Người Việt đầu tiên được bầu làm chủ tịch điều hành nghiệp đoàn độc lập ở Úc

Người Việt đầu tiên được bầu làm chủ tịch điều hành nghiệp đoàn độc lập ở Úc

Thanh Trúc, phóng viên RFA
2014-12-07

RFA

12072014-vn-elct-austr.mp3

Khu chợ Bến Thành được người Việt xây dựng ở Úc tấp nập người mua bán trong ngày Lễ (ảnh minh họa)

Khu chợ Bến Thành được người Việt xây dựng ở Úc tấp nập người mua bán trong ngày Lễ (ảnh minh họa)

Files photos

Thứ Năm 4 tháng 12 vừa qua, một người Úc gốc Việt là ông Nguyễn Đình Hùng chính thức trở thành chủ tịch Nghiệp Đoàn May Mặc, Tơ Sợi Và Giày Dép của tiểu bang New South Wales, trở thành người Việt đầu tiên được bầu vào chức vụ điều hành nghiệp đoàn độc lập của một tiểu bang.

Qua bài trao đổi với Thanh Trúc, ông Nguyễn Đình Hùng cho biết ngoài quá trình hơn 20 năm làm việc trong nghiệp đoàn Úc, ông còn là phó chủ tịch tổ chức Lao Động Việt chuyên bênh vực quyền lợi công nhân trong cũng như ngoài nước:

Chức chủ tịch của Nghiệp Đoàn May Mặc, Tơ Sợi, Giày Dép của tiểu bang New South Wales được bầu bởi những thanh viên trong nghiệp đoàn cho một nhiệm kỳ 4 năm .

Tôi cũng làm việc trong nghiệp đoàn này được hơn 20 năm, cũng quen việc và được tín nhiệm để điều hành một nghiệp đoàn theo những chính sách được chính phủ qui định, bảo đảm tài chánh của nghiệp đoàn được sử dụng theo đúng quyền lợi của thành viên. Theo tôi được biết thì cũng có một số người Việt Nam làm việc trong nghiệp đoàn nhưng có lẽ tôi là người đầu tiên được bầu làm chủ tịch Ban Điều Hành của một Nghiệp Đoàn tại Úc.

Thanh Trúc: Xin ông cho biết thể thức bầu cử người chủ tịch Ban Điều Hành của một Nghiệp Đoàn ở tiểu bang như thế nào?

Ông Nguyễn Đình Hùng: Theo hệ thống của nghiệp đoàn ở đây là phải có một liên danh và liên danh đó ra ứng cử theo đúng luật của nước Úc vì ứng cử và bầu cử phải có sự giám sát của chính phủ. Tôn chỉ của liên danh chúng tôi là bảo đảm sự điều hành của nghiệp đoàn là sự quản trị đúng đắn theo đúng điều luật chính phủ Úc cũng như những điều lệ của nghiệp đoàn, bảo đảm tài chánh phải được thực hiện đúng luật, đem lại những dịch vụ giúp đỡ và tranh đấu cho những quyền lợi của công nhân trong ngành May Mặc, Giày Dép Và Tơ Sợi.

Thanh Trúc: Thưa ông phải chăng nghề may mặc đã từng và đang là một nghề quen thuộc đối với người Việt đến định cư tại Australia nói chung cũng như New South Wales nói riêng

Ông Nguyễn Đình Hùng: Ngành may mặc ở nước Úc này rất quan trọng đặc biệt đối với người Việt chúng ta. Hầu hết đồng hương đến Úc, đa số là phụ nữ, chưa rành tiếng Anh và hoàn cảnh con nhỏ hay vì phương tiện đi lại không được nhiều. Ngành may mặc lại rất dễ làm, dễ vào, dễ thực hiện bằng cách lấy hàng về nhà may, nó đáp ứng đúng nhu cầu là thời gian du di nếu làm được nhiều. Vì vậy rất đông phụ nữ Việt Nam làm trong ngành may này.

Và ngành may này nói chung không phải chỉ cộng đồng Việt Nam mà các cộng đồng di dân khác có công an việc làm khi mới đến.

” Tôn chỉ của liên danh chúng tôi là bảo đảm sự điều hành của nghiệp đoàn là sự quản trị đúng đắn theo đúng điều luật chính phủ Úc cũng như những điều lệ của nghiệp đoàn, bảo đảm tài chánh phải được thực hiện đúng luật, đem lại những dịch vụ giúp đỡ và tranh đấu cho những quyền lợi của công nhân trong ngành May Mặc, Giày Dép Và Tơ Sợi

Ông Nguyễn Đình Hùng”

Thanh Trúc: Thế thì với quá trình hơn 20 năm phục vụ trong Nghiệp Đoàn May Mặc, Tơ Sợi Và Giày Dép ở Bang New South Wales cho tới khi được bàu làm chủ tịch nghiệp đoàn này, ông đã làm được những gì để giúp đồng hương Việt Nam?

Ông Nguyễn Đình Hùng: Trong thời gian năm 1980 lúc đó luật lệ cho những người may mặc tại nhà chưa được rõ ràng lắm, họ không được hưởng quyền lợi theo đúng luật của công nhân may trong hãng. Rất nhiều người may tại nhà đã bị quỵt tiền bởi vì chủ nhân không liên lạc không cho biết hãng của họ là ở đâu, và những người khi bị giựt tiền như vậy thì không biết đi đâu để để đòi lại.

Nhiều người may tại nhà thì cũng rất sợ lên tiếng vì sợ mất công ăn việc làm. Lúc đó, bắt đầu thời gian 1994, tôi được vào Nghiệp Đoàn để bắt đầu chiến dịch tranh đấu cho những người may tại nhà, tranh đấu cho chính phủ Úc thay đổi những đạo luật để giúp đỡ, để bảo đàm cho những người may tại nhà được hưởng những quyền lợi giống như công nhân may tại hãng, đồng thời khuyến khích, đặc biệt là đồng hương Việt Nam may tại nhà, có tiếng nói cũng như mạnh dạn đứng lên đòi hỏi quyền lợi của mình.

Cho đến giờ thì những người may tại nhà đã có những quyền lợi rõ ràng và được qui định như người trong hãng. Thí dụ may bao nhiêu phải được lãnh lương bằng ngang với người trong hãng, được qui chế nghĩ phép thường niên, thâm niên . Khi bị thương tật thì cũng được chủ hãng mua bảo hiểm cho họ. Người may tại nhà không những phụ nữ Việt Nam không mà cộng đồng sắc tộc khác cũng rất mạnh dạn, thường xuyên lên tiếng đòi hỏi chính phủ phải ra những đạo luật để quyền lợi của họ càng ngày càng được cải thiện hơn.

” Bắt đầu thời gian 1994, tôi được vào Nghiệp Đoàn để bắt đầu chiến dịch tranh đấu cho những người may tại nhà, tranh đấu cho chính phủ Úc thay đổi những đạo luật để giúp đỡ, để bảo đàm cho những người may tại nhà được hưởng những quyền lợi giống như công nhân may tại hãng

Ông Nguyễn Đình Hùng”

Thanh Trúc: Xin phép được hỏi thêm cho rõ là khi đề cập đến những người Việt chuyên lãnh hàng may mặc về gia công tại nhà thì họ có phải là công nhân trực tiếp của một hãng xưởng hay không, họ lãnh tiền mặt hay ngân phiếu và nhất là họ có đóng thuế hay không để gọi là được bảo vệ quyền lợi lao động như ông vừa trình bày?

Ông Nguyễn Đình Hùng: Theo luật trong ngành may hiện thời, chủ hãng muốn đưa hàng cho công nhân may tại nhà thì phải đăng ký một danh sách những người may tại nhà như là công nhân trong hãng, phải gởi danh sách đó lên cho nghiệp đoàn, đồng thời phải gởi lên Ủy Ban Lao Động. Đạo luật thứ hai là phải ghi tên những người công nhân may tại nhà đó vào sổ lương và phải đăng ký lấy số thuê cho người công nhân đó.

Nếu chủ nhân không làm những việc đó là họ vi phạm luật lao động của nước Úc. Người công nhân may tại nhà đồng thời cũng có bổn phận phải khai thuế lợi tức hàng năm của mình. Đó là trách nhiệm của người công nhân may tại nhà. Nếu không làm như vậy mà tiếp tục lãnh hàng về, lấy tiền mặt và không khai thuế thì chủ nhân phải có trách nhiệm.

Thanh Trúc: Ông cũng là một nhà hoạt động trong tổ chức Lao Động Việt chuyên bảo vệ quyền lợi cho công nhân ở trong nước và lao động Việt đi sang nước ngoài. Ông nghĩ Việt Nam cần thiết phải có những nghiệp đoàn hay công đoàn độc lập như Nghiệp Đoàn May Mặc, Tơ Sợi Và Giày Dép mà ông đang điều hành ở New South Wales này không?

Ông Nguyễn Đình Hùng: Nghiệp đoàn của Úc và nghiệp đoàn của Việt Nam hoàn toàn khác nhau. Nghiệp đoàn bên Úc là nghiệp đoàn độc lập do công nhân bầu ra và điều hành, đem lại những dịch vụ bảo vệ cho công nhân trong ngành. Nghiệp đoàn ở Việt Nam thì không độc lập mà do sự chỉ định của nhà nước, không đứng về phía công nhân.

Trong thời gian qua có một thuận lợi tôi cũng là phó chủ tịch của Lao Động Việt cho nên trong thời gian qua chúng tôi tranh đấu cho Việt Nam có một nghiệp đoàn độc lập. Hiện Lao Động Việt đang tranh đấu sự ủng hộ của Nghiệp Đoàn Quốc Tế để đòi hỏi Việt Nam, nếu muốn vào TPP, thì phải công nhận quyền thành lập nghiệp đoàn độc lập. Nếu không có nghiệp đoàn độc lập tại Việt Nam thì công nhân hoàn toàn không có sự bảo vệ, không có tiếng nói cho những quyền lợi của mình.

” Nghiệp đoàn của Úc và nghiệp đoàn của Việt Nam hoàn toàn khác nhau. Nghiệp đoàn bên Úc là nghiệp đoàn độc lập do công nhân bầu ra và điều hành, đem lại những dịch vụ bảo vệ cho công nhân trong ngành. Nghiệp đoàn ở Việt Nam thì không độc lập mà do sự chỉ định của nhà nước, không đứng về phía công nhân

Ông Nguyễn Đình Hùng”

Thanh Trúc: Việt Nam cũng đã xuất khẩu lao động sang các nước, Lao Động Việt ở Australia đã làm gì để giúp đỡ cũng như bảo vệ quyền lợi cho họ khi họ chẳng may gặp trường hợp bị chủ sử dụng bản xứ ngược đãi hoặc bóc lột chẳng hạn?

Ông Nguyễn Đình Hùng: Một thí dụ cụ thể là năm 2008 có sự cầu cứu của công nhân may quần áo thể thao hiệu Nike bên Malaysia. Khi Lao Động Việt qua bên đó cùng với phóng viên đài truyền hình số 7 của Úc đã quay và phòng vấn những công nhân ở đó thì mới biết cả 400 công nhân ăn ở trong một nơi gọi là kho hàng, phải nằm trên đất vì không có giường. Bốn trăm người đều chung như vậy hết.

Chúng tôi đưa vấn đề lên công ty Nike bên Mỹ, sau đó đài truyền hình số 7 cũng đưa lên, thì họ phải buộc chủ nhân bên Malaysia thay đổi bằng cách đưa hết 400 người đó vào những căn hộ với điều kiện ăn ở căn bản, đồng thời trả lại cho họ 2.000 đô la đã lấy của họ từ Việt Nam trước khi đi qua lao động tại Malaysia. Thứ ba nữa là trả lương theo mức lương qui định cũng như có những bảo hiểm sức khỏe đàng hoàng cho hơn hai ngàn công nhân làm việc cho hãng Nike tại Malaysia.

Đồng thời, nhiều ngàn công nhân đình công tại Việt Nam thì Lao Động Việt đã có người đến giúp đỡ cho họ, cũng như can thiệp với những công ty chính ở nước ngoài hợp đồng sản xuất tại Việt Nam. Những trường hợp như vậy thì Lao Động Việt cũng giúp rất nhiều.

Xin cảm ơn ông Nguyễn Đình Hùng, một lần nữa xin chúc mừng ông trong chức vụ tân chủ tịch Nghiệp Đoàn May Mặc, Tơ Sợi Và Giày Dép của tiểu bang New South Wales, Australia.

TIỀN GIÀ & TÌNH GIÀ

TIỀN GIÀ & TÌNH GIÀ

Với 12 bài viết trong năm, cho thấy một sức viết mạnh mẽ, tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Định cư tại Mỹ từ 26 tháng Ba 1992, hiện là cư dân Cherry Hill, New Jersy, bà vui vẻ tự sơ lược tiểu sử “22 năm dạy học trong nước, 22 năm làm culi job trên đất Mỹ”. Bài mới được tác giả coi là một tạp ghi, tạm gọi là món quà cỏn con gởi đến quý bạn với lớp tuổi không còn trẻ nữa.

* * *

I- Trong bữa cơm tối, Chúc Minh nhìn lên tờ lịch trên tường, nói lớn:

– Ô, tuần sau là sinh nhật của tui đó nha, quý vị chuẩn bị quà cáp đi là vừa…

Hiển, chồng nàng từ trong bếp nói vọng ra:

– Trời đất, gần ăn tiền già rồi còn đòi quà sinh nhật.

Cả nhà cười vang vì sự chế giễu của Hiển. Chúc Minh xịu mặt. Hai đứa này chỉ hơn 40, không còn trẻ nữa, nhưng chưa phải là già. Mọi người biết rằng Hiển chọc ghẹo Chúc Minh cho vui thôi chứ anh chàng này nổi tiếng là nịnh vợ: Năm nào sinh nhật cô nàng anh cũng bày tiệc linh đình vì anh ta là chef cook của một nhà hàng Mỹ danh tiếng ở vùng San Diego này.

Tôi thoáng nghĩ ngợi về chuyện “ăn tiền già” qua câu nói của Hiển, thằng cháu rể rất dễ thương của vợ chồng tôi. Tiếng Việt thật lạ lùng, cái gì biểu hiện phúc lợi lập tức có chữ “ăn” đi kèm. Từ “ăn đám cưới, ăn đám giỗ, ăn tiệc, ăn chơi…” bây giờ ở Mỹ có thêm cụm từ “ăn tiền già, ăn tiền bệnh, ăn tiền thất nghiệp, ăn tiền SSI…”

Những người đi làm như chúng tôi khi về hưu sẽ không dùng từ “ăn tiền già” hay “ăn tiền trợ cấp” mà được gọi bằng “hưởng tiền hưu bổng”, tức là tiền mình đóng thuế trong thời gian làm việc, tùy theo mức lương cao hay thấp và thời gian làm việc ngắn hay dài.

Tự nhiên tôi cảm thấy cụm từ “ăn tiền già” mang ý nghĩa ngồ ngộ, đặc biệt cho thấy sự đãi ngộ người già, dĩ nhiên, chỉ có ở những quốc gia văn minh, giàu có. Điều này cho thấy rõ nhất sự quý trọng con người, đặc biệt sự quan tâm của xã hội khi biết rằng cuộc sống của họ đã đi gần đến chỗ “the end”. Bản thân tôi cũng đang nghĩ ngợi đến ngày nghỉ hưu, lúc đó hai đứa tôi sẽ trở thành hai con khỉ già ngồi chong ngóc thu lu trong nhà nhìn lá rụng.

Tự nhiên tôi lại có chút buồn khi nghĩ đến lúc về hưu, nghĩa là đoạn cuối của cuộc đời mình trước khi xuôi tay yên nghĩ. Tiền già tức là số tiền trợ cấp nhỏ cho người già trên 65 tuổi mà trước đó không cần có làm việc hay không, với điều kiện phải có quốc tịch Mỹ. Được biết số tiền này sẽ chênh lệch ít nhiều tùy theo tiểu bang mình cư ngụ và sẽ được đi kèm theo bảo hiểm y tế gọi là Medicare hay Medicaid. Một cặp vợ chồng già mỗi tháng sẽ có $1,440 ($720/người) và vài trăm tiền foodstamp để mua thức ăn.

Trước đây foodstamp in trên giấy đóng từng tập nhỏ cỡ tờ vé số, bây giờ chính phủ bỏ vô thẻ, người sử dụng sẽ “quẹt” như quẹt credit card. Số tiền này sẽ giúp cặp vợ chồng già sống ung dung đầy đủ, có thể đi chơi đây đó đôi lần trong năm nếu không phải trả tiền nhà và sức khỏe tốt không đau bệnh chi nặng nề.

Trường hợp thứ nhất tôi được biết về khoản tiền già này đối với vợ chồng người bạn ở San Jose là họ chỉ giữ lại $300 cho mỗi người, số còn lại phải phụ với con trả tiền mortgage. Nếu không ở chung với con mướn nhà ở thì hơi vất vả vì mướn apartment một phòng ngủ phải trên dưới $1,000/tháng. Nếu cặp vợ chồng già bạn tôi xin được housing của chính phủ thì tuyệt vì chỉ trả tiền nhà vài ba trăm một tháng.

Trong một bài viết về nước Mỹ tôi đọc đã lâu rồi, câu chuyện viết về bà mẹ già ở một mình nhưng quanh năm con cháu chia phiên nhau nghỉ phép về ở với bà, cho nên tuổi già của bà quá đỗi yên vui, vô vàn hạnh phúc! Cụ bà ấy phải được gọi là người hạnh phúc nhất trên đời này. Nếu người ta gọi tuổi trẻ là tuổi hồng, tuổi ngọc, thì bà cụ này phải được gọi là “tuổi hột xoàn” vì được con cháu trân quý, săn sóc chu đáo quá.

Trong tháng Tám, viết về nước Mỹ liên tiếp đăng tải hai bài nói về người Mẹ làm tôi xúc động bồi hồi. Đó là bài “Bà mẹ quê” của Philato và “Người Mẹ cô đơn” của Phan.

Bài trước là tình cảm của tác giả khi nói về mẹ mình một đời vất vả vì con, đến lúc “ra đi” con không gặp được Mẹ vì còn đang bôn ba “cải tạo”. Tác giả nghĩ đến kỷ niệm ấu thơ của mình khi sáu tuổi, nửa đêm thức giấc vì đói được mẹ mình cho củ khoai vùi bếp lửa thơm lừng mà theo ông không có bữa ăn nào trong đời ông ngon bằng. Thú thật khi đọc đến đoạn văn đó, tôi cũng cảm thấy trái tim mình thổn thức trước tình yêu mẹ con mà bóng của họ in hẳn lên phên vách nứa bếp lửa bập bùng. Đó là hình ảnh của bà mẹ trong nước không có tiền già.

Hình ảnh “Người Mẹ cô đơn” của Phan phải nhờ người dưng (là tác giả Phan) chở dùm đến chỗ trọ mới trong khi các con của bà bỏ lơ bỏ mặc. Bà mẹ này ở Mỹ có tiền già trợ cấp của chính phủ nhưng không có tình cảm mẹ con. Tự nhiên tôi lại nghĩa đến thân phận mình khi về hưu, khi bóng xế đầu non, khi vạt nắng cuối cùng của một ngày vội tắt.

Trường hợp thứ nhì tôi được biết về mảng đời thực của một người già ở Little Saigon lần thăm Cali hè vừa qua, làm tim tôi thêm một lần trật nhịp.

Buổi sáng hôm ấy, dậy sớm hơn mọi người tôi ra sân quơ vài động tác thể dục. Bỗng tôi thoáng thấy chiếc nón lá trồi lên hụp xuống ở khu vực chứa rác của khu nhà townhouse. Ở miền Đông Bắc mấy chục năm tôi có bao giờ thấy được chiếc nón lá? Tò mò, tôi bước lại gần. Một bà cụ già, già lắm, chắc phải gần tám mươi, bước ra khỏi khu vực thùng rác. Tôi chào. Bà cụ chào lại tôi. Cả hai không nói thêm lời nào. Tôi chợt hiểu khi nhận thấy dưới chỗ chân bà vừa bước ra, lổn nhổn vỏ chai coca, chai bia, nước suối… trong túi nhựa nylon. Bà cụ giở nón ra quạt cho mát. Mái tóc trắng bù xù và nụ cười dúm dó. Bà cho biết bà đang hưởng tiền già, nhặt thêm vỏ chai kiếm thêm chút đỉnh gởi về bên nhà cho đám cháu con nghèo khổ. Tôi choáng váng vì xúc động, thương cảm cho bà mẹ già, chân tôi như bị ai đóng đinh không bước đi được và nghe tim mình như bị ai trói chặt. Trời ơi, người mẹ Việt Nam nơi xứ người khổ sở đến thế hay sao?

Có lẽ cũng vài phút trôi qua, bà khách hỏi tôi:

– Cô à, cô có sao không vậy?

Tôi vùng thoát khỏi cơn mê, gượng gạo trả lời:

– Không sao, thưa bà, tôi từ xa đến chưa quen giờ giấc, thiếu ngủ nên thấy chóng mặt…

Người mẹ già băng qua đường với bao nylon đựng đầy vỏ chai trên tay. Tôi vẫn đứng yên, nhìn bóng bà xa dần, tay chân lóng ngóng.

II- Chúng tôi không thể ở lại San Diego để mừng sinh nhật Chúc Minh tuần tới vì đã hết ngày phép. Con nhỏ có vẻ không vui. Tôi nói với nó mai mốt về hưu có thể chúng tôi về Cali ở với chúng nó. Nó mừng rơn, gặng hỏi tôi: Thiệt hông dì? Thế rồi nó nói dì dượng xuống đây, con chừa cái Master bedroom cho hai ông bà, bao ăn ở chỉ charge $500 thôi. Tôi nói ô kê với điều kiện là sáng ăn tôm hùm chiều cháo bào ngư tối đi coi văn nghệ, vợ chồng nó cười ha hả.

Đến phi trường L.A. chân tôi tê cứng không bước xuống xe được, ông xã mới vịn tay tôi đỡ xuống xe. Vợ chồng Chúc Minh được dịp la bài hãi:

– Trời ơi hai ông bà già tình tứ quá!

Tôi cười:

– Già thì có tình già chứ, gừng càng già càng cay, mấy đứa bay không nghe người đời nói vậy sao?

Suốt 6 giờ đồng hồ từ L.A về đến N.J tôi cứ nghĩ ngợi về chữ “tình già”, tựa đề bài thơ mới đầu tiên của Phan Khôi xuất hiện trên báo năm 1932:

Hai mươi bốn năm xưa

Một đêm vừa gió lại vừa mưa…

.. Ôi tình nghĩa đôi ta thì rất nặng

Mà lấy nhau ắt là không đặng…

Lời thơ ngây ngô như lời nói, đầy đủ “thì, là, mà” nhưng gây sóng gió không nhỏ trong buổi đầu hình thành thơ mới. Người đời thường cho rằng vợ chồng về già chữ tình không còn, sống với nhau về nghĩa. Tôi không biết đúng sai, có điều tôi nhận thấy vợ chồng già tình cảm không còn sôi nổi, bộp chộp như hồi trẻ mà thấm đẫm hơn, sâu lắng hơn. Chắc vì lý do đó ca dao có câu:

Con cá làm ra con mắm

Vợ chồng già thương lắm mình ơi

Người xưa không sai chút nào khi dùng chữ “thương lắm”. Ủa, vậy người trẻ không “thương lắm” hay sao? Không hẳn là vậy, vợ chồng trẻ yêu nhau đắm đuối say mê nữa là đằng khác, nửa bước không rời. Nhưng chữ “thương lắm” dùng cho vợ chồng già mang một ý nghĩa dài lâu hơn, nghĩa là họ đã trải qua mấy chục năm dài lận đận với nhau, xẻ ngọt chia bùi. Theo tôi, câu hát trên nói về tình nghĩa vợ chồng lúc về già còn mang ý nghĩa cần thiết nữa. Qua rồi tuổi thanh xuân khi con cái đã đủ lông đủ cánh bay khỏi tổ ấm gia đình, chúng nó có vợ có chồng, có con cái, có nhà riêng, thì chỉ còn lại hai vợ chồng già trong cái mà người Mỹ gọi là “Empty nest”. Bây giờ ông nhìn bà, bà nhìn ông, cả hai mái đầu đều bạc, nay nóng lạnh, mai nhức đầu… Nếu không dựa vào nhau thì còn biết trông cậy vào ai

Trong tháng 7/2014, bài viết của tác giả Philato “70, chán mớ đời” khiến tôi đọc đến mấy lần vì thấy mình trong đó. Thực là chán quá chừng ở cái tuổi trên dưới 70, nghĩa là tuổi già lãng đãng khi nhớ khi quên, bước cao bước thấp, bệnh hoạn hà rầm…

III- – Bộ bà không biết đến thì giờ sao? Sáng đi làm, giờ này gần 12 giờ đêm còn đọc sách?

– Nhớ đóng cửa sổ lại, đêm nay chỉ có 42 độ, bà dễ ngươi là bệnh đó nghe!

– Nếu bà thấy mệt quá xin nghỉ hưu trước đi, một mình tôi làm gói ghém cũng đủ qua ngày mà…

Đó là những lời ông đã nói với bà cho thấy sự quan tâm âu yếm, nhưng bà chỉ ừ hử cho qua chuyện. Ông lớn tuổi hơn bà, người nghỉ hưu trước phải là ông mới đúng chứ?

Thời gian trôi nhanh hơn mình tưởng. Chúng ta chưa kịp hưởng tuổi thanh xuân của mình thì tuổi già hấp tấp đến gần. Tuổi bảy mươi còn toan tính gì được nữa đâu, chỉ mong còn chút vui bên con cháu, Thu đã sang thì mấy chốc Đông tàn?

Trước Noel đúng một tuần, năm nay, là 40 năm tình chồng vợ của hai đứa tôi. Tôi thấy lòng một chút bâng khuâng. Ôi tình yêu là hơi thở một đời và tình già rộng mở những bao dung cho một thời tàn lụi. Chúng tôi muốn gởi trao đến bạn đọc tất cả sự nồng nàn của tình già vì chúng ta làm sao biết được bao ngắn bao dài thời gian chúng ta còn ở bên nhau đâu?

Buổi tối ông thấy khó thở vì tim đập nhanh. Bà hơi lo cứ thức giấc canh chừng ông.

– Ông uống thuốc chưa? Uống nước cam không tôi pha cho.

– Bà ngủ đi, tôi uống thuốc rồi, chút là khỏi thôi.

– Nếu không được khỏe, mai tôi nấu cháo gà với sâm, kỷ tử cho ông ăn nha. Đừng ăn cơm khó tiêu. Nhớ đắp mền cho ấm người…

Tình già vậy đó. Nhưng không phải lúc nào cũng cơm lành canh ngọt. Cũng có lúc cãi cọ, khích bác, chế giễu lẫn nhau.

– Trời ơi sao ông lụi đụi quá vậy ông già?

– Bộ bà không già sao?

Có những lúc vì áp lực công việc ở sở, vì những gút mắc vụn vặt của gia đình, vợ chồng già cũng hục hặc với nhau, giận hờn nhau. Nhưng “giận thì giận mà thương thì thương” nên dễ dàng “huề vốn” với nhau lắm.

Sở dĩ tình già bền bỉ, theo thiển ý của chúng tôi, là ngoài tình yêu còn có sự quý trọng và bao dung, trên hơn hết là sự nhường nhịn nhẫn nại. Có phải người Việt Nam, đặc biệt là người phụ nữ Việt Nam lớp trước (như tuổi già của chúng ta hiện nay) ít muốn thay đổi, không thích mạo hiểm trong tình trường?

Để kết thúc bài viết tôi xin gời đến quý bạn đọc câu ca dao:

Anh buồn còn chốn thở than

Em buồn như ngọn nhang tàn thắp khuya.

Nhang đã tàn lại được thắp giữa khuya cho thấy sự lạnh lẽo cô đơn biết là chừng nào. Tình già đôi lúc cũng như thế. Tình già, có thể là tình vợ chồng dài lâu ân nghĩa, cũng thể là tình bạn thâm giao, chúng ta hãy cố gắng giữ gìn, sưởi ấm tình nhau.

Song Lam

Chuyện từ Đất lên Trời 100

Chuyện từ Đất lên Trời 100

Điều quan trọng chẳng phải là tuổi tác, mà là sức sống trong con người bạn, là sự can đảm chấp nhận thử thách, dám dấn thân vào những chuyến phiêu lưu trong hành trình vô tận của cuộc sống.

Điều quan trọng không phải là cuộc sống của bạn luôn luôn bằng phẳng, rằng bạn chưa bao giờ phải nếm trải nỗi đau, mà chính là tinh thần bất khuất, là con tim ngoan cường không chịu đầu hàng nghịch cảnh của bạn. Liệu bạn sẽ đối mặt với những khó khăn, thử thách của mình như thế nào? Liệu bạn có dám dấn thân, thử sức mình thêm một lần sau khi thất bại, hay lại run rẩy, thu mình lại vì sợ sẽ lại bị tổn thương? Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào bạn, vào bản lĩnh của bạn, và đó mới chính là điều quan trọng của cuộc sống.

Điều quan trọng không phải là bạn đặt ra cho mình bao nhiêu quy tắc sống, cũng không phải bạn đã tuân theo chúng nghiêm chỉnh như thế nào? Mà chính là thái độ của bạn với cuộc sống. Liệu bạn có dám yêu hết lòng, có dám thể hiện cảm xúc một cách tự nhiên thay vì kìm nén chúng vì những chuẩn mực nào đó mà mình đã đặt ra?

Điều quan trọng không phải bạn là người cứng rắn đến thế nào? Cũng không phải việc bạn chưa từng để người khác thấy những giọt nước mắt yếu đuối của mình, mà chính là khả năng vững vàng khi bị mọi người buộc tội chỉ vì đã dám sống thật với lòng mình và chính là sự tự tin ngay cả khi không ai trao niềm tin nơi bạn.

Điều quan trọng không phải bạn là người xinh đẹp ra sao? Không phải bạn sở hữu một làn da trắng ngần, một vóc dáng đáng mơ ước, mà chính là tâm hồn của bạn có thật sự nhạy cảm với nỗi đau đồng loại, có nhận ra vẻ đẹp cuộc sống, có biết tận hưởng từng ngày mà mình đang may mắn có được.

Điều quan trọng không phải là số của cải bạn đang sở hữu, cũng không nằm ở ngôi nhà lộng lẫy, chiếc xe sang trọng… mà chính là việc những vật chất đó có thực sự làm cho bạn hạnh phúc, có là phương tiện giúp bạn đạt đến mục đích cao đẹp của mình, hay là ông chủ mà suốt đời bạn phụ thuộc, tôn thờ?

Điều quan trọng không nằm ở việc bạn bè của bạn có quyền cao chức trọng không? Mà chính là tình cảm họ dành cho bạn, là lòng sẵn sàng sát cánh cùng bạn trong hoàn cảnh khó khăn.

Điều quan trọng không phải là bạn có bao nhiêu tấm bằng danh giá trong tay, không phải bạn đã học được những gì, với ai và ở nơi đâu, mà chính là cách bạn vận dụng chúng trong cuộc sống này, và ở việc chúng có thể giúp bạn vững vàng hơn, trưởng thành hơn hay không?
(Trích Hạt giống Tâm hồn)
httpv://www.youtube.com/watch?v=JBEt6l4aW7E&list=UU8Z8xvp0-Qwkhlsfcll6Zqg

VƯỢT QUA HẬN THÙ: TRƯỜNG HỢP CỦA NƯỚC PHÁP VÀ ĐỨC (SAU THẾ CHIẾN THỨ HAI)

VƯỢT QUA HẬN THÙ: TRƯỜNG HỢP CỦA NƯỚC PHÁP VÀ ĐỨC (SAU THẾ CHIẾN THỨ HAI)

Image result for Irène Laure (1898 – 1987)

Irène Laure (1898 – 1987).

Bài viết của  :   Đoàn Thanh Liêm

Trich Bán Nguyệt San Giáo Sĩ Việt Nam số 237

Giữa hai dân tộc nước Pháp và nước Đức đã từng có một sự hận thù nặng nề ghê gớm kéo dài trong nhiều thế hệ, phát sinh từ ba cuộc chiến tranh liên tục, bắt đầu từ năm 1870 với cuộc chiến tranh Pháp – Phổ (franco-prussian war), rồi đến đệ nhất thế chiến 1914 – 1918, và sau cùng là đệ nhị thế chiến 1939 – 1945. Nhưng kể từ giữa thập niên 1950, hai nước này đã vượt qua được sự thù hận ân oán lâu đời đó, để mà cùng hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm góp phần cực kỳ quan trọng vào việc xây dựng được một khối thị trường chung Âu châu (European Common Market). Và rồi tiến tới thêm một bước kỳ diệu nữa, đó là thiết lập được một thực thể chính trị kinh tế quan trọng bậc nhất trong thế giới hiện đại, tức là tổ chức Liên Hiệp Âu châu (European Union EU), mà hiện gồm có 27 quốc gia thành viên, với dân số tổng cộng là 500 triệu người, với đơn vị tiền tệ chung gọi là đồng euro, và tổng sản lượng quốc gia GDP lên đến 20 ngàn tỷ dollar (20 trillion).

Sự hòa giải và hợp tác giữa hai quốc gia cựu thù này có thể được coi là một sự kiện nổi bật nhất trong lịch sử của Âu châu nói riêng, cũng như của cả thế giới nói chung, trong thời cận đại kể từ khi thế chiến thứ hai chấm dứt vào năm 1945, cho đến đầu thế kỷ XXI của chúng ta ngày nay. Cái thành tựu vĩ đại và ngoạn mục như thế là do sự đóng góp về cả trí tuệ và về cả tâm hồn của biết bao nhiêu nhân vật xuất chúng từ phía cả hai dân tộc Pháp và Đức. Và bài viết này xin được ghi lại cái quá trình phục hồi và xây dựng hết sức tích cực của một số nhân vật kiệt xuất đó.

Để bạn đọc dễ dàng theo dõi câu chuyện, người viết xin trình bày sơ lược về bối cảnh lịch sử tại khu vực Tây Âu, trước khi mô tả chi tiết về tiến trình hòa giải và hợp tác của hai nước Pháp và Đức trong nửa sau của thế kỷ XX.

I – Bối cảnh lịch sử cận đại tại Tây Âu.

Như ta đã biết vào năm 1870, nước Pháp do Napoleon III lãnh đạo đã bị thất trận nhục nhã trước đội quân tinh nhuệ của nước Phổ (Prussia) dưới thời cầm đầu của thủ tướng Bismarck. Việc thất trận này đưa đến sự thóai vị của Hòang Đế Napoleon III và sự giải thể của nền Đệ nhị Đế chế ( the Second Empire) và sự ra đời cùa nền Đệ Tam Cộng Hòa ( the Third Republic) của nước Pháp. Nhưng nước Pháp lại còn mất cả vùng đất Alsace-Lorraine ở phía đông bị chuyển vào tay người Đức – (do nước Phổ sáp nhập hợp thành nước Đức thống nhất vào đầu thập niên 1870)-. Đây là cả một nỗi cay đắng hận thù sâu đậm của dân Pháp đối với người Đức. Chỉ cần đọc bài viết “ Buổi học cuối cùng” (La derniere classe) của nhà văn Alphonse Daudet, ta cũng đủ thấm thía cái nỗi niềm tủi nhục uất hận của người dân Pháp trong vùng đất bị tước đọat này.

Tiếp theo vào năm 1914 – 18, lại xảy ra cuộc thế chiến thứ nhất giữa phe Đức – Áo và phe Đồng Minh do Pháp – Anh đứng đầu. Cuộc chiến tranh này gây thiệt hại rất nặng cho cả hai nước Đức và Pháp. Vì Đức cuối cùng bị thua trận, nên vùng đất Alsace-Lorraine lại trở về với Pháp. Nhưng vì nước Đức bại trận bị đối xử quá khắc nghiệt, nên người Đức thật bất mãn, hận thù phe Đồng Minh, đặc biệt đối với dân tộc láng giềng là Pháp.

Cho nên, đến năm 1939 lại xảy ra thế chiến thứ hai rất tàn bạo khủng khiếp, mà bắt đầu vào năm 1940 nước Pháp thua trận và bị quân đội Đức quốc xã của Hitler chiếm đóng với sự đàn áp hết sức tàn bạo khốc liệt. Vì thế mà mối hận thù giữa hai dân tộc Pháp-Đức lại càng thêm nặng nề bi đát. Rốt cuộc, năm 1945 nước Đức lại thua trận nữa, và cả Âu châu bị tàn phá kiệt quệ với hàng chục triệu nhân mạng bị tiêu vong.

Như vậy là chỉ trong vòng 70 năm từ năm 1870 đến năm 1940, giữa hai dân tộc Pháp và Đức đã xảy ra 3 cuộc chiến tranh đẫm máu với bao nhiêu triệu người bị giết và tàn phế, bao nhiêu tài sản bị hủy họai, và nhất là sự căm thù giận ghét mỗi ngày lại càng thêm chồng chất tích lũy giữa hai bên.

II – Quá trình Hòa giải và Hợp tác Pháp – Đức sau năm 1945.

Sau khi cuộc chiến tàn bạo dã man kết thúc, người dân hai nước bàng hòang trước sự đổ nát hoang tàn và kiệt quệ về mọi mặt. Rồi tiếp liền theo là cuộc chiến tranh lạnh gay go căng thẳng giữa hai phe cộng sản do Liên Xô lãnh đạo và phe tư bản do Mỹ dẫn đầu. Nhằm lôi kéo khu vực Tây Âu về phía mình, kể từ năm 1948 nước Mỹ đã hào phóng viện trợ đến trên 13 tỉ dollar cho các quốc gia đồng minh tại đây thông qua một chương trình tái thiết Âu châu, mà thường được gọi là kế hoạch Marshall.

Nhưng vai trò chủ yếu trong công cuộc phục hồi, tái thiết và hòa giải ở Tây Âu là do các nhà lãnh đạo chính trị có tầm vóc đặc biệt lớn lao, điển hình như thủ tướng Konrad Adenauer của Tây Đức, ngọai trưởng Robert Schuman của Pháp, và đặc biệt là kế hoạch gia đại tài với viễn kiến sâu sắc Jean Monnet người Pháp. Đã có quá nhiều sách báo viết về sự đóng góp đồ sộ làm nền móng vững chắc cho sự tiến bộ của Âu châu từ trên 65 năm nay của những nhân vật chính trị kiệt xuất này, cho nên tôi thấy không cần phải trình bày dài dòng chi tiết thêm nữa về họ.

Mà đúng theo với nhan đề của bài này, tôi muốn viết về một nhân vật tiêu biểu của Xã hội Dân sự ở Âu châu, mà có sự đóng góp thật vĩ đại vào tiến trình hòa giải của hai dân tộc Pháp và Đức trong mấy thập niên gần đây. Nhân vật lỗi lạc đó chính là bà Irène Laure người Pháp, mà tôi xin dành được đề cập đến với nhiều chi tiết hơn trong phần tiếp theo liền sau đây.

III – Câu chuyện của Irène Laure ( 1898 – 1987).

Irene Laure xuất thân là một cán sự điều dưỡng và đã từng giữ nhiệm vụ quản lý bệnh viện.  Victor người chồng của bà là một thủy thủ và là môn đệ của nhà lãnh đạo cộng sản Pháp Marcel Cachin. Trong thế chiến thứ hai, Irène tranh đấu trong hàng ngũ kháng chiến tại vùng hải cảng Marseille chống lại quân Đức quốc xã. Bà có người con trai bị mật vụ Gestapo tra tấn tàn bạo, nên đã có sự căm thù tột cùng đến độ mong cho mọi người dân Đức phải chết hết, và “ quốc gia này phải bị xóa bỏ khỏi bản đồ của Âu châu”. Sau khi chiến tranh kết thúc, Irène được bầu vào Quốc hội Lập hiến và làm Tổng thư ký của tổ chức “Phụ nữ Xã hội Pháp” với số đòan viên lên tới 3 triệu người.

Tháng chín năm 1947, Irène đến tham dự một hội nghị quốc tế tại thành phố Caux Thụy sĩ, cùng với nhiều đại biểu từ các nước Âu châu. Hội nghị này là do tổ chức Moral Re-Armament MRA (Tái Võ trang Tinh thần) đảm trách, nhằm quy tụ nhiều nhân vật văn hóa xã hội, tôn giáo để cùng nhau trao đổi về vấn đề tái thiết Âu châu. Sẵn có sự căm thù đối với người Đức, Irène đã chuẩn bị rời bỏ Hội nghị khi được biết là có một số người dân Đức cũng tham dự cuôc gặp mặt này. Nhưng bà đã ngưng chuyện bỏ về, khi được một người trong Ban Tổ chức nói với Irène rằng : “ Bà là một người theo khuynh hướng quốc tế xã hội, làm sao mà bà lại có thể tái thiết được Âu châu, nếu bà loại trừ cả một dân tộc Đức?”

Dẫu vậy, khi được mời ăn bữa trưa với một phụ nữ Đức, thì Irène đã bị “xốc rất nặng”, đến nỗi phải nằm lì trong phòng suốt hai ngày đêm liền, không ăn không ngủ. Bà bị dằn vặt trăn trở với lửa hận thù còn ngùn ngụt nóng chảy trong tâm can, và cầu xin ơn trên hướng dẫn soi sáng cho mình. Sau cuộc tranh đấu nội tâm gay go căng thẳng này, Irène đã lấy lại được sự bình tĩnh và chấp nhận đến gặp người phụ nữ Đức như đã được giới thiệu cách đó mấy bữa.

Trong bữa ăn này, Irene không hề động đến món nào, mà lại xổ ra tất cả những gì đã chất chứa trong mình sau khi đã trải qua bao nhiêu sự tàn bạo của quân đội Đức quốc xã. Rồi bà nói với người đối diện : “ Tôi phải nói ra tất cả chuyện này, vì tôi muốn được giải thoát khỏi nỗi giận ghét này “ (I want to be free of this hate).

Một sự im lặng kéo dài. Thế rôi người phụ nữ Đức mới lên tiếng, chia sẻ với Irène về những gì bản thân mình đã trải qua trong thời chiến tranh. Bà này tên là Clarita von Trott có chồng tên là Adam vốn là một người chủ chốt trong vụ âm mưu ám sát Hitler vào ngày 20 tháng Bảy năm 1944. Âm mưu thất bại và Adam bị tử hình, để cho một mình Clarita phải nuôi nấng hai đứa con. Clarita tâm sự với Irène : “Người Đức chúng tôi đã không chống đối đủ, đã không chống lại chế độ quốc xã sớm hơn và với quy mô đủ lớn, và chúng tôi đã đem lại cho chị và cho chính mình và cho cả thế giới những đau khổ đầy đọa dằn vặt không sao kể cho xiết được. Tôi muốn nói lời xin lỗi với chị “ (I want to say I am sorry).

Sau bữa ăn này, hai bà phụ nữ cùng các thông dịch viên đã yên lặng ngồi trên gác thượng nhìn xuống hồ Geneva. Rồi Irène lên tiếng nói vời người bạn mới người Đức rằng bà tin tưởng là nếu cả hai người cùng cầu nguyện, thì Thiên chúa sẽ giúp họ. Irène cầu kinh trước, xin cho mình được giải thoát khỏi lòng hận thù để có thể còn xây dựng được tương lai. Và rồi đến lượt Clarita cầu nguyện bằng tiếng Pháp. Irène bất giác đặt tay trên đầu gối của kẻ thù địch trước đây của mình. Sau này, Irène tâm sự : “Từ lúc đó, cây cầu bác ngang qua sông Rhin đã được xây dựng, và cây cầu đó đã đứng vững mãi, không bao giờ gẫy đổ được.” (And that bridge always held, never broke)- (Ghi chú : Sông Rhin là biên giới giữa hai nước Pháp và Đức).

Cuối cùng Irène đã phát biểu trong một phiên họp khoáng đại của Hội nghị trước sự hiện diện của 600 tham dự viên. Bà nói : “ Tôi đã ghét nước Đức đến độ muốn thấy nước này bị xóa bỏ khỏi bản đồ châu Âu. Nhưng tại đây, tôi thấy sự hận thù của mình là điều sai lầm. Tôi xin lỗi và tôi mong được xin tất cả các bạn người Đức có mặt nơi đây tha thứ cho tôi…” Liền sau đó, một phụ nữ Đức bước lên và nắm tay bà Irène. Sau này Irène thuật lại : “ Lúc đó, tôi biết rằng tôi sẽ dành hết cuộc đời còn lại của mình để đem cái thông điệp của sự tha thứ và hòa giải này đến khắp thế giới.”

Và quả thật vào năm sau 1948, Irène cùng chồng là Victor đã qua bên nước Đức suốt 3 tháng , đi khắp nơi để tham dự 200 phiên họp và phát biểu tại Quốc hội của 10 tỉnh bang của xứ này. Ở đâu, bà cũng nói lời xin lỗi của mình. Và đổi lại, thì cũng có rất nhiều vị tướng lãnh và sĩ quan, cùng các chính khách người Đức cũng đều lên tiếng xin lỗi với bà.

Và đó là bước khởi đầu cho cả một quá trình lâu dài của sự hòa giải và hàn gắn giữa hai dân tộc Pháp và Đức, ngay từ hạ tầng cơ sở của quảng đại quần chúng nhân dân tại hai nước. Có thể nói là cái “phong trào quần chúng tự phát này” đã có tác động mãnh liệt thúc đảy cho tầng lớp lãnh đạo chính trị tại hai quốc gia này thực hiện mau chóng sự Hòa giải và Hợp tác Hội nhập giữa hai dân tộc và góp phần chủ yếu vào công cuộc xây dựng thành công cho Liên Hiệp Âu châu như ta thấy ngày nay ở thế kỷ XXI vậy./

California, Tháng Hai 2011

Đoàn Thanh Liêm

Vatican chấp thuận việc tiến hành hồ sơ tuyên thánh cho cha Trương Bửu Diệp

Vatican chấp thuận việc tiến hành hồ sơ tuyên thánh cho cha Trương Bửu Diệp 12/6/2014

VUI MỪNG VÀ HY VỌNG.

Văn phòng Cáo Thỉnh Viên vụ án phong thánh cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp chính thức lên tiếng

Kinh xin ơn với tôi tớ Chúa – Cha Fx. Trương Bửu Diệp

Lời chứng của Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt về Cha Px.Trương Bửu Diệp

Kinh xin ơn với Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận

Kính thưa quí bà con lương giáo, quí ân nhân đang yểm trợ việc tuyên thánh cho Cha Phanxicô Xaviê Trương bửu Diệp.

Hồ sơ tuyên thánh Cha Phanxicô Xaviê Trương bửu Diệp đã được Đức Giám Mục có thẩm quyền, tức Đức Cha, Stêphanô Tri bửu Thiên, Giám Mục Cần Thơ chính thức cho xúc tiến từ ngày 25.8.2011. Và tôi, linh mục Phêrô Trần thế Tuyên, cáo thỉnh viên được chính thức bổ nhiệm đã cố gắng hết sức lo sao cho tiến trình tuyên thánh được phù hợp với Giáo Luật và được mọi người lương giáo ủng hộ. Một trong những cố gắng nầy là tôi đang sang học chương trình tiến sĩ Giáo Luật ở Roma trong ý hướng chuẩn bị chu đáo cho nhiệm vụ của mình.

Một trong những kết quả lớn lao và rất đáng vui mừng và hy vọng là ngày 31 tháng 10, năm 2014 vừa qua, Thánh bộ Tuyên Thánh ở Rôma đã gửi văn thư chính thức bằng tiếng La Tinh cho Đức Cha Stêphanô Tri bửu Thiên, Giám mục Cần Thơ tuyên bố: NIHIL OBSTAT – KHÔNG CÓ GÌ NGĂN TRỞ trong việc tiến hành hồ sơ tuyên thánh cho Cha Diệp.

Qua văn thư Nihil Obstat của Thánh Bộ tuyên thánh, chúng ta, những người yêu thương và thọ ơn Cha Diệp vừa vui mừng, vừa mạnh dạn hơn và vừa tích cực hơn trong việc thực hiện tiến trình tuyên thánh cho Cha và cầu xin tiến trình được sớm thành công.

Hôm nay ngày 5.12.2014 tôi đã đóng nộp lệ phí 150 EUR cho Thánh Bộ theo qui định cho việc ra văn thư Nihil obstat nầy. Xin kèm theo đây văn thư Nihil obstat bằng tiếng la tinh cũng như bản dịch sang tiếng Anh và tiếng Việt.

Vui mừng, hy vọng và cầu nguyện.

Lm. Phêrô Trần thế Tuyên

Cáo thỉnh viên

chafanxicotruongbuudiep.jpg
nihilobstat.jpg

(VCN 05.12.2014)

Bão Hagupit ập vào Philippines

Bão Hagupit ập vào Philippines

Tuy chưa mạnh tới mức siêu bão, nhưng bão Hagupit là cơn bão dữ dội nhất thổi vào Philippines trong năm nay.

Tuy chưa mạnh tới mức siêu bão, nhưng bão Hagupit là cơn bão dữ dội nhất thổi vào Philippines trong năm nay.

07.12.2014

Bão Hagupit đã ập vào Philippines, mang theo những trận mưa lớn và những cơn gió giật có cường độ 210 kilomét giờ.

Tin tức cho biết bão đã ập vào thị trấn Dolres ở tỉnh Đông Samar hồi tối thứ bảy.

Văn phòng Phòng vệ Dân sự Philippines nói rằng hơn nửa triệu người hôm thứ sáu đã di tản khỏi vùng duyên hải và những nơi dễ bị nạn đất chuồi.

Các nhà dự báo thời tiết nói rằng bão Hagupit sẽ ảnh hưởng tới những khu vực ở miền trung, là nơi đã bị tàn phá bởi Siêu bão Haiyan hồi năm ngoái.

Các giới chức cho biết phân nửa các tỉnh ở Philippines được xem là có rủi ro bị bão Hagupit hoành hành.

Các chuyên gia thời tiết cảnh báo rằng tuy chưa mạnh tới mức siêu bão, nhưng đây là cơn bão dữ dội nhất thổi vào Philippines trong năm nay.

Cán bộ ở miền Tây liên tục treo cổ tự tử

Cán bộ ở miền Tây liên tục treo cổ tự tử

Nguoi-viet.com

TỔNG HỢP (NV)Chỉ trong 2 ngày, hai cán bộ đương chức ở hai tỉnh miền Tây đã treo cổ tự tử, gây xôn xao dư luận.

Theo Người Lao Ðộng, sáng 5 tháng 12, gia đình ông Dương Lê Dũng (58 tuổi), nguyên giám đốc công ty lương thực Vĩnh Long, đã phát tang, đón khách đến viếng tại nhà riêng ở phường 1, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. Tang lễ diễn ra khá trầm lắng dù có nhiều khách là lãnh đạo các ban, ngành của tỉnh đến viếng.



Ðám tang ông Dũng lặng lẽ và ảm đạm. (Hình: Người Lao Ðộng)

Theo thông tin từ phía công an cho biết, ông Dũng mất ngày 4 tháng 12 do đã dùng quần treo cổ tự tử trong phòng tắm của phòng tạm giam.

Trước đó, ngày 12 tháng 11, ông Dũng đã bị cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công An ra quyết định khởi tố, bắt tạm giam để điều tra về hành vi “cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng.”

Theo phúc trình điều tra, năm 2012, công ty lương thực Vĩnh Long (là chi nhánh Tổng Công Ty Lương Thực Miền Nam, có 100% vốn nhà nước) đã ký 25 hợp đồng hợp tác kinh doanh với công ty Thịnh Phát Kon Tum với nội dung: Công ty lương thực Vĩnh Long cấp vốn cho công ty Thịnh Phát Kon Tum để mua sắn lát xuất khẩu nhưng thực chất là cho vay vốn với lãi suất từ 6-8%/năm. Trong quá trình làm ăn, công ty Thịnh Phát thua lỗ, dẫn đến nợ công ty lương thực Vĩnh Long trên 120 tỷ đồng.

Cũng trong ngày 5 tháng 12, ông Trần Thanh Lọng, phó trưởng công an huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau, cho biết đang tiến hành làm rõ nguyên nhân cái chết của ông Trần Khắc Tân (52 tuổi), giám đốc ngân hàng NN-PTNT, chi nhánh huyện Phú Tân.

Vào khoảng 1 giờ sáng cùng ngày, người nhà phát hiện ông Tân chết trong tư thế treo cổ tại khu nhà tập thể của đơn vị ở khóm 2, thị trấn Cái Nước, huyện Cái Nước.

Nhận được tin báo, công an huyện Cái Nước đã phong tỏa hiện trường đồng thời trình khám nghiệm hiện trường, lực lượng chức năng phát hiện trong túi áo ông Tân có chìa khóa và dãy số mật mã của kho quỹ ngân hàng Agribank, chi nhánh huyện Phú Tân.

Ông Lý Nam Hải, giám đốc ngân hàng Agribank tỉnh Cà Mau nhận xét: “Cái chết của ông Tân khiến đồng nghiệp hết sức bất ngờ vì trước đó, không ai phát hiện ông có biểu hiện gì bất thường. Có thể nguyên nhân khiến ông ấy tìm đến cái chết là do bị trầm cảm.” (Tr.N)

Ân nghĩa hay nợ nần?

Ân nghĩa hay nợ nần?

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Ngày Lễ Tạ Ơn rồi cũng đã qua đi trong bình lặng, nhưng những chùm đèn trang trí vẫn lấp lánh qua mùa Giáng Sinh và còn sáng trong đêm qua năm mới. Tôi không biết trong những ngày qua, nhân mùa Thanksgiving ở Hoa Kỳ, bình tâm mà nói, không biết chúng ta đã nhớ đến ai, nghĩ đến ai hay đã đền được ơn ai chưa?
Image result for picture of thank you

Những người Anh đến Tân Thế Giới (Châu Mỹ) những ngày đầu tiên, trên một con thuyền tên là Mayflower, sau này thường được gọi là “Người Hành Hương” (Pilgrims). đến Thuộc Địa Plymouth thuộc vùng Tân Anh (New England) khi mùa Đông đang đến, vì đói và lạnh, một nửa trong số họ đã qua đời vì không chịu nổi mùa Đông khắc nghiệt. Vào đầu mùa xuân, họ may mắn gặp được những thổ dân da đỏ tốt bụng giúp đỡ lương thực, dạy họ cách sinh tồn bằng cách trồng hoa màu, săn bắt để có lương thực. Về sau khi cuộc sống đã ổn định, người Pilgrims đã tổ chức một buổi tiệc để tạ ơn Chúa Trời cũng như những người thổ dân vì đã giúp cho họ có thể sống còn đến ngày hôm nay, bằng những bữa tiệc, mà sau này đã trở thành những buổi Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving) rất có ý nghĩa.

Nói chuyện mang ơn thì dễ nhưng trả ơn thì khó. Cuối cùng những thế kỷ sau, những kẻ ra ơn là những người Da Đỏ bị tập trung vào những khu dành riêng cho họ gọi là khu tập trung, và dùng nhiều phương cách để đồng hóa họ như buộc phải bỏ y phục dân tộc, cắt tóc ngắn, tập ăn muỗng nĩa, đặt tên lại theo cách của người da trắng, “văn minh hóa” bằng cách cưỡng ép trẻ Da Đỏ vào các trường nội trú, học tiếng Anh và Kinh Thánh, để cuối cùng hôm nay chúng ta thấy người Da Đỏ gần như bị diệt chủng.

Cách cư xử của 950 tù nhân nam nữ Anh quốc đi trên 11 chiếc thuyền buồm, đặt chân lên nước Úc, đã đối xử với thổ dân Úc là những người chủ nhà, cũng không khác gì hơn. Một chính sách đồng hóa và tiêu diệt thổ dân khốc liệt đã được thi hành. Từ năm 1930 đến 1970, 100,000 nghìn trẻ em thổ dân đã bị tách khỏi gia đình khi còn rất nhỏ từ tay cha mẹ, có người chỉ mới mười tháng tuổi, và đem nuôi tại khoảng 500 cô nhi viện, nhà thờ hay các gia đình trên khắp nước Úc để xóa bỏ tên tuổi, văn hóa, cội nguồn của chúng. Đó là sự kiện cố gắng diệt chủng thổ dân Úc hay là câu chuyện “những thế hệ bị đánh cắp” như lời xin lỗi được Thủ Tướng Kevin Rudd năm 2008.
thank you photo: thank-you thank-you.jpg

Khi người ta không muốn cho mình là kẻ chịu ơn, hay không muốn trả ơn thì cho chuyện người ta đã giúp đỡ mình là vì họ nợ mình, từ những kiếp trước hay ngay nhãn tiền. Bởi vậy, thay vì ta nói, “Anh mang ơn Em!” thì chúng ta lại nói, “Anh còn nợ Em!” Trả hết nợ là xong, chẳng có ơn mà cũng không còn nghĩa!

Khi nước Mỹ mở rộng vòng tay đón người vượt biên tị  nạn hay bỏ công của để điều đình với những kẻ thắng trận, cho những người tù chính trị được sang định cư tại Hoa Kỳ, thì đã có nhiều người cho rằng vì người Mỹ trước đây đã can thiệp vào chiến tranh Việt Nam, nên ngày nay phải có trách nhiệm đón người tị  nạn Việt Nam vào đất Mỹ. Nói chung là Mỹ nợ người Việt Nam nên phải trả, thế thôi!

Nghĩa là sòng phẳng, chẳng ai phải mang ơn ai.

Đọc lịch sử Hoa Kỳ, mới thấy quả là người Mỹ nợ nần quá nhiều, những món nợ không trả bằng tiền bạc mà trả bằng xương máu của thanh niên nước Mỹ. Chỉ nói đến các cuộc chiến tranh lớn, trong Thế Chiến Thứ I (1914-1918) người Mỹ đã nợ gì phe Anh, Pháp, Nga, Ý để phải hy sinh 35,516 người, không kể đến số mất tích và bị thương; Đệ II Thế Chiến (1941-1945) có 405,399 binh sĩ tử trận vì chung lưng với Đồng Minh (Nga- Anh- Pháp) để chống phe Trục (Đức- Nhật- Ý); Chiến Tranh Triều Tiên (1950-1953) Mỹ hy sinh 116,516 người, đã tiến đến sông Áp Lục để ngăn chặn làn sóng đỏ Trung Cộng; trong Chiến Tranh Việt Nam 58,209 thanh niên Mỹ hy sinh cho miền Nam trước hiểm họa Cộng Sản Bắc Việt với sự tiếp tay của Liên Xô-Trung Cộng.

Trong chúng ta, những người Việt trên đất Mỹ, đã mang ơn nước Mỹ, nhưng gần như hầu hết chúng ta đã quên hay không còn nghĩ đến.

Nếu nước Mỹ không văn minh, đạo đức, tự do và nhân đạo thì gia đình chúng ta đã không đến đây. Không nghe gia đình nào vượt biên giới phía Bắc để qua Vân Nam, Quảng Đông, cũng không nghe con tàu vượt biển nào được tàu Liên Xô vớt để đem về Mạc Tư Khoa.

Nhưng có những người mang ơn không muốn nói ra một lời cám ơn, đừng nói chi tổ chức được một ngày để tạ ơn nước Mỹ đã cho chúng ta đến đây, cơm no áo ấm, sống một cuộc đời có tự do, nhân phẩm và là nơi cho thế hệ con em chúng ta có cơ hội thăng tiến, trở thành con người hữu dụng.

Tôi không dám ngỏ một lời với tất cả người Việt hôm nay trên đất Mỹ, tôi chỉ dám hỏi số nhỏ bạn bè của tôi, những người bạn tù ngày trước, và cả cho tôi, đã có cơ hội nghìn vàng đến đây. Chúng ta còn nhớ ai đã lái chiếc xe đón gia đình trong ngày chúng ta đến phi trường John Wayne, hay một phi trường nào đó trên đất Mỹ? Ai đã đi thuê cho gia đình chúng ta cái apartment, là nơi chúng ta về trú ngụ trong những tháng năm đầu tiên ở đây? Ai là người mang chúng ta đến ngôi chợ, mua giúp cho chúng ta những món ăn để sửa soạn cho bữa ăn tự túc đầu tiên? Ai là người dẫn chúng ta đi lo những thủ tục nhập cư mà tất cả đối với chúng ta là những điều hoàn toàn lạ lẫm?

Ai là người ngồi bên cạnh chúng ta trong những ngày tập lái xe, với những bảng hiệu giao thông hãy còn lạ mắt?

Có bao nhiêu câu hỏi, nhưng chỉ có hai câu trả lời đơn giản: Có hay không!

Chúng ta đã đi qua bao nhiêu thành phố, đã trú ngụ trong bao nhiêu căn nhà, làm bao nhiêu nghề sinh sống, thay đổi bao nhiêu chiếc xe đi, gặp gỡ bao nhiêu bạn bè quen biết, nhưng tựu trung, chúng ta còn nhớ được những gì và những gì nay đã mờ nhạt trong trí nhớ.

Ngày Lễ Tạ Ơn qua đã lâu rồi, như nó đã từng đến và qua đi trong hơn hai mươi năm nay, từ ngày chúng ta đặt chân đến đây, và cùng với gia đình ăn bữa tối sum họp vào buổi chiều ngày Thứ Năm tuần thứ tư trên đất Mỹ.

Chúng ta đã từng nợ nần ai và đã từng đưa bàn tay ra cho ai vịn, giúp đỡ cho ai được một vài chuyện cần thiết? Câu chuyện không có gì là lớn lao, nhưng đôi khi chúng ta không muốn làm hay chưa làm được, vì vẫn thường nghĩ rằng nó là quá nhỏ!

Công an bắt giữ Nhà văn Blogger Nguyễn Quang Lập

Công an bắt giữ Nhà văn Blogger Nguyễn Quang Lập

06.12.2014

nguyen-quang-lap-622.jpg

Nhà văn Blogger Nguyễn Quang Lập.

File photo

Nhà văn cũng là Blogger Nguyễn Quang Lập người điều hành Blog Quê Choa nổi tiếng đã bị Công An TP.HCM bắt giữ chiều nay 6/12/2014.  Hãng tin AFP đưa tin này nhấn mạnh đây là Blogger thứ nhì bị bắt giữ trong vòng hai tuần qua.

Đông đảo công an đã khám xét nhà riêng của ông Nguyễn Quang Lập trong vài giờ và sau đó áp giải ông đi. AFP trích lời bà Hồ Thị Hồng vợ ông Nguyễn Quang Lập cho biết Công an cáo buộc chồng bà đưa các bài viết chống Đảng và Nhà nước lên mạng.

Nhà văn Blogger Nguyễn Quang Lập, 58 tuổi  là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Ông là nhân vật nổi tiếng ở Việt Nam, blog Quê Choa có số lượng hàng triệu người truy cập, còn trang facebook cá nhân của ông có 15.000 người chia sẻ. Một ngày trước khi nhà văn Nguyễn Quang Lập bị bắt, bạn đọc đã không thể truy cập blog Quê Choa.

Trên Blog Quê Choa, Nhà văn Nguyễn Quang Lập có những bài viết của ông và những bài của các blogger khác. Đề tài các bài viết vạch trần các vấn nạn trong đời sống chính trị xã hội của Việt Nam. Nhiều bài trên blog Quê Choa cũng phản ánh quan điểm chống lệ thuộc Trung Quốc của đại đa số nhân sĩ trí thức Việt Nam.

Hồi thứ bảy tuần trước, Công an TP.HCM cũng đã bắt giữ Blogger Hồng Lê Thọ 65 tuổi một Việt kiều hồi hương cũng với cáo buộc phát tán bài viết chống Đảng và nhà nước. Theo Tổ chức Phong viên không biên giới, Chính quyền Việt Nam đang giam giữ ít nhất 34 blogger.