Ngân hàng VN ‘dư tiền chẳng ai muốn vay’

Ngân hàng VN ‘dư tiền chẳng ai muốn vay’

Thứ ba, 15 tháng 4, 2014

Báo Hà Nội Mới dẫn lời Ngân hàng Nhà nước cho biết tăng trưởng tín dụng trong tháng Ba chỉ đạt 1.35%, trong đó phần lớn xuất phát từ việc bán trái phiếu chính phủ. Tăng trưởng tín dụng đã giảm 0.55% và 0.65% trong hai tháng đầu năm, trong khi đó mục tiêu của chính phủ là 12-14% trong năm 2014.

Báo trong nước trích lời đại diện của các ngân hàng nói rằng vốn đang dư thừa do tiền tiết kiệm từ dân cư và như tổ chức vẫn tăng, trong khi các doanh nghiệp thì không dám vay vì sợ “nợ lại chồng nợ” bởi cầu của nền kinh tế còn quá yếu.

Ngân hàng Nhà nước đã hạ trần lãi suất huy động từ 7% xuống 6% và lãi suất tái cấp vốn từ 7% xuống 6.5% vào tháng trước, trong một nỗ lực vực dậy tăng trưởng tín dụng.

Tuy vậy, một báo cáo của Ngân hàng Anh Quốc HSBC cho biết lãi suất “không phải là vấn đề” vì đã được đưa về khung hợp lý và “tiền đồng đang trong tình trạng dư thừa”.

“Một khi các khoản nợ xấu vẫn còn chưa được giải quyết, ngân hàng sẽ khó có thể thúc đẩy tăng trưởng cho vay được. Điều đó có nghĩa rằng nhu cầu nội địa ở Việt Nam sẽ còn tiếp tục trì trệ khiến cho tăng trưởng sẽ vẫn nằm dưới mức khuynh hướng chỉ khoảng 5,6% trong năm 2014,” HSBC cho biết.

‘Cố tình giấu nợ xấu’

“Các ngân hàng và doanh nghiệp cố tình giấu đi rất nhiều vì sợ mất uy tín và quỹ dự phòng. Chính vì vậy có nhiều con số khác nhau về nợ xấu”

PGS. TS Phạm Quý Thọ

Trao đổi với BBC hôm 10/4/2014, PGS. TS Phạm Quý Thọ, Chủ nhiệm Khoa Chính sách Công, Học viện Chính sách và Phát triển (ADP) thuộc Bộ Kế hoạch & Đầu tư nói ở nhiều nơi tỷ lệ nợ xấu chỉ được kê khai ở mức bằng 50% con số mà chính Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đánh giá.

Chuyên gia về chính sách khẳng định đang có việc ‘né tránh nợ xấu’ trong các ngân hàng, doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam và đề xuất Chính phủ có những biện pháp để xử lý.

“Nợ xấu của Việt Nam vẫn còn chưa minh bạch, chưa đi theo các tiêu chuẩn quốc tế như của IMF và World Bank. Các ngân hàng và doanh nghiệp cố tình giấu đi rất nhiều vì sợ mất uy tín và quỹ dự phòng. Chính vì vậy có nhiều con số khác nhau về nợ xấu. Ngân hàng thì nói là 3-4%, Thống đốc (Ngân hàng Nhà nước) nói là 7-9%, còn các tổ chức quốc tế như Moody’s lại cho rằng ít nhất là 15%,” ông Thọ cho biết.

“Sau khi thành lập công ty xử lý‎ nợ xấu thì đến nay đã mua lại một số nợ nhưng hướng giải quyết vẫn chưa rõ ràng. Kế hoạch thì nhiều, nhưng khả năng làm vẫn còn hạn chế.”

Hồi tháng Hai Ngân hàng Nhà nước và hãng đánh giá tín nhiệm Moody’s đã có cuộc tranh cãi xung quanh con số nợ xấu của hệ thống ngân hàng. Moody’s lúc đó ước tính tỷ lệ nợ xấu ở các ngân hàng Việt Nam ít nhất là 15%, hơn gấp ba lần so với con số chính thức 4.7% của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng này sau đó đã ra thông báo phản bác, cho rằng nhiều lắm nợ xấu toàn hệ thống “chỉ là 9%” nếu “tính toán thận trọng.”

Nếu ước tính của Moody’s là chính xác, con số nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam gần bằng với quốc gia đang chìm trong khủng hoảng của Châu Âu là Hy Lạp (17%), và cao hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực như Thái Lan (2.7%), Indonesia (2.1%), hay Trung Quốc (0.9%), theo số liệu của World Bank.

Nhiều tổ chức tài chính quốc tế khác cũng có chung nhận định với ước tính của Moody’s.

Rabobank, tập đoàn tài chính-ngân hàng của Hà Lan, cho rằng nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam rơi vào khoảng 8-16%.

Chuyện Sâu & Trùng Ở Bến Tre

Chuyện Sâu & Trùng Ở Bến Tre

RFA

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

“Phát biểu gì cũng được, trừ tham nhũng.”

Đại Biểu Quốc Hội Lê Như Tiến

Bằng giờ này tháng 4, mấy năm về trước, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư (“một mình, đất lạ, đường xa”) đã lên đến tận Hà Giang. Trong blog saurieng, bà có viết đôi dòng chữ ngắn về chuyến đi “ấn tượng khủng khiếp” này:

”Người ta nói, đi qua một khu chợ sẽ biết đời sống của cư dân ở đó. Mình tin điều đó. Và nhìn món hàng bày trước mặt những người phụ nữ vùng cao, mình hình dung được nồi cơm, căn bếp, cuộc đời… “

Những sản phẩm mà Nguyễn Ngọc Tư ghi nhận qua ống kính – ở chợ Hà Giang – chỉ là nụm nịu một hai nải chuối, lèo tèo mấy mớ rau xanh, ủn ỉn vài ba rọ lợn, hay đôi ba bó củi co ro …

Ảnh: Nguyễn Ngọc Tư

Ngó mà thương muốn đứt ruột luôn!

Để có thể ra “hình dung được nồi cơm, căn bếp, cuộc đời…” của cư dân ở một địa phương, nhà báo Văn Quang lại có một sáng kiến khác. Ông đưa chúng ta đi xem dinh thự của những vị quan đầu tỉnh:

Hà Giang luôn được coi là một tỉnh nghèo vùng núi rừng ở VN với hơn quá nửa là những gia đình thuộc “diện nghèo”. Nhưng đối nghịch lại tình cảnh này lại là sự hiện hữu của những ngôi nhà sàn “khủng”, phần lớn làm bằng gỗ “tứ thiết” của các lãnh đạo tỉnh.

Nhà của chủ tịch UBND Hà Giang Đàm Văn Bông

– Ngôi nhà “khủng” bắt mắt và có tiếng nhất hiện nay ở Hà Giang, đầu tiên phải nhắc đến nhà của Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang Đàm Văn Bông. Hiện ngôi nhà sàn này đang “hùng cứ” tại thôn Cao Bành, xã Phương Thiện (TP. Hà Giang). Đây là nơi ông Bông vẫn thường xuyên đi về trong ngày. Vật liệu làm ngôi nhà này hầu hết là gỗ trai, gỗ nghiến, một trong những gỗ nằm trong nhóm 2B nghiêm cấm khai thác, vận chuyển và được bảo tồn nghiêm ngặt theo quy định của Chính phủ.

– Sang gần bằng nhà chủ tịch UBND tỉnh Đàm Văn Bông là ngôi nhà của phó bí thư thường trực, chủ tịch Hội đồng Nhân dân tỉnh Vương Mí Vàng.

Nằm trên đường đi 4 huyện nghèo, thuộc diện 30a là Đồng Văn, Quản Bạ, Yên Minh, Mèo Vạc, ngôi nhà “tọa” tại địa bàn Tổ 8, phường Quang Trung, Thành phố Hà Giang. Theo người dân, muốn có ngôi nhà này phải có vài chục tỷ, chưa kể các trang thiết bị đi cùng. Ngôi nhà này độc đắc bởi nó chỉ làm bằng… một loại gỗ: Gỗ nghiến!

– Ngoài 2 ngôi nhà sàn nổi tiếng của 2 quan chức này, ngôi nhà sàn của ông giám đốc Sở Nội vụ Hà Giang Hoàng Đức Tiến tại xã Vĩnh Phúc (Bắc Quang) cũng nổi danh và được nhiều người biết đến.

Ngôi nhà này “độc” vì nó được làm hoàn toàn bằng gỗ trai. Một thứ gỗ hiện nay đang cạn kiệt ở tỉnh Hà Giang, nó chỉ còn ở khu vực xã Đức Xuân, huyện Bắc Quang. Theo cánh thợ, để có ngôi nhà như thế này ước chừng cũng phải “vứt xuống” vài tỷ đồng… Chỉ ở một tỉnh xa xôi “hẻo lánh” mà nhà quan đã bề thế như vậy thì các nơi khác, các thành phố khác còn “loạn” đến đâu!

Rảnh, nên tui ghé luôn qua một thành phố khác – ở dưới miền xuôi: Bến Tre. Địa danh này, hơn mười năm trước, cũng đã khiến dư luận người Việt (ngoài nước)  “nóng” lên chỉ vì đôi dòng chữ ghi thêm dưới một bài thơ của nhà sư Nhất Hạnh – in trên trang quảng cáo của báo New York Times, số phát hành hôm 24 tháng 9 năm 2001:

“I wrote this poem during the Vietnam war after I heard about the bombing of Ben Tre city. The city of 300,000 was destroyed because seven guerrillas shot several rounds of unsuccessful anti-aircraft gunfire and then left. My pain was profound.” (“Tôi viết bài thơ này trong thời gian chiến tranh Việt Nam sau khi nghe Bến Tre bị bỏ bom. Thành phố 300,000 người đã bị hủy diệt vì bẩy du kích quân bắn vài tràng súng phòng không vu vơ rồi bỏ đi. Nỗi đau của tôi sâu lắng.”)

Sơ sót, lỗi lầm nơi con số 300,000 chắc (chắn) là  do cái cậu đánh máy chứ ai. Dù vậy, Nhất Hạnh vẫn cứ bị dư luận lùm xùm trách cứ (“oan ức”) về chuyện vọng ngôn hay vọng ngữ.

Cơn bão dư luận ấy đã qua từ lâu. Bến Tre, một trong những nơi được mệnh danh là thành đồng tổ quốc, đâu có dễ gì bị suy suyển hay sứt mẻ bởi bom đạn Mỹ. Tuy thế, phần đất này đang có nguy cơ bị “hủy diệt” bởi chính những kẻ đã bỏ chạy (sau khi bắn vài tràng súng, không trúng đâu vô đâu) hồi năm 1968.

Gần năm mươi năm đã qua, những cô cậu bé du kích dũng sĩ diệt Mỹ của tỉnh Bến Tre nay đều đã trở nên những vị cán bộ lão thành cách mạng. Họ đang cùng con cháu nắm giữ hầu hết những chức vụ, cũng như nguồn lợi béo bở ở tỉnh lỵ này. Theo như cách nói ví von của ông Trương Tấn Sang thì họ đã trở thành những “bầy sâu,” đang ngày đêm (ngoem ngoém) đục khoét và làm ruỗng mục “Chủ Nghĩa Mac Xít Lê Nin Nít Bách Chiến Bách Thắng Vô địch Muôn Năm.”

Năm 2007, phó chủ tịch UBND Bến Tre, bà Nguyễn Thị Thanh Hà cho biết tỉnh đã thanh tra 108 cuộc, phát hiện sai phạm về tài chính 4,46 tỉ đồng, tăng gấp đôi so với năm 2005. Dù số tiền được “phát hiện” chỉ là phần nổi của một tảng băng sơn nhưng cứ theo cái đà tăng “gấp đôi” hàng năm như thế nên đến nay, năm 2014, Bến Tre lại làm dư luận “nóng” lên lần nữa – sau khi “những dinh thự ngất ngưởng, bề thế, nguy nga” của ông Trần Văn Truyền (cựu Bí Thư tỉnh ủy Bến Tre, cựu Tổng Thanh Tra Chính phủ Việt Nam) được phơi bầy trên mặt báo Người Cao Tuổi.

Dinh thự của ông Trần Văn Truyền. Ảnh: Người Cao Tuổi

Ông Trần Văn Truyền, tất nhiên, không phải là quan chức duy nhất bị tai tiếng như vậy ở vùng đất này, vẫn theo như thông tin cơ quan ngôn luận vừa nêu:

Kì này, mời bạn đọc đến thăm “Vườn hoa phố Thường vụ” nằm ngay Khu Trung tâm Thương mại (TTTM) thành phố Bến Tre của hàng chục “quan tri phủ” hầu hết là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bến Tre. Nhiều năm nay người dân địa phương và cán bộ lão thành, cán bộ nghỉ hưu ở đây bức xúc về quá nhiều dinh thự của “Tập đoàn quan tỉnh” tại khu vực chợ TTTM của thành phố chiếm đất, làm nhà lầu mặt tiền thông thoáng làm của riêng rồi cho thuê hoặc đem bán giá cao thu lợi lớn.

Đi đầu “phong trào” này là ông Huỳnh Văn Be (Ba Phương Hùng), cựu Ủy viên Trung ương Đảng, cựu Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre. Gia đình ông đã có “dinh thự” tọa lạc trong khu đất vườn rộng hàng chục nghìn mét vuông nằm cạnh con sông gió lộng tứ bề. Hằng ngày, ông tự lái xe hơi đi ăn sáng, uống cà-phê, dạo mát…

Ông Trần Công Ngữ (Bảy Hoàng), cựu Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre đã có nhà và đất ở rộng rãi, nhưng cũng được “bán rẻ” một căn nhà lầu hai mặt tiền nằm ngay ngã tư đường Chi Lăng – Nguyễn Du thuộc phường 2, kế bên TTTM. Do không có nhu cầu ở nên ông Hoàng đã bán thu lợi 7 tỉ đồng. Các trường hợp còn lại như ông Trần Văn Cồn, cựu Phó Bí thư Tỉnh ủy; ông Phan Văn Láng, cựu Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy; ông Nguyễn Thái Xây (Chín Tâm), cựu Chủ tịch UBND tỉnh; ông Lê Văn Sang (Tư Sang), cựu Giám đốc Công an tỉnh; ông Nguyễn Văn Tuấn, hiện là Phó Chủ tịch UBND tỉnh; ông Hồ Quốc Việt, Giám đốc Công an tỉnh đều là những thành viên được làm giàu theo gương ông Huỳnh Văn Be. Hàng chục căn nhà lầu nằm ở vị trí đắc địa mặt tiền đường, xoay quanh khu TTTM thành phố Bến Tre được “bán rẻ” cho “Tập đoàn quan tỉnh” này…

Cùng lúc, trên báo Công An Thành Phố Hồ Chí Minh (phảt hành hôm 30 tháng 3 năm 2014) người ta đọc được lời kêu gọi “những nhà hảo tâm xa gần giúp đỡ” để làm một con đường nho nhỏ – cũng ở Bến Tre:

Do điều kiện ngân sách eo hẹp nên đến nay chính quyền địa phương vẫn chưa thể đáp ứng được mong muốn của người dân. “Chúng tôi hi vọng các nhà hảo tâm xa gần chung tay giúp đỡ kinh phí xây dựng tuyến lộ Bờ Gồng để bà con không còn phải lặn lội vất vả mỗi ngày, nhất là những lúc mưa gió trở trời!” Ông Trần Văn Chận – Chủ tịch UBND xã An Hiệp chia sẻ.

Sự kiện những quan chức Việt Nam thản nhiên, sống trên nỗi khốn cùng (“phải lặn lội vất vả mỗi ngày”) của bà con – thực ra – không chỉ giới hạn ở Hà Giang hay ở bến Tre, và cũng chả phải là chuyện mới mẻ gì ráo trọi. Hơn hai mươi năm trước tác giả Thái Như đã nói đến hiện tượng “Sư tử thân trung trùng thực sư tử nhục: Chỉ có loài sâu trong thân con sư tử mới ăn được thịt của con sư tử!”

Cựu đại tá Nguyễn Đăng Quang lại vừa nhắc lại điều này, trên blog của tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện:

“Trong vòng 25 năm qua, bọn sâu bọ tham nhũng ngày một đông, ngày mỗi mạnh và đã trở thành bầy đàn! Nó như căn bệnh ung thư đã di căn tới nhiều bộ phận của cơ thể con sư tử. Nếu Đảng không quyết tâm chữa trị, không dũng cảm cắt bỏ những bộ phận cơ thể đã thối muỗng thì quốc nạn tham nhũng này, đến một lúc nào đó sẽ có kết cục như nhà báo Thái Như đã cảnh báo 23 năm về trước:’Đương nhiên điều không tránh khỏi là con sư tử đó nó sẽ ngã quỵ một khi những con sâu trong cơ thể ngày một nhiều và lớn mạnh!’ Vâng, nếu Đảng không quyết tâm diệt trừ tận gốc (giết sạch) bọn sâu bọ tham nhũng của Đảng thì chính bọn này, một ngày nào đó không xa – có thể là cuối năm nay,có thể là sang năm hoặc sang năm sau nữa(2016)- sẽ là thủ phạm “giết sống” Đảng Cộng sản Viêt Nam!

Tôi thấy tình thế đã rất cấp bách! Thời gian không còn nhiều. Rất mong Đảng hãy dũng cảm, thực tâm và kiên quyết cứu vãn tình thế trước khi nó trở nên quá muộn!”

Khác với đại tá  Nguyễn Đăng Quang, tôi e rằng tình thế đã muộn màng rồi. Vấn đề chỉ còn là chuẩn bị sao để mồ yên mả đẹp mà thôi. Sau hai phần ba thế kỷ phạm hết tội ác này sang tội ác khác, gây oán hận cho muôn dân trăm họ, chuyện “an táng” đảng Cộng Sản trong tương lai gần (rõ ràng)  không phải là việc dễ dàng chi. Với truyền thống lấy nhân nghĩa chống bạo tàn của dân tộc Việt, chỉ mong sao mọi người đều đồng thuận với nhau là oán thù – nghĩ cho cùng –  chỉ nên cởi, chứ không nên buộc.

 

Ai đã thắng trong cuộc chiến Việt Nam?

Ai đã thắng trong cuộc chiến Việt Nam?

Michel Chossudovsky

Ngọc Thu dịch

30-4: Ai đã thắng trong cuộc chiến Việt Nam?

Bạn có biết: Việt Nam đã từng trả nợ chiến tranh cho Mỹ? Việt Nam đã trả các khoản vay của chính quyền Sài Gòn thời chiến tranh, để đổi lấy các khoản vay mới của Mỹ và phương Tây và đó cũng là điều kiện để Mỹ gỡ bỏ lệnh cấm vận và bình thường hóa quan hệ ngoại giao với VN.

Đó là cái giá mà chính phủ CSVN, hay nói đúng hơn là người dân VN đã phải trả, do chính phủ CSVN không chịu bình thường hóa quan hệ với Mỹ ngay sau khi chiến tranh kết thúc, cứ khăng khăng đòi bồi thường chiến phí 3,25 tỉ Mỹ kim. Tiền bồi thường của Mỹ ở đâu không thấy, chỉ thấy sau đó phía VN phải bỏ tiền ra bồi thường chiến phí.

Thắng trong chiến tranh, nhưng chỉ 20 năm sau chính phủ CSVN đã phải đầu hàng Mỹ về kinh tế.

Đây là bài viết của GS Michel Chossudovsky về những thỏa thuận bí mật giữa chính phủ CSVN với các tổ chức tài chính quốc tế trước năm 1995.

Ngọc Thu

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, chiến tranh Việt Nam đã kết thúc bằng lực lượng cộng sản chiếm giữ Sài Gòn và sự đầu hàng của tướng Dương Văn Minh và nội các của ông ấy trong Dinh Tổng thống. Khi đội quân của Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến vào Sài Gòn, các nhân viên Hoa Kỳ và lính thủy quân lục chiến Mỹ cuối cùng đã vội vã sơ tán từ nóc tòa nhà Đại Sứ quán Mỹ. Hai mươi năm sau, một câu hỏi cơ bản vẫn chưa có lời giải đáp: Ai đã thắng trong cuộc chiến tranh Việt Nam?

Việt Nam chưa bao giờ nhận được khoản tiền bồi thường nào cho chiến tranh từ Mỹ về các tổn thất nhân mạng rất lớn và sự tàn phá [của chiến tranh], nhưng một thỏa thuận đã đạt được ở Paris vào năm 1993, yêu cầu Hà Nội nhận các khoản nợ của chính quyền Sài Gòn, một chính quyền không còn tồn tại nữa của Tướng Thiệu. Bản thoả thuận này có nhiều chỗ tương đương với việc bắt buộc Việt Nam bồi thường cho Washington các phí tổn chiến tranh.

Ngoài ra, việc áp dụng sâu rộng cải cách kinh tế vĩ mô dưới sự giám sát của các định chế Bretton Woods cũng là một điều kiện cho việc dỡ bỏ lệnh cấm vận của Mỹ. Những cải cách thị trường tự do này hiện đã định đoạt học thuyết chính thức của Đảng Cộng sản.

Qua việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Washington vào năm 1994, việc nhắc đến vai trò tàn bạo của Mỹ trong chiến tranh đang ngày càng được xem như không đúng lúc và không thích hợp. Không ngạc nhiên, Hà Nội đã quyết định dịu giọng trong lễ kỷ niệm Sài Gòn đầu hàng để không phải xúc phạm đến kẻ thù trong chiến tranh trước đây của họ. Lãnh đạo Đảng Cộng sản gần đây đã nhấn mạnh “vai trò lịch sử” của Hoa Kỳ trong việc “giải phóng” Việt Nam từ chế độ Vichy (Pháp) và sự chiếm đóng của Nhật Bản suốt Đệ Nhị Thế chiến.

Vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, trong bản Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, các đặc vụ Mỹ của Cục Tình báo Chiến lược (OSS: tiền thân của CIA ngày nay) đã có mặt bên cạnh Hồ Chí Minh. Trong khi Washington đã cung cấp vũ khí và hỗ trợ tài chính cho phong trào kháng chiến Việt Minh, chiến lược này phần lớn được thiết kế để làm suy yếu Nhật Bản trong giai đoạn cuối của Đệ Nhị Thế chiến, mà không có cam kết gửi lực lượng bộ binh Mỹ tới với số lượng lớn.

Ngược lại với bầu không khí dịu giọng và hạn chế trong kỷ niệm đánh dấu chiến tranh Việt Nam kết thúc, lễ kỷ niệm 50 năm ngày độc lập được cử hành long trọng, với một loạt các nghi lễ và các hoạt động chính thức bắt đầu từ tháng 9 và kéo dài đến Tết âm lịch.

Việt Nam bồi thường chiến tranh

Trước khi “bình thường hóa” quan hệ với Washington, Hà Nội đã bị buộc phải trả các khoản nợ xấu phát sinh của chế độ Sài Gòn do Mỹ hậu thuẫn. Tại hội nghị các nhà tài trợ tổ chức ở Paris hồi tháng 11 năm 1993, các khoản vay và số tiền viện trợ tổng cộng gần 2 tỷ Mỹ kim đã được cam kết để hỗ trợ cho cải cách thị trường tự do ở Việt Nam.

Tuy nhiên, ngay sau khi hội nghị, một cuộc họp bí mật đã được tổ chức dưới sự bảo trợ của Câu lạc bộ Paris (Paris Club).

Tại cuộc họp này, có sự góp mặt của đại diện các chính phủ phương Tây. Về phía Việt Nam, TS Nguyễn Xuân Oánh, cố vấn kinh tế cho Thủ tướng, đã đóng vai trò quan trọng trong các cuộc đàm phán.

Tiến sĩ Oánh, một cựu quan chức của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), đã giữ chức Bộ trưởng Bộ Tài chính và sau đó là Quyền Thủ tướng trong chính quyền quân sự của Tướng Dương Văn Minh, mà Mỹ đưa vào hồi năm 1963 sau vụ ám sát Tổng Thống Ngô Đình Diệm và em trai. Tiến sĩ Oánh, trong khi giữ vai trò trung gian, chính thức thay mặt chính quyền cộng sản, dù sao cũng đã đáp ứng được nhu cầu của các chủ nợ phương Tây.

Các thỏa thuận đã được ký kết với IMF (đã được công bố) phần lớn chỉ là tượng trưng. Số lượng không đáng kể: Hà Nội buộc phải trả cho IMF 140 triệu đô (thuộc sở hữu của chính quyền Sài Gòn) như một điều kiện để nối lại các khoản vay mới. Nhật Bản và Pháp, những chủ nhân thuộc địa cũ của Việt Nam giai đoạn Vichy, hình thành cái gọi là “Những người bạn của Việt Nam” để cho Hà Nội vay số tiền cần thiết để hoàn trả cho IMF.

Tuy nhiên, sự sắp xếp gia hạn các khoản nợ song phương (của chế độ Sài Gòn) không bao giờ được tiết lộ. Nhưng cuối cùng thì thỏa thuận bí mật này (đạt được dưới sự bảo trợ của Câu lạc bộ Paris) là công cụ quyết định để Washington dỡ bỏ lệnh cấm vận và bình thường hóa các quan hệ ngoại giao. Việc sắp xếp này cũng là yếu tố quyết định trong việc tháo khoán các khoản vay đã được cam kết tại hội nghị các nhà tài trợ năm 1993, do đó Việt Nam bị đặt dưới sự ủy thác của các chủ nợ Nhật Bản và phương Tây. Như vậy, chỉ 20 năm sau chiến tranh, Việt Nam đã đầu hàng về mặt kinh tế.

Bằng cách công nhận hoàn toàn tính hợp pháp của các khoản nợ, Hà Nội đã đồng ý hoàn trả các khoản vay đã hỗ trợ nỗ lực chiến tranh của Mỹ. Hơn nữa, chính phủ của ông Võ Văn Kiệt cũng đã chấp nhận thực hiện đầy đủ các điều kiện thông thường (giảm giá, tự do hóa thương mại, tư nhân hóa, v.v.) của một chương trình điều chỉnh cơ cấu do IMF tài trợ. Những cải cách kinh tế này ra mắt vào giữa thập niên 1980 với các định chế Bretton Woods, trong hậu quả chiến tranh tàn khốc, đã khởi đầu một giai đoạn mới về sự tàn phá kinh tế và xã hội: lạm phát đã dẫn đến phá giá liên tục, bắt đầu từ năm 1973 dưới chế độ Sài Gòn, năm theo sau sự rút lui của quân đội Hoa Kỳ. Ngày nay, một lần nữa Việt Nam tràn ngập các ghi chú bằng đô la Mỹ, đã thay thế phần lớn tiền đồng Việt Nam. Với giá cả tăng cao, thu nhập thực tế đã giảm xuống tới mức thấp nhất.

Lần lượt những cải cách đã ồ ạt giảm năng lực sản xuất. Hơn 5.000 trong số 12.300 doanh nghiệp nhà nước đã bị đóng cửa hoặc được chỉ đạo phá sản. Các hợp tác xã tín dụng đã bị loại bỏ, tất cả các khoản tín dụng dài hạn và trung hạn cho ngành công nghiệp và nông nghiệp đã bị đóng băng. Chỉ tín dụng ngắn hạn là có sẵn, với lãi suất 35%/ năm (năm 1994). Ngoài ra, thỏa thuận IMF đã cấm nhà nước cung cấp hỗ trợ ngân sách, hoặc cho nền kinh tế nhà nước hoặc cho một khu vực tư nhân mới chớm nở.

Chương trình nghị sự về những cải cách đã bị che giấu này bao gồm nền tảng công nghiệp mất ổn định ở Việt Nam. Các ngành sản xuất công nghiệp nặng, dầu khí, tài nguyên thiên nhiên và khai thác khoáng sản, xi măng, sắt thép sẽ được tổ chức lại và được thực hiện dựa trên số vốn nước ngoài. Tài sản nhà nước có giá trị nhất sẽ được chuyển giao để củng cố và duy trì cơ sở công nghiệp, hoặc để phát triển một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thuộc sở hữu và kiểm soát bởi dân chúng.

Trong quá trình tái cơ cấu kinh tế, hơn một triệu công nhân và hơn 20.000 công nhân viên chức (trong đó đa số là nhân viên y tế và giáo viên) đã bị sa thải. Lần lượt, nạn đói địa phương đã nổ ra, ảnh hưởng đến ít nhất một phần tư dân số cả nước. Những sự đói khát này không giới hạn ở các khu vực thiếu lương thực. Ở Đồng bằng Sông Cửu Long, vựa lúa của Việt Nam, 25% số dân trưởng thành tiêu thụ chưa tới 1.800 calories mỗi ngày. Ở các thành phố, sự mất giá của tiền đồng cùng với việc loại bỏ trợ cấp và kiểm soát giá cả đã dẫn đến giá gạo và các nhu yếu phẩm khác tăng vọt.

Những cải cách này đã dẫn đến việc cắt giảm mạnh mẽ các chương trình xã hội. Với việc áp dụng học phí, ba phần tư trong số một triệu trẻ em bỏ học khỏi hệ thống trường công trong vài năm (từ 1987-1990). Các trạm y tế và bệnh viện sụp đổ, sự hồi sinh của một số bệnh truyền nhiễm như sốt rét, lao phổi và tiêu chảy được Bộ Y tế và các nhà tài trợ nhận ra. Một nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới xác nhận rằng, số người tử vong do bệnh sốt rét tăng gấp ba lần trong bốn năm đầu của thời kỳ cải cách, cùng với sự suy sụp của việc chăm sóc sức khỏe và giá cả các loại thuốc chống sốt rét tăng vọt. Chính phủ (dưới sự hướng dẫn của các nhà tài trợ quốc tế) cũng đã ngưng hỗ trợ ngân sách để cung cấp các thiết bị y tế và bảo trì, dẫn đến tình trạng tê liệt toàn bộ hệ thống y tế công cộng. Tiền lương thật sự của nhân viên y tế và điều kiện làm việc đã giảm đáng kể: tiền lương hàng tháng của các bác sĩ y tế tại một bệnh viện huyện thấp tới mức $15 một tháng.

Mặc dù Mỹ đã bị đánh bại trên chiến trường, nhưng hai thập niên sau đó Việt Nam dường như đã đầu hàng kẻ thù chiến tranh trước đây của mình về mặt kinh tế.

Không có những quả bom viên bằng thép hay màu cam, không có bom napalm, không có hóa chất độc hại: một giai đoạn mới của sự hủy diệt kinh tế và xã hội đã diễn ra. Những thành tựu của cuộc đấu tranh trong quá khứ và nguyện vọng của một quốc gia toàn vẹn chưa hoàn thành và đã bị xóa gần như với một nét bút (chữ ký).

Điều kiện nợ và điều chỉnh cơ cấu dưới sự ủy thác của các chủ nợ quốc tế tạo ra do hậu quả của chiến tranh Việt Nam, một công cụ thuộc địa bất bạo động chính thức và hiệu quả như nhau và sự bần cùng hóa ảnh hưởng đến sinh kế của hàng triệu người.

——

Tác giả: Michel Chossudovsky là giáo sư kinh tế tại Đại học Ottawa và là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Toàn cầu hóa.

Bài viết trên đã được viết năm 1995, đầu tiên được đăng tải vào ngày 30 tháng 4 năm 1995, trong bối cảnh kỷ niệm 20 năm “Giải phóng Sài Gòn”.

Một bài phân tích sâu hơn dựa trên những nghiên cứu thực tế được tiến hành ở Việt Nam, tập trung vào những cải cách tân tự do của Hà Nội, sau đó đã được đăng trong cuốn sách của Michel Chossudovsky, The Globalization of Poverty, ấn bản đầu tiên năm 1997, ấn bản thứ hai vào năm 2003.

Nguồn bản gốc: http://www.globalresearch.ca/who-won-the-vietnam-war/172

Nguồn bản dịch: https://www.facebook.com/BasamVN/posts/619964634763977

Thống kê sơ về người treo cổ trong trụ sở công an.

Thống kê sơ về người treo cổ trong trụ sở công an.

Người Buôn Gió

Xứ sở lạ đời, dân thích chọn đồn công an để tự tử?

Chỉ cần một sinh viên Bouazizi phải đi bán rau, bị phạt và hành hung nên đã tự thiêu mà toàn dân Tunisia phẫn nộ, biểu tình khiến cho Tổng thống Ben Ali phải chạy biệt xứ. Mạng một con người thiêng liêng như vậy đấy (xin nhấn mạnh là Bouazizi tự thiêu chứ không bị đánh chết).

Lại so thời thực dân phong kiến, chỉ vì để cấp dười đánh chết người mà ông quan trong triều Nguyễn Sinh Sắc bị cách tuột hết chức tước và phải biệt xứ vào nơi tận cùng đất nước! Trong khi ở một xứ “hạnh phúc thứ nhì thế giới”, “dân chủ gấp vạn lần”, “luôn lấy con người là trung tâm, là mục đích” mà hàng chục trường hợp công dân bị chết ngay trong tay “thanh kiếm và lá chắn”, trong tay những người được nhân dân nuôi và vũ trang đến tận răng để bảo vệ nhân dân, thì cái giá đáng lý phải trả là gì? Nếu cả 13-14 ông Tổng thống phải chạy biệt xứ thì chắc chắn vẫn chưa tương xứng.

Vậy mà hệ thống không mảy may suy suyển, những chiếc ghế vua quan ở đây chỉ càng thêm lì, thêm chắc, kẻ giết người không bị trừng trị thích đáng, trừng trị qua loa thì khác chi khuyến khích giết người? Mà khuyến khích thật khi còn dự kiến cho phép công an bắn chết ngay kẻ nào chống người thi hành công vụ! Thế nào là chống? Công vụ sai thì có được chống không? Dân có quyền tự vệ không? Chết rồi thì còn đâu mà cãi.

Với mười ba trường hợp thống kê “sơ sơ” dưới đây, là con người ai cũng phải giật mình, giật mình về cái khoảng cách giữa tuyên ngôn và thực tế đối lập nhau như thiên đàng và địa ngục. Biết đâu sẽ chẳng đến lượt mình, nhỡ lơ đãng mà phạm luật giao thông thôi chẳng hạn… Luật chống tra tấn chỉ trên giấy thôi sao? Mười ba nhân mạng chết tức tưởi trong tay công quyền liệu đã đủ làm mười ba tiếng nổ để rút ngắn bớt cái khoảng cách kinh hoàng giữa lời nói và việc làm chưa, hay cần nhiều thêm?

Hà Sĩ Phu

Và đây câu trả lời…

Điểm danh 1 số vụ án xảy ra sau khi bị giải lên đồn công an

2014.04.14 Đỗ Văn Bình – Đà Nẵng – treo cổ

2014.03.18 Bùi Thi Hương – Bình Phước – treo cổ

2014.03.18 Nguyễn Minh Dũng – trọng thương

2013.12.24 Đỗ Duy Việt – Thanh Hóa – treo cổ

2013.12.20 anh Đinh Ngọc H – Bình Duơng – treo cổ

2013.10.10 Trần Thị Hải Yến – Phú Yên – treo cổ

2013.08.19 Lê Hoàng Triệu Khang (15 tuổi) – Lâm Đồng – treo cổ

2013.01.02 Trần Văn Tân – Hải Dương – treo cổ

2012.09.14 Hồ Long Giang – Long Khánh – treo cổ

2012.05.13 Ngô Thanh Kiều – Phú Yên – bị đánh chết

2012.03.19 Lê Quang Trọng – Hà Tĩnh – treo cổ

2012.02.15 Nguyễn Công Nhựt – Bình Dương – treo cổ

2011.03.15 Đặng Ngọc Trung – Bình Phước – treo cổ

….

Đây chỉ là thống kê sơ bộ, chưa phải đầy đủ, nhưng cũng đủ làm giật mình bất cứ ai. Hãy nhớ đến câu nói của người tù oan 10 năm Nguyễn Thanh Chấn: “lúc đó tôi sợ họ đánh chết” – “tôi không chịu nổi nữa” – nếu nhìn vào số những nạn nhân TREO CỔ trong nhà tạm giam kia thì phải rùng mình mà công nhận ông Chấn đã quyết định đúng, nếu ông treo cổ chết rồi thì cần gì phải đau đầu với vụ án oan 10 năm của ngày hôm nay.

N. B. G.

” Bộ trưởng Y tế nên từ chức”

” Bộ trưởng Y tế nên từ chức”

Nhạc sỹ Tuấn Khanh

gửi cho BBC từ TP HCM

Thứ năm, 17 tháng 4, 2014

Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến tới thăm bệnh nhi ở Viện Nhi Trung ương

Chỉ trong một buổi chiều 17-4 ở trong nước, ngoài những tiếng kêu la của trẻ con, tiếng khóc nấc của nhiều phụ huynh mất con, cùng sự im lặng của các bệnh viện cũng như của những tuyên bố thản nhiên của người cầm đầu ngành kiểm soát sự sống còn của con người, là những cơn bão dậy lên trên các trang mạng đòi hỏi Bộ Y tế Việt Nam phải có một thái độ đúng trước đại dịch.

Thông tin ngày một nhiều về đại dịch khiến dân chúng đi từ trạng thái này đến trạng thái khác.

Từ tức giận, đòi hỏi, giờ thì đã rất nhiều người nghĩ bằng sự tỉnh táo và hoàn toàn mang giá trị cấp bách của một xã hội dân sự đòi hỏi: người không có đủ khả năng kiểm soát tình thế, có cần phải ra đi ngay để tìm một ai đó thế chỗ, giải quyết vấn đề?

Đây không phải là sĩ diện của một con người, của một chế độ khi sắp đặt nhân sự, mà tiếng kêu của đám đông đòi hỏi được thấy nhịp đập của một trái tim có thật từ một hệ thống lãnh đạo.

Từ chức giờ đây là một thái độ văn hóa và cũng là cho thấy một phản ứng đầy nhân đạo, trao lại quyền quyết định cho một ai khác để có những giải pháp tức thì, cứu lấy sinh mạng của hàng ngàn gia đình đang đang thấp thỏm về sinh mạng của con mình.

Con số 108 trẻ em chết trong đợt dịch sởi này được công bố, đó chỉ là phần nổi của tảng băng chìm.

Vì diễn biến mỗi ngày vẫn diễn ra, và Bộ Y tế Việt Nam vẫn chưa có một công bố nào mang tính minh bạch rằng dịch sởi đã được kiểm soát, ít nhất ở một vài thành phố.

Đóng cửa thông tin

Trong một thói quen thích dùng quyền lực hơn giải pháp thực tế cho vấn đề, tin tức về đại dịch đã bị ngăn chận.

Cũng trong buổi chiều ngày 17-4, đại dịch sởi đang bùng lên cao điểm, thì các bệnh viện được lệnh phải đóng cửa thông tin, thậm chí phóng viên vào đưa tin, ghi hình là chuyện đặc cách, phải có giấy phép riêng.

Tin tức nói bệnh viện quá tải, thiếu trang thiết bị chữa trị và nhiều cháu nhỏ phải chung giường

Bản tin của báo Một Thế Giới cho biết ngay cả lao công, bảo vệ… của bệnh viện Nhi Trung Ương tại Hà Nội cũng được lệnh ngăn trở người tác nghiệp.

Trên các trang mạng, dấy lên không biết bao nhiêu thông tin về cái chết của con mình, của con bạn bè mình.

Uất nghẹn, và đè nén, nhưng họ chỉ được trả lời bằng những phát biểu vô hồn của bà bộ trưởng như “chưa đủ điều kiện để công bố dịch sởi” hoặc “muốn công bố dịch phải xin ý kiến”.

Những hình ảnh tràn ngập trẻ em nằm không đủ chỗ ở các bệnh viện Nhi vẫn giúp cho nét chân mày được trang điểm rất đẹp của bà bộ trưởng nhíu lại.

Trên một trang facebook, một người có bạn làm trong ngành y nói rằng sẽ khó mà có chuyện công bố dịch, vì nghe nói rằng y tế Việt Nam đã cam kết với W.H.O là sẽ thanh toán dịch sởi vào năm 2017 bằng văn bản, ngân sách tài trợ… nên việc công bố không kiểm soát được bệnh sởi sẽ làm mất mặt ngành y tế Việt Nam.

Tin tức này đang lan nhanh, cùng với việc Bộ Y tế vẫn im lặng về số lượng hàng ngàn trẻ em nhiễm bệnh, lại dường như là một điều xác tín im lặng.

Rõ ràng Bộ Y tế VN hoàn toàn xa dân đến mức không nghe được những lời kêu to như vậy chung quanh mình, cho dù những thông tin đó có thật hay không.

Không phải vô lý khi nhiều tờ báo đã phải kêu lên vào ngày 16-4 rằng “cần phải công bố dịch” hoặc “Bộ Y tế giấu dịch sởi”.

‘Lãnh đạo vô cảm’

Hiện thực là giá trị lớn nhất, nó giới thiệu sự cấp bách mang giá trị nhân tâm con người, và cũng giới thiệu hiện thực về khả năng của bà bộ trưởng như một người đang cầm lái chiếc tàu Bộ Y tế đi qua sóng gió nhưng trong tiếng gió bão gầm rú, còn có tiếng kêu thét của các sinh linh vô tội bị cố ý nhấn chìm.

“Tôi chính thức mở lời kêu gọi bà bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến nên từ chức ngay… để những người thật sự có khả năng bước vào vị trí này để cứu người. Từ chức vào lúc này để nhận được sự trân trọng, và để đánh động toàn bộ ngành y dốc lực vào sự kiện đang quá cấp bách này.”

Nhạc sỹ Tuấn Khanh

Mới đây, người dân Việt Nam nhìn thấy lời tuyên bố của bà Nguyễn Thị Kim Tiến là “Chúng tôi mà có con cháu mắc sởi, không bào giờ dại cho vào đây”.

Câu phát biểu này của bà Tiến đã làm bùng lên sự phẫn nộ trong các phụ huynh.

“Người ta sẽ đem vào đâu, nếu không là bệnh viện?” một phụ huynh đã viết lời bình như vậy. Câu nói của bà bộ trưởng làm mọi người sững sờ vì mang đầy sự vô trách nhiệm cũng như thiếu khả năng hành động của một quan chức.

Nếu dịch sởi không thể kiểm soát như bà Tiến mô tả, rõ ràng cần thiết phải lập trại cách ly khẩn cấp ở các thành phố lớn. Cần triệu tập các chuyên gia y tế để giải quyết vấn đề mà các bệnh viện thông thường đang không còn đủ sức.

Hàng ngàn trẻ nhiễm bệnh ở mọi nơi đủ là lý do để hành động nhanh, với y đức, với tình người.

Thật lòng, ngành y cũng đã tạo điều kiện để bà Tiến chứng minh tấm lòng của mình với các bệnh nhi, nhưng cũng đủ cẩu thả đến mức cho thấy bà Tiến không có khả năng đội mũ nón y tế cho đúng cách cơ bản khi đi thanh sát. Nhiều người đã bật cười về điều đó.

Ngành y tế bất lực?

Sự hỗn loạn bắt đầu xuất hiện. Trên các trang mạng xuất hiện nhiều lời quảng cáo chữa bệnh sởi gia truyền, thuốc trị sởi đặc biệt… theo nguyên tắc bình thông nhau, nhưng cũng là một lời tố cáo về sự bất lực của hệ thống y tế Việt Nam lúc này.

Chắc chắn không ít các bậc phụ huynh của 7000 đứa trẻ đang mắc bệnh, đang sốt ruột vì con mình, đã liên lạc với những chỗ như vậy. Sẽ là may mắn nếu đó là những lời quảng cáo tốt. Còn nếu đó lại là cách kiếm tiền nhanh của những kẻ cơ hội, mọi việc sẽ bùng nổ và trở thành một đại họa quốc gia.

Giấu diếm và giữ ghế, giữ mặt mũi cho giới lãnh đạo không phải là chuyện mới thấy trong ngành y tế Việt Nam.

Năm 2003 đã có chuyện giấu diếm dịch Sars. Năm 2008, lại cố ý nói trại đi dịch tả là “tiêu chảy cấp” để làm nhẹ đi tình hình. Những tiền lệ đó, nếu tiếp tục nối dài đến đại dịch sởi này, gọi đúng tên, là ô nhục.

Tôi không biết ai có suy nghĩ gần với mình, nhưng tôi chính thức mở lời kêu gọi bà bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến nên từ chức ngay.

Ở đây không phải là sự tức giận đòi hỏi bà phải bị trừng phạt vì những sai lầm vẫn có từ trước, hay đang đang diễn ra, mà lời kêu gọi bà nên từ chức để những người thật sự có khả năng bước vào vị trí này để cứu người.

Từ chức vào lúc này để nhận được sự trân trọng, và để đánh động toàn bộ ngành y dốc lực vào sự kiện đang quá cấp bách này.

Cũng không riêng gì bà Nguyễn Thị Kim Tiến mà nhiều quan chức khác cũng nên tập dần cách hành xử văn minh này, vì so với nhân dân, chính họ là người đang được thụ hưởng những giá trị văn minh nhiều nhất.

Tai nạn phà Sewol : Hàn Quốc bị sốc mạnh, khoảng 300 người vẫn mất tích

Tai nạn phà Sewol : Hàn Quốc bị sốc mạnh, khoảng 300 người vẫn mất tích

24 tiếng đồng hồ sau thảm họa, lực lượng cứu hộ ráo riết tím người mất tích. Nhiều người còn kẹt trong phà Sewol. Ảnh chiếc phà chìm ngày 16/04.

24 tiếng đồng hồ sau thảm họa, lực lượng cứu hộ ráo riết tím người mất tích. Nhiều người còn kẹt trong phà Sewol. Ảnh chiếc phà chìm ngày 16/04.

REUTERS/Kim Kyung-Hoon

Anh Vũ

RFI

Một ngày sau vụ tai nạn chiếc phà biển Sewol bị đắm, cả đất nước vẫn trong cơn sốc mạnh. Hôm nay 17/04/2014, các lực lượng cứu hộ tiếp tục nỗ lực tối đa để tìm kiếm những người còn sống sót ngoài khơi Hàn Quốc. Các gia đình nạn nhân và dư luận bắt đầu trút phẫn nộ lên chính phủ và thủy thủ đoàn trong cách giải quyết vụ tai nạn.

Theo lực lượng bảo vệ bờ biển, hiện tại đã vớt được 9 thi thể nạn nhân. Vẫn còn 287 người mất tích trên tổng số 475 hành khách trên phà, trong đó có 325 học sinh trung học, theo thông báo mới.

Các đội cứu hộ tiếp tục làm việc trong cả đêm hôm qua dưới ánh đèn pha cực mạnh với hy vọng tìm được người sống sót, nhưng dòng biển chảy mạnh và tầm nhìn dưới nước hạn chế đã khiến các thợ lặn không thể vào được bên trong phần thân tàu bị chìm. Ba cần cẩu nổi khổng lồ đã được triển khai tại hiện trường để dựng lên lại chiếc tàu.

Vụ tai nạn khiến cả đất nước Hàn Quốc bàng hoàng, nhất là đa số nạn nhân là các học sinh nhỏ tuổi. Sau cơn sốc mạnh, các gia đình nạn nhân trút phẫn nộ lên chính phủ và thuỷ thủ đoàn về cách xử lý thảm hoạ

Thông tín viên Frederic Ojardias tại Seoul tường trình:

‘ Cả Hàn Quốc vẫn còn bàng hoàng trong cơn sốc mạnh. Nhật báo Chosun Ilbo chạy tựa : « Trong 140 phút cả đất nước chứng kiến cảnh những người con bị chết ngay trước mắt mình ».

Các sự kiện chính thức đều bị hoãn lại, Quốc hội cũng ngừng hoạt động. Tâm trạng chủ yếu của các gia đình lúc này là phẫn nộ. Phẫn nộ về cách xử lý vụ tai nạn của chính phủ. Ban đầu chính quyền đưa ra những con số để trấn an. Họ đã thông báo sai là tất cả các trẻ nhỏ đều đã được cứu sống.

Một phụ huynh còn ném cả chai nước vào mặt Thủ tướng khi ông đến gặp gỡ các gia đình nạn nhân. Nỗi phẫn nộ chủ yếu đổ lên thủy thủ đoàn.

Trong lúc xảy ra đắm tàu, thủy thủ đoàn đã nhiều lần ra lệnh cho hành khách phải ngồi yên, thế nhưng chính những người không chịu nghe lệnh thì lại sống sót.

Thủy thủ đoàn cũng đã chần chừ 18 phút sau vụ va chạm mới gọi điện kêu cứu. Cuối cùng, cũng giống như vụ đắm tàu Concordia ở ven biển nước Ý trước đây, thủy thủ đoàn và thuyền trưởng là những người đầu tiên rời khỏi chiếc phà. Viên thuyền trưởng đã bị cảnh sát thẩm vấn.

Trong số những nguyên nhân của thảm hoạ, người ta ngày càng thiên về khả năng phả va chạm với dải đá ngầm. Một số cơ quan truyền thông khẳng định, vì khởi hành muộn nên thuyền trưởng quyết định cho tàu đi đường tắt để đến nơi nhanh hơn.’

Xin xem thêm:

Nam Hàn tiếp tục tìm hành khách mất tích (BBC)

Phụ huynh học sinh trường Danwon thắp nến cầu nguyện

Căn phòng lưu niệm kỷ vật của vị Tôi Tớ Chúa cố Hồng Y Phanxico Xaviê Nguyễn văn Thuận

Căn phòng lưu nim k vt ca v Tôi T Chúa c Hng Y Phanxico Xaviê Nguyn văn Thun


Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long

Hộp thuốc chữa bệnh

Căn phòng lưu niệm kỷ vật của Vị Tôi Tớ Chúa cố Hồng Y Phanxico Xaviê Nguyễn văn Thuận ở Tu viện Cellitinnen thuộc Tổng giáo phận Köln (Cologne), đã được Đức Hồng Y Gioakim Meisner, Tổng giám mục Cologne làm phép khánh thành hôm 26.10.2013.

Căn phòng kỷ niệm này lưu giữ bảo quản những vật lưu niệm, mà đức cố Hồng Y Phanxico Nguyễn văn Thuận sau khi qua đời đã trối lại cho nhà Dòng. Mối liên hệ của đức cố Hồng Y với nhà Dòng có bề dầy lịch sử từ những năm 50 của thế kỷ trước. Số là khi còn là linh mục trẻ sang du học bên Roma, vào những dịp nghỉ hè, ngài hay sang nhà Dòng Cellitinnen bên Đức để học tiếng Đức cùng giúp việc mục vụ linh hướng dâng Thánh lễ Misa cho nhà Dòng.

Mối dây liên lạc đó đức cố Hồng Y nhà ta luôn quan tâm chăm sóc đều đặn cả sau sau khi trở về quê hương Việt Nam làm giáo sư chủng viện làm giám đốc Chủng viện, làm Cha Chính Tổng giáo phận Huế, làm Giám mục Nha Trang, thời kỳ bị tù giam giữ và thời gian sang sinh sống lưu vong bên Roma cho tới khi đước Chúa gọi trở về đời sau ngày 16.09.2002.

Mối dây liên lạc tình nghĩa con người đó giữa ngài với nhà Dòng thật linh thiêng đạo đức cùng thắm thiết. Chính vì thế, ngài đã trối lại cho nhà Dòng những kỷ vật cá nhân của ngài, như lời cám ơn mối thịnh tình nhà Dòng đã trao tặng ngài từ mấy chục năm qua.

Trong tiến trình Gíao Hội lập dự án phong Á Thánh cho ngài, nhà Dòng đã dành một căn phòng 40 mét vuông chỉ để trưng bày trong tủ kính bảo quản những di vật của Tôi Tớ Chúa cố Hồng Y Phanxico Xaviê Nguyễn văn Thuận đã để lại.

Căn phòng này không chỉ để tôn vinh Tôi Tớ Chúa cố Hồng Y Phanxico Xaviê Nguyễn văn Thuận, nhưng còn hơn thế nữa. Đến thăm căn phòng kỷ vật này, người hành hương còn học hỏi được gương sống nhân đức của vị Tôi Tớ Chúa còn lưu lại qua chứng từ những vật dụng ngài đã dùng để thờ phượng kính mến Chúa.

Một di vật qúi báu không phải chỉ theo khía cạnh lịch sử, nhưng ẩn chứa thâm sâu lòng đạo đức của ngài là chiếc hộp với hai lọ hộp dầu cù là đựng rựơu lễ, chiếc khăn lễ, chiếc muỗm, mà thân nhân gia đình ngày xưa gửi vào nhà tù tiếp tế nuôi ngài.

Năm 2000 trong tuần tĩnh tâm mùa chay cho Giáo triều Roma với Đức Thánh Cha Gioan Phaolo đệ nhị, mà bây là Á Thánh và ngày 27.04.2014 sắp tới sẽ được tôn phong lên bậc Hiển Thánh, ngài đã giảng nói về những chiếc hộp thăm nuôi đó như sau. „ Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã sống giờ phút tột đỉnh trong cuộc đời trần thế của Ngài: món qùa tuyệt vời biểu lộ tình yêu đối với Chúa Cha và với chúng ta được bày tỏ qua hy tế trao ban chính Mình và Máu Ngài.

Chúa để lại cho chúng ta giờ phút tột đỉnh ấy để tưởng niệm Ngài, chứ không phải giờ phút khác, cho dù giờ phút đó có chói sáng rạng ngời thế nào đi nữa, như lúc Chúa hiển linh hoặc một trong những phép lạ của Ngài. Nghĩa là Ngài để lại trong Hội Thánh sự hiện diện tưởng niệm của giờ phút tột đỉnh của tình yêu thương và đau khổ trên thập gía mà Chúa Cha đã biến nó thành vĩnh cửu và để sống nhờ Ngài, để sống và chết như Ngài.

Chúa Giêsu muốn Hội Thánh tưởng niệm Ngài và sống những tâm tình cũng như những đòi hỏi của việc tưởng niệm ấy qua sự hiện diện sinh động của Ngài. „ Các con hãy làm việc này để nhớ đến Thầy“ ( cf 1 Cr 11,24)

Trở lại kinh nghiệm của tôi. Khi bị bắt, tôi phải đi tay không, đi ngay lập tức. Ngày hôm sau, tôi được phép viết cho những người thân để xin những thứ cần thiết nhất như quần áo, kem đánh răng…Tôi viết:“ Xin vui lòng gửi cho tôi một chút rượu thuốc để chữa bệnh đường ruột“. Các tín hữu hiểu ngay. Họ gửi cho tôi mội chai nhỏ đựng rượu lễ, bên ngoài có ghi „ thuốc chữa bệnh đường ruột“, còn bánh lễ thì họ giấu trong một ống nhỏ chống ẩm thấp.

Giám thị hỏi tôi:

– „ Ông bị bệnh đường ruột_

– Phải.

– Đây, có ít thuốc cho ông đây.“

Tôi không bao giờ có thể diễn tả hết niềm vui lớn lao của tôi: mỗi ngày với ba giọt rượu và một giọt nước trên lòng bàn tay, tôi cử hành Thánh Lễ, và đó cũng là bàn thờ, là nhà thờ chính tòa của tôi.

Đó là liều thuốc đích thực cho linh hồn và thân xác tôi: „ Thuốc trường sinh bất tử, thuốc giải độc để khỏi chết, nhưng luôn được sự sống trong Chúa Giêsu“ , như Thánh I-Nha-xiô thánh Antiokia đã nói.

Mỗi làn như thế tôi được dịp giang tay và đóng đinh mình vào Thập gía với Chúa Giêsu và cùng với Ngài uống chén đau khổ nhất. Mỗi ngày, khi đọc lời truyền phép với tất cả tâm hồn, tôi làm lại một giao ước mới, một giao ước vĩnh cửu giữa tôi và Chúa Giêsu, hòa lẫn Máu Ngài với máu của tôi. Đó là những Thánh Lễ đẹp nhất trong đời tôi.“ ( Hồng Y Phanxico Xaviê Nguyễn văn Thuận, Chứng nhân hy vọng, Các bài giảng tĩnh tâm cho giáo triều Roma, mùa chay 12.- 18. tháng Ba năm toàn xá 2000, Dân Chúa Âu châu 2001, trang 166 )

Những di vật lịch sử của người tù Tổng Giám mục Phanxico Xavie Nguyễn văn Thuận hiện còn được lưu để cho tham quan cùng học nhớ đến gương sống đức tin vào Chúa của một chứng nhân niềm hy vọng trong căn phòng kỷ niệm ở nhà Dòng Cellitinnen, Koeln.

„ Con phải cố gắng không ngừng để mỗi ngày con đổi mới, để máy thu thanh của thế gian bắt được làn sóng Tin Mừng do con phát âm, đem tiếng con vào tận mỗi tâm hồn, mỗi gia đình. Con hãy nên người của thời đại.“ ( Phanxico Nguyễn văn Thuận, Đường hy vọng số 661.)

Địa chỉ liên lạc tới thăm Căn phòng

Stiftung der Celittinen zur hl. Maria

Graseggerstrasse 105

50737 Koeln- Longerich

Tel. 0049 (0) 221-974514-51

Herr Diakon W. Allhorn: 0221- 97451420

Email: info@cellitinnen.de

Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long

JOHN RIORDON GIẢI CỨU 105 NGƯỜI VIỆT 30/04/1975

JOHN RIORDON GIẢI CỨU 105 NGƯỜI VIỆT 30/04/1975

httpv://www.youtube.com/watch?v=HBqj6Jla3FQ

Câu chuyện rất cảm động nói về một người Mỹ vào cuối tháng 4/75 đã di tản ra khỏi Việt Nam rồi, nhưng ông ta đã trở lại để cứu 105 người Việt Nam làm việc tại Ngân Hàng Citibank còn kẹt lại.

Lòng dũng cảm của ông JOHN RIORDON đã làm cho nhiều người khóc. Nhận thấy đây là một Video Clip rất hay, cần phổ biến. THÙY TRANG ĐÃ LÀM XONG PHẦN SUBTITLE TIẾNG VIỆT. Khi xem trên Youtube, bạn nhớ bấm vào chữ CC (CAPTION) để đọc tiếng Việt.

Đức Gioan XXIII và sự khởi đầu sụp đổ Bức Màn Sắt

Đức Gioan XXIII và sự khởi đầu sụp đổ Bức Màn Sắt

Chuacuuthe.com

VRNs (17.4.2014) – Sài Gòn – CNA cho biết, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII đã bắt đầu đối thoại với Liên Xô dẫn đến việc sụp đổ ‘Bức Màn Sắt’ dưới triều Giáo hoàng của vị kế nhiệm là Đức Gioan Phaolô II, cả hai vị trên sẽ được tuyên thánh ngày 27 tháng 4 tới đây.

Năm 1961, sinh nhật của Giáo Hoàng Gioan đã trở thành dịp liên lạc đầu tiên giữa Liên Xô và Vatican kể từ cuộc Cách mạng tháng Mười năm 1917.

Chân dung Đức Gioan XXIII

Chân dung Đức Gioan XXIII

Semen Kozyrev, đại sứ Liên Xô tại Ý, đã gửi lời chúc mừng sinh nhật tới Đức Giáo Hoàng và nói: “Đại diện cho Khrushchev, tôi được giao phó nhiệm vụ liên lạc với Ngài, Ðức Thánh Cha Gioan XXIII, nhân dịp sinh nhật lần thứ 80 của ngài, tôi xin chúc mừng và chân thành gửi lời chúc sức khoẻ và thành công trong việc tiếp tục những khát vọng cao cả, nhằm góp phần và tăng cường và củng cố hòa bình trên trái đất, cũng như [đưa ra] các giải pháp về các vấn đề quốc tế thông qua những tuyên bố thẳng thắn.”

Đức Gioan XXIII đã trả lời bằng thư tay trên tờ giấy có in huy hiệu của ngài. Hồi đáp được chuyển tới Kozyrev thông qua Đức Tổng Giám Mục Carlo Grano, Sứ thần Tòa Thánh tại Ý.

“Đức Thánh Cha Gioan XXIII,” bức hồi đáp viết, “cảm ơn vì những lời chúc và bày tỏ tới vị đại diện cũng như với toàn thể người dân Nga, những lời chúc chân thành cho sự phát triển và củng cố hòa bình thế giới, thông qua sự hiểu biết lẫn nhau về tình huynh đệ em: tôi thiết tha cầu nguyện cho điều này.”

Sự trao đổi này đã mở ra một kênh liên lạc giữa hai nhà nước, và khi cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba bùng nổ vào năm sau đó, Đức Gioan XXIII đã sử dụng nó để một thông điệp tới Liên Xô, cũng như Mỹ.

Thông điệp kết luận bằng lời cầu xin: “tất cả các chính phủ không thể tiếp tục giả điếc trước tiếng kêu than của nhân loại. Với quyền lực của mình, họ phải làm tất để cứu vãn hòa bình. Và do đó, họ sẽ miễn trừ cho thế giới phải chịu những kinh hoàng từ một cuộc chiến tranh với những hậu quả đáng sợ mà không ai có thể đoán trước được. Rằng họ nên tiếp tục các cuộc thảo luận, vì lối hành xử trung thành và cởi mở này có giá trị lớn như một nhân chứng của lương tâm mọi người và trước lịch sử. Thúc đẩy, ủng hộ, chấp nhận các cuộc hội thoại, ở mọi cấp và trong bất kỳ thời điểm nào là một quy luật của sự khôn ngoan và thận trọng, cái thu hút phước lành từ trời và đất.”

Thông điệp trên đã được gửi đến các đại sứ quán của Mỹ và Liên Xô, được phát sóng trên đài phát thanh Vatican, và được xuất bản trên trang nhất của tờ Pravda, tiếng nói chính thức của đảng Cộng sản Liên Xô .

Tài ngoại giao của Đức Chân Phước Gioan XXIII cũng khiến cho Đức Hồng Y Josyf Slipyj, Đức Tổng Giám Mục của Lviv Ukraine, được trả tự do khỏi gulag (trại tù chính trị ở Nga) ngày 25 tháng 1 năm 1963.

Đức Hồng Y Slipyj bị bắt bởi Liên Xô vào năm 1945. Ngài đã bị giam trong một thời gian dài trong các gulag ở Siberia kể từ thời điểm đó.

Tòa Thánh từ lâu đã hỗ trợ cho việc trả tự do cho ĐHY nhưng không thành công, cho đến triều đại của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, khi ấy vị Hồng y đã được Khrushchev trả tự do.

Một tháng sau, Alexei Adzhubei, biên tập viên của tờ báo chính phủ Liên Xô Izvestia và là con rể của Khrushchev, đã đến thăm Rôma và muốn gặp Đức Giáo Hoàng.

Mặc dù nhiều vị giám chức của Vatican đã chống lại cuộc gặp gỡ này, nhưng theo lời khuyên của Đức Hồng Y Siri của Genoa, Đức Chân Phước Gioan XXIII đã gặp Adzhubei và vợ ông ta là Rada, vào ngày 7 tháng Ba năm 1963.

Hàng loạt các sự kiện trên đã mở đường cho chính sách Ostpolitik (chính sách bình thường hóa quan hệ của phương Tây với Đông Âu và Liên Xô vào những năm 1970) của Đức Phaolô VI, nhờ đó Ngài có thể tham gia vào cuộc đối thoại với các quan chức từ Khối Hiệp ước Warsaw để cải thiện điều kiện cho các Kitô hữu tại những quốc gia đó.

PV.VRNs

 

PHẢI LÀM TRONG SÁNG TIẾNG VIỆT !

PHẢI LÀM TRONG SÁNG TIẾNG VIỆT !

Xem ra cách ăn nói nầy đã bị “Cải Cách Hóa” từ trong nước ra hải ngoại. Nghe xướng ngôn viên đài SBTN (Sanh Bắc Tử Nam) ở Nam Cali: ” . . . VN đã làm một động thái . . . ” thay vì nói : ” . . . VN đã hành động . . .” . Cơ quan truyền thông mà dùng chữ như “rứa” thì chả trách chi bàng dân thiên hạ. Cũng như một vài lớp Việt ngữ ở hải ngoại cũng dùng i và y như trong nước “địa lí, lí do”. Chữ lí thường dùng trong hành động ,vật thể như lí lắc, li ti; còn chữ lý thường dùng trong tư tưởng suý nghĩ như lý do, duy lý, địa lý.

Làm trong sáng tiếng Việt “Ai phụ trách khâu ẩm thực?”
Câu ấy nghe được trong cuộc họp của các thầy cô giáo ở một trường dạy tiếng Việt cho trẻ em, bàn về việc tổ chức buổi picnic cho thầy cô và phụ huynh học sinh….
Xin mạn phép có một hai ý như thế này:

Thứ nhất, câu ấy có sáu chữ thì hết bốn chữ là tiếng Hán-Việt (“phụ trách”, “ ẩm thực”).
Thứ hai, ba chữ cuối ở trong câu (“khâu”, “ẩm thực”) là những chữ “mới”, du nhập “từ Bắc vô Nam” saunăm 1975.
Giá dụ học sinh nghe được câu ấy bèn giơ tay hỏi cô giáo ở trong lớp:
– “Ẩm thực” là gì thưa Cô?
– “Ẩm” là uống, “thực” là ăn. “Ẩm thực” là tiếng Hán-Việt, có nghĩa là “ăn uống”.
– Tiếng Hán-Việt là tiếng gì vậy Cô?
– Là tiếng Hán, tức là tiếng Trung Quốc, đọc theo âm Việt.
– Vậy sao mình không nói “ăn uống”, là tiếng của mình, mà lại nói “ẩm thực” thưa Cô?

Cô giáo chắc cũng hơi bối rối, và cũng hơi khó trả lời, không lẽ lại nói là “Cô cũng không rõ, nhưng nhiều người đều… nói vậy”. Em học sinh ấy nói đúng. Tại sao người Việt ở trong nước, và cả ở ngoài nước, vẫn thích nói “ẩm thực” mà không chịu nói “ăn uống”? Có phải vì nói “ăn uống” nghe phàm tục, nói “ẩm thực” nghe thanh tao và “trí tuệ” hơn chăng? Trước năm 1975, người Việt ở miền Nam Việt Nam không nói “Ai phụ trách khâu ẩm thực?” mà có nhiều cách nói đơn giản hơn và dễ hiểu hơn, chẳng hạn: “Ai lo vụ ăn uống?”, hoặc “Chuyện ăn uống ai lo?”, hoặc “Thức ăn, thức uống ai lo?”…

Nếu cứ phải vay mượn tiếng Hán-Việt hoặc tiếng nước ngoài trong sinh hoạt hàng ngày, trong lúc kho tàng tiếng Việt của chúng ta không hề thiếu thốn những chữ ấy thì thật khó mà thuyết phục các em tin được rằng “tiếng Việt giàu và đẹp” như chúng ta vẫn tự hào (đã gọi là “giàu” thì tại sao lại phải đi vay, đi mượn?!?). Những tiếng Hán-Việt nặng nề và tối tăm ấy hoàn toàn không giúp gì được cho việc “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” mà những người làm công tác giáo dục ở trong nước vẫn hô hào, như là một khẩu hiệu trong số rất nhiều khẩu hiệu thuộc loại “nói mà không làm”, hoặc “nói một đàng làm một nẻo”, hoặc… “nói vậy mà không phải vậy”.

Những chữ nghĩa kiểu ấy khá phổ biến. Bên dưới là một ít ví dụ, và các đề nghị nói thế nào cho đúng, rõ nghĩa, dễ hiểu và “Việt ngữ” hơn (chỉ là câu mẫu, người đọc có thể cho những câu khác tốt hơn):

– Thay vì nói: “Cô giáo Mỹ Linh đứng lớp Năm”, nên nói: “Cô giáo Mỹ Linh dạy lớp Năm” (không có… đứng, ngồi, nằm, quỳ chi cả)

– Thay vì nói: “Giáo viên cần soạn giáo án trước khi lên lớp”, nên nói: “Thầy cô cần soạn bài giảng trước giờ dạy” (không có… lên, xuống, ra, vào chi cả)

– Thay vì nói: “Phụ huynh đăng ký cho con em học Việt ngữ”, nên nói: “Phụ huynh ghi tên (hay ghi danh) cho con em học tiếng Việt”

– Thay vì nói: “Các em tiếp thu tương đối chậm”, nên nói: “Các em hiểu chậm”.

– Thay vì nói: “Học sinh đi tham quan một xí nghiệp”, nên nói: “Học sinh đi thăm một nhà máy”.

– Thay vì nói: “Ban văn nghệ sẽ tham gia biểu diễn (2) một tiết mục”, nên nói: “Ban văn nghệ sẽ đóng góp một màn diễn”

– Thay vì nói: “Ban giảng huấn sẽ dự giờ đột xuất các lớp học của giáo viên”, nên nói: “Ban giảng huấn sẽ vào lớp xem thầy cô giảng dạy mà không báo trước”.

– Thay vì nói: “Lớp Vỡ Lòng chủ yếu tập trung vào khâu đánh vần”, nên nói: “Lớp Vỡ Lòng cần dạy các em biết đánh vần”.

– Thay vì nói: “Cô giáo phát hiện em Nga có năng khiếu về môn Văn”, nên nói: “Cô giáo nhận thấy em Nga có khiếu về môn Văn”.
– Thay vì nói: “Các em về nhà tranh thủ ôn tập”, nên nói: “Các em về nhà cố gắng ôn bài”.

– Thay vì nói: “Tuyệt đại đa số các em tiếp thu tốt”, nên nói: “Hầu hết các em hiểu bài”.

– Thay vì nói: “Cần nâng cao chất lượng (3) trong công tác giảng dạy”, nên nói: “Cần dạy sao để các em mau tiến bộ”.

– Thay vì nói: “Ai là phụ giáo?”, nên nói: “Ai là phụ tá”.

Tiếng Việt còn, nước Việt còn” hoặc “Tiếng Việt còn, người Việt còn”, ở đâu ta cũng nghe những câu ấy, nhưng chắc không phải là thứ “tiếng Việt” kỳ quái hoặc nửa Hán nửa Việt, nửa Tàu nửa ta, chẳng thấy “giàu” cũng chẳng thấy “đẹp”, chẳng thấy “trong” cũng chẳng thấy “sáng” (chỉ thấy… tối mò mò)

Lâm Kim Trọng gởi

Cha Frans Van Der Lugt, S.J. nhà truyền giáo Dòng Tên tại Syria đã bị sát hại

Cha Frans Van Der Lugt, S.J. nhà truyền giáo Dòng Tên tại Syria đã bị sát hại

Chỉnh Trần, S.J.

4/7/2014

Bản tin từ Trụ sở Dòng Tên tại Rôma cho hay những kẻ vũ trang đã đột nhập cộng đoàn Dòng Tên tại Homs, bắt cóc và bắn chết cha Frans Van Der Lugt, S.J. một nhà truyền giáo Dòng Tên phục vụ tại Syria.

Cha Frans sinh tại Hà Lan năm 1938. Ngài gia nhập Dòng Tên năm 1958 và chịu chức linh mục năm 1971. Cha đã phục vụ tại Syria từ năm 1960. Bất chấp nguy hiểm từ cuộc nội chiến tại Syria, cha đã tình nguyện ở lại thành phố Homs để đồng hành và giúp đỡ những người dân bị kẹt lại thành phố chết chóc này.

Các nhân chứng nói rằng vị linh mục này đã trở thành mục tiêu trực tiếp của những kẻ vũ trang. Một tay súng đã bước vào cộng đoàn của các tu sĩ Dòng Tên, bắt cha Van Der Lugt, dẫn cha ra sau vườn và bắn vào đầu cha.

Cha Van Der Lugt là một nhân vật nổi tiếng ở Homs vì những nỗ lực của ngài trong việc giúp cho hàng viện trợ lọt qua những hàng rào phong tỏa để đến với dân chúng đang đói khát.

Trong một cuộc phỏng vấn hồi tháng hai, cha Van der Lugt cho biết ngài không muốn rời bỏ thành phố Homs. Ngài nói: “Người dân Syria đã cho tôi quá nhiều, lòng hảo tâm và tất cả những gì họ có. Họ đang chịu đau khổ, và tôi muốn chia sẻ nỗi đau và những khó khăn cùng với họ”.

Trước đây, cha Van Der Lugt đã tải lên Youtube một đoạn video mô tả cuộc sống bi đát của người dân thành phố Homs. Ngài cho biết: “Chúng tôi, dù là Kitô hữu hay tín đồ Hồi giáo, đang phải sống trong những điều kiện khó khăn và đau khổ. Chúng tôi bị đói khát trầm trọng. Chúng tôi quý trọng sự sống, chúng tôi không muốn chết, không muốn chìm trong đại dương của tử thần và đau khổ”.

Một người anh em Dòng Tên khác của cha Van Der Lugt, cha Paolo Dall’Oglio, S.J, người Ý đã bị nhóm Thánh chiến Hồi giáo, một nhóm phiến quân vũ trang có liên hệ với Al-Qaeda, bắt cóc vào tháng bảy năm 2013. Hiện không rõ tung tích và số phận của cha Paolo Dall’Oglio ra sao.

Tại Syria, các tu sĩ Dòng Tên không làm chính trị, nhưng cam kết theo đuổi các hoạt động nhân đạo và lặp lại lời kêu gọi “hòa bình và hòa giải ở Syria.”

Cha Federico Lombardi, S.J., phát ngôn viên Tòa Thánh nói rằng cha Van Der Lugt đã thể hiện lòng can đảm phi thường khi chấp nhận ở lại bên cạnh người dân Syria dẫu cho ngài phải đối diện tình huống nguy hiểm đến tính mạng.

Trong một tuyên bố, nữ Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ Jen Psaki nói rằng nước Mỹ “đau buồn” trước thông tin về cái chết của cha Van Der Lugt. Bà nói rằng vị linh mục đã dấn thân phục vụ để xoa dịu những nỗi đau vì nội chiến của người dân Homs. Nữ phát ngôn viên này cũng lên án những đe dọa tiếp tục chống lại các Kitô hữu thiểu số tại Syria.

Một số chiến binh Hồi giáo nằm trong liên minh nổi dậy đã chống lại các Kitô hữu và buộc hơn 450,000 người phải rời bỏ nhà cửa của mình. Trước cuộc nội chiến, tại Syria có khoảng 2,5 triệu Kitô hữu.

Chỉnh Trần, S.J.

Xin anh đừng đánh, từ sáng tới giờ em bị đánh bầm dập rồi!”

Xin anh đừng đánh, từ sáng tới giờ em bị đánh bầm dập rồi!”

Văn Quang

Viết từ Sài gòn

Di ảnh anh Nguyễn Thanh Kiều và các vết thương

Di ảnh anh Nguyễn Thanh Kiều và các vết thương

Đó là lời van xin của anh Ngô Thanh Kiều, người bị công an TP Tuy Hòa bắt vì nghi ngờ có liên quan đến một vụ ăn trộm và sau đó đã bị 5 “cán bộ điều tra” dùng dùi cui đánh đến bỏ mạng.
Theo lời kể của Nguyễn Thân Thảo Thành (nguyên thiếu úy, cán bộ điều tra, Công an TP Tuy Hòa) người bị truy tố khung tội nặng nhất trong số 5 bị cáo nguyên là sĩ quan công an tại Phú Yên; tội “dùng nhục hình” theo khoản 3 điều 298 Bộ luật Hình sự, có mức án từ 5-12 năm tù…
Khi bị đưa ra tòa và bị các đàn anh đổ hết tội lên đầu mình, Thành đã kêu oan, nói không đánh Kiều vào đầu (như cáo trạng nêu). Khi Thành giơ dùi cui lên định đánh, Kiều năn nỉ: “Xin anh đừng đánh, từ sáng tới giờ em bị đánh bầm dập rồi…”, thế là Thành không đánh. Thành lý giải, mình chỉ được phân công canh giữ Kiều nên “không có lý do để xét hỏi và đánh”, chỉ “hỏi thăm Kiều theo… tình nhân loại”. Lúc vào canh giữ, Thành đã thấy một số bị cáo đá, đánh Kiều làm chảy máu miệng. Thành đã lấy nước cho Kiều uống…

Cấp nhỏ bị tù, cấp lớn hưởng án treo

Trước đó, trong phần luận tội, kiểm sát viên Ngô Thị Hồng Minh, đại diện Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) TP Tuy Hòa, đề nghị mức án từ 5 năm đến 5 năm 6 tháng tù đối với bị cáo Nguyễn Thân Thảo Thành (nguyên thiếu úy, cán bộ điều tra – Công an TP Tuy Hòa, người có cấp bậc nhỏ nhất trong số 5 bị cáo), 4 bị cáo còn lại được đề nghị từ 12 đến 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
Những lời khai của 5 bị can này trái ngược nhau gần như một cuộc “đấu khẩu” và anh nào cũng muốn tự bảo vệ mình nên “tố” nhau lung tung trước tòa làm cho những lời khai bất nhất. Nhưng cũng chính từ đó cũng thấy được gần như toàn bộ cảnh tra hỏi của những người có trách nhiệm.
Thật ra những cảnh bức cung, dùng nhục hình, người dân sợ quá phải nhận tội, bất kể tội gì dù tội giết người, đã từng diễn ra rất nhiều lần tại các cơ quan điều tra.

Kinh hoàng vì bị bức cung và dùng nhục hình

Trong khi người dân chưa quên vụ án lớn của ông Nguyễn Thanh Chấn bị bức cung phải nhận tội giết người, bị 10 năm tù oan thì gần đây tại Sóc Trăng lại xảy ra một vụ bức cung khác đang làm dư luận lên án. Đó là vụ Các cơ quan tố tụng của tỉnh Sóc Trăng mắc sai sót khiến cho 7 nam nữ thanh niên suýt vướng vào vòng lao lý sau nhiều tháng bị tạm giam.
Trưa 1-3-2014 vừa qua, anh Trần Hol kể ngay từ lúc bị công an mời lên làm việc, anh Hol đã khai ra nhiều chứng cứ ngoại phạm đối với bản thân anh trong đêm xảy ra vụ án. Tuy nhiên, các điều tra viên của Công an huyện Trần Đề vẫn một mực cho rằng Hol là hung thủ, thậm chí đánh anh.
Anh Trần Hol kể thêm: “Chuyển lên Công an tỉnh Sóc Trăng, tôi cũng bị đánh đến bất tỉnh… Do chịu không nổi, tôi khai nhận mình đã giết anh Dũng”.
Tương tự, anh Thạch Sô Phách cũng kể: “Lúc bị tạm giữ ở Công an huyện Trần Đề, anh bị 3 cán bộ công an thay nhau hỏi cung và đánh đập. Khi áp giải lên công an tỉnh, anh lại bị 4 cán bộ điều tra đánh tiếp. Do không chịu được nhục hình, anh cũng đã nhận bừa tội”. Anh Trần Văn Đỡ cũng bị như vậy.
Vụ án tưởng chừng như đã xong, thậm chí ban chuyên án chuẩn bị nhận thưởng “nóng” thì bất ngờ vào giữa tháng 12-2013, Lê Thị Mỹ Duyên (ngụ TP Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang) đến Công an phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân, TP Sài Gòn, đầu thú, thừa nhận chính cô và Nguyễn Kim Xuyến (ngụ thị trấn Trần Đề) đã giết ông Lý Văn Dũng với ý định cướp tài sản nhưng không thành.
Nếu hung thủ không xuất hiện thì cuộc đời của 7 nam nữ thanh niên kia tàn mạt rồi. Bức cung và ép cung đã thành một tệ nạn kinh hoàng đối với người dân lương thiện bởi chưa biết lúc nào bị tố cáo oan, bị nghi ngờ rồi mang đi điều tra để rồi có thể gặp cảnh này.

Nguyên nhân vụ án ở Tuy hòa

Theo cáo trạng, do nghi ngờ ông Kiều liên quan đến một vụ trộm cắp tài sản, ông Lê Đức Hoàn, Phó Công an TP Tuy Hòa, đã chỉ thị cho cấp dưới đến nhà bắt ông Kiều vào lúc 3g15 ngày 13-5-2012, rồi đưa về trụ sở Công an Tuy Hòa. Tại đây, các bị cáo trên đã thay nhau dùng dùi cui đánh ông Kiều, trong đó, Thành đã cầm dùi cui bổ thẳng vào đầu ông Kiều hai ba cái. Lúc 17g40 cùng ngày, ông Kiều tử vong do bị chấn thương sọ não.

Vụ án này đã được Cục Điều tra Viện Kiểm sát nhân dân (KSND) tối cao vào cuộc phanh phui.
Tại tòa, một số bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình là sai pháp luật và khai thêm nhiều tình tiết mới so với cáo trạng, trong đó có việc “tố” lẫn nhau, đó là việc một số điều tra viên đã dùng dùi cui cao su đánh nhiều lần vào chân ông Kiều, chứ không chỉ mỗi người một lần.
Năm sĩ quan công an cùng bị truy tố tội dùng nhục hình. Đó là các bị cáo Nguyễn Minh Quyền (thiếu tá, đội phó Đội trinh sát Phòng cảnh sát điều tra (CSĐT) tội phạm về trật tự xã hội (PC45) – Công an tỉnh Phú Yên), Nguyễn Tấn Quang (thiếu tá, đội phó Đội điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an TP Tuy Hòa), Phạm Ngọc Mẫn (thượng úy), Đỗ Như Huy (trung úy), Nguyễn Thân Thảo Thành (thiếu úy), đều là cán bộ điều tra, trinh sát của Công an TP Tuy Hòa.
Tất cả như một cuốn phim quay chậm diễn ra trên hầu hết các tờ báo lớn báo nhỏ trong tuần này và gây ra một luồng sóng phẫn nộ của toàn thể người dân Việt Nam. Có quá nhiều tình tiết nên tôi chỉ trích những đoạn then chốt để độc giả dễ theo dõi.
Đáng chú ý nhất là lời khai của Nguyễn Thân Thảo Thành, người có cấp thấp nhất và bị đề nghị kết án tù, trong khi các đàn anh chỉ bi án treo.

Lời khai thứ nhất tại tòa

Lời khai của Thành: “Khi vào tôi thấy phòng đóng cửa, không bật quạt, người anh Kiều ướt đẫm mồ hôi, ngồi gục xuống ghế. Hai tay anh Kiều bị còng ra sau dính vào ghế, hai chân cũng bị còng. Tôi thấy Nguyễn Tấn Quang dùng chân đạp vào anh Kiều, còn một người khác dùng tay đập vào tay anh Kiều đang bị còng. Ăn cơm xong, tôi vào thì thấy Nguyễn Minh Quyền và Phạm Ngọc Mẫn tiếp tục đánh anh Kiều. Quyền cầm gậy cao su quật liên tục vào người anh Kiều nên tôi bỏ ra ngoài. Khi anh Nguyễn Trần Nguyên Phúc phân công tôi vào canh giữ Kiều, tôi hỏi vài câu nhưng anh Kiều không nói. Tôi cầm gậy cao su để trên bàn định đánh anh Kiều thì anh Kiều van xin, nói: “Xin anh đừng đánh em. Sáng giờ em bị đánh bầm dập lắm rồi” nên tôi không đánh. Lần thứ ba tôi vào, tôi thấy môi anh Kiều bị chảy máu. Lúc này, Nguyễn Tấn Quang dùng gậy cao su đánh rất nhiều cái vào người anh Kiều chứ không phải vài cái như bị cáo này khai. Khi tôi được anh Lê Đức Hoàn, Phó Công an TP Tuy Hòa, chỉ định dẫn giải Kiều đến Công an tỉnh thì anh Kiều đã gục lên gục xuống”.
Đồng thời, Thành đưa ra thông tin mới là sau khi làm việc với cơ quan điều tra, bị cáo Nguyễn Tấn Quang đã gặp Thành để chất vấn. Theo đó, Quang không bằng lòng với lời khai của Thành là thấy Quang đã đánh vào đầu anh Kiều. Quang nói: “Chết rồi! Sao em lại khai vậy? Anh cùng anh Quyền, anh Mẫn đã thống nhất là khai khác rồi mà!”. Đáp lại lời khai này, bốn bị cáo Quang, Huy, Quyền, Mẫn đều im lặng!

Lời khai sau cùng: “Tôi rất nhục nhã khi phải đứng chung với các anh”
Khi ra tòa, từ đầu đến cuối bị cáo chính Nguyễn Thân Thảo Thành đều nói mình không đánh nạn nhân.
Nói lời sau cùng tại phiên xử sáng 29-3, bị cáo Thành nói: “Tôi rất nhục nhã khi đứng với những con người như thế này. Họ đánh chết người mà không dám nhận. Tôi xin các phóng viên hãy nói rõ việc này. Tôi là con người thẳng thắn. Những gì tôi nói là sự thật”.
Trước đó, bị cáo này cũng tố cáo: “Các anh đánh chết người mà không dám nhận, lại đổ lỗi cho tôi. Tôi đề nghị tòa làm rõ hơn hành vi đánh người của các bị cáo Quang, Mẫn, Quyền, Huy. Các anh góp tiền cho tôi để bồi thường gia đình nạn nhân. Tuy nhiên, tôi không đánh anh Kiều nên tôi không nhận”.
Về vấn đề này, đại diện VKS giải thích: sau khi sự việc xảy ra, các cán bộ công an trong cơ quan góp tiền để hỗ trợ Thành bồi thường cho gia đình nạn nhân.

Luật sư nói gì

Luật sư Võ An Đôn (người bảo vệ quyền lợi cho gia đình bị hại) tâm sự với báo chí: Tôi quá xót xa, đau lòng trước cảnh hai đứa trẻ mồ côi, trong đó cháu bé sinh ra mà chưa bao giờ được nhìn thấy mặt cha, trong khi gia đình lại quá nghèo. Hơn nữa, tôi rất bức xúc trước hiện tượng có nhiều nghi can, bị can chết bất thường tại các trại tạm giam, nhà tạm giữ. Để người dân khỏi chết oan và bị tù oan, tôi quyết định làm rõ vụ án này, đưa ra ánh sáng. Mục đích của tôi là tìm ra công lý, xử lý những người thi hành công vụ mà làm sai luật pháp. Chính vì thế, tôi nhận làm vụ này hoàn toàn miễn phí.

Tại phiên tòa, theo lời luật sư Đôn, Thành đã bị tạm giam quá thời hạn mà không có lệnh bổ sung. Theo cáo trạng, Thành là người đánh vào đầu nạn nhân, gây hậu quả chấn thương sọ não, dẫn đến tử vong. Do đó, Thành bị xem là bị cáo chính của vụ án.
Tại phiên tòa sáng 29-3, bị cáo Thành đã nói trước tòa: “Tôi yêu cầu cơ quan điều tra, VKS phải trả lời cho tôi vì sao giam tôi trong một thời gian dài mà không có lệnh?”.
Nếu lời khai của Thành là sự thật, có nghĩa là trong thời gian khai báo, bốn công an viên này đã có sự thông đồng để cho lời khai giống nhau. Thiết nghĩ nếu khai theo sự thật, thì tại sao phải bàn bạc trước khi nói? Phải chăng trong vụ án này đã thực sự có dấu hiệu cung cấp lời khai và chứng cứ gian dối, để lọt tội phạm. Ông Đôn nói: ông Hoàn là phó Công an TP Tuy Hòa đồng thời là trưởng ban chuyên án 312T trực tiếp chỉ đạo các cán bộ cấp dưới lấy lời khai anh Kiều nhưng dùng nhục hình đánh anh đến chết, thuộc trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nên ông Hoàn phải chịu trách nhiệm.

Phản ứng quyết liệt của gia đình nạn nhân

Nhiều người theo dõi phiên tòa đã lặng đi trước hàng loạt câu hỏi đầy uất ức xen giữa những tiếng nấc nghẹn của chị Ngô Thị Tuyết, chị của nạn nhân.
Suốt nhiều tháng liền, chị là người đại diện gia đình gửi đơn khiếu nại đến nhiều cơ quan chức năng, yêu cầu điều tra, xử lý hành vi đánh người của các cán bộ công an. Chị Tuyết đặt câu hỏi: “Nếu em tôi phạm tội thì có luật pháp xử lý. Tại sao giữa đêm khuya, dù không có lệnh bắt, họ lại ngang nhiên đến nhà còng tay bắt em tôi đi, rồi họ tự cho mình cái quyền được đánh đập người khác”. Chị Tuyết không đồng ý với đề nghị của VKSND TP Tuy Hòa về việc cho bốn bị cáo hưởng án treo.

“Luật pháp ở đâu khi em tôi bị đánh chết mà bốn bị cáo được đề nghị hưởng án treo? Một con người bị còng hai tay dính vào ghế, hai chân cũng bị còng, không có khả năng tự vệ lại bị năm công an có đầy đủ vũ khí đánh đập tàn nhẫn như vậy. Tử tù trước khi chết còn được cho ăn bữa cơm cuối cùng, còn em tôi có tội gì mà bị bỏ đói suốt từ sáng đến chiều? Khi khám nghiệm tử thi, trong bụng không hề có một chút thức ăn. Trong khi đó, trưa 13-5-2012, hàng loạt cán bộ công an thản nhiên ngồi ăn cơm trong tiếng la hét đau đớn của em tôi. Các người có lương tâm không? Các bị cáo chối tội đánh vào đầu em tôi gây chấn thương sọ não, vậy ai là người đánh chết em tôi?”. Chị Tuyết đã liên tục chất vấn: “Các người nghĩ gì khi nhìn thấy những tấm ảnh chụp những thương tích khắp người của em tôi. Các người nói chỉ đánh gây xây xát ngoài da, tại sao các bộ phận bên trong thi thể của em tôi bị nát hết?”.

Khi khám nghiệm tử thi cho thấy có đến 8 vết thương ở đầu. Chưa kể những vết thương ở vùng bụng, ngực làm tổn thương nội tạng.

Với dáng vẻ mệt mỏi, chị Trần Thị Tâm (vợ anh Kiều) băn khoăn: “Tôi không hiểu vì sao dân đánh người thì cho là tội cố ý gây thương tích hoặc giết người, còn công an đánh chết chồng tôi thì chỉ là tội dùng nhục hình(?)”.

Như thời Trung cổ

Chị Ngô Thị Tuyết cho rằng có nhiều tình tiết cho thấy bỏ lọt tội phạm. Chị Tuyết cũng nghi ngờ kết quả giám định pháp y của Trung tâm Giám định pháp y Phú Yên, “Bản giám định này không cho biết rõ nội tạng em tôi bị bầm dập là do đâu?”. Và chị Tuyết nói: “Tôi đã đề nghị HĐXX trả hồ sơ để giám định pháp y ở cấp cao hơn nhưng chủ tọa phiên tòa lướt qua không thèm trả lời”. Đề cập đến mức án VKSND TP Tuy Hòa đề nghị, chị Tuyết phẫn nộ: “Trời ơi, họ nghĩ sao khi điều tra viên dùng nhục hình như thời Trung cổ, ra tòa còn quanh co chối tội mà đề nghị án treo? Công lý ở đâu? Làm sao tôi chấp nhận? Nếu HĐXX tuyên theo mức án đề nghị, gia đình chúng tôi sẽ kháng án”.

Luật sư nói gì?

Đối đáp với đại diện VKS, luật sư Võ An Đôn (bảo vệ quyền lợi cho gia đình người bị hại) cho rằng việc công tố viên nói do ông Lê Đức Hoàn (phó Công an TP Tuy Hòa) có nhiều cống hiến, công trạng nên miễn trách nhiệm hình sự là không đúng quy định của pháp luật.
Giải thích về đề nghị này, luật sư Đôn nêu: Kết quả tranh luận tại tòa cho thấy ông Hoàn có dấu hiệu phạm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng bởi ông là phó Công an TP Tuy Hòa, trưởng ban chuyên án, trực tiếp chỉ đạo các cán bộ cấp dưới lấy lời khai anh Kiều nhưng để họ dùng nhục hình đánh chết người.

Dùi cui quất vào đâu?
Anh Lê Thanh Phong đã viết trên báo Lao Động: “Chẳng cần phải chờ đợi một bản án và những tuyên phạt của hội đồng xét xử cho các bị cáo là công an dùng nhục hình đối với Ngô Thanh Kiều, thì nhân dân cũng đủ kết luận và “tuyên án” đối với họ. Cho dù nguyên trung úy công an Đỗ Như Huy cúi đầu xin lỗi gia đình nạn nhân thì cũng không thể vơi bớt nỗi đau trong lòng của người vợ mất chồng, hai đứa con mất cha, cũng không xoa dịu được cơn giận của người dân.

Nhân dân tuyên án dựa trên hành vi: 5 vị công an này đã dùng dùi cui quật vào lương tâm của chính mình. 5 vị công an này đã dùng dùi cui quật vào danh dự của người công an nhân dân. 5 vị công an này đã dùng dùi cui quật vào lòng tin của dân.
Hội đồng xét xử Tòa án Nhân dân TP Tuy Hòa sẽ tuyên mức án cụ thể với 5 vị công an kia, nhưng không phải thế là xong. Những người chỉ đạo điều tra công dân Ngô Thanh Kiều cũng phải chịu trách nhiệm. Cụ thể là ông Lê Đức Hoàn – Phó Công an thành phố Tuy Hòa – người trực tiếp phân công cán bộ bắt giữ và xét hỏi công dân Ngô Thanh Kiều trái phép. Ông Lê Đức Hoàn không thể không chịu trách nhiệm trong vụ án này”.

Bản án bị phản đối toàn diện

Chiều 3-4, sau nhiều ngày xét xử và nghị án kéo dài, Tòa án TP Tuy Hòa (Phú Yên) đã tuyên phạt Nguyễn Thân Thảo Thành 5 năm tù, Nguyễn Minh Quyền 2 năm tù, Phạm Ngọc Mẫn 1 năm 6 tháng tù cùng về tội ‘Dùng nhục hình’.
Liên quan đến vụ án, các bị cáo Nguyễn Tấn Quang (nguyên thiếu tá – đội phó điều tra tội phạm về trật tự xã hội, Công an TP Tuy Hòa) bị phạt 1 năm 3 tháng tù, Đỗ Như Huy 1 năm tù nhưng cho hưởng án treo về cùng tội danh.
Đối với ông Hoàn, HĐXX cho rằng ông này ‘có dấu hiệu của tội Bắt giữ người trái pháp luật và Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, song chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự’.
Ngoài ra, HĐXX cũng đề nghị các bị cáo bồi thường 99 triệu đồng tiền gây tổn thất tinh thần, mai táng phí. Đồng thời, cơ quan chủ quản là công an TP Tuy Hòa có trách nhiệm bồi thường theo điều 260 bộ luật dân sự.

Nhiều người, nhiều bên phẫn nộ

Luật sư Võ An Đôn, bào chữa cho bị hại, cho rằng: “HĐXX đã liều lĩnh, đạp lên dư luận, pháp luật để ra bản án trái pháp luật. Một bản án bỏ lọt tội phạm nguy hiểm. Cụ thể ở đây là ông Lê Đức Hoàn phạm 3 tội nhưng không bị khởi tố tội nào. Một bản án không đúng khung hình phạt. Năm bị cáo trên phải bị truy tố tội ‘Cố ý gây thương tích dẫn đến chết người’ hoặc tội ‘Giết người’ mới đúng”.
Khi chủ tọa phiên tòa vừa tuyên án xong, bà Ngô Thị Tuyết, chị của Ngô Thanh Kiều, gào khóc và cho biết sẽ kháng án. Một phụ nữ có chồng trước đây chết trong nhà tạm giữ của công an, khi nghe tuyên án xong cũng ngã lăn ra khóc giữa sân tòa bày tỏ sự bất bình. Phải rất lâu, đám đông dự khán mới giải tán.
Ông Nguyễn Văn Thân, cha của bị cáo Nguyễn Thân Thảo Thành, cho rằng con ông là con tốt bị thí trong vụ án: “Vì sao người ta không truy tố tội ‘Cố ý gây thương tích gây hậu quả nghiêm trọng’? Chỉ vì nếu truy tố tội ấy sẽ có khung hình phạt cao hơn, một số người khác như ông Hoàn cũng bị tội. Tôi sẽ kháng án”. Luật sư Nguyễn Văn Thắng, Đoàn Luật sư TP Hà Nội, bào chữa cho bị cáo Thành, nói chưa ở đâu như HĐXX này, chưa đủ chứng cứ, nhiều dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà vẫn cứ xét xử, vẫn cứ tuyên án.

Bản án này lại gây ra một luồng sóng phản đối dữ dội trong dư luận, hẳn bạn đọc cũng không tìm thấy công lý ở đây và sự kháng cáo của gia đình nạn nhân sẽ… đi đến cái thế giới nào?
Các cơ quan lập pháp Việt Nam cần nhanh chóng tìm ra mọi biện pháp hữu hiệu nhất để chấm dứt những cảnh dùng nhục hình, đánh đập người bị điều tra để bức cung. Cần phải có luật sư của nghi can chứng kiến ngay từ đầu và có camera theo dõi toàn bộ vụ các vụ điều tra. Như thế sẽ bớt được cảnh lộng quyền ép cung của một số điều tra viên thiếu lương tâm.

Văn Quang
04/6/2014