Tất Cả Chỉ Là Hư Vô

Tất Cả Chỉ Là Hư Vô

Có một câu chuyện vui về phù thủy Mundaca. Ông nổi tiếng nhất trên thế giới vì có thể làm cho người chết được trở về sống lại trên trần gian này.

Một hôm, ông đến đọc thần chú trước ngôi mộ của một người nổi tiếng nhất trong vùng đã qua đời từ nhiều thế kỷ trước. Ngôi mộ mở ra và một vị sang trọng bước ra cúi mình chào vị phù thủy và nói:

– Xin cám ơn Ngài rất nhiều vì đã làm phép mầu  cho tôi được trở lại từ cõi chết, đó là Ngài thực hiện một công việc hết sức quan trọng cho những người cùng thời với Ngài. Thế giới sẽ sống an vui và hạnh  phúc hơn với công việc tôi sắp làm. Ngài có biết không, ngày xưa tôi sinh ra trong một dòng dõi sang trọng, tôi đã dùng hết sự giàu sang của mình để thực hiện những điều lợi ích cho mọi người chung quanh tôi sinh sống. Vì thế, giờ đây tôi được trở về trần gian, tôi sẽ dùng hết những việc tốt khi xưa để xây dựng hạnh phúc cho mọi người.

Nói xong những lời trên, người sang trọng vừa sống lại đó hăng hái bước về thành phố, nơi quê hương của mình sinh trưởng. Nhưng chỉ sau một ngày, phù thủy Mundaca đã thấy người vừa được sống trở lại gặp ông và năn nỉ:

– Xin hãy vui lòng đưa tôi trở về lòng đất.

Nhà phù thủy với giọng rất ngạc nhiên hỏi:

– Nhưng tại sao ông lại muốn chết trở lại?

Người sang trọng trả lời:

– Khi tôi trở về lại nơi tôi sinh sống, không ai biết tôi là ai cả, và cũng không có ai tin lời tôi nói. Tôi đã cố gắng nhắc lại cho họ về những điều tốt tôi đã làm cho mọi người khi trước, nhưng cũng không ích lợi gì. Dân tôi sinh sống ngày nay không còn nhớ gì nữa cả, đền đài kỷ niệm mà xưa tôi đã xây nên để ghi nhớ những gì tôi đã làm, nay không còn nữa. Giờ đây tôi mới hiểu câu nói: “Mọi vinh quang và vinh dự của con người đều chóng qua, tất cả chỉ là hư vô mà thôi”.

Nói xong những lời trên, người sang trọng xin nhà phù thủy cho về lại cõi chết.

***

Câu chuyện vui trên trình bày một quan điểm sống trần tục và vinh quang. người sang trọng kia lúc còn sống đã làm những điều tốt cho anh chị em mình để có tiếng tốt, để danh tánh được khắc ghi trên bia mộ lưu danh từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó là những toan tính trần tục. Người khi được từ cõi chết trở về, danh tiếng từ thời trước bị lãng quên không còn nữa. Người sang trọng kia không còn đủ nghị lực để tạo lập sự nghiệp mới mà bi quan muốn trở về với cõi chết. Nếu chúng ta sống cõi đời này chỉ có một quan niệm trần tục như vậy thì sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ rơi vào tình trạng trống rỗng bi quan.

Mỗi người chúng ta cần xét lại quan điểm sống của mình theo ánh sáng lời dạy của Chúa. Mỗi người chúng ta cần xác tín rằng: tôi được sinh ra trên trần gian này để thi hành sứ mạng yêu thương: yêu thương phục vụ Thiên Chúa, và yêu thương phục vụ anh chị em. Những việc lành tốt để chứng tỏ tình yêu thương đối với Thiên Chúa dầu có được người đời biết hay không? có nhìn nhận hay không? không phải là quan trọng. Điều quan trọng là tôi có thật lòng làm vì yêu mến Chúa hay không, và việc yêu mến Chúa và phục vụ anh chị em một cách thiết thực hữu hiệu một cách có thể.

***

Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương cho chúng con noi theo. Là một vị Thiên Chúa, Chúa đã không màng chi đến việc sinh xuống trần gian làm người thấp hèn, để trở nên giống mọi người. Dầu con người có biết ơn và tin nhận Chúa hay không. Chúa thực hiện những dấu lạ, những hành động tốt để mời gọi chúng con, nhưng không bao giờ ép buộc cúng con phải tin Chúa. Chúa luôn thi ân cao cả cho dầu những chống đối khước từ. Xin giúp con sống theo gương mẫu của Chúa. Amen.

R. Veritas

Anh chị Thụ & Mai gởi

LƯU MANH HÓA TRÍ THỨC

LƯU MANH HÓA TRÍ THỨC
“Không ít trí thức Việt nam dễ dàng bán mình cho những quyền lợi tầm thường và phi pháp.” (Dr. Nikonian)

Nói chung là bán đắt không ai mua thì phải bán rẻ thúi.

TL: Thỉnh thoảng mình được đọc note của một bạn trẻ có nickname là Tiếu Bối, đâu chừng ngoài 20 tuổi. Hôm nay lại được đọc bài này. Nếu tuổi trẻ đã ưu tư những chuyện như thế này của đất nước thì VN vẫn còn hồng phúc lắm…Tự an ủi mình như vậy!

Tượng trí thức (Thổ Nhĩ Kỳ)
Theo số liệu thống kê cho biết : Cả nước hiện có hơn 9. 000 Giáo Sư, 24.000 tiến sĩ, 101.000 thạc sĩ và 2.700.000 cử nhân đại học [1]. Một con số lý tưởng
cho nền kinh tế tri thức. Việt Nam hiện nay có nhiều điều kiện để trở thành nước có nền kinh tế phát triển như: nguồn lao động trẻ, thuận tiện giao thông, có nhiều loại tài nguyên,….Tuy vậy, nước ta vẫn trong cái vòng luẩn quẩn của nghèo nàn, lạc hậu. Nguyên nhân chính là ở yếu tố con người, do đất nước chúng ta không tôn trọng giá trị con người, không tôn trọng trí thức đích thực. Yếu tố con người chưa được quan tâm thích đáng trong khi nó mới là nhân tố chính cho sự hưng thịnh/ suy yếu của 1 quốc gia.
Một xã hội bảo thủ, trọng thành tích, hám danh sĩ diện với bằng cấp thường đi đôi với sự coi thường sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật đương nhiên sẽ tụt hậu. Và Việt Nam đã và đang tụt hậu. Cũng theo số liệu thống kê cho biết các chuyên gia WB tính toán
“Việt Nam phải mất rất lâu nữa mới đuổi kịp các nước trong khu vực Đông Nam Á: 158 hoặc cũng có thể là 175 năm với Singapore, 95 năm với Thái Lan và 51 năm với Indonesia.” [2]
Vấn đề đầu tư vào giáo dục luôn quyết định hưng, suy của một quốc gia. Nền giáo
dục của Việt Nam và cả xã hội Việt Nam làm nhân tài không có đất dụng võ. Với
bằng cấp tràn lan, làm người Việt ảo tưởng về mình. Mỗi năm chúng ta có rất nhiều kỹ sư, cử nhân, tiến sĩ, giáo sư mới nhưng nền kinh tế của chúng ta lẹt đẹt, èo uột, đất nước chúng ta lạc hậu. Nếu tính từ hàm Thứ trưởng trở lên, số người có trình độ tiến sĩ ở Việt Nam cao gấp 5 lần Nhật Bản [3]. Và với số lượng hùng hậu GS, TS, Ths, Cử nhân đã nêu trên, một con số lý tưởng cho nền kinh tế tri thức. Nhưng hiện vẫn đốt đuốc tìm lao động chuyên gia, thiếu hẳn những công trình khoa học – sáng tạo – sáng chế được ứng dụng vào thưc tiễn cuộc sống…Trong khi nền kinh tế sản xuất vẫn là nhân công giá rẻ, miệt mài với gia công phụ thuộc, công nghệ thì vẫn đang loay hoay ở trình… “sản xuất mì tôm”.
Người Hàn Quốc họ có quyền tự hào vì họ xây dựng được những sản phẩm mang tính thương hiệu quốc tế như: Sam Sung, Huyndai. Người Nhật có thể vỗ ngực tự hào với Sony, Toyota. Sing có quyền hãnh diện về hàng xuất khẩu điện tử của mình ra khắp thế giới,…Hoàn toàn thiếu một sản phẩm Việt sánh ngang tầm các quốc gia khác trên thế giới.
Thực tế này cho thấy, chất xám Việt đang bị lãng phí. Lãng phí từ khâu đào tạo
(đào tạo quá nhiều GS, TS, Ths giả và dỏm), lãng phí cả khâu sử dựng (Nhân tài
thực sự chưa được tin dùng và sử dụng hợp lý và trọng dụng họ).
Người Việt, trí thức Việt, dân Việt trách móc Xã hội này đôi khi, nhưng nếu nhìn kỹ lại, thì chính họ chính chúng ta tạo nên Xã hội này. Trí thức Việt nói riêng, dân Việt nói chung nhiều lúc đôi khi có xu hướng, chờ đợi mong mỏi một vị minh quân, 1 vị lãnh đạo tài ba xuất chúng nào đấy xuất hiện để đưa lối dẫn đường họ và lãnh đạo đất nước đang tụt hậu này, nhưng họ quên rằng không ai dẵn dắt và không ai hành động tốt hơn họ tự dẫn dắt mình định hướng cho mình. Đã đến lúc cả dân tộc này và giới trí thức Việt cần nhìn thẳng và nhìn thật vào chính mình, nhìn vào thực tế và tự gánh trách nhiệm cũng như vài trò của mình để tự thoát ra cái vòng luẩn quẩn này chứ không phải một ai đó, 1 vị cứu tinh nào đó hay 1 vị minh quân còn ẩn dật đâu đó.
Nghèo, dốt, thua kém người khác chưa hẳn là cái tội. Cái tội là ở chỗ: nghèo, đói, lạc hậu, thua kém người khác nhưng lại không biết, hay biết mà không chịu thừa nhận và tệ hơn là phải phủ nhận mình nghèo bằng mọi giá vì cái sĩ, để rồi không chịu tìm tòi hướng đi, lối thoát cho mình. Và nếu chúng ta không khắc phục được sự yếu kém của đất nước, nạn nhân cũng chính là chúng ta. Chúng ta là nạn nhân của chúng ta.
Bất cứ xã hội nào, trí thức và yếu tố con người mới là yếu tố hàng đầu để đưa
đất nước đi lên. Nước Mỹ phồn vinh với giấc mơ Mỹ và là miền đất Hứa của biết
bao người trên thế giới, Người Hàn Quốc chấp nhận “ăn mày chất xám” ở phương
tây, tinh thần Samurai của Nhật…Sao không để cho trí thức Việt được tự do trong
sáng tạo, tự do trong tư tưởng, tự do trong lựa chọn của mình !? Để họ được
cống hiến !?
Ở một góc độ nào đó, có thể nói và khẳng định rằng, đất nước không phát triển
được như người ta là vì trí thức Việt chưa phát huy hết vai trò và sứ mệnh của
mình. Và lại ở 1 góc độ nào đó, họ bị kiềm kẹp, bị cột, bị trói chặt tư duy, tư tưởng, và cả ý thức hệ, họ cũng muốn sống, muốn cống hiến lắm, muốn được hy sinh nhưng ý thức hệ, sự khác biệt trong tư duy và tư tưởng đã làm cho họ không được chọn, và họ bị cuốn vào vòng xoáy luẩn quẩn của giới trí thức Việt bao đời nay, vòng xoáy của một xã hội mà ngay cả đến trí thức cũng bị đẩy vào con đường “lưu manh hóa”, ở đó nhân phẩm của trí thức bị người khác chà đạp và tự mình chà đạp lên mà sống ,để rồi họ không kịp nhận ra họ vừa là “nạn nhân” mà còn đồng thời là “thủ phạm”. Họ hành hạ nhau và dẫm đạp lên nhau mà sống:
-Một bác sĩ với mức lương èo uột, 3 đồng 3 cọc , chết đói, anh ta tìm đủ cách làm khó bệnh nhân để được nhận “lót tay”. Nhưng khi anh ta sử dụng các dịch vụ khác, anh ta lại bị làm khó lại.
-Một thương gia (doanh nhân) vì chạy theo lợi nhuận và tham đồng tiền bất chính không ngại bán rẻ lương tâm mình sản xuất ra những hàng hóa chất lượng kém, độc hại tới sức khỏe của người tiêu dùng, miễn sao lợi nhuận nhiều, xả chất thải độc hại ra môi trường, nhưng rồi chính anh ta hủy hoại môi trường chung anh ta đang sống trong đó và sẽ ra sao nếu anh ta mua phải những sản phẩm độc hại khác do người khác cũng vì tham lam mà sản xuất ra như anh ta.
-Từ Vụ sập cầu Cần Thơ, cho đến sập cầu cống, hàng loạt công trình thủy điện quốc gia công trình dân sự khác,… những kỹ sư làm việc trên công trình đó đã làm hại hoặc tiếp tay cho người khác làm hại rất nhiều người. Sẽ ra sao nếu như những kỹ sư này đứng dưới công trình của chính họ thiết kế và xây dựng?
-Một nền giáo dục thay vì dạy con người ta cách học, nó chỉ dạy con người ta cách tin và phải đặt niềm tin vào đấy, kết quả tạo ra khg phải 1 thế hệ mà nhiều thế hệ cứ bắt thế hệ nối tiếp sau cứ tiếp tục đặt niềm tin. Bởi lẽ thế hệ này tiếp tục “dẫn dắt” (chăn dắt!?) thế hệ kia.
-Một công chức, phải bỏ ra 1 khoản tiền lớn để mua chạy chức, hối lộ cho người
này, cho cơ quan kia để có cái ghế, cái chức. Khi có cái ghế, cái chức rồi lại quay lưng ra cướp phá, cướp bóc , hạch sách nhũng nhiều người khác để lấy lại những thứ mà mình từng bỏ ra. Và xem điều đó là lẽ đương nhiên và cái vòng luẩn quẩn ấy cứ tiếp diễn!
-Một nhà báo, nhà văn, người cầm bút vì lợi ích cá nhân riêng, có thể nhẫn tâm
bẻ cong ngoài bút, viết láo và viết liều để nhận được những đồng tiền bẩn tưởng
chừng như chỉ làm tổn hại tới người đọc nói riêng và nền văn báo chí văn hóa
nước nhà nói chung nhưng anh ta cũng đang tự biến mình thành trò bỉ ổi và lố
bịch trong mắt người đọc, vì người đọc bây giờ đủ thông minh để nhận biết đâu
đúng, đâu sai. Bởi trước khi hốt bùn để ném vào mặt người khác, thì bàn tay anh
ta cũng đã lấm bùn trước rồi…
Và cứ thế, mỗi người trong xã hội cứ tự hại mình và hại người khác. Có thể nói
trí thức Việt Nam nói riêng và người Việt nói chung vừa tự hại mình và hại
người, nạn nhân của nhau, nạn nhân của định hướng xã hội, nạn nhân của sự lãnh
đạo và dẫn dắt tồi tệ.
Trong một xã hội, khi “sự thật” bị bóp méo, bị bẻ cong Trí thức Việt từ chỗ “người sáng” cũng trở thành “người mù”, người thẳng cũng thành “còng lưng”. Hoặc im lặng, cúi đầu chấp nhận để mà sống yên ổn thay vì cất tiếng nói phản kháng rồi bị vùi dập.
Với mức giá, mức lương hiện tại, Xã hội còn nhiều trí thức không sống được vói
mức lương thực của mình. Người lao động trí thức bị bần cùng hóa và bị đẩy đến
chỗ không còn có thể nghĩ gì khác ngoài việc làm sao kiếm cho đủ tiền để sống.
Đây chính là một trong những lý do làm nên sự tha hóa, biến chất của giới lao
động trí thức, thay vì đầu tư vào nghiên cứu, nâng cao chuyên môn tay nghề,
phát minh ra cái này, khám phá ra cái kia họ lao đầu vào kiếm tiền kiếm sống,
làm sao phải sống được cái đã. Chính điều này dẫn họ tới kết quả làm nhiều việc
trái nghề, trái lương tâm, trái đạo đức xã hội…
Mua quan, bán chức, mua vị trí công tác diễn ra đều đặn trong giới lao động trí thức trong Xã hội để rồi khi lên nắm quyền thì Vua quan thi nhau chia chác, nhũng nhĩu, quan liêu, thằng lên sau thì dốt hơn nhưng lưu manh, khốn nạn hơn thằng trước. Khốn khổ cho một xã hội!
Chưa dừng lại ở đó, Giới lao động trí óc ở Việt Nam không những bị bần cùng hóa
về đời sống vật chất, mà còn bị bần cùng hóa hay tự bần cùng hóa cả về tư duy đời sống tinh thần khác. Hiện tượng này đang thành ra phổ biến : những người, lẽ ra , phải làm việc với sách vở lại rất ít đọc sách, không quan tâm đến các vấn đề xã hội. Họ tự phủ nhận vai trò và trách nhiệm xã hội của họ. Hoặc học nhiều đọc nhiều, có bằng này bằng nọ chỉ để tự hào, để khoe khoang, để lên lớp nhau, để mơn trớn nhau vì cái tính sĩ diện hảo. Và cách người Nga đáp trả: Mày giỏi (giáo dục cao, học giỏi…) sao mày không giàu (sao mày không thể bán chút kiến thức để kiếm tí tiền tiêu cho sang trọng). Có lẽ câu nói đó hơi sống sượng. Nó hơi chợ búa. Nhưng nó chỉ ra một thứ rất đáng nghĩ rằng: nếu như kiến  thức của bạn không mang lại giá trị cho chính bản thân bạn thì bạn cần kiến thức đó làm gì. Để trang trí hả? Để khoe mẽ hả? Nói thẳng ra, nó hơi chợ búa, nhưng đấy là cách nghĩ của một con buôn chứ không phải 1 trí thức.
Mặt khác, một số đông trí thức và tự nhận mình là trí thức lại cố định, cột chặt và để người khác cột, trói chặt tư duy và suy nghĩ của mình bằng những định kiến có sẵn, những quan điểm tâm lý đám đông và những quy luật bất thành văn khác về tư duy và quan điểm của họ . Điều này dẫn đến họ không tự do tư duy, không có tính bức phá không có khả năng phán xét đâu đúng đâu sai, họ chỉ biết nghe, biết chấp nhận những điều từ người khác mớm cho, từ trên đưa xuống không cần phán xét coi nó đúng hay sai, lợi hại ra sao. Sự bần cùng hóa tinh thần là một trong những nguyên nhân khiến giới lao động trí óc ở đây đánh mất sức mạnh, đánh mất khả năng phân biệt đúng sai, phải trái, và khiến họ có thể vi phạm các chuẩn mực đạo đức mà vẫn cảm thấy yên ổn lương tâm. Họ tìm sự yên ổn bằng cách sử dụng các lý lẽ mang tính ngụy biện để bào chữa hoặc hợp pháp hóa cho sự vi phạm đạo đức hay sự vi phạm pháp luật. Họ đã dùng cái sai này để ngụy biện bao che, phủ lấp cái sai khác, trong khi những giải pháp đúng đắn, khoa học đã không được lựa chọn.
Chính sự bần cùng và tự bần cùng hóa về tư duy, đạo đức và tinh thần, đời sống,
trí tuệ đã khiến cho trí thức Việt Nam bị tha hóa nhiều mặt, mất cả năng lực
làm việc trong lĩnh vực chuyên môn của mình, mất luôn cả bản lĩnh văn hóa, cả ý
thức về sự đúng sai, cả phẩm chất đạo đức công dân. Để tự giữ cho mình trong
sạch, chuẩn mực còn khó, nói chi đến chuyện dám đứng lên bảo vệ công lý, bảo vệ
sự thật ! Chính vì thế nhiều người còn chút lương tri họ chấp nhận cắn răng
chiệu đựng và thõa hiệp với cái ác và cái xấu để yên ổn mà sống.
Họ dối trá, tiếp tay cho sự dối trá, họ lừa lọc, tiếp tay cho sự lừa lọc, họ sĩ diện và tiếp tay cho sự sĩ diện. Tất cả nó làm nên dung mạo của nền trí thức bị “lưu manh hóa”.
Đất nước này đã phải trả cái giá quá đắt cho tệ nạn “lưu manh hóa trí thức” này
rồi, bây giờ đã đến lúc chúng ta phải biết tự đứng dậy, dám nhìn thẳng, nhìn
thật vào sự thật, nhìn vào thực tế,… tự bản thân mình thoát ra khỏi cái vòng
luẩn quẩn ấy, đừng tự hại mình và hại người nữa.
[1] Số liệu Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn (ĐH New South Wales, Úc) đưa ra.
[2] Tính toán của các chuyên gia dựa trên báo cáo của WB năm 2007
[3]Theo TS Nguyễn Khắc Hùng, nguyên Chuyên viên Đối ngoại, Học viện Hành chính Quốc Gia.
OH, 30/12/2012
Cám ơn Nguyễn Thọ gởi

TÔI TẠ ƠN CHÚA

TÔI TẠ ƠN CHÚA

Tôi tạ ơn Chúa vì chồng tôi cứ phàn nàn khi bữa cơm chưa dọn kịp, bởi lẽ chàng đang ở ngay bên cạnh tôi, chứ không phải bên ai khác.

Tôi tạ ơn Chúa vì con tôi cứ càu nhàu khi phải phụ rửa chén đĩa cho tôi,

bởi lẽ thằng bé đang ở nhà chứ không phải lêu lổng ngoài đường.

Tôi tạ ơn Chúa vì số thuế thu nhập mà tôi phải trả quá cao,

bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang có một công việc tốt để làm.

Tôi tạ ơn Chúa vì có nhiều thứ phải dọp dẹp sau bữa tiệc nhỏ,

bởi lẽ như thế nghĩa là tôi luôn được bạn bè quý mến đến chơi.
Tôi tạ ơn Chúa vì quần áo tôi bỗng trở lên hơi chật, bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang có đủ ăn,
Tôi tạ ơn Chúa vì cái bóng của tôi cứ nhìn tôi làm việc, bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang sống tự do ngoài nắng.

Tôi tạ ơn Chúa vì sàn phòng cần quét, cửa sổ cần lau, màng xối cần sửa,

bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang có một mái nhà để cư ngụ.
Tôi tạ ơn Chúa vì tất cả những lời than phiền về chính phủ, bởi lẽ như thế nghĩa là chúng ta đang được tự do ngôn luận.

Tôi tạ ơn Chúa vì hóa đơn đóng tiền cho hệ thống sưởi thật cao,

bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang được ấm áp.

Tôi tạ ơn Chúa vì người phụ nữ ngồi phía sau tôi trong nhà thờ hát sai,

bởi lẽ như thế nghĩa tai tôi còn nghe được rất tinh tế.

Tôi tạ ơn Chúa vì đống đồ phải giặt ủi,

bởi lẽ như thế nghĩa là tôi có đầy đủ quần áo để ăn mặc tử tế.

Tôi tạ ơn Chúa vì các cơ bắp của mình thấy mỏi mệt vào cuối ngày,

bởi lẽ như thế nghĩa là tôi có sức để làm việc nhiều.

Tôi tạ ơn Chúa vì tiếng đồng hồ reo to thật sớm ban mai,

bởi lẽ như thế nghĩa là tôi còn đi lại, hít thở và cười nói, bởi lẽ như thế nghĩa là tôi đang còn sống.

và cuối cùng…
Tôi tạ ơn Chúa vì nhận quá nhiều thư từ gửi về,

bởi lẽ như thế nghĩa là tôi vẫn còn có nhiều bạn bè đang nhớ đến tôi…

Tôi gửi bài này để các bạn hiểu rằng :

“Thiên Chúa luôn đến với con người bằng một quả tim yêu thương,

cho dù chúng ta đang ở trong bất cứ tình trạng nào!”

Trần Duy Nhiên dịch
chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Tận thế mỗi ngày

Tận thế mỗi ngày

Sat, 29/12/2012

Tác giả:

Sưu tầm
nguồn: thanhlinh.net

‘Tận thế’ mỗi ngày

Chúng ta đang chết một cái chết không đột ngột nhưng dần dần và phải nói là ‘tức tưởi’.

Con người với bản năng sinh tồn vốn có cộng với lòng tham của bản chất khiến cho chúng ta yêu và muốn níu kéo cuộc sống này hơn bao giờ hết. Điều này càng khó xảy ra với Việt Nam hơn khi mà nước ta với GDP ở top trên 100 nhưng chỉ số hạnh phúc là nhất, nhì thế giới. Vậy chúng ta được gì và mất gì với cuộc sống mà ta đang nắm giữ? Xin lý giải tại sao tôi – một người cực kỳ bình thường về tâm lý và thể trạng sức khỏe lại mong ngày tận thế đến như vậy.

Nền kinh tế kỹ trị tăng trưởng theo hình xoắn ốc với tốc độ nhanh chưa từng có và kéo theo nó cũng là sự xuống dốc trầm trọng về văn hóa, đạo đức và lối sống. Và vô vàn các ví dụ khác, những tiên đoán của các nhà khoa học về cái giá phải trả của sự phát triển giờ đã thành sự thật.

Sự phân hóa giai cấp đang tăng dần bất kể nước giàu hay nghèo, miễn ở đâu có quyền lực, ở đó có bất bình đẳng. Và khi áp lực đó gia tăng nhờ sự đè nén và chèn ép quy luật của tự nhiên, con người trở nên man rợ chưa từng thấy. Khoan hãy nói về vấn đề văn hóa, tôi sẽ đưa ra ví dụ để cho thấy loài người man rợ như thế nào. Loài nhện là một trong những loài hiếm hoi mà xảy ra hiện tượng ăn thịt đồng loại, con cái ăn thịt con đực nhưng thay vào đó là sự ra đời của những lứa đời sau khỏe mạnh hơn.

Con người thì khác, họ tranh giành nhau từng mảnh đất, bờ cõi phục vụ cho những mưu đồ chính trị, phát triển những ngành nghiên cứu khoa học vượt thời đại về chất xám để rồi phục vụ cho y học thì ít mà cho chiến tranh thì nhiều. Với số lượng bom nguyên tử mà các quốc gia hiện đang nắm giữ có uy lực phá hủy 6 lần trái đất. Vậy cuộc sống chúng ta có phải quá mong manh như ngàn cân treo sợi tóc, như ngọn đèn hắt hiu trước gió hay không khi mà chỉ cần một bộ não của một kẻ uy quyền nào đó đang thiếu hụt năng nề tính nhân bản có thể “bấm bút” và “bùm”. Cát bụi sẽ trở về với cát bụi. Hiroshima hay Nagashaki sẽ không còn là nhân chứng sống duy nhất nữa mà biết đâu đấy, chúng ta không còn cơ hội để nhìn thấy nhân chứng thứ hai. Đến lúc đó, cuộc sống phỏng còn có ích chi?

Nếu bạn đã đọc Lá thư được viết vào năm 2070 của cựu thủ tướng Ấn Độ thì bạn sẽ phải sửng sốt về những điều thực sự nói không ngoa chút nào. “Mọi người trông như những bóng ma: thân thể họ lờ đờ vì yếu đuối, nứt nẻ vì thiếu nước trầm trọng và bị lở loét vì ung thư da do bầu khí quyển không còn khả năng ngăn chặn tia tử ngoại khi tầng ozone bị phá hủy”. Nếu như bạn là người hay xem phim, hãy bỏ thời gian cho hai bộ phim là Thần rừng Lorax và In time. Khi mà nguồn tài nguyên quý
giá nhất của con  người là nước, không khí, thậm chí cả những thứ vô hình như
thời gian cũng khan hiếm thì người ta sẽ sẵn sàng bằng mọi giá để giành giật
lấy nó như giành giật lấy sự sống này vậy.

Nhưng đó chỉ là những suy nghĩ về môi trường sống của chúng ta sẽ bị hủy hoại như thế nào, thực chất, điều bị hủy hoại mà tôi muốn nói ở đây là đạo đức, là văn hóa, là nhân phẩm con người. Không biết tự cái thuở nào con người vẫn còn sinh ra trong cái nôi gia đình với “Nhân chi sơ tính bản thiện” vậy mà giờ đây được nền văn minh nhào nặn để trở nên tham lam và vị kỷ, chủ nghĩa cá nhân xâm chiếm lợi ích cộng đồng, tài nguyên bị bòn rút để tập trung vào tay một số kẻ có quyền lực.

Văn hóa du nhập, lai căng, những nét đẹp dân tộc giờ đây bị coi là cổ hủ và lạc hậu, nhường chỗ cho ngành truyền thông và quảng cáo. Chúng ta đang chết một cái chết không đột ngột nhưng dần dần và phải nói là “tức tưởi”. Đó mới là cái chết đau đớn
biết bao.

Chắc bạn đã nghe câu chuyện về cái cây ở bệnh viện phụ sản không thể chặt được với lý do có quá nhiều linh hồn nhỏ bé trú ngụ trên đó. Về thực chất câu chuyện đúng sai, duy tâm duy vật thế nào tôi không biết, chỉ có điều, một thực trạng trông thấy là
những linh hồn đang vất vưởng ngoài kia là những hài nhi chưa thành hình, là
sản phẩm của những phút nông nổi của giới trẻ, là kết quả của sự pha tạp văn hóa, hoặc những “giờ dạy con” của các bậc cha mẹ đã bị đánh cắp bởi cuộc đua tiền bạc dẫn đến sự vô định hướng của giới trẻ.

Khi mà con người ta lấy thước đo giá trị làm chuẩn mực để đánh giá một con người thì dường như mọi thứ bị đảo lộn, một thực tại không thể chối cãi được. Ở một quốc gia mà nhà nghỉ, khách sạn, nhà tù, phòng khám tư phá thai nhiều hơn cả trường học, bệnh viện cho người nghèo thì thử hỏi các bậc cha mẹ làm sao không khỏi đau đầu? 10 năm nữa liệu Việt Nam có còn coi “Mỗi đứa con là một món quà của trời cho” nữa không hay khi đó, việc duy trì nòi giống cần phải có sự can thiệp khuyến khích từ chính phủ.

Đi đến đây, tôi, bạn và chúng ta đã nhìn thấy những vết thủng lỗ chỗ trên nền văn minh đương đại, chúng ta có thể làm gì, nói gì nữa đây. Nếu bạn không phải là người nhạy cảm thì xin hãy cứ hát lên khúc ca của riêng mình và sống một cuộc sống như thể ngày mai là tận thế, cònnếu bạn giống tôi – người suốt ngày suy nghĩ thì hãy ngồi và cầu nguyện (hoặc thiền) cho một sự thay đổi cực lớn của nhân loại. Có thể là kết thúc của một hoàng hôn nhưng sẽ là bắt đầu của một bình minh. Tận thế ơi là tận thế!

 

Nói cho con người: Lm. Chân Tín (31)

Nói cho con người: Lm. Chân Tín (31)

Đăng bởi lúc 2:09 Sáng 2/01/13

nguồn:Chuacuuthe.com

VRNs (02.01.2013) – Sàigòn –

Tự do Tôn giáo

(Thư kính gửi Đức Hồng y Phạm Đình Tụng, Chủ tịch HĐGMVN)

Vũng Tàu, ngày 10 tháng 7 năm 1998

Kính thưa Đức Hồng y,

Hôm kỷ niệm 49 năm thụ phong linh mục của Đức Hồng y và của 3 anh em chúng con (6.6.1998), con có điện thoại cho Đức Hồng y dâng lên Thiên Chúa lời tạ ơn. Đức Hồng y có nhã ý mời con ra Hà Nội nhưng con không đi được vì bận dạy giáo lý tân lòng và cũng vì những vết thương ở chân và tay con chưa lành hẳn. Những vết thương này là do “người ta” cố ý gây tai nạn giao thông, trong khi anh Nguyễn Ngọc Lan chở con vào Tân Sơn Nhất để dự đám tang của cụ Nguyễn Văn Trấn thọ 84 tuổi và đã trên 60 tuổi Đảng, đồng thời cũng là người bạn thân của chúng con trong cuộc tranh đấu cho nhân quyền và cho tự do báo chí ở Việt Nam.

Nay con về Vũng Tàu vài hôm, con xin gửi đến Đức Hồng y một vài trăn trở của con, khi đọc những chỉ thị của Bộ Chính trị về công tác tôn giáo, ra ngày 2 tháng 7 vừa qua.

Trước hết, khi đề cập đến tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo, Bộ Chính trị nói: “Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, Đảng và Nhà nước chủ trương và thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo, không tín ngưỡng và không tôn giáo của nhân dân”. Con xin thưa với Đức hồng y: Đây không phải là một nhu cầu của một bộ phận nhân dân nhưng là của đại đa số nhân dân, chỉ có một số nhỏ không tín ngưỡng. Đã là nhu cầu tinh thần của đại đa số thì Đảng và Nhà nước càng phải tạo điều kiện để các tôn giáo phát huy những giá trị tinh thần của đại đa số nhân dân, phải tôn trọng các giáo hội xây dựng đời sống tinh
thần của các tín đồ. Nhưng trong thực tế hiện nay Đảng và Nhà nước gây nhiều
khó dễ cho các giáo hội, hạn chế hoạt động tôn giáo và gây khó khăn cho việc đào tạo các chức sắc và các tu sĩ của các giáo hội, bóp nghẹt các giáo hội bằng cách hạn chế việc chiêu sinh.

Riêng phái Công giáo thì như trong giáo phận Sài Gòn, từ 1975 đến nay có khoảng 250 linh mục qua đời và Nhà nước chỉ chấp thuận 150 tân linh mục. Chính con đã viết thư cho Đức Hồng y Etchegaray ngày 7 tháng năm 1989: “Tự do tôn giáo đích thực mặc nhiên bảo đảm  cho Giáo hội được tự do chọn các giáo sư và các chủng sinh. Thế mà hiện nay, việc tổ chức các chủng viện phải chịu đủ thứ hạn chế, chẳng hạn ấn định tỷ số về các chủng sinh. Việc tuyển chọn chủng sinh và các giáo sư chủng viện phải lệ
thuộc sự chấp thuận của Nhà nước… Hiện nay tại Sài Gòn chúng con có một khóa
tuyển sinh 50 chủng sinh cho 10 giáo phận phía Nam. Thời hạn ấn định cho khóa
này là 6 năm, không có tuyển khóa mỗi năm mà chỉ có mãn khóa đầu. Cụ thể mỗi
giáo phận gửi vào chủng viện 5 chủng sinh. Sau 6 năm, 2 chủng sinh có thể tự ý
xin rút lui, một anh khác có thể không được phong chức vì không hợp nhãn Nhà
nước, một anh khác có thể không đạt tiêu chuẩn của Giáo hội, chỉ còn một chủng
sinh thôi. Trong thời gian đó có biết bao linh mục chết đi vì già, vì bệnh, vì
tai nạn”. (Xem hồ sơ Chân Tín: Nói cho con người. tr.27, nxb Tin Paris,
1993). Thế có nghĩa là từ 1975 đến 1989, không có một khoá đào tạo nào trên
toàn thể Đất nước. Và từ 1989 đến nay có đổi đôi chút nhưng không thấm vào đâu,
như thư của một vị giám mục viết sau hội nghị Thường niên Hội đồng Giám Mục
Việt Nam (tháng 10.1997): “Hội đồng Giám mục Việt Nam chúng ta hôm nay chỉ có
33 vị. Về tuổi tác, đại đa số nay đã già, về sức khỏe hầu hết đều bệnh hoạn,
hoàn cảnh các linh mục cũng không khác nhau bao nhiêu vì việc đào tạo và phong
chức đã bị gián đoạn nhiều năm”. Về vấn đề chủng viện, lá thư ấy nói tiếp:
“Giáo hội Việt Nam trước đây có hàng chục đại và tiểu chủng viện… nhưng hiện
nay chúng ta chỉ có 6 đại chủng viện cho toàn quốc với tổng số 752 chủng sinh.
Cơ sở vật chất thì chật chội, ban giảng huấn thì vừa cao niên vừa thiếu hụt. Từ
lâu, Hội đồng Giám mục đã xin phép mở thêm hai đại chủng viện nữa nhưng đến nay
vẫn chưa được”. (Tin Nhà số 31, tr.13).

Kính thưa Đức Hồng y,

Phải chăng những gì con viết vào năm cho Đức Hồng y Etchegaray thì nay vẫn còn y nguyên. Người ta cố tình giết chết Giáo hội khi không cho phép mở thêm chủng viện đào tạo linh mục và tự do chiêu sinh.

Với những hạn chế như thế mà Bộ Chính trị dám nói: “Chính sách tín ngưỡng tôn giáo của Đảng và Nhà nước đã đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân, củng cố niềm tin đối với Đảng và Nhà nước, tạo được tinh thần phấn khởi cho đồng bào tín đồ các tôn giáo… tín đồ các tôn giáo ngày càng yên tâm tin tưởng và hăng say thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước”. Ôi thật mỉa mai!

Tự do in sách tôn giáo cũng chẳng có. Nhà nước đòi áp đặp một số luật về in ấn sách kinh tôn giáo. Mấy ông vô thần và vô tín ngưỡng lại đòi kiểm soát sách tôn giáo thì thật là ngô nghê. Biết gì về Đạo, hiểu gì về Đạo mà đòi kiểm soát về giáo lý của các tôn giáo và các hoạt động nội bộ của tôn giáo.

Chỉ thị của Bộ chính trị còn nêu ra một điều trái ngược với bản chất tôn giáo: “Một số người không phải là nhà tu hành truyền đạo vi phạm pháp luật”. Ta phải nói thẳng: không có quyền lực nào cấm tín đồ của một tôn giáo truyền đạo cho kẻ khác. Đối với đạo Chúa Kitô đó là mệnh lệnh, là một nghĩa vụ tối cao của mỗi tín ngưỡng của mỗi tín hữu phải đem Tin Mừng Cứu độ cho mọi người, chứ không riêng gì người tu hành mới giảng đạo. Nhà nước không có quyền áp đặt hạn chế đó. Hội đồng Giám mục phải lên tiếng chống lại ý đồ của Đảng và Nhà nước. Họ lăm le áp đặt nay mai nhiều luật lệ phá đạo: “Nhà nước chưa kịp thời bổ sung các văn bản hướng dẫn và qui định cụ thể
về các hoạt động tôn giáo. Chính phủ bổ sung nghị định qui định về hoạt động
của tôn giáo, soạn thảo pháp lệnh tôn giáo trình ủy ban thường vụ Quốc hội ban
hành”.

Một vấn đề quan trọng khác là vấn đề các dòng tu, các tu hội. Chỉ thị Bộ Chính trị viết: “Chính phủ có qui định và hướng dẫn cụ thể về hoạt động của các tôn giáo”. Trong vấn đề các dòng tu và tu hội, các bề trên các dòng tu cùng với Hội đồng Giám mục phải có tiếng nói và đưa ra đường hướng để tránh sự lệch lạc của mấy người vô thần duy vật muốn định đoạt sinh hoạt của người tu hành dấn thân phục vụ con người nói chung và con người Việt Nam nói riêng.

 

Ngoài chỉ thị công khai của Bộ Chính trị nói trên còn chỉ thị ngầm qua Ban Tôn giáo trung ương. Trong dịp Hội nghị thường niên của Hội đồng Giám mục Việt Nam vào tháng 10.1997, ông Lê Quang Vịnh, Trưởng Ban Tôn giáo trung ương có đề cập dài dòng về Ủy ban Đoàn kết Công giáo. Giáo sư Đỗ Mạnh Tri gọi là ngôn ngữ gỗ thứ luận điệu cũ rích về chính sách tự do tôn giáo. Đòi hỏi đoàn kết chưa đủ, ông Vịnh còn thêm vào thái độ cha chú, quan lại một cách ngây thơ (để khỏi nói là ngu xuẩn)” (Tin Nhà số 32, tr.11).

Có thể là ông Lê Quang Vịnh dựa vào chỉ thị ngầm của Bộ Chính trị để có thái độ cha chú. Điểm cần nói ở đây có thể là một âm mưu mới của Đảng Cộng sản muốn biến một số linh mục, giám mục làm tay sai trong cái gọi là Ủy ban Đoàn kết Công giáo. Họ không thể tạo ra một giáo hội tự trị như ở Trung Quốc, hoặc một giáo hội quốc doanh. Do đó, họ muốn có những linh mục, giám mục trong Ủy ban Đoàn kết công giáo để chi phối hoạt động của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Họ muốn củng cố lại Ủy ban Đoàn kết đang tan rã để làm một thứ giáo hội quốc doanh ngay trong lòng Giáo hội Việt Nam. Họ có tham vọng “muốn cứu vớt Ủy ban Đoàn kết với bất cứ giá nào” (Đỗ Mạnh Tri, tài liệu đã dẫn) và hơn nữa muốn dùng Ủy ban Đoàn kết để phá hoại Giáo hội Việt Nam từ bên trong.

Trong bài phát biểu về vấn đề “Đảng Cọng sản Việt Nam thật sự tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng”, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu có nói với lãnh đạo các tỉnh, các ban, bộ, ngành trung ương đã về dự đại hội: “Đảng ta thật sự tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng, nhân dân ta có quyền theo đạo, đổi đạo, bỏ hoặc không theo đạo. Không một thế lực nào ngăn cản hoặc vi phạm quyền tự do đó”. Nhưng thực tế trong các cơ quan người ta không tôn trọng tự do tín ngưỡng, nhân viên cao cấp và đảng viên phải từ bỏ đạo Công giáo. Ông Tổng bí thư nói thế nghĩa là đảng viên và công chức cao cấp
Chính phủ không phải là nhân dân, thế họ là thứ gì? Như vậy, chính sách tôn
giáo của Đảng Cộng sản vẫn trước sau như một, nghĩa là chống phá tôn giáo, chứ
chưa có gì đổi mới.

Kính thưa Đức Hồng y,

Trên đây là những trăn trở của một người con Giáo hội Công giáo Việt Nam và cũng chắc là trăn trở của mọi Kitô hữu chân chính, Đức Hồng y và Hội đồng Giám mục Việt Nam cần phải lên tiếng đòi hỏi tự do tín ngưỡng một cách cụ thể, tách riêng trong những vấn đề căn bản của Giáo hội và mong rằng những vấn đề quan trọng ấy cần được công khai hóa, chứ không thể âm thầm gửi cho Nhà nước để rồi lặng lẽ chờ người ta trả lời và không bao giờ có câu trả lời của Nhà nước, như thư của Hội đồng Giám mục gửi cho Nhà nước tháng 10.1997 vừa qua. Cần phải công khai hóa để gây ý thức cho mọi người, để Dân Chúa cùng một lòng đấu tranh cho tự do tín ngưỡng.

 

Kính chúc Đức Hồng y nhiều sức khỏe, sáng suốt và can đảm.

Xin Đức Hồng y chúc lành cho chúng con.

Kính thư,

Lm. Chân Tín

38, Kỳ Đồng, Q.3, Tp.HCM

(TN số 35,1998)

Giới trí thức Trung Quốc kêu gọi cải tổ chính trị để tránh cách mạng bạo động

Giới trí thức Trung Quốc kêu gọi cải tổ chính trị để tránh cách mạng bạo động

Người dân địa phương biểu tình chống dự án xây dựng một tuyến đường cao tốc mới nối Bắc Kinh đến Thẩm Dương, ngày 09/12/2012.

Người dân địa phương biểu tình chống dự án xây dựng một tuyến đường cao tốc mới nối Bắc Kinh đến Thẩm Dương, ngày 09/12/2012.

REUTERS/Petar Kujundzic

Đức Tâm

nguồn: RFI

Một nhóm học giả có tên tuổi tại Trung Quốc đã gửi thư ngỏ cảnh báo ban lãnh đạo đảng Cộng sản về nguy cơ đất nước rơi vào một cuộc « cách mạng bạo động », nếu chính phủ không đáp ứng những đòi hỏi của người dân và không cho phép tiến hành các cải cách chính trị vốn đã bị trì hoãn từ lâu.

Theo Reuters, 73 học giả, viện sĩ hàn lâm, giáo sư tại các trường đại học có danh tiếng, luật gia, trong số này có những người đã nghỉ hưu, nhấn mạnh rằng cải cách chính trị đã không theo kịp cải cách kinh tế.

Bức thư viết: « Nếu các cải cách mà xã hội Trung Quốc đang rất cần … tiếp tục ngưng trệ không có tiến bộ, nạn tham nhũng chính thức và sự bất bình sẽ ngày càng lớn … thì một lần nữa, Trung Quốc lại bỏ lỡ cơ hội để cải tổ một cách hòa bình và sẽ rơi vào tình trạng xáo trộn, hỗn loạn của một cuộc cách mạng bạo động ».

Bức thư ngỏ được lưu hành trên internet từ đầu tháng 12, tuy nhiên, những bài viết trên báo chí Trung Quốc nhắc đến bức thư này đã bị rút xuống.

Theo những người ký tên vào bức thư, chính phủ dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản Trung Quốc từ năm 1949, cần phải khuyến khích dân chủ và sự độc lập của hệ thống tư pháp, đẩy mạnh cải cách thị trường.

Ông Hạ Vệ Phương (He Weifang), giáo sư luật pháp ở Đại học Bắc Kinh, một trong những người ký tên vào bức thư, cho rằng các đề nghị trong bức thư là có chừng mực, nhưng đã đến lúc cần phải thực hiện, vào lúc ông Hồ Cẩm Đào chuẩn bị chuyển giao chức Chủ tịch nước cho ông Tập Cận Bình, người vừa được chỉ định làm Tổng bí thư đảng Cộng sản Trung Quốc, nhân Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 18 hồi tháng 11 vừa qua. Theo vị giáo sư này, Trung Quốc đang ở thời điểm thay đổi ban lãnh đạo. Người dân hy vọng tiếp tục có những bước tiến nếu tiến hành cải cách hệ thống chính trị.

Trong số những người ký tên vào thư ngỏ có ông Trương Tư Chi (Zhang Sizhi), nguyên là luật sư của Giang Thanh, vợ Mao Trạch Đông, người cầm đầu « Tứ nhân bang », lãnh đạo cuộc Cách mạng Văn hóa Trung Quốc (1966-1976) gây ra một thời kỳ hỗn loạn khủng khiếp tại Trung Quốc.

Vào giữa tháng 12, khoảng 65 học giả, luật sư và các nhà hoạt động nhân quyền cũng đã ký tên vào một thư ngỏ kêu gọi các lãnh đạo cấp cao của đảng Cộng sản Trung Quốc khai báo tài sản của họ và coi đây là biện pháp cơ bản để chấm dứt nạn tham nhũng.

Sau đại hội Đảng 18, các nhà phân tích tìm kiếm xem có những tín hiệu nào cho thấy là ban lãnh đạo mới có ý định cải cách chính trị hay không, như nới lỏng hơn quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin trên internet, thử nghiệm mô hình dân chủ hoặc trả tự do các tù chính trị. Thế nhưng, Bắc Kinh vẫn không chấp nhận bất kỳ sự đối lập nào với vai trò của đảng Cộng sản, đặt ổn định, tức bảo đảm quyền lãnh đạo của Đảng, lên trên hết. Không hề có tín hiệu khả quan nào theo hướng thông thoáng hơn về chính
trị, cho dù tân Tổng bí thư Tập Cận Bình cố gắng tạo dựng cho mình hình ảnh một
nhà lãnh đạo mềm dẻo, cởi mở hơn so với người tiền nhiệm.

Trong bối cảnh đó, các học giả ký tên kêu gọi cải cách chính trị cảnh báo ban lãnh đạo mới ở Bắc Kinh rằng dân chủ, Nhà nước pháp quyền và sự tôn trọng nhân quyền là một xu thế của thế giới không gì ngăn cản nổi. Bức thư viết: « Lịch sử 100 năm đẫm máu và bạo lực của Trung Quốc – đặc biệt là bài học đau đớn và bi kịch của cuộc Cách mạng Văn hóa trong một thập niên, cho thấy là một lần nữa chúng ta đang đi ngược trào lưu dân chủ, nhân quyền, chính phủ quản lý theo Hiến pháp và pháp luật, người dân sẽ phải hứng chịu thảm họa và không thể có ổn định chính trị và xã hội ».

Đầu tháng 12, một cơ quan trực thuộc Ngân hàng Trung ương Trung Quốc cho công bố một bản nghiên cứu, báo động về hố ngăn cách giàu nghèo trong xã hội, mầm mống của sự bất bình và bạo động. Theo đó, tại Trung Quốc, hệ số GINI, thước đo mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập của cải trong xã hội, đã tăng từ 0,421 trong năm 2000 lên 0,61 trong năm 2010.

Hệ số GINI dao động từ 0 – hoàn toàn bình đẳng – đến 1, bất bình đẳng tuyệt đối về giàu nghèo. Theo giới chuyên gia, hệ số GINI 0,6 trong một xã hội không dân chủ, toàn trị, báo hiệu nguy cơ rất cao về bất ổn xã hội.

Hàng chục ngàn dân Hồng Kông xuống đường đòi dân chủ

Hàng chục ngàn dân Hồng Kông xuống đường đòi dân chủ

 
Biểu tình đòi dân chủ tại Hồng Kông, ngày 01/01/2013

Biểu tình đòi dân chủ tại Hồng Kông, ngày 01/01/2013

REUTERS

Tú Anh

nguồn: RFI

Hôm nay, ngay ngày đầu năm dương lịch 2013, khoảng 50 000 người dân Hồng Kông biểu tình đòi lãnh đạo Hành pháp Lương Chấn Anh từ chức và yêu cầu cải thiện dân chủ 15 năm sau ngày Anh Quốc trao trả về Hoa lục.

Theo AFP, hàng chục ngàn dân Hồng Kông, 50.000 theo ban tổ chức, đã xuống đường vào ngày đầu năm 01/01/2013 lên án lãnh đạo Hồng Kông Lương Chấn Anh « thi hành chánh sách » của Bắc Kinh . Một sinh viên tên Billy Li cho biết « cần phải tiếp tục bày tỏ quan ngại, mặc dù ai cũng thấy tình hình mỗi ngày mỗi nghiêm trọng hơn ». Đoàn biểu tình mang tranh vẽ ông Lương Chấn Anh dưới dạng hồ ly và ác quỷ. Họ hô khẩu hiệu « Hãy trả tức khắc cho nhân dân quyền phổ thông đầu phiếu ».

Ông Lương Chấn Anh được đa số « đại cử tri » trong một Ủy ban 1200 người mà đa số thân Bắc Kinh bầu lên vào tháng ba năm 2012 vào chức lãnh đạo Hành pháp. Đa số người dân Hồng Kông xem cuộc « bầu cử » này thể hiện bàn tay can thiệp của Bắc Kinh vào nội bộ Hồng Kông.

Tuy Hồng Kông tiếp tục duy trì quyền tự do ngôn luận, điều mà người dân Trung Hoa tại Hoa lục không có, nhưng trên thực tế, chính quyền Trung Quốc kiểm soát sinh hoạt chính trị Hồng Kông khiến cho dân bản địa nhiều lần phản kháng qua nhiều hình thức từ biểu tình đến tuyệt thực.

Trong cuộc biểu tình hôm nay, một phát ngôn viên của phong trào phản kháng thuộc Mặt Trận Nhân Quyền Công Dân tuyên bố là họ muốn thúc đẩy ông Lương Chấn Anh từ chức để nhanh chóng được bầu cử tự do.

Bắc Kinh cam kết sẽ cho phép bầu lãnh đạo Hành pháp trực tiếp và tự do vào năm 2017 và bầu cơ quan Lập pháp năm 2020 nhưng nhiều nhà dân chủ Hồng Kông nghi ngờ Trung Quốc nuốt lời hứa như đã từng vi phạm cam kết trong quá khứ.

GIA ĐÌNH VÀ TƯƠNG LAI NHÂN LOẠI

GIA ĐÌNH VÀ TƯƠNG LAI NHÂN LOẠI

Lễ Thánh Gia

__________________________________

Nguyễn Tiến Cảnh, MD

Sau những huy hoàng chói lọi của Lễ Giáng Sinh, chúng ta lại cùng Giáo Hội ăn
mừng Lễ Thánh Gia. Lễ Thánh Gia mời gọi người tín hữu suy niệm về mầu nhiệm đời
sống, đặc biệt là ân sủng gia đình, một tặng phẩm mà Thiên Chúa đã ban cho nhân
loại.

Bài phúc âm hôm nay (Lc 2: 41-52) kể lại câu chuyện chúa Giêsu lúc còn niên
thiếu. Đây là mẩu chuyện duy nhất và đặc thù của Tân Ước. Tuy nhiên thánh Luca
cũng làm cho độc giả hồi hộp lo sợ mà ngạc nhiên về những lời Đức Giêsu nói ở
giai đoạn sơ khởi của cuộc đời chúa Giêsu. Chuyện kể rằng “cha mẹ Người hàng
năm vẫn đi về Jerusalem vào ngày Lễ Vượt Qua” (Lc 2:41
) theo truyền thống
đạo đức, tinh thần luật của Israel .

Lúc ấy chúa Giêsu đã lên 12 tuổi, theo phong tuc thì Người cũng theo cha mẹ đi
Jerusalem (2:42). “Khi trở về thì cậu bé Giêsu ở lại Jerusalem mà cha mẹ
không biết”(2:43).
Mệt mỏi tìm kiếm suốt 3 ngày trời không thấy, cuối cùng
thì “ kiếm ra được Chúa ở trong đền thờ, đang ngồi giữa những thầy dạy, lắng
nghe họ và đặt những câu hỏi với họ
” (2:46).

Những lời lạ lùng của chúa Giêsu nói với cha mẹ lúc kiếm được Người xem ra đã
làm khựng lại nỗi vui mừng của mẹ Maria và ông Giuse. “Bố mẹ đi tìm con làm
chi vậy? Bố mẹ không biết rằng con phải ở nhà của Cha con hay sao?”
(2:49).
Câu này cũng có thể diễn nghĩa thế này: “Con còn có nhiều việc phải làm của
Cha con .”
Cả hai cách diễn nghĩa, chúng ta đều hiểu rằng Chúa Giêsu ám chỉ
Thiên Chúa là Cha Người. Tình Cha Con Thiên Chúa và sự vâng lời ý nguyện của
người Cha trên trời phải ưu tiên hơn những ràng buộc của gia đình nơi trần thế.

Bỏ qua biến cố này, toàn thể thời kỳ thơ ấu và thiếu niên của chúa Giêsu theo
như Tin Mừng, đều qua đi trong âm thầm lặng lẽ. Đó là thời kỳ“ẩn dật”, được
thánh Luca tóm tắt bằng hai mẩu văn như sau: “Đức Giêsu đi xuống với bố mẹ
và trở về Nazareth , và vâng phục các ngài
(Lc 2:51); và Người lớn lên
từ từ cùng với sự khôn ngoan và ân phúc trước mặt
Thiên Chúa và
người đời”(Lc 2:52).
Trong thời gian này, câu chuyện thời thơ ấu lúc kết
thúc cũng như lúc khởi đầu, đều nằm trong khung cảnh đền thờ Jerusalem .

Qua Tin Mừng, chúng ta biết được là Chúa Giêsu đã sống trong chính gia đình của
Ngưòi, trong nhà ông Giuse là cha và mẹ là bà Maria là mẹ, những người có bổn
phận giúp đỡ và che chở Người, huấn luyện từ từ cho Người theo nghề thợ mộc.
Dân chúng trong thành Nazareth thì vẫn coi Người là “con ông thợ mộc”(Mt
13:55).

Khi Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy, dân chúng theo Người đã rất ngạc nhiên:“Ông này há không phải là con ông thợ mộc và bà Maria hay sao?”(Mc 6:3). Ngoài mẹ Người ra thì thiên hạ nói những người sống ở Nazaretth chunh quanh đó là anh chị em bà con Người. Thánh sử Mac cô đã nói: Có những người bà con tìm cách ngăn cản Đức Giêsu hoạt động giảng thuyết (Mc 3:21) vì hiển nhiên họ không thấy nơi Người có gì khả dĩ có thể chứng minh bước khởi đầu cuộc đời hoạt động mới của Người. Họ nghĩ rằng Đức Giêsu cũng giống như bất cứ một người Do Thái nào khác và do đó phải sống cuộc sống bình thường thôi.

TRƯỜNG HỌC NAZARETH

Những lời Đức Thánh Cha Phaolo VI tuyên bố ở Nazareth ngày 5-1-1964 về ý nghĩa
mầu nhiệm Nazareth và Thánh Gia rất đáng cho chúng ta suy niệm. Những giá trị
tuyệt vời của gia đình Nazareth như sự yên lặng, cuộc sống và việc làm trong
gia đình là những yếu tố đặc biệt chúng ta phải để ý và noi theo.  Ngài
nói:

“ Nazareth là một trường học, ở đó chúng ta có thể khám phá ra được vẻ tươi đẹp của cuộc sống của Chúa và hiểu được Tin Mừng của Người. Ở đây, chúng ta có thể quan sát và suy niệm về cách thức Con Thiên Chúa xuống thế làm người nó sâu xa và ý nghĩa biết mấy, cho dù vẫn đầy dẫy những ẩn ý ở bên trong.

“ Và từ từ chúng ta có thể học hỏi để bắt chước Người. Ở đây chúng ta có thể học cách thể hiện xem Chúa Kito thực sự là ai. Và ở đây, chúng ta có thể cảm nghiệm và để ý đến những điều kiện và hoàn cảnh xung quanh đã ảnh hưởng đến cuộc sống của Người ở trần thế  này như: không gian, thời gian, văn hóa, ngôn ngữ, tôn giáo, ……Tóm lại, tất cả những gì mà chúa Giêsu đã dùng để cho cả thế giới biết đến Người. (….)

“ Trước tiên, chúng ta học hỏi về sự yên tĩnh của gia đình Nazareth . Chúng ta phải ở trong một khung cảnh nhiều người đang cãi lộn nhau rất ồn ào náo nhiệt thì mới cảm nghiệm được sự yên tĩnh nó êm đềm lắng đọng như thế nào! Sự yên tĩnh của Nazareth sẽ chỉ cho chúng ta cách thức chiêm nghiệm trong thinh lặng và an bình, suy tư trong
tình trạng thần trí lắng đọng, và mở rộng tâm hồn lắng nghe tiếng nói khôn ngoan của Chúa và lời khuyên của những thầy dạy đích thực. Nazareth có thể dạy cho chúng ta biết giá trị của sự học hỏi và sửa soạn, của chiêm nghiệm, của đời sống tinh thần có tổ chức, của sự yên lặng cầu nguyện mà chỉ có Thiên Chúa biết mà thôi.

“Thứ hai, chúng ta học hỏi về đời sống gia đình. Nazareth là mẫu mực phải có của mọi gia đình. Nazareth thể hiện cho chúng ta rõ ràng tính thánh đức và vững bền của gia đình, đồng thời nêu gương sáng về những nhiệm vụ căn bản của gia đình trong xã hội
như là một cộng đồng tình yêu và chia sẻ, nó tuyệt mỹ ở chỗ có những vấn đề đặt
ra và được giải quyết thỏa đáng. Tóm lại nó là một cấu trúc toàn hảo để nuôi dưỡng con trẻ- và như vậy, nó là bất khả thay thế.

“Sau cùng, ở Nazareth , nơi nhà con ông thợ mộc, chúng ta có thể học hỏi đuợc nhiều điều ở công việc làm và những kỷ luật cần có của nó. Cha muốn đặc biệt nói đến những chân giá trị của những việc làm đó –có đòi hỏi thì cũng có phần thưởng- để trân trọng nó một cách thích đáng. Cha muốn nhắc nhở mọi người là chuyện đi làm nó cũng có cái giá trị phẩm giá của riêng nó. Ngoài ra, không đi làm không có nghĩa là đuờng cùng rồi. Tuy nhiên vì cái giá trị và tính tự do của việc làm, đi làm không phải chỉ vì vị trí của việc làm trong hệ thống kinh tế, như người ta nói, mà đúng ra còn vì cái mục đích phục vụ của công việc làm.”

NHỮNG THÁCH ĐỐ CỦA NGÀY NAY

Ngày nay, chúng ta ai cũng thấy là thiếu môi trường giáo dục, không phải chỉ ở
ngoài Giáo Hội mà cả ngay trong Giáo Hội. Gia đình Kito giáo không còn khả năng
tự mình truyền đạt niềm tin của mình cho những thế hệ kế tiếp, và ngay cả chính
xứ đạo cũng vậy, mặc dù nó vẫn còn là một cấu trúc cần thiết cho sứ mệnh truyền
giáo của Giáo Hội ở bất cứ một địa hạt nào

Là một cộng đồng Kitô giáo nói riêng, xã hội nói chung, chúng tôi cần phải hoạt
động tích cực hơn nữa để khuyến khích mọi người giữ cho tình liên đới giữa
người nam và người nữ thật bền chặt làm căn bản cho tất cả mọi nền văn minh,
cũng như yểm trợ tối đa cho quyền lợi và nhu cầu của con trẻ. Chúng tôi cũng
cần suy xét cẩn thận về những hậu quả xã hội liên hệ đến định nghĩa cũa hôn
nhân, của vợ chồng; xem xét cẩn thận tất cả những điều mà người ta thêm vào một
khi xã hội không còn cho chúng tôi một vị thế đặc quyền và giá trị làm nền tảng
cho cuộc nối kết lâu dài giữa hai người nam và nữ trong hôn nhân.

Là cột trụ của xã hội, gia đình chính là môi trường thuận lợi nhất để đón chào
con trẻ. Đồng thời tự do lương tâm và tự do tôn giáo cần phải được bảo đảm, cũng
như phải kính trọng nhân phẩm của tất cả mọi người bất kể khuynh hướng sắc dục
của họ thế nào.

Chúng tôi đã có nhiều dịp tham dự những cuộc hội thảo về hôn nhân ở xứ đạo và
giáo phận chúng tôi, xin được chia sẻ với quí vị. Hai thách đố đặc biệt thường
được nêu ra trong những cuộc tranh luận khá sôi nổi về hôn nhân và đời sống gia
đình trong thời đại của chúng ta. Hôm nay Lễ Thánh Gia, một vấn đề khá khẩn cấp
đối với chúng ta, nhất là những giáo dân, phải làm sao duy trì giá trị của
những định chế quan trọng và bí tích hôn nhân. Hãy yểm trợ những chương trình
chuẩn bị hôn nhân trong các cộng đồng xứ đạo của mình. Cũng cần đề ý, trong các
xứ đạo và giáo phận thường có những chương trình ơn gọi đặc biệt cho thanh niên
và giới trẻ nên cũng nên cổ động và tham gia. Những xứ đạo và giáo phận và
những phong trào giáo dân không có những kế hoạch mục vụ có tính sáng tạo và
chương trình ơn gọi hôn nhân cho giới trẻ vẫn đầy dẫy những nghi hoặc rất đáng
sợ về luân lý, những hiểu lầm, trống rỗng và thiếu thông tin chính xác và đầy
đủ.

Chúng ta cũng đừng quên rằng trong xã hội cũng có những ràng buộc khác giữa
tình yêu và tình liên đới, giữa sự cam kết và tương quan trách nhiệm. Những
điều đó có thể tốt, và có thể được pháp luật công nhận. Trong hôn nhân cũng có
những tương tự như vậy.  Nhưng không thể thay đổi định nghĩa hôn nhân theo
luật pháp qui định mà có thể thay đổi được thực tế đã có trước mắt từ ngàn xưa
chỉ có sự cam kết phối hơp giữa hai người nam và nữ mới có giá trị hôn
nhân
. Không phải chỉ cần có những ràng buộc về tương quang giữa hai
người lớn với nhau thôi, mà còn phải dựa vào khả năng sản xuất tự nhiên
để sinh con đẻ cái
.

Trong dịp lễ Thánh Gia này, chúng tôi hãy cam kết tạo dựng mái ấm gia đình nhân
loại, tôn vinh hôn nhân, làm cho nó trở nên vững mạnh, chúc phúc và dưỡng dục
con cái, biến mái ấm gia đình chúng tôi, xứ đạo chúng tôi trở nên thánh đức,
hân hoan đón chào những cuộc hôn nhân giữa người nam và người nữ giữa mọi quốc
gia, mọi sắc dân, ngôn ngữ, khuynh hướng phong tục cũng như cách sống

ĐÔI LỜI KẾT:

NỀN MÓNG CỦA XÃ HỘI

Chân phước Giáo Hoàng Gioan Phaolo II vẫn thường nói: “Tương lai nhân loại tùy thuộc vào gia đình”. Bài đọc ngày lễ hôm nay nhắc nhở chúng ta là gia đình có một liên đới sống động với xã hội.

Nền móng xã hội chính là gia đình. Nền móng gia đình chính là hôn nhân. Ơn gọi
lập gia đình / hôn nhân đã được ghi khắc trong chính bản tính của người Nam và
người Nữ. Như là cột trụ của xã hội, gia đình là môi trường thích hợp nhất để
đón chào con trẻ.

Chúng ta cần những thanh niên trẻ, vui vẻ, mạnh dạn xác tín, hy vọng với tất cả
niềm tin sắt đá khi nói: “I Do / Tôi Đồng Ý”. Họ là Tương Lai và Hy Vọng của
chúng ta. Không có những cặp vợ chồng kết hôn với nhau, chúng ta không thể xây
đắp được tương lai cho xã hội và Giáo Hội. Không có những cặp vợ chồng kết hôn
với nhau và cam kết thề hứa trung thành, thương yêu  nhau, chúng ta không
thể có những gia đình thánh đức như ngày nay được.

Fleming Island, Florida

Dec. 28, 2012

NTC

nguồn: Anh chị Thụ & Mai gởi

 

Giáo Lý Cộng Đồng: Tuần 1 – Tháng 01/2013

Giáo Lý Cộng Đồng: Tuần 1 – Tháng 01/2013

Tháng 1/2013

Sau lễ Giáng Sinh, Hội Thánh có Mùa Giáng Sinh, mời gọi các tín hữu tiếp tục học hỏi, cử hành và sống đức tin vào Đấng Thiên Chúa làm người. Vì thế, chủ đề của tháng này là : ĐỨC TIN LÀ MỘT HỒNG ÂN.

Chúng ta sẽ tìm hiểu chủ đề này trong 4 tuần lễ:

Tuần 1: Đức tin là một hồng ân.

Tuần 2: Đức tin là một nhân đức.

Tuần 3: Đức tin là một di sản.

Tuần 4: Hồng ân và trách nhiệm.

TUẦN 1 ĐỨC TIN LÀ MỘT HỒNG ÂN

Khai triển nội dung:

1. Khi thánh Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, Người nói với ông rằng không phải huyết nhục mặc khải cho ông điều ấy, nhưng là Cha của Người, Đấng ngự trên trời (Mt 16,17). Khi chứng kiến những người đã thấy các phép lạ Người làm mà vẫn không tin, Chúa Giêsu thưa với Chúa Cha: “Con ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt 11,25). Tất cả đều nói lên đức tin trước hết là một hồng ân chứ không phải là kết quả của nỗ lực nhân loại.

2. Đức tin là một hồng ân vì chính Thiên Chúa đi bước trước. Như thai nhi Giêsu trong lòng Đức Trinh Nữ Maria tìm đến Gioan Tẩy giả trong lòng bà Elisabeth, chính Thiên Chúa đến tìm con người trước khi con người tìm kiếm Ngài. Thiên Chúa đi bước trước bằng nhiều cách: “Để có được đức tin, cần có ân sủng Thiên Chúa đến trước giúp đỡ và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần. Ngài đánh động và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa, Ngài mở mắt lý trí và cho mọi người cảm thấy dịu ngọt khi ưng thuận và tin vào chân lý” (Hiến chế Dei Verbum, số 5).

3. Đức tin là một hồng ân nhưng không Thiên Chúa ban cho con người. Tuy nhiên chúng ta có thể đánh mất hồng ân vô giá đó như thánh Phaolô nói: “Một số người đã vứt bỏ lương tâm ngay thẳng, nên đức tin của họ đã bị chết chìm” (1Tm 1,19). Vì thế người tín hữu phải gìn giữ và vun trồng đức tin bằng cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa và thực thi Lời Chúa trong đời sống.

Để ghi nhớ (Sách Toát Yếu GLHTCG)

Hỏi: Chỉ với ánh sáng tự nhiên của lý trí, con người có đủ khả năng để nhận biết mầu nhiệm Thiên Chúa hay không?

Thưa: Chỉ với ánh sáng của lý trí, con người sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc nhận biết Thiên Chúa. Hơn nữa, tự mình, con người không thể nào đi vào mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa. Vì thế Thiên Chúa đã muốn soi dẫn con người bằng cách mặc khải cho họ, không những về những gì vượt quá sự hiểu biết nhân loại, mà cả về những chân lý tôn giáo và luân lý, tự chúng vốn không vượt quá khả năng của lý trí, như vậy mọi người có thể biết được những chân lý đó cách dễ dàng, chắc chắn và không sợ sai lầm (số 4).

Hỏi: “Đức tin là một hồng ân” nghĩa là gì?

Thưa: Đức tin là hồng ân Thiên Chúa ban không, và tất cả những ai khiêm tốn cầu xin đều có thể đạt tới (x. số 28).

Ý cầu nguyện:

Lạy Chúa, con tin, nhưng xin Chúa nâng đỡ lòng tin yếu kém của con (x. Mc 9,24).

Năm mới tâm linh

Năm mới tâm linh

TRẦM THIÊN THU

Năm hết, Tết đến, ai cũng lo “đổi mới” bề ngoài, vậy cũng cần lắm đối với mọi người về việc “canh tân” đời sống tâm  linh trong năm mới. Hãy tập thói quen canh tân đời sống tâm linh, và hãy dạy trẻ em đổi mới tâm hồn ngay từ tuổi nhỏ.

Một năm mới bắt đầu, một khởi sự mới cũng bắt đầu. Do đó, đừng chỉ đặt ra các quyết định bình thường như giảm cân, bỏ hút thuốc, bớt say xỉn, bớt lải nhải, bớt độc đoán, bớt chuyên quyền, bớt ích kỷ, cố gắng ngoan ngoãn, cố gắng học tập,… Cũng đừng đặt ra các mục đích quá lớn hoặc xa vời, mà hãy đặt ra các mục đích đơn giản và thiết yếu, nhất là cố gắng cải thiện mối quan hệ với Thiên Chúa. Đây là vài cách khả thi:

1. Canh tân đời sống cầu nguyện

Cầu nguyện luôn cần thiết, vì Chúa Giêsu dạy: “Hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26:41). Có thể đó là việc đơn giản, cũng có thể phức tạp, nhưng không dễ thực hiện trong một sớm một chiều. Hãy cố gắng siêng năng hơn trong việc cầu nguyện hằng ngày. Nhiều người có quyết định này nhưng lại mau thất bại, vì họ muốn nhảy vọt ngay từ bước đầu tiên. Nếu bạn đã từng không thường xuyên cầu nguyện, bây giờ muốn cầu nguyện nhiều ngay thì rất khó. Hãy  bắt đầu tập bằng cách cầu nguyện mỗi buổi sáng khi vừa thức dậy, dù là bạn cầunguyện khi bạn đang đánh răng. Hãy bắt đầu dành cho Chúa mỗi sáng 5 phút. Rồi dần dần bạn cố gắng thêm 2, 3 hoặc 5 phút nữa. Bạn sẽ mau cảm thấy thích thú tâm sự với Chúa trước khi làm bất cứ điều gì. Đừng lo phải nói gì với Ngài, cứ hướng tâm hồn lên với Ngài, bạn cứ nói chuyện với Ngài bất cứ điều gì, hoặc có thể chỉ im lặng chiêm ngưỡng Ngài. Bạn sẽ thấy kết quả kỳ diệu.

2. Đọc trọn bộ Kinh thánh

Tập cho quen đọc Lời Chúa cũng là một quyết định quan trọng trong năm mới đối với mỗi Kitô hữu. Có nhiều kế hoạch cho việc đọc Kinh thánh để có thể đọc trọn bộ Kinh thánh trong một năm. Hãy quyết định đọc Kinh thánh mỗi buổi tối trước khi đi ngủ. Có thể bạn không đọc hết bộ Kinh thánh, nhưng có thể dùng cả năm để tập trung vào các chủ đề đặc biệt hoặc các vấn đề liên quan đời sống mà bạn muốn Thiên Chúa giúp bạn cải thiện. Hãy lập một “kế hoạch” về Kinh thánh, và quyết tâm thực hiện trong năm mới.

3. Giúp đỡ người khác

Qua Kinh thánh, Thiên Chúa mời gọi chúng ta làm việc thiện. Có nhiều cách giúp đỡ người khác, nhất là giúp đỡ người nghèo: “Người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có” (Ga 12:8). Chi tiêu là việc cần thiết, nhưng đừng lãng phí. Tiết kiệm có lợi cho bản thân và gia đình, đồng thời cũng để có thể giúp người khác một cách thực tế. Hãy coi việc giúp đỡ người khác là một phần trong hoạt động của cuộc đời bạn trên cuộc lữ hành trần gian. Đa số các giáo xứ đều có các hoạt động “ngoại khóa”, hoặc bạn có thể tham gia các hoạt động từ thiện của giáo xứ, của hội đoàn, của trường học, của xã hội,… Có rất nhiều người cần sự giúp đỡ của bạn, việc giúp đỡ người khác là cách tốt để sống đức tin, sống yêu thương, làm gương sáng, và chúng tỏ mình là người có niềm tin vào Thiên Chúa.

4. Sinh hoạt giáo xứ

Đa số các giáo xứ đều có các hội đoàn hoặc nhóm sinh hoạt việc đạo đức (Dòng Ba Đa-minh, Cộng đoàn Lòng Chúa Thương Xót, Hội Con Đức Mẹ, Gia đình Phạt tạ Thánh Tâm, Hội cầu nguyện, Hội các Bà mẹ Công giáo, Ca đoàn, Lễ sinh, Thiếu nhi Thánh Thể, Giáo lý viên, lớp Giáo lý, lớp Kinh thánh,…). Hãy tham gia các sinh hoạt chung trong giáo xứ dành cho lứa tuổi của mình. Nhiều nhóm sinh hoạt gặp nhau hằng tuần hoặc hằng tháng, các cuộc họp mặt này là cách tốt để tạo sự thân thiện với nhau, tạo sự hỗ trợ lẫn nhau trong sinh hoạt hằng ngày và sinh hoạt tâm linh.

5. Khiêm nhường phục vụ

Một trong các vấn đề khó khăn đối với các Kitô hữu là chuyện phục vụ, đó là quá trình rất cần thiết: “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28). Ai cũng được người khác phục vụ, bằng cách này hoặc cách khác, trực tiếp hoặc gián tiếp, vì thế chúng ta cũng phải biết phục vụ người khác. Tuy nhiên, Chúa Giêsu dạy là phải phục vụ, nhưng phục vụ trong khiêm nhường: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17:10).

6. Đọc sách thiêng liêng

Hãy dùng cách nào đó có lợi cho bạn, có thể là việc đọc sách thiêng liêng như đọc các sách đạo đức hoặc hạnh các thánh, miễn sao cách đó giúp bạn phát triển trên đường nhân đức. Các dòng tu thường có giờ đọc sách thiêng liêng, giáo dân ít có người có thói quen tốt lành này. Tốt nhất vẫn là đọc Kinh thánh. Đọc Kinh thánh là giao tiếp với Thiên Chúa, là phần thiết yếu của mọi người trong đời sống Kitô hữu, vì Kinh thánh là Lời Chúa, mà Lời Chúa thì chính xác đến độ “một chấm, một phẩy cũng không sai” (x. Mt 5:18) . Đọc sách là thời gian tĩnh lặng, giúp tâm hồn lắng đọng, có thể thấy rõ mình hơn.

7. Sống Đức Tin

Bạn đã loan truyền Phúc âm bao nhiêu lần cho bạn bè hoặc gia đình? Truyền giáo không phải đi xa tới nơi này, nơi nọ, mà có thể là truyền giáo ngay trong gia đình, cho bạn bè, cho láng giềng, thậm chí là tái truyền giáo cho chính mình bằng cách sống thể hiện đức tin. Nếu có điều kiện thì làm như Thánh Phanxicô Xaviê, không thì hãy bắt chước “bông hoa nhỏ” Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Sống đức tin là gieo hạt yêu thương, làm nảy mầm bác ái, bảo vệ công lý, tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền. Cứ  hiểu nhân quyền một cách đơn giản là “quyền sống của con người” để cảm thấy không “nặng nề”. Cứ hành động, đừng lo đến kết quả, như Thánh Phaolô nói: “Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể” (1 Cr 3:6-7).

8. Hiểu và cảm thông lẫn nhau

Trong hàng tỷ chiếc lá chẳng có hai chiếc lá giống nhau. Con người cũng vậy. Mỗi người là một cá thể với trình độ và hoàn cảnh sống khác nhau, như tục ngữ nói: “Cha mẹ sinh con, Trời sinh tính”. Vì thế người này cần chịu đựng người kia, cảm thông lẫn nhau, hiểu và tha thứ cho nhau. Đó là Luật Yêu Thương của Chúa: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34; Ga 15:12). Còn Thánh Phaolô khuyên: “Anh em đừng mắc nợ gì ai ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13:8). Cuộc sống nhiêu khê, nhiều vấn đề phức tạp, khó tránh khỏi xung đột. Ngay cả cha mẹ và con cái cũng vẫn xung khắc, ngay cả vợ chồng cũng vẫn bất đồng ý kiến, ngay cả trong các dòng tu cũng vẫn xảy ra tranh chấp. Vấn đề là khiêm nhường, hiểu biết và cảm thông.

9. Giúp người khác sống đạo đức hơn

Nghe chừng đơn giản nhưng lại cần nhiều can đảm mới có thể giúp người khác sống đạo đức hơn – nói chung, và siêng năng tham dự các giờ phụng vụ tại nhà thờ – nói riêng. Giúp người trong gia đình hoặc bạn bè cùng tôn giáo đã là khó, huống chi với người khô khan đạo hạnh. Thậm chí có những người sẽ cho là bạn “lên mặt đạo đức” hoặc “lên lớp” họ. Khó lắm, thế nên phải tế nhị và khéo léo lắm. Tuy nhiên, việc giúp người khác sống đạo đức hơn là nhiệm vụ truyền giáo chung: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16:15).

Năm Quý Tỵ, năm con Rắn, xin chúc mọi người năm mới hạnh phúc và thánh thiện, khôn ngoan như con Rắn chứ đừng xảo quyệt như con Rắn. Việt ngữ khó diễn tả “hết ý” như Anh ngữ: HAPPY NEW YOU and HOLY NEW YOU. Thiết nghĩ đó là một cách nói và là lời chúc hay với bất kỳ ai.

TRẦM THIÊN THU

Giao thừa Tết Dương lịch 2013

Maria Thanh Mai gởi

Sứ Điệp Của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới lần thứ 46

Sứ Điệp Của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Hòa Bình
Thế Giới lần thứ 46

SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA BIỂN ĐỨC XVI

NGÀY 01 THÁNG GIÊNG NĂM 2013

“PHÚC CHO AI KIẾN TẠO HOÀ BÌNH”

1. Năm mới luôn mang lại cho chúng ta niềm hy vọng về một thế giới tốt đẹp hơn. Trong ánh sáng này, tôi nguyện xin Thiên Chúa, là Cha của nhân loại, ban cho tất cả chúng ta sự hoà thuận và bình an để những khao khát của chúng ta về một đời sống hạnh phúc và thịnh vượng có thể được thành tựu.

Năm mươi năm sau ngày khai mạc Công Đồng Vaticano II vốn là sự kiện giúp chúng ta đào sâu sứ mạng của Giáo hội trong thế giới, chúng ta phấn khởi nhận ra rằng những Kitô hữu, như là Dân Thiên Chúa trong việc bước theo Người và sống giữa lòng thế giới, chúng ta dấn thân vào lịch sử để chia sẻ vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng [1], khi chúng ta công bố ơn cứu rỗi của Đức Kitô và thăng tiến hoà bình cho nhân loại.

Thực tế, thời đại của chúng ta được đánh dấu bởi sự toàn cầu hoá với những khía cạnh tích cực và tiêu cực của nó, cũng như sự tiếp nối của những xung đột bạo lực và những đe doạ của chiến tranh, đòi hỏi một sự dấn thân mới mẻ và mang tính hợp tác trong việc theo đuổi ích chung cũng như sự phát triển của mọi người, và sự phát triển toàn
diện của con người.

Thật đáng báo động khi chứng kiến sự lan tràn của những căng thẳng và xung đột gây ra bởi sự phát triển của sự bất bình đẳng giữa giàu và nghèo, sự lan tràn của não trạng cá nhân và ích kỷ vốn tìm thấy sự biểu hiện của nó trong chủ nghĩa tư bản tài
chính thiếu sự kiểm soát. Bên cạnh những hình thức đa dạng của chủ nghĩa khủng
bố và tội ác quốc tế, hoà bình cũng bị đe doạ bởi trào lưu chính thống và chủ
nghĩa cuồng tín, bóp méo bản chất tôn giáo đích thực, vốn mời gọi cổ võ tình
liên đới và sự hoà giải giữa mọi người.

Thời nào cũng vậy, những nỗ lực khác nhau trong việc kiến tạo hoà bình nhan nhãn trong thế giới  chúng ta chứng minh rằng ơn gọi căn bản của con người là hoà bình. Nơi mỗingười, khao khát hoà bình là một khao khát căn bản, trong một cách thức nào đó, hoà hợp với nỗi khao khát về một đời sống hạnh phúc và thịnh vượng tròn đầy.
Nói cách khác, nỗi khát khao hoà bình liên quan đến một nguyên lý luân lý nền
tảng, nghĩa là liên quan đến nghĩa vụ và quyền lợi nơi sự phát triển của cộng
đồng và xã hội, vốn cũng là một thành phần trong kế hoạch của Thiên Chúa dành
cho con người. Con người được sáng tạo cho sự hoà bình vốn là một qùa tặng của
Chúa.

Tất cả những thao thức trên thúc đẩy tôi chọn chủ đề cho Thông Điệp năm nay từ những lời của Đức Giêsu: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9).

Mối phúc Tin Mừng

2. Các mối phúc mà Chúa Giêsu công bố là những lời hứa. Trong truyền thống Thánh Kinh, mối phúc là một thể loại văn chương liên quan đến những tin tốt lành, một “Tin Mừng”, là chóp đỉnh của một lời hứa. Do đó, các mối phúc không chỉ là những khích lệ về mặt luân lý, cổ võ người ta tuân giữ để thấy trước, thường là trong đời sống mai sau, những phần thưởng hay những vị thế hạnh phúc trong tương lai. Đúng hơn, phúc lành mà các mối phúc nói đến hệ tại ở việc viên mãn của một lời hứa dành cho tất cả những ai để cho mình được hướng dẫn bởi những đòi hỏi của chân lý, công bình và bác ái. Trong con mắt của thế gian, những người tin tưởng vào Thiên Chúa như thế
thường bị xem là kẻ khờ khạo và xa rời thực tế. Tuy nhiên, Chúa Giêsu nói cho
họ rằng, không chỉ ở đời sau nhưng ngay tại đời này, họ sẽ khám phá ra mình là
con cái của Thiên Chúa, và rằng Thiên Chúa đã, đang và sẽ mãi ở bên cạnh họ. Họ
hiểu rằng mình không lẻ loi, bởi vì Thiên Chúa là đồng minh với những con người
dấn thân cho chân lý, công bình và bác ái. Chúa Giêsu, mạc khải Tình yêu của
Chúa Cha, không do dự trao ban chính mình như một sự tự hiến. Mỗi khi chúng ta
đón nhận Chúa Giêsu, Đấng là Thiên Chúa và là con người, chúng ta kinh nghiệm
được niềm vui về một quà tặng lớn lao: sự sẻ chia chính sự sống của Thiên Chúa,
đời sống ân sủng và là lời hứa về sự hiện hữu hạnh phúc tròn đầy. Cụ thể, Đức
Kitô ban cho chúng ta bình an đích thực phát sinh từ một cuộc gặp gỡ đầy tin
tưởng giữa con người với Thiên Chúa.

Mối phúc của Chúa Giêsu nói cho chúng ta biết hoà bình là một món quà của Đấng Mesia nhưng đồng thời cũng là hoa trái phát sinh từ những nỗ lực của con người. Thực vậy, hoà bình giả thiết về sự mở ra của con người đối với siêu việt. Nó là hoa trái của một món quà hỗ tương, của một sự phong phú mang tính hai mặt. Nhờ vào quà tặng này, một quà tặng có nguồn cội nơi Thiên Chúa, chúng ta có thể sống với và sống
cho người khác. Nền đạo đức của hoà bình là đạo đức của tình liên đới và chia
sẻ. Điều tuyệt đối cần thiết là những nền văn hoá của chúng ta trong thời đại
ngày nay cần vượt qua những hình thức nhân loại học và đạo đức dựa trên những
giả định vốn chỉ mang tính chủ quan và thực dụng, nơi đó mối tương quan đồng
tồn tại được gợi hứng bởi các tiểu chuẩn về quyền lực và ích lợi, phương tiện
trở thành cùng đích chứ không phải ngược lại, văn hóa và giáo dục chỉ đơn thuần
tập trung vào thiết bị, kỹ thuật và hiệu quả.

Điều kiện cần thiết để có hoà bình là sự xoá bỏ chế độ độc tài của chủ nghĩa tương đối và của một giả định về nền luân lý hoàn toàn tự trị vốn không thừa nhận luật luân lý tự nhiên, được Thiên Chúa ghi khắc trong lương tâm của mỗi người nam và người nữ. Hoà bình cần được xây dựng trên sự đồng hiện diện của những thuật ngữ lý trí cũng
như luận lý, được đặt nền tảng trên những tiêu chuẩn vốn không phải do con
người tạo nên, nhưng đúng hơn là do Thiên Chúa. Thánh Vịnh 29 nói rằng: Xin Đức
Chúa ban uy lực cho dân Người, Yavê chúc lành cho dân Người bình an” (câu 11).

Hoà bình: Quà tặng của Thiên Chúa và hoa trái của nỗ lực con người

3. Hoà bình liên quan đến con người xét như toàn thể và nó đòi hỏi sự dấn thân trọn vẹn. Hoà bình với Thiên Chúa là một đời sống được sống theo ý muốn của Ngài. Hoà bình cũng là một sự bình an nội tâm nơi chính mình và hoà bình ngoại tại với tha nhân và với các tạo vật. Trên hết, như chân Phước Gioan 23 đã viết trong thông điệp Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris), mà chúng ta sẽ kỷ niệm 50 vào những tháng tới, hòa bình đòi hỏi xây dựng trên một sự đồng tồn tại được đặt nền tảng trên chân lý, tự do, bác ái và công bình [2]. Sự khước từ điều làm nên bản chất đích thực của con người trong những chiều kích thiết yếu nhất, trong khả năng nội
tại để biết chân lý và sự thiện, và một cách tối hậu, là khả năng nhận biết
chính Thiên Chúa, sẽ gây nguy hại cho việc kiến tạo hoà bình. Không có chân lý
về con người vốn được Đấng Tạo Hoá ghi dấu trong trái tim con người, tự do và
bác ái trở nên giả tạo, và công bình đánh mất đi nền tảng tồn tại của chính
mình.

Để trở nên người kiến tạo hoà bình đích thực, chúng ta cần phải luôn nhớ về chiều kích siêu việt của mình và phải đi vào một cuộc đối thoại liên lỉ với Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, ngang qua đó chúng ta sẽ khám phá ra ơn cứu chuộc mà Người Con Duy Nhất của Ngài đã mang đến cho chúng ta. Nhờ đó, con người có thể vượt qua được những bóng mờ của sự tiến bộ và sự khước từ hoà bình vốn là tội lỗi trong tất
cả hình thức của nó: ích kỷ, bạo lực, kiêu căng, khao khát quyền lực và thống
trị, thiếu lòng khoan dung, ghen ghét và các cơ cấu bất công.

Thành tựu hòa bình phụ thuộc trước hết vào việc chúng ta nhận ra, nơi Thiên Chúa chúng ta là một gia đình nhân loại. Như Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris) dạy rằng, gia đình này được cấu trúc bởi các mối tương quan liên vị và các thể chế
vốn được hỗ trợ và được làm sống động bởi cộng đồng “chúng ta”, đòi hỏi một
trật tự luân lý nội tại cũng như ngoại tại, mà trong đó, hợp với chân lý và
công bình, các quyền hỗ tương và các nghĩa vụ tương ứng được chân nhận. Hòa
bình là một trật tự được sống động và hòa hợp bởi đức ái, trong đó chúng ta sẽ
cảm thấy nhu cầu của tha nhân cũng là của chính mình; chúng ta chia sẻ thiện
ích với tha nhân và lao tác cho thế giới cho một sự hiệp thông lớn hơn về những
giá trị tinh thần. Hòa bình là một giá trị đạt được trong tự do, nghĩa là trong
một cách thế phù hợp với phẩm giá của con người, với bản chất của mình như là
những hữu thể có lý trí, con người chịu trách nhiệm cho hành động của mình.[3]

Hòa bình không phải là một giấc mơ hay một điều gì đó không tưởng, nhưng là một điều khả thi. Chúng ta cần nhìn sâu xa hơn, vượt qua những vẻ bề ngoài và các hiện tượng bên ngoài, chúng ta sẽ nhận ra một thực tại tích cực tồn tại trong trái tim con người, vì mỗi người nam và nữ đã được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa và được mời gọi để lớn lên và góp phần vào việc xây dựng một thế giới mới. Chính Thiên
Chúa, ngang qua mầu nhiệm nhập thể của Người Con và công trình cứu chuộc của
Người, đã đi vào lịch sử và đã mang đến một cuộc tạo dựng và một giao ước mới,
giao ước giữa Thiên Chúa và con người (xem Gr 31,31-34), và ngài cũng ban cho
chúng ta một “trái tim mới” và một “thần khí mới” (xem Gr 36,26).

Vì lý do này, Giáo Hội nhận ra một nhu cầu cấp thiết trong việc tái công bố về Chúa Giêsu, là yếu tố đầu tiên và nền tảng của sự phát triển hội nhất nơi con người và cũng là của sự hòa bình. Chúa Giêsu là hòa bình đích thực, là công bình và sự hòa giải của
chúng ta  (x. Ep 2,14; 2Cr 5,18). Người kiến tạo hòa bình, theo mối phúc của Đức
Kitô, là người tìm kiếm thiện ích cho người khác, thiện ích trọn vẹn nơi linh
hồn và trong thân xác, hôm nay cũng như mai sau.

Từ lời dạy này, người ta có thể suy ra rằng, mỗi người và mỗi công đoàn, cho dù thuộc về tôn giáo, nền giáo dục và văn hóa nào đi nữa, tất cả đều được mời gọi để lao tác cho hòa bình. Hòa bình là một sự thành tựu những thiện ích nơi một xã hội trong mọi mức độ khác nhau, ở mức độ cơ sở, trung cấp, quốc gia, quốc tế và toàn cầu. Rõ
ràng, vì lý do này con đường để đạt đến thiện ích chung cũng chính là con đường
phải đi trong việc theo đuổi hòa bình.

Người kiến tạo hòa bình là người yêu mến, bảo vệ và thăng tiến sự sống trong sự toàn vẹn của nó

4. Con đường đạt đến thiện ích chung và hòa bình trên hết cần phải tôn trọng phẩm giá con người trong mọi chiều kích, bắt đầu từ khi thụ thai, thông qua sự phát triển cho đến cái chết tự nhiên của nó. Người kiến tạo hòa bình đích thực phải là người yêu mến, bảo vệ và thăng tiến sự sống con người trong sự toàn vẹn của nó, cá nhân, cộng đoàn và siêu việt. Sự sống trong ý nghĩa trọn vẹn nhất chính là đỉnh cao của hòa bình. Bất cứ ai yêu mến hòa bình thì không thể xem nhẹ những tấn công và tội ác chống lại sự sống.

Những ai không tôn trọng sự sống con người, và hệ quả là, trong số những điều khác, cổ võ việc tự do phá thai, những người này không nhận ra rằng, khi làm như vậy, họ đang theo đuổi một thứ hòa bình giả tạo. Sự chối bỏ trách nhiệm, hạ thấp phẩm giá con người, và thậm chí giết chết những trẻ em vô tội và không có khả năng tự vệ, sẽ
không bao giờ có thể đem lại hạnh phúc và bình an. Thực vậy, làm sao một người
có thể tuyên bố mình đang kiến tạo hòa bình, mang lại sự phát triển toàn diện
cho con người hay bảo vệ môi trường trong khi không bảo vệ những con người yếu
thế nhất, những con người chưa cất tiếng khóc chào đời. Mọi xúc phạm chống lại
sự sống, đặc biệt trong giai đoạn đầu của nó, sẽ gây ra những thiệt hại không
thể sửa chữa được cho sự phát triển, hòa bình và môi trường. Người ta không chỉ
khôn khéo đưa vào luật những quyền và những thứ tự do giả tạo mà, dựa trên nền
tảng của quan điểm giản lược và tương đối về con người, họ còn khéo léo sử dụng
những diễn tả mập mờ nhắm đến việc thăng tiến quyền ủng hộ việc phá thai và
chết êm dịu. Những mánh khóe đó đang đe dọa quyền cơ bản của sự sống.

Cũng cần phải nhìn nhận và thăng tiến cơ cấu tự nhiên của gia đình, là sự kết hợp của một người nam và một người nữ, chống lại những toan tính đồng hóa về mặt pháp lý cơ cấu tự nhiên này với những hình thức hoàn toàn khác biệt; những nỗ lực đồng hóa như thế thực sự làm thương tổn và góp phần làm xáo trộn nền tảng của hôn nhân, che
khuất bản chất đặc biệt và làm lu mờ vai trò của nó trong đời sống xã hội.

Những nguyên lý này  vốn không phải là những chân lý đức tin, và nó cũng không đơn thuần là kết quả của quyền về tự do tôn giáo. Chúng được ghi khắc trong bản chất con người, có thể tiếp cận bởi lý trí và chung cho tất cả mọi người. Do đó, những nỗ lực của Giáo hội để thăng tiến chúng không mang đặc nét của niềm tin, nhưng muốn ngỏ
lời với tất cả mọi người, không kể nguồn gốc tôn giáo của họ. Những nỗ lực như
thế càng cần thiết hơn khi những nguyên lý này bị khước từ hay hiểu lầm, vì
điều này tạo nên một sự xúc phạm chống lại chân lý về con người, và gây nên một
thiệt hại nghiêm trọng cho công lý và hòa bình.

Một phương thế quan trọng khác để kiến tạo hòa bình là các hệ thống pháp luật và việc thực thi công lý nhìn nhận quyền được sử dụng nguyên tắc phản kháng lương tâm trước những luật lệ và biện pháp của chính quyền chống lại phẩm giá con người như phá thai và làm cho chết êm dịu. Cũng liên quan đến hòa bình thế giới, một trong những quyền nền tảng của con người là quyền của cá nhân và cộng đoàn đối với tự do
tôn giáo. Vào thời điểm này của lịch sử, điều có tầm quan trọng khẩn thiết là
phải thăng tiến quyền này, không chỉ từ khía cạnh tiêu cực, nghĩa là tự do khỏi – ví dụ, khỏi những ràng buộc và những giới hạn liên quan đến việc chọn lựa tôn giáo – nhưng còn ở khía cạnh tích cực, trong những diễn tả khác nhau của nó, nghĩa là tự do để, ví dụ, tự do để làm chứng và loan báo, thực hiện những hoạt động giáo dục và từ thiện, hiện hữu và hành động như một tổ chức xã hội hợp với những nguyên lý học thuyết và mục đích của nó. Đáng buồn thay, tình trạng áp bức tôn giáo vẫn gia tăng kể cả ở những nước có truyền thông Kitô giáo lâu đời, đặc biệt liên quan đến Kitô giáo và những người mang những dấu hiệu nói lên căn tính tôn giáo của mình.

Những người kiến tạo hòa bình cũng cần nhớ rằng, trong sự phát triển của quan điểm công chúng, những ý thức hệ về tự do cực đoan và chế độ kỹ trị đang cố gắng thuyết phục người ta rằng sự phát triển kinh tế nên được theo đuổi kể cả khi nó phương hại đến trách nhiệm xã hội của một quốc gia và những mạng lưới liên đới của xã hội dân sự, cũng như các quyền và nghĩa vụ mang tính xã hội. Nên nhớ rằng, các quyền và
nghĩa vụ này vốn là nền tảng để hiện thực hóa những quyền và nghĩa vụ khác,
khởi đi từ những quyền dân sự và chính trị.

Một trong những quyền và nhiệm vụ cơ bản nhất đang bị đe dọa trong thế giới ngày nay là quyền làm việc. Lý do là vì sự thừa nhận quyền lợi về tình trạng pháp lý của công nhân đang không ngừng bị xem nhẹ. Vì sự phát triển kinh tế được xem là một yếu tố phụ thuộc hoàn toàn và chính yếu vào những thị trường tự do. Trong khi đó, lực lượng lao động bị coi là một biến số phụ thuộc vào cơ chế kinh tế và tài chính.
Liên quan đến điều này, tôi xác nhận rằng phẩm giá con người và các yếu tố kinh
tế, chính trị và xã hội, đòi hỏi chúng ta tiếp tục “ưu tiên mục tiêu tạo ra việc làm ổn định cho mọi người” [4]. Để thực hiện được mục tiêu đầy tham vọng này, điều kiện tiên quyết là phải đổi mới cái nhìn về lao động, dựa trên những nguyên tắc đạo đức và những giá trị tinh thần vốn xem khái niệm lao động là một thiện ích cơ bản đối với cá nhân, gia đình và xã hội. Điều này đòi phải nghiên cứu và thực hiện những chính sách can đảm và mới mẻ để mọi người có công ăn việc làm.

Xây dựng thiện ích hòa bình ngang qua một mô hình mới về phát triển và kinh tế

5. Ngày nay, ở nhiều nơi người ta thấy cần một mô hình phát triển mới, cũng như một cách thế tiếp cận mới đối với lĩnh vực kinh tế. Sự phát triển bền vững và hội nhất trong tình liên đới và thiện ích chung đòi hỏi một bậc thang đúng đắn về giá trị và thiện ích, một cấu trúc nhìn nhận Thiên Chúa như là điểm tham chiếu tối hậu của mình. Việc sẵn có các phương tiện và chọn lựa cho dẫu là một điều tốt nhưng chưa đủ. Sự đa dạng các thiện ích cổ võ sự phát triển cũng như sự sẵn sàng của những chọn lựa khác nhau phải được sử dụng nhắm đến việc đảm bảo cho một đời sống tốt, một cách hành xử đúng đắn vốn ý thức về vị trí ưu việt của giá trị thiêng liêng và lời mời gọi lao
tác cho thiện ích chung. Nếu không chúng sẽ đánh mất đi ý nghĩa đích thực của
mình, và cuối cùng là trở nên những thứ ngẫu tượng mới.

Để có thể thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài kinh tế và tài chính hiện nay – vốn đưa đến sự bất bình đẳng ngày càng lớn hơn – chúng ta cần những con người, nhóm người và các thể chế thăng tiến sự sống, cổ võ cho sự sáng tạo của con người. Họ có thể rút ra từ
chính cuộc  khủng hoảng này một cơ hội nhận định và tìm kiếm một mô hình kinh tế
mới. Mô hình kinh tế thịnh hành trong những thập niên gần đây thường tìm kiếm
lợi nhuận và tiêu thụ tối đa, dựa trên nền tảng của não trạng cá nhân và ích
kỷ, nhắm đến việc đánh giá con người chỉ dựa trên khả năng của họ trong việc
đáp ứng những đòi hỏi của cạnh tranh. Nhưng xét trên một quan điểm khác, sự
thành công đích thực và lâu dài chỉ đạt được ngang qua món quà là chính chúng
ta. Vì bên cạnh khả năng tri thức và kỹ năng nghề nghiệp, sự phát triển kinh tế
nhân bản đích thực và “sống động” còn đòi hỏi nguyên tắc nhưng không và lô-gích
của quà tặng hiểu như cách biểu lộ tình huynh đệ [5]. Cụ thể, trong lĩnh vực kinh tế, người kiến tạo hòa bình là người thiết lập nên mối dây công bình và tương trợ lẫn nhau nơi các công ty, công nhân, khách hàng và người tiêu thụ. Họ dấn thân vào hoạt động kinh tế vì thiện ích chung. Họ kinh nghiệm sự dấn thân này như là một điều gì
đó vượt lên trên lợi ích cá nhân mình, vì lợi ích của các thế hệ hiện tại và
tương lai. Thực thế, họ làm việc không chỉ cho bản thân, nhưng còn để đảm bảo
cho người khác có tương lai và một công việc xứng đáng.

Trong lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là các quốc gia cần đưa ra các chính sách phát triển nông nghiệp và công nghiệp quan tâm đến sự thăng tiến xã hội và phát triển của các quốc gia lập hiến cũng như dân chủ. Việc tạo ra các cấu trúc đạo đức cho thị trường tiền tệ, tài chính và thương mại cũng là một yếu tố nền tảng và không thể bỏ qua;
những hệ thống này cần được ổn định, phối hợp và kiểm soát tốt hơn để tránh
phương hại đến những người nghèo.

Người kiến tạo hòa bình cũng cần phải tập trung vào cuộc khủng hoảng lương thực, vốn còn nghiêm  trọng hơn cuộc khủng hoảng tài chính. Vấn đề an toàn lương thực luôn là vấn đề trọng yếu của các chính sách quốc tế, như một hệ luận của các cuộc khủng hoảng, vấn đề gia tăng đột biến trong giá cả của các lương thực thiết yếu, những hành vi thiếu trách nhiệm của một vài tổ chức kinh tế, và về phần mình, các chính
phủ và các tổ chức cộng đồng quốc tế thiếu sự kiểm soát cần thiết. Để đối diện
với cuộc khủng hoảng này, những người kiến tạo hòa bình được mời gọi làm việc
với nhau trong tinh thần liên đới, từ mức độ địa phương tới cộng đồng quốc tế,
với mục đích là giúp người nông dân, đặc đặc biệt cho những nông dân nhỏ bé,
thực hiện các công việc của mình trong một cách thức cao quý và bền vững xét từ
quan điểm kinh tế, môi trường và xã hội.

Giáo dục một nền văn hóa hòa bình: vai trò của gia đình và các thể chế

6. Tôi mạnh mẽ xác nhận rằng những người kiến tạo hòa bình được mời gọi để nuôi dưỡng một lòng khao khát dành cho thiện ích chung của gia đình và công bình xã hội đồng thời dấn thân một cách hiệu quả vào lãnh vực giáo dục xã hội.

Không nên phớt lờ hay đánh giá thấp vai trò tiên quyết của gia đình, vốn là tế bào nền tảng của xã hội xét từ quan điểm nhân khẩu học, đạo đức, kinh tế, giáo dục và văn hóa. Ơn gọi tự nhiên của gia đình là thăng tiến đời sống: Gia đình đồng hành với mỗi cá nhân cho đến khi họ trưởng thành và khuyến khích một sự phát triển hỗ tương và
phong phú ngang qua sự chăm sóc và sẻ chia. Cụ thể, gia đình Kitô giáo phục vụ
như là một vườn ươm cho sự trưởng thành của cá nhân theo tiêu chuẩn tình yêu
Thiên Chúa. Gia đình là một trong những chủ thể xã hội không thể thay thế được
trong việc đạt được một nền văn hóa hòa bình. Quyền của các bậc cha mẹ và vai
trò chính yếu của họ trong giáo dục con em mình trong lĩnh vực luân lý và tôn
giáo phải được bảo vệ. Chính trong gia đình mà những con người kiến tạo hòa
bình tương lai, những người thăng tiến nền văn hóa tình yêu và sự sống, được
sinh ra và được dưỡng dục. [6]

Các cộng đoàn tôn giáo cũng dấn thân trong một cách thế đặc biệt trong nhiệm vụ giáo dục hòa bình. Giáo hội tin rằng mình đang chia sẻ trách nhiệm lớn lao này ngang qua sứ mạng Tân Phúc Âm Hóa vốn đặt trọng tâm vào trong việc hoán cải để đến với chân lý và tình yêu của Đức Kitô và, kết quả là sẽ dẫn đến một cuộc tái sinh về luân lý và thiêng liêng nơi các cá nhân và cộng đoàn xã hội. Việc gặp gỡ Đức Kitô khuôn
đúc nên những con người kiến tạo hòa bình, những con người biết dấn thân cho
cộng đồng và vượt qua mọi bất công.

Các thể chế văn hóa, trường học và các trường đại học có một sứ mạng đặc biệt về giáo dục hòa bình. Họ được mời gọi để đưa ra những đóng góp quý giá không chỉ ngang qua việc huấn luyện các thế hệ lãnh đạo tương lai, nhưng còn đổi mới các thể chế công cộng, ở cấp độ quốc gia cũng như quốc tế. Họ có thể góp phần vào những phản tỉnh mang tính khoa học vốn sẽ là nền tảng cho các hoạt động kinh tế và tài chính dựa
trên một nền tảng nhân học và đạo đức vững chắc. Thế giới hôm nay, đặc biệt là
thế giới chính trị, cần được hỗ trợ bởi một lối tư duy mới và một sự tổng hợp
văn hóa mới để có thể vượt qua những phương pháp tiếp cận thuần kỹ thuật và hòa
hợp những khuynh hướng chính trị khác nhau với quan điểm về thiện ích chung.
Thiện ích chung, được xem như là một toàn thể những mối tương quan liên vị tích
cực và có tính cơ cấu trong việc phục vụ cho sự phát triển hội nhất của các cá
nhân và nhóm, chính là nền tảng của một nền giáo dục hòa bình đích thực.

Một khoa sư phạm cho những người kiến tạo hòa bình

7. Cuối cùng, chúng ta thấy cần phải đề nghị và thăng tiến một khoa sư phạm về hòa bình. Điều này đòi hỏi một đời sống nội tâm phong phú, những quan điểm luân lý rõ ràng và giá trị, cùng với những thái độ và lối sống thích hợp. Những hoạt động kiến tạo hòa bình thường kéo theo những thành tựu về thiện ích chung; những hoạt động này tạo ra những lợi ích cho hòa bình và dưỡng nuôi nó. Những suy nghĩ, lời nói và cử chỉ hòa bình thường tạo ra một tâm thức và một nền văn hóa hòa bình cùng với một bầu khí tôn  trọng, yêu thương và thân ái. Vì vậy, cần dạy người ta biết yêu thương nhau, nuôi dưỡng hòa bình và sống cách nhân từ chứ không chỉ bao dung. Một sự khích lệ căn bản đối với thái độ sống này là “nói không với hận thù, nhận ra những
bất công và chấp nhận những lời xin lỗi cho dù không tìm kiếm nó, và cuối cùng
là biết thứ tha” [7]. Trong cách thức này, những lỗi lầm và những thù hận có thể được nhận ra trong chân lý, để cùng nhau đi đến sự hòa giải. Điều này cũng đòi hỏi phải không ngừng lớn lên trong khoa sư phạm tha thứ. Thực vậy, sự dữ chỉ có thể vượt qua nhờ sự thiện, và công bình chỉ có thể tìm thấy ngang qua việc bắt chước Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả con cái mình (xem Mt 5, 21-48). Đây chắc chắn là một tiến trình lâu dài, vì nó giả thiết một sự tiến triển thiêng liêng, một nền giáo dục về những giá trị cao quý và một cái nhìn mới về lịch sử nhân loại. Cũng cần biết từ bỏ thứ bình an giả tạo mà những ngẫu tượng thế gian hứa ban, cùng với những nguy hiểm luôn đi kèm với nó. Thứ bình an giả tạo này chỉ làm lu mờ lương tâm và đưa người ta đến một
lối sống ích kỷ và dửng dưng. Trái lại, khoa sư phạm về hòa bình ám chỉ đến
hoạt động, tình yêu thương, sự liên đới, lòng can đảm và sự kiên định.

Chính Chúa Giêsu là hiện thân cho tất cả thái độ sống này trong đời sống của Ngài, thậm chí Ngài đã tự hiến mình, đến nỗi từ bỏ chính mạng sống mình (xem Mt 13,39; Lc 17,33; Ga 12,25). Ngài đã hứa với các môn đệ rằng sớm muộn gì họ cũng khám phá ra những điều tuyệt diệu mà tôi đã nói ở trên, nghĩa là Thiên Chúa ở trong thế giới và
Thiên Chúa của Chúa Giêsu là Đấng luôn hiện diện với con người. Ở đây, tôi muốn
nhắc lại lời cầu nguyện, lời nguyện xin Thiên Chúa biến chúng ta thành những
khí cụ bình an của Ngài, để chúng ta có thể mang tình yêu đến nơi hận thù, đem
tình thương đến với người đau khổ, chân lý đức tin vào chốn lỗi lầm. Về phần
mình, chúng ta hãy cùng chân phước Gioan 23 cầu xin Thiên Chúa soi sáng cho các
vị lãnh đạo, để ngoài việc quan tâm đến lợi ích vật chất của dân tộc mình, họ
còn biết đảm bảo cho người dân món quà quý giá là sự bình an, phá vỡ những bức
tường chia cắt, đẩy mạnh mối dây yêu thương lẫn nhau, lớn lên trong sự hiểu
biết và sẵn sàng thứ tha cho kẻ làm hại mình. Nhờ đó, ngang qua sức mạnh và
thần hứng của Thiên Chúa, mọi người dân trên trái đất sẽ kinh nghiệm được tình
huynh đệ, và sự hòa bình mà họ hằng mong mỏi, sẽ nở hoa và cư ngụ giữa
họ. [8]

Với lời nguyện này, tôi muốn bày tỏ niềm hy vọng của mình rằng tất cả mọi người sẽ trở thành người kiến tạo hòa bình đích thực, nhờ đó thành đô của nhân loại sẽ lớn lên trong sự hòa hợp huynh đệ, trong thịnh vượng và hòa bình.

Từ Vatican 8 tháng 12 năm 2012

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

——————————————————————————————–

[1] Xem, Công Đồng Vaticano II, Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay, Gaudium Et Spes, số 1.

[2] Xem Thông điệp Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris), 11 tháng
4 năm 1963: AAS 55(1963), 265-266.

[3] Xem, Ibid.: AAS 55 (1963), 266.

[4] Biển Đức XVI, Thông Điệp Đức Ái Trong Chân Lý (29 – 06 -2009), 32: AAS 101 (2009), 666-667.

[5] Xem ibid, 34 và 36: AAS 101 (2009), 668-670 và 671-672.

[6] Đức Gioan Phaolo II, Sứ Điệp Nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới Năm 1994 (3 tháng 12 năm 1993) AAS 86 (1994), 156-162.

[7] Đức Thánh Cha Biển Đức, Bài Nói trong cuộc gặp với các thành viên chính phủ
Lenbanon (15 tháng 9 năm 2012) báo Quan Sát Viên Roma (16-9-2012), trang 7.

[8] Xem Thông điệp Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris), 11 tháng
4 năm 1963: AAS 55(1963), 304.

Maria Thanh Mai gởi

Người chuyển
dịch:

Minh
Triệu, S.J.

Nguồn:  RV

Lời Chủ Chăn Tháng 01/2013

Lời Chủ Chăn Tháng 01/2013

Tòa TGM Thành phố HCM

Mừng Xuân và Năm Quý Tỵ
(Hướng đến sống tròn đầy hồng ân đức tintrước những thách đố của xã hội hôm nay)
Thưa anh chị em, linh mục, tu sĩ,

giáo dân, trong gia đình giáo phận,

Mở. Hành trình 15 năm. Năm Quý Tỵ sắp đến, đánh dấu 15 năm tôi đồng
hành với gia đình giáo phận, chia sẻ vui buồn, lo âu và hy vọng với anh chị em
trong Thành phố. Nơi đó, một mặt, sau năm 1975, gia đình giáo phận cùng nhiều
người đã phải gánh chịu nhiều mất mát, mất của cải vật chất, mất những quyền tự
do của con người; mặt khác, hôm nay là thời tự do của kinh tế thị trường, tự do
cạnh tranh sinh tử, tự do chạy đua hưởng thụ duy vật chất. Những tự do đó vừa
mở đường cho sự phát triển kinh tế, vừa làm cho hố sâu phân cách giàu nghèo
ngày càng thêm sâu thẳm, làm cho đời sống tinh thần cùng phẩm vị con người ngày
càng bị sa mạc hóa, càng trở nên khô cằn. Mười lăm năm đồng hành với anh chị em
cũng là 15 năm hành trình đức tin của tôi với những nỗ lực không ngừng sống
theo Lời Chúa dạy cùng sự Khôn Ngoan của Ngài, nhằm đáp lại những thách đố gay
go của xã hội thành phố đông dân và đầy phức tạp này. Nhìn lại hành trình đó,
tôi muốn chia sẻ với anh chị em những cảm nhận từ lòng tin của mình.
1. Có Chúa luôn đồng hành. Mười lăm năm sống trong thành phố này,
nhờ ánh sáng đức tin, tôi cảm nhận Chúa Giêsu luôn đồng hành với chúng ta, như
sau khi phục sinh Ngài đã đồng hành với hai môn đệ làng Êmau cùng phục hồi niềm
tin và hy vọng của hai ông. Đồng hành với chúng ta, Chúa Giêsu Phục Sinh cũng
đã và đang giúp chúng ta vượt qua những mất mát, khổ đau, khó khăn trong cuộc
đổi đời, và mở rộng lòng đạo chia sẻ cho nhau hồng ân đức tin Chúa thương ban
cho mọi người. Vì thế, trước những thách đố của xã hội, tôi luôn trông cậy vào
Ngài, lắng nghe Lời Ngài và ghi tạc vào lòng, đưa ánh sáng Chân Lý cùng Tình
Yêu của Ngài vào trong suy nghĩ và hành động hàng ngày. Nhờ đó, trong gian
truân thử thách, tôi cảm nhận chính Chân Lý và Tình Yêu của Ngài luôn dẫn dắt
bản thân yếu kém của tôi vượt qua mọi nỗi sợ hãi hoảng hốt. Chính hồng ân đức
tin của Ngài giúp tôi kiên tâm cầu nguyện, từ tốn thi hành chức vụ, và lòng dạ
thanh thản phục vụ cho sự sống cùng phẩm vị của mọi người.
2. Có Chúa luôn dìu dắt. Thứ đến, tôi cảm nhận Thánh Thần của
Chúa Phục Sinh vẫn đang ban ơn canh tân đổi mới lòng trí và mở rộng tầm nhìn
của tôi, tăng thêm khả năng đáp lại những thách đố của xã hội thời kinh tế thị
trường. Vì thế tôi luôn cố gắng cộng tác với Ngài, dẫn dắt gia đình giáo phận,
không chạy theo cánh hữu hay cánh tả trong cuộc đấu tranh loại trừ nhau để tồn
tại, song dõi theo bước Chúa Giêsu yêu thương và phục vụ, khiêm tốn hòa nhập
vào truyến thống văn hóa, tìm nơi đó hạt mầm Lời Chúa, sử dụng những hạt mầm đó
xây đắp nền văn hóa sự sống và văn minh tình thương cho xã hội hôm nay. Tôi xác
tín đó là cách Chúa Giêsu cùng Giáo Hội của Ngài phục vụ cho Tin Mừng cứu độ,
và yêu thương mở đường cho mọi người đi đến nguồn sống mới trong Nước Chúa là
Nước chân thật, yêu thương và bình an.
3. Lấy tình yêu đáp trả tình yêu. Trước những thách đố của một xã hội luôn phải chống chọi với tình trạng bị phân hóa nhiều mặt, tôi nhận thấy rằng, nhờ sự dìu dắt của Chúa Giêsu và Thánh Thần của Ngài, cùng sự trợ lực của Thánh Maria và các thánh Tử Đạo Việt Nam, nhiều người trong gia đình giáo phận, thay vì khép mình trong bản năng tự vệ để sinh tồn và hưởng thụ, ngày càng mở rộng lòng nhân cùng lòng đạo, lấy tình yêu đáp trả tình yêu của Thiên Chúa đối với mọi người, người tin và người không tin, người thiện tâm  và người vô tâm, người giàu và người nghèo, cách riêng người lâm cảnh cùng khổ, sống bên lề xã hội.
4. Xây giếng nước đầu làng. Sau cùng, trong thành phố đông dân này, tôi nhận thấy rất nhiều người cần đến nguồn nước hằng sống của Chúa Giêsu để giải cơn khát thâm sâu của lòng mình, để sống xứng với phẩm vị làm người. Đối diện với nhu cầu đó, mọi người công giáo đồng trách nhiệm. Do đó, tôi cảm thấy có bổn phận tạo điều kiện cho mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn công giáo : – trở nên giếng nước đầu làng, nơi đó có Chúa Giêsu hiện diện và cung nguồn nước trong lành cho mọi người; – thứ đến là trở nên sứ giả Tin Mừng, chia sẻ niềm vui, niềm tin và hy vọng cho thân hữu cùng bà con láng
giềng. Trong khi thi hành nhiệm vụ mục tử đó, tôi vui mừng thấy có sự đồng tình
và hợp lực của hàng linh mục, các dòng tu, cùng các tổ chức giáo dân trong giáo
phận.
Kết. Nhân dịp Xuân về, chúng ta hãy hợp lòng chung lời tạ ơn Thiên Chúa là Cha giàu lòng từ bi nhân hậu, đã luôn yêu thương, chăm sóc, dẫn dắt gia đình giáo phận
vượt qua mọi khó khăn, đi đến nguồn sống mới là Chúa Giêsu Kitô. Cùng với tâm
tình cảm mến tạ ơn Thiên Chúa, tôi xin bày tỏ lòng chân thành biết ơn đối với
mọi người, mọi cộng đoàn, mọi tổ chức trong giáo phận. Cám ơn 15 năm trước đã
mở rộng lòng đón nhận tôi vào gia đình giáo phận. Cám ơn suốt 15 năm qua đã
chung sức thi hành sứ vụ phục vụ cho Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, và chung lòng mở
đường cho mọi người đi đến nguồn sống mới, nguồn sống dồi dào chan hòa ánh sáng
chân lý, yêu thương và bình an. Cám ơn và cầu chúc cho mọi gia đình, mọi cộng
đoàn, mọi tổ chức, Một Mùa Xuân an lành cùng Một Năm Mới đầy phúc thật.
Gioan B. Phạm Minh Mẫn

Hồng Y Tổng Giám mục

Maria Thanh Mai gởi