”

Trong đời sống thiêng liêng chúng ta cũng có một người mẹ thật yêu thương chúng ta. Mẹ cũng đánh đổi cuộc đời mình vì yêu thương chúng ta. Mẹ hy sinh cuộc đời, gác bỏ việc riêng để gánh lấy nhân loại chúng ta. Tình mẹ cũng mênh mông, bát ngát luôn theo sát con mẹ, đó chính là Mẹ Maria.

Với lời xin vâng, Mẹ Maria đã gác bỏ những dự định riêng của đời mình để sẵn lòng thực thi chương trình của Chúa. Dưới cây thập giá, Mẹ một lần nữa đã nói lời xin vâng khi đón nhận nhân loại làm con của Mẹ. Lời Chúa Giê-su đã thưa cùng Mẹ. “Thưa bà, đây là con của bà”. Mẹ đã không khước từ. Dù rằng, dưới cây thập giá lòng Mẹ đang tan nát bởi cái chết người Con yêu. Mẹ tiếp tục xin vâng để lại làm Mẹ nhân loại theo thánh ý Thiên Chúa.

Và hôm nay, Mẹ tiếp tục hiện diện trong cuộc đời từng người con để vỗ về, để yêu thương, để dìu dắt như ngày nào Mẹ đã yêu thương Con Chúa Trời. Mẹ tiếp tục đứng đó trên những đỉnh đồi thương đau của từng người con như Mẹ đã từng đứng bên thập giá để chia sẻ với Con yêu quý của mình. Mẹ vẫn đang đứng đợi con cái về bên Mẹ như bao bà mẹ vẫn mong con sum vầy bên Mẹ để được Mẹ dậy bảo, để được Mẹ vỗ về yêu thương.

Hôm nay, ngày đầu năm mới, Giáo hội mừng lễ Mẹ Thiên Chúa để nhắc nhở cho chúng ta về sự hiện diện của Mẹ Maria vẫn đi bên cạnh cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện của Mẹ bên cuộc đời chúng ta qua biết bao ơn lành hồn xác chúng ta lãnh nhận nhờ lời cầu bầu của Mẹ. Biết bao người vẫn được ơn này ơn kia qua lời cầu khẩn của Mẹ. Biết bao người vẫn đang bám vào Mẹ như sự ủi an duy nhất giữa chốn ba đào đầy khó nguy. Và có lẽ, Mẹ Maria vẫn đang chờ những con cái Mẹ biết chạy đến cùng Mẹ mỗi khi khó khăn, biết nương tựa vào Mẹ mỗi khi thất bại, biết cầm lấy tay Mẹ mỗi khi vấp ngã để Mẹ tiếp tục chia sẻ những thăng trầm trong cuộc đời chúng ta.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ thật có phúc vì đã cưu mang Con Thiên Chúa. Mẹ thật diễm phúc vì Mẹ được chọn làm Mẹ Thiên Chúa. Và  hôm nay chúng con cũng thật có phúc vì có Mẹ là Mẹ của chúng con. Chúng con xin cám ơn Mẹ đã nhận chúng con là con của Mẹ để tiếp tục chăm sóc chúng con. Xin cho chúng con luôn biết chạy đến cùng Mẹ mỗi khi gặp những khó khăn. Xin cho chúng con luôn sum vầy bên Mẹ để được Mẹ yêu thương chúc lành. Amen.

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Maria Thanh Mai gởi

TRI THIÊN MỆNH – ĐẠT LAI LẠT MA

ĐẠT LAI LẠT MA – TRI THIÊN MỆNH


“Sức mạnh của trẻ thơ là tiếng khóc. Sức mạnh của đàn bà là phẩn nộ. Sức mạnh của kẻ cướp là vũ khí. Sức mạnh của vua chúa là quyền uy. Sức mạnh của kẻ ngu là áp đảo. Sức mạnh của bậc hiền trí là cảm hóa. Sức mạnh của người đa văn là thẩm sát. Sức mạnh của sa môn là nhẫn nhục.”

“Bởi chúng ta không thể thay đổi được thế giới xung quanh, nên chúng ta đành phải sửa đổi chính mình, đối diện với tất cả bằng lòng từ bi và tâm trí huệ”

“Ra đời hai tay trắng. Lìa đời trắng hai tay. Sao mãi nhặt cho đầy. Túi đời như mây bay.”

“Thành thật đối diện với mâu thuẫn và khuyết điểm trong tâm mình, đừng lừa dối chính mình”.

“Sự khác biệt giữa con người là do mức tiến hóa khác nhau qua các kiếp sống. Có khi nào ta thù ghét một kẻ kém ta đâu? Suy luận rằng: “vạn vật đồng nhất”, ta sẵn sàng tha thứ cho kẻ khác, vì họ không hiểu biết, không ý thức hành động của mình, vả lại họ và ta nào có khác nhau đâu. Khi ta hiểu rằng: “nhất bổn tám vạn thù”, ta nhìn vạn vật như chính mình, từ loài người qua loài thú, thảo mộc, kim thạch, và ý thức
rằng mọi vật đều có sự sống, đều có Thượng đế ngự ở trong, ta sẽ cởi bỏ thành
kiến, mở rộng lòng thương đến muôn loài”.

“Là con Phật, nếu  không nói được những gì Phật nói, hãy im lặng như chánh pháp, đừng nói những lời ác, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống, làm tổn hại kẻ khác, nếu không làm được những gì Phật làm, hãy im lặng và lắng nghe, quán sát, học hỏi những thiện tri thức, đừng vọng động làm những điều thương tổn đến tha nhân”.

“Ác khẩu, mãi mãi đừng để nó thốt ra từ miệng chúng ta, cho dù người ta có xấu bao nhiêu, có ác bao nhiêu. Anh càng nguyền rủa họ, tâm anh càng bị nhiễm ô, anh hãy nghĩ, họ chính là thiện tri thức của anh”.

“Người mà trong tâm chứa đầy cách nghĩ và cách nhìn của mình thì sẽ không bao giờ nghe được tiếng lòng người khác”.

“Khi trong tay anh nắm chặt một vật gì mà không buông xuống, thì anh chỉ có mỗi thứ ấy, nếu anh chịu buông xuống, thì anh mới có cơ hội chọn lựa những thứ khác.
Nếu một người luôn khư khư với quan niệm của mình, không chịu buông xuống thì
trí huệ chỉ có thể đạt đến ở một mức độ nào đó mà thôi.”

Đức Đạt Lai Lạt Ma

 

 

Nói cho con người: Lm Chân Tín (29)

Nói cho con người: Lm Chân Tín (29)

Đăng bởi lúc 2:00 Sáng 31/12/12

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (31.12.2012) – Sàigòn –

Trả lời phỏng vấn của đài VNCR

VNCR: Xin linh mục cho biết tiểu sử của linh mục khá chi tiết để đồng bào hải ngoại biết và hiểu linh mục hơn.

Lm Chân Tín: Tục ngữ Pháp có câu “Cái tôi là cái đáng ghét”. Nói về mình thật là khó nói. Nhưng vì được đài VNCR yêu cầu để tạo sự thông cảm giữa đồng bào hải ngoại với tôi, nhất là trước 75, có người cho tôi là “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản”, nên tôi xin nói qua tiểu sử của tôi.

Tôi là linh mục Chân Tín, Dòng Chúa Cứu Thế- Việt Nam, 76 tuổi. Sinh ngày
15.11.1920, tại làng Vạn Xuân, họ đạo Lim Long, ngoại ô thành phố Huế, ngày
trước là thủ phủ của các Chúa Nguyễn.

Tôi học các lớp tiểu học ở trường làng và trường họ đạo. Học bốn năm trung học
ở trường Đệ tử Dòng Chúa Cứu Thế- Huế, và hai năm cuối ở trường Thiên Hựu cũng
được gọi là Providence. Sau khi thi đậu tú tài, tôi ra Hà Nội vào nhà tập Dòng
Chúa Cứu Thế, học các lớp thần học tại tu viện Dòng Chúa Cứu Thế- Hà Nội. Nhà
nước cộng sản đã biến tu viện này thành bệnh viện đa khoa của quận Đống Đa vào
năm 1954.

Tôi thụ phong linh mục ở Hà Nội năm 1949, cùng với Hồng y Trịnh Văn Căn, Hồng y
Phạm Đình Tụng. Năm 1950 tôi sang Italia để nghiên cứu vấn đề xã hội và trình
luận án tiến sĩ thần học. Đậu tiến sĩ tháng 6/1953, tôi trở lại Việt Nam vào tháng 10/1953 dạy khoa thần học và làm giám đốc Học viện Dòng Chúa Cứu Thế- Đà
Lạt. Không đầy một năm sau, vào ngày 19.5.1954, anh cả tôi đã chết trong một vụ
nổ mìn của Việt cộng, giết hại nhiều người vô tội trên chuyến tàu hàng Đà Nẵng-Huế. Ngày 19.5 được Đảng Cộng sản Việt Nam coi như ngày sinh của ông Hồ và vụ thảm sát đã được các con của anh tôi coi như một món quà sinh nhật đẫm máu mà Đảng Cộng sản Việt Nam dâng cho ông Hồ. Qua năm 1961, tôi trở về Sài Gòn điều khiển cơ quan ngôn luận của Dòng Chúa Cứu Thế- Việt Nam: chủ nhiệm nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, sáng lập và làm chủ nhiệm nguyệt san Tuổi Hoa, xuất bản sách Tuổi Hoa, sáng lập và chủ nhiệm nguyệt san Đối  Diện, Đứng Dậy. Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp có tính cách giáo dục Đức tin Kitô giáo, Tuổi Hoa nhằm giáo dục trẻ em, thanh thiếu niên vào đời. Đối Diện, Đứng Dậy có tính cách xã hội chính trị, chống
chiến tranh, chống sự hiện diện quân đội Mỹ trên miền Nam, hoạt động cho Hoà
bình, tranh đấu đòi trả tự do cho tù chính trị. Cũng vì thế mà chế độ cũ đã
nhiều lần đưa tôi ra toà và lần cuối năm 1972 với án tù năm năm cấm cố phạt một
triệu đồng và đóng cửa Đối Diện, Đứng Dậy. Nhưng tôi chưa đi tù và chịu
phạt tiền vì còn kháng cáo.

Trong những ngày cuối của chế độ Sài Gòn, khi các sư đoàn Bắc Việt bao vây Sài
Gòn và bắt đầu pháo vào thành phố, sáng ngày 29.4.1975 tướng Dương Văn Minh vừa
mới nhận chức tổng thống hôm trước đã gởi một phái đoàn chính phủ vào trại
David ở Tân Sơn Nhứt để thương thuyết với phái đoàn Mặt trận Giải phóng miền
Nam, nhưng không thành công. Vào buổi chiều cùng ngày, tổng thống Dương Văn Minh nhờ luật sư Trần Ngọc Liễng, giáo sư Châu Tâm Luân và tôi là những người được coi là thành phần thứ ba ở miền Nam đến thuyết phục Mặt trận. Chúng tôi gặp
tướng Nguyễn Anh Tuấn và đại tá Võ Đông Giang, yêu cầu đừng bắn phá vào Sài Gòn
và họ đồng ý pháo chút ít để làm áp lực tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng.
Quân Bắc Việt bắt đầu tiến quân vào Tân Sơn Nhứt nên ba anh em chúng tôi không
về nhà được nên đành ở lại trong hầm của đại tá Võ Đông Giang cho đến 16 giờ
chiều ngày 30.4.1975 mới trở về nhà được.

Từ ngày 30.4.1975, tôi vẫn tiếp tục tranh đấu cho hoà giải dân tộc, cho nhân
quyền. Nguyệt san Đứng dậy tái bản và bị đóng cửa năm 1978 vì đường lối của
chúng tôi đi ngược mưu đồ của ĐCSVN.

Đứng trước sự kiên trì của tôi trong việc tố cáo những vi phạm nhân quyền của
chế độ cộng sản, họ đày tôi đi Cần Giờ ngày 16.5.1990 và quản chế tôi ba năm ở
xã Cần Thạnh, bị tước quyền công dân, không được ra khỏi xã, cấm làm lễ, giảng
dạy và 15 ngày trình diện công an. Cùng lúc ấy, Giáo sư Nguyễn Ngọc Lan cũng bị
lục soát nhà ở quận 10 và cũng bị quản chế ba năm. Ba ngày trước khi hết hạn ba
năm quản chế, anh tôi là linh mục Nguyễn Văn Cơ, bề trên Dòng Chúa Cứu Thế- Nha
Trang bị tai biến mạch máu não và đã ra đi vĩnh viễn ngày 12.5.1993. Tôi được
thông báo cùng ngày là thời gian quản chế của tôi đã mãn và tôi ra Nha Trang
làm đám tang cho người anh, và trở lại Sài Gòn hoạt động như cũ cho đến nay.

Từ khi trở về Sài gòn, tôi vẫn tiếp tục công việc linh mục của tôi và vẫn lên
tiếng chống lại những vi phạm nhân quyền ở Việt Nam, như tôi đã nói trên đài
RFI ba tháng sau khi được thả tự do, trước ngày Liên Hiệp Quốc tổ chức Đại hội
về Nhân quyền ở Vienne, nước Áo, cũng như trên đài RFI nhân dịp Đảng Cộng sản
này chiếm miền Nam được 20 năm (30.4.1995). Và vừa rồi, nhân lễ Giáng sinh tôi
cũng tố cáo vi phạm nhân quyền, đặc biệt là quyền tự do tôn giáo trên Đài
truyền thanh Oslo ở Na-Uy và hôm nay tôi cũng tiếp tục tố cáo vi phạm nhân
quyền qua quý đài ở Cali. Đó là vài nét về tiểu sử và hoạt động của tôi trong
thời gian qua như anh mong muốn.

– Thưa linh mục, cách đây sáu năm, linh mục đã giảng ba bài sám hối, từ ngày đó đến nay đã có những thay đổi nào, tốt hay xấu trên lĩnh vực nhân quyền? Xin cho một ví dụ cụ thể.

– Tôi đã chân thành kêu gọi Đảng và Nhà nước cộng sản sám hối, tôn trọng nhân quyền và dân quyền. Nhưng thay vì sám hối và đổi mới, Nhà nước cứ ngày càng lún sâu vào con đường bạo lực chống lại con người và người dân Việt Nam.

Những ví dụ cụ thể không thiếu, ngay việc họ đày tôi ra Cần Giờ và quản chế ba
năm, ba ngày sau khi tôi quả quyết quyền của người dân và của Giáo hội phê phán
sai trái của Nhà nước, cũng như họ quản chế giáo sư Nguyễn Ngọc Lan ba năm tại
gia là một bằng chứng họ không sám hối, tiếp tục vi phạm trắng trợn đến quyền
tự do phát biểu ý kiến của người dân.

Cũng trong thời gian đó, họ quản chế ông Tạ Bá Tòng và ông Nguyễn Hộ là những
Đảng viên lão thành vì đã tập hợp những người kháng chiến cũ để đấu tranh cho
nhân quyền. Luật sư Đoàn Thanh Liêm bị đưa ra tòa và bị án tù 12 năm, đã đưa
một đề nghị hòa giải dân tộc. Ông Đỗ Ngọc Long đã bị bắt giam ba năm vì đã cộng
tác với một người mỹ tên Morrow để làm ăn. Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang bị
bắt giam vì đã tổ chức cứu nạn lụt ở Đồng bằng sông Cửu Long mà không theo hệ
thống của giáo hội Phật giáo quốc doanh, bị lên án đã chia rẽ tôn giáo, và
trong năm vừa qua, ông Hoàng Minh Chính, ông Đỗ Trung Hiếu, ông Hồng Hà và ông Hà Sĩ Phu cũng bị bắt giam vì nói thẳng nói thật với Nhà nước về những vi phạm
nhân quyền. Riêng Giáo hội Công giáo Việt Nam, Nhà nước can thiệp vào nội bộ
một cách trắng trợn, chống lại việc Tòa thánh đề cử các giám mục cho các giáo
phận không còn người lãnh đạo.

Đặc biệt giáo phận Sài Gòn, Tòa thánh đã đặt đức Cha Nguyễn Văn Thuận làm tổng
giám mục phó từ trước 30.4.1975. Nhà nước chụp mũ có nợ máu với nhân dân để
giam ngài trong 13 năm và sau khi ngài ra khỏi tù, lại trục xuất ngài ra khỏi
Việt Nam. Khi cố tổng giám mục Nguyễn Văn Bình đau nặng sắp chết, Tòa thánh đặt
Đức Cha Huỳnh Văn Nghi, giám mục Phan Thiết, làm giám quản Tông tòa giáo phận
Sài Gòn, họ báo sát ngài, theo dõi ngài từng ngày, từng giờ, cản trở ngài về
Sài Gòn thăm giáo phận hay thăm họ hàng.

Đó là những việc nổi cộm. Nhưng còn bao nhiêu vụ vi phạm tự do tôn giáo,
như họ hạn chế các chủng viện, hạn chế sĩ số, kiểm soát lý lịch của giáo sư,
ngăn cản việc phong linh mục, làm khó dễ hoặc chuyển các cha từ họ đạo này sang
họ đạo khác vv… và vv…

Tất cả những sự việc nói trên cũng đủ chứng minh là Nhà nước vẫn vi phạm trắng
trợn và thô bạo đến nhân quyền và dân quyền của người Việt Nam.

– Đạo là con đường cứu đời, cứu người và cả loài người nhưng trong một cuộc
phỏng vấn của một ký giả Ba Lan vào năm 1995, ông Hoàng Minh Chính đã cho rằng Giáo hội Công giáo ở Việt Nam đã chịu khuất phục Nhà nước và từ chối can thiệp cho những người tù nhân lương tâm. Hội Văn bút Ba Lan đã làm môi giới để xin Giáo hội Thiên chúa giáo ở Việt Nam can thiệp cho tù nhân lương tâm, nhưng họ
đã từ chối. Ý kiến của linh mục như thế nào?

– Trong bài giảng Sám hối thứ hai, cách đây sáu năm, tôi đã nói đến tư cách
ngôn sứ của Giáo hội và đã thẳng thắn nói thật nói thật với các vị lãnh đạo
Giáo hội cũng như với giáo dân, là Giáo hội chưa thực thi chức năng đó, chưa
bênh vực phẩm giá con người, của người dân Việt Nam. Chết hay đi tù vì con
người cũng là tử đạo.

Từ đó đến nay, tôi thấy chưa có gì thay đổi. Ít nhất là bên ngoài, giáo hội
chưa đòi hỏi Nhà nước tôn trọng những nhân quyền và dân quyền của người Việt
Nam bất phân tôn giáo. Hình như các giám mục chỉ đòi hỏi Nhà nước tôn trọng tự
do tôn giáo chứ không đề cập đến những vi phạm nhân quyền và dân quyền. Đó là
điều đáng tiếc. Hàng giáo phẩm phải mạnh dạn bênh vực con người. Anh cho biết
có một ký giả nói với ông Hoàng Minh Chính là Hội Văn bút Ba lan có có xin Giáo
hội Công giáo Việt Nam can thiệp cho những người tù lương tâm đã bị từ chối.
Điều đó chúng tôi không được biết. Nhưng nếu có lời xin đó và Giáo hội Công
giáo từ chối, tôi rất tiếc, nhưng tôi cũng không ngạc nhiên, vì các ngài xưa
nay chỉ lên tiếng khi các quyền lợi của Giáo hội bị vi phạm chứ chưa lên tiếng
bênh vực con người Việt Nam nói chung. Phải chăng các ngài sợ bị chụp mũ làm
chính trị, sợ gây khó khăn cho sinh hoạt tôn giáo của mình, như vậy là muốn cầu
an, thêm vào đó các ngài nghĩ rằng nói cũng chẳng đi đến đâu, chỉ thêm rắc rối,
bị trả thù. Như vừa rồi, Hội đồng giám mục trong một bức thư gửi Thủ tướng Võ
Văn Kiệt đã nói thẳng nói thật về những vi phạm đến quyền lợi thiêng liêng của
Giáo hội, thì Nhà nước trả thù bằng cách cấm các giám mục qua Rôma hội kiến Đức
Giáo Hoàng Gioan-Phaolô. Các ngài đã có nhiều kinh nghiệm về cái vô hiệu của
lời phản kháng của mình và lối trả thù của Nhà nước. Riêng tôi, tôi nghĩ rằng
các giám mục phải lên tiếng dù không kết quả, dù bị trả thù, vì đó là sứ mạng
của Giáo hội với con người. Trong Tin Mừng, Gioan Tẩy giả đã nói với Hêrôđê nên
bị tống ngục và bị chặt đầu. Chúa Giêsu đã nói thật nên đã bị đóng đinh trên
thập giá. Các tông đồ Gioan và Phêrô đã trả lời thẳng với các vị lãnh đạo Do
Thái “Thà vâng lời Chúa còn hơn vâng lời người”, và họ bị tống giam và
lấy mạng sống của mình để trả giá. Và qua lịch sử Giáo hội, các thánh tử đạo
Việt Nam cũng đã từ chối khuất phục và mạnh dạn thi hành sứ mạng ngôn sứ. Các
giám mục Việt nam đã thiếu can đảm để hoàn thành sứ mạng cứu người, cứu nhân
loại bằng gióng lên tiếng nói lương tâm và tiếng nói của Chúa. Họ quá khôn
ngoan theo khôn ngoan của người đời, muốn cầu an, chứ không chấp nhận phải bị
bách hại vì Chúa và vì con người là hình ảnh Thiên Chúa.

– Cũng trong cuộc đàm đạo ký giả Ba-Lan có nói với ông Hoàng Minh Chính là
các lực lượng đối lập ở Ba Lan gồm Giáo hội Công giáo, trí thức, Công đoàn đoàn
kết giành tự do cho Ba lan thay thế độc tài chuyên chính bằng một chế độ dân
chủ tự do, đấu tranh trả tự do cho tù chính trị. Trong bài giảng sám hối hai,
linh mục có nhắc đến hồng y Wyzinsky ở Ba Lan và Đức cha Tomaswk ở Tiệp Khắc
với cuộc biểu tình hằng trăm hằng ngàn người tín hữu, linh mục có nghĩ rằng
những người thiện chí cần học bài học đấu tranh cho nhân quyền?

– Ba Lan là Ba Lan, Việt Nam là Việt Nam. Ba Lan là một nước gồm đại đa số công
giáo và có một nền nhân bản Kitô giáo, cho nên cuộc đấu tranh cho nhân quyền là
những giá trị Kitô giáo, được đại đa số hưởng ứng và dễ đoàn kết để đấu tranh
có hiệu quả. Việt Nam, chỉ có một nhóm nhỏ sáu, bảy triệu công giáo trên 70
triệu dân, đa số theo Nho giáo, Phật giáo… công giáo chỉ là số nhỏ. Nho giáo ăn
sâu vào con người Việt Nam với một nền quân chủ chuyên quyền và một nền luân lý
độc đoán của người cha gia đình. Vua quan là cha mẹ dân. Mà cha mẹ có toàn
quyền sinh tử trên con cái. Thì những người cai trị coi mình có toàn quyền.
Người Việt Nam anh hùng chống ngoại xâm, nhưng nói chung cam chịu số phận, lụy
thuộc cha mẹ và vua quan. Nho giáo không có một nền luân lý tự do dân chủ, nên
dễ chấp nhận độc tài của vua quan. Phật giáo dạy diệt dục, diệt tham sân si,
kêu gọi sự nhẫn nhục. Nói chung cuộc đấu tranh cho người Việt Nam không dễ dàng
và đồng bộ như ở Ba Lan.

Tuy vậy, bài học của Ba Lan và của Tiệp Khắc rất quý giá cho những người thực
thi đấu tranh cho nhân quyền, tuy khó khăn hơn.

– Từ giữa năm 1995, sau khi các ông Hoàng Minh Chính, Đỗ Trung Hiếu, Thích
Huyền Quang, Thích Quảng Độ vị kết án rất trái pháp luật, dư luận thế giới đã
mong đợi giới độc lập trong nước đưa ra một bản kiến nghị lên án chế độ để
người bên ngoài hưởng ứng. Hồi cuối năm Hà Sĩ Phu, Hồng Hà cũng bị bắt giam,
linh mục có thấy động tĩnh gì về phía các lực lượng đấu tranh ở trong nước
không?

– Tôi không ngạc nhiên khi anh em ngoài thắc mắc chẳng thấy động tĩnh gì trước
một loạt bắt bớ giam cầm các vị chân tu và đảng viên có tinh thần dân tộc và
dân chủ. Không phải những lực lượng tranh đấu cho dân quyền, cho dân chủ trong
nước sợ không dám lên tiếng hay làm nhơ trước bạo lực và cảnh tù đày của các
anh đó. Chúng tôi ngồi yên nhìn các ngu dốt và cái sa lầy của một chế độ đang
trên đà tan rã. Họ càng bắt bớ, họ càng sa lầy, càng gây ý thức nơi người dân
về sự sa sút, thối nát và độc ác của họ. Họ nói họ bảo vệ chủ nghĩa xã hội, vậy
chủ nghĩa xã hội là cái gì? Đó là chủ nghĩa muốn xóa bỏ quyền tư hữu. Không
chấp nhận kinh tế thị trường, chỉ chấp nhận kinh tế tập trung vào Nhà nước, vào
các xí nghiệp quốc doanh. Nhưng nay ta thấy cái gì? Cái kinh tế đó đã đưa Việt
Nam đến tận cùng nghèo đói, lạc hậu. Bây giờ họ bỏ hết, chạy theo kinh tế thị
trường, chạy theo đô la thay vì phát triển để độc lập, họ xóa chữ “c” và chữ
“p” thành đô la rồi. Và theo đo la không phải cho dân nhờ, nhưng để bỏ túi. Vô
số những vụ tham nhũng, buôn lậu được tổ chức qui mô. Chủ nghĩa xã hội là một
thứ treo đầu heo bán thịt chó: một tập đoàn tham nhũng, buôn lậu mà nhân dân
gọi là mafia. Có gì là chủ nghĩa xã hội đâu. Trước sự tan rã này, những cuộc
bắt bớ kia chỉ làm trò đùa cho người dân. Làm trò cười khi bắt giam trái phép,
càng làm họ cười khi đưa ra xét xử rồi lên một cái án tức cười. Cho nên chẳng
cần kiến nghị, chả cần nói, chả cần động tĩnh gì, chỉ ngồi coi chơi và các anh
đang bị tù chắc cũng cười như anh Nguyễn Ngọc Lan và tôi cũng đã cười trong ba
năm quản chế, trước biện pháp lấy thịt đè người của Nhà nước.

– Chúng tôi ở ngoài được tin ông Hà Sĩ Phu ra Hà Hội để thảo luận bản Hiến
chương những nhân quyền cho Việt Nam tương tự như Tiệp Khắc, xin linh mục cho
biết tin tức này có cơ sở không. Nếu đáng tin, thì Nhà nước có dập tắt ngọn lửa
này. Theo linh mục có ai sẽ tiếp tục?

Tôi không nghe tin đó. Có những người bạn cho biết là anh Hà Sĩ Phú ra Hà Nội
thăm bạn bè và trao đổi về đủ thứ chuyện trên đời. Khi ra khỏi nhà bạn, công an
mời về bót và lục soát xắc tay của Hà Sĩ Phu và thấy có bức thư của Thủ tướng
Võ Văn Kiệt viết cho Bộ Chính trị về tự do dân chủ. Công an hỏi ai trao thư
này. Nghe nói Hà Sĩ Phu và Hồng Hà đều bị bắt giam. Chắc anh đã biết nội dung
bức thư của ông Võ Văn Kiệt? Ông Võ Văn Kiệt công khai hóa sự chia rẽ trầm
trọng trong Bộ chính trị. Võ Văn Kiệt chống việc đưa khu vực quốc doanh lên
hàng chủ đạo, chống dân chủ tập trung, đòi hỏi xây dựng Nhà nước Pháp quyền. Có
thế mới loại trừ nạn tham nhũng, buôn lậu.

– Trong ba bài giảm sám hối, linh mục đã kêu gọi cá nhân, Giáo hội, Đảng và
Nhà nước sám hối. Riêng linh mục, linh mục có sám hối không, vì trước 75 nhiều
người trong chế độ Sài Gòn đã coi linh mục như một người ăn cơm quốc gia, thờ
ma cộng sản như linh mục đã nói đầu cuộc phỏng vấn. Phải chăng qua những hoạt
động của linh mục trước 75 có ảnh hưởng đến thành công của cộng sản trong việc
làm sụp đổ miền Nam?

– Lòng sám hối phải là một thái độ mọi người phải có. Không ai dám tự cho mình
đã hoàn thành trách nhiệm của mình. Vì thế, tôi cũng phải sám hối. Nhưng không
vì đã hoạt động bảo vệ con người trong chế độ cũ. Chính chế độ vi phạm nhân
quyền, nên cộng sản mới lợi dụng những vi phạm ấy, lôi kéo dân chúng theo họ.
Và chính thiếu tài năng, thiếu đạo đức và tình trạng tham nhũng tuy nhỏ hơn bây
giờ, nhưng cũng đủ để cộng sản lợi dụng tuyên truyền, lôi kéo người dân theo
họ, đi lính cho họ và đã thắng chế độ cũ đưa đẩy Đất nước vào tròng nô lệ.

– Vừa rồi ông Nguyễn Đức Trấn đã viết một cuốn sách tố cáo vi phạm nhân
quyền. Chế độ đã lên án cuốn sách đó, ra lệnh tịch thu. Linh mục có biết hậu
quả của lệnh này có ai bị bắt bớ gì không?

– Ủy ban Nhân dân TP.HCM ra lệnh tịch thu cuốn sách Viết cho Mẹ và cho Quốc
hội
của bác Nguyễn Văn Trấn, một đảng viên cộng sản lão thành đã 81 tuổi.
Bác Trấn lên án chế độ, bằng cách đưa ra những vi phạm nhân quyền từ ngày có
Đảng Cộng sản ở Liên Xô cũng như ở Việt Nam. Đảng đã phân tích cuốn sách này và
đánh giá còn nguy hại cho Đảng  hơn cả những bài viết khác, như của Nguyễn
Hộ chẳng hạn. Tiếp theo bản phân tích đó, Ủy ban Nhân dân TP.HCM đã tuân lệnh
ra thông báo tịch thu, nhưng lại không cho phổ biến công khai trên báo chí, chỉ
nhằm tịch thu. Nhưng tịch thu ờ  đâu? Họ lại lục soát nhà bác Trấn. Lại có
vị đi mua về độc với một giá cao đặc biệt và ai đã đọc thì cất giữ kỹ và cho
bạn hữu đọc. Lệnh ấy cũng lạ kỳ, phải chăng, được lệnh trên, người ta làm thông
cáo cho có. Vì vậy cuốn sách càng được khắp nơi biết tới và nghe nói ở Hà Nội
cũng in ra dữ dội hơn. Và tôi cũng được biết ở bên Mỹ cũng đã in ra và được
đồng bào ta hoan nghênh. Như vậy, chưa có ai bị bắt vì cuốn sách này kể cả tác
giả. Tôi có nghe nói bí thư thành ủy có mời bác Trấn lên xác nhận những vi phạm
của Đảng, nhưng trách bác Trấn không viết những sự việc tích cực của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Bác Trấn bảo: chả có gì là tích cực cả. Thế là huề cả làng. Người
ta hăm dọa bác để sau đại hội VIII rồi sẽ tính. Mà làm gì bác, thì chế độ càng
hố. Chúng ta chờ một đám tang lớn: đám tang chế độ.

– Đúng là sách của bác Trấn được in ở Mỹ, in 2000 cuốn bán hết sạch, sắp in lần
thứ hai. Xin cảm ơn linh mục đã trả lời thẳng thắn những câu hỏi của chúng tôi.
Linh mục có nói thêm gì với đồng bào không?

– Năm cũ sắp qua, tôi xin gởi đến đồng bào trong nước cũng như ngoài nước lời
chúc mừng Năm Mới. Chúc đồng bào dồi dào sức khỏe, may mắn, hạnh phúc, đoàn kết một lòng đấu tranh để xây dựng đất nước giàu mạnh, tự do, dân chủ, con người và
gia đình được tôn trọng.

Thân ái chào đồng bào ở trong cũng như ngoài nước.

(28.1.1996)

(Tin Nhà số 23,tháng 3.96)

 

Thánh Silvestrê I,

Thánh Silvestrê I,

Giáo Hoàng (270-335)

Ngày 31/12

 

Thánh Silvestrê sinh vào khoảng năm 270 tại La Mã.

Năm 314, sau khi vua Constantinô trở lại, Giáo Hội được tự do và chấm dứt cơn bách hại kéo dài suốt hai thế kỷ trong toàn đế quốc La Mã, linh mục Silvestrê được bầu lên ngôi Giáo Hoàng (314).

Ngài đảm trách cai quản Hội Thánh giữa thời thuận tiện, ngài đã nỗ lực hoạt động để tổ chức lại Giáo Hội cho có quy củ.Ngài sửa đổi luật lệ, đặt nền móng cho lâu đài phụng vụ Kitô Giáo bằng cách ban nhiều sắc lệnh và cách thức cử hành các nghi lễ. Ngoài ra, ngài còn khuyến khích việc xây cất nhiều thánh đường, trong đó có đại thánh đường Phêrô tại Rôma và thánh đường Chúa Cứu Thế tại Latran. Nhưng việc vĩ đại nhất dưới triều đại của ngài là đã triệu tập công đồng chung lần đầu tiên cho toàn thể Giáo Hội ở Nicée vào năm 326 để kết án bè rối Ariô và bệnh vực thiên tính của Chúa Giêsu.

Sau 22 năm chèo lái con thuyền Hội Thánh, ngài ngã bệnh và qua đời ngày 21/12/335.

Maria Thanh Mai gởi

Giới trẻ, định hướng cho cuộc đời

Giới trẻ, định hướng cho cuộc đời

Tâm Thương

WGPSG — Người em cùng quê với tôi sắp thi tốt nghiệp ngành điều dưỡng.
Chỉ còn mấy ngày nữa thi nên tôi thấy em miệt mài học bài đến khuya. Tối nay có
sinh nhật nhỏ bạn nên em gác lại chuyện học bài để đi mừng sinh nhật. Tối hôm
trước khi thi môn thứ hai em cũng lai rai một két bia với mấy người bạn. Em
bình tĩnh dường như chẳng có chuyện gì xảy ra. Hình như chuyện thi cử đối với
em cũng bình thường thôi. Em học bài ôn thi kiểu cuốn chiếu. Hoàn toàn không có
sự đầu tư thật kỹ càng từ xa.

Bạn thân mến, câu chuyện trên đây làm tôi liên tưởng đến lối sống của
nhiều bạn trẻ hôm nay. Dường như họ không xác định được cái gì chính và cái gì
là phụ trong cuộc sống thường ngày. Dường như họ chỉ biết sống như lục bình
trôi sông hoàn toàn không có mục đích và định hướng. Bởi vậy mới có hiện tượng
học “cuốn chiếu”, gian lận trong thi cử, hay thi rớt và nợ môn không thể ra
trường được. Điều này dẫn đến biết bao tai hại cho chính bản thân người trẻ,
cho gia đình, nhà trường và xã hội. Vậy, nguyên nhân dẫn đến những hiện tượng
tiêu cực như thế là gì? Làm thế nào để người trẻ hôm nay sống một cuộc đời có ý
nghĩa và có định hướng? Còn đối với giới trẻ Công giáo chúng ta thì sao?

Nhiều bạn trẻ không biết mình đang muốn cái gì?

Trước tiên, nhiều người trẻ hôm nay sống không có định hướng. Nguyên nhân
sâu xa là do họ không biết mình đang muốn cái gì. Thật vậy, họ có thể biết
nhiều thứ văn minh hiện đại, nhưng không biết được chính mình. Nào là điện
thoại di động đắt tiền hiện đại với nhiều chức năng. Nào là nhiều nhà hàng nổi
tiếng với những món ăn đắt tiền. Nào là vi tính xách tay trị giá mấy chục
triệu. Nào là facebook, yahoo messenger hay những kỹ thuật vi tính như đồ họa,
lập trình, tạo trang web. Nào là sưu tầm những game thật hot v.v… Giá trị của
người trẻ phải chăng hệ tại ở những phương tiện vật chất như thế?

Người em cùng quê với tôi cũng rơi vào vết xe đổ như đã nêu trên. Tôi
nhận thấy em không có một định hướng và động cơ học hành nghiêm túc. Cứ tà tà
rồi cũng qua. Như vậy không được. Hơn nữa nghe nói rằng cái ngành điều dưỡng mà
em đang học là do cha mẹ của em chọn. Đã có lần em muốn bỏ cuộc giữa chừng cuốn
gói về quê làm thợ hồ phụ cha. Vậy đó, em làm cái điều mà mình không thích thì
làm sao có được động lực dấn thân cho ngành điều dưỡng được. Hơn nữa, cái ngành
này đòi hỏi cái Tâm và sự khéo léo tỉ mỉ của đôi bàn tay thầy thuốc. Nếu em
không muốn học thì hậu quả sẽ tai hại biết bao!

Thế nên, sống có mục đích và định hướng là chìa khóa dẫn con người dẫn
tới thành công. Thế nhưng, thực tế nơi phần đông những người trẻ thì ngược lại.
Bởi vậy, một tác giả đã nhận định thế này: “Ngày nay, khi chúng ta đang ở vào
thời điểm cạnh tranh gay gắt, nhiều người vẫn không biết mình sẽ làm gì ở tương
lai. Bởi vì họ chưa từng lên kế hoạch cho cuộc đời của mình. Hoạch định cuộc
đời là yếu tố quan trọng để bạn có một phương châm và đường đi đúng đắn rõ ràng
trong cuộc sống.” Quả thật, từ việc không biết chính mình dẫn đến việc đánh mất
chính mình. Lối sống không có định hướng dẫn đến những lệch lạc và mất định
hướng cho cuộc đời. Đó là lối sống chỉ biết hưởng thụ và lệch lạc nơi phần đông
người trẻ hôm nay.

Nhiều bạn trẻ chỉ biết sống hưởng thụ và lệch lạc

Bạn tôi không thích học hành và làm việc. Xu hướng của bạn ấy thích nhiều
thứ vui tiêu khiển như rượu chè, cờ bạc, hát karaokê, tiệc tùng, chở bạn gái đi
ăn uống vui chơi v.v… Anh ta chỉ biết đến cái nhất thời mà quên đi cả một tương
lai dài phía trước. Anh lấy cái phụ làm cái chính cho cuộc sống của mình. Anh
đánh bài thua sạch hết tiền. Anh đã từng bị mất hai chiếc xe. Ở Sài Gòn này
toàn người dưng nước lã nên biết mượn ai bây giờ. Anh chỉ biết điện về nhà cầu
cứu bà mẹ làm nghề đan lát ở dưới quê. Anh nói dối mẹ rằng anh bị mất tiền, mất
xe…Anh kéo lê cuộc đời trong những thú vui hưởng thụ lệch lạc như thế. Rồi cuộc
đời anh sẽ đi về đâu? Hoàn toàn không định hướng. Hoàn toàn không có một tương
lai ở phía trước.

Thực tế lối sống của phần đông người trẻ hôm nay là thế. Có mấy ai chịu
đầu tư cho chuyện học hành thi cử? Có mấy bạn trẻ ưu tư chọn cho mình một ngành
nghề hợp với sở thích, khả năng và có thể kiếm được nhiều tiền để nuôi sống bản
thân và gia đình? Thật vậy, nhiều người trẻ hôm nay lãng phí quá nhiều thứ.
Lãng phí thời gian. Lãng phí sức khỏe. Lãng phí tiền bạc. Lãng phí tuổi trẻ
v.v… Như lục bình trôi lênh đênh trên dòng nước, nhiều người trẻ sống không có
mục đích và định hướng cho đời mình. Họ không tìm ra được ý nghĩa và giá trị
của cuộc sống này là gì. Giá trị của con người là gì? Giá trị của tiền bạc là
gì? Giá trị của tình yêu là gì? Tôi sẽ là ai và làm gì trong tương lai? Thực tế
cho thấy họ thích sống tự do và hưởng thụ tối đa. Vậy lối sống ấy có làm cho
cuộc đời họ hạnh phúc, bình an không?

Phải chăng khởi đi từ những thực tế trên đây mà nhạc sĩ Ý Vũ đã sáng tác
những lời ca như sau: “Ta đi, ta đi tìm lại màu xanh. Cho hôm nay tuổi trẻ tràn
dâng sức sống” (Bài hát Xanh Lên Màu Mạ Non). Còn một tác giả nào đó đã mời gọi
người trẻ thế này: “Hãy định hướng cho tương lai của bạn ngay từ khi còn học
phổ thông theo đúng năng lực và sở trường để bạn không phải hối hận. Tiếp đó,
bạn nên hoạch định cụ thể cuộc đời của mình. Mất bao nhiêu năm để bạn tìm kiếm
điều mình muốn? Hãy biết nắm giữ tương lai của mình, đừng bao giờ sợ những gì
trong tương lai bởi vì chúng ta không hề biết tương lai sẽ là gì!” Còn đối với
những người trẻ Công giáo chúng ta phải sống thế nào?

Vậy, giới trẻ Công giáo phải làm gì để sống có ý nghĩa?

Bạn thân mến, mỗi người trẻ Công giáo chúng ta ít nhiều cũng bị lây nhiễm
những khuynh hướng xấu của xã hội. Sống không định hướng. Sống lệch lạc và
buông thả. Sống tự do muốn làm gì thì làm. Lối sống ấy nguy hại đến đời sống
đức tin và cuộc đời mỗi người trẻ chúng ta. Bởi thế, thánh Phaolô đã khuyên nhủ
chúng ta rằng: “Anh em đừng có rập khuôn theo đời này, nhưng hãy cải biến con
người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên
Chúa: cái gì là tốt, cái gì là đẹp lòng Thiên Chúa, cái gì là hoàn hảo” (Rm
12,2). Vậy, một cuộc đời có ý nghĩa đối với mỗi chúng ta là một cuộc đời có
Chúa. Không để lạc mất Chúa trong đời sống thường ngày.

Cuối cùng, cái gọi là “hoàn hảo” mà thánh Phaolô nói tới là gì? Xin mượn lời một bài hát để chúng ta suy nghĩ và tự trả lời cho mình: “Tuổi trẻ hôm nay, không biết hận thù. Tuổi trẻ vô tư, tâm hồn cao cả… Tuổi trẻ hôm nay, không sống riêng mình. Tuổi trẻ thênh thang, tâm hồn trời biển. Tuổi trẻ hôm nay, sống cho lý tưởng. Hiến dâng chính mình, dệt thắm màu xanh” (Bài hát Xanh Lên Màu Mạ Non, Ý Vũ).

Maria Thanh Mai gởi

Gia đình… Ôi! hai tiếng yêu thương.

Gia đình… Ôi! hai tiếng yêu thương.

Xóm tôi là một xóm lao động nghèo. Trước kia, nơi đây là những cánh đồng ruộng, nhà cửa thưa thớt. Thế nhưng, kể từ khi có chính sách mở cửa, nhiều nhà đầu tư đến biến đồng ruộng thành  khu chế xuất, khu công nghiệp, thế là cư dân địa phương đua
nhau cất nhà trọ.
Những người thuê nhà trọ đa số là công nhân, cũng có một số ít, họ làm nghề tự do như: thợ hồ, bán vé số, bán băng dĩa (dĩ nhiên là băng dĩa lậu).
Tập tục của người Việt Nam là “buôn có bạn, bán có phường”, vì thế, những người làm
nghề tự do, họ quy tụ lại với nhau mướn những căn phòng trọ gần nhà tôi. Hơi
dài dòng, nhưng đó là mấu chốt vấn đề mà tôi sẽ kể sau đây.
Vâng, sống gần họ, có nhiều điều hết sức bực bội, nhất là những khi họ đi bán về, nào là tiếng hò hét bởi nhóm người ăn nhậu, tiếng chồng chửi vợ, tiếng vợ cãi chồng, tiếng karaoke ầm ĩ. Đó là chưa nói tới lâu lâu lại xảy ra một vụ “đánh ghen”. Nói chung là rất mất trật tự.
Thế nhưng, hôm giữa tuần vừa qua, khoảng từ ngày 17 đến ngày 19/12/2012, tự nhiên, xóm tôi yên ắng hẳn. Theo nguồn tin của thông tấn xã “bà tám” cho biết, họ, những người ở trọ, lần lượt rủ nhau về quê.
Về quê làm gì? Đã tết đâu mà về quê? Xin thưa, cũng với nguồn tin trên, thì ra, vì họ sợ, sợ ngày 21/12/2012 sắp tới sẽ là “ngày tận thế”. Họ nói với nhau rằng, về quê, nếu có chết thì cùng chết chung với gia đình.
Cùng-chết-chung-với-gia-đình!…  Gia đình…  Ôi! hai tiếng yêu thương. Nhớ về biến cố 30/04/1975, nhiều người đã từ bỏ cơ hội di tản cũng chỉ vì: Ôi! yêu thương hai tiếng “Gia đình”.
“Gia đình”. Vâng, Thiên  Chúa, trong chương trình sáng tạo, Người đã tạo dựng một gia đình hoàn thiện, gia đình Ađam-Eva. Người đã đặt gia đình Ađam-Eva vào một nơi gọi là vườn Eđen. Tại đây, Thiên Chúa đã cho họ làm bá chủ “cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất”.
Nhưng than ôi! Gia đình Ađam-Eva đã phạm tội bất tuân lệnh truyền của Thiên Chúa. Sự phạm tội của Ađam-Eva không chỉ dẫn đến sự chìa lìa với Thiên Chúa mà còn xảy ra biết bao sự khủng hoảng trong gia đình.
Sự khủng hoảng đầu tiên, đó là, Ađam và Eva mất đi sự gắn bó “xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”. Mất đi sự gắn bó, gia đình Ađam-Eva mất đi “hai tiếng yêu thương”. Mất đi hai tiếng yêu thương, “gia đình Ađam-Eva” trở thành “chiến trường Cain-Abel”…  để rồi kết thúc là một án mạng.
Kể từ đó, khi nói tới hai tiếng “gia đình”, người ta thường tự hỏi. “… là đường đưa ta tới thiên đàng hay đưa tới địa ngục?” (Honoré de Balzac)
***
Không! Thiên Chúa, như lời Kinh Thánh chép, Người “là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới dất” (Ep 3,14). Cho nên, gia đình vẫn là nơi được Thiên Chúa chúc phúc, như xưa kia Người đã chúc phúc cho Ađam, rằng “Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó”. Gia đình vẫn là nơi được Thiên Chúa ban phúc lành, như xưa kia Người đã“ban phúc lành cho ông Noe và các con ông” (St 9,1).
Chính vì thế, “gia đình… hai tiếng yêu thương” vẫn nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.  Để thực hiện chương trình cứu độ, Thiên Chúa đã sai Con của
Người đến thế gian, không như một “Ngộ Không huyền thoại” với bảy mươi hai phép
thần thông biến hóa, nhưng bằng hình hài một hài nhi được sinh ra tại Belem bởi
một Trinh Nữ tên là Maria và người cha là Giuse.
Vâng, sự vâng lời của Đức Maria “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” và sự vâng phục của Thánh Giuse, sẵn sàng “làm như sứ thần Chúa dạy” đã gây chấn động toàn cõi Giêrusalem, chấn động bởi, Nadarét, nơi được cho là “làm sao có cái gì hay được” lại có một “Gia Đình Thánh – Thánh Giuse, Thánh Maria và Thánh Tử Giêsu”.
Gia-Đình-Thánh – không “thánh” bởi những “vầng hào quang” mà các vị họa sĩ, khi vẽ, thường tô điểm trên khuôn mặt các Ngài. Gia-Đình-Thánh – không “thánh” do những lời đồn đãi bởi những “ngụy thư” mang tính chất “huyền thoại”.
Gia-Đình-Thánh – “thánh” bởi chính đời sống đức tin, đức cậy và đức mến.
Vâng, hãy trở về làng Nadarét cổ kính năm xưa mà xem, có gia đình nào “sống đức tin” như gia đình Giuse-Maria-Giêsu!
Thật vậy, dẫu biết rằng Giêsu, “Người sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”,  nhưng không vì thế mà Maria-Giuse lại có thái độ “gần chùa gọi bụt bằng
anh”.  Trái lại, các Ngài vẫn trung thành với lề luật do “Đấng Tối Cao”, qua Apraham hoặc Mosê, đã công bố.
Luật Đấng-Tối-Cao dạy rằng “mọi đàn ông con trai… sẽ phải chịu cắt bì”, Hài Nhi Giêsu-Con Đấng Tối Cao, khi đủ tám ngày, đã “làm lễ cắt bì” (Lc 2, 21).
Luật Đấng-Tối-Cao dạy “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”, ông bà Giuse-Maria đã giữ đúng luật “đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng
cho Chúa”.
Thế nhưng, chính hôm cả gia đình Giuse-Maria-Giêsu “trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua” người ta mới có thể thấy đức tin, đức cậy và đức mến nơi Gia-Đình-Thánh vững mạnh như thế nào.
Chuyện kể lại rằng, hôm đó, sau khi “xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêsusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết”. (Lc 2, 43).
Ôi! Phải chăng cha mẹ Đức Giêsu vô tâm, thiếu trách nhiệm với con cái?
Thưa không. Chuyện là thế  này, Đền thờ Giêrusalem có bốn cổng, hai cổng dành cho nữ và hai cổng dành cho nam. Khi vào, nam và nữ phải đi đúng cổng quy định. Riêng trẻ em, có thể đi bên nào tùy thích. Cho nên, việc ông bà Giuse-Maria “cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành” là điều không có gì đáng trách.
Mà có gì phải đáng trách chứ! Hãy nhìn xem, sau khi tìm kiếm con giữa đám bà con và người thân thuộc… “Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm” (Lc 2, 45). Hãy nhìn xem, cha mẹ Đức Giêsu đã phải “cực lòng tìm con” như thế nào!
Nếu…  nếu cần trách… Vâng, thưa quý vị,  hãy trách những “ai đó” đã dùng lời con trẻ Giêsu nói với Mẹ Maria rằng, “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”,  để lấy đó như là lý lẽ biện minh cho việc “không cần coi ‘bà Mari và ông Giôsép’ như là mẫu mực của đức tin, đức cậy và đức mến”.
Đúng… đúng là “bà Mari và ông Giôsép”  đã “không hiểu lời Người vừa nói”, nhưng, liệu điều đó có tác động xấu đến đức tin của hai ông bà?  Thưa không, hãy nhìn xem,
Đức Maria và Thánh Giuse tuy không hiểu, nhưng các Ngài vẫn đặt niềm tin vào
lời “Con Đấng Tối Cao”… Bởi tin, nên các Ngài đã  “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2, …51).
Khép lại câu chuyện gia đình Giuse-Maria-Giêsu “trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua”, thánh sử Luca ghi lại rằng, Đức Giêsu đã “cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài”.  Người “càng ngày càng  thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta”…
Vâng, một gia đình như thế, quả là một  gia-đình-thánh, một gia đình gói ghém trong “hai tiếng yêu thương”.
****
Là một Kitô hữu, một người môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta  đã nhìn, đã lấy gia
đình Giuse-Maria-Giêsu như là  mẫu mực cho cuộc sống gia đình của chúng ta?
Hay chúng ta cho rằng, mô hình “gia đình Giuse-Maria-Giêsu”  thật khó thích hợp với chúng ta, chỉ là những phàm nhân, đầy yếu đuối và tội lỗi, làm sao có thể so sánh với một gia đình có hai “vị thánh Maria-Giuse” và một vị là “Con Đấng Tối Cao”?
Ôi! Nghĩ như thế có quá thiển cận không? Có đấy.  Chữ “thánh” được đứng trước tên Maria và Giuse là do chúng ta “nhét” vào, sau khi các Ngài không còn ở trần thế. Đối với các tông đồ, Đức Maria và thánh Giuse chỉ là cha mẹ Đức Giêsu, là ông bà Giuse-Maria.
Bàn tới, bàn lui cho vui vậy thôi. Chứ các Ngài quả là “thánh” nhưng cách trở nên “thánh” của các Ngài, chúng ta không thể nói là không noi theo được. Vâng, rất giản dị, chỉ hai chữ “vâng lời” đối với Đức Maria và “vâng phục” đối với Thánh Giuse.
Đừng nghĩ rằng, Thiên Chúa cũng sẽ bắt chúng ta “vâng lời và vâng phục” Người giống như cách Đức Maria và thánh Giuse xưa kia đã “vâng lời và vâng phục” .
Hôm nay, điều chúng ta cần vâng lời và vâng phục, chính là “tuân giữ các điều răn của (Thiên Chúa) và làm những gì đẹp ý Người” (1Ga 3, …22).
Thế nào là làm đẹp ý Người? Vâng, tác giả sách Huấn Ca cho biết rằng, đẹp-lòng-Đức-Chúa, đó là, đừng bao giờ làm cho gia đình mất đi bầu không khí yêu thương “anh em hòa thuận, láng giềng thân thiết, vợ chồng ý hợp tâm đầu” (Hc 25,1).
Chúng ta ước ao có được cả ba điều đó trong gia đình chúng ta? Nếu chúng ta thật sự ước ao, chắc chắn khi nói tới “Gia đình”, chúng ta sẽ không ngần ngại mà thốt lên rằng, “Gia đình… Ôi! Hai tiếng yêu thương”.
Petrus.tran nguồn:
Maria Thanh Mai gởi

Giấc Mơ Nước Mỹ

Giấc Mơ Nước Mỹ

(12/10/2012)

nguồn: Vietbao.com

Bài dự viết về nước Mỹ gửi từ Sài Gòn bằng email, được đăng nguyên văn, không thêm bớt. Bài viết ngắn, tác giả 30 tuổi, cho biết đây là những câu hỏi mong được các chú bác anh em ở Mỹ trả lời.

Tôi muốn được đặt chân tới Mỹ!

Đó là điều mơ ước cháy bỏng của tôi từ khi biết nhận thức sau khi rời Trung Học
để bước vào đời. Vì sao ư? Để tôi tìm hiểu về nền văn hóa, chính trị, giáo dục,
kinh tế của nước này. Để tôi tự trả lời cho nhiều câu hỏi cứ thôi thúc trong
đầu mình bao nhiêu năm qua từ khi tôi biết nhận thức về đời sống.

Tôi muốn đến Mỹ, để tôi hỏi vì sao đồng bào tôi có mặt ở đây, và sự ra đi này kéo dài hơn một thế hệ rồi, mà đến bây giờ hằng ngày đi ngang Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn vẫn còn lũ lượt người chờ đợi một tấm vé đặt chân vào Mỹ, dù đất nước Việt tôi đã im tiếng súng đã lâu, từ khi tôi chưa chào đời.

Tôi muốn đến Mỹ xem coi có phải đó là Thiên Đường không mà đồng bào tôi, bạn bè
tôi sau khi định cư vài năm có trở về thăm quê họ như một con người khác, lịch
sự nhã nhặn, có kiến thức giỏi giang hơn rất nhiều. Tôi tự hỏi điều gì đã làm
nên đôi hia bảy dăm đó?

Tôi muốn đi để hỏi các cô gái lấy chồng “Việt Kiều Mỹ” niềm vui rạng ngời hơn các cô gái phải bán thân đi Đài Loan, Hàn Quốc, Campuchia?

Tôi muốn đi để thấy, để biết Tổng Thống Mỹ có phải ông Trời không mà sao cả thế
giới phải nghe ngóng, chờ đợi mỗi mùa bầu cử Tổng Thống Mỹ?

Và tôi muốn đi để hỏi các Chú Bác những chiến hữu của Ba tôi ngày xưa được chìa
khóa HO để đến thiên đường nước Mỹ, có còn nhớ đến bạn bè chiến hữu, quê hương
hay không. Mà sao ai cũng chen chân bỏ lại “chùm khế ngọt” mà hân hoan làm kẻ
lưu vong?

Tôi muốn gặp những người cùng lứa tuổi tôi là Người Mỹ Gốc Việt để thử xem cách
xa hai nửa bán cầu, tuổi trẻ có gì giống và khác nhau.

Cuối cùng tôi muốn đi để xem vì sao, hấp lực gì mà hàng triệu người miền Nam đổ
xô ra biển không định hướng những năm sau 1975 đến những năm 1990 và tiếp tục
đến bây giờ bằng nhiều cách.

Nhưng đường đến nước Mỹ với mình chắc xa diệu vợi. Thôi thì các Chú, Bác anh em
đồng bào ở Mỹ có ai còn tâm tình với những người bên này vui lòng trả lời dùm
tôi, một thanh niên 30 tuổi những câu hỏi vừa nêu, để tôi khỏi khắc khoải về
một nước Mỹ vô cùng lạ lẫm, và thần kỳ. Nếu vậy thì âu cũng là một niềm vui lớn
rồi, chứ chưa dám nghĩ ngày nào đó mình đạt chân đến Mỹ quốc!

Mong lắm thay!

Nguyên Giang

 

Những Câu Hỏi Của Thượng Đế

Những Câu Hỏi Của Thượng Đế

Lucie Thảo chuyển

Thượng Đế sẽ không hỏi

về số quần áo bạn có trong tủ,

mà sẽ hỏi bạn đã giúp

bao nhiêu người có quần áo?

Thượng Đế sẽ không hỏi

bạn có bao nhiêu tài sản vật chất,

mà sẽ hỏi chúng có được tạo ra

từ lao động của bạn không?

Thượng Đế sẽ không hỏi

mức lương cao nhất của bạn bao nhiêu,

mà sẽ hỏi bạn có bán rẻ nhân cách của mình

để đạt được nó không ?

Thượng Đế sẽ không hỏi bạn làm thêm bao nhiêu giờ,

mà sẽ hỏi thời gian làm thêm đó bạn

có dành cho gia đình của bạn hay không?

Thượng Đế sẽ không hỏi bạn đã nhận được bao nhiêu lời khuyến khích,

mà sẽ hỏi bạn đã khích lệ người khác như thế nào?

Thượng Đế sẽ không hỏi nghề nghiệp của bạn là gì,

mà sẽ hỏi bạn thực hiện công việc của mình với khả năng tốt nhất chưa?

Thượng Đế sẽ không hỏi bạn làm gì để giúp cho bản thân,

mà sẽ hỏi bạn đã làm gì để giúp đỡ mọi người?

Thượng Đế sẽ không hỏi bạn đã làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình,

mà sẽ hỏi bạn đã làm gì để bảo vệ quyền lợi của người khác?

Thượng Đế sẽ không hỏi bạn sống cạnh láng giềng nào,

mà sẽ hỏi bạn đối xử với những người hàng xóm của bạn như thế nào ?

Thượng Đế sẽ không hỏi về màu da của bạn,

mà sẽ hỏi về phẩm chất của bạn.

Và Thượng Đế sẽ không hỏi bạn có bao nhiêu bạn hữu,

mà sẽ hỏi có bao nhiêu người mà đối với họ bạn đích thực là một người bạn.

Bạn thân mến,

Tất cả chúng ta đều có chung một Cha trên Trời, và mọi người đều là anh chị em

chúng ta hãy đối xử với nhau như đối xử với những bức tranh,

nghĩa là chúng ta hãy đặt họ ở những góc độ có nhiều ánh sáng nhất.

nguồn: http://chiaseloichua.com/

GIA ĐÌNH – ƠN GỌI YÊU THƯƠNG

GIA ĐÌNH – ƠN GỌI YÊU THƯƠNG

Nam Giao

 

Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành,

Gia đình con được song hành yêu thương.
Tình yêu kết trái ngát hương,
Vợ chồng con cái vấn vương tình Trời.

Gian nan khốn khó không rời,
Qua đời tạm gởi, tung lời ngợi ca
Tình yêu Thiên Chúa bao la,
Thánh Gia gương sáng, con đà vững tin.

Gia đình là nơi đào tạo cho ta tình yêu và cuộc sống vui tươi. Thiên Chúa luôn chúc phúc cho gia đình, biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau, biết kính thờ và ngày đêm nguyện cầu Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần.

Gia đình là nơi được chúc phúc nhiều nhất.

Chúa Giêsu xuống trần gian để cứu nhân độ thế, không ngự xuống trên tòa sen,
hay trong cung điện, lâu đài vua chúa, mà lại chọn vào cung lòng trinh nữ đồng
trinh làm mẹ, như bao nhiêu con người được sinh ra trên gian trần, để rồi lãnh
nhận sự dưỡng dục dưới mái ấm gia đình Thánh Gia, cho chúng ta nhận thấy gia
đình thật là một hồng ân.

Mừng lễ Thánh Gia, Giáo Hội dạy cho ta điều gì?

Tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi thực hành ngay trong cuộc sống gia đình.

Việc sinh hạ Đức Giêsu Ngôi Hai Thiên Chúa được diễn ra một cách đặc biệt. Ngài
có cha và mẹ đàng hoàng: Mẹ Ngài là một trinh nữ có tên là Maria và cha Ngài là
bác thợ mộc tên là Giuse.

Kinh Thánh gọi Giuse là người công chính: Sau khi được Thiên Chúa báo mộng,
Giuse không còn thụ động nữa, ông tỉnh giấc và tuân hành lời thiên thần truyền.
Giuse mau mắn thi hành mọi mệnh lệnh của Thiên Chúa liên quan đến Con Thiên
Chúa xuống thế làm người, qua việc ngài làm bạn với Đức Maria và là cha nuôi
của Chúa Giêsu.

Thiên Chúa thấu suốt ngọn ngành,
Chọn làm dưỡng phụ liền cành Cây yêu (Giê-su)
Tay bồng bé thánh Giê-su,
Giu-se nhánh huệ chăm tu Nước trời.

Bên người vợ thánh huyền mơ,
Hai tâm hồn đẹp nên thơ cho đời.
Ngôi Lời xuống thế làm người,
Có cha, có Mẹ như người trần gian.

Gia đình nơi chốn hòa vang,
Cất lên tiếng hát âm vang trung thành.
Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành,
Cho người gia trưởng an lành hào quang.

Giu-se gương mẫu người cha, Một đời sống thánh hoan ca Nước Trời. Hướng lòng
lên Chúa cao vời, Quyết tâm dâng hiến nên lời cậy tin.

Huệ thơm khiết tịnh hồn trinh, Gương soi sáng quá anh minh trần đời. Khiêm
nhường sâu thẳm dâng lời, Niềm tin cậy mến Chúa Trời tình yêu.

Sống đời quả thật cô liêu, Ngày ngày thợ mộc, sáng chiều cầu kinh. Dâng lên
Chúa Cả Thiên Đình, Lòng thành trung tín thấm tình con thơ.

Chúa Cha nhìn đến hồn thơ, Chọn làm dưỡng phụ thiên cơ Ngôi Lời. Lắng nghe Lời
Chúa gọi mời, Xin vâng lãnh nhận không lời đắn đo.

Nhiều đêm cảm thấy giằng co, Mộng lành của Chúa lắng lo nỗi gì.

Giu-se Đức Mẹ liên chi,
Mối tình thánh hiến ngọc chi Nước Trời.
Gia đình Con Chúa Ngôi Lời,
Dạy ta cách sống nên lời ngợi ca,

Hai tâm hồn thánh song ca ngày đời, cho người yêu Chúa bài học niềm tin, gẫm
suy cảm mến mà say thực hành.

Giu-se Đức Mẹ tuyệt vời,
Giu-se nhánh huệ Nước Trời đẹp xinh.
Hoa hồng của Mẹ quang minh,
Hai tâm hồn thánh quên mình hy sinh.

Mộng lành như ánh bình minh,
Phó dâng, dâng hiến trung trinh lòng thành.
Chúa Trời nhìn đến chúc lành,
Ngôi nhà tình ái liền cành cây yêu. (Giê-su)

Nhiều đêm suy nghĩ đăm chiêu,
Quyết tâm dâng Chúa lắm điều ước mơ.
Sống bên người vợ huyền mơ,
Cùng chung chí hướng nương nhờ Chúa thôi.

Tâm hồn thánh hiến sáng ngời,
Nhẹ nhàng thoang thoảng dâng lời tạ ơn.
Sa-tan quỷ quái chờn vời,
Nhưng không rủ được, thôi thời tránh xa…

Nguyện cầu Thiên Chúa gia ân, cho đời đôi lứa yêu thương chân thành, gia đình
thánh hiến trung thành bên nhau.
Nhìn gương Thánh Gia, Ba tâm hồn thánh nêu gương cho đời, trải bao cay đắng
trên đời, gẫm suy mới thấy niềm tin tuyệt vời.

Ngày nay quá lắm thương đau, gia đình đổ vỡ, con thơ lạc đường, không người
canh giữ đoạn trường nuôi con, bỏ quên trách nhiệm tạo thành, say mê tình quỷ
để rồi vong ân. Gia đình hết chốn liền cành cây yêu…

Thuyền tình gia trưởng tuyệt vời,
Mẹ cha ánh sáng cho đời con thơ.
Quỷ ma nhìn thấy ngẩn ngơ,
Người Ki-tô hữu tôn thờ Chúa thôi.
“Có Chúa ở với tôi, tôi sẽ không còn sợ chi. Có Chúa ở với tôi, tôi còn lo
sợ nỗi gì?”
Gia đình ơn gọi yêu thương,
Chúng con quyết sống hiền lương chân thành.
Tay đan tay, nhịp bước song hành,
Cùng nhau dâng tiếng vinh danh Cha hiền.

Nam Giao

Maria Thanh Mai gởi

Nói cho con người: Lm. Chân Tín (27)

Nói cho con người: Lm. Chân Tín (27)

Đăng bởi lúc 1:33 Sáng 29/12/12

nguồn: Chuacuuthe.com

VRNs (29.12.2012) – Sàigòn –

Cụ Nguyễn Văn Huyền và Mặt trận Tổ quốc

Cần Giờ, ngảy 30 tháng 9 năm 1994

Anh chị thương,

Sáng nay, Chân Tín về Cần Giờ như thường lệ, mỗi tháng 3, 4 ngày. Thêm vào đó, ngày mai là lễ Thánh Têrêxa, bổn mạng nhà xứ và ca đoàn, nên càng phải xuống. Về đây, rảnh rỗi hơn; không có khách, không đi kẻ liệt, không đi ăn cưới, ăn giỗ, ăn sinh nhật của ai hết. Thế là có thời giờ viết thơ cho các anh chị.

Cũng như mỗi tháng, Chân Tín đến giải tội và ban Mình Thánh cho cụ Nguyễn Văn Huyền, bị tim đã 5, 6 năm nay. Tôi có hỏi cụ sao lại có cái kỳ cục là tên cụ nằm trong danh sách Ủy ban Mặt trận Trung ương. Cụ bảo rằng hôm tết, ông Nguyễn Hữu Thọ (ngày trước hai người cùng làm luật sư) đến thăm và nói xa gần việc mời cụ vào Mặt trận. Cụ lờ đi nói chuyện khác. Rồi cách đây vài tháng, ông Phan Khắc Từ đến thuyết phục cụ. Cụ từ chối vì cụ nằm giường không thể nằm Mặt trận. Rồi 10 ngày trước Đại
hội Mặt trận, ông Hanh và một vị khác trong Mặt trận Thành Phố đến mời cụ, và
họ đến mỗi ngày làm áp lực. Họ bảo: “Nếu cụ bệnh, Nhà nước sẽ cho một bác sĩ
tháp tùng”. Cụ bảo: “Bao nhiêu bác sĩ cũng chẳng làm gì được, tôi chết là tôi
chết”. Không thuyết phục cụ đi được, nên sau Đại hội, họ để tên cụ Huyền vào
danh sách Ủy ban Trung ương Mặt trận. Thật hề và thật dã man. Họ coi mạng sống
con người không ra gì. Chỉ cần có một uy tín trong Giáo hội và là Phó Tổng
thống chế độ cũ vào Mặt trận, để reo hò đoàn kết và đại đoàn kết. Cụ Huyền lắc
đầu tỏ vẻ rất buồn. Có lẽ có nhiều cụ cũng đã “bị bắt nằm với Mặt trận”. Một vụ
cưỡng hiếp tinh thần. Ôi đoàn kết, đại đoàn kết! Ôi đổi mới! Ôi dân chủ!

Sắp có bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp. Mấy ‘Anh Nông Dân’ tuyên bố: “Kỳ này sẽ bầu cử dân chủ, tự do, thực sự, có tự do ứng cử”. Bầu cử Quốc hội vừa rồi cũng nói thế, nhưng mấy ‘ứng cử tự do’ phải rút lui vì bị áp lực chỉ còn vài người làm “cò mồi” rồi
cũng rơi đài . Kỳ này trên báo chí cũng cho biết 5, 10 người gì đó cũng ‘tự do
ứng cử’. Chắc rồi cũng vậy. Bao lâu còn độc đảng, độc tôn, độc quyền, thì họ
vẫn trắng trợn bảo đảm 100% người của Đảng hay tay sai. Buồn cho Đất nước.

Ngày 28/9, lễ đám tang của một tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế, 73 tuổi, 53 năm tu Dòng. Trong bài giảng (lại giao cho Chân Tín giảng), Chân Tín có đề cập đến tình trạng bi đát của gia đình thầy ở Bến Tre. Tôi đặt hoàn cảnh của thầy ấy trong bối cảnh Đất nước: Sau 75, cả nhân dân miền Nam phải chịu nhiều đau khổ và bất công. Hàng trăm ngàn người trí thức và người của chế độ cũ phải đi học tập cải tạo mười mấy năm, có người chết trong trại, đa số đói khát bệnh tật, để lại vợ con ở ngoài nheo nhóc thiếu
chồng, thiếu cha; hàng triệu người đi di tản, và hàng trăm ngàn người chết trên
biển; tư sản bị bóc lột hết cả tiền bạc cơ sở; ở nông thôn không có đấu tố như
54 ở miền Bắc, nhưng nông dân mất hết ruộng đất. Nhà thẩy Bernard Thái Văn
Hưởng có nhiều ruộng đất trước 75, nhưng trong chín anh em thì bảy người đã
chết, thầy Hưởng là trai trưởng cũng như cô gái út đi tu. Trước 75, hai anh em
yên tâm đi tu, vì cha mẹ già với ruộng đất có thể tự túc được. Sau 75, gia đình
thầy mất hết ruộng đất, chỉ còn hai ông bà già, thầy Hưởng và cô em đành phải
về quê để lấy lại vài công ruộng, tự tay cày cấy để nuôi cha mẹ già. Lúc ấy
thầy đã 57 tuổi, không quen làm ruộng, thời tiết xấu, không đủ ăn. Dòng Chúa
Cứu Thế cũng đã yểm trợ, nhưng dòng cũng mất nhiều tiền của, cơ sở làm ăn, nên
sự giúp đỡ gia đình thầy cũng có giới hạn. Trong hoàn cảnh bi đát của Đất nước,
cũng như của riêng thầy, thầy đã can đảm vừa tiếp tục ơn gọi tu sĩ vừa phụng
dưỡng cha mẹ già. Thầy đã ra đi. Khi mẹ già trên 90 tuổi vẫn còn đó.

Sau bài giảng này, có người bảo Chân Tín thù dai! Chân Tín không thù, như Chúa dạy và riêng Chân Tín không có gì để thù. Trái lại rất yêu thương người Việt dù cộng hay không cộng. Nhưng chúng ta “không có quyền quên” những người nằm xuống và những người  đau khổ vì chế độ hả khắc. Lai rai, Chân Tín vẫn nhắc nhở, kẻo có người thấy phồn vinh giả tạo với những khách sạn khổng lồ, với đàn khách sộp đến ăn và chơi, đến hốt tiền và con cái nhà lành, rồi quên đi những nhân quyền đã bị chà đạp và
đang bị chà đạp.

Người ta khéo bày trò  dân chủ và đoàn kết, như vụ cụ Huyền, để lừa dối thế giới tự do. Nhưng than ôi! Thế giới tự do cũng nhắm mắt, để thủ lợi trong cái chợ chiều đang nhộn nhịp bán đất bán nước.

Mến thương.

Lm. Chân Tín

Tái bút: Cần Giờ, 1/10/94

Anh chị thương,

Hôm qua, mới về Cần Giờ đã viết thư cho anh chị. Hôm nay, Chân Tín viết thêm vài hàng về “kế hoạch hóa gia đình” để bớt dân số.

Hôm 8/9/94, tại nhà thờ Phaolô 3, cha sở chúc mừng 50 năm khấn Dòng của thầy Tôma (Dòng Chúa Cứu Thế) đã phục vụ ở đó cả chục năm nay. Chân Tín được mời giảng, vài phút trước thánh lễ. Được mời đột xuất, vì cha giám tỉnh mời cha sở và cha sở mời giám tỉnh giảng, rốt cuộc không ông nào giảng cả, chẳng đặng đừng, Chân Tín được mời. Chân Tín nói với cha sở là Chân Tín có giảng sao ở tù ráng chịu. Cha sở chịu chơi. Cứ giảng.

Tự nhiên, Chân Tín không giảng về 50 năm khấn Dòng, mà giảng về tình trạng bất thường của đời sống tu ở Việt Nam. Nhà nước rất dễ dãi với việc ăn chơi trác táng, còn những người dấn thân phục vụ con người như người đi tu thì gặp nhiều khó khăn. Các Dòng tu bị cấm hoạt động xã hội giáo dục, cấm chiêu sinh, phải sống chui đời sống tu trì, vv và vv…

Phần hai: mấy tháng nay, trên thế giới, báo chí nói nhiều về việc phá thai để bớt dân số. Bản thảo của Liên Hiệp Quốc đang nhóm họp ở Cairô như vấn đề phá thai lên hàng đầu. Vatican và các Hội đồng Giám mục khắp thế giới lên án mạnh mẽ chủ trương đó. Nhưng biện pháp đó đã được chế độ Cộng sản Việt nam thực thi triệt để lâu năm rồi. Ở miền Nam sau ngày giải phóng, chủ trương phá thai để bớt dân số: một thai nhi được sống và một thai nhi phải chết. Phá thai ở mọi lứa tuổi. Ở các nước Âu Mỹ, có phá thai cũng chỉ dưới sáu tuần. Ở VN sáu tháng tuổi vẫn cứ phá. Và nay, chủ
trương ‘một sống, một chết’. Thế nhưng ở Cairô, đại diện VN đã chối leo lẻo và
bảo VN không chủ trương phá thai làm phương tiện giảm dân số. Chân Tín kết thúc
bằng đề nghị một phương thế hiệu nghiệm để giảm bớt dân số VN: Nhà nước thôi áp
lực trên các dòng tu, cho mở nhiều tu viện nam nữ, nhiều thanh niên nam nữ đi
tu, tức không sanh đẻ là phương thức tuyệt hảo bớt dân số ở VN. Anh em gọi
phương pháp của Chân Tín là “Cairotin”! Chắc nay mai ông Nhà nước sẽ tháo gỡ
việc tu hành?!

Lm. Chân Tín

(Tin Nhà số 17, trang 11-12)

 

Lời chứng về Lòng Thương Xót Chúa

Lời chứng về Lòng Thương Xót Chúa
15/12/2012                               nguồn: Thanhlinh.net
Tác giả: Paul Nguyễn

LỜI CHỨNG VỀ LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT.
Vào những ngày cuối tháng 09/2012, trong một buổi sáng tôi chợt cảm thấy mắt
phải của tôi xuất hiện một đốm đen lớn. Tiếp theo một màn đen  kéo nhanh
xuống trên mắt sau hai đến ba ngày. Tôi vội tới BS tư chuyên khoa mắt để khám,
BS chẩn đoán thoái hóa pha lê thể (do trước đó tôi cũng đã điều trị Lasik do
mắt cận 8 độ và phẫu thuật Phaco thay thủy tinh thể) đồng thời cho thuốc nhỏ và
thuốc uống .
Nhưng hai ngày sau màn đen trong mắt kéo nhanh hơn che gần phân nửa mắt, tôi
quyết định tới BV mắt Sài gòn. Sau khi kiểm tra, BS kết luận mắt tôi bị bong
võng mạc, một chứng bệnh khá nguy hiểm có thể gây mù nếu không chữa trị sớm. BS
giải thích cặn kẽ và yêu cầu tôi phải phẫu thuật sớm.
Quả thật tôi rất lo, nhưng niềm tin vào Cha trên trời và Mẹ Maria đã giúp tôi
luôn cầu nguyện với Người. Tôi mong muốn gặp được vị BS giỏi để chữa trị, vì
qua thông tin trên mạng Internet, bong võng mạc là do các yếu tố: cận thị nặng,
tiểu đường, tiền sử chấn thương và có khi phải phẫu thuật tới lần thứ hai hoặc
ba hoặc hơn, nhất là phải tuân thủ nghiêm ngặt ở các tư thế sau khi mổ. Phẫu
thuật nhiều lần thật sự là mối lo về thời gian và chi phí.
Tôi trở lại phòng khám BS tư lúc ban đầu, vì BS cũng là người nhà của người bạn
giới thiệu, dẫu sao cũng là BS giỏi chuyên khoa khúc xạ tại BV mắt TP. Mang
chứng từ y tế của BV mắt Sài gòn tới, sau khi xem xét BS đề nghị tôi tới BV mắt
TP kiểm tra. Hai ngày sau tôi có mặt tại BV và BS viết giấy giới thiệu gặp BS D
hội chẩn, đây là vị BS chuyên khoa Dịch kính – võng mạc, nổi tiếng và đã tu
nghiệp tại ngoại quốc.
Kết quả chẩn đoán: Bong võng mạc và BS yêu cầu hôm sau phẫu thuật ngay.
Cảm tạ Chúa và Mẹ Maria đã yêu thương giúp cho tôi gặp được một BS giỏi điều
trị.
Ngày 04/10/2012 tôi vào BV để phẫu thuật và làm giấy cam kết cho việc phẫu
thuật lần hai hoặc lần ba nếu kết quả không tốt, trước đó tôi nhờ các anh chị
trong nhóm LTX của Chúa thuộc nhà thờ Tân Định và DCCT cầu nguyện. Tôi cũng tới
trước hang đá Đức Mẹ Lộ Đức tại nhà thờ DCCT và trước tượng Thánh Giuse tại GX
của tôi để cầu nguyện cho ca mổ được kết quả tốt đẹp.
Nằm trên giường mổ, sau khi đã gây tê, hồi hộp lắm nhưng vẫn cẩu nguyện với
Chúa và Mẹ bằng chuỗi kinh LTX và kinh Mân côi. Khoảng 1giờ 10 phút ca mổ kết
thúc, trong lúc phẫu thuật tôi minh định rằng chính Từ mẫu Maria qua bàn tay
của vị BS nữ kia đã mổ và xử lý các tình huống trong mắt tôi, còn người nam kỹ
thuật viên kia lúc khâu, đóng vết mổ là hiện thân qua bàn tay của Cha Jesus rất
kính yêu. Và mọi sự kết thúc tốt đẹp.
Những lần tái khám và sử dụng thuốc, đến nay đã hơn hai tháng, mắt phải đã ổn
định dù thị lực có thể không bằng lúc trước. Đôi khi tôi rất lo lắng vì võng
mạc không dính do sự co kéo của pha lê thể hoặc sự phát triển của mô xơ trong
mắt sẽ làm bong võng mạc. Có những lúc như vậy tôi chợt tỉnh và tự trách mình .
Tại sao lại yếu đức tin như vậy, miệng thì nói “ Lạy Chúa Giêsu con tín thác
vào Chúa” nhưng sao lòng cứ vẫn băn khoăn, tại sao tôi không tin vào một Thiên
Chúa quyền năng nhưng giàu lòng thương xót, tại sao tôi không tìm sự bình an
nơi Mẹ Maria rất kính yêu luôn bảo vệ và hằng che chở cho tôi mỗi khi tôi đến
với Người.
Lạy Thiên Chúa và Mẹ Maria của con, con thành tâm cầu xin sự tha thứ vì thân
phận thụ tạo hèn mọn nơi con người yếu đuối của con.
Và bây giờ tôi tìm lại sự lạc quan và tín thác trong tình yêu thương nơi hai
Đấng.
“Thánh Thánh Thánh chí Thánh.
Đấng đã có , hiện có và đang đến.
Amen! xin kính dâng Thiên Chúa lời chúc tụng và Vinh quang
Sự khôn ngoan và lời tạ ơn
Danh dự uy quyền và sức mạnh
Đến muôn thưở muôn đời. Amen”
Ngợi khen Đấng đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Mẹ, Cảm tạ Mẹ Maria, Đấng ban phát mọi ơn lành Amen.
Xin gửi đến anh chị và các bạn những lời nguyện sau đây, hãy tin tưởng và hãy
đến với Chúa Giêsu và Mẹ Maria trong những khi  thể xác bệnh tật và đau đớn.
KINH NGUYỆN CHỮA LÀNH
Lạy Cha chí thánh, Đấng toàn năng, hằng hữu. Con chúc tụng và ngợi khen Cha
Đấng ngự trên trên trời đã ban Con Một Cha là Chúa Giêsu yêu dấu đến thế gian
để cứu chuộc con. Chúa Giêsu khi còn ở thế gian đã chữa lành mọi bệnh tật và
giải thoát những người bị quỷ ám. Giờ đây, con cậy nhờ Danh Chúa Giêsu cao cả
và quyền năng vô biên của Ngài giải thoát con khỏi mọi bệnh tật thể xác.
Lạy Chúa Giêsu, xin dủ lòng thương xót nhìn vào mắt con với đôi mắt nhân từ của
Chúa, xin chạm vào thương tích của con với bàn tay chữa lành của Chúa, hầu thân
xác con được lành mạnh. Xin cho con một trái tim luôn biết tạ ơn và ca ngợi
tình thương của Chúa. Xin Chúa dùng con là nhân chứng sự chữa lành của Chúa, và
cho con luôn biết loan truyền kỳ công của Chúa đến muôn đời. Amen.
KINH NGUYỆN ĐỨC MẸ LỘ ĐỨC
Lạy Đức Nữ Đồng Trinh Vô Nhiễm. Mẹ Của Lòng Thương Xót, là Sức Khỏe của những người bịnh, là Nơi Trú Ẩn Của những người tội lỗi, nguồn An ủi của những người mang thương tích. Mẹ biết những nhu cầu, những khó khăn và nỗi thống khổ của con.
Xin Mẹ thương xót nhìn đến con.
Khi Mẹ hiện ra tại hang đá Lộ Đức, Mẹ đã vui lòng chọn nơi ấy làm đền thánh cao cả. Để qua đó Mẹ ban muôn vàn ơn huệ, và đã có nhiều người đau khổ nhận được ơn chữa lành, Cả về phần tâm linh và thể xác. Lạy Mẹ, vì thế nay con đến với lòng tin tưởng vô biên, Để khẩn xin lời cầu bầu Từ Mẫu của Mẹ.
Lạy Mẹ yêu dấu, xin Mẹ ban cho con những ơn con xin, Qua Chúa Giêsu KiTô, Con Mẹ, Chúa chúng con. Lạy Đức Mẹ Lộ Đức, xin cầu cho chúng con. Amen.
Ngày 15/12/2012

Paul Nguyễn.

CỨU-CHÚA RA ĐỜI

CỨU-CHÚA RA ĐỜI

“Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con,

rồi đặt nằm trong máng cỏ…”.

(Lu-ca 2:7)

Giê-su Cứu-Chúa ra đời

Bọc trong tã trắng Mẹ Người hân hoan

Giu-se quỳ cạnh lo toan

Mục đồng chạy tới nhịp khoan tôn thờ

Ích-Diên ngóng đợi mong chờ

Hôm nay toại nguyện bến bờ mừng vui

Tương lai sẽ hết tối thui

Phận thân đâu phải lui cui tháng ngày

Tội khiên xóa sạch vơi đầy

Trần gian là chốn lưu đày vượt qua

Hồng ân huyền nhiệm bao la

Quê Trời hạnh phúc diễm ca vĩnh hằng!

* Nguyễn Sông Núi

(Tu Viện Thánh Gioan Neumann, Dallas, TX

Ngày thiên hạ phao đồn Tận Thế, Dec. 21, 2012)