KHUÔN MẶT THÁNH .. KHĂN LIỆM THÀNH TORINO

KHUÔN MẶT THÁNH .. KHĂN LIỆM THÀNH TORINO

Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt

… Xin kể lại câu chuyện đẹp nhất, tuyệt diệu
nhất đã làm xáo trộn tâm lòng cùng biến đổi cuộc đời tôi.

Một buổi tối khi mở máy
truyền hình, tôi bỗng thấy hiện lên tấm hình Khuôn Mặt Thánh. Khuôn Mặt thật
lớn, chiếm trọn màn ảnh. Tức khắc tôi nhận ra ngay Khuôn Mặt Thánh của Chúa
Giêsu Kitô ..

Thật lạ lùng, bởi vì trước đó, tôi không hề nghe nói về “Chiếc Khăn Liệm thành Torino” (Bắc Ý). Tôi cũng không bao giờ đọc Phúc Âm hay Kinh Thánh. Vậy mà vừa trông thấy “Khuôn Mặt Thánh”, tôi biết đó chính là Khuôn Mặt của Chúa Giêsu .. Khuôn Mặt chỉ xuất hiện vỏn vẹn vài giây, vì chương trình truyền hình kết thúc, nhưng trong vài giây ngắn ngủi ấy, đủ để tôi nhận ra Khuôn Mặt Chí Thánh của Chúa Giêsu! Muôn vàn cảm tạ hồng ân Thiên Chúa!

Tôi thầm nghĩ: hẳn phải có sách viết về Khuôn Mặt Thánh này, bởi vì đài truyền hình đã dành trọn chương trình để trình bày! Từ đó, tôi lưu ý tìm kiếm cuốn sách viết về “Chiếc Khăn Liệm thành Torino”.

Quên giới thiệu tôi là một thanh niên lêu lỏng chơi bời, lười học, biếng làm và chuyên nghề ăn cắp vặt. Tôi ăn cắp đủ thứ: sách báo, đĩa hát, băng nhạc v.v.

Một ngày, tôi vào tiệm hàng lớn ở Bruxelles, thủ đô vương quốc Bỉ. Tôi đi thẳng đến chỗ bán sách. Tình cờ tôi trông thấy cuốn sách mang tựa đề:

“Phải chăng đây là Khuôn Mặt của Chúa Kitô?”. Tác giả là Ian Wilson. Trang bìa
in hình Khuôn Mặt Thánh của Chúa Giêsu, Khuôn Mặt mà đã có lần tôi nhận ra trên
màn ảnh truyền hình.. Cùng chính lúc ấy, đôi mắt tôi chạm đúng Đôi Mắt của Chúa
Giêsu. Thật là “cú đứng tim”. Cú đứng tim thứ hai!.. Thế rồi tật xấu ăn cắp nổi
lên. Tôi hơi do dự vì tự nhủ: “Đây là cuốn sách đạo, nói về Chúa, mình không
nên ăn cắp”. Dầu lý luận như thế, tôi vẫn đưa tay “chộp nhanh” cuốn sách và dấu
vào cặp… Nhưng người canh tiệm đã trông thấy và tôi bị bắt quả tang! May mắn
thay mọi chuyện được giải quyết êm đẹp sau đó.

Ngày hôm nay khi hồi tưởng, tôi vẫn còn lấy làm lạ tại sao mình lại bị bắt quả tang như thế! Kể từ giây phút đó, tôi bỏ hẳn tính ăn cắp vặt. Tôi đem bán tất cả những vật tôi đã ăn cắp, lấy tiền giúp đỡ người nghèo. Quả thật, Khuôn Mặt Thánh của Chúa Giêsu đã biến đổi hẳn tâm lòng tôi!

Tôi để dành tiền và mua bức ảnh có Khuôn Mặt Thánh Chúa Giêsu in trên Tấm Khăn Liệm thành Torino. Tôi treo bức ảnh trên tường trong phòng riêng. Mỗi buổi tối, tôi quỳ trước bức ảnh và cầu nguyện thật lâu. Vừa cầu nguyện tôi vừa khóc như một đứa con nít. Tôi thật lòng ăn năn thống hối và xin Chúa Giêsu tha thứ mọi tội lỗi. Tôi đau đớn vì thấy mình trong bao năm qua đã xúc phạm đến Chúa Giêsu cách nặng nề.. Hạnh phúc thay, tôi cảm nhận Chúa Giêsu đã tha tội và tuôn đổ Tình Yêu của Người trên tôi, như một người đổ đầy nước vào bình chứa! Tôi thưa cùng Chúa:

“Con xin cám ơn Chúa, ôi Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ, là Đấng Chăn Chiên
Nhân Lành, là Vị Vua và là Chúa của chúng con. Lạy Chúa, con xin cám ơn Chúa,
vì Chúa đã cứu con. Chúa đã chịu chết vì con nên giờ đây con muốn hy sinh vì
Chúa. Chúng con muốn xưng tụng Chúa là Vua, là Chúa Tể Trời Đất, là Đấng Sáng
Tạo muôn loài và là Đấng ban phát sự sống. Chúng con muốn Chúa ngự trị trên chúng
con”.

Trước khi kết thúc chứng từ tôi mạn phép gửi tới các tín hữu Công Giáo vài
điều:

– Xin mọi người cầu nguyện không ngừng và đặc biệt cầu nguyện cho thế giới. Xin tất cả sốt sắng lần chuỗi Mân Côi hằng ngày.

– Xin những người không tin hãy hoán cải và thay đổi lối sống. Xin các tín hữu năng lãnh nhận các bí tích Giải Tội và Thánh Thể.

– Xin các tín hữu Công Giáo năng đi nhà thờ tham dự Thánh Lễ và rước Mình Thánh Chúa với trọn lòng kính mến.

– Xin mọi người năng đến viếng và chầu Thánh Thể, hầu thờ lạy Chúa Giêsu hiện diện thật sự trong Thánh Thể. Chúa Giêsu ngự đó và đợi chờ, tiếp đón mọi người. Ngài mong mỏi mọi người đến dự tiệc bàn thánh với Ngài.

(Danile-Ange, “IVRE DE VIVRE”, Le Sarment/FAYARD, 1987, 169-185).

Maria Thanh Mai gởi

CƯU MANG VÀ SINH HẠ MỘT THẾ GIỚI MỚI

CƯU MANG VÀ SINH HẠ MỘT THẾ GIỚI MỚI

Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Hôm nay các mục đồng vào hang đá và nhận thấy một Hài Nhi sơ sinh nằm trong máng cỏ. Hài Nhi Giêsu chào đời khai sinh một thế giới mới. Đức Mẹ đã sinh ra một
con người mới.

Đức Mẹ sinh ra một thế giới mới để sửa chữa thế giới cũ do Evà sinh ra. Thế giới cũ của bà Evà là một thế giới đổ vỡ. Từ chỗ bất tuân lệnh Thiên Chúa, thế giới đã đi đến chỗ bất hoà với nhau: ông Adong đổ lỗi cho bà Evà, bà Evà đổ lỗi cho con rắn. Không những bất hoà với nhau mà còn bất hoà cả với súc vật, cỏ cây, ruộng đất. Và từ chỗ bất hoà đi đến bất hạnh: Anh em Cain và Aben giết lẫn nhau. Con người phân tán, chia rẽ. Thế giới đổ vỡ này phát sinh từ lòng kiêu ngạo và thói ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân mình.

Thế giới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới vâng phục Thiên Chúa. Chúa Giêsu hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha nên đã sinh xuống thế làm người và từ bỏ ý riêng, sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên thập giá.
Đức Mẹ vâng phục thánh ý Thiên Chúa khi thưa “Xin vâng” với thiên thần. Thánh
Giuse vâng phục Thiên Chúa nên trở về nhận Đức Mẹ làm bạn. Các mục đồng vâng
theo lời thiên thần đến hang Bêlem tìm Chúa. Ba Vua vâng phục theo ánh sáng
ngôi sao đến thờ lạy Chúa.

Thế giới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới hài hoà. Sự hài hoà không phải chỉ có giữa Chúa Giêsu với Đức Mẹ và Thánh Giuse. Cảnh Chúa Giêsu nằm giữa thiên nhiên, trong hơi ấm của bầy chiên bò, với đoàn mục đồng và Ba Vua quây quần chung quanh nói lên một thế giới chung sống hoà bình. Chúa sống hoà hợp với trời đất, với con người và với thiên nhiên. Con người sống hoà hợp với Chúa và với nhau.

Thế giới mới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới quên mình. Chúa Giêsu đã quên địa vị mình là Thiên Chúa để xuống ở với nhân loại. Chúa Giêsu đã quên mình là Đấng thánh thiện để đến với người tội lỗi. Chúa đã quên mình là Thầy, là Cha, nên quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, các con cái của mình. Và nhất là Chúa đã quên mình là vô tội đến nỗi sẵn lòng hiến thân chịu chết cho loài người tội lỗi. Thánh Giuse và Đức Mẹ quên mình để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Mục đồng quên mình, giữa đêm khuya lạnh lẽo, bỏ giấc ngủ đến tìm Chúa. Ba Vua quên mình bỏ nhà cửa tiện nghi, lên đường, chịu vất vả khó nhọc đến thờ lạy Chúa. Sự quên mình, quan tâm lo lắng chăm sóc cho người khác đã khai sinh một thế giới mới chan chứa tình yêu thương và ấm áp sự hoà thuận. Đó chính là cảnh thái bình đáng mong ước.

Ngày đầu năm mới, Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, với mong muốn đặt thế giới vào tay Đức Mẹ để thế giới luôn được sinh lại, được đổi mới. Chỉ khi sinh lại trong Chúa và trong Đức Mẹ, thế giới mới thực sự có hoà bình.

Ngày đầu năm mới, Giáo Hội cầu nguyện cho hoà bình thế giới, mong ước con người hãy biết sống hài hoà với nhau trong vâng phục Thiên Chúa, trong quên mình vì người khác để có một nền hoà bình thực sự trường cửu. Vì hoà bình không chỉ là vắng bóng chiến tranh nhưng còn là con người sống hài hoà trong tình tương thân tương ái.

 

Ngày đầu năm mới, Giáo Hội cũng mời gọi tất cả mọi người chúng ta hãy cùng với Đức Mẹ cưu mang và góp phần sinh hạ một thế giới mới. Cưu mang chắc chắn phải nặng nhọc. Sinh hạ chắc chắn phải đớn đau. Nhưng nếu mỗi người đều noi gương Chúa Giês, Đức Mẹ, Thánh Giuse, Ba Vua, các mục đồng và cả súc vật trong hang đá Bêlem biết vâng phục Thiên Chúa, biết sống hài hoà và quên mình thì mới mong kiến tạo được một nền hoà bình viên mãn.

Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con trở nên con người mới, góp phần cưu mang và sinh hạ một thế giới mới như lòng Chúa mong ước. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Bạn có mơ ước một thế giới mới không? Thế giới đó phải bắt đầu từ đâu trước?
Từ chính bạn hay từ người khác?

2. Thế giới của Đức Mẹ có gì khác thế giới của bà Evà?

3. Đầu năm mới này, bạn dự tính làm gì để đổi mới thế giới chung quanh bạn?

Lời chứng của Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt về Cha Px.Trương Bửu Diệp

Lời chứng của Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt về Cha Px.Trương Bửu Diệp
Thực hiện lúc 10 giờ sáng ngày 16.8.2012 – tại Đan Viện Châu Sơn – Ninh Bình
DTGMKiet.jpg

nguồn: conggiao.info
Nhân có công việc ở Miền Bắc, chúng tôi lợi dụng cơ hội ghé thăm Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô quang Kiệt. Thật cảm động, ngài không những đã ưu ái đón tiếp mà còn vui lòng trả lời cuộc phỏng vấn của chúng tôi về Cha PX Trương bửu Diệp. Xin ghi lại cuộc phỏng vấn nầy để chia sẻ.
Lm. Phêrô Trần thế Tuyên: Xin chào Đức Tổng, con và hội Những Người Ái Mộ Cha PX Trương bửu Diệp rất hân hạnh được Đức Tổng vui lòng trả lời phỏng vấn của chúng con. Sức khỏe của Đức Tổng hiện nay ra sao?
Đức TGM Giuse Ngô quang Kiệt: Cám ơn Cha và anh chị em, sức khỏe tôi đã khá hơn, nhưng còn rất mong manh. Bệnh bớt đi nhưng vẫn luôn rình rập trở lại. Phải hết sức cảnh giác để ngăn ngừa. và phải biết sống chung với bệnh tật.
Lm. TTT: Sống và làm việc lâu năm tại miền Tây Nam Bộ chắc chắn Đức Tổng có biết về Cha PX Trương bửu Diệp. Xin Đức Tổng cho chúng con biết cảm nghĩ của Đức Tổng về Cha PX. Trương bửu Diệp.
ĐTGM NQK: Phải thú thật lúc đầu tôi không biết rõ về tiểu sử của Ngài nên không mấy quan tâm. Đặc biệt những năm tháng khó khăn tôi rất cảnh giác về những hiện tượng lạ lùng nên ít chú ý tới những đồn thổi về phép lạ. Nhưng sau này, càng hiểu biết về Ngài tôi càng thấy mến phục Ngài. Và qua gặp gỡ những người được ơn lạ tôi càng xác tín về sự thánh thiện của Ngài.
Lm. TTT: Xin Đức Tổng chia sẻ với chúng con về những xác tín đó.
ĐTGM NQK: Tôi thấy sự thánh thiện của Ngài qua 4 khía cạnh:
Thứ nhất, ngài sống chan hòa với người dân. Cứ ngắm bức chân dung của Ngài đã
thấy Ngài không những có nét mặt của một người đơn sơ bình dị mà qua trang phục
ta càng thấy sự đơn sơ khó nghèo của một người tôi tớ Chúa. Đọc tiểu sử Ngài
càng thấy Ngài yêu thương dân nghèo, thăm hỏi từng người, đặc biệt những người
nghèo khổ. Và không ngần ngại chia sẻ vật chất với những ai lâm cảnh túng
thiếu.
Thứ hai, ngài là người mục tử tốt lành. Ngài chăm sóc đoàn chiên được trao
phó cho ngài gề mọi phương diện. Khuyến khích ơn gọi. nêu gương cầu nguyện.
Giúp đỡ khi túng cực. Ngài cũng biết rõ từng con chiên trong đoàn chiên của
Ngài nên tình yêu thương càng cụ thể sống động hơn. Ngài tích cực bảo vệ đoàn
chiên, không tìm an hưởng cho mình, ở lại để sống chết với đoàn chiên. Và thật
cảm động ngài đã liều chết chống lại sói dữ để cứu đoàn chiên. Thật là một mục
tử nói gương Chúa Giêsu đến tận cùng.
Thứ ba, ngài đã dám hy sinh tính mạng vì dân. Đây là một tấm gương hiếm có.
Chúng ta đã có 117 vị thánh tử đạo dám chết vì Chúa. Nhưng Cha PX Trương bửu
Diệp gây ấn tượng mạnh nơi tôi vì Ngài dám chết cho dân. Chết để cứu dân. Chết
vì con người. Điều này khiến Ngài gần với Chúa Giêsu hơn.
Thứ tư, ngài không nói nhiều nhưng làm nhiều. Có lẽ nhiều người sống cùng
thời với Ngài đã được nghe ngài giảng dậy, khuyên nhủ, khích lệ. Nhưng tôi chưa
được đọc bài nào của ngài viết ra còn lưu lại. Tuy nhiên những việc Ngài làm và
đời sống của ngài là một quyển sách lớn in đậm trong tâm trí mọi người. Nhất là
cái chết đầy can đảm vì yêu thương của Ngài giá trị hơn tất cả những bài giảng
hùng hồn nhất.
Và hiện nay ngài vẫn còn bày tỏ lòng yêu thương của ngài đối với đoàn chiên nghèo khổ bơ vơ túng cực qua các phép lạ ngài làm.
cha-Truong-Buu-Diep.jpg
LM. TTT: Đức Tổng thấy tấm gương của Cha PX Trương bửu Diệp còn thích hợp với thời đại mới hôm nay không?
ĐTGM NQK: Tôi thấy tấm gương của Ngài thích hợp với thời nay hơn bao giờ hết.
Xã hội hôm nay đang tồn tại một hố ngăn cách rất lớn giữa con người với con người, giữa người giầu với người nghèo, giữa người quyền thế và người bình dân. Hố ngăn cách nầy đang có xu hướng ngày càng sâu rộng thêm. Rất cần những trái tim nhân hậu, những tấm lòng chia sẻ, những con người sống đơn sơ chan hòa với người dân như Cha PX Trương bửu Diệp.
Người dân nghèo hôm nay như đàn chiên không người chăn dắt. Trong một xã hội ngày càng trọng tiền của, chức quyền, người nghèo đang trở thành nạn nhân của những bất công mà không ai ngó ngàng bệnh vực. Rất cần những mục tử nhân lành như cha PX Trương bửu Diệp để chăm sóc cho đoàn chiên bơ vơ tất tưởi của thời đại nầy.
Thời đại hôm nay ghi đậm đấu ấn của hưởng thụ và cá nhân chủ nghĩa. Người ta ít
quan tâm tới người khác. Càng không có ai dám chết vì người khác. Rất cần những
trái tim biết yêu thương con người như cha PX Trương bửu Diệp không những dám
sống cho dân mà còn dám chết cho dân.
Thời thông tin bùng nổ người ta nói quá nhiều mà làm quá ít. Viết quá hay nhưng không thực hành. Diễn văn quá hứa hẹn nhưng thực hiện không có bao nhiêu. Rất cần những tấm gương như cha PX Trương bửu Diệp nói ít làm nhiều, không hứa hẹn suông nhưng hành động cụ thể.Ngài là chứng nhân sống động nên đã trở thành thầy dậy. Thời đại chúng ta đang cần những bậc thầy như ngài.
LM TTT: Đức Tổng nghĩ sao về tiến trình vận động phong thánh cho cha PX Trương bửu Diệp.
ĐTGM NQK: Tôi mong chờ ngày Cha PX Trương bửu Diệp được tôn vinh trên bàn thờ. Thực ra hiện nay ngài đã được tôn vinh trong lòng mọi người rồi. Nhưng cần một tôn phong chính thức không phải vì ngài nhưng vì xã hội hôm nay. Tấm gương của Ngài sẽ góp phần biến đổi xã hội này nên tốt hơn. Tôi cầu nguyện và cầu chúc cho công việc của cha được thuận lợi và thành công.
LM TTT: Chúng con xin cám ơn Đức Tổng đã dành thời giờ chia sẻ với chúng con về
cha PX Trương bửu Diệp. Kính chúc Đức Tổng mạnh khỏe thể xác và còn mạnh khoẻ
hơn về tinh thần để cầu nguyện nâng đỡ chúng con.
Văn phòng cáo thỉnh

Tất Cả Chỉ Là Hư Vô

Tất Cả Chỉ Là Hư Vô

Có một câu chuyện vui về phù thủy Mundaca. Ông nổi tiếng nhất trên thế giới vì có thể làm cho người chết được trở về sống lại trên trần gian này.

Một hôm, ông đến đọc thần chú trước ngôi mộ của một người nổi tiếng nhất trong vùng đã qua đời từ nhiều thế kỷ trước. Ngôi mộ mở ra và một vị sang trọng bước ra cúi mình chào vị phù thủy và nói:

– Xin cám ơn Ngài rất nhiều vì đã làm phép mầu  cho tôi được trở lại từ cõi chết, đó là Ngài thực hiện một công việc hết sức quan trọng cho những người cùng thời với Ngài. Thế giới sẽ sống an vui và hạnh  phúc hơn với công việc tôi sắp làm. Ngài có biết không, ngày xưa tôi sinh ra trong một dòng dõi sang trọng, tôi đã dùng hết sự giàu sang của mình để thực hiện những điều lợi ích cho mọi người chung quanh tôi sinh sống. Vì thế, giờ đây tôi được trở về trần gian, tôi sẽ dùng hết những việc tốt khi xưa để xây dựng hạnh phúc cho mọi người.

Nói xong những lời trên, người sang trọng vừa sống lại đó hăng hái bước về thành phố, nơi quê hương của mình sinh trưởng. Nhưng chỉ sau một ngày, phù thủy Mundaca đã thấy người vừa được sống trở lại gặp ông và năn nỉ:

– Xin hãy vui lòng đưa tôi trở về lòng đất.

Nhà phù thủy với giọng rất ngạc nhiên hỏi:

– Nhưng tại sao ông lại muốn chết trở lại?

Người sang trọng trả lời:

– Khi tôi trở về lại nơi tôi sinh sống, không ai biết tôi là ai cả, và cũng không có ai tin lời tôi nói. Tôi đã cố gắng nhắc lại cho họ về những điều tốt tôi đã làm cho mọi người khi trước, nhưng cũng không ích lợi gì. Dân tôi sinh sống ngày nay không còn nhớ gì nữa cả, đền đài kỷ niệm mà xưa tôi đã xây nên để ghi nhớ những gì tôi đã làm, nay không còn nữa. Giờ đây tôi mới hiểu câu nói: “Mọi vinh quang và vinh dự của con người đều chóng qua, tất cả chỉ là hư vô mà thôi”.

Nói xong những lời trên, người sang trọng xin nhà phù thủy cho về lại cõi chết.

***

Câu chuyện vui trên trình bày một quan điểm sống trần tục và vinh quang. người sang trọng kia lúc còn sống đã làm những điều tốt cho anh chị em mình để có tiếng tốt, để danh tánh được khắc ghi trên bia mộ lưu danh từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó là những toan tính trần tục. Người khi được từ cõi chết trở về, danh tiếng từ thời trước bị lãng quên không còn nữa. Người sang trọng kia không còn đủ nghị lực để tạo lập sự nghiệp mới mà bi quan muốn trở về với cõi chết. Nếu chúng ta sống cõi đời này chỉ có một quan niệm trần tục như vậy thì sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ rơi vào tình trạng trống rỗng bi quan.

Mỗi người chúng ta cần xét lại quan điểm sống của mình theo ánh sáng lời dạy của Chúa. Mỗi người chúng ta cần xác tín rằng: tôi được sinh ra trên trần gian này để thi hành sứ mạng yêu thương: yêu thương phục vụ Thiên Chúa, và yêu thương phục vụ anh chị em. Những việc lành tốt để chứng tỏ tình yêu thương đối với Thiên Chúa dầu có được người đời biết hay không? có nhìn nhận hay không? không phải là quan trọng. Điều quan trọng là tôi có thật lòng làm vì yêu mến Chúa hay không, và việc yêu mến Chúa và phục vụ anh chị em một cách thiết thực hữu hiệu một cách có thể.

***

Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương cho chúng con noi theo. Là một vị Thiên Chúa, Chúa đã không màng chi đến việc sinh xuống trần gian làm người thấp hèn, để trở nên giống mọi người. Dầu con người có biết ơn và tin nhận Chúa hay không. Chúa thực hiện những dấu lạ, những hành động tốt để mời gọi chúng con, nhưng không bao giờ ép buộc cúng con phải tin Chúa. Chúa luôn thi ân cao cả cho dầu những chống đối khước từ. Xin giúp con sống theo gương mẫu của Chúa. Amen.

R. Veritas

Anh chị Thụ & Mai gởi

LƯU MANH HÓA TRÍ THỨC

LƯU MANH HÓA TRÍ THỨC
“Không ít trí thức Việt nam dễ dàng bán mình cho những quyền lợi tầm thường và phi pháp.” (Dr. Nikonian)

Nói chung là bán đắt không ai mua thì phải bán rẻ thúi.

TL: Thỉnh thoảng mình được đọc note của một bạn trẻ có nickname là Tiếu Bối, đâu chừng ngoài 20 tuổi. Hôm nay lại được đọc bài này. Nếu tuổi trẻ đã ưu tư những chuyện như thế này của đất nước thì VN vẫn còn hồng phúc lắm…Tự an ủi mình như vậy!

Tượng trí thức (Thổ Nhĩ Kỳ)
Theo số liệu thống kê cho biết : Cả nước hiện có hơn 9. 000 Giáo Sư, 24.000 tiến sĩ, 101.000 thạc sĩ và 2.700.000 cử nhân đại học [1]. Một con số lý tưởng
cho nền kinh tế tri thức. Việt Nam hiện nay có nhiều điều kiện để trở thành nước có nền kinh tế phát triển như: nguồn lao động trẻ, thuận tiện giao thông, có nhiều loại tài nguyên,….Tuy vậy, nước ta vẫn trong cái vòng luẩn quẩn của nghèo nàn, lạc hậu. Nguyên nhân chính là ở yếu tố con người, do đất nước chúng ta không tôn trọng giá trị con người, không tôn trọng trí thức đích thực. Yếu tố con người chưa được quan tâm thích đáng trong khi nó mới là nhân tố chính cho sự hưng thịnh/ suy yếu của 1 quốc gia.
Một xã hội bảo thủ, trọng thành tích, hám danh sĩ diện với bằng cấp thường đi đôi với sự coi thường sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật đương nhiên sẽ tụt hậu. Và Việt Nam đã và đang tụt hậu. Cũng theo số liệu thống kê cho biết các chuyên gia WB tính toán
“Việt Nam phải mất rất lâu nữa mới đuổi kịp các nước trong khu vực Đông Nam Á: 158 hoặc cũng có thể là 175 năm với Singapore, 95 năm với Thái Lan và 51 năm với Indonesia.” [2]
Vấn đề đầu tư vào giáo dục luôn quyết định hưng, suy của một quốc gia. Nền giáo
dục của Việt Nam và cả xã hội Việt Nam làm nhân tài không có đất dụng võ. Với
bằng cấp tràn lan, làm người Việt ảo tưởng về mình. Mỗi năm chúng ta có rất nhiều kỹ sư, cử nhân, tiến sĩ, giáo sư mới nhưng nền kinh tế của chúng ta lẹt đẹt, èo uột, đất nước chúng ta lạc hậu. Nếu tính từ hàm Thứ trưởng trở lên, số người có trình độ tiến sĩ ở Việt Nam cao gấp 5 lần Nhật Bản [3]. Và với số lượng hùng hậu GS, TS, Ths, Cử nhân đã nêu trên, một con số lý tưởng cho nền kinh tế tri thức. Nhưng hiện vẫn đốt đuốc tìm lao động chuyên gia, thiếu hẳn những công trình khoa học – sáng tạo – sáng chế được ứng dụng vào thưc tiễn cuộc sống…Trong khi nền kinh tế sản xuất vẫn là nhân công giá rẻ, miệt mài với gia công phụ thuộc, công nghệ thì vẫn đang loay hoay ở trình… “sản xuất mì tôm”.
Người Hàn Quốc họ có quyền tự hào vì họ xây dựng được những sản phẩm mang tính thương hiệu quốc tế như: Sam Sung, Huyndai. Người Nhật có thể vỗ ngực tự hào với Sony, Toyota. Sing có quyền hãnh diện về hàng xuất khẩu điện tử của mình ra khắp thế giới,…Hoàn toàn thiếu một sản phẩm Việt sánh ngang tầm các quốc gia khác trên thế giới.
Thực tế này cho thấy, chất xám Việt đang bị lãng phí. Lãng phí từ khâu đào tạo
(đào tạo quá nhiều GS, TS, Ths giả và dỏm), lãng phí cả khâu sử dựng (Nhân tài
thực sự chưa được tin dùng và sử dụng hợp lý và trọng dụng họ).
Người Việt, trí thức Việt, dân Việt trách móc Xã hội này đôi khi, nhưng nếu nhìn kỹ lại, thì chính họ chính chúng ta tạo nên Xã hội này. Trí thức Việt nói riêng, dân Việt nói chung nhiều lúc đôi khi có xu hướng, chờ đợi mong mỏi một vị minh quân, 1 vị lãnh đạo tài ba xuất chúng nào đấy xuất hiện để đưa lối dẫn đường họ và lãnh đạo đất nước đang tụt hậu này, nhưng họ quên rằng không ai dẵn dắt và không ai hành động tốt hơn họ tự dẫn dắt mình định hướng cho mình. Đã đến lúc cả dân tộc này và giới trí thức Việt cần nhìn thẳng và nhìn thật vào chính mình, nhìn vào thực tế và tự gánh trách nhiệm cũng như vài trò của mình để tự thoát ra cái vòng luẩn quẩn này chứ không phải một ai đó, 1 vị cứu tinh nào đó hay 1 vị minh quân còn ẩn dật đâu đó.
Nghèo, dốt, thua kém người khác chưa hẳn là cái tội. Cái tội là ở chỗ: nghèo, đói, lạc hậu, thua kém người khác nhưng lại không biết, hay biết mà không chịu thừa nhận và tệ hơn là phải phủ nhận mình nghèo bằng mọi giá vì cái sĩ, để rồi không chịu tìm tòi hướng đi, lối thoát cho mình. Và nếu chúng ta không khắc phục được sự yếu kém của đất nước, nạn nhân cũng chính là chúng ta. Chúng ta là nạn nhân của chúng ta.
Bất cứ xã hội nào, trí thức và yếu tố con người mới là yếu tố hàng đầu để đưa
đất nước đi lên. Nước Mỹ phồn vinh với giấc mơ Mỹ và là miền đất Hứa của biết
bao người trên thế giới, Người Hàn Quốc chấp nhận “ăn mày chất xám” ở phương
tây, tinh thần Samurai của Nhật…Sao không để cho trí thức Việt được tự do trong
sáng tạo, tự do trong tư tưởng, tự do trong lựa chọn của mình !? Để họ được
cống hiến !?
Ở một góc độ nào đó, có thể nói và khẳng định rằng, đất nước không phát triển
được như người ta là vì trí thức Việt chưa phát huy hết vai trò và sứ mệnh của
mình. Và lại ở 1 góc độ nào đó, họ bị kiềm kẹp, bị cột, bị trói chặt tư duy, tư tưởng, và cả ý thức hệ, họ cũng muốn sống, muốn cống hiến lắm, muốn được hy sinh nhưng ý thức hệ, sự khác biệt trong tư duy và tư tưởng đã làm cho họ không được chọn, và họ bị cuốn vào vòng xoáy luẩn quẩn của giới trí thức Việt bao đời nay, vòng xoáy của một xã hội mà ngay cả đến trí thức cũng bị đẩy vào con đường “lưu manh hóa”, ở đó nhân phẩm của trí thức bị người khác chà đạp và tự mình chà đạp lên mà sống ,để rồi họ không kịp nhận ra họ vừa là “nạn nhân” mà còn đồng thời là “thủ phạm”. Họ hành hạ nhau và dẫm đạp lên nhau mà sống:
-Một bác sĩ với mức lương èo uột, 3 đồng 3 cọc , chết đói, anh ta tìm đủ cách làm khó bệnh nhân để được nhận “lót tay”. Nhưng khi anh ta sử dụng các dịch vụ khác, anh ta lại bị làm khó lại.
-Một thương gia (doanh nhân) vì chạy theo lợi nhuận và tham đồng tiền bất chính không ngại bán rẻ lương tâm mình sản xuất ra những hàng hóa chất lượng kém, độc hại tới sức khỏe của người tiêu dùng, miễn sao lợi nhuận nhiều, xả chất thải độc hại ra môi trường, nhưng rồi chính anh ta hủy hoại môi trường chung anh ta đang sống trong đó và sẽ ra sao nếu anh ta mua phải những sản phẩm độc hại khác do người khác cũng vì tham lam mà sản xuất ra như anh ta.
-Từ Vụ sập cầu Cần Thơ, cho đến sập cầu cống, hàng loạt công trình thủy điện quốc gia công trình dân sự khác,… những kỹ sư làm việc trên công trình đó đã làm hại hoặc tiếp tay cho người khác làm hại rất nhiều người. Sẽ ra sao nếu như những kỹ sư này đứng dưới công trình của chính họ thiết kế và xây dựng?
-Một nền giáo dục thay vì dạy con người ta cách học, nó chỉ dạy con người ta cách tin và phải đặt niềm tin vào đấy, kết quả tạo ra khg phải 1 thế hệ mà nhiều thế hệ cứ bắt thế hệ nối tiếp sau cứ tiếp tục đặt niềm tin. Bởi lẽ thế hệ này tiếp tục “dẫn dắt” (chăn dắt!?) thế hệ kia.
-Một công chức, phải bỏ ra 1 khoản tiền lớn để mua chạy chức, hối lộ cho người
này, cho cơ quan kia để có cái ghế, cái chức. Khi có cái ghế, cái chức rồi lại quay lưng ra cướp phá, cướp bóc , hạch sách nhũng nhiều người khác để lấy lại những thứ mà mình từng bỏ ra. Và xem điều đó là lẽ đương nhiên và cái vòng luẩn quẩn ấy cứ tiếp diễn!
-Một nhà báo, nhà văn, người cầm bút vì lợi ích cá nhân riêng, có thể nhẫn tâm
bẻ cong ngoài bút, viết láo và viết liều để nhận được những đồng tiền bẩn tưởng
chừng như chỉ làm tổn hại tới người đọc nói riêng và nền văn báo chí văn hóa
nước nhà nói chung nhưng anh ta cũng đang tự biến mình thành trò bỉ ổi và lố
bịch trong mắt người đọc, vì người đọc bây giờ đủ thông minh để nhận biết đâu
đúng, đâu sai. Bởi trước khi hốt bùn để ném vào mặt người khác, thì bàn tay anh
ta cũng đã lấm bùn trước rồi…
Và cứ thế, mỗi người trong xã hội cứ tự hại mình và hại người khác. Có thể nói
trí thức Việt Nam nói riêng và người Việt nói chung vừa tự hại mình và hại
người, nạn nhân của nhau, nạn nhân của định hướng xã hội, nạn nhân của sự lãnh
đạo và dẫn dắt tồi tệ.
Trong một xã hội, khi “sự thật” bị bóp méo, bị bẻ cong Trí thức Việt từ chỗ “người sáng” cũng trở thành “người mù”, người thẳng cũng thành “còng lưng”. Hoặc im lặng, cúi đầu chấp nhận để mà sống yên ổn thay vì cất tiếng nói phản kháng rồi bị vùi dập.
Với mức giá, mức lương hiện tại, Xã hội còn nhiều trí thức không sống được vói
mức lương thực của mình. Người lao động trí thức bị bần cùng hóa và bị đẩy đến
chỗ không còn có thể nghĩ gì khác ngoài việc làm sao kiếm cho đủ tiền để sống.
Đây chính là một trong những lý do làm nên sự tha hóa, biến chất của giới lao
động trí thức, thay vì đầu tư vào nghiên cứu, nâng cao chuyên môn tay nghề,
phát minh ra cái này, khám phá ra cái kia họ lao đầu vào kiếm tiền kiếm sống,
làm sao phải sống được cái đã. Chính điều này dẫn họ tới kết quả làm nhiều việc
trái nghề, trái lương tâm, trái đạo đức xã hội…
Mua quan, bán chức, mua vị trí công tác diễn ra đều đặn trong giới lao động trí thức trong Xã hội để rồi khi lên nắm quyền thì Vua quan thi nhau chia chác, nhũng nhĩu, quan liêu, thằng lên sau thì dốt hơn nhưng lưu manh, khốn nạn hơn thằng trước. Khốn khổ cho một xã hội!
Chưa dừng lại ở đó, Giới lao động trí óc ở Việt Nam không những bị bần cùng hóa
về đời sống vật chất, mà còn bị bần cùng hóa hay tự bần cùng hóa cả về tư duy đời sống tinh thần khác. Hiện tượng này đang thành ra phổ biến : những người, lẽ ra , phải làm việc với sách vở lại rất ít đọc sách, không quan tâm đến các vấn đề xã hội. Họ tự phủ nhận vai trò và trách nhiệm xã hội của họ. Hoặc học nhiều đọc nhiều, có bằng này bằng nọ chỉ để tự hào, để khoe khoang, để lên lớp nhau, để mơn trớn nhau vì cái tính sĩ diện hảo. Và cách người Nga đáp trả: Mày giỏi (giáo dục cao, học giỏi…) sao mày không giàu (sao mày không thể bán chút kiến thức để kiếm tí tiền tiêu cho sang trọng). Có lẽ câu nói đó hơi sống sượng. Nó hơi chợ búa. Nhưng nó chỉ ra một thứ rất đáng nghĩ rằng: nếu như kiến  thức của bạn không mang lại giá trị cho chính bản thân bạn thì bạn cần kiến thức đó làm gì. Để trang trí hả? Để khoe mẽ hả? Nói thẳng ra, nó hơi chợ búa, nhưng đấy là cách nghĩ của một con buôn chứ không phải 1 trí thức.
Mặt khác, một số đông trí thức và tự nhận mình là trí thức lại cố định, cột chặt và để người khác cột, trói chặt tư duy và suy nghĩ của mình bằng những định kiến có sẵn, những quan điểm tâm lý đám đông và những quy luật bất thành văn khác về tư duy và quan điểm của họ . Điều này dẫn đến họ không tự do tư duy, không có tính bức phá không có khả năng phán xét đâu đúng đâu sai, họ chỉ biết nghe, biết chấp nhận những điều từ người khác mớm cho, từ trên đưa xuống không cần phán xét coi nó đúng hay sai, lợi hại ra sao. Sự bần cùng hóa tinh thần là một trong những nguyên nhân khiến giới lao động trí óc ở đây đánh mất sức mạnh, đánh mất khả năng phân biệt đúng sai, phải trái, và khiến họ có thể vi phạm các chuẩn mực đạo đức mà vẫn cảm thấy yên ổn lương tâm. Họ tìm sự yên ổn bằng cách sử dụng các lý lẽ mang tính ngụy biện để bào chữa hoặc hợp pháp hóa cho sự vi phạm đạo đức hay sự vi phạm pháp luật. Họ đã dùng cái sai này để ngụy biện bao che, phủ lấp cái sai khác, trong khi những giải pháp đúng đắn, khoa học đã không được lựa chọn.
Chính sự bần cùng và tự bần cùng hóa về tư duy, đạo đức và tinh thần, đời sống,
trí tuệ đã khiến cho trí thức Việt Nam bị tha hóa nhiều mặt, mất cả năng lực
làm việc trong lĩnh vực chuyên môn của mình, mất luôn cả bản lĩnh văn hóa, cả ý
thức về sự đúng sai, cả phẩm chất đạo đức công dân. Để tự giữ cho mình trong
sạch, chuẩn mực còn khó, nói chi đến chuyện dám đứng lên bảo vệ công lý, bảo vệ
sự thật ! Chính vì thế nhiều người còn chút lương tri họ chấp nhận cắn răng
chiệu đựng và thõa hiệp với cái ác và cái xấu để yên ổn mà sống.
Họ dối trá, tiếp tay cho sự dối trá, họ lừa lọc, tiếp tay cho sự lừa lọc, họ sĩ diện và tiếp tay cho sự sĩ diện. Tất cả nó làm nên dung mạo của nền trí thức bị “lưu manh hóa”.
Đất nước này đã phải trả cái giá quá đắt cho tệ nạn “lưu manh hóa trí thức” này
rồi, bây giờ đã đến lúc chúng ta phải biết tự đứng dậy, dám nhìn thẳng, nhìn
thật vào sự thật, nhìn vào thực tế,… tự bản thân mình thoát ra khỏi cái vòng
luẩn quẩn ấy, đừng tự hại mình và hại người nữa.
[1] Số liệu Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn (ĐH New South Wales, Úc) đưa ra.
[2] Tính toán của các chuyên gia dựa trên báo cáo của WB năm 2007
[3]Theo TS Nguyễn Khắc Hùng, nguyên Chuyên viên Đối ngoại, Học viện Hành chính Quốc Gia.
OH, 30/12/2012
Cám ơn Nguyễn Thọ gởi

TÔI TẠ ƠN CHÚA

TÔI TẠ ƠN CHÚA

Tôi tạ ơn Chúa vì chồng tôi cứ phàn nàn khi bữa cơm chưa dọn kịp, bởi lẽ chàng đang ở ngay bên cạnh tôi, chứ không phải bên ai khác.

Tôi tạ ơn Chúa vì con tôi cứ càu nhàu khi phải phụ rửa chén đĩa cho tôi,

bởi lẽ thằng bé đang ở nhà chứ không phải lêu lổng ngoài đường.

Tôi tạ ơn Chúa vì số thuế thu nhập mà tôi phải trả quá cao,

bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang có một công việc tốt để làm.

Tôi tạ ơn Chúa vì có nhiều thứ phải dọp dẹp sau bữa tiệc nhỏ,

bởi lẽ như thế nghĩa là tôi luôn được bạn bè quý mến đến chơi.
Tôi tạ ơn Chúa vì quần áo tôi bỗng trở lên hơi chật, bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang có đủ ăn,
Tôi tạ ơn Chúa vì cái bóng của tôi cứ nhìn tôi làm việc, bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang sống tự do ngoài nắng.

Tôi tạ ơn Chúa vì sàn phòng cần quét, cửa sổ cần lau, màng xối cần sửa,

bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang có một mái nhà để cư ngụ.
Tôi tạ ơn Chúa vì tất cả những lời than phiền về chính phủ, bởi lẽ như thế nghĩa là chúng ta đang được tự do ngôn luận.

Tôi tạ ơn Chúa vì hóa đơn đóng tiền cho hệ thống sưởi thật cao,

bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang được ấm áp.

Tôi tạ ơn Chúa vì người phụ nữ ngồi phía sau tôi trong nhà thờ hát sai,

bởi lẽ như thế nghĩa tai tôi còn nghe được rất tinh tế.

Tôi tạ ơn Chúa vì đống đồ phải giặt ủi,

bởi lẽ như thế nghĩa là tôi có đầy đủ quần áo để ăn mặc tử tế.

Tôi tạ ơn Chúa vì các cơ bắp của mình thấy mỏi mệt vào cuối ngày,

bởi lẽ như thế nghĩa là tôi có sức để làm việc nhiều.

Tôi tạ ơn Chúa vì tiếng đồng hồ reo to thật sớm ban mai,

bởi lẽ như thế nghĩa là tôi còn đi lại, hít thở và cười nói, bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang còn sống.

và cuối cùng…
Tôi tạ ơn Chúa vì nhận quá nhiều thư từ gửi về,

bởi lẽ như thế nghĩa là tôi vẫn còn có nhiều bạn bè đang nhớ đến tôi…

Tôi gửi bài này để các bạn hiểu rằng :

“Thiên Chúa luôn đến với con người bằng một quả tim yêu thương,

cho dù chúng ta đang ở trong bất cứ tình trạng nào!”

Trần Duy Nhiên dịch
chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Tận thế mỗi ngày

Tận thế mỗi ngày

Sat, 29/12/2012

Tác giả:

Sưu tầm
nguồn: thanhlinh.net

‘Tận thế’ mỗi ngày

Chúng ta đang chết một cái chết không đột ngột nhưng dần dần và phải nói là ‘tức tưởi’.

Con người với bản năng sinh tồn vốn có cộng với lòng tham của bản chất khiến cho chúng ta yêu và muốn níu kéo cuộc sống này hơn bao giờ hết. Điều này càng khó xảy ra với Việt Nam hơn khi mà nước ta với GDP ở top trên 100 nhưng chỉ số hạnh phúc là nhất, nhì thế giới. Vậy chúng ta được gì và mất gì với cuộc sống mà ta đang nắm giữ? Xin lý giải tại sao tôi – một người cực kỳ bình thường về tâm lý và thể trạng sức khỏe lại mong ngày tận thế đến như vậy.

Nền kinh tế kỹ trị tăng trưởng theo hình xoắn ốc với tốc độ nhanh chưa từng có và kéo theo nó cũng là sự xuống dốc trầm trọng về văn hóa, đạo đức và lối sống. Và vô vàn các ví dụ khác, những tiên đoán của các nhà khoa học về cái giá phải trả của sự phát triển giờ đã thành sự thật.

Sự phân hóa giai cấp đang tăng dần bất kể nước giàu hay nghèo, miễn ở đâu có quyền lực, ở đó có bất bình đẳng. Và khi áp lực đó gia tăng nhờ sự đè nén và chèn ép quy luật của tự nhiên, con người trở nên man rợ chưa từng thấy. Khoan hãy nói về vấn đề văn hóa, tôi sẽ đưa ra ví dụ để cho thấy loài người man rợ như thế nào. Loài nhện là một trong những loài hiếm hoi mà xảy ra hiện tượng ăn thịt đồng loại, con cái ăn thịt con đực nhưng thay vào đó là sự ra đời của những lứa đời sau khỏe mạnh hơn.

Con người thì khác, họ tranh giành nhau từng mảnh đất, bờ cõi phục vụ cho những mưu đồ chính trị, phát triển những ngành nghiên cứu khoa học vượt thời đại về chất xám để rồi phục vụ cho y học thì ít mà cho chiến tranh thì nhiều. Với số lượng bom nguyên tử mà các quốc gia hiện đang nắm giữ có uy lực phá hủy 6 lần trái đất. Vậy cuộc sống chúng ta có phải quá mong manh như ngàn cân treo sợi tóc, như ngọn đèn hắt hiu trước gió hay không khi mà chỉ cần một bộ não của một kẻ uy quyền nào đó đang thiếu hụt năng nề tính nhân bản có thể “bấm bút” và “bùm”. Cát bụi sẽ trở về với cát bụi. Hiroshima hay Nagashaki sẽ không còn là nhân chứng sống duy nhất nữa mà biết đâu đấy, chúng ta không còn cơ hội để nhìn thấy nhân chứng thứ hai. Đến lúc đó, cuộc sống phỏng còn có ích chi?

Nếu bạn đã đọc Lá thư được viết vào năm 2070 của cựu thủ tướng Ấn Độ thì bạn sẽ phải sửng sốt về những điều thực sự nói không ngoa chút nào. “Mọi người trông như những bóng ma: thân thể họ lờ đờ vì yếu đuối, nứt nẻ vì thiếu nước trầm trọng và bị lở loét vì ung thư da do bầu khí quyển không còn khả năng ngăn chặn tia tử ngoại khi tầng ozone bị phá hủy”. Nếu như bạn là người hay xem phim, hãy bỏ thời gian cho hai bộ phim là Thần rừng Lorax và In time. Khi mà nguồn tài nguyên quý
giá nhất của con  người là nước, không khí, thậm chí cả những thứ vô hình như
thời gian cũng khan hiếm thì người ta sẽ sẵn sàng bằng mọi giá để giành giật
lấy nó như giành giật lấy sự sống này vậy.

Nhưng đó chỉ là những suy nghĩ về môi trường sống của chúng ta sẽ bị hủy hoại như thế nào, thực chất, điều bị hủy hoại mà tôi muốn nói ở đây là đạo đức, là văn hóa, là nhân phẩm con người. Không biết tự cái thuở nào con người vẫn còn sinh ra trong cái nôi gia đình với “Nhân chi sơ tính bản thiện” vậy mà giờ đây được nền văn minh nhào nặn để trở nên tham lam và vị kỷ, chủ nghĩa cá nhân xâm chiếm lợi ích cộng đồng, tài nguyên bị bòn rút để tập trung vào tay một số kẻ có quyền lực.

Văn hóa du nhập, lai căng, những nét đẹp dân tộc giờ đây bị coi là cổ hủ và lạc hậu, nhường chỗ cho ngành truyền thông và quảng cáo. Chúng ta đang chết một cái chết không đột ngột nhưng dần dần và phải nói là “tức tưởi”. Đó mới là cái chết đau đớn
biết bao.

Chắc bạn đã nghe câu chuyện về cái cây ở bệnh viện phụ sản không thể chặt được với lý do có quá nhiều linh hồn nhỏ bé trú ngụ trên đó. Về thực chất câu chuyện đúng sai, duy tâm duy vật thế nào tôi không biết, chỉ có điều, một thực trạng trông thấy là
những linh hồn đang vất vưởng ngoài kia là những hài nhi chưa thành hình, là
sản phẩm của những phút nông nổi của giới trẻ, là kết quả của sự pha tạp văn hóa, hoặc những “giờ dạy con” của các bậc cha mẹ đã bị đánh cắp bởi cuộc đua tiền bạc dẫn đến sự vô định hướng của giới trẻ.

Khi mà con người ta lấy thước đo giá trị làm chuẩn mực để đánh giá một con người thì dường như mọi thứ bị đảo lộn, một thực tại không thể chối cãi được. Ở một quốc gia mà nhà nghỉ, khách sạn, nhà tù, phòng khám tư phá thai nhiều hơn cả trường học, bệnh viện cho người nghèo thì thử hỏi các bậc cha mẹ làm sao không khỏi đau đầu? 10 năm nữa liệu Việt Nam có còn coi “Mỗi đứa con là một món quà của trời cho” nữa không hay khi đó, việc duy trì nòi giống cần phải có sự can thiệp khuyến khích từ chính phủ.

Đi đến đây, tôi, bạn và chúng ta đã nhìn thấy những vết thủng lỗ chỗ trên nền văn minh đương đại, chúng ta có thể làm gì, nói gì nữa đây. Nếu bạn không phải là người nhạy cảm thì xin hãy cứ hát lên khúc ca của riêng mình và sống một cuộc sống như thể ngày mai là tận thế, cònnếu bạn giống tôi – người suốt ngày suy nghĩ thì hãy ngồi và cầu nguyện (hoặc thiền) cho một sự thay đổi cực lớn của nhân loại. Có thể là kết thúc của một hoàng hôn nhưng sẽ là bắt đầu của một bình minh. Tận thế ơi là tận thế!

 

Nói cho con người: Lm. Chân Tín (31)

Nói cho con người: Lm. Chân Tín (31)

Đăng bởi lúc 2:09 Sáng 2/01/13

nguồn:Chuacuuthe.com

VRNs (02.01.2013) – Sàigòn –

Tự do Tôn giáo

(Thư kính gửi Đức Hồng y Phạm Đình Tụng, Chủ tịch HĐGMVN)

Vũng Tàu, ngày 10 tháng 7 năm 1998

Kính thưa Đức Hồng y,

Hôm kỷ niệm 49 năm thụ phong linh mục của Đức Hồng y và của 3 anh em chúng con (6.6.1998), con có điện thoại cho Đức Hồng y dâng lên Thiên Chúa lời tạ ơn. Đức Hồng y có nhã ý mời con ra Hà Nội nhưng con không đi được vì bận dạy giáo lý tân lòng và cũng vì những vết thương ở chân và tay con chưa lành hẳn. Những vết thương này là do “người ta” cố ý gây tai nạn giao thông, trong khi anh Nguyễn Ngọc Lan chở con vào Tân Sơn Nhất để dự đám tang của cụ Nguyễn Văn Trấn thọ 84 tuổi và đã trên 60 tuổi Đảng, đồng thời cũng là người bạn thân của chúng con trong cuộc tranh đấu cho nhân quyền và cho tự do báo chí ở Việt Nam.

Nay con về Vũng Tàu vài hôm, con xin gửi đến Đức Hồng y một vài trăn trở của con, khi đọc những chỉ thị của Bộ Chính trị về công tác tôn giáo, ra ngày 2 tháng 7 vừa qua.

Trước hết, khi đề cập đến tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo, Bộ Chính trị nói: “Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, Đảng và Nhà nước chủ trương và thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo, không tín ngưỡng và không tôn giáo của nhân dân”. Con xin thưa với Đức hồng y: Đây không phải là một nhu cầu của một bộ phận nhân dân nhưng là của đại đa số nhân dân, chỉ có một số nhỏ không tín ngưỡng. Đã là nhu cầu tinh thần của đại đa số thì Đảng và Nhà nước càng phải tạo điều kiện để các tôn giáo phát huy những giá trị tinh thần của đại đa số nhân dân, phải tôn trọng các giáo hội xây dựng đời sống tinh
thần của các tín đồ. Nhưng trong thực tế hiện nay Đảng và Nhà nước gây nhiều
khó dễ cho các giáo hội, hạn chế hoạt động tôn giáo và gây khó khăn cho việc đào tạo các chức sắc và các tu sĩ của các giáo hội, bóp nghẹt các giáo hội bằng cách hạn chế việc chiêu sinh.

Riêng phái Công giáo thì như trong giáo phận Sài Gòn, từ 1975 đến nay có khoảng 250 linh mục qua đời và Nhà nước chỉ chấp thuận 150 tân linh mục. Chính con đã viết thư cho Đức Hồng y Etchegaray ngày 7 tháng năm 1989: “Tự do tôn giáo đích thực mặc nhiên bảo đảm  cho Giáo hội được tự do chọn các giáo sư và các chủng sinh. Thế mà hiện nay, việc tổ chức các chủng viện phải chịu đủ thứ hạn chế, chẳng hạn ấn định tỷ số về các chủng sinh. Việc tuyển chọn chủng sinh và các giáo sư chủng viện phải lệ
thuộc sự chấp thuận của Nhà nước… Hiện nay tại Sài Gòn chúng con có một khóa
tuyển sinh 50 chủng sinh cho 10 giáo phận phía Nam. Thời hạn ấn định cho khóa
này là 6 năm, không có tuyển khóa mỗi năm mà chỉ có mãn khóa đầu. Cụ thể mỗi
giáo phận gửi vào chủng viện 5 chủng sinh. Sau 6 năm, 2 chủng sinh có thể tự ý
xin rút lui, một anh khác có thể không được phong chức vì không hợp nhãn Nhà
nước, một anh khác có thể không đạt tiêu chuẩn của Giáo hội, chỉ còn một chủng
sinh thôi. Trong thời gian đó có biết bao linh mục chết đi vì già, vì bệnh, vì
tai nạn”. (Xem hồ sơ Chân Tín: Nói cho con người. tr.27, nxb Tin Paris,
1993). Thế có nghĩa là từ 1975 đến 1989, không có một khoá đào tạo nào trên
toàn thể Đất nước. Và từ 1989 đến nay có đổi đôi chút nhưng không thấm vào đâu,
như thư của một vị giám mục viết sau hội nghị Thường niên Hội đồng Giám Mục
Việt Nam (tháng 10.1997): “Hội đồng Giám mục Việt Nam chúng ta hôm nay chỉ có
33 vị. Về tuổi tác, đại đa số nay đã già, về sức khỏe hầu hết đều bệnh hoạn,
hoàn cảnh các linh mục cũng không khác nhau bao nhiêu vì việc đào tạo và phong
chức đã bị gián đoạn nhiều năm”. Về vấn đề chủng viện, lá thư ấy nói tiếp:
“Giáo hội Việt Nam trước đây có hàng chục đại và tiểu chủng viện… nhưng hiện
nay chúng ta chỉ có 6 đại chủng viện cho toàn quốc với tổng số 752 chủng sinh.
Cơ sở vật chất thì chật chội, ban giảng huấn thì vừa cao niên vừa thiếu hụt. Từ
lâu, Hội đồng Giám mục đã xin phép mở thêm hai đại chủng viện nữa nhưng đến nay
vẫn chưa được”. (Tin Nhà số 31, tr.13).

Kính thưa Đức Hồng y,

Phải chăng những gì con viết vào năm cho Đức Hồng y Etchegaray thì nay vẫn còn y nguyên. Người ta cố tình giết chết Giáo hội khi không cho phép mở thêm chủng viện đào tạo linh mục và tự do chiêu sinh.

Với những hạn chế như thế mà Bộ Chính trị dám nói: “Chính sách tín ngưỡng tôn giáo của Đảng và Nhà nước đã đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân, củng cố niềm tin đối với Đảng và Nhà nước, tạo được tinh thần phấn khởi cho đồng bào tín đồ các tôn giáo… tín đồ các tôn giáo ngày càng yên tâm tin tưởng và hăng say thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước”. Ôi thật mỉa mai!

Tự do in sách tôn giáo cũng chẳng có. Nhà nước đòi áp đặp một số luật về in ấn sách kinh tôn giáo. Mấy ông vô thần và vô tín ngưỡng lại đòi kiểm soát sách tôn giáo thì thật là ngô nghê. Biết gì về Đạo, hiểu gì về Đạo mà đòi kiểm soát về giáo lý của các tôn giáo và các hoạt động nội bộ của tôn giáo.

Chỉ thị của Bộ chính trị còn nêu ra một điều trái ngược với bản chất tôn giáo: “Một số người không phải là nhà tu hành truyền đạo vi phạm pháp luật”. Ta phải nói thẳng: không có quyền lực nào cấm tín đồ của một tôn giáo truyền đạo cho kẻ khác. Đối với đạo Chúa Kitô đó là mệnh lệnh, là một nghĩa vụ tối cao của mỗi tín ngưỡng của mỗi tín hữu phải đem Tin Mừng Cứu độ cho mọi người, chứ không riêng gì người tu hành mới giảng đạo. Nhà nước không có quyền áp đặt hạn chế đó. Hội đồng Giám mục phải lên tiếng chống lại ý đồ của Đảng và Nhà nước. Họ lăm le áp đặt nay mai nhiều luật lệ phá đạo: “Nhà nước chưa kịp thời bổ sung các văn bản hướng dẫn và qui định cụ thể
về các hoạt động tôn giáo. Chính phủ bổ sung nghị định qui định về hoạt động
của tôn giáo, soạn thảo pháp lệnh tôn giáo trình ủy ban thường vụ Quốc hội ban
hành”.

Một vấn đề quan trọng khác là vấn đề các dòng tu, các tu hội. Chỉ thị Bộ Chính trị viết: “Chính phủ có qui định và hướng dẫn cụ thể về hoạt động của các tôn giáo”. Trong vấn đề các dòng tu và tu hội, các bề trên các dòng tu cùng với Hội đồng Giám mục phải có tiếng nói và đưa ra đường hướng để tránh sự lệch lạc của mấy người vô thần duy vật muốn định đoạt sinh hoạt của người tu hành dấn thân phục vụ con người nói chung và con người Việt Nam nói riêng.

 

Ngoài chỉ thị công khai của Bộ Chính trị nói trên còn chỉ thị ngầm qua Ban Tôn giáo trung ương. Trong dịp Hội nghị thường niên của Hội đồng Giám mục Việt Nam vào tháng 10.1997, ông Lê Quang Vịnh, Trưởng Ban Tôn giáo trung ương có đề cập dài dòng về Ủy ban Đoàn kết Công giáo. Giáo sư Đỗ Mạnh Tri gọi là ngôn ngữ gỗ thứ luận điệu cũ rích về chính sách tự do tôn giáo. Đòi hỏi đoàn kết chưa đủ, ông Vịnh còn thêm vào thái độ cha chú, quan lại một cách ngây thơ (để khỏi nói là ngu xuẩn)” (Tin Nhà số 32, tr.11).

Có thể là ông Lê Quang Vịnh dựa vào chỉ thị ngầm của Bộ Chính trị để có thái độ cha chú. Điểm cần nói ở đây có thể là một âm mưu mới của Đảng Cộng sản muốn biến một số linh mục, giám mục làm tay sai trong cái gọi là Ủy ban Đoàn kết Công giáo. Họ không thể tạo ra một giáo hội tự trị như ở Trung Quốc, hoặc một giáo hội quốc doanh. Do đó, họ muốn có những linh mục, giám mục trong Ủy ban Đoàn kết công giáo để chi phối hoạt động của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Họ muốn củng cố lại Ủy ban Đoàn kết đang tan rã để làm một thứ giáo hội quốc doanh ngay trong lòng Giáo hội Việt Nam. Họ có tham vọng “muốn cứu vớt Ủy ban Đoàn kết với bất cứ giá nào” (Đỗ Mạnh Tri, tài liệu đã dẫn) và hơn nữa muốn dùng Ủy ban Đoàn kết để phá hoại Giáo hội Việt Nam từ bên trong.

Trong bài phát biểu về vấn đề “Đảng Cọng sản Việt Nam thật sự tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng”, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu có nói với lãnh đạo các tỉnh, các ban, bộ, ngành trung ương đã về dự đại hội: “Đảng ta thật sự tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng, nhân dân ta có quyền theo đạo, đổi đạo, bỏ hoặc không theo đạo. Không một thế lực nào ngăn cản hoặc vi phạm quyền tự do đó”. Nhưng thực tế trong các cơ quan người ta không tôn trọng tự do tín ngưỡng, nhân viên cao cấp và đảng viên phải từ bỏ đạo Công giáo. Ông Tổng bí thư nói thế nghĩa là đảng viên và công chức cao cấp
Chính phủ không phải là nhân dân, thế họ là thứ gì? Như vậy, chính sách tôn
giáo của Đảng Cộng sản vẫn trước sau như một, nghĩa là chống phá tôn giáo, chứ
chưa có gì đổi mới.

Kính thưa Đức Hồng y,

Trên đây là những trăn trở của một người con Giáo hội Công giáo Việt Nam và cũng chắc là trăn trở của mọi Kitô hữu chân chính, Đức Hồng y và Hội đồng Giám mục Việt Nam cần phải lên tiếng đòi hỏi tự do tín ngưỡng một cách cụ thể, tách riêng trong những vấn đề căn bản của Giáo hội và mong rằng những vấn đề quan trọng ấy cần được công khai hóa, chứ không thể âm thầm gửi cho Nhà nước để rồi lặng lẽ chờ người ta trả lời và không bao giờ có câu trả lời của Nhà nước, như thư của Hội đồng Giám mục gửi cho Nhà nước tháng 10.1997 vừa qua. Cần phải công khai hóa để gây ý thức cho mọi người, để Dân Chúa cùng một lòng đấu tranh cho tự do tín ngưỡng.

 

Kính chúc Đức Hồng y nhiều sức khỏe, sáng suốt và can đảm.

Xin Đức Hồng y chúc lành cho chúng con.

Kính thư,

Lm. Chân Tín

38, Kỳ Đồng, Q.3, Tp.HCM

(TN số 35,1998)

Giới trí thức Trung Quốc kêu gọi cải tổ chính trị để tránh cách mạng bạo động

Giới trí thức Trung Quốc kêu gọi cải tổ chính trị để tránh cách mạng bạo động

Người dân địa phương biểu tình chống dự án xây dựng một tuyến đường cao tốc mới nối Bắc Kinh đến Thẩm Dương, ngày 09/12/2012.

Người dân địa phương biểu tình chống dự án xây dựng một tuyến đường cao tốc mới nối Bắc Kinh đến Thẩm Dương, ngày 09/12/2012.

REUTERS/Petar Kujundzic

Đức Tâm

nguồn: RFI

Một nhóm học giả có tên tuổi tại Trung Quốc đã gửi thư ngỏ cảnh báo ban lãnh đạo đảng Cộng sản về nguy cơ đất nước rơi vào một cuộc « cách mạng bạo động », nếu chính phủ không đáp ứng những đòi hỏi của người dân và không cho phép tiến hành các cải cách chính trị vốn đã bị trì hoãn từ lâu.

Theo Reuters, 73 học giả, viện sĩ hàn lâm, giáo sư tại các trường đại học có danh tiếng, luật gia, trong số này có những người đã nghỉ hưu, nhấn mạnh rằng cải cách chính trị đã không theo kịp cải cách kinh tế.

Bức thư viết: « Nếu các cải cách mà xã hội Trung Quốc đang rất cần … tiếp tục ngưng trệ không có tiến bộ, nạn tham nhũng chính thức và sự bất bình sẽ ngày càng lớn … thì một lần nữa, Trung Quốc lại bỏ lỡ cơ hội để cải tổ một cách hòa bình và sẽ rơi vào tình trạng xáo trộn, hỗn loạn của một cuộc cách mạng bạo động ».

Bức thư ngỏ được lưu hành trên internet từ đầu tháng 12, tuy nhiên, những bài viết trên báo chí Trung Quốc nhắc đến bức thư này đã bị rút xuống.

Theo những người ký tên vào bức thư, chính phủ dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản Trung Quốc từ năm 1949, cần phải khuyến khích dân chủ và sự độc lập của hệ thống tư pháp, đẩy mạnh cải cách thị trường.

Ông Hạ Vệ Phương (He Weifang), giáo sư luật pháp ở Đại học Bắc Kinh, một trong những người ký tên vào bức thư, cho rằng các đề nghị trong bức thư là có chừng mực, nhưng đã đến lúc cần phải thực hiện, vào lúc ông Hồ Cẩm Đào chuẩn bị chuyển giao chức Chủ tịch nước cho ông Tập Cận Bình, người vừa được chỉ định làm Tổng bí thư đảng Cộng sản Trung Quốc, nhân Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 18 hồi tháng 11 vừa qua. Theo vị giáo sư này, Trung Quốc đang ở thời điểm thay đổi ban lãnh đạo. Người dân hy vọng tiếp tục có những bước tiến nếu tiến hành cải cách hệ thống chính trị.

Trong số những người ký tên vào thư ngỏ có ông Trương Tư Chi (Zhang Sizhi), nguyên là luật sư của Giang Thanh, vợ Mao Trạch Đông, người cầm đầu « Tứ nhân bang », lãnh đạo cuộc Cách mạng Văn hóa Trung Quốc (1966-1976) gây ra một thời kỳ hỗn loạn khủng khiếp tại Trung Quốc.

Vào giữa tháng 12, khoảng 65 học giả, luật sư và các nhà hoạt động nhân quyền cũng đã ký tên vào một thư ngỏ kêu gọi các lãnh đạo cấp cao của đảng Cộng sản Trung Quốc khai báo tài sản của họ và coi đây là biện pháp cơ bản để chấm dứt nạn tham nhũng.

Sau đại hội Đảng 18, các nhà phân tích tìm kiếm xem có những tín hiệu nào cho thấy là ban lãnh đạo mới có ý định cải cách chính trị hay không, như nới lỏng hơn quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin trên internet, thử nghiệm mô hình dân chủ hoặc trả tự do các tù chính trị. Thế nhưng, Bắc Kinh vẫn không chấp nhận bất kỳ sự đối lập nào với vai trò của đảng Cộng sản, đặt ổn định, tức bảo đảm quyền lãnh đạo của Đảng, lên trên hết. Không hề có tín hiệu khả quan nào theo hướng thông thoáng hơn về chính
trị, cho dù tân Tổng bí thư Tập Cận Bình cố gắng tạo dựng cho mình hình ảnh một
nhà lãnh đạo mềm dẻo, cởi mở hơn so với người tiền nhiệm.

Trong bối cảnh đó, các học giả ký tên kêu gọi cải cách chính trị cảnh báo ban lãnh đạo mới ở Bắc Kinh rằng dân chủ, Nhà nước pháp quyền và sự tôn trọng nhân quyền là một xu thế của thế giới không gì ngăn cản nổi. Bức thư viết: « Lịch sử 100 năm đẫm máu và bạo lực của Trung Quốc – đặc biệt là bài học đau đớn và bi kịch của cuộc Cách mạng Văn hóa trong một thập niên, cho thấy là một lần nữa chúng ta đang đi ngược trào lưu dân chủ, nhân quyền, chính phủ quản lý theo Hiến pháp và pháp luật, người dân sẽ phải hứng chịu thảm họa và không thể có ổn định chính trị và xã hội ».

Đầu tháng 12, một cơ quan trực thuộc Ngân hàng Trung ương Trung Quốc cho công bố một bản nghiên cứu, báo động về hố ngăn cách giàu nghèo trong xã hội, mầm mống của sự bất bình và bạo động. Theo đó, tại Trung Quốc, hệ số GINI, thước đo mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập của cải trong xã hội, đã tăng từ 0,421 trong năm 2000 lên 0,61 trong năm 2010.

Hệ số GINI dao động từ 0 – hoàn toàn bình đẳng – đến 1, bất bình đẳng tuyệt đối về giàu nghèo. Theo giới chuyên gia, hệ số GINI 0,6 trong một xã hội không dân chủ, toàn trị, báo hiệu nguy cơ rất cao về bất ổn xã hội.

Hàng chục ngàn dân Hồng Kông xuống đường đòi dân chủ

Hàng chục ngàn dân Hồng Kông xuống đường đòi dân chủ

 
Biểu tình đòi dân chủ tại Hồng Kông, ngày 01/01/2013

Biểu tình đòi dân chủ tại Hồng Kông, ngày 01/01/2013

REUTERS

Tú Anh

nguồn: RFI

Hôm nay, ngay ngày đầu năm dương lịch 2013, khoảng 50 000 người dân Hồng Kông biểu tình đòi lãnh đạo Hành pháp Lương Chấn Anh từ chức và yêu cầu cải thiện dân chủ 15 năm sau ngày Anh Quốc trao trả về Hoa lục.

Theo AFP, hàng chục ngàn dân Hồng Kông, 50.000 theo ban tổ chức, đã xuống đường vào ngày đầu năm 01/01/2013 lên án lãnh đạo Hồng Kông Lương Chấn Anh « thi hành chánh sách » của Bắc Kinh . Một sinh viên tên Billy Li cho biết « cần phải tiếp tục bày tỏ quan ngại, mặc dù ai cũng thấy tình hình mỗi ngày mỗi nghiêm trọng hơn ». Đoàn biểu tình mang tranh vẽ ông Lương Chấn Anh dưới dạng hồ ly và ác quỷ. Họ hô khẩu hiệu « Hãy trả tức khắc cho nhân dân quyền phổ thông đầu phiếu ».

Ông Lương Chấn Anh được đa số « đại cử tri » trong một Ủy ban 1200 người mà đa số thân Bắc Kinh bầu lên vào tháng ba năm 2012 vào chức lãnh đạo Hành pháp. Đa số người dân Hồng Kông xem cuộc « bầu cử » này thể hiện bàn tay can thiệp của Bắc Kinh vào nội bộ Hồng Kông.

Tuy Hồng Kông tiếp tục duy trì quyền tự do ngôn luận, điều mà người dân Trung Hoa tại Hoa lục không có, nhưng trên thực tế, chính quyền Trung Quốc kiểm soát sinh hoạt chính trị Hồng Kông khiến cho dân bản địa nhiều lần phản kháng qua nhiều hình thức từ biểu tình đến tuyệt thực.

Trong cuộc biểu tình hôm nay, một phát ngôn viên của phong trào phản kháng thuộc Mặt Trận Nhân Quyền Công Dân tuyên bố là họ muốn thúc đẩy ông Lương Chấn Anh từ chức để nhanh chóng được bầu cử tự do.

Bắc Kinh cam kết sẽ cho phép bầu lãnh đạo Hành pháp trực tiếp và tự do vào năm 2017 và bầu cơ quan Lập pháp năm 2020 nhưng nhiều nhà dân chủ Hồng Kông nghi ngờ Trung Quốc nuốt lời hứa như đã từng vi phạm cam kết trong quá khứ.

GIA ĐÌNH VÀ TƯƠNG LAI NHÂN LOẠI

GIA ĐÌNH VÀ TƯƠNG LAI NHÂN LOẠI

Lễ Thánh Gia

__________________________________

Nguyễn Tiến Cảnh, MD

Sau những huy hoàng chói lọi của Lễ Giáng Sinh, chúng ta lại cùng Giáo Hội ăn
mừng Lễ Thánh Gia. Lễ Thánh Gia mời gọi người tín hữu suy niệm về mầu nhiệm đời
sống, đặc biệt là ân sủng gia đình, một tặng phẩm mà Thiên Chúa đã ban cho nhân
loại.

Bài phúc âm hôm nay (Lc 2: 41-52) kể lại câu chuyện chúa Giêsu lúc còn niên
thiếu. Đây là mẩu chuyện duy nhất và đặc thù của Tân Ước. Tuy nhiên thánh Luca
cũng làm cho độc giả hồi hộp lo sợ mà ngạc nhiên về những lời Đức Giêsu nói ở
giai đoạn sơ khởi của cuộc đời chúa Giêsu. Chuyện kể rằng “cha mẹ Người hàng
năm vẫn đi về Jerusalem vào ngày Lễ Vượt Qua” (Lc 2:41
) theo truyền thống
đạo đức, tinh thần luật của Israel .

Lúc ấy chúa Giêsu đã lên 12 tuổi, theo phong tuc thì Người cũng theo cha mẹ đi
Jerusalem (2:42). “Khi trở về thì cậu bé Giêsu ở lại Jerusalem mà cha mẹ
không biết”(2:43).
Mệt mỏi tìm kiếm suốt 3 ngày trời không thấy, cuối cùng
thì “ kiếm ra được Chúa ở trong đền thờ, đang ngồi giữa những thầy dạy, lắng
nghe họ và đặt những câu hỏi với họ
” (2:46).

Những lời lạ lùng của chúa Giêsu nói với cha mẹ lúc kiếm được Người xem ra đã
làm khựng lại nỗi vui mừng của mẹ Maria và ông Giuse. “Bố mẹ đi tìm con làm
chi vậy? Bố mẹ không biết rằng con phải ở nhà của Cha con hay sao?”
(2:49).
Câu này cũng có thể diễn nghĩa thế này: “Con còn có nhiều việc phải làm của
Cha con .”
Cả hai cách diễn nghĩa, chúng ta đều hiểu rằng Chúa Giêsu ám chỉ
Thiên Chúa là Cha Người. Tình Cha Con Thiên Chúa và sự vâng lời ý nguyện của
người Cha trên trời phải ưu tiên hơn những ràng buộc của gia đình nơi trần thế.

Bỏ qua biến cố này, toàn thể thời kỳ thơ ấu và thiếu niên của chúa Giêsu theo
như Tin Mừng, đều qua đi trong âm thầm lặng lẽ. Đó là thời kỳ“ẩn dật”, được
thánh Luca tóm tắt bằng hai mẩu văn như sau: “Đức Giêsu đi xuống với bố mẹ
và trở về Nazareth , và vâng phục các ngài
(Lc 2:51); và Người lớn lên
từ từ cùng với sự khôn ngoan và ân phúc trước mặt
Thiên Chúa và
người đời”(Lc 2:52).
Trong thời gian này, câu chuyện thời thơ ấu lúc kết
thúc cũng như lúc khởi đầu, đều nằm trong khung cảnh đền thờ Jerusalem .

Qua Tin Mừng, chúng ta biết được là Chúa Giêsu đã sống trong chính gia đình của
Ngưòi, trong nhà ông Giuse là cha và mẹ là bà Maria là mẹ, những người có bổn
phận giúp đỡ và che chở Người, huấn luyện từ từ cho Người theo nghề thợ mộc.
Dân chúng trong thành Nazareth thì vẫn coi Người là “con ông thợ mộc”(Mt
13:55).

Khi Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy, dân chúng theo Người đã rất ngạc nhiên:“Ông này há không phải là con ông thợ mộc và bà Maria hay sao?”(Mc 6:3). Ngoài mẹ Người ra thì thiên hạ nói những người sống ở Nazaretth chunh quanh đó là anh chị em bà con Người. Thánh sử Mac cô đã nói: Có những người bà con tìm cách ngăn cản Đức Giêsu hoạt động giảng thuyết (Mc 3:21) vì hiển nhiên họ không thấy nơi Người có gì khả dĩ có thể chứng minh bước khởi đầu cuộc đời hoạt động mới của Người. Họ nghĩ rằng Đức Giêsu cũng giống như bất cứ một người Do Thái nào khác và do đó phải sống cuộc sống bình thường thôi.

TRƯỜNG HỌC NAZARETH

Những lời Đức Thánh Cha Phaolo VI tuyên bố ở Nazareth ngày 5-1-1964 về ý nghĩa
mầu nhiệm Nazareth và Thánh Gia rất đáng cho chúng ta suy niệm. Những giá trị
tuyệt vời của gia đình Nazareth như sự yên lặng, cuộc sống và việc làm trong
gia đình là những yếu tố đặc biệt chúng ta phải để ý và noi theo.  Ngài
nói:

“ Nazareth là một trường học, ở đó chúng ta có thể khám phá ra được vẻ tươi đẹp của cuộc sống của Chúa và hiểu được Tin Mừng của Người. Ở đây, chúng ta có thể quan sát và suy niệm về cách thức Con Thiên Chúa xuống thế làm người nó sâu xa và ý nghĩa biết mấy, cho dù vẫn đầy dẫy những ẩn ý ở bên trong.

“ Và từ từ chúng ta có thể học hỏi để bắt chước Người. Ở đây chúng ta có thể học cách thể hiện xem Chúa Kito thực sự là ai. Và ở đây, chúng ta có thể cảm nghiệm và để ý đến những điều kiện và hoàn cảnh xung quanh đã ảnh hưởng đến cuộc sống của Người ở trần thế  này như: không gian, thời gian, văn hóa, ngôn ngữ, tôn giáo, ……Tóm lại, tất cả những gì mà chúa Giêsu đã dùng để cho cả thế giới biết đến Người. (….)

“ Trước tiên, chúng ta học hỏi về sự yên tĩnh của gia đình Nazareth . Chúng ta phải ở trong một khung cảnh nhiều người đang cãi lộn nhau rất ồn ào náo nhiệt thì mới cảm nghiệm được sự yên tĩnh nó êm đềm lắng đọng như thế nào! Sự yên tĩnh của Nazareth sẽ chỉ cho chúng ta cách thức chiêm nghiệm trong thinh lặng và an bình, suy tư trong
tình trạng thần trí lắng đọng, và mở rộng tâm hồn lắng nghe tiếng nói khôn ngoan của Chúa và lời khuyên của những thầy dạy đích thực. Nazareth có thể dạy cho chúng ta biết giá trị của sự học hỏi và sửa soạn, của chiêm nghiệm, của đời sống tinh thần có tổ chức, của sự yên lặng cầu nguyện mà chỉ có Thiên Chúa biết mà thôi.

“Thứ hai, chúng ta học hỏi về đời sống gia đình. Nazareth là mẫu mực phải có của mọi gia đình. Nazareth thể hiện cho chúng ta rõ ràng tính thánh đức và vững bền của gia đình, đồng thời nêu gương sáng về những nhiệm vụ căn bản của gia đình trong xã hội
như là một cộng đồng tình yêu và chia sẻ, nó tuyệt mỹ ở chỗ có những vấn đề đặt
ra và được giải quyết thỏa đáng. Tóm lại nó là một cấu trúc toàn hảo để nuôi dưỡng con trẻ- và như vậy, nó là bất khả thay thế.

“Sau cùng, ở Nazareth , nơi nhà con ông thợ mộc, chúng ta có thể học hỏi đuợc nhiều điều ở công việc làm và những kỷ luật cần có của nó. Cha muốn đặc biệt nói đến những chân giá trị của những việc làm đó –có đòi hỏi thì cũng có phần thưởng- để trân trọng nó một cách thích đáng. Cha muốn nhắc nhở mọi người là chuyện đi làm nó cũng có cái giá trị phẩm giá của riêng nó. Ngoài ra, không đi làm không có nghĩa là đuờng cùng rồi. Tuy nhiên vì cái giá trị và tính tự do của việc làm, đi làm không phải chỉ vì vị trí của việc làm trong hệ thống kinh tế, như người ta nói, mà đúng ra còn vì cái mục đích phục vụ của công việc làm.”

NHỮNG THÁCH ĐỐ CỦA NGÀY NAY

Ngày nay, chúng ta ai cũng thấy là thiếu môi trường giáo dục, không phải chỉ ở
ngoài Giáo Hội mà cả ngay trong Giáo Hội. Gia đình Kito giáo không còn khả năng
tự mình truyền đạt niềm tin của mình cho những thế hệ kế tiếp, và ngay cả chính
xứ đạo cũng vậy, mặc dù nó vẫn còn là một cấu trúc cần thiết cho sứ mệnh truyền
giáo của Giáo Hội ở bất cứ một địa hạt nào

Là một cộng đồng Kitô giáo nói riêng, xã hội nói chung, chúng tôi cần phải hoạt
động tích cực hơn nữa để khuyến khích mọi người giữ cho tình liên đới giữa
người nam và người nữ thật bền chặt làm căn bản cho tất cả mọi nền văn minh,
cũng như yểm trợ tối đa cho quyền lợi và nhu cầu của con trẻ. Chúng tôi cũng
cần suy xét cẩn thận về những hậu quả xã hội liên hệ đến định nghĩa cũa hôn
nhân, của vợ chồng; xem xét cẩn thận tất cả những điều mà người ta thêm vào một
khi xã hội không còn cho chúng tôi một vị thế đặc quyền và giá trị làm nền tảng
cho cuộc nối kết lâu dài giữa hai người nam và nữ trong hôn nhân.

Là cột trụ của xã hội, gia đình chính là môi trường thuận lợi nhất để đón chào
con trẻ. Đồng thời tự do lương tâm và tự do tôn giáo cần phải được bảo đảm, cũng
như phải kính trọng nhân phẩm của tất cả mọi người bất kể khuynh hướng sắc dục
của họ thế nào.

Chúng tôi đã có nhiều dịp tham dự những cuộc hội thảo về hôn nhân ở xứ đạo và
giáo phận chúng tôi, xin được chia sẻ với quí vị. Hai thách đố đặc biệt thường
được nêu ra trong những cuộc tranh luận khá sôi nổi về hôn nhân và đời sống gia
đình trong thời đại của chúng ta. Hôm nay Lễ Thánh Gia, một vấn đề khá khẩn cấp
đối với chúng ta, nhất là những giáo dân, phải làm sao duy trì giá trị của
những định chế quan trọng và bí tích hôn nhân. Hãy yểm trợ những chương trình
chuẩn bị hôn nhân trong các cộng đồng xứ đạo của mình. Cũng cần đề ý, trong các
xứ đạo và giáo phận thường có những chương trình ơn gọi đặc biệt cho thanh niên
và giới trẻ nên cũng nên cổ động và tham gia. Những xứ đạo và giáo phận và
những phong trào giáo dân không có những kế hoạch mục vụ có tính sáng tạo và
chương trình ơn gọi hôn nhân cho giới trẻ vẫn đầy dẫy những nghi hoặc rất đáng
sợ về luân lý, những hiểu lầm, trống rỗng và thiếu thông tin chính xác và đầy
đủ.

Chúng ta cũng đừng quên rằng trong xã hội cũng có những ràng buộc khác giữa
tình yêu và tình liên đới, giữa sự cam kết và tương quan trách nhiệm. Những
điều đó có thể tốt, và có thể được pháp luật công nhận. Trong hôn nhân cũng có
những tương tự như vậy.  Nhưng không thể thay đổi định nghĩa hôn nhân theo
luật pháp qui định mà có thể thay đổi được thực tế đã có trước mắt từ ngàn xưa
chỉ có sự cam kết phối hơp giữa hai người nam và nữ mới có giá trị hôn
nhân
. Không phải chỉ cần có những ràng buộc về tương quang giữa hai
người lớn với nhau thôi, mà còn phải dựa vào khả năng sản xuất tự nhiên
để sinh con đẻ cái
.

Trong dịp lễ Thánh Gia này, chúng tôi hãy cam kết tạo dựng mái ấm gia đình nhân
loại, tôn vinh hôn nhân, làm cho nó trở nên vững mạnh, chúc phúc và dưỡng dục
con cái, biến mái ấm gia đình chúng tôi, xứ đạo chúng tôi trở nên thánh đức,
hân hoan đón chào những cuộc hôn nhân giữa người nam và người nữ giữa mọi quốc
gia, mọi sắc dân, ngôn ngữ, khuynh hướng phong tục cũng như cách sống

ĐÔI LỜI KẾT:

NỀN MÓNG CỦA XÃ HỘI

Chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolo II vẫn thường nói: “Tương lai nhân loại tùy thuộc vào gia đình”. Bài đọc ngày lễ hôm nay nhắc nhở chúng ta là gia đình có một liên đới sống động với xã hội.

Nền móng xã hội chính là gia đình. Nền móng gia đình chính là hôn nhân. Ơn gọi
lập gia đình / hôn nhân đã được ghi khắc trong chính bản tính của người Nam và
người Nữ. Như là cột trụ của xã hội, gia đình là môi trường thích hợp nhất để
đón chào con trẻ.

Chúng ta cần những thanh niên trẻ, vui vẻ, mạnh dạn xác tín, hy vọng với tất cả
niềm tin sắt đá khi nói: “I Do / Tôi Đồng Ý”. Họ là Tương Lai và Hy Vọng của
chúng ta. Không có những cặp vợ chồng kết hôn với nhau, chúng ta không thể xây
đắp được tương lai cho xã hội và Giáo Hội. Không có những cặp vợ chồng kết hôn
với nhau và cam kết thề hứa trung thành, thương yêu  nhau, chúng ta không
thể có những gia đình thánh đức như ngày nay được.

Fleming Island, Florida

Dec. 28, 2012

NTC

nguồn: Anh chị Thụ & Mai gởi

 

Giáo Lý Cộng Đồng: Tuần 1 – Tháng 01/2013

Giáo Lý Cộng Đồng: Tuần 1 – Tháng 01/2013

Tháng 1/2013

Sau lễ Giáng Sinh, Hội Thánh có Mùa Giáng Sinh, mời gọi các tín hữu tiếp tục học hỏi, cử hành và sống đức tin vào Đấng Thiên Chúa làm người. Vì thế, chủ đề của tháng này là : ĐỨC TIN LÀ MỘT HỒNG ÂN.

Chúng ta sẽ tìm hiểu chủ đề này trong 4 tuần lễ:

Tuần 1: Đức tin là một hồng ân.

Tuần 2: Đức tin là một nhân đức.

Tuần 3: Đức tin là một di sản.

Tuần 4: Hồng ân và trách nhiệm.

TUẦN 1 ĐỨC TIN LÀ MỘT HỒNG ÂN

Khai triển nội dung:

1. Khi thánh Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, Người nói với ông rằng không phải huyết nhục mặc khải cho ông điều ấy, nhưng là Cha của Người, Đấng ngự trên trời (Mt 16,17). Khi chứng kiến những người đã thấy các phép lạ Người làm mà vẫn không tin, Chúa Giêsu thưa với Chúa Cha: “Con ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt 11,25). Tất cả đều nói lên đức tin trước hết là một hồng ân chứ không phải là kết quả của nỗ lực nhân loại.

2. Đức tin là một hồng ân vì chính Thiên Chúa đi bước trước. Như thai nhi Giêsu trong lòng Đức Trinh Nữ Maria tìm đến Gioan Tẩy giả trong lòng bà Elisabeth, chính Thiên Chúa đến tìm con người trước khi con người tìm kiếm Ngài. Thiên Chúa đi bước trước bằng nhiều cách: “Để có được đức tin, cần có ân sủng Thiên Chúa đến trước giúp đỡ và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần. Ngài đánh động và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa, Ngài mở mắt lý trí và cho mọi người cảm thấy dịu ngọt khi ưng thuận và tin vào chân lý” (Hiến chế Dei Verbum, số 5).

3. Đức tin là một hồng ân nhưng không Thiên Chúa ban cho con người. Tuy nhiên chúng ta có thể đánh mất hồng ân vô giá đó như thánh Phaolô nói: “Một số người đã vứt bỏ lương tâm ngay thẳng, nên đức tin của họ đã bị chết chìm” (1Tm 1,19). Vì thế người tín hữu phải gìn giữ và vun trồng đức tin bằng cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa và thực thi Lời Chúa trong đời sống.

Để ghi nhớ (Sách Toát Yếu GLHTCG)

Hỏi: Chỉ với ánh sáng tự nhiên của lý trí, con người có đủ khả năng để nhận biết mầu nhiệm Thiên Chúa hay không?

Thưa: Chỉ với ánh sáng của lý trí, con người sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc nhận biết Thiên Chúa. Hơn nữa, tự mình, con người không thể nào đi vào mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa. Vì thế Thiên Chúa đã muốn soi dẫn con người bằng cách mặc khải cho họ, không những về những gì vượt quá sự hiểu biết nhân loại, mà cả về những chân lý tôn giáo và luân lý, tự chúng vốn không vượt quá khả năng của lý trí, như vậy mọi người có thể biết được những chân lý đó cách dễ dàng, chắc chắn và không sợ sai lầm (số 4).

Hỏi: “Đức tin là một hồng ân” nghĩa là gì?

Thưa: Đức tin là hồng ân Thiên Chúa ban không, và tất cả những ai khiêm tốn cầu xin đều có thể đạt tới (x. số 28).

Ý cầu nguyện:

Lạy Chúa, con tin, nhưng xin Chúa nâng đỡ lòng tin yếu kém của con (x. Mc 9,24).