DI CHÚC

DI CHÚC

Rồi cũng có một ngày, bác sĩ sẽ nói với tôi rằng bộ não của tôi không còn khả năng hoạt động nữa, hay nói cách khác là cuộc đời tôi hầu như đã chấm dứt.

Khi điều đó xảy ra, xin đừng cố gán ghép một cuộc sống nhân tạo vào trong cơ thể tôi bằng tất cả những thứ máy móc đó.  Xin đừng gọi đó là “giây phút lâm chung” của cuộc đời tôi, mà hãy gọi đó là một khởi đầu của sự sống mới vì tôi sẽ góp tấm thân này để giúp những người khác có được một cuộc sống lành lặn hơn.

Hãy đem ánh sáng của tôi dâng tặng cho một người đàn ông chưa từng một lần nhìn thấy ánh nắng mặt trời, chưa bao giờ được thấy gương mặt dễ thương của trẻ thơ, và chưa từng nhìn thấy tình yêu trong đôi mắt của một người phụ nữ.

Hãy tặng trái tim của tôi cho một người luôn bị trái tim mình hành hạ bằng những cơn đau đớn triền miên.

Hãy truyền những giọt máu của tôi cho cậu bé đang thương tích đầy mình sau tai nạn giao thông kia để nó có thể sống cho tới ngày được nhìn thấy cháu chắt của mình.

Tôi sẽ hiến hai quả thận của mình cho những ai phải sống lần hồi qua ngày bằng chiếc máy chạy thận nhân tạo.

Hãy lấy xương của tôi, từng thớ thịt của tôi, và tất cả những sợi dây thần kinh này nữa nếu điều đó giúp cho những đứa trẻ tật nguyền có thể đi lại được.

Hãy nghiên cứu từng ngóc ngách trong bộ não của tôi.  Nếu cần thiết, hãy lấy cả các tế bào, đem phát triển chúng, thí nghiệm chúng để một ngày nào đó chúng có thể giúp cho một cậu bé câm có thể bật lên tiếng nói hay để một cô bé bị điếc có thể nghe thấy tiếng mưa rơi bên ngoài cửa sổ.

Nếu tôi có còn lại gì thì hãy đem thiêu tất cả rồi thả tro vào trong gió, biết đâu nhờ gió mang đi, chúng cũng giúp ích được gì cho những bông hoa xinh đẹp kia.

Nếu buộc phải đem chôn thứ gì đó của tôi, xin hãy chôn đi tất cả những tội lỗi, yếu kém, hay những định kiến mà tôi đã dành cho những người chung quanh.

Hãy đem tội lỗi của tôi đến cho quỷ dữ.  Đem linh hồn tôi đến cho Thượng đế.  Nếu như, dù chỉ tình cờ thôi, bạn muốn nhớ đến tôi, thì hãy thay tôi làm những điều tốt hay nói những lời yêu thương với những ai đang cần đến bạn.  Nếu bạn làm đúng tất cả những điều tôi đã dặn, thì tôi sẽ không bao giờ chết!

 

***********************************************

Lạy Chúa,

Đứng trước cái chết, con cũng run sợ như ai

Vì con chưa thấy sẵn sàng để gặp Chúa.

Cả cuộc đời con, con đã lo toan rất nhiều,

Nhưng điều quan trọng nhất là chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ ấy

Thì con lại chưa làm gì cả.

Con thật dại khờ khi nghĩ rằng con sẽ có đủ thời gian,

Con sẽ làm được điều đó bất cứ lúc nào con muốn.

Nhưng sự thật là con chưa bao giờ tự làm chủ được sự sống của mình

Làm sao con lại dám cho mình cái quyền làm chủ được sự chết?

Ngày nào đó con đến trước mặt Chúa

Không biết Chúa có nhận ra con hay không,

Hay là Chúa bảo “đi cho khuất mắt Ta, hỡi phường gian ác”

 

Lạy Chúa là Chúa Tạo Vật,

Con xin Chúa sự khôn ngoan

Để sống trọn vẹn giây phút hiện tại

Trong ân nghĩa của Chúa

Để rồi ngày nào đó con đi gặp Chúa,

Sẽ không như hai người xa lạ

Nhưng là hai người rất thân quen.

Lúc đó, Chúa sẽ gọi con bằng tên rất trìu mến

Và giang đôi tay đón con vào lòng.  Amen!

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

 

Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 3: Quốc vụ

Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 3: Quốc vụ

Dưới ánh sáng của nền Văn minh Trung hoa cổ đại: Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 3: Quốc vụ.

QUỐC VỤ

Thiên này, đi sâu vào giảng giải: Cốt lõi của phép trị nước – Đó là, phải thương dân.

Người đứng đầu Đất Nước, phải lo toan cho Dân: Phải bảo vệ, quyền lợi hợp pháp của họ – Phải giúp họ, biến ước mơ, thành hiện thực – Không bao giờ, dồn họ, vào bước đường cùng – Không được bóc lột họ, 1 cách nặng nề – Làm cho Dân, có cuộc sống hạnh phúc – Không được chọc giận, để họ, nổi khùng lên.

Ở Việt nam, người thấu hiểu đạo lý này nhất, có lẽ, là Đức Thánh Trần. Trước lúc lâm chung, Cụ còn thiết tha, dặn lại vua Trần: “Khoan thư sức dân. Đó là kế, sâu rễ – bền gốc. Là thượng sách, để giữ nước”.

国务

文王问太公曰:愿闻为国之大务,欲使主尊民安,为之奈何? Văn vương vấn Thái công viết: “Nguyện văn vi quốc chi đại vụ. Dục sử chúa tôn, dân an, vi chi nại hà?”

Văn vương hỏi Thái công: “Xin Tiên sinh, giảng giải, những nét đại cương, về phép trị nước. Muốn Vua – Chúa, được dân chúng tôn trọng. Còn dân chúng, được an cư – lạc nghiệp. Ta phải làm thế nào?”

太公曰:爱民而已! Thái công viết: “Ái dân nhi dĩ”.

Thái công trả lời : “Đại vương, hãy yêu thương dân chúng của mình. Thế là đủ”.

Sông, có nguồn – Cây, có cội. Rừng, bị tàn phá. Sông, thiếu đi nguồn cung – tất kiệt. Đất, bị khô hạn và không được bón phân. Cây, không hút được dinh dưỡng – tất khô. Để có được, dòng sông nước đầy ăm ắp – Người ta, phải chăm sóc rừng đầu nguồn. Để có được, thân cây cường tráng – Người ta, phải chăm tưới nước và bón phân cho nó.

Tự cổ – chí kim, thể chế nào cũng phải, “Lấy Dân làm gốc”. Nhà nước nào sống được, cũng phải dựa vào Dân. Dân cung cấp sức người – sức của cho Nhà nước. Dân cung cấp nhiều, Nhà nước tất mạnh. Sức Dân kiệt, Nhà nước tất nguy. Thương yêu và chăm sóc dân chúng, đó là cách, để bậc Đế vương, thể hiện Đức – Hạnh của mình. Thương yêu và chăm sóc dân chúng, cũng là cách, để nuôi dưỡng nguồn thu. Nó giống như, chăm sóc rừng đầu nguồn – giống như, tưới nước và bón phân cho cây vậy.

Trong đám dân chúng: Người giàu, ví như, con suối lớn. Người tài, khác gì, thứ dinh dưỡng thượng hạng. Khơi được 2 nguồn này, Đất nước tất mạnh. Không khơi được 2 nguồn này, Đất nước tất suy.

Tưởng Giới Thạch, sau khi thăm Liên xô, ông nhận thấy: Những người CS, họ rất ghét người giàu và đố kị với người tài (2 động lực chủ yếu, để thúc đẩy sự phát triển của xã hội). Do đó, ông kiên quyết chống lại chủ trương: “liên Nga – liên cộng – phù trợ công nông” của Tôn Trung Sơn. Ông, lãnh đạo Trung hoa Dân quốc, theo cách riêng của mình. Sự phát triển vượt bậc của Đài loan và sự ì ạch của Trung hoa đại lục ngày nay, minh chứng, cho viễn kiến của ông.

Những người CS Việt nam, họ chủ trương: “Trí – Phú – Địa – Hào, đào tận gốc – trốc tận rễ”. Chẳng cần nói, ta cũng biết, tương lai “tươi sáng” của một chủ trương sai lầm.

文王曰:爱民奈何?Văn vương viết : “Ái dân nại hà?”

Văn vương hỏi: “Yêu dân, được đánh giá, theo những tiêu chí nào?”

太公曰:利而勿害, Thái công viết: “Lợi nhi vật hại”

Thái công trả lời: Hãy làm lợi cho dân và tiêu diệt sạch sẽ, những gì, có thể hại họ.

Vì quyền lợi của dân chúng, phải thanh lọc bộ máy lãnh đạo. Không để ở đó, những loại vô tài – thất đức. Chúng, chỉ giỏi hại Dân – hại Nước. Hãy chăm sóc môi trường, để người dân, không phải sống, trong cảnh ô nhiễm. Hãy kiểm soát gắt gao, để người dân, không phải dùng, thực phẩm độc hại. Hãy tạo ra quỹ nhà ở dồi dào, để ai cũng có thể, có nơi ăn – chốn ở tử tế. Hãy cải cách, để người dân, không bị, 1 rừng hủ tục hành chính hành hạ. Hãy thông thoáng luật – lệ, để người dân, có thể tự do làm ăn và thỏa sức sáng tạo. Hãy triệt bạo – ngược, để người dân, được sống, trong 1 xã hội thanh bình.

成而勿败. Thành nhi vật bại.

Tạo điều kiện, để người ta thành công. Đừng để người ta thất bại.

Giáo sư Ngô Bảo Châu, đã thành danh. Nhưng, đâu phải, trên quê hương của mình. Nếu, ở lại Việt nam: Ông, chắc gì, đã hơn Lê Bá Khánh Trình. Cũng lại, mòn đũng quần ở giảng đường. Tối – ngày, đi dạy thêm và tướt bơ, với ngày 2 bữa ăn. Sao, có thể, nên cơm – thành cháo được.

Trần Quốc Hải, đam mê, chế tạo trực thăng. Ông không được, nhà nước CS, động viên và khuyến khích. Họ ngăn cấm, thậm chí, giam cầm máy bay của ông. Thật chua xót, con dân Đất Việt, chỉ biết đến ông, nhờ người…Campuchia. “Nước bạn, kêu tôi sang làm khoa học. Họ cấp nhà đất, xe cộ, bảo đảm kinh tế. Mình, chỉ cần, chuyên tâm sáng tạo”. So sánh, 2 Nhà nước, 2 cách đãi ngộ, ta sẽ hiểu: Tại sao, Campuchia, từng bước đuổi kịp và sẽ vượt Việt nam , trong 1 tương lai không xa. Campuchia, còn chưa chắc, đã ăn đứt được họ. Mơ làm gì, đến những chuyện cao sang. Tỉ như: “Dân tộc Việt nam, sẽ bước tới đài vinh quang,để sánh vai với các cường quốc 5 châu”.

生而勿杀. Sinh nhi vật sát.

Tạo điều kiện, cho người ta sinh tồn. Đừng triệt đường sống của họ.

Đừng cướp, ruộng đất của nông dân. Khiến họ, mất sạch tư liệu sản xuất. Mất tư liệu sản xuất, nông dân sẽ bị, dồn đến bước đường cùng. Bị, dồn đến bước đường cùng, dẫu chỉ có, cuốc – thuổng – gậy gộc – súng hoa cải, người ta, cũng không ngần ngại, mà nã thẳng vào đầu của nhà cầm quyền.

Thế gian, có 3 điều, không nên cưỡng ép:

Khẩu vị. Sư ông ăn chay. Nhưng, chẳng thấy sư nào, bắt đệ tử, không được ăn mặn.

Tình cảm. Con trẻ, nó thương yêu ai, hãy tôn trọng, sự lựa chọn của chúng. “Ép dầu – ép mỡ. Ai nỡ ép duyên”.

Đức tin. Thế gian, có nhiều Tôn giáo. Tôn giáo nào, cũng tốt. Bởi, nó dạy con người ta, sống thiện. Hãy để, các Tôn giáo, sống hài hòa với nhau. Mình không thể, vì thích Phật giáo, mà bắt, tất cả mọi người, ai cũng phải thờ Phật và triệt, tất cả các tôn giáo còn lại. Mình không thể, vì thích lí tưởng CS, mà cưỡng ép toàn dân. Bắt họ, phải đi theo, cái lí tưởng ấy. Ai không theo, vu cho là phản động và tìm mọi cách để tiêu diệt.

与而勿夺. Dữ nhi vật đoạt.

Trong điều kiện có thể, hãy phổ thi ân huệ. Đừng tùy tiện, cưỡng đoạt.

Trên đời, bọn lục lâm – thảo khấu, chúng thường trương biển: “Đi cướp của nhà giàu, để chia cho người nghèo”. Vì, chúng còn biết ngượng, để che bớt đi, bản chất “đầu trộm – đuôi cướp”. Dẫu, thật sự, có chia của ăn cướp, cho người nghèo. Chúng, cũng khó mà được, sự ủng hộ của quần chúng. Trên cả bọn lục lâm – thảo khấu, là những băng đảng Mafia. Cướp được ruộng đất của Địa chủ. Chúng, chẳng hề, đem chia cho những người, cùng đi ăn cướp với chúng. Đã thế, đất đai – ruộng vườn – nhà cửa của họ, chúng lại trấn lột tiếp, để vơ hết cả vào lòng. Như thế, là táng tận lương tâm – là tận cùng của sự khốn nạn.

乐而勿苦. Lạc nhi vật khổ.

Làm cho người ta, an cư – lạc nghiệp. Đừng làm họ khổ.

Hạnh phúc, chỉ có ở những người: “Sáng, họ khát khao tới nơi làm việc.Vì, họ say mê, công việc của mình – Tối, họ khát khao trở về nhà. Vì, họ yêu quý, gia đình của mình”. Hãy giúp Dân: Để họ, có được 1 tổ ấm, đầy ắp tình thương. Con trẻ, được đến trường. Người già, ốm đau, được bệnh viện chăm sóc. Xã hội, an ninh và trật tự. Mọi người, ai cũng có, 1 công việc yêu thích và hợp với khả năng của mình. Nhà nhà Hạnh phúc, Đất nước, tự khắc bình yên.

Ai, đem Hạnh phúc, đến cho mọi người. Quần chúng, sẽ tôn trọng, biết ơn và ủng hộ người đó.

喜而勿怒. Hỉ nhi vật nộ.

Làm cho người ta vui vẻ. Thay vì, khích nộ họ.

Tôn Tử, có viết 1 câu, trong Binh pháp của mình: 故杀敌者,怒也. Cố sát địch giả, nộ dã (thiên Tác chiến). Nghĩa là: Muốn binh lính hết sợ và hăng say giết địch – Bằng mọi cách, phải làm cho họ tức giận.

Ai cũng biết: “No thì mất ngon – Giận thì mất khôn”. Quần chúng, ai chẳng sợ cường quyền. Bởi, ai cũng biết, thịt da nào, rắn bằng sắt – thép. Muốn làm Cách mạng, phải làm cho họ, hết sợ địch. Muốn, làm cho họ, hết sợ địch, không gì hiệu quả hơn, đó là khích nộ họ.

Còn gì, có thể ngu hơn, khi chính ta, khích nộ quần chúng. Để, họ coi thường và chẳng còn sợ ta nữa.

Mùa Xuân Ả Rập”, là 1 ví dụ. Nó được bắt đầu, bởi: Quan lại thì tham nhũng. Còn Cảnh sát, hống hách và ngược đãi dân lành. Mohamed Bouazizi, chỉ là 1 chàng trai, đi bán hàng rong, thật thà và chất phác. Ngọn lửa tự thiêu của Anh, thổi bùng lên, ngọn lửa căm giận của quần chúng, đối với chế độ độc tài. Quần chúng, vùng lên. Và ngọn lửa của “Mùa Xuân Ả Rập”, ít nhất, đã thiêu rụi 3 chế độ độc tài, tại Tunisia, tại Ai Cập và tại Libya.

Những người CS, nên nhìn vào những tấm gương ấy, mà chùn tay lại. Và nên, dõi mắt sang Miến điện, để học và làm theo cách của họ.

文王曰:敢请释其故! Văn vương viết: “Cảm thỉnh thích kì cố”.

Văn vương nói : “Xin Tiên sinh, giải thích từng mục”.

太公曰:民不失务则利之;农不失时则成之;省刑罚则生之;薄赋敛则与之. 俭宫室台榭则乐之,吏清不苛扰则喜之。Thái công viết: “Dân bất thất vụ, tắc lợi chi. Nông bất thất thời, tắc thành chi. Tỉnh hình phạt, tắc sinh chi. Bạc phú liễm, tắc dữ chi. Kiệm cung thất đài tạ, tắc lạc chi. Lại thanh, bất hà nhiễu, tắc hỉ chi”

Thái công trả lời: “Người dân, không lỡ vụ, họ sẽ được lợi. Nhà nông, không lỡ thời, thì bội thu. Giảm đi số tội danh, bớt đi phần hình phạt, đó là, mở cho dân, con đường sống. Nhẹ thuế – ít phí, là đã cho dân rồi. Bớt xây lâu đài – ít xây trụ sở, người dân, ắt mừng rỡ. Quan lại thanh liêm – không hà khắc – không nhũng nhiễu, dân chúng, mới được yên vui”

民失其务则害之;Dân thất kì vụ tắc hại chi

Doanh nghiệp, nhập nguyên – phụ liệu, để may quần áo mùa hè. Nếu, hành người ta, mà giữ lại. Hết hè, mới trả. Tuy hàng hóa, không bị hỏng hóc gì. Nhưng lỡ vụ, cũng có thể, khiến người ta sạt nghiệp.

农失其时则败之;Nông thất kì thời tắc bại chi.

Nhà nông, không được mưa thuận – gió hòa, mùa màng chắc thất thu.

无罪而罚则杀之. Vô tội nhi phạt tắc sát chi

Vô tội, mà vẫn bắt người ta vào tù. Sau đó, vì không có chứng cớ xác đáng. Nên, không dám, đưa ra xét xử công khai. Dấm dấm – dúi dúi, như lũ trộm đêm – như loài gián đất, sợ ánh sáng mặt trời. Trước tòa, lí luận, không lại được với người ta. Nên, phải dùng bài cùn: Che miệng bị cáo – Bịt mồm luật sư. Định án tùy tiện – Bất cần Luật pháp. Khiến người dân, hàm oan. Việc đó, quá bằng giết người ta.

重赋敛则夺之;Trọng phú liễm tắc đoạt chi.

Thuế và phí, chủng loại thì nhiều. Đã thế: Thuế – chồng lên thuế. Phí – chồng lên phí. Bóc lột dân chúng, 1 cách thậm tệ. Thế gian này, chỉ có lũ cướp ngày, chúng mới hung hăng và táo tợn, để làm như thế.

Hết tiền và có thể vỡ nợ, vào bất cứ lúc nào. Những người CS, chỉ có mỗi cách: tăng thuế. Trước mắt, họ sẽ tăng thuế, đánh vào rượu – bia – thuốc lá. Họ nại ra rằng: Các nước khác, thuế đánh vào những mặt hàng này, rất nặng. Theo logic ấy, tới đây, CS cũng sẽ phải giảm thuế xăng – dầu và ô tô, cho bằng với thông lệ của Quốc tế. Không làm được việc ấy, chứng tỏ: Tất cả lí do, mà họ đưa ra, đều chỉ là ngụy biện. Thực chất, họ đang cố tình, móc túi dân lành. Đâu phải, chỉ dừng lại, ở rượu – bia – thuốc lá. Tương lai, còn nhiều thứ, sẽ bị tăng thuế. Dân lành, sẽ có dịp, “thể hiện lòng yêu nước”, cho đến đồng xu cuối cùng. Chúng ta, hãy chờ xem.

多营宫室台榭以疲民力则苦之;Đa doanh cung thất, đài tạ dĩ bì dân lực tắc khổ chi

Thể chế, mà từ Vua – đến Quan, rặt 1 lũ “Mũi nhòm mồm”. Chúng, không chịu, lo làm – lo ăn. Chúng chỉ thích và đua nhau, xây thật nhiều Cung điện – xây thật nhiều Trụ sở – xây thật nhiều Nhà hát – bày ra thật nhiều, những cuộc vui chơi – tổ chức lia lịa, những “lễ kỉ niệm”. Để, ăn phần trăm và tiêu cho bằng sạch, những đồng tiền của Nhân dân. Chúng, ăn nhiều như thế – chơi nhiều như thế, còn đâu tiền, để xây bệnh viện cho Nhân dân – xây trường học cho con trẻ. Bà con, làm chi mà không khổ.

吏浊 苛扰则怒之. Lại trọc, hà nhiễu, tắc nộ chi

Quan lại hủ bại – hà khắc – nhũng nhiễu, thì dễ khích nộ dân chúng.

Thanh liêm, ai bằng ông Nông Đức Mạnh. Chính ông, phát động phong trào “Học tập và làm theo tấm gương Đạo đức của Hồ Chí Minh”. Thanh liêm như thế, cho nên, ông chỉ đủ tiền, mua 1 mảnh đất hết sức lớn và xây được mỗi căn nhà, đẹp như mơ. Bên bờ Hồ Tây, thơ mộng. Đạo đức, ai bằng ông Nguyễn Trường Tô. Chính ông, lên án nghiêm khắc, ông thầy hủ bại Sầm Đức Xương. Bởi, Sầm Đức Xương tổ chức đường dây và cung cấp học sinh của mình: Cho chúng, đi ngủ với quan trên. Đạo đức như thế, cho nên, ông chỉ chơi có vài cô, trong đường dây này. Thế thôi.

Luật nào, hà khắc bằng luật CS. Chỉ vì trò đùa, giật mũ của các bạn gái, 4 thiếu niên, ở Tiên lãng – Hải phòng, phải chịu, tổng cộng 94 tháng tù giam. Trong khi, cũng tại huyện ấy,những kẻ, khiến Đoàn Văn Vươn, “nhà tan – cửa nát”, vẫn nhởn nhơ, ngoài vòng pháp luật.

Doanh nhân nước ngoài, họ ghét và sợ phải đưa hối lộ lắm. Ở nước họ, đấy là trọng tội. Sang Việt nam, “tùy gia – nhập tục”. Họ, cũng phải đưa hối lộ, cho yên thân. Nhưng, họ làm khéo đến mức, cơ quan Thanh tra của chúng ta, dẫu “Giỏi nhất Thế giới”, cũng chẳng thể, tìm cho ra, dấu vết của bất kì 1 vụ, đưa hối lộ nào. Những vụ, bị phát hiện, tất thảy, đều do nước ngoài, họ làm hộ. Người nước ngoài, được chúng ta “trải thảm đỏ – mời đến, để đầu tư”. Vậy mà, còn bị sách nhiễu, đến mức phải “nôn tiền”. Người trong nước, nói đến làm chi, cho thêm sầu lòng.

故善为国者,驭民如父母之爱子,如兄之爱弟. Cố thiện vi quốc giả, ngự dân như phụ mẫu chi ái tử, như huynh chi ái đệ

Giỏi trị nước, phải biết thương Dân. Phải chăm sóc họ : “Như cha mẹ, chăm lo cho đửa con cầu tự – Như người anh, chăm lo cho đứa em bé bỏng, thân thương của minh”.

Giỏi trị quân, phải biết thương lính. Ngô Khởi, là 1 danh tướng, thời Chiến Quốc. Ông, thương yêu lính lắm. Cùng ăn – cùng ở – cùng chia xẻ, những khó khăn – nhọc nhằn với họ. Chuyện kể, có lần, ông đưa miệng, hút mủ ở vết thương của 1 người lính. Mẹ người lính, được tin, khóc ngất. Bởi, bà biết: Ông, thương lính một– Lính, sẽ kính trọng ông mười. Với 1 đội quân cha – con như thế, con bà, sau này, ắt sẽ vì chủ tướng, mà chết. Nó chết, bà biết nương tựa vào ai. Thương con – thương mình, bà không khóc, sao được.

Giỏi kinh doanh, phải khắc sâu trong lòng “Khách hàng là Thượng đế”. Bởi khách hàng và chỉ có họ, mới quyết định, sự sống – chết của doanh nghiệp. Do đó, phải thương yêu và tận tụy chăm sóc họ.

见其饥寒则为之忧, Kiến kì cơ hàn tắc vi chi ưu,

Dân chúng đói rét, minh Quân, thấy ưu tư. Còn lũ hôn Quân, vẫn vô tư. Đi cứu trợ, cho bà con bị thiên tai: Vẫn thấy chúng, quần là – áo lượt và cười toe toét, trước ống kính truyền hình.

见其劳苦则为之悲. Kiến kì lao khổ tắc vi chi bi.

Thấy công nhân, làm nhiều – ăn ít, đến nỗi teo cả cơ. Phải thấy xót thương – phải thấy day dứt. Phải xuống tận nơi, bắt bọn chủ Tư bản, đảm bảo quyền lợi cho công nhân. Không làm được việc ấy, hãy cúi gầm mặt xuống. Đỗ Thị Minh Hạnh, thay mình làm việc ấy. Không cảm ơn và ủng hộ, thì thôi. Mặt mũi nào, mà tống cô ta, vào tù.

赏罚如加于身. Thưởng phạt như gia vu thân .

Khi đặt ra mức thưởng, phải nghĩ rằng, những người đến nhận, chính là con cháu của mình. Nghĩ như thế, người ta, sẽ không thưởng 320.000 VND (tương đương 15 USD), chia đều, cho 3 nhân viên Bệnh viện Đa khoa Hoài Đức. Vì, họ đã dũng cảm, tố cáo vụ “Nhân bản phiếu xét nghiệm”.

Khi đặt ra mức phạt, phải nghĩ rằng, người chịu phạt, chính là bố mẹ của mình. Nghĩ như thế, người ta, sẽ không phạt 3 ông nông dân, tổng cộng 13 năm tù. Chỉ vì, họ ăn cắp, có 02 (hai) con vịt.

赋敛如取已物. Phú liễm như thủ kỉ vật

Muốn thu thuế và phí của dân , phải đặt mình, vào vị trí của họ. Người dân đóng thế nào, chính mình, cũng phải đóng như vậy. Người dân, bị hạch hỏi, từng đồng tiền mà họ kiếm được. Chính mình, cũng phải công khai, trả lời: Tiền đâu, mà cán bộ CS, ai cũng có nhà cao – cửa rộng. Con cháu họ, đứa nào, cũng được đi du học, ở phương trời Tây, xa vời.

Nghĩ được như thế, khi phạt Điếu cày – Lê Quốc Quân, mỗi người mấy năm tù, vì tội trốn thuế. Tất, phải sờ đến, ông Nông Đức Mạnh – ông Lê Khả Phiêu – ông Trần Văn Truyền … Với, khối tài sản nổi khổng lồ như thế, họ đã đóng, được bao nhiêu tiền thuế. Và, mức án nào, sẽ được dành cho họ?

此爱民之道也. Thử ái dân chi đạo dã

Thưa đại vương, đó là đạo ái dân. Là cốt lõi của phép trị Nước – an Dân.

Lời bàn

Chỉ có bậc minh Quân, mới có thể, hiểu được đạo Ái dân và vận dụng nó, 1 cách thành thạo. Chưa biết đến nó, nên ở lại nhà mình, để chăn gà, nấu cám heo và giặt giũ cho vợ. Chớ bén mảng, tới chốn quan trường. Ra đấy mà làm chi, cho Dân khổ – Nước suy. Ra đấy mà làm chi, cho mình thân bại – danh liệt. Đồng tiền kiếm được, chắc gì đã được tiêu. Nắm xương tàn, chắc gì, sẽ không bị quần chúng quật lên, để hạch tội.

Ở những thể chế Dân chủ: chính quyền, là của người Dândo ngườiDân bầu ra – Nhân Dân mà phục vụ. Những thể chế này, “lấy Dân làm gốc”. Bởi thế, người Dân, luôn được thương yêu và quý trọng.

Những thể chế độc tài: chính quyền, là của 1 cái đảng nào đó – do dùng vũ lực mà cướp được – đương nhiên, nó phải vì cái đảng đó, mà phục vụ. Những thể chế này, “lấy vũ lực làm gốc”. Bởi thế, lực lượng vũ trang, được cưng chiều. Quần chúng, chỉ được xếp ngang hàng, với nô lệ. Tâm tư – nguyện vọng của họ, không bao giờ, được nhà cầm quyền, đoái hoài. Rất dễ đoán biết, quần chúng, tin tưởng đến mức nào, đối với những thể chế này.

Viết đến đây, chợt nhớ lời, đại tướng CS Nguyễn Chí Thanh. Ông nói, thật chí lí: “Mất đất, chưa phải là mất nước. Chúng ta, chỉ sợ mất lòng tin của dân. Có lòng tin của dân, là có tất cả”. Hậu thế của ông, không làm được như vậy. Tình hình, rất tồi tệ, cho những người CS. Bằng chứng, chính ông cựu Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, đã phải thảng thốt kêu lên: “Bỏ điều 4, là tự sát”. Câu nói của ông Triết, buộc phải hiểu là: Nếu chấp nhận đa nguyên – đa đảng – bầu cử tự do và bình đẳng, vào ngay lúc này. Đảng CS Việt nam, sẽ bị Nhân dân Việt nam, phế bỏ ngay tức khắc.

Thông qua 1 ví dụ cụ thể, chúng ta hãy nhận chân, 2 cách ái Dân của 2 chế độ:

Cùng là lính, nhưng sinh mệnh của người lính Hoa kì, quý lắm. Họ, được đãi ngộ tốt, được bảo vệ và yểm trợ, đến mức tối đa. Họ chết, bằng mọi giá, chính phủ, cũng phải mang hài cốt của họ, về cho gia đình. Người chết, còn được đối xử như vậy. Người sống, nói đến làm gì.

Đối nghịch, là 64 chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt nam, ở đảo Gạc ma. Các Anh được lệnh, đứng yên, làm bia sống, cho lũ Trung cộng điên cuồng, xả súng giết hại. Đảng CS và nhà nước Việt nam, biết rất rõ, địa điểm hi sinh của các Anh, trên đất nước mình. Nhưng, hài cốt của các Anh, đâu đã được, đưa về cho người thân, cho gia đình và yên nghỉ nơi Đất Mẹ.

Không biết, do Việt cộng chủ trương: Xong việc rồi, không cần đến các Anh nữa, nên không tính chuyện, đưa các Anh về. Hay, do Trung cộng, chúng vô nhân đạo, nên không chịu trả lại, hài cốt các Anh. Những người CS, nên nhớ câu này:

Thương dân, dân lập đền thờ

Hại dân, dân đái ngập mồ, thối xương

Nguyễn Tiến Dân

Địa chỉ : 208 phố Định Công Thượng – quận Hoàng mai – Hà nội

Điện thoại : 0168-50-56-430

Xin xem lại các bài trước:

Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó (Bài mở đầu)

Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 1: Văn sư.

Chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam – Những bất cập và sự sụp đổ tất yếu của nó – Bài 2: Doanh hư

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam: Trung thành với Đức Tin

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam: Trung thành với Đức Tin

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

11/13/2014

Vào lúc 9 giờ sáng ngày 19.6.1988 tại Rôma, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc.Đây là con số tiêu biểu cho hơn 100 ngàn Vị Tử Đạo trong thời gian 300 năm Giáo Hội bị bách hại.

Trải qua sáu triều Vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Giáo Hội Việt Nam đã có hơn 100 ngàn Đấng Tử Đạo được ghi nhận trong sổ sách. Trong đó, có 58 Giám mục và Linh mục ngoại quốc thuộc nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ đào Nha, Hà Lan, Italia, 15 Linh mục Việt Nam, 340 Thầy Giảng, 270 Nữ tu Mến Thánh Giá, 99.182 Giáo dân. Đó là chưa kể con số rất đông các tín hữu bị chết mất tích trong các đợt bắt Đạo vì lưu đày, vì phải trốn tránh vào những nơi hẻo lánh.Đó là chưa kể rất nhiều tín hữu phải chết do cuộc Phân Sáp 400 ngàn người Công Giáo dưới triều Vua Tự Đức.Đó còn là chưa kể con số hơn mười mấy vạn người Công Giáo bị chết khi có Phong trào Văn Thân nổi lên tàn sát người Công Giáo…Như thế, con số Tử Đạo phải tính lên đến 300 ngàn người trong vòng 300 năm. Nếu tính theo tỷ lệ, 100 năm thì có 100 ngàn Vị Tử Đạo. Và theo tỷ lệ này, cứ một năm, có một ngàn Vị Tử Đạo; và đổ đồng, cứ một ngày, có hơn hai Vị Tử Đạo!

Đọc lại hạnh các Thánh Tử Đạo Việt Nam, tôi nhận thấy, các ngài can đảm phi thường, vì yêu mến Chúa Kitô nên coi nhẹ mọi cực hình đau đớn, một lòng trung thành giữ vững đức tin. Dòng máu tử đạo ấy đã trở thành những hạt giống Tin mừng, đem lại cho Giáo Hội Việt Nam những mùa gặt bội thu.

1.Trung thành với đức tin.

Đối với các Thánh Tử Đạo, Thiên Chúa là trên hết. Thiên Chúa là tất cả. Lập trường của các ngài là: “Thà chết chứ không thà bỏ đạo, bỏ Chúa”. Các ngài đã trung thành giữ vững đức tin trước mọi thử thách gian lao. Các ngài đã dám đánh đổi điều cao quí nhất là mạng sống của mình để làm chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa mà các ngài tôn thờ. Xin kể ra đây một vài chứng từ về lòng trung thành (x.Thiên Hùng Sử).

– Thánh Anê Thành, một người mẹ của 6 đứa con. Trong cơn đau đớn vì bị tra tấn đã nhắn nhủ cô con gái đến thăm người trong tù rằng: “Con chuyển lời mẹ nói với các anh chị em con : Hãy coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, đọc kinh sáng tối, dâng lễ mỗi ngày, cầu nguyện cho mẹ vác thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên Nước Thiên Đàng”. Lời sau cùng của bà là: “Giêsu Maria Giuse, con phó thác hồn con và thân xác con trong tay Chúa, xin ban cho con trọn niềm tin ở Chúa.”

– Thánh Luca Thìn, 39 tuổi, cai tổng. Người đã viết khi bị bắt bước qua thánh giá: “Tôi là một Kitô hữu. Tôi sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ”.

– Thánh Giuse Lựu, trùm họ Mặc Bắc (Vĩnh Long) đã tâm sự với một linh mục bạn tù rằng: “Xin cha cầu Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho con. Con sắp phải đi đày. Con xin trao cho Chúa tất cả mọi sự thuộc về con. Con bằng lòng dâng cho Người hy sinh lớn lao hơn hết là gia đình, vợ con của con”.

– Thánh Matthêu Gẫm, 34 tuổi, một thương gia giàu có, dù bị hành hạ, bị gông xiềng nhưng vẫn luôn bình tĩnh vui tươi. Ngài nói: “Tôi có ăn trộm, ăn cướp gì đâu mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm”.

– Thánh Laurensô Ngôn, 22 tuổi, một nông dân, đã trả lời khi các quan bắt ngài bước qua thánh giá: “Tôi giữ đạo tôn thờ Chúa tể trời đất. Thánh giá là phương thế Chúa dùng để cứu độ nhân loại. Tôi chỉ có thể tôn kính chứ không bao giờ chà đạp. Tôi sẵn lòng chịu chết vì đức tin vào Thiên Chúa của tôi”.

– Thánh Matthêu Phượng, trùm họ, đã nói với các con mình rằng: “Các con của cha ơi! Đừng khóc, đừng buồn làm chi vì cha đang gặp được vận hội may mắn”.

– Thánh Đaminh Ninh, 21 tuổi, nông dân, đã hiên ngang phát biểu: “Nếu làm con cái không được phép sỉ nhục cha mẹ mình, thì làm sao người Kitô hữu lại có thể chà đạp hình ảnh của Đấng tạo thành trời đất? Xin các quan thi hành điều các quan muốn. Còn tôi không bao giờ xúc phạm thập giá Chúa tôi đâu”.

– Thánh Phêrô Dũng yên ủi vợ: “Hãy vui mừng vì tôi được hy sinh mạng sống cho Chúa Kitô”.

– Thánh Emmanuel Phụng, trùm họ, trước khi bị siết cổ đã trao cho con gái một ảnh thánh giá và nói: “Con hãy nhận lấy kỷ vật của cha. Đây là ảnh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Ảnh này quí giá hơn vàng bạc bội phần. Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều con nhé”.

2. Can đảm phi thường.

Vì đức tin, các ngài đã phải chịu đủ mọi thứ cực hình dã man. Bị gông cùm, bị xiềng xích, bị nhốt trong cũi, bị đánh đòn, bị bỏ đói, bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng,bị chặt đầu, bị thắt cổ, bị thiêu sống, bị phân thây ra từng mảnh… Có 79 vị bị trảm quyết (bị chặt đầu); 18 vị bị xử giảo (bị thắt cổ); 8 vị chết rũ tù; 6 bị thiêu sinh; 4 bị lăng trì (phân thây ra từng mảnh); 1 bị tử thương và 1 bị bá đao.

-Lòng lang dạ sói của con người nghĩ ra mọi thứ hình phạt tàn ác, thật kinh hoàng sởn tóc gáy khi nghe kể về cái chết của Cha Cố Du theo kiểu bị xử bá đao: “Ngày 30.11.1835, họ chọn Thợ Đức làm pháp trường để xử ngài.Sáng sớm hôm đó, họ điệu ngài đến nơi hành hình. Bên một lò than đang cháy đỏ rực có 5 tên lính cầm 5 chiếc kìm sắt đã được nung đỏ.Nghe lệnh, cùng một lúc cả 5 tên kẹp kìm nung đỏ vào mình ngài kéo ra những miếng thịt khét lẹt.Họ vu cho ngài móc mắt trẻ con khi rửa tội. Làm điều ám muội khi cử hành lễ cưới và cho ăn thịt người khi rước lễ. Sau đó họ tiếp tục gây thêm những thương tích nữa cho đến khi ngài bất tỉnh thì họ mới hành quyết. Họ cột chân tay ngài vào cây cột. Hai bên lính cầm kìm chờ sẵn. Cha Du ngửa mặt lên trời cầu nguyện dâng mạng sống mình cho Chúa. Sau hồi trống báo hiệu, hai tên lính cầm kìm kẹp vào ngực ngài kéo ra 2 miếng thịt nơi vú liệng xuống đất, một tên lính khác cầm dao xẻo thịt phía sau hông, rồi đến bắp đùi thì chúng lấy kìm kéo ra rồi lấy dao xẻo đứt từng miếng… làm cha rất đau đớn. Không được bao lâu thì ngài ngất đi, đầu rũ xuống và ngài về chầu Chúa lúc 17g ngày 30.11.1835. Cha Du chết rồi bọn lính còn chặt đầu ngài cho vào một chiếc thùng đầy vôi, cởi trói lật xác úp xuống rồi phân thây ra từng khúc bỏ tất cả vào thùng vôi. Đầu ngài họ đem treo 3 ngày ở giữa chợ rồi xay nát, bỏ chung với thùng vôi đựng xác ngài đoạn quăng cả xuống biển cho mất tích”.

-Thánh Giám mục Xuyên, chân tay bị trói vào bốn cọc. Năm lý hình cầm 5 cái rìu, sẵn sàng nghe lệnh quan án sát. Vừa nghe lệnh, hai lý hình chặt hai chân, hai lý hình chặt hai tay, đến lượt lý hình thứ năm chặt đầu. Rồi họ mổ bụng ngài cắt lấy ruột gan.

-Hai Cha Điểm và Khoa bị trói chân tay vào cột, lý hình tròng dây vào cổ. Nghe hiệu lệnh, lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho đến khi hai vị nghẹt thở và lịm dần.

-Sáng ngày 5.6.1862, trước sự chứng kiến của rất đông người, hai giáo dân: Thánh Toại và Thánh Huyên bước vào cũi tre để bị thiêu sinh. Những người hiện diện đều xúc động khi nghe rõ các ngài cất tiếng nguyện cầu thật lớn, trong khi ngọn lửa hồng phừng phực bốc cao, thiêu đốt hai ngài.

-Sau ba tháng tù tại Bình Định, ông Anrê Nguyễn Kim Thông nhận được án phát lưu vào Vĩnh Long. Đường từ Bình Định vào Nam xa xôi, ông Thông cùng với bốn chứng nhân khác. Vì tuổi già sức yếu, lại phải mang gông siềng, ông bước đi một cách rất khó khăn, mệt nhọc. Mỗi ngày chỉ đi được bảy tám dặm, dưới ánh nắng gay gắt. Tối đến, đoàn tù nhân được tạm giam trong các đòn quan, hay nhà tù địa phương. Được vài ba ngày, lính thấy ông Thông đuối sức quá, sợ không thể đi tới nơi, thì thương tình tháo gông xiềng cho ông. Đến Chợ Quán, thấy tình trạng sức khỏe của ông quá tàn tạ, Cha Được đã đến ban phép xức dầu cho ông. Sau đó ông lại phải mang gông xiềng tiếp. Khi ông đặt chân lên đất lưu đày, ông chỉ kịp đọc kinh ăn năn tội, vài kinh kính mừng, rồi tắt thở. Hôm đó là ngày 15 tháng 5 năm 1855.

3. Coi thường sự đau đớn.

Là con người, ai mà không sợ đau khổ, ai mà không tham danh tranh lợi, ai mà không tham sống sợ chết! Nhưng với ơn Chúa, các vị tử đạo đã thắng vượt những khổ hình dã man. Lòng yêu mến Chúa đã giúp các ngài vượt thắng tất cả: thắng vũ lực, thắng quyền bính vua chúa trần gian, thắng ma quỉ, và thắng chính mình. Vì thế các ngài xem nhẹ khổ hình, vui mừng và hãnh diện vì được chết cho đức tin.

-Trước khi bị chém, Thánh Giám mục An nói với viên quan chỉ hay:“Tôi gửi quan 30 quan tiền để xin một ân huệ: Đừng chém tôi một nhát nhưng 3 nhát. Nhát thứ nhất tôi tạ ơn Thiên Chúa đã tạo dựng nên tôi, và dẫn tôi đến Việt Nam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ sinh thành ra tôi. Nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí chết vì đức tin, theo gương vị chủ chăn. Và như thế họ đáng hưởng hạnh phúc cùng các Thánh trên trời”.

-Năm vị: Đaminh Nhi, Đaminh Mạo, Đaminh Nguyên, Anrê Tường, Vinhsơn Tưởng, bị xử chém đầu, thì trừ ông Đaminh Nhi, còn bốn vị đều yêu cầu lý hình, thay vì chém một nhát, thì xin được chém 3 nhát để tỏ lòng tôn kính Chúa Ba Ngôi.

-Thánh Hồ Đình Hy bị chém đầu, nhưng trước khi đem đi xử, giữa kinh thành Huế, trong ba ngày 15,18 và 21 tháng 5 năm 1857, thân mình ngài đầy thương tích, quần áo tả tơi, dính đầy máu, đi đứng lảo đảo như muốn té nhào, bị điệu qua các đường phố, những khu chợ và quanh thành nội. Lính mở đường đi trước rao tên tử tội, mỗi khi tới ngã ba đường, phố, chợ và công trường, người tử tội bị đánh 30 trượng, lính vác loa rêu rao:“Thằng theo tà đạo, đứa ngỗ nghịch, bất hiếu với cha mẹ, cưỡng lại luật pháp triều đình. Vì thế bị kết án tử hình. Bọn Gia Tô tin rằng chết vì đạo sẽ lên Thiên đàng. Điều đó có đúng hay sai, không cần biết. Gia Tô của nó ở đâu? tại sao thấy nó khổ mà không đến cứu?”.

-Sau một năm tù giam, Anrê Trọng vẫn cương quyết tuyên xưng đức Tin, các quan quyết định ngày xử là thứ bảy ngày 28.11.1835. Sáng hôm đó, ngài gặp lại người anh họ. Người anh họ hỏi Thánh nhân có muốn ăn gì không? Anrê Trọng trả lời: “Em muốn giữ chay để dọn mình tử đạo”, rồi nói tiếp: “Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ em: Đừng lo gì cho em, cầu chúc mẹ mãi mãi thánh thiện và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa cho đến chết.”. Nhưng người anh họ chưa kịp về nhắn tin, bà mẹ của Anrê Trọng đã đến đón con và theo con đến tận đầu chợ An Hòa, nơi Anrê sẽ bị xử. Gặp con, bà chỉ nói một câu: “Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù, con có nợ nần gì ai không? Nếu có thì cho mẹ biết, mẹ sẽ trả thay con”. Khi được con cho biết là không vướng mắc gì với ai, bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh nói với con những lời đầy khích lệ. Đến nơi xử, khi quân lính tháo gông xiềng, Thánh Trọng đón lấy, đưa cho anh lính cạnh bên và căn dặn: “Xin nhờ anh đưa giùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm.”. Mẹ anh đứng gần bên nghe rõ, bà nhận lấy kỷ vật đó và chưa cho là đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ cấp của con mình nữa. Bà can đảm, bước ra xin viên quan chỉ huy trao thủ cấp con trai cho bà. Bọc trong vạt áo rồi ghìm chặt vào lòng, bà vừa hôn vừa lập đi lập lại:“Ôi con trai yêu quí của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ.”. Rồi bà đem về an táng trong nhà.

Các Thánh Tử Đạo coi thường đau đớn với lòng can đảm lạ lùng là vì các ngài trung thành với đức tin. Do đó, các ngài vui mừng được chết vì Chúa Kitô. Các ngài đã chết dưới ngọn đao phủ là chết cho Chúa Kitô như chính Chúa Kitô đã chết cho các ngài. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang vì đã đáng được chịu đau khổ cho Chúa Kitô. Các ngài chẳng màng chi đến việc nhân loại trao tặng huy chương, huân chương, chiến công. Các ngài chết tử đạo là chết vì Chúa Kitô, đơn thuần và tinh khiết, trong sáng và huyền diệu, can trường và khiêm nhu (x.Thiên Hùng Sử, trang 4). Chết vì Chúa Kitô là niềm hạnh phúc “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao” (Mt 5,10-12; x.Lc 6,22). Chính trong ánh sáng của Chúa Kitô, Vị Tử Đạo tiên khởi mà chúng ta có thể nói về Các Thánh Tử Đạo Việt Nam bằng câu Phúc âm : “Đầy tớ không lớn hơn chủ” (Ga 15,20); “Nếu chúng đã bách hại Thầy, chúng sẽ bách hại các con…Đây Thầy sai các con như con chiên đi vào giữa sói rừng… Hãy coi chừng người đời, họ sẽ nộp các con nơi toà án. Khi họ bắt bớ, các con đừng lo phải nói thế nào, vì không phải các con, nhưng Thánh Linh của Thầy sẽ nói trong các con… Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng ai bền đỗ đến cùng, người ấy sẽ được cứu độ.” (Mt 10,16-25). Các Thánh Tử Đạo không tìm đến cái chết mà chỉ trung thành với đức tin cho dù phải chịu muôn vàn gian truân đau đớn. Các ngài tìm cách nên giống đời sống của Thầy Giêsu, nhất là giống cử chỉ yêu thương tột cùng đã đưa Thầy đến cái chết.

Chân dung Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được tô điểm bằng muôn ngàn vạn nét. Nét căn bản nhất chính là Niềm Tin Phục Sinh. Tin vào Chúa Kitô đã chết và đã sống lại nên các ngài đã chấp nhận tất cả mọi cực hình, vượt thắng mọi truân chuyên. Yêu mến Chúa Kitô và bước theo Người nên các ngài luôn sống niềm tín thác, lạc quan. Trong nhà tù vẫn cầu nguyện và hát thánh ca, thánh vịnh. Ra pháp trường vẫn cầu nguyện và hát khúc khải hoàn Alleluia, luôn hướng về trời cao với niềm Hy Vọng Phục Sinh và cất cao hát mãi cho đến khi đầu rơi khỏi cổ. Cái chết chẳng có giá trị gì, chính sự sống mới làm nên muôn điều huyền diệu. Sự sống đó chính là tình yêu với tất cả những gì cao thượng và chân thật. Tình yêu đó bừng lên mãnh liệt trong mầu nhiệm tự huỷ và hiến dâng. Chết là mất tất cả, nhưng 117 hiến tế tình yêu cũng là 117 chứng từ niềm tin của những con người xác tín rằng: chết vì Đức Kitô, chết đi là sống lại trong cuộc sống muôn đời; chết là chiến thắng; chết là để đi về sự sống vĩnh cửu; chết là cánh cửa im lìm được mở ra để về với Đấng là Sự Sống vĩnh hằng.

4. Kế thừa dòng máu hào hùng để tiếp nối sứ vụ loan Tin mừng.

Hạt giống Tin Mừng Ðức Giêsu Kitô đã đến với quê hương Việt Nam gần năm thế kỷ.Trước đó cả ngàn năm đã có ba tôn giáo lớn là Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và Tín Ngưỡng dân gian ăn sâu vào tâm hồn người Việt Nam. Phong tục tập quán, văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam, đã được nhào luyện bởi tất cả những mầm sống cũng như giới hạn các tín ngưỡng đó.

Trên nền tảng một đời sống tâm linh phong phú mà Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và nhất là Ðạo Ông Bà đã xây dựng từ hơn một ngàn năm, hạt giống Tin Mừng đã nẩy mầm và trổ sinh nhiều hoa trái. Tinh thần hiếu khách, lòng bao dung làm cho người Việt Nam sẵn sàng tiếp xúc với những người tỏ ra có thiện cảm với mình, cho dù họ từ xa đến. Với những đức tính như lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ, kính trên nhường dưới trong gia đình, với một tâm hồn yêu thích tĩnh mịch và chiêm niệm, người Việt Nam là một mãnh đất tốt để đón nhận những giá trị thiêng liêng hàm chứa trong Tin Mừng.

Nhờ các nhà truyền giáo, từ các thế hệ tiền nhân, người Việt đã nhận lãnh nhiều điều tốt lành: những thường thức về vệ sinh, khoa học, những hiểu biết mới, những đồ vật quý hiếm cũng như những trợ giúp vật chất dù rất khiêm tốn, những nhân vật thánh thiêng đầy nhân ái… khiến họ, nhất là những người thuộc lớp bình dân, sẵn sàng đón nhận giáo lý mà những người tốt lành như vậy mang đến cho họ. Nhờ đó, những tập tục phi lý và phi nhân (bùa mê, sát tế) như một gánh nặng đè lên cuộc đời của họ nay được cởi bỏ. Khi đã tìm gặp một vị thần đầy yêu thương, họ liền cảm thấy được giải thoát và tin theo.

Rao giảng Tin Mừng cho họ cần gắn liền với phát triển cuộc sống, quan tâm săn sóc sức khỏe, nâng cao văn hóa giáo dục. Người Kitô hữu sống giữa lòng đời và chia sẽ đời sống của anh chị em chung quanh mình. Loan báo Tin Mừng là chia sẻ cuộc sống, một cuộc sống như chính Chúa Giêsu đã sống, là yêu thương mọi người, và yêu thương đến cùng. (x. Ga 13,11), yêu thương đến nỗi dám chấp nhận hy sinh tính mạng cho những người mình yêu. (x. Ga 15,13).

Các Thánh Tử Đạo là những chứng nhân can trường dám chết cho niềm tin, sống cho tình yêu, và loan báo chân lý Tin Mừng. Làm chứng cho Chúa, nếu không phải đổ máu thì cũng phải chấp nhận mất mát thiệt thòi. Làm chứng đòi trả giá. Giá càng cao thì lời chứng càng đáng tin.

Các Thánh Tử Đạo đã làm chứng bằng cái chết. Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc sống. Các Thánh Tử Đạo đã làm chứng trong thời bị bách hại. Là con cháu các ngài, chúng ta được mời gọi làm chứng trong bối cảnh xã hội Việt Nam hôm nay. Làm chứng chính là “làm muối,” “làm men,” “làm ánh sáng”… như những hình ảnh chính Chúa Giêsu đã dùng khi trao sứ mạng cho các môn đệ. Muối, men, ánh sáng thì không ồn ào áp chế, công việc của nó là âm thầm hiện diện, và chỉ cần hiện diện đúng như bản chất của mình, tự khắc môi trường xung quanh nó sẽ thấm mặn, sẽ dậy men, và sẽ đầy ánh sáng. Sống đạo như thế, chúng ta góp phần làm chứng nhân cho Chúa, cho Phúc Âm.

Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xưa các Ngài đã can đảm phi thường làm chứng cho Phúc Âm. Xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm sống theo Phúc Âm để làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.

Việt Nam và chuyện ‘phủ quan cả nước’

Việt Nam và chuyện ‘phủ quan cả nước’

Nguyễn Giang bbcvietnamese.com

 

Hệ thống phình to là gánh nặng cho tiền thuế của dân

Trả lời chất vấn trước Quốc hội, sáng 18/11/2014, Bộ trưởng Nội vụ Việt Nam, ông Nguyễn Thái Bình nói hơn 99% công chức hoàn thành nhiệm vụ, căn cứ vào báo cáo từ các bộ ngành và địa phương.

Nhưng cũng mới hồi tháng 10 vừa qua, báo chí Việt Nam trích Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Hồng Hà (Hà Nội) cho rằng, khoảng 25-30% công chức, viên chức khu vực nhà nước có “chất lượng lao động thấp”.

Như vậy, nếu 100% họ hoàn thành nhiệm vụ, chất lượng công việc chỉ còn chừng 70% là tốt, là có ích, còn lại là dở.

Nhưng trong lúc ta cần một điều tra chi tiết về chất lượng dịch vụ công mà các cơ quan nhà nước ở Việt Nam đem lại cho dân, điều rõ thấy nhất là chính số lượng rất đông đảo cán bộ, quan chức ở Việt Nam đang là một vấn đề.

Báo chí Việt Nam vài năm qua đã nhắc đến chuyện một xã nghèo là Quảng Vinh, huyện Quảng Xương ở Thanh Hóa có con số kỷ lục 500 cán bộ.

Chế độ đông quan

Thanh Hoá cũng có con số gần 43 nghìn cán bộ cả tỉnh cho 673 xã.

Với số dân 3,5 triệu, Thanh Hóa có số quan gần bằng con số 74 nghìn quan chức, viên chức chuyên trách của bộ máy Liên hiệp châu Âu (500 triệu dân).

Và chắc đây không phải là tỉnh duy nhất ‘phủ sóng bằng quan’ trên mọi địa bàn ở Việt Nam.

Quan chức thời này là những ai mà đông như vậy?

Chỉ ở cấp xã thôi, Điều 3, Nghị định số 92/2009/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam nêu ra một danh sách cán bộ có quyền lực với dân, và được hưởng lương bổng rất dài:

a) Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;

b) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;

c) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân;

d) Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;

đ) Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;

e) Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;

g) Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt Nam);

h) Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.

Ngoài ra, công chức cấp xã có các chức danh sau đây:

a) Trưởng Công an;

b) Chỉ huy trưởng Quân sự;

c) Văn phòng – thống kê;

d) Địa chính – xây dựng – đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính – nông nghiệp – xây dựng và môi trường (đối với xã);

đ) Tài chính – kế toán;

e) Tư pháp – hộ tịch;

g) Văn hoá – xã hội.

Căn cứ vào đây thì quả không có gì quá đáng khi Việt Nam bị phê là đang có hệ thống trị dân toàn diện, bao phủ mọi ngóc ngách của đời sống, khiến xã hội dân sự không còn chỗ thở.

Nhưng triết lý phủ sóng bằng quan ở cả nước còn có hệ quả nghiêm trọng với quốc gia ở ba lĩnh vực.

Đầu tiên là kinh phí ngân sách nhà nước Việt Nam mà thực chất là tiền thu từ dân, thuế doanh nghiệp, tiền vay nước ngoài, tiền bán tài nguyên…phải gánh chịu để nuôi bộ máy khổng lồ phi sản xuất.

Người dân phải góp thóc nuôi cán bộ xã ở một số tỉnh

Điều thứ nhì là dù chính phủ trung ương nỗ lực cải tổ nền kinh tế nhưng ở hàng nghìn xã có những đội ngũ đông đảo, cán bộ luôn sẵn sàng bảo vệ quyền lợi của mình, nên gây cản trở cho công cuộc hiện đại hóa, dân chủ hóa.

Và điều nữa là hệ thống này áp đặt cơ chế ‘xin – cho’ vào đời sống xã hội.

Hiển nhiên, về nguyên tắc, bộ máy quan liêu ở đâu cũng có xu hướng ngày càng phình to – một ví dụ bị phê phán là các cơ quan thuộc Liên hiệp châu Âu – nhưng ở Việt Nam, vấn đề nghiêm trọng hơn nhiều vì con số quan chức quá đông.

Hệ thống độc thoại

Trong những lần các lãnh đạo nhất gặp gỡ cử tri, nếu nhìn kỹ ra thì số ‘cử tri’ đa phần đó cũng là cán bộ về hưu, cựu chiến binh, công nhân viên có chân trong Mặt trận, Đoàn Thanh niên, Hộ phụ nữ, Hội Nông dân ở phường xã.

Như thế xét cho cùng đó chỉ là cuộc nói chuyện của hệ thống với chính nó.

Và bỏ phiếu tín nhiệm xét cho cùng cũng khó thay đổi được gì vì đây là chuyện của những người giống nhau, tín nhiệm nhiều hay ít với nhau, mang tính nội bộ.

Kể cả khi có sự bất tín nhiệm một vài chục vị, thậm chí hàng trăm vị ở trung ương thì tình hình với hơn 3 triệu quan chức trải khắp các tỉnh thành cũng không có gì thay đổi.

Hàng ngày họ vẫn lĩnh lương, vẫn hưởng các phụ cấp, trợ cấp và thậm chí như Nghị định 92 ghi rõ, nếu họ có về nghỉ thì vẫn đàng hoàng hưởng 90% lương, và nhỡ có chết thân nhân còn được tới 10 tháng lương lo ma chay.

Không có gì quá đáng khi Việt Nam bị phê là đang có hệ thống trị dân toàn diện, bao phủ mọi ngóc ngách của đời sống, khiến xã hội dân sự không còn chỗ thở.

Đây là một hiện tượng chưa từng có trong lịch sử Việt Nam vì làm quan thời phong kiến cũng phải thi cử đàng hoàng (viết được chữ Nho không dễ), còn làm cán bộ ở Việt Nam như chính Nghị định 92 ghi, chỉ cần trình độ sơ cấp.

Nước nào thời nay cũng có bộ máy quan liêu điều tiết nhiều hoạt động của xã hội nhưng ở đa số các quốc gia tiên tiến nó bị hạn chế bởi lá phiếu cử tri qua cơ chế dân chủ và truyền thông tự do.

Còn ở Việt Nam, nó đến từ Liên Xô và Trung Quốc, và du nhập trong bối cảnh chiến tranh nên ngay từ lúc sinh ra đã được ‘cài đặt’ mã kiểu Leninism để kiểm soát toàn diện cả xã hội.

Trong truyện ngắn chỉ có đúng một đoạn văn, ‘Del rigor en la ciencia’, Jorge Louis Borges kể câu chuyện ở xứ sở nọ người ta tạo được tấm bản đồ hoàn hảo, tỷ lệ 1-1.

Quả là tuyệt, vì bản đồ nào có thể chính xác hơn, toàn diện hơn tỷ lệ ôm trọn cả lãnh thổ quốc gia như thế?

Nhưng trong tác phẩm ẩn dụ tạm dịch là ‘Sự chính xác của khoa học’, Borges viết tấm bản đồ to bằng đúng quốc gia đó đã trở nên vô dụng.

Bởi xem bản đồ cũng chẳng khác gì đi luôn ra ngoài thực địa nên chẳng còn ai cần nó nữa.

Còn ở Việt Nam, chuyện không tinh tế như thế mà rất thực tiễn: đó là chuyện bát cơm.

Khổ tâm nhất là ở xã Quảng Vinh, Thanh Hóa chính quyền phải thu lúa gạo của dân để nuôi cán bộ, cứ năm tấn thóc thì thu một tấn, theo các báo Việt Nam.

Trung Quốc trấn đèo Hải Vân: Trách nhiệm Thủ tướng

Trung Quốc trấn đèo Hải Vân: Trách nhiệm Thủ tướng

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-11-17

danang.gov.vn.jpg

Hầm Hải vân

Courtesy of danang.gov.vn

Thừa Thiên-Huế đẩy quả bóng trách nhiệm cho Thủ tướng về việc cho phép nhà đầu tư Trung Quốc khai thác 200 ha đất ở vị trí chiến lược trên đèo Hải Vân.

Nhà phản biện độc lập TS Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS cho rằng, cho dù Thủ tướng chịu trách nhiệm vì đã phê duyệt qui hoạch, thì nay cũng là lúc phải thu hồi ngay lập tức giấy chứng nhận đầu tư cấp cho doanh nghiệp Trung Quốc, trao quyền cho họ thực hiện dự án nghỉ dưỡng nằm ở vị trí chiến lược, có thể khống chế vịnh Đà Nẵng và chia cắt đất nước. Từ Hà Nội TS Nguyễn Quang A nhấn mạnh:

“Chắc chắn phải như vậy nếu ông ấy đã ký thì phải có trách nhiệm, về việc không nhìn ra thì có thể có nhiều lý do, một lý do là do sơ xuất vì sơ xuất là chuyện con người. Nếu mà là sơ xuất thì có thể bỏ qua mà chỉ có thể đánh giá là năng lực hơi kém. Còn nếu không phải là sơ xuất mà biết mà vẫn làm như thế thì trách nhiệm càng nặng hơn.”

Phát biểu gay gắt của TS Nguyễn Quang A được ghi nhận tiếp sau thông tin: ngày 14/11/2014 ông Nguyễn Văn Cao, Chủ tịch tỉnh Thừa Thiên-Huế khẳng định với VnExpress rằng Thừa Thiên-Huế làm đúng qui định của Nhà nước. Suốt hai tuần qua trên báo chí, Thừa Thiên-Huế đã lập luận rằng, dự án 200 ha ở mũi cửa Khẻm, nơi núi Hải Vân vươn xa nhất ra biển Đà Nẵng là nằm trong Qui hoạch chung về xây dựng Khu kinh tế Chân Mây – Lăng Cô thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế đến hết năm 2025 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1771 ngày 5/12/2008.

” Những chỗ tốt đẹp có vị trí chiến lược lại cứ bán cứ để cho Trung Quốc làm dự án trong khi mình có thể làm được, như thế là các anh ấy không suy nghĩ và chỉ thấy có tiền thôi.
– Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh”

Chính quyền Thừa Thiên – Huế không trả lời dư luận về việc Dự án mũi Cửa Khẻm giao cho nhà đầu tư Trung Quốc nằm ở vị trí chiến lược khống chế vùng trời, vùng núi, vùng biển Đà Nẵng và nếu xảy ra chiến tranh sẽ chia đôi Việt Nam ở vĩ tuyến 16. Chính quyền Thừa Thiên-Huế chỉ biện giải về khu vực tranh chấp địa giới giữa Thừa Thiên – Huế và Đà Nẵng. Theo các chuyên gia địa phương nào quản lý mũi Cửa Khẻm không phải là điều quan trọng, cốt lõi ở đây Thừa Thiên-Huế đã bỏ qua vấn đề an ninh quốc phòng trao quyền khai thác 200 ha cho nhà đầu tư nước ngoài trong vòng 50 năm, mà cụ thể là doanh nghiệp Trung Quốc.

Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc hiện nghỉ hưu ở Hà Nội đã phản ứng mạnh mẽ về điều ông là góp phần làm tăng nguy cơ mất nước. Ông nói:

“Những chỗ tốt đẹp có vị trí chiến lược lại cứ bán cứ để cho Trung Quốc làm dự án trong khi mình có thể làm được, như thế là các anh ấy không suy nghĩ và chỉ thấy có tiền thôi. Tôi cho là chỉ thấy có tiền, nhiều tỉnh cũng thế thôi nghĩa là chỉ thấy có tiền mà không thấy cái nguy hiểm cho đất nước.”

Từ đầu tháng 11, chính quyền Đà Nẵng kiến nghị Thủ tướng rút giấy phép đầu tư mà Thừa Thiên-Huế cấp cho Công ty Thế Diệu của Trung Quốc từ năm 2013 để xây dựng một quần thể nghỉ dưỡng du lịch chiếm 200 ha ở mũi Cửa Khẻm, nơi núi Hải Vân vươn ra xa nhất trên biển Đà Nẵng. Hai lý do Đà Nẵng đưa ra là vị trí chiến lược ảnh hưởng an ninh quốc phòng và dự án nằm trên vùng tranh chấp địa giới giữa hai địa phương.

Ngày 17/11/2014, Trung tướng Lê Chiêm, Tư lệnh Quân khu 5 được VnExpress trích lời khẳng định đèo Hải Vân là khu vực trọng điểm quân sự  cấp độ 1 được Chính phủ quy định. Đất tại khu vực này muốn  làm bất cứ việc gì phải báo cáo và được sự nhất trí của Bộ Quốc Phòng để xin ý kiến của Thủ tướng. Tướng Chiêm nhấn mạnh, Thừa Thiên – Huế tự động cho doanh nghiệp nước ngoài vào xây dựng khu nghỉ dưỡng là “dứt khoát không được”.

Chuyện thu hồi giấy phép

31102-a2740-400.jpg

Vị trí dự án khu nghỉ dưỡng World Shine

Đáp câu hỏi của chúng tôi là chính quyền Việt Nam có vẻ không chú ý tới yếu tố an ninh quốc phòng khi kêu gọi đầu tư phát triển kinh tế và để đến khi dư luận lên tiếng lúc đó mới tính chuyện sửa sai. Nhà phản biện TS Nguyễn Quang A nhận định:

“Tôi nghĩ cũng không hẳn hoàn toàn như vậy. Nhiều nhà lãnh đạo Việt Nam rất quan tâm tới vấn đề an ninh quốc gia, người ta có những qui trình rất chặt chẽ về những chuyện như vậy. Nhưng thực tế người ta có thể lách những qui trình ấy một cách rất ngoạn mục, hoàn toàn do ý định của người ta mà thôi. Ngay cả việc hủy một dự án, bất kỳ dự án nào cũng có hàng trăm điều kiện mà tôi tin là không có nhà đầu tư nào không vi phạm đến khoảng 30% các điều kiện qui định trong giấy phép. Nếu người ta muốn thì có thể dẫn chiếu bất kể một cái lỗi nào đấy của nhà đầu tư và người ta có thể hủy cái giấy phép ấy mà chẳng cần phải đền bù gì cả, bởi vì ông đã vi phạm qui định.”

Việt Nam có chính sách trải thảm đỏ mời gọi đầu tư để phát triển kinh tế, người Trung Quốc chọn được nhiều vị trí mà dư luận cho là nhạy cảm về an ninh quốc phòng là vì nhờ các mánh lới đặc biệt. Làm thế nào để giảm bớt tình trạng nguy hiểm này. TS Nguyễn Quang A trả lời câu hỏi này:

“Nếu chúng ta kỳ vọng vào những người cánh hẩu với Trung Quốc để người ta bớt đi thì không bao giờ cả, số người như thế ở Việt Nam không phải là ít. Chỉ có mỗi một cách như vừa rồi là dư luận của công chúng, của các giới khác nhau, kể cả những người đương quyền mà còn thực sự lo lắng cho vận mệnh đất nước. Những người ấy, các thế lực ấy phải lên tiếng và chỉ có như thế mới có thể chặn được những sự móc ngoặc với những thế lực nước ngoài mà để làm tổn hại đến đất nước mà thôi.”

” Nếu người ta muốn thì có thể dẫn chiếu bất kể một cái lỗi nào đấy của nhà đầu tư và người ta có thể hủy cái giấy phép ấy mà chẳng cần phải đền bù gì cả, bởi vì ông đã vi phạm qui định.
– TS Nguyễn Quang A “

Được biết, Tỉnh Thừa Thiên-Huế đã cấp giấy chứng nhận đầu tư và giao 200 ha đất ở mũi Cửa Khẻm cho Công ty Trung Quốc Thế Diệu từ tháng 10/2013 với thời hạn 50 năm. Thế Diệu đã giải ngân 80 tỷ để khởi sự thực hiện dự án khu nghỉ dưỡng du lịch có tổng vốn đầu tư 250 triệu USD. Tại Cửa Khẻm nơi núi Hải Vân vươn ra biển xa nhất, nhà đầu tư Trung Quốc sẽ xây dựng khu nghỉ mát tiêu chuẩn 5 sao với 450 phòng, một trung tâm hội nghị quốc tế 2.000 chỗ ngồi, khu nhà nghỉ dưỡng năm tầng với 220 căn hộ cao cấp, 350 biệt thự và khu du lịch, nhà hàng bãi tắm. Dự án này được triển khai theo ba giai đoạn từ 2013 đến 2023, Thế Diệu đã xây dựng trụ sở điều hành dự án tại khu vực Cửa Khẻm. Còn tỉnh Thừa Thiên-Huế cho biết đã chi 50 tỷ đồng mở con đường 5 km vào Cửa Khẻm.

Cho tới ngày 17/11/2014 chưa có thông tin về việc thu hồi giấy phép dự án đầu tư trên núi Hải Vân của doanh nghiệp Trung Quốc. Nhưng báo chí phản ứng dư luận hết sức gay gắt đòi dừng ngay dự án vì ảnh hưởng an ninh quốc phòng, đặc biệt có yếu tố Trung Quốc. Theo ý kiến chuyên gia một quyết định hợp lòng dân là điều Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ phải tính tới trong giai đoạn này.

Chuyến tàu vét trước khi hạ cánh

Chuyến tàu vét trước khi hạ cánh

Văn Quang – Viết từ Sài Gòn

Có lẽ bạn đọc ở nước ngoài cũng đã biết sơ qua những kiểu chữ nghĩa như thế này và có thể hiểu được “chuyến tàu vét” là tàu gì và “hạ cánh” như thế nào. Nhưng người ở VN như tôi thì quá quen với loại chữ nghĩa ví von này rồi và có một cái nguy là lâu dần rồi coi như chuyện bình thường. Cũng như chuyện một anh nói dóc nhìn lên đám mây trên trời thấy râu ông Lê Nin thì không ai tin nhưng khi có hàng trăm anh nói, tức khắc chuyện đó biến thành sự thật. Tôi cũng sợ lây cái bệnh ấy nên luôn đề phòng mọi thứ chữ nghĩa kiểu này. Nhưng cái gì mấy bác hàng xóm hay nói thì phải hiểu họ nói gì.
Chuyến tàu vét trước khi hạ cánh tưởng là chuyện “vặt” bình thường của hàng dân giả hay “buôn chuyện” thôi, không ngờ nó lại nhảy vào tòa nhà mới toanh của Quốc hội VN. Nói thẳng ra đó là những quan chức sắp nghỉ hưu hoặc sắp chuyển công tác, vơ vét tài sản của nhà nước và cũng không ngần ngại vét luôn của dân lần chót, đưa đàn em vào vị trí cao hơn để kiếm ăn. Người dân biết và cũng phẫn nộ, nhưng cũng chỉ thì thào với nhau chứ tố cáo, thưa gửi làm chi cho mang vạ vào thân. Trong kỳ họp này của Quốc hội VN, một dân biểu đã nói thẳng ra những tệ nạn này và nguy hiểm hơn nữa, ông cho rằng đó là TÂM LÝ CHUNG.

Bà Cecilia Sue Siew Nang giám đốc một công ty công nghệ tại Singapore đổi tình lấy hợp đồng.

Những thủ đoạn của chuyến tàu vét

Bên hành lang Quốc Hội sáng 24/10 vừa qua, ông Lê Như Tiến – Phó Chủ nhiệm Ủy Ban Văn Hóa, Giáo Dục, Thanh Niên, Thiếu Niên và Nhi Đồng của Quốc hội đã nói với báo giới về công tác phòng, chống tham nhũng hiện nay. Ông Tiến bày tỏ:
“Tôi đã nhiều lần nói với cơ quan thông tin và cơ quan quản lý là nên có quy định cấm cán bộ lãnh đạo quản lý trước khi nghỉ hưu ký quyết định nhân sự và công trình đầu tư, dự án. Đó chính là phòng ngừa. Chừng nào không phòng ngừa thì vẫn còn xảy ra vì ai cũng nghĩ rằng chuẩn bị nghỉ thì không còn gì để mất và cố làm chuyến tàu vét cuối cùng trước khi hạ cánh. ĐÓ LÀ TÂM LÝ CHUNG.”

Nhiều nhà công vụ đang bị các quan CSVN chiếm giữ.

Tức là hành động của hầu hết các quan chức chứ chẳng phải chỉ là “một bộ phận cán bộ” mà chẳng ai biết cái “một bộ phận” đó nó nằm ở chỗ nào. Ông Tiến phanh phui tiếp:
“Có nhiều quan chức vừa rồi sau khi nghỉ hưu lại ở một vị trí nghe có vẻ thơm thảo hơn, thu nhập lớn hơn với thu nhập chính đáng trước kia. Vì sao? Vì họ có sự chuẩn bị rất kỹ lưỡng từ rất sớm. Họ có thể chuyển vốn, tài sản một phần của công ty mẹ sang các công ty con, công ty cháu để sau nay họ hưởng lợi từ các công ty đó. Họ cũng mua bán, tham gia cổ đông của nhiều công ty, trong khi pháp luật của ta không cấm điều ấy. Anh có tiền, có khả năng thì cứ mua cổ phiếu. Thậm chí, tôi được biết có những công ty, doanh nghiệp trực thuộc bộ đó lại mua hàng vạn cổ phiếu, cổ phần cho các quan chức lãnh đạo. Đó cũng chính là một kẽ hở. Mà họ cũng rất tinh vi, không đứng tên mà lấy tên con cháu, người thân. Đó chính là một hình thức chuyển dịch tài sản cho những người thân của mình.”

Vụ ông Hồ Xuân Mãn liên quan đến vụ ông Trần Văn Truyền

PV hỏi: Sau hàng loạt vụ việc xảy ra đối với các quan chức nghỉ hưu, theo ông, chúng ta cần có qui định riêng về quản lý cán bộ nghỉ hưu hay không?
Ông Tiến nói: Tôi nghĩ là cần có những qui định quản lý cán bộ cao cấp sau nghỉ hưu vì ai cũng phải quản lý. Công dân bình thường cũng phải quản lý nữa là cán bộ cao cấp. Trường hợp của ông Hồ Xuân Mãn khi đã nghỉ hưu xuất hiện việc man khai nhận danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang thì cho đến bây giờ Ủy ban kiểm tra Trung ương vẫn làm ra và khẳng định có 8/15 vấn đề không đúng sự thật và quyết định thu hồi lại danh hiệu đó. Việc đó ta vẫn làm được, vậy tại sao với ông Truyền và những người khác lại không?


Cổng chính đi vào dinh thự và “dự án gia đình” của ông Trần Văn Truyền màu sắc như sơn son thếp vàng.

(Việc ông Hồ xuân Mẫn khai man thành tích tôi đã tường thuật với bạn đọc trong bài “Khai man thành tích cướp công đồng đội ngày 8 tháng Ba, 2013).
Về những thông tin và một số hình ảnh trên báo chí mô tả những dinh thự, biệt thự, nhà đất là một phần trong khối tài sản khổng lồ được cho là của ông Trần Văn Truyền, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Tổng Thanh tra Chính phủ đến nay vẫn còn thu hút sự chú ý đặc biệt của dư luận.
PV hỏi: Vậy với việc của ông Trần Văn Truyền, với khối tài sản lớn như thế mà đến chưa có kết quả điều tra gì. Ông có thấy nghi hoặc gì không?
Ông Tiến nói: Các cơ quan bảo vệ pháp luật phải vào cuộc, vì chúng ta không thể nói mà thiếu căn cứ được. Nhưng các cơ quan này phải vào cuộc khẩn trương vì khối tài sản ấy, những căn cứ pháp lý ấy không phải là cái gì quá phức tạp, quá khó khăn. Nếu đó là tài sản từ công sức, mồ hôi, nước mắt của ông Truyền hoặc từ con cháu ở nước ngoài gửi về hay do người quen biếu tặng thì vô can.
Theo tôi, muốn phòng, chống tham nhũng phải làm rất rõ việc minh bạch tài sản và nghĩa vụ giải trình. Nghĩa vụ giải trình mà không làm được tốt thì thuộc trách nhiệm người đứng đầu.
Lâu nay chúng ta có kê khai tài sản nhưng không công khai. Phải công khai ở nơi cư trú và nơi công tác thì các cử tri, cán bộ công chức dưới quyền người ta mới kiểm soát được và hơn ai hết, bất cứ việc gì ở khu dân cư người ta biết ngay (anh có ô tô gì, nhà cửa ra sao, lối sống như thế nào…). Chúng ta cứ nói phát huy vai trò “tai mắt” là nhân dân nhưng thực ra chúng tạo cơ chế cho nhân dân phòng, chống tham nhũng còn rất khiêm tốn.


Căn biệt thự của ông Truyền được xây dựng trên diện tích hàng ngàn m2 tại xã Sơn Đông, TP Bến Tre, tỉnh Bến Tre.

Tham nhũng nhà công vụ

Ngoài ra trong phiên thảo luận về kinh tế xã hội tại Quốc hội ngày 31/10, ông Lê Như Tiến cho rằng cần đưa thêm vào Bộ Luật Hình Sự một tội danh mới là “tham nhũng nhà công vụ.”
Ông Lê Như Tiến nêu ra một ý kiến rất đáng để suy nghĩ, đó là tham nhũng vặt vài chục triệu đồng cũng bị xử lý, nhưng tham nhũng nhà công vụ có giá trị nhiều tỉ đồng lại chưa ai bị xử lý. Phân tích về loại tham nhũng này, ông Tiến nói rõ từng mẹo chiếm đoạt nhà công vụ: “Có người tuy không ở nhưng lại… lỡ mang cả chìa khoá nhà công vụ về quê để ở biệt thự, nhà lầu mà đàn em đã xây sẵn ở quê nhà. Có người còn để cho con cháu họ hàng ở nhờ và nhiều người thông minh hơn thì thậm chí cho thuê để hưởng thêm mỗi tháng một khoản tiền lớn hơn nhiều khoản phải bỏ ra thuê căn nhà đó của nhà nước.”
Quỹ nhà công vụ rất lớn, trong đó có nhiều tòa nhà, biệt thự ở những vị trí đất vàng, rất có giá trị. Cán bộ cao cấp ở những căn biệt thự này, có người trả lại cho nhà nước, nhưng cũng có nhiều người muốn giữ làm của riêng. Ông Tiến dẫn chứng:
Tính đến tháng 9/2014, tổng quỹ nhà ở công vụ trên cả nước là hơn 1.6 triệu m2, trong đó có hàng trăm biệt thự công, hàng chục nghìn chung cư… “Song một số cán bộ sau khi thôi chức vụ đã tự cho mình quyền sử dụng nhà công vụ vĩnh viễn, biến biệt thự công thành tư, cho con cháu ở, hoặc cho thuê để hàng tháng hưởng khoản tiền trời cho.”
Hãy nhìn vào thực tế đất nước, nhiều nơi dân phải đu dây qua sông, giáo viên đến trường bằng túi nilong trong dòng nước dữ, trẻ em ngồi học trong phòng tranh nứa. Nhà công vụ cao sang để làm gì, ngủ sao yên giấc khi nghĩ về đất nước còn nghèo, dân còn quá khổ. Vậy mà các quan vẫn cứ ăn nó ngủ kỹ trong những tòa nhà “hoành tráng” của nhà nước tức là của nhân dân. Lòng tham của con người quả không đáy.
Thật ra đây cũng nằm trong mớ lộn xộn của những “chuyến tàu vét” của các quan đã nghỉ làm nhưng vẫn có cố bám lấy tất cả những gì có thể bám được như một loài đỉa đói. Theo báo chí phanh phui một số nhà công vụ đang bị chiếm giữ, cụ thể như khu nhà ở công vụ Hoàng Cầu (61 Trần Quang Diệu, quận Đống Đa, TP Hà Nội) có 80 căn được đưa vào sử dụng từ năm 2000. Có không ít trường hợp mặc dù cán bộ đã về hưu rồi, họ vẫn giữ lại nhà công vụ này cho con cháu, người thân quen ở hoặc tiếp tục ở, thậm chí nhiều nhà khóa cửa để đó. Tôi chỉ kể vài cái tên trong số hàng chục cái tên đã được phanh phui trên báo chí:
– Ông Hồ Xuân Hùng nguyên là cán bộ cao cấp của Văn phòng Chính phủ được giao căn nhà số 302, dãy nhà B2. Ông Hùng đã nghỉ hưu nhưng hiện căn nhà này do con và cháu ông đang ở.
– Bà Trần Thị Minh Chánh nguyên là cán bộ cao cấp của Văn phòng Quốc hội được giao căn nhà 403, dãy nhà B1. Bà Chánh đã về hưu. Hiện ở căn nhà này là gia đình con của bà.
– Hay như trường hợp nguyên Thứ trưởng Bộ TN&MT Nguyễn Văn Đức, sau khi về hưu vẫn chưa trả lại nhà công vụ là căn nhà 605, dãy nhà A1, mà chỉ đóng cửa để đó. Cũng thế, nguyên Thứ trưởng Bộ TN&MT Triệu Văn Bé hiện vẫn còn nhà công vụ là căn nhà số 307, dãy nhà B1, dù ông đã về hưu bảy năm
Đã có nhiều đề nghị phải công khai danh tính hết các quan chức không chịu trả nhà nhưng chẳng biết bao giờ mới thực hiện hay vì nể nang chẳng bao giờ thực hiện được! Một thứ tội khác “mới mẻ hơn” cũng được mang ra bàn cãi.

Ông Trần Văn Truyền nguyên Tổng Thanh Tra Chính phủ.

Việt Nam chắc chắn có tình trạng hối lộ bằng tình dục

“Hối lộ tình dục” là cụm từ lần đầu tiên xuất hiện chính thức ở Việt Nam, trong lĩnh vực chống tham nhũng, từ một quan chức có thẩm quyền của cơ quan chống tham nhũng.
Mới đây, tại hội nghị “Hoàn thiện các quy định về tội hối lộ trong Bộ luật Hình sự,” ông Nguyễn Doãn Khánh, Phó Trưởng ban Nội chính Trung ương, cho biết hiện nay ở Việt Nam chắc chắn có tình trạng hối lộ bằng tình dục. Nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam nên đưa hành vi hối lộ bằng tình dục vào Bộ Luật Hình Sự. Trong khi đó, thực tế hiện nay tại nhiều nước tiên tiến trên thế giới, hành vi hối lộ tình dục đều bị quy thành tội hình sự và bị xử lý rất nặng.
Giải thích tại sao hiện nay Việt Nam chưa đưa hối lộ tình dục vào luật hình sự, nhiều chuyên gia cho rằng hành vi hối lộ bằng tình dục là hiện tượng không mới nhưng để đưa vào những quy luật pháp luật để xử lý thì rất khó. Phát hiện ra hối lộ tình dục càng khó hơn, nhất là chuyện có nhân chứng vật chứng, bởi như lời Phó Ban Nội Chính T.Ư Nguyễn Doãn Khánh, thông thường cả người đưa và người nhận đều không muốn đề cập, không tiết lộ.
Đó là thứ chuyện “rất bí mật” trong xã hội VN hiện nay, giả dụ như một bà thương gia đổi tình cho quan chức cỡ bự để được trúng thầu hoặc mưu lợi gì đó cho mình nhưng quan không làm được hoặc cố tình làm lơ sau khi đã thỏa mãn cùng bà, nhưng bà “hiền phụ” này cũng không dám thưa kiện gì vì sợ mang tiếng xấu cho cả gia đình bề thế, đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Nếu là chuyện hối lộ tiền bạc thì còn dám thưa kiện hoặc bắt quả tang. Nhưng trao đổi bằng thể xác “cao quý” của các bà, chẳng bà nào dại gì cho các chú công an bắt quả tang. Đó là những chuyện có thật, như một dòng chảy âm thầm tại VN. Đến nay mới được công nhận và mang ra ánh sáng đề nghị đưa vào luật. Còn bao giờ có luật và luật như thế nào xin đợi “hồi sau phân giải.” Hiện nay ở nhiều nước trên thế giới đã từng đưa ra tòa kết án nặng tội này. Xin tóm tắt vài vụ hối lộ tình dục gần đây chấn động nhất trên thế giới xảy ra tại vài nước láng giềng.
– Từ cô gái thất học trở thành người tình của Bộ Trưởng Đường Sắt Lưu Chí Quân
Trong chiến dịch “đả hổ diết ruồi” của Trung Cộng, bạn đọc đã biết rất nhiều quan tham nhũng cỡ bự có hàng tá bồ bịch kể cả việc đổi tình lấy công việc làm ăn đã bị phanh phui. Vụ án hối lộ tình dục lớn nhất xảy ra vào tháng Sáu 2013, tòa án nước này đã tuyên án tử hình treo đối với cựu Bộ Trưởng Đường Sắt Lưu Chí Quân và tịch thu toàn bộ tài sản.
Đinh Thư Miêu – 57 tuổi – có quan hệ phức tạp với Lưu Chí Quân. Từ một cô gái thất học bán rong, Đinh Thư Miêu gặp Lưu Chí Quân khi đã 40 tuổi và trở thành người tình của ông này.
Lợi dụng quan hệ tình ái, Đinh Thư Miêu can thiệp sâu vào các hoạt động đấu thầu hàng chục dự án của ngành đường sắt Trung Quốc. “Yêu nữ” này bị cáo buộc hối lộ, kinh doanh trái phép với số tiền lên tới $29 tỷ USD, tương đương 1/4 số tiền đầu tư của chính phủ Trung Quốc vào ngành đường sắt năm 2010.
Báo chí Trung Quốc trích dẫn cáo trạng cho biết, nhan sắc không còn nhưng vẫn muốn “cột chân” Lưu Chí Quân, Đinh Thư Miêu đã dùng tiền đưa các thiếu nữ trẻ đẹp tới phục vụ người tình. Đổi lại, ông Lưu đã giúp 23 doanh nghiệp do Đinh Thư Miêu “rỉ tai” trúng thầu hơn 50 dự án liên quan đến đường sắt. Miêu đã thẳng thắn khai: “Chọn vợ tốt không bằng tặng quà chuẩn. Chuẩn ở đây là phụ nữ, càng xinh đẹp càng tốt, thậm chí càng nổi tiếng càng làm bộ trưởng vui. Mà khi đã vui thì xin cái gì cũng dễ.”
– Nghị sĩ Indonesia tham dự buổi biều diễn “sung sướng”
Dư luận Indonesia một thời nóng ran vì bê bối liên quan đến nghị sĩ Emir Moeis thuộc Đảng Dân chủ đấu tranh (PDI-P) bị cáo buộc nhận $300,000 USD từ Nhà Máy Điện Pháp Alstom để giúp hãng trúng thầu dự án xây nhà máy điện trị giá $212 triệu USD ở Lumpung năm 2004. Theo điều tra vào năm 2012 của Ủy ban Chống Tham Nhũng Indonesia (PKP), ông nghị này đã tham dự một buổi yến tiệc tại Paris và ở đó có màn biểu diễn “sung sướng” dành cho đàn ông.
– Lãnh đạo Cục Phòng chống Ma túy trung ương Singapore và bà nữ giám đốc
Ông Ng Boon Gay, lãnh đạo Cục Phòng chống Ma túy trung ương Singapore, bị tố cáo lạm dụng quyền hành để quan hệ tình dục với nữ giám đốc một công ty công nghệ tên là Cecilia Sue Siew Nang. Vụ bê bối này đã làm chấn động dư luận Singapore.
Thông tin cho biết, Ng Boon Gay đã lên giường với bà Sue nhiều đến nỗi không thể nhớ chính xác bao nhiêu lần. Phía bà Sue thì sẵn sàng trao thân để tìm cách ký được hợp đồng với CNB.
Khi cơm không lành canh không ngọt, bà Sue cáo buộc Ng Boon Gay ép bà quan hệ, song cựu lãnh đạo CNB nói, bà là nhân tình của ông và tự nguyện làm chuyện đó. Tuy nhiên, cơ quan công tố Singapore cho rằng, dù là ngoại tình thì chính ông Ng cũng đã thừa nhận mối quan hệ tình ái này có ảnh hưởng đến các hợp đồng công nghệ.

Ông Hồ Xuân Mãn khai man thành tích bị tước danh hiệu anh hùng.

Trở lại chuyện ở VN, đến đây tôi xin dẫn chứng cụ thể vài “chuyến tàu vét” của các quan về hưu.
– Tuồn vốn nhà nước cho công ty gia đình
Trong thời gian điều hành Công ty Cảng Vũng Rô, từ tháng 5-2001 đến năm 2013, Nguyễn Minh đã dùng vốn của Nhà nước thành lập Công ty Đại Lộc (địa chỉ tại Khu công nghiệp Đồng An, thị xã Thuận An, Bình Dương). Để che mắt cơ quan chức năng, Minh nhờ cháu của mình đứng tên đăng ký kinh doanh với chức danh giám đốc. Sau khi thành lập công ty “sân sau,” với sự tiếp sức của các cán bộ cấp dưới, Minh ra sức tuồn vốn Nhà nước cho Công ty Đại Lộc. Hầu hết nguồn vốn của Công ty Cảng Vũng Rô đều tập trung vào việc mua bán vải sợi với Công ty Đại Lộc… Theo cơ quan điều tra, Minh cùng các bị can khác đã gây thiệt hại hơn 37 tỉ đồng.
Kiểu làm ăn này không hiếm ở VN, nếu nhìn lại một số công ty gọi là tư nhân lớn, chẳng thiếu gì công ty đó là “sân sau” của một số quan chức có quyền hành trong bất cứ lãnh vực nào đó. Một nhà hàng sang trọng, một khách sạn 4-5 sao thường là của các quan lớn mới đứng vững được.
– Nguyên Tổng thanh tra Chính phủ bổ nhiệm 23 cán bộ trước khi về hưu
Ông Trần Văn Truyền– nguyên là Tổng Thanh tra Chính phủ, trước khi nghỉ hưu đã ký bổ nhiệm hàng loạt cán bộ, trong đó có rất nhiều người không nằm trong quy hoạch.
Từ tháng 3/2011 đến ngày 3/8/2011 ông Trần Văn Truyền ký quyết định bổ nhiệm gần 60 cán bộ cấp vụ (và tương đương) tại cơ quan Thanh tra Chính phủ; chỉ trong 2 ngày (1/8 và 3/8) ký bổ nhiệm 26 người, riêng ngày 3/8/2011 ký bổ nhiệm 22 người.
Về quyết định bổ nhiệm ồ ạt này, Phó tổng Thanh tra Chính phủ Trần Đức Lượng cho biết: “Chúng tôi nhận thấy có khuyết điểm,” ông Lượng nói và cho hay đơn vị đã tổ chức kiểm kiểm. Theo ông Lượng, công tác cán bộ theo quy định là trách nhiệm của tập thể trong đó có người đứng đầu.
Đó là chuyện lớn ở trung ương, quan đứng đầu ngành thanh tra còn làm chuyến tàu vét như thế thì hỏi làm sao các quan nhỏ không bắt chước. “Đa quan thì tàn dân,” các cụ đã nói thế chẳng sai tí nào. Đã có khối vị chuẩn bị nghỉ hưu hoặc chuyển công tác bèn ký hàng loạt quyết định cho con cháu mình vào làm công chức kiếm chác. Cụ thể như 3 ngày trước khi chuyển sang làm Chi cục trưởng Dân số Kế hoạch hóa gia đình tỉnh Quảng Nam, ông Mười đã ký hàng loạt hợp đồng cho cháu mình và người thân của cán bộ Trung tâm y tế huyện Thăng Bình.
Thật ra những chuyện này chẳng có gì mới, đã và đang xảy ra hàng loạt, người dân cho đó là thứ chuyện hàng ngày ở huyện. Năm nào các ông đại biểu của dân cũng mang ra bàn đi tán lại rất xôm tụ nhưng kết quả ra sao thì “cứ đợi đấy đã.” Năm nay còn khá nhiều vấn đề nóng và “nhạy cảm” nữa đang được mang ra mổ sẻ, tôi sẽ tường thuật với bạn trong kỳ khác.

Văn Quang, 7 tháng 11, 2014

Chấn hưng dân trí: Những nết xấu nổi tiếng của người Việt Nam trong con mắt bạn bè nước ngoài

Chấn hưng dân trí: Những nết xấu nổi tiếng của người Việt Nam trong con mắt bạn bè nước ngoài

Vũ Cao Đàm

Tôi có nhiều cơ hội cộng tác với các bạn làm công tác nghiên cứu người nước ngoài. Đến đâu tôi cũng tận dụng mọi cơ hội để hỏi bạn bè các nước, họ nghĩ gì về người Việt Nam chúng ta, cả nết xấu và nết tốt, bất kể đó là câu chuyện quanh bàn cà-phê, những cuộc tán gẫu và những câu chuyện nhàn đàm sau các buổi làm việc căng thẳng.

Qua các câu chuyện góp nhặt tản mạn, những ý nghĩ đọng lại trong đầu tôi khá ấn tượng, và thường tập trung vào một số nết xấu và nết tốt mà chúng ta vẫn thường nghe và đọc được trên công luận.

Trong tất cả các cuộc trao đổi phi chính thức đó, ấn tượng nhất là ba tháng tôi làm việc ở Úc hồi năm 2011. Tôi muốn ghi nhận vắn tắt vài dòng, gọi là để góp phần cho các nhà nghiên cứu xã hội bàn về chấn hưng dân trí.

Tôi có được một vài dịp ngồi với các chuyên viên nghiên cứu về quản trị doanh nghiệp. Sau một vài lần làm việc đã có quan hệ khá thân tình, tôi hỏi họ, “Các chủ doanh nghiệp Úc có thuê nhân công người nước ngoài không”? Họ trả lời là “Có”. Tôi hỏi “Các ông đã thuê những lao động người nước nào”, thì họ cho biết là “Đã thuê người từ một số quốc gia, trong đó, nhiều nhất là người da đen và người Việt Nam”. Tôi hỏi họ “Người da đen thuộc những nước nào”, thì họ không phân chia tách bạch, mà chỉ nói chung chung, gộp thành một nhóm, là “người da đen”.

Khi tôi hỏi họ nhìn nhận về những nết xấu và nết tốt của những người lao động các nước, thì tôi được nghe họ nói rất nhiều thứ, nhưng chỉ xin ghi lại vài nết xấu khá ấn tượng để chúng ta cùng suy nghĩ về con đường nâng cao dân trí.

Tôi hỏi các bạn Úc những đặc điểm của lao động Việt Nam so với các dân lao động khác mà những người sử dụng lao động Úc đã tiếp xúc. Chẳng hạn, tôi hỏi họ “Các ông thích nhất loại người nào”. Họ trả lời “Thích nhất những người lao động da đen”. Tôi hỏi “Vì sao thích người lao động da đen”. Tôi được nghe trả lời không một phút đắn đo, có hai lý do để họ thích: (1) Làm việc rất có năng suất; và (2) Lao động rất có kỷ luật. Tôi hỏi tiếp “Các ông trả công thế nào?”. Được trả lời “10 Đôla Úc một giờ”

Tôi hỏi họ “Các ông ghét nhất là lao động người nước nào”. Tôi đắn đo, định sử dụng động từ “Không thích” (To dislike), nhưng sau tôi quyết định dùng hẳn động từ từ “Ghét” (To hate) Trả lời cũng không đắn đo: “Việt Nam”. Tôi hỏi “Vì sao”. Cũng được nghe trả lời không chút đắn đo, là có bốn lý do để họ ghét, xếp theo thứ tự về mức độ nghiêm trọng tăng dần như sau:

1) Hay đi làm trễ giờ

2) Hay nói dối

3) Hay vi phạm các cam kết, và

4) Hay ăn cắp vặt.

Tôi hỏi tiếp, với người lao động Việt Nam, ông trả công bao nhiêu. Được nghe trả lời “Tối đa tôi cũng chỉ trả đến 7 Đôla Úc một giờ”

Tôi hỏi thêm: “Người lao động Việt Nam có hay gây gổ không?”. Họ trả lời khá thú vị: Những người lao động thuộc diện thuyền nhân vượt biên từ Miền Bắc sau 1975 thì hay gây gổ. Và nói thêm: “Và tối ngày la cà các sòng đánh bạc tự động, cá cược bóng đá và các quán bia… Kiếm được bao nhiêu tiền, hình như họ ném vào đây hết”. Số người này đã luống tuổi, nhưng vẫn còn giữ máu gây gổ. Những người lao động Việt Nam hiện nay khá trẻ, chủ yếu thuộc diện sinh viên, học sinh du học, kết hợp đi làm thêm, hoặc bỏ học đi làm.

Những nét xấu nói trên, tôi đã được nghe khá nhiều từ các nhà nghiên cứu ở những quốc gia có nhiều người lao động Việt Nam làm việc, đặc biệt là ở Nga, ở Đức, ở Nhật, nhưng chưa ở đâu tôi được nghe tổng kết có hệ thống như trong câu chuyện với một bạn nghiên cứu người Úc vừa nêu trên đây.

*

Hiện nay tôi vẫn có một số giờ lên lớp cho nhiều loại đối tượng người học rất khác nhau: sinh viên chính quy, sinh viên tại chức, cao học, nghiên cứu sinh, học viên các lớp tập huấn theo một số chuyên đề nào đó, tôi nhận ra các nết xấu của người lao động Việt Nam mà tôi nghe được từ các bạn bè nước ngoài là quá chuẩn xác.

Nhiều bài viết còn nói đến tâm lý “tự hào” về những nết xấu đó. Chẳng hạn, một lần tôi đọc trên mạng câu chuyện khoe thành tích ăn cắp đầy hãnh diện trong một vụ việc gì đó[1].

Các nhà chức trách nghĩ gì về việc nâng cao cái dân trí cho người lao động Việt Nam, và làm sao cải thiện được chất cái ta vẫn gọi là “Nguồn nhân lực” cho phát triển đất nước?

V.C.Đ.

Thánh nhân và quá khứ tội lỗi

Thánh nhân và quá khứ tội lỗi

Chuacuuthe.com

Monica-8-27

VRNs (18.11.2014) – Sài Gòn – Trước mặt Thiên Chúa chí thánh, chẳng có ai nhân lành, “chỉ một mình Thiên Chúa nhân lành” (Mc 10:18). Ngoài ra, ai cũng lần mò tìm về Nhà Cha qua con đường tội lỗi và thứ tha: “Nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130:3). Các thánh là những “anh hùng đức tin”. Mỗi nhà mỗi hoa, mỗi người mỗi cảnh, và về con đường nên thánh cũng vậy, mỗi người mỗi cách. Có các vị thánh sống đạo đức từ nhỏ, nhưng cũng có các thánh đã từng sống tội lỗi một thời, nhưng rồi họ đã hoán cải và họ đã nên thánh. Đừng nản chí, thất vọng, hãy tin tưởng và cố gắng để nên thánh bằng cách vươn lên từ đống xà bần tội lỗi!

Thánh Augustinô: Ăn chơi phóng đãng

Chẳng ai “xa lạ” với vị thánh đã từng “ngang ngược” này. Có thể nói rằng Thánh Augustinô (354-430) là người “nổi tiếng” nhất về quá khứ tội lỗi, nhưng “phúc đức tại mẫu”, ngài có được người mẹ đạo đức là Thánh Monica. Thánh Augustinô giỏi giang, thông minh, nhưng từ bỏ sự giáo dục Kitô giáo để sống buông tuồng, ăn chơi trụy lạc, có con ngoại hôn với một phụ nữ trẻ, nhưng lại kết hôn với một phụ nữ giàu sang, vì phụ nữ này có của hồi môn. Nhờ người mẹ kiên trì cầu nguyện, theo con tới mọi nơi, và người mẹ đã được Thiên Chúa cho mãn nguyện. Augustinô đã hoán cải, trở thành linh mục, rồi làm giám mục GP Hippo. Ngài viết cuốn “Confessions” (Tự Thuật hoặc Tự Thú) nổi tiếng cho tới ngày nay. Ngài đã từng cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin ban cho con đức khiết tịnh, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”. Và ngài hối tiếc: “Con yêu Chúa quá muộn màng”. Với kinh nghiệm bản thân, Thánh Augustinô nhận định: “Không thành nhân nào không có quá khứ, không tội nhân nào không có tương lai”. Thánh Augustinô được Giáo hội tôn phong là tiến sĩ Giáo hội và là bổn mạng của “dân ăn chơi” (vì ngài đã từng ăn chơi xả láng), lễ ngày 28 tháng Tám.

Thánh Maria Ai Cập: Gái điếm nổi tiếng

Thánh nữ Maria (344-421) làm gái mại dâm từ lúc mới 12 tuổi, và “hành nghề” này 17 năm. Một lần hành hương tới Giêrusalem dịp lễ Suy Tôn Thánh Giá. Thật ra bà không có ý tốt, mà chỉ muốn đi với đoàn hành hương để kiếm khách thôi. Nhưng rồi bà đã hoán cải khi thấy Thánh tích Thánh Giá mà đoàn hành hương kính viếng. Khi đó, bà muốn vào nhà thờ nhưng người quá đông, và có sức mạnh bí ẩn giữ chân bà ở ngoài nhà thờ. Nhìn thấy tượng Đức Mẹ, bà xin ơn tha thứ và hứa từ bỏ cuộc sống tội lỗi nếu bà vào được trong nhà thờ. Và bà đã vào được, từ đó bà quyết tâm trở về với Chúa. Bà sống ẩn dật, ăn chay, hãm mình và cầu nguyện suốt 47 năm. Thánh Maria Ai Cập là bổn mạng của những người chống lại cám dỗ về tình dục, lễ ngày 1 tháng Tư.

Thánh Angela Foligno: Kiêu ngạo và ngoại tình

Thánh Angela (1248-1309) được ghi tên vào sổ bộ các thánh năm 2013, không cần qua các thủ tục thông thường. Bà sinh tại Foligno, miền Trung Ý, không xa Assisi. Cuộc đời bà luôn đi tìm sự giàu sang, vật chất và niềm vui. Bà sinh trưởng trong một gia đình giàu có, kết hôn với người thượng lưu, có vài đứa con. Lúc 40 tuổi, dù giàu có nhưng bà cảm thấy cuộc sống trống rỗng, nên bà quyết tâm tu thân tích đức. Ba năm sau, chồng và các con đều chết hết, bà bán hết gia sản và gia nhập Dòng Ba Phanxicô. Bà thành lập một nhóm phụ nữ làm từ thiện và phục vụ người nghèo. Thánh Angela là bổn mạng các bà góa, lễ ngày 8 tháng Một.

Chân phước Bartolo Longo: Linh mục của quỷ

Sinh trưởng trong một gia đình Công giáo đạo đức, Bartolo Longo (1841-1926) vẫn lần Chuỗi Mân Côi với gia đình mỗi buổi tối. Nhưng tuổi trẻ ham vui, ngài xa rời đức tin trong những năm học đại học. Ngài quan tâm những điều huyền bí nên đã trở thành linh mục của giáo phái Satanist (tôn thờ ma quỷ). Gia đình và bạn bè luôn cầu nguyện cho Bartolo trở lại, và Thiên Chúa đã nhậm lời họ. Để chấn chỉnh đời sống tội lỗi, Bartolo xin gia nhập Dòng Ba Đa-minh và giúp các sinh viên nhận biết cái xấu của giáo phái này mà tránh, đồng thời mở các trại mồ côi, trường học và viện tế bần.

Hồi trẻ, Bartolo theo ngành Luật, bỏ đức tin và theo giáo phái Satanist. Bartolo nhiệt thành đến mức tự phong mình là linh mục của Satan. Ông hầu như đánh mất chính mình, chỉ còn như chiếc bóng của mình. Một người bạn Công giáo thấy ông đáng thương về tâm linh, tâm lý và thể lý, đã xin ông đến gặp Lm Radente, một tu sĩ khôn ngoan của Dòng Đa-minh. Sau một thời gian, Bartolo đã xưng thú tội lỗi và được linh mục này linh hướng. Bartolo hoán cải, gia nhập Dòng Ba Đa-minh, lấy tên là Brother Rosario.

CP Bartolo viết: “Ơn gọi của tôi là gì? Viết về Đức Mẹ, ca tụng Đức Mẹ, yêu mến Đức Mẹ”. CP Bartolo đến với người nghèo, người bị bỏ rơi, và người khốn khổ nhất trong thành phố Pompei. Ngài dạy họ cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi. Nhờ sự giúp đỡ của nữ bá tước Countess Mariana de Fusco, Bartolo đảm nhận việc xây Đền thờ Đức Mẹ Mân Côi tại Pompei. Và rồi thành phố này đã trở nên Thành Phố Kinh Mân Côi.

Thấy các nữ tu Dòng Đa-minh chăm sóc người nghèo, CP Bartolo đã mở trường cho các em trai. CP Bartolo viết rất nhiều để ca tụng Đức Mẹ Mân Côi. Lời cầu nguyện của CP Bartolo với Đức Mẹ Mân Côi đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ. Ngày 7-10-2003, khi đến Pompei để bế mạc Năm Mân Côi, ĐGH Gioan Phaolô đã dùng lời cầu nguyện của CP Bartolo. Tại Ý, hằng năm vào Chúa Nhật đầu tiên của tháng Mười, mọi hoạt động như tạm ngưng vào buổi trưa, mọi người già hoặc trẻ, giàu hoặc nghèo, khỏe mạnh hoặc đau yếu, đều dùng lời cầu nguyện của CP Bartolo để dâng lên Đức Mẹ Mân Côi. CP Bartolo qua đời ngày 5-10-1926, trong Tháng Mân Côi.

Trong lễ tuyên chân phước cho Tông Đồ Kinh Mân Côi Bartolo tại Longo năm 1980, ĐGH Gioan Phaolô II đã gọi ngài là “l’uomo della Madonna” (Người của Đức Mẹ) và nói: “Tay cầm Chuỗi Mân Côi, CP Bartolo muốn nói với chúng ta rằng: Hãy đánh thức niềm tin của chúng ta vào Đức Mẹ”. Lễ CP Bartolo Longo ngày 5 tháng Mười.

TRẦM THIÊN THU

Việt Nam đứng đầu Đông Nam Á về bệnh tiểu đường

Việt Nam đứng đầu Đông Nam Á về bệnh tiểu đường

Theo thống kê, số người mắc bệnh tiểu đường ở Việt Nam đã tăng hơn 200% trong thập niên qua.

Theo thống kê, số người mắc bệnh tiểu đường ở Việt Nam đã tăng hơn 200% trong thập niên qua.

17.11.2014

Việt Nam hiện đứng đầu Đông Nam Á về tỷ lệ bệnh tiểu đường với 3,7% dân số mắc bệnh này, theo thống kê của Liên đoàn Tiểu đường Quốc tế IDF đưa ra hôm qua.

Báo Tuổi Trẻ trích khuyến cáo của IDF nói trong số khoảng 3,3 triệu người Việt đang bị bệnh tiểu đường có sự góp mặt ngày càng đông của giới trẻ và số ca tiểu đường gia tăng nhanh chóng không chỉ ở thành thị hay các khu công nghiệp mà cả ở các vùng núi.

Cứ 5 ca tiểu đường trên thế giới thì có 4 ca xuất phát từ các nước đang phát triển, và Việt Nam, một trong những quốc gia đang phát triển ở Đông Nam Á, đang dẫn đầu khu vực về số bệnh nhân tiểu đường.

Giới chuyên môn trong nước nói các yếu tố phát sinh từ lối sống như tình trạng thừa cân, béo phì, rối loạn trao đổi chất, và thiếu tập thể dục đã khiến số người bị tiểu đường loại 2 gia tăng.

Truyền thông trong nước cho hay theo một thống kê hồi tháng trước, số người mắc bệnh tiểu đường ở Việt Nam đã tăng hơn 200% trong thập niên qua.

TPHCM là khu vực có nhiều người bị tiểu đường nhất. Trong 10 năm qua, số ca bị tiểu đường trong thành phố gia tăng ở mức báo động là 300%.

Theo Tân Hoa xã, 65% bệnh nhân tiểu đường tại Việt Nam không được chẩn đoán chính thức trong khi đa phần những người đã được chẩn đoán chưa được điều trị đúng mức.

Tiểu đường là nguyên nhân gây chết người hàng thứ tư trên thế giới, làm giảm tuổi thọ con người từ 5 tới 10 năm.

Trên toàn cầu, cứ 6 giây có 1 người tử vong vì tiểu đường và cứ 20 giây lại có một người bị cắt cụt chân-tay vì biến chứng phức tạp của căn bệnh chết người này.

Tiểu đường làm tăng nguy cơ các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng khác như mù mắt hay suy thận, suy tim.

Giới chuyên môn nói tiểu đường có thể được ngăn chặn bằng cách điều trị sớm, ăn uống lành mạnh, và rèn luyện thể chất.

Những vấn nạn về hôn nhân và gia đình trong bối cảnh các gia đình Việt Nam

Video: Những vấn nạn về hôn nhân và gia đình trong bối cảnh các gia đình Việt Nam

httpv://www.youtube.com/watch?v=vlPfHztqHUg

10/27/2014

Phỏng vấn linh mục nhà văn Nguyễn Tầm Thường

Lan Vy: Kính thưa quý vị và anh chị em,

Thượng Hội Đồng Ngoại Thường về Gia Đình vừa mới bế mạc với phiên họp cuối cùng diễn ra vào tối thứ Bẩy 18 tháng 10. Những vấn đề được đưa ra thảo luận tại Thượng Hội Đồng xoay quanh những khía cạnh của hôn nhân và gia đình, là những vấn đề có lẽ đang gây tranh cãi nhiều nhất trong xã hội. Cho nên các phương tiện truyền thông đã truyền đi một khối lượng thông tin rất lớn chưa từng có về một Thượng Hội Đồng tại Vatican. Tiếc là trong đó có những thông tin sai lạc, làm nhiều người xao xuyến.

May mắn là trong dịp này chúng tôi mời được một linh mục Việt Nam đã nhiều năm hoạt động trong lãnh vực mục vụ gia đình để trình bày một vài khía cạnh về hôn nhân và gia đình.

Xin giới thiệu với quý vị và anh chị em: linh mục nhà văn Nguyễn Tầm Thường tác giả của những các sách suy niệm như Nước Mắt và Hạnh Phúc, Con Biết Con Cần Chúa, Mùa Chay và Con Sâu Bướm.. .

Chúng con xin kính chào, và xin cha gởi lời chào đến quý khán thính giả VietCatholic.

1) Lan Vy: Thưa cha, lần cuối cùng VietCatholic có dịp phỏng vấn cha cách đây đã 3 năm, trong thời gian qua sinh hoạt của cha như thế nào?

Lm. Nguyễn Tầm Thường: Tôi chia thời gian 1 năm thành 3 công việc:

Tôi dành 3 tháng hướng dẫn các nhóm hành hương để học hỏi Phúc Âm, cầu nguyện ở Đất Thánh.

Thời gian còn lại tôi tiếp tục đi các nơi có Công Giáo Việt Nam để giúp các khóa linh thao và các buổi tĩnh tâm cộng đoàn. Thí dụ tháng 10 này tôi đang ở Úc để giúp 3 khóa linh thao và tĩnh tâm cho 4 cộng đoàn. Hết tháng 10 tôi rời Úc, qua Nhật để giúp các khóa linh thao cho các đệ tử và các Sơ Việt nam tu ở bên đó.

2) Lan Vy: Các nghị phụ châu Phi phát biểu tại Thượng Hội Đồng Giám Mục đã nhắc nhở các nghị phụ tại Thượng Hội Đồng Ngoại Thường về Gia Đình rằng mối quan tâm chính của các ngài về việc chăm sóc mục vụ cho các gia đình không giống với những lo lắng của các giám mục ở các nước giàu có phương Tây. Cha có dịp đi nhiều cộng đoàn Công Giáo Việt Nam Hải Ngoại, và cả trong nước nữa. Như vậy, đối với các gia đình Việt Nam, ngay ở thời điểm này những gì cha cảm thấy băn khoăn nhất?

Lm. Nguyễn Tầm Thường: Tôi thấy nhiều cuộc hôn nhân đổ vỡ và con cái không tha thiết với đức tin Công Giáo của bố mẹ. Tôi không biết chính xác, nhưng qua các buổi tĩnh tâm các nơi, tôi có cảm tưởng con số này có chiều hướng gia tăng

3) Lan Vy: Một trong những vấn nạn mà chúng con thấy Á Châu mình giống châu Phi lắm là cái chuyện đa thê. Trong trường hợp một người đa thê xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo thì thông thường Giáo Hội giải quyết vấn đề này như thế nào, thưa cha?

Lm. Nguyễn Tầm Thường: Ngày xưa thì đây là vấn đề lớn vì cha ông chúng ta có câu: Trai thì năm thê bẩy thiếp, gái chính chuyê n thì chỉ có một chồng. Hôm nay tôi nghĩ không là vấn đề phổ thông nữa. Luật pháp Việt Nam cũng như Tây cũng không chấp nhận. Nhưng giả sử có đa thê thì người đó không thể rửa tội. Một vợ một chồng là giáo lý của Giáo Hội.

4) Lan Vy: Trong bối cảnh của gia đình Việt Nam, theo cha thì đâu là những thách đố của hôn nhân khác đạo. Trước màn ảnh truyền hình này, chắc chắn sẽ không thiếu những thanh niên và thiếu nữ Việt Nam chuẩn bị bước vào một cuộc hôn nhân khác đạo. Cha có những lời khuyên nào dành cho họ không?

Lm. Nguyễn Tầm Thường: Trước hết xin cho tôi một suy nghĩ riêng tư ở đây. Tôi phân biệt ĐẠO và TÔN GIÁO. ĐẠO là cái TÂM của con người, nó là nhân đức, như yêu thương, như công bằng, như hiếu thảo. Tôn Giáo là những điều mình tin, mình xin, mình giữ. Có người không theo tôn giáo nào nhưng họ vẫn có tâm tốt. Tôi nghĩ không nên gọi họ là người không có đạo. Họ có ĐẠO chứ, đó là tâm đạo.

Bây giờ, đối người Công Giáo trước hôn nhân không cùng tôn giáo thì sao?

– Đối với tôi, kết hôn cùng tôn giáo vẫn là tốt hơn. Vì đức tin, giáo lý, ơn sủng các bí tích trong Công Giáo hỗ trợ hôn nhân gia đình. Nhưng tình yêu đích thực của hôn nhân, nghĩa là hợp nhau là điều quan trọng, không thể vì khác biệt tôn giáo mà đánh mất tình yêu này. Nên nhớ họ không cùng tôn giáo nhưng họ có tâm đạo.

– Giáo Hội Công Giáo chấp nhận hôn nhân khác tôn giáo. Và Thiên Chúa chúc lành cho họ. Điều quan trọng là cả người Công Giáo và không Công Giáo cần học họi giáo lý về vấn đề này kỹ lưỡng trước khi kết hôn. Lý do là để hầu khác tôn giáo mà vẫn hạnh phúc trong hôn nhân.

5) Lan Vy: Những thay đổi sâu xa trong cơ cấu xã hội và ý thức xã hội đang tác động mạnh đến gia đình. Theo cha dự đoán thì đâu là những thách đố mà các gia đình người Việt tương lai sẽ phải đối diện?

Lm. Nguyễn Tầm Thường: Đây là suy nghĩ cá nhân tôi. Sự thiếu hiểu biết về giáo lý một cách phong phú của người lớn dẫn đến chỗ không trả lời được thắc mắc của các con. Cho nên thách đố lớn là làm sao lo cho đức tin của tuổi trẻ trong tương lai.

– Luân lý gia đình bị ảnh hưởng bởi lối suy nghĩ phóng khoáng Tây Pương đưa đến sống chung không hôn phối cũng bắt đầu nhiều.

(Thí dụ một câu hỏi rất căn bản: Thế nào là tội nặng, thế nào là tội nhẹ. Qua các cuộc tĩnh tâm cộng đoàn cho tôi thấy họ trả lời rất lung tung. Một thí dụ khác: Xưng tội thì Chúa tha tội, nhưng hậu quả của tội có được tha không? Thí dụ như giật hụi 10 ngàn đồng của người ta, cứ tôi xưng tội mà hết hay sao? Nếu phải trả thì những tội như nói xấu, gây chia sẽ, hậu quả nó cũng có chứ? Vậy cứ xưng tội là hết hay sao? Nếu phải đền trả mới hết thì đền bằng cách nào? Hoặc con cái hay hỏi: Tại sao phải đi lễ? Tôi thấy cha mẹ đều lúng túng trước những câu hỏi này.)

Chúng con cám ơn cha đã dành cho VietCatholic buổi phỏng vấn hôm nay.

ĐTC: Con người phải đặt ở vị trí trung tâm chứ không phải tiền bạc

ĐTC: Con người phải đặt ở vị trí trung tâm chứ không phải tiền bạc

Chuacuuthe.com 1

VRNs (17.11.2014) Sài Gòn- theo zenit- Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng để công việc, nghề nghiệp trên thế giới được thăng tiến người ta phải dựa trên Lời Chúa và phải biết thường xuyên cầu nguyện.

Đó là lời phát biểu của ĐTC hôm 14.11 nhân dịp Đại hội các nhà kinh tế thế giới hàng năm tại Rome. ĐTC nhắn nhủ họ rằng có một “cám dỗ lớn” là hay đặt lợi ích cá nhân trên lợi ích chung.

ĐTC nhắc họ nghĩ đến một thực tế của những người thất nghiệp: “Theo điều tra mang tính chuyên môn, các bạn đã thấy rõ một thực tế là hiện nay có rất nhiều người công việc bấp bênh, và số khác thất nghiệp; nhiều người trẻ vất vả tìm việc”.

Đức Thánh Cha mời gọi các chuyên gia kinh tế rằng hãy đặt lợi ích chung của mọi người trên lợi ích riêng của mình.

Điều này “Đòi buộc nơi tất cả mọi người”, đặc biệt là những người làm việc trong các lĩnh vực kinh tế tài chính”, nhằm đóng góp một cách tích cực trong vai trò xây dựng cuộc sống hằng ngày, dẫu biết rằng có những điều lệ, lịch sử và khuôn mặt riêng.”

Để làm điều này, cần phải có đời sống cầu nguyện và sống Lời Chúa đồng thời phải biết “đi ra” gặp gỡ và giúp đỡ những người nghèo, người bị bỏ rơi.

Chống lại cách sống thực dụng

ĐTC nói rằng nền kinh tế và tài chính là những chiều kích hoạt động của con người, và là những cơ hội để “gặp gỡ, đối thoại, hợp tác, nhận ra những giá trị chân thật, phục vụ không đòi đền đáp và thăng tiến phẩm giá công việc.” ĐTC nhấn mạnh rằng nhân phẩm con người phải được ở trung tâm chứ không phải là tiền bạc.

Tiền không thể trở thành cứu cánh và nguyên do cho mọi hoạt động.

Nếu để tiền bạc làm cứu cánh thì người ta sẽ sống “thực dụng”, và không còn “tôn trọng con người”, hậu quả dẫn đến “sự sụp đổ sâu rộng các giá trị như sự đoàn kết và tôn trọng người khác.”

ĐTC khuyến khích các chuyên gia kinh tế hãy có “sự lựa chọn để thúc đẩy kinh tế và phúc lợi xã hội cho toàn thể nhân loại, giúp tất cả mọi người có cơ hội phát triển khả năng riêng của mình.”

ĐTC kêu gọi họ luôn có trách nhiệm trong hành động, thúc đẩy các mối quan hệ tốt đẹp, nuôi dưỡng lòng trung thành, công lý và tình huynh đệ, để giúp “giải quyết các vấn đề nơi người nghèo với lòng can đảm đặc biệt.”

ĐTC nói thêm: “vấn đề chính không phải là giải quyết hết được các thách đố về kinh tế nhưng làm sao khơi lên và nuôi dưỡng một nền đạo đức trong kinh tế, tài chính và công việc. Cần thiết để gìn giữ các giá trị của tình đoàn kết qua việc thể hiện lưu tâm đến các nhu cầu của người khác.”

ĐTC nói: “Nếu chúng ta muốn trao tặng cho thế hệ tương lai một môi trường cải thiện, một di sản kinh tế, văn hóa và xã hội tốt đẹp thì chúng ta phải đồng trách nhiệm làm việc có tính toàn cầu hóa trong tinh thần đoàn kết.”

Hoàng Minh