23 tuổi nhận kết quả suy thận giai đoạn cuối

Hà Nội News

23 tuổi nhận kết quả suy thận giai đoạn cuối: “Em không hút thuốc, chỉ là ăn uống, ngủ nghỉ thất thường thôi, nhưng biết bao người khác cũng sống như vậy mà..

Giữa căn phòng tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, Duy ngồi bất động khi bác sĩ thông báo: “Em bị suy thận giai đoạn cuối, cần chạy thận nhân tạo ngay”.

Dù còn trẻ, không hút thuốc hay có lối sống quá buông thả, Duy vẫn không thể ngờ rằng những thói quen ăn uống thiếu lành mạnh và sinh hoạt thất thường lại dẫn đến hậu quả nghiêm trọng như vậy.

Duy phát hiện suy thận mạn giai đoạn IV từ một năm trước, nhưng vì bận ôn thi tốt nghiệp nên không khám và điều trị thường xuyên. Anh tự ý bỏ thuốc hai tháng. Gần đây, khi cảm thấy mệt mỏi và buồn nôn dữ dội, anh mới đến bệnh viện khám lại, nhận tin chức năng thận đã xuống đến giai đoạn cuối.

Giờ đây, Duy nằm trên giường bệnh, kim luồn vào mạch máu, máy lọc chạy rì rì bên tai, mỗi tuần ba buổi. Nhìn điện thoại nhận thông báo từ nhóm bạn về những buổi tụ tập ăn uống vui vẻ, chàng trai không khỏi hối tiếc về quá khứ. Trà sữa, nước ngọt, mì cay, đồ chiên rán từng là thực đơn hàng ngày. Những đêm thức đến hai, ba giờ sáng ôn thi, rồi lại ăn đêm. Khi một người bạn nhắc nhở về “lối sống khoa học”, Duy chỉ cười phá lên và đáp: “Ôi trời, sống sao cho vui đã”.

“Nếu được quay trở lại, em sẽ yêu lấy cơ thể chính mình hơn, nhưng mọi thứ đã quá muộn”, Duy thở dài.

(*) Nguồn: Thúy Quỳnh/VnExpress

(*) Ảnh minh họa: Minh Nhật/Dân trí

Nhìn lại việc thi tú tài Ở Việt Nam trước 1975

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

20/06/2025 

Hình Quảng Trường Thi Nam Định (năm 1897) (Nguồn: nguyentl.free. fr)

Việc thi cử ở nước ta đã có một truyền thống lâu đời truyền lại. Miền Nam sau này việc thi cử phần nào cũng tiếp nối cái tinh thần của truyền thống ấy. Thật vậy, nước ta đã có gần 20 thế kỷ dùng chữ Hán kể từ thời Bắc thuộc. Và 10 thế kỷ chữ Nôm đánh dấu thời kỳ tự chủ.

Việc thi cử tính ra cũng được ngàn năm.

Cái truyền thống ấy được Nguyễn Hiến Lê viết lại như sau: “Ở nước ta hiện nay, số hậu Duệ của giai cấp ấy kể ra cũng còn được kha khá, nhưng số người còn giữ được nếp nhà thì hiếm đấy; và tôi nghiệm thấy người nào giữ được cũng có vài nét chung rất dễ nhận ra: không ham danh lợi, chăm nom sự dạy dỗ con cái, yêu nước, thích văn chương, chuộng nghề dạy học và hình như có khiếu dạy học nữa” (Trích Mười câu chuyện văn chương, Nguyễn Hiến Lê, trang 82)

 Phải chăng truyền thống đó sản sinh ra những người thầy như giáo sư Hoàng Cơ Nghị, Trần Trọng Kim, Dương Quảng Hàm hay như thi sĩ Đông Hồ mà lúc chết học trò khắc trên bia hai câu thơ như sau:

“Ân sâu nghĩa nặng tình dài

Khóc thầy, khóc mãi, biết đời nào nguôi?”

Cũng Nguyễn Hiến Lê viết về thầy Dương Quảng Hàm trong cuốn Hồi ký của ông : “Tất cả học sinh trường Bưởi không ai không trọng thầy. Vì vậy, mà các bạn đồng sự Pháp, Việt cũng quý thầy nữa. Thật đáng tiếc, thầy không thọ, mất trong những ngày đầu cuộc kháng chiến ở Hà Nội.” (Trích Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, trang 65)

Giáo dục miền Nam đã tiếp nối cái truyền thống kính trọng ông thầy ấy. Ở miền Bắc thì họ mang thầy ra tố khổ như trong bài viết của Trần Huy Liệu: “Bóc trần quan điểm thực dân và phong kiến trong quyển “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim” (Tập san sử địa, số 6, 1955)

May là cụ Dương Quảng Hàm đã chết sớm.

Và họ bắt học trò phải “Quyết tâm thực hiện lời dạy của Hồ Chủ tịch và Thủ tướng Phạm Văn Đồng” (Tập san sử địa, số 4, tháng 11, 12-1955, Hà Nội)

Trước đó, khoa cử còn thiếu, các đời Đinh, Lê về trước chưa có thi cử. Việc tuyển chọn người chỉ là tùy tiện, không câu nệ, nhưng lại cũng không có phép tắc gì.

Kể từ năm 1072, đời Lý mới mở khoa thi chọn người tài ra giúp nước. “Con đường tìm người tài giỏi, trước hết là khoa mục, phàm muốn thu hút người tài năng, thì người làm vua một nước không thể nào không có thi cử” (Trích Lịch Triều Hiến Chương loại chí (LTHCLC) của Phan Huy Chú, phần mở đầu chương Khoa Mục Chí)

Cái mục đích mở khoa thi đã rõ ràng: Chọn người có tài. Nhưng chọn bao nhiêu? Chọn thế nào?

Đó là cả một vấn đề. Việc thi cử thời xưa còn nhiều điều bất cập như: Cái học từ chương quá, tỉ lệ thi đỗ quá thấp. 1000 người lấy một. Có sĩ tử đã để cả đời đi thi mới đỗ. Ông Đoàn Tử Quang tham dự cả thảy 21 khóa thi từ năm 20 tuổi. Cứ ba năm thi một lần, mãi đến năm 83 tuổi mới thi đỗ. Ông nội Ngô Tất Tố 7 lần đi thi, bố Ngô Tất Tố sáu lần, phần ông Tố hai lần đi thi.

Mặc dầu thi cử khó khăn, nhưng tổ chức thi cử rất nghiêm ngặt. Luật lệ nghiêm minh như ông Đỗ Nhuận viết vào năm 1484: “Việc lớn trong chính trị của Đế Vương, chẳng gì gấp bằng nhân tài… Khoa cử các đời thịnh nhất là đời Hồng Đức, cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng, đời sau không thể theo kịp.” (LTHCLC, phần Khoa Mục Chí).

Chỉ cần giữ lại mấy chữ: Lấy rộng rãi, cách chọn người công bằng. Đời sau không sánh kịp.

 Nếu nhìn lại việc thi cử ở miền Nam, tôi chỉ thấy việc thứ nhất còn chưa ổn, việc thứ hai có lẽ cũng không thua gi việc thi cử đời Hồng Đức cả. Trừ giai đoạn chót của VNCH, việc thi cử xem ra có một số trường hợp bê bối. Đã có dư luận đồn thổi về tình trạng con ông cháu cha, kẻ có tiền của.

Sau này đến đời vua chúa triều Nguyễn, phép tắc thi cử cũng vẫn nghiêm ngặt như vậy. Nhà vua xem xét từng ly từng tý việc học của các sinh viên trong trường Quốc Tử Giám. Ta hãy nghe lời phê phán vừa nặng nề vừa cho thấy mối quan tâm của vua Minh Mạng đối với tương lai giáo dục ra sao. Năm 1837, vua ra chỉ dụ: “Thế mà nhìn lại các học quan chỉ biết chiếu lệ thường khảo hạch cho có, gọi là đã làm xong chức vụ, còn quy trình giảng dạy thi lên lớp, tiến bộ ra sao, trình độ học sinh như thế nào, không lưu ý tới, thì bảo sĩ tử gắng sức ở chỗ nào” (Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ – Bộ Lễ- Q.192 : Học Hiệu)

Thật ra miền Nam có khá nhiều kỳ thi: Thi Tiểu học, thi nhập học lớp đệ thất các trường công lập, thi Trung Học Phổ Thông dành cho các lớp đệ tứ và thi Tú tài 1 và 2. Ở đây chưa kể việc thi trên Đại Học, thi tuyển vào trường chuyên nghiệp như Quốc Gia Hành Chánh, Đại Học Sư Phạm, các trường Kỹ Sư Phú Thọ như Điện, Công Chánh vv..

 Việc thi cử phần đông tiến hành tốt đẹp.

Tôi chỉ đưa ra một tỉ dụ. Việc thi vào đệ thất các trường công lập khó mà tránh khỏi một số trường hợp quen biết gửi gắm. Nhất là tại các tỉnh. Cho dù có gửi gắm cũng không phải là ăn tiền hay hối lộ. Có thể chỉ vài trường hợp cá biệt, đơn lẻ. Vì thế vẫn bảo đảm được chất lượng thi cử. Bằng chứng rõ ràng tỉ lệ các học sinh trường công thi đỗ thường cao hơn trường tư nhiều vì có sàng lọc rồi. Nếu trường tư thi đỗ đạt tỉ Lệ 20% thì trường công, tỉ lệ thí sinh thi đậu tú tài là 75% đến 85% hoặc hơn thế nữa.

Nếu tuyển sinh đệ thất không minh bạch thì kết quả thi đỗ Tú tài ở trường công tỉ lệ thi đỗ đã khác.

Có nhiều lớp, toàn thể học sinh đều thi đỗ. Đặc biệt một lớp 12, ban B, trường Pétrus Ký, vào năm 1970, toàn thể học sinh đều thi đỗ hạng Bình trở lên. Dĩ nhiên, cũng có trường hợp nhà trường dồn học sinh giỏi vào cùng một lớp. Sau này, lớp học này có nhiều học sinh xuất sắc được học bổng Quốc Gia đi du học và thành tài. Và một trong những học sinh ưu tú ấy, hai lần đỗ tú tài 1 và 2 hạng ưu, điểm trung bình toàn bộ các môn phải từ 16 trở lên và hiện nay ngoài công việc chỉ huy ở sở, anh đang giữ trọng trách chủ biên một tờ báo mạng toàn cầu.

Việc học còn từ chương

Việc này, Nguyễn Trường Tộ (1830-1871) ngay từ năm 1867 đã phê phán thẳng thừng và dứt khoát, ông viết: “Nhìn lại sử học của ta ngày nay, 1867, những điều thầy dạy, những điều trò học, toàn là những chuyện xa xưa. Lúc nhỏ thì học văn từ, thơ phú, lớn lên ra làm việc thì lại thấy luật-lịch-binh-hình… Xưa nay, trên thế giới chưa từng nước nào có nền học thuật như vậy… Nếu đem cái công phu cả đời đem tâm trí ra trau chuốt chữ nghĩa mà học những việc hiện tại như trận đồ, binh pháp, đắp thành giữ nước, sử dụng súng ống thì có thể chống được giăc…” (Trích Nguyễn Trường Tộ- Con người và di thảo, Trương Bá Cần, tr 76, NXB TPHCM, 1988).

Rất tiếc những lời cảnh báo về cái học từ chương, “toàn những chuyện xa xưa” không được vua quan để ý tới và kéo dài cho mãi đến bây giờ.

Mặc dầu việc phê phán của Nguyễn Trường Tộ nhằm vào thời kỳ còn nặng nho học, nhưng cái tinh thần ấy vẫn còn rơi rớt lại sau này. Chẳng hạn trong chương trình tiểu học của miền Nam sau này. Học trò tiểu học phải học thuộc lòng các bài địa lý, lịch sử, cách trí. Học thuộc lòng ra rả như cuốc kêu. Kể thật cũng tội. Các lớp trung học, nhất là ban Vạn vật thì vạn vật cũng là môn học thuộc lòng, môn học đào luyện trí nhớ tốn bao thì giờ công sức mà xét ra ít hữu dụng. Các môn sử ký, địa lý trong cách giảng dạy, trong cách chấm điểm còn nặng tính từ chương, thiếu óc phê bình, thiếu nghị luận. Ngay các bài giảng văn cũng được diễn giải một chiều, ước lệ, có bài bản sẵn, ít đi ra ngoài thông lệ, ít sáng tạo, thiếu cách đặt lại vấn đề, thiếu phản biện.

Nói chung là còn vướng mắc nhiều tinh thần lệ thuộc. Lệ thuộc người xưa, lệ thuộc sách vở và ngay cả lệ thuộc vào ông thầy.

Các lớp dạy luyện thi cho thấy học trò lệ thuộc vào ông thầy như thế nào.

Và đây là một lời dạy khuôn vàng thước ngọc: “Các người lại không bắt chước người đời xưa sao, hay là chỉ lấy tiếng ư? Học trò tranh nhau mài gọt, gây dựng nhân tài, để làm việc nước, có vậy mới không phụ ý trong việc học, hậu đãi người hiền, mọi người đều phải kính cẩn tuân theo” (Trích Đại Nam Thực Lục chánh biên.)

Đại Nam Thực Lục chánh biên là sách ghi chép sử triều Nguyễn từ Gia Long đến Đồng Khánh, chia làm nhiều kỳ, mỗi kỳ là một đời vua. Có tất cả 6 kỳ.

Cái học lệ thuộc thầy, lệ thuộc “cours” còn tồn tại ngay ở các đại học. Sinh viên thi đỗ chỉ cần thuộc cours của giáo sư giảng trong lớp.

Thi cử lấy đỗ khá khắt khe

Tiêu biểu cho sự khắt khe này là hình ảnh Vân Hạc trong Lều Chõng của Ngô Tất Tố, một sĩ phu tài tuấn, có lương tri, có tài học mà lận đận với thi cử. Nó là bản cáo trạng đối với tổ chức lề lối học hành và thi cử thời xưa, lãng phí nhân tài và chất xám của đất nước.

Người viết đã truy tìm một số kết quả các kỳ thi Trung Học Phổ Thông và tú tài sau 1954 để cho thấy việc thi cử là khắt khe quá. Nhưng kết quả tìm tòi còn chưa được như ý muốn.

Năm 1950, đại học văn khoa Sài Gòn, ở đường Garcerie nay là Phạm Ngọc Thạch mới có 50 sinh viên theo học và 50 dự thính viên. Trường Khoa Học mới có 14 sinh viên đậu chứng chỉ P.C.B, 2 sinh viên đậu S.P.C.N, 3 sinh viên đậu toán đại cương, 2 sinh viên đậu vật lý đại cương. Năm 1954-1955 có 13 bác sĩ, 11 dược sĩ, cử nhân luật 159 và rất tiến bộ đã có 135 người đậu chứng chỉ khoa học. (Trích Địa chí Văn hóa TPHCM, trang 743-745)

Một học sinh giỏi nhất lớp ở ngoài Bắc vào năm 1948, vậy mà trong học bạ của anh, không có điểm số nào anh đạt trung bình. Xem và đọc để thấy nó vô lý như thế nào!!!

Giỏi nhất lớp, thông minh mà điểm chưa đạt trung bình? Và đây là nhận xét của giáo sư Dương Thiệu Tống, người đã còn giữ học bạ này của học trò gửi cho làm kỷ niệm. (Gs Dương Thiệu Tống, trường Trung Học kiểu Mẫu, Thủ Đức).

Ông nhận xét như sau :” Điểm nhận xét đầu tiên của tôi là điểm số các môn học ngày xưa sao lại thấp đến thế, ngay cả đối với học sinh đứng nhất lớp như các thí dụ trên đây.” (Trích Suy Nghĩ về giáo dục truyền thống và hiện đại, Dương Thiệu Tống, nxb Trẻ, tg 279-281)

Nhưng câu nhận xét sau đây của giáo sư Dương Thiệu Tước thật hơi lạ. “Vậy phải chăng các thầy giáo chúng tôi ngày xưa không bị áp lực bởi thi đua đạt thành tích nên có thể cho điểm trung thực hơn? Phải chăng chúng tôi quá khắt khe với học sinh? Hay là học sinh ngày nay giỏi hơn xưa quá nhiều? Tôi xin phép dành các câu hỏi này cho các đồng nghiệp và các trường học của chúng ta suy ngẫm và tìm giải đáp.” (Trích như trên)

Giáo sư đã cho phép dành cho đồng nghiệp tìm ra giải đáp thì tôi xin được thưa với giáo sư như thế này. Giáo sư là thầy của nhiều thế hệ mà bản thân người viết bài này có thể chỉ là hàng con cháu. Giáo sư đã đi du học Hoa Kỳ mang về cái bằng Tiến sĩ giáo dục mà vấn đề cho điểm như trên, giáo sư lại thối thác không cho một giải đáp.

Thưa giáo sư, trồng cây thì phải có quả. Trồng tốt sẽ cho quả tốt. Trồng người cũng gần như vây. Dạy học thì trò đi thi phải đỗ. Không đỗ thì phần trách nhiệm không nhỏ là do thầy, do chương trình, do xã hội. Điểm phi lý đến nực cười là cho điểm thì đều dưới trung bình mà lại đứng đầu lớp. Không nhẽ học trò đều dốt cả? Cho dù thế nào đi nữa thì không có lý nào điểm thì kém, dưới trung bình trong khi lời phê của giáo sư thì nào là giỏi, thông minh, đáng khen. Như vậy thì nên căn cứ vào điểm hay vào lời phê? Lời phê như thế có phản ảnh đúng trình độ học sinh hay không? Giải pháp là xét lại thang điểm và thay đổi thái độ chấm bài, nhất là bài văn, cần kèm thêm các câu hỏi giáo khoa hay trắc nghiệm như sau này Bộ giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã đem ra áp dụng.

Thực ra khó khăn do thi cử và giáo dục thì ở đâu cũng có. Mỗi thời mỗi khó khăn khác. Như tỉnh Québec mà tôi đang ở. Mỗi năm dành 13 tỉ đô la dành cho giáo dục, vậy mà nhiều học trò trung học, ngay cả đại học còn viết đầy lỗi chính tả. Ngay ông Thủ tướng trong bài diễn văn đọc về cải cách giáo dục, người ta tìm ra được 13 lỗi phạm lớn: “N’est–ce pas le premier ministre Jean Charest, qui dans un dis cours à l’Assemblée nationale, affirmait vouloir poursuivre ses efforts” pour améliorer la qualité de notre langue commune, le francais “alors qu’il remettait aux journalistes un texte comptant une douzaien de fautes majeures…” (Trích Le grand mensonge de l’éducation, Luc Germain, Luc Papineau, Benoit Séguin, trang12) Phải chăng ngay cả ông Thủ tướng Charest trong một bài diễn văn đọc trước Quốc Hội khẳng định trong nỗ lực tiếp tục “Cải tiến phẩm chất tiếng nói chung của chúng ta là tiếng Pháp”, vậy mà, chính ông Thủ tướng đã phát cho các nhà báo một bản diễn văn trong đó tính ra có đến 13 lỗi phạm lớn.

Kinh nghiệm đi chấm thi tú tài 2 các bài Triết hay luận Pháp văn, Anh văn cho thấy hệ số bản thân người chấm, hệ số tin cậy và sai số do hai giám khảo chấm, cách nhau trung bình hai điểm, có khi là 4 điểm. Thường trước khi bắt đầu chấm, giám khảo ngồi thảo luận “thang điểm”. Phần này thì cho bao nhiêu điểm, phần kia bao nhiêu điểm… Sau đó, cộng lại các điểm đã cho. Sự sai biệt giữa hai giám khảo chấm cùng một bài là từ hai đến ba điểm, có khi 5 điểm cho thấy việc chấm thi thiếu công bằng, thiếu khách quan. Giả dụ bài Triết ban C, hệ số 4. Cách nhau 3 điểm, nhân 4 trở thành cách nhau 12 điểm. Quá bất công cho học trò, vì nhiêu khi chỉ cần một điểm là đủ đỗ?

Kinh nghiệm bản thân khi tôi thi tú tài 2 ban C, chọn Pháp Văn làm sinh ngữ một. Bài thi bắt buộc là một bài luận văn chương Pháp chọn trong các tác giả thế kỷ 19 như Victor Hugo, Alfred de Vigny, Lamartine, Chateaubriand vv… Sinh ngữ 2 là Anh văn thì gồm có một bài luận luân lý. Cả năm đã học theo chương trình như thế. Nhưng nghe tin đồn là năm nay, giáo sư Nguyễn Văn Lúa, giáo sư Pháp Văn đại học Văn Khoa xuống chấm thi. Không ai bảo ai, một số học sinh sợ ăn điểm một hai gậy của giáo sư Lúa bèn trốn ông, chọn Anh văn làm sinh ngữ một.

Tên sao trùng với người thế. Gặp ông là lúa đời rồi. Ông nổi tiếng hung thần đánh rớt học trò. Vậy mà được đồng nghiệp kính nể. Anh văn vốn tôi đã chẳng giỏi gì, phần lớn thời gian tự học lấy trong “Butterfly”. Giọng đọc Anh văn thì thầy còn đọc trật huống chi trò. Sang Mỹ này vừa chẵn 30 năm mà nói Mỹ vẫn chưa hiểu! Sau bài luận văn chương ép uổng đó, từ đó đến nay, tôi không hề dám viết một câu tiếng Anh nào nữa, mặc dầu việc biên khảo hiện nay, phần lớn, tôi đều dựa trên sách viết bằng tiếng Anh.

Nói theo kiểu giáo sư Dương Thiệu Tống, nói Mỹ nó không hiểu thì nó dốt hay mình dốt? Giáo sư Dương Thiệu Tống còn viết bài: Trẻ chưa ngoan, Nguyên nhân? Tôi thấy ông thật thà quá. Nguyên nhân chính là cộng sản mà ông cứ nói đâu đâu?

Ông Cụ Vương Hồng Sển trong cuốn Hơn nửa đời hư có kể đi dự thi concours để làm việc cho Pháp, thi mãi không đậu. Ông viết: “Kỳ nầy, chua cay là rớt số Một, khít nút với người đội sổ. Gặp thầy bói tên Trần Thúc Sanh, coi tay và coi tướng, nói mình về già tốt phúc, năm nay không đậu vì tiểu nhơn ám hại, muốn đậu phải liều như đánh bài thua . Nhưng mình vẫn nhất quyết “Không liều như đánh bài”, chỉ còn tự trách còn óc mê tín, tin dị đoan và vẫn đi xem bói”. Cuối cùng ông kết luận: “Cám ơn đã được thi rớt” (Trích Hơn nửa đời hư, Vương Hồng Sển, trang 226-228)

Nói chuyện với mấy vị giáo chức lớn tuổi, họ thường ân hận là trong đời đi dạy, họ đã chấm điểm ngặt nghèo quá. Vì mình mà có đứa phải đi lính, có đứa biết đâu vì thế chết ngoài mặt trận.

Sau đây là kết quả các kỳ thi tú tài 1 và tú tài 2 vào niên khóa 1954-1955 cho thấy kết quả thí sinh thi đỗ là bao nhiêu của hai chương trình Việt và Pháp lúc bấy giờ.

 Một vài nhận xét

Tú tài Việt

Đây là năm cuối cùng của việc thi cử trong hệ thống giáo dục của Pháp.

  • Nên nhớ rằng, chính phủ quốc gia chỉ mới công bố chương trình thi lấy bằng Trung Học Phổ thông đệ nhất cấp kể từ 1950. Khóa 1, tháng sáu/1950, khóa 2 vào tháng 9/1950
  • Vì thế không lạ gì số học sinh trường Việt dự thi ít hơn trường Pháp đến gần một nửa. Điều đó cho thấy việc học chỉ dành cho những người có tiền của, loại con ông cháu cha khác hẳn kỳ thi năm 1955-1956. Trường Petrus Ký, Gia Long mới chỉ bắt đầu mở các lớp đệ thất dạy chương trình Việt, nhưng vẫn duy trì một số lớp chương trình Pháp.
  • Tỉ lệ tú tài một: thí sinh thi đỗ tú tài 1, Việt Nam, kỳ một là 25% cộng cả hai kỳ là 35%. Thấp.
  • Tỉ lệ thí sinh bỏ dự thi tú tài 1, kỳ 2, rất cao. Điều đó cho thấy, người giỏi thì đỗ ngay kỳ đầu, người không học, sau khi thi thử kỳ đầu, không đậu đã bỏ luôn, không dự kỳ khóa hai. Đáng nhẽ phải có hơn 800 dự thi khóa hai, chỉ còn hơn 500 dự thi khóa hai. Đã có khoảng 300 người bỏ cuộc. Cho dù thi lại, tỉ lệ thi đậu chỉ hơn 10% so với kỳ đầu là 25%.
  • Tỉ lệ tú tài 2: Những người thi tú tài 2 đều giỏi vì đã được sàng lọc trong kỳ thi tú tài một. Vì thế tỉ lệ thi đỗ rất cao so với tú tài một. 70%. Số lượng những người tham dự kỳ thi tú tài hai, khóa hai cũng rât cao, chỉ vắng mặt vài chục người, vì họ tin rằng họ có thể thi đậu nên không bỏ cuộc.
  • Tỉ lệ thi Trung học đệ nhất cấp đậu cao, đến hơn 50%.
  • Những con số thi cử này sẽ thay đổi nhiều trong các năm tới khi có số đông học sinh di cư vào Nam cũng như các trường trung học mở ra khắp nơi.

Tú tài Pháp

  • Nhận xét thứ nhất là thi tú tài Pháp gay go và khó đỗ hơn tú tài Việt. Vì họ chỉ thi có một kỳ, không có kỳ 2. Tỉ lệ thí sinh thi đậu chỉ đạt 20- 25%. Vì thế sau này không lạ gì, nhiều học sinh đổi sang trường Việt học thi cả hai kỳ thi Việt Pháp. Tại đường Cao Bá Nhạ, gần đường Cống Quỳnh, Trần Hưng Đạo, có một trung tâm luyện thi dành cho học sinh chương trình Pháp thi tú tài Việt. Ai là người đã học trong hai lớp này?
  • So sánh hai bảng thì kết quả thi cử Việt Nam cho đỗ nhiều hơn thí sinh người Pháp. Phải chăng học sinh Việt Nam học giỏi hơn người Pháp, chăm hơn người Pháp? Tôi nghiêng về lý do giám khảo Việt Nam chấm rộng hơn giám khảo Pháp.

Và đó phải coi là một ưu điểm, tiến bộ về phía giám khảo Việt Nam.

Thi cử qua các kỳ thi tú tài 1 và 2 ở miền Nam là công bằng vì tổ chức chặt chẽ và vì lương tâm nhà giáo

Tổ chức chặt chẽ

Tổ chức chặt chẽ, có phương pháp, có nề nếp trong thi cử là yêu tố quyết định trong thi cử. Cá nhân muốn gian lận cũng khó mà gian được. Chẳng hạn chuyển đổi người địa phương đi nơi khác là yếu tố quan trọng hàng đầu. Phân biệt tổ chức Hội đồng giám thị và Hội đồng giám khảo. Không cho phép bất cứ quan chức địa phương nào, từ Tỉnh trưởng đến người quân cảnh dính dáng xa gần tới Hội đồng giám thị giám khảo. Hai hội đồng ấy từ trung ương gửi xuống biệt lập với quan chức địa phương. Địa phương chỉ có bổn phận bắt buộc cung cấp phương tiện. Chánh chủ khảo đến làm việc là mọi chuyện phải được sắp xếp sẵn sàng cho họ như phương tiện di chuyển như máy bay quân sự, xe cộ, lính canh gác thùng đề thi, an ninh tại các trường thi.

Chẳng hạn để tiết lộ thùng đề thi do trách nhiệm ông Tỉnh trưởng thì việc trước tiên là ông Tỉnh trưởng phải đổi đi chỗ khác.

Tổ chức ấy được tiến hành như sau:

Nha Khảo Thí

Nha khảo thí là nơi đầu não làm việc suốt quanh năm nhằm mục đích tổ chức hai kỳ thi Trung học Phổ thông và 4 lần thi tú tài một và hai. Cơ quan này chia ra nhiều bộ phận riêng rẽ, biệt lập như tổ chức các Hội đồng Giám thị và Giám khảo, phân phối điều động các giám khảo, giám thị. Sài Gòn vì là trung tâm nên nơi đây còn chia ra nhiều Hội Đồng như Hội Đồng ban B, ban C và D, Hội Đồng ban A. Các tỉnh thì có các Hội Đồng Giám khảo như Huế, Nha Trang, Cần Thơ vv… Hội Đồng Giám thị thì tổ chức tại các địa phương như các tỉnh Quãng Ngài, Đà Nãng, Hội An, Quảng Trị vv… Khi các thí sinh thi xong thì bài thi và hồ sơ của Hội Đồng Giám Thị được chuyển tất cả về Huế.

Nhưng bộ phận quan trọng của Nha Khảo thí là hội đồng ra đề thi. Bộ phận này nằm trót lọt trên lầu 3 của Nha Khảo Thí.

Người ta gọi đùa là một vương quốc thi cử. Nội bất xuất, ngoại bất nhập.

Trung bình mỗi môn có hai giáo sư trung học có kinh nghiệm phụ trách. Họ có bổn phận cân nhắc kỹ lưỡng từng câu hỏi giáo khoa, từng bài thi sao cho đúng. Không có kẽ hở như có thể để học trò hiểu lầm câu hỏi hay có thể có hai cách trả lời vv… Hoặc đề tài cần vừa trình độ học trò, không quá khó. Có nhiều năm, bài toán ra quá khó, nhiều học trò giỏi cũng ngắc ngư. Báo chí phản ứng dư luận rùm beng. Riêng đề thi ban Triết, nhiều vị không dám tự mình đề xướng ra một đề thi mới và thường chọn các đề thi có bài luận giải đáp trong sách Foulquié cho chắc ăn. Vì thế, các giáo sư cũng lấy các đề thi và bài luận trong sách này dạy cho học trò. Không có “học tủ” đâu, vì có đến 4, 5 cuốn Foulquie với hàng trăm bài mẫu.

Sau khi đã quyết định chọn được đề thi rồi, các vị ấy phải tự mình đánh máy, tự mình quay ronéo, tự mình để vào các phong bì. Niêm phong lại. Phong bì đóng khằn bằng xi. Phòng đề thi được bảo mật, có người canh gác, có hệ thống an toàn riêng để tránh sự đột nhập của người lạ. Tất cả tổ chức khắt khe như vậy chỉ nhằm mục đích bảo đảm an toàn cho việc thi cử được bảo mật tối đa, giữ được công bằng.Tuy nhiên tổ chức bảo mật khắt khe đến đâu đi nữa vẫn có yếu tố con người.

Vì thế, vấn đề còn lại vẫn là cá nhân, tư cách người thầy.

Điều đó chính là rường cột của một nền giáo dục chân chính.

Nhân cách người thầy qua thi cử

Chắc các vị lớn tuổi một tý còn nhớ câu chuyện giáo sư Hoàng Cơ Nghị, giáo sư toán đã đánh rớt cô em gái tài giỏi của mình. Chẳng những không cho đỗ mà còn “trù ếm” đánh rớt oan. Sau này, cô tức khí bỏ đi Pháp học mà bằng cấp chẳng những không thua gì anh, còn vượt trội.

Không ai có thể đòi hỏi một giám khảo như ông Hoàng Cơ Nghị. Nhưng đó là một tấm gương.

Cứ lấy kinh nghiệm bản thân cho thấy, trong suốt cuộc đời đi chấm thi, tôi chưa hề thấy một lần, dù là thứ học trò ruột dám mở lời nhờ cậy. Tuyệt đối không. Tôi vừa nói chuyện hỏi thăm một cháu trai hồi đó đi thi đỗ hạng bình, tôi nhớ lại trong nhà, chắc cũng có nhiều cháu con các chị đi thi, vậy mà chú hay cậu nó có giúp được gì không? Trong nhà còn không giúp được làm sao giúp được người ngoài? Nếu có 2000 ngàn vị giám khảo trên toàn quốc mà mỗi người có độ hai ba “con gà”, vị chi là có 6000 thí sinh được chạy chọt, được điểm cao thì còn gì giá trị việc thi cử nữa?

Cứ nghĩ như thế để thấy tổ chức thi cử nghiêm chỉnh và nhân cách người giám khảo là hai yếu tố tạo cho các kỳ thi ở miền Nam trước 1975 đâ đạt được sự công bằng cho mọi thí sinh.

Cuộc đời thầy giáo ở đâu cũng thế phần đông nghèo, bổng lộc không có, chức tước cũng không. Cùng là bạn học, dù chỉ là một thiếu úy, nếu nó không dại dột sắm hòm tô bia cho mình, biết đâu có ngày nó lừng lững lên đến tá tướng. Cùng đỗ tú tài, đứa học Đại Học Sư Phạm, đứa học Quốc Gia Hành Chánh. Lương bổng ngạch giáo sư có nhích hơn bên Quốc Gia Hành chánh. Vậy mà một ngày nào đó không xa. Ông bạn Quốc Gia Hành Chánh cứ lên như diều như trường hợp ông Nguyễn Bá Cẩn. Chẳng may không lên, nếu nó lanh lợi một chút cũng có xe cộ, nhà cửa, vợ đeo hột soàn… Nó đi xe hơi, đánh bạc ăn bạc trăm bạc ngàn. Mình đi xe đạp hoặc xe gắn máy, đánh mạt chược cò con, được thua đáng giá chục tô phở.

Ấy là chưa kể để giữ an ninh cho gia đình, hoặc phú quý sinh lễ nghĩa, nó lập phòng nhất, phòng nhì, phòng ba, phòng bốn. Trong đời tôi, chỉ một lần thấy một ông giáo có phòng nhì mà thôi.

Nói thế chỉ có ý nói nhà giáo ít có cơ hội làm điều xấu. Tôi có bạn là Quốc Gia Hành Chánh, nay nghiên cứu sử ưu thế hơn “sử gia” mà lúc ở hành chánh chẳng biết tơ hào, sơ múi gì. Có rất nhiều người như thế. Người hiền lương ở đâu cũng có thể là hiền lương được.

Nhưng người đời theo thói thường trọng nhau khinh nhau ở chỗ đó.

Nhà giáo suốt đời dậm chân tại chỗ, không lên mà cũng không xuống, “không có tương lai”. Cái uy tín thầy giáo không ai ban phát cho ông được. Tự ông mà có.

Ông vì thế cũng không cần xin sỏ bất kỳ ai.

Thầy Nguyễn Văn Lục và các nam sinh trường Trung Học Ngô Quyền.

 Trường hợp các nhà Giáo như Hoàng Xuân Hãn, Trần Trọng Kim là hi hữu của thời trước. Trong Nam có cụ già Hương thì nghiệp cầm phấn chỉ là lúc ban đầu. Nhưng cái background nhà giáo đã làm nền, đánh bóng cho cuộc đời chính trị của cụ sau này.

Mặc dầu sống thanh bạch, các thầy giáo miền Nam, trung và tiểu học, nhất là tiểu học. Đặc biệt là tiểu học có quyền ngửng đầu để thấy rằng thi cử cũng như giáo dục là điều còn lại duy nhất giúp cho người miền Nam thấy hơn miền Bắc.

Miền Nam có thể thua miền Bắc để mất miền Nam. Nhưng nền giáo dục ở miền Nam dù còn chập chững thiếu sót mà thực tế ngày nay cho thấy vượt trội rất xa miền Bắc cộng sản cả về chất lượng đào tạo và phẩm chất đạo đức.

Tất cả những ai đã đỗ đạt ở miền Nam vì thế đều có quyền tự hào là mình đã xứng đáng đỗ như thế. Và chỉ cần nhìn những người Việt Nam ở hải ngoại đã có thể học lại, có thể đỗ đạt ở nước ngoài không thua bất cứ di dân nào. Và tất cả chúng ta đều có quyền hãnh diện với chính mình và hãnh diện vì đã được đào tạo trong một môi trường giáo dục lành mạnh, nhân bản và đạo đức ở miền Nam Việt Nam.

Cụ thể là có khoảng 2800 dược sĩ hiện nay đang hành nghề tại Hải ngoại.(Trích Danh sách dược sĩ Việt Nam trên thế giới Tự Do, xuất bản năm 1997)

Và có khoảng 2600 bác sĩ đủ loại cũng đang hành nghề khắp nơi trên thế giới. (Trích Danh sách Y sĩ Việt Nam trên thế giới Tự Do, 1997}.

Còn lại biết bao nhiêu kỹ sư, giáo sư, Quốc Gia Hành Chánh cũng đã tạo được chỗ đứng cho họ ở xứ người.

Về phía đồng bào tỵ nạn đi từ miền Bắc hoặc đã ở các nước Đông Âu với tư cách sinh viên du học sau khi các nước cộng sản Đông Âu sụp đổ, đã có bao nhiêu người đã đỗ đạt và thành công ở xứ người? Tôi sợ rằng con số là ít ỏi. Hiện nay các di dân đi từ miền Bắc đang gây nhiều trở ngại cho các nước Đông Âu và họ tìm cách tống xuất những người Việt trên về lại Việt Nam vì rất nhiều lý do.

Nền giáo dục đào tạo do cộng sản cầm đầu và chính quyền cộng sản có trách nhiệm gì về những thành phần sống bất hợp pháp này? Phải chăng nó chỉ là hậu quả tất yếu của một chính sách giáo dục phi nhân bản mà những thành phần di dân từ miền Bắc nay phải gánh chịu hậu quả?

Nói ra đây không phải để so bì với các anh chị em đó, nhưng cần nói thẳng là do hậu quả cách đào tạo và nền giáo dục dưới chế độ cộng sản đã quá yếu kém về mọi mặt.

Vậy mà họ dám viết phê phán nền giáo dục của VNCH như sau: “ Mỹ và chính quyền Sài Gòn cố gắng kết hợp mọi triết học cũ xưa với triết học mới nhất nhồi nhét những thế hệ thanh thiếu niên “lý tưởng quốc gia” giả hiệu, “thế giới tự do”, làm cho họ chạy theo lối sống thực dụng, hoặc sợ hãi sức mạnh nước ngoài, rồi bi quan, yếm thế, an phận” (Trích Địa chí văn hóa .. trang 768)

Những vụ bê bối trong thi cử ở miền Nam.

Mặc dầu vậy, vẫn có những vụ bê bối không tránh được và người viết không ngại vạch áo cho người xem lưng. Không phải để bôi xấu gì mà để cho thấy trong cái tốt có cái xấu.

Cá nhân tôi xin thú thật thì tôi cũng đã làm nhiều việc bê bối thời trẻ. “Tôi hư trong bụng tôi biết”. Ngồi coi ciné trong rạp mà cứ “xé rào”. Ôi tuổi trẻ sao mà mệt thế! Chuyện gì cũng dám làm. Vậy mà đụng đến thi cử là bàn tay như nhụt lại, không dám xé rào thò tay vào. Điều gì đã làm cho người tuổi trẻ biết tôn trọng, biết giữ gìn “nhân cách” của mình, một cái nhân cách mà so với một Hoàng Cơ Nghị là thua một trời một vực?

Nhưng dù gì thì cũng vẫn là con người. Việc gian lận thi cử cũng vẫn xảy ra – thời nào cũng có – và điều đó không có gì lạ.

Nếu đời hết tham lam thì biết đâu chúng ta đã có cơ hội ngồi chung bàn với Phật? Và có dịp bắt tay ông Thánh Phê Rô lừng lững vào Thiên Đàng?

Trong truyện đời xưa, ông Trương Vĩnh Ký kể truyện đút sáp vào đít hối lộ cho cọp ăn cũng kể là thâm thúy.(Ý của Vương Hồng Sển). Trong Hồi ký Nguyễn Hiến Lê viết: “Năm đó, tôi thi xong môn chính tả buổi sáng tin chắc là rất ít lỗi mà qua được môn đó, tôi sẽ đậu. Buổi chiều, bỗng có tin là đầu bài bị tiết lộ nên bỏ, sáng hôm sau thi lại. Nghe nói kẻ tiết lộ đầu bài là một học sinh ban tú tài bản xứ trường Bưởi được thống xứ Bắc Kỳ yêu vì giỏi Pháp Văn. (Trích Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, trang 144)

Việc thi cử như trên dù có sơ xuất cũng chỉ thu gọn vào phạm vi cá nhân mà không có tính cách “đại trà” như hiện nay ở Việt Nam.

Tôi nêu ra đây một vài vụ việc, nêu cả danh tánh, trong đó có những người tôi cũng biết. Nêu ra để chứng tỏ một thứ trong sáng, transparency, cần thiết mà không có một chút ác ý cỏn con nào. Câu chuyện nay đã vào quá khứ, nói ra như một bằng chứng cần phải nói thôi. Và xin lưu ý, cả hai vụ nêu ra đây đều xảy ra thời đệ nhị Cộng Hòa của miền Nam Việt Nam. Lúc đó kỷ cương, kỷ luật học đường- do chiến tranh một phần, nhưng do những người lãnh đạo miền Nam lúc đó phẩm chất đạo đức yếu kém, sự có mặt của người Mỹ tạo ra những xáo trộn xã hội không tránh khỏi, thêm nhiều nhố nhăng chạy theo đồng tiền- Và truyên gì đã xảy ra thì phải xảy ra thôi. Có nhiều trường hợp chỉ là tin đồn thì chúng tôi không xét đến như có đường giây nọ, giây kia ở tỉnh Biên Hòa.

Vụ thứ nhất liên quan đến hai giám khảo Nguyễn Hữu Lễ và Phạm Kiều Tùng. Việc này xảy ra ở Vĩnh Long do có lộ đề thi trước và giám thị đã bắt được và truy ra manh mối từ hai vị giám khảo trên. Hồ sơ nội vụ đã được phúc trình về bộ giáo dục dưới thời bác sĩ Nguyễn Lưu Viên và Nguyễn Danh Đàn. Hồ sơ được chuyển cho Thanh tra đặc biệt. Vụ này có liên quan đến một người cháu của ông Trần Văn Văn và vì thế bà Trần Văn Văn có can thiệp, gọi điện thoại cho vị thanh tra, nhưng vị thanh tra cứ thẳng mà làm. Và cho biết rằng không có bổn phận trả lời bà. Kết quả là hai vị giám khảo bị vi phạm kỷ luật trường thi, bị đổi đi nơi khác. Vụ này thật ra chỉ là do tình cảm cá nhân như liên hệ bà con họ hàng chứ không phải là làm tiền hay tham nhũng. Ảnh hưởng xấu có giới hạn rõ ràng và có thể giảm khinh được theo cái lối xử sự của người mình.

Vụ thứ hai liên quan đến một giáo sư toán dạy Pétrus Ký, ông Cam Duy Lễ, sau về làm trong nhóm ra đề thi. Gia đình một phụ huynh học sinh đã bỏ một số tiền ra mua đề thi của ông giáo sư này. Đề thi chắc để bảo mật chỉ giao cho thí sinh này trước vài tiếng. Nhưng thí sinh này tham muốn gỡ lại số tiền đã bỏ ra bèn bán đề thi. Chẳng mấy chốc mà đề thi được tiết lộ cho nhiều người. Ông giáo sư này bị điều tra, bị hoàn trả vê sở nhân viên và để làm gương cho những người khác, ông bị đưa ra tòa.

Dù sao, việc này đã gây một tiếng xấu trong ngành giáo dục không ít.

Các Hội Đồng Thi

Phần này viêt theo trí nhớ, có thể có một hai tiểu tiết thiếu sót, xin được thông cảm.

Để bảo đảm cho các kỳ thi đạt được kết quả mong muốn. Nguyên tắc của bộ giáo dục miền Nam là điều động các giám khảo từ địa phương này sang địa phương khác. Giám khảo ở Huế thì vào Nha Trang và ngược lại. Các giám khảo các tỉnh lẻ cũng bị điều động đi nơi khác. Mặc dầu tốn kém và khó khăn di chuyển. Nhiều địa phương mất an ninh, bắt buốc phải dùng phương tiện máy bay và lúc đó phải nhờ bên quân đội đảm trách việc di chuyển các giám khảo. Nguyên tắc di chuyển giám khảo ra khỏi địa phương của họ đã được duy trì từ năm 1955 đến 1975 và đem lại kết quả khá mỹ mãn.

Có các vị giáo sư lão thành cho hay hồi 1955-1956, số thí sinh còn ít, bài thi rọc phách rồi giám khảo được phép mang về nhà chấm. Vậy mà đâu có chuyện gì xảy ra?

Việc coi thi và chấm thi là hai bộ phận riêng biệt.

Các giáo sư trung học phải đảm trách hai nhiệm vụ một lúc: Vừa là giám thị vừa là giám khảo. Từ đó phân chia ra hai hội đồng: Hội đồng giám thị để coi thi, hội đồng giám khảo để chấm thi.

  1. Hội Đồng Giám thị

Công việc của Hội đồng giám thị là tổ chức các kỳ thi viết tại các tỉnh nhỏ như Phan Thiết, Đà Lạt, Lâm Đồng, Vũng Tàu, Di Linh, Quảng Ngãi, Long Xuyên, Rạch Giá vv… Nghĩa là học sinh ở đâu thi tại đó.

Báo chí trong nước hiện nay cho tin, các học sinh phải thuê nhà trọ để ứng thi chẳng khác gì các sĩ tử thời Nho Học là bao nhiêu. Trên thế giới chắc chỉ có Việt Nam hiện nay làm như vậy.

Ban Chủ tịch Hội đồng thường có ba người: Một chủ tịch hội đồng, một phó chủ tịch và một thư ký. Các chức vụ chủ tịch, phó chủ tịch thường do các hiệu trưởng hay các giáo sư có thâm niên trong nghề đảm trách. Tại địa phương, các ông phó tỉnh Trưởng, trưởng ty tiểu học- Không có Hiệu Trưởng, vì hiệu trưởng, cũng được điều động đi nơi khác- giúp sắp xếp lo liệu về hành chánh, điều động an ninh quân đội hay cảnh sát nếu có canh gác thì phải ở ngoài khuôn viên nhà trường. Các ông giám thị, tổng giám thị lo liệu sắp xếp chỗ ngồi theo số báo danh.

Đề thi đã được gửi tới tòa Tỉnh trưởng và Tòa tỉnh trách nhiệm cho người canh gác hòm bài thi, nếu cần. Cho dù có gan trời, các ông ấy cũng không dám đụng đậy vào các bao bì đề bài thi này.

Đến ngày thi, ông chủ tịch hoặc ông phó chủ tịch Hội đồng thi đến tòa tỉnh làm biên bản nhận bao bì bài thi. Tòa tỉnh cho xe quân cảnh hộ tống xe của Hội Đồng thi đến các hội đồng thi giao bài.

Đây là lần đầu tiên trong đời nhà giáo có tý oai dựa hơi tỉnh trưởng, đi xe có “lính hầu”, tìền hô hậu ủng.

Phần thư ký hội đồng có bổn phận sắp xếp các giám thị địa phương là các giáo viên tiểu học kèm theo một giáo sư từ chỗ khác đến. Nghĩa là mỗi phòng thi gồm hai giám thị. Giám thị 1 là giáo sư trung học, giám thị 2 là giáo viên tiểu học. Bên ngoài, mỗi hành lang có thêm một giám thị hành lang là một giáo sư để kiểm soát chung cả hành lang.

Trước giờ thi các giám thị xem bảng sắp xếp đi về phòng thi đã được chỉ định kèm theo một hồ sơ các giấy tờ cần thiết cho mỗi phòng như biên bản. Đúng giờ thi, các giám thị hành lang sẽ mang phong bì đề thi được gián kín giao cho các giám thị mỗi phòng.

Tổ chức rất chặt chẽ, nhiệm vụ được phân chia rõ ràng. Bao nhiêu năm vẫn thế, ít có sự thay đổi. Vai trò càc giám thị là giáo viên địa phương có hơi tế nhị như gặp thí sinh quen biết hoăc họ hàng. Nhưng thật sự không có vấn đề, vì còn có giám thị 1 có nhiệm vụ kiểm soát tất cả. Chưa kể còn giám thị hành lang.

Tờ giấy thi phát cho thí sinh làm có chữ ký của hai giám thị. Không có chữ ký của họ là bất hợp lệ. Cho nên tráo bài thi là truyện khó có thể xảy ra.

Hết giờ thi, nhiệm vụ của giám thị là thu bài xếp theo thứ tự vần, đánh số mật mã ở ô vuông trên mỗi bài thi. Phía ngoài ghi số thí sinh có mặt. Số đó là mật mã của sấp bài Bài sau đó, được buộc chặt đóng thùng, gửi máy bay về Hội Đồng giám khảo.

Công việc của Hội Đồng giám thị kể là xong. Số phận học sinh nay nằm trong chính những xấp bài mà họ đã làm và nhất là trong tay các vị giám khảo.

Thế là hết một mùa thi đối với học trò.

Công lao khó nhọc cả năm trời quyết đinh trong mấy tiếng đồng hồ, kéo dài trong mấy ngày. Phù du như ảo ảnh. Đôi mắt tuổi trẻ nay ánh lên nỗi niềm lo âu và tin tưởng. Sự mong đợi và sự hy sinh vô bờ bến của bậc làm cha mẹ. Làm sao nói hết cho ra lời. Họ chỉ mong con cái thi đậu.

Nỗi niềm đó kéo theo tâm sự của cả miền Nam mỗi khi đến mùa thi.

Phần ông thầy, người viết bài này, đi chấm thi xong ở một nơi nào đó, vội về thăm một vòng xem đứa nào đỗ, đứa nào rớt. Nhiều quá, không nhớ hết. Tất cả trách nhiệm 12 lớp đệ nhất vừa công vừa tư. Chỉ mong chúng đậu nhiều. Đậu nhiều thì thầy mừng và không khỏi hãnh diện. Có nước mắt mừng vui và chia sẻ. Kỷ niệm vào một buổi trưa nắng, trong nhà học trò đang mở tiệc, ông thầy xuất hiện đột ngột, chỉ kịp hỏi vài câu đủ làm nên những cảm xúc và kỷ niệm nhớ cả đời.

Đó cũng là ý nghĩa cuộc đời ông thầy.

Nhưng cho dù tổ chức thi cử có chặt chẽ thế nào đi nữa, người ta vẫn có thể gian lận. Tôi không chối cãi điều đó. Nhưng điều mà tôi nghĩ rằng, tổ chức thi cử ở miền Nam được tốt đẹp không hẳn ở tổ chức chặt chẽ.

Thi cử chặt chẽ và đàng hoàng là do con người của nhà giáo.

Tôi đã nhìn lại một số bậc đàn anh để thấy rằng nơi những người thầy ấy không có chỗ cho điều xấu có chỗ cư ngụ. Nhân cách họ bày tỏ một sự trong sáng không tì vết. Nhìn họ, nhìn con người họ nhìn phong cách họ, không một ai dám mở lời xin sỏ.

Xin vinh danh họ. Những người đã đào tạo nên những thế hệ học sinh sau này thành người.

  1. Hội đồng giám khảo

Đây là công việc quan trọng nhất, quyết định số phận học trò. Công việc chấm thi, cộng điểm, lên danh sách kéo dài cả tháng trời. Rất thận trọng, rà soát lại từng thí sinh một.

Nhiều khi công việc chấm thi đến mệt mỏi và chán chường. Phải nhẫn nại để cố gắng đừng chán nản. Nhất là công việc cộng điểm được chia ra từng nhóm để làm việc.

Nếu chấm ở Huế thì có dịp thưởng thức cái nóng gió Lào. Cái nóng chảy mỡ. Những bữa cơm cay sè thanh đạm với những cuộn rau sống xanh và đắng ngắt. Những tô canh cá bống cay xè, điểm tô bằng một hai con cá hiếm hoi như bơi lội tung tăng. Những đĩa thức ăn Tiểu, Trung, Đại đến là ít ỏi và cạnh đó là một lô ăn mày ngồi chực săn để vét tý canh thừa cơm cặn.

Huế đồng nghĩa với nghèo trong những bữa ăn. Nghèo đến tội nghiệp. Nhưng thiếu nữ Huế vẫn giữ nếp nhà, vẫn cố che dấu tất cả trong những tà áo dài. Ngay cả những người bán hàng quà rong cũng ăn mặc tươm tất.

Đó là phong cách Huế.

Gái Huế vẫn kín đáo và mở phơi trong biện chứng khép mở, chờ đợi, đón nhận và sẵn sàng. Ngoài những người con gái Huế ra, Huế còn gì để nói? Nói về Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường chăng? Hay nói về các phong trào tranh đấu?

Không có gì đẹp và có thể so sánh được với tà áo Huế. Không ở đâu có những mái tóc chải mượt và đôi con mắt của người con gái Huế ngồi bên mạn thuyền.

Nó gửi gắm nhiều thứ lắm.

Thôi thì cũng phải quay về với bài thi. Bài thi được rọc phách. Thường ông Phó chủ khảo đánh số mật mã. Mật mã trên phần phách phía trên và mật mã trên phần bài thi. Sau này chấm xong, ráp hai phần đó có số mật mã giống nhau là được.

Mỗi bộ môn có chừng độ 7, 8 giám khảo. Chấm lâu và mất nhiều thì giờ nhất là môn Triết. Có một trưởng ban cho mỗi môn. Mỗi giám khảo chấm bài nhận xấp bài đã ghi mã số bên ngoài bìa như xấp 25 bài, sẽ ghi xấp 25. Trước khi chấm phải họp lập thang điểm để thống nhất việc cho điểm. Bài cho điểm cao, bắt buộc phải đưa cho một giám khảo khác chấm lần thứ hai, sau đó cộng lại cho trung bình. Rất tiếc, đáng nhẽ bài cho điểm thấp quá cũng cần có chấm lại lần thứ hai cho công bằng.

Sau khi các giám khảo chấm xong. Vấn đề còn lại có tính cách hành chánh như là ráp phách, cộng điểm. Ngay việc cộng điểm cũng cần hai người, đọc điểm lên, rồi cộng, rồi so sánh, rà soát lại để tránh cộng sai.

Công việc tổ chức khá là chặt chẽ.

Hết những giờ làm việc căng thẳng và mỏi mệt ra đến cổng trường là bị đám đông bu lại, hỏi thăm tíu tít, hốt hoảng lo âu. Hầu hết những câu hỏi không trả lời được đành tìm cách thoái thác cho xong. Công chúng chờ đợi, trẻ già người lớn, đứng đông nghẹt trông ngóng trước cổng trường. Càng gần đến ngày công bố kết quả, bầu khí như sôi sục hẳn lên. Lại chờ đợi. Họ đổ xô đến các giám khảo, hỏi thăm tin tức, dúi những mảnh giấy nhờ vả xem kết quả dùm.

 Đúng là không khí mùa thi cử có lẽ chỉ nhìn thấy ở Việt Nam.

Vô ích, chẳng ai có thể làm gì cho họ được. Bầu khí đó nói lên tầm quan trọng của mùa thi. Nhất là cuối thập niên 1960, sau Tết Mậu Thân. Tương lai tuổi trẻ như thế nào có thể đổi khác khi những mảnh giấy in ronéo đ ược dán lên.

Thi cử và tương lai tuổi trẻ gắn liền vào một. Đó là cái ý nghĩa nhất trong mùa thi cử.

Đầu thập niên 1960, lúc bấy giờ còn có kỳ thi vấn đáp nữa. Thêm một thứ rào cản vô ích và thừa thãi.

Nó chẳng để làm gì. Nếu không muốn nói nó vô tích sự. Chẳng kiểm soát được khả năng và học lực của học sinh. May mà các kỳ thi vấn đáp đã bị bãi bỏ.

Tú Tài I.B.M

Cho đến lúc này, người viết không nắm chắc được việc thí nghiệm thi trắc nghiệm, còn gọi là tú tài IBM là do khuyến cáo của Mỹ hay do các vị đi du học ở Mỹ về đề nghị. Điều chắc chắn là thử nghiệm tú tài IBM đã bị một số viên chức và báo chí lên tiếng phản đối. Sự phản đối này hiểu được vì bất cứ cải cách nào về phương diện gíáo dục đều gây phản ứng trái ngược. Nhưng xem ra phản ứng của dư luận có phần yếu ớt và cuộc thi trắc nghiệm bậc tú tài vẫn được tiến hành cho đến 1975.

Có thể các câu hỏi trắc nghiệm lúc đầu chưa hoàn chỉnh. Báo chí mang các câu hỏi đó ra bình phẩm và chê trách. Nhưng cái xu hướng thi trắc nghiệm là điều không thể không làm.

Cái lợi thứ nhất là tránh cho học sinh khỏi bị rơi vào cái bẫy may rủi với chỉ một bài toán hay chỉ một bài luận duy nhất. Các câu hỏi dàn trải suốt cả chương trình không cho phép học sinh “học tủ”. Các câu hỏi đòi hỏi trí nhớ nhưng cũng đòi hỏi trí thông minh tránh tình trạng “Học gạo”.

Áp dụng thi trắc nghiệm chỉ là làm những điều mà các nước tân tiến đã thi hành từ lâu rồi.

Bên cạnh đó vẫn còn duy trì bài luận để học sinh vẫn có thể vận dụng óc suy luận tổng hợp, khả năng trình bày biện chứng vv…

Cái lợi trước mắt là học trò thi trắc nghiệm nay có thể được điểm cao. Tỉ số đậu có khá hơn và các học sinh đậu bình hay bình thứ là thường.

Câu truyện thi trắc nghiểm kể như mới đi những bước đầu dọ dẫm thì miền Nam bị rơi vào tay cộng sản. Chế độ không biết gì về phương pháp thi trắc nghiệm nên dẹp bỏ luôn.

Chế độ giáo dục mới giống loài tôm hùm lúc nào cũng cựa quậy, nhưng là đi những bước lùi, giống như loài tôm hùm luôn luôn đi lùi. Ý tưởng mà tôi lấy lại của Umberto Eco trong cuốn sách của ông: À reculons, comme une écrevisse. Giật lùi giống như loài tôm hùm.

Tôi đã có kinh nghiệm chấm thi trong cả hai chế độ. Khoảng tháng chín 1975, tôi được điều động đi chấm thi tuyển vào l ớp 10. Chấm xong là hết. Từ đó, tôi không còn biết số phận các bài chấm đó ra sao nữa?

Đấy sự khác biệt nó từ chỗ ấy. Ôi những con tôm hùm giáo dục của người cộng sản. Con tôm hùm giáo dục nó tiến lên bằng những bước đi lùi.

Đối với con tôm hùm, tiến có nghĩa là lùi. Tuổi trẻ bây giờ trả giá cho những chính sách sai lầm trong giáo dục từ đó đến nay. Vậy mà họ dám viết như thế này : “Sài Gòn- Thành phố Hồ Chí Minh với những kinh nghiệm giáo dục sâu sắc, cả thành tựu lần thất bại, chắc sẽ trở thành môi trường thuận lợi nhất cho một nền giáo dục và đào tạo con người vừa có nhân cách vững vàng, vừa có chuyên nghiệp, khoa học tiên tiến”. (Trích Giáo Dục ở Sài Gòn, trong Địa chí văn hóa, trang 748)

Vài kỷ niệm nhỏ về thi cử

Ai thích thì đọc, không đọc thì cứ bỏ qua nhé. Năm ấy, tôi cùng với Trương Ân, bạn học cũ thời sinh viên, nay là hiệu trưởng Quy Nhơn đi coi thi ở Phan Thiết. Trương Ân người phốp pháp, mặt đỏ gay như chú Ba Tàu. Tính nết vui vẻ, hồn nhiên, năng động, tháo vát, nhiệt tình, có lòng, đi đến đâu đem không khí vui nhộn đến đó. Được rất nhiều bạn bè đồng nghiệp quý mến từ thời đi học. Anh đã mất vì đột quỵ ở Paris khi còn trẻ. Trương Ân là chủ tịch Hội đồng thi, còn tôi là tà lọt của Trương Ân. Viết mấy dòng này, tôi muốn thân tặng các cựu học sinh Cường Để Quy Nhơn và em gái Trương Ân và chồng là Tích. Chúng tôi đáp máy bay quân sự từ phi trường Nha Trang đi Phan Thiết. Khoảng đường Nha Trang- Phan Thiết tuy ngắn, nhưng kém an ninh nên đành dùng máy bay. Tôi đoán là loại máy bay của Úc Đại Lợi. Trên máy bay không có ghế ngồi. Chúng tôi ngồi bệt xuống sàn, chen chúc với tủ bàn ghế, rương hòm đủ thứ. Nóng bức như lò lửa. Chắc là có sĩ quan nào dọn nhà đổi ra Phan Thiết chăng. Gần đến nơi, tài xế máy bay như biểu diễn, nhào xuống như tụt dốc, phải bám chắc lấy thân máy bay. Sợ hết hồn vía.

Hồn nhiên và vui tính như Trương Ân cũng không có bụng nào mà cười được. Đến nơi, quần áo xốc xếch, tóc tai bù xù, người nhễ nhại mồ hôi thì đã có ông Trưởng Ty tiểu học ra đón. Ông “mẫn cán” thế này chắc có truyện nhờ vả rồi. Xe đưa chúng tôi về nhà Tùng, cũng là bạn học cũ, hiệu trưởng Phan Thiết đi coi thi chỗ khác. Nhà Tùng giàu có, nhà mới quá đẹp, khang trang, mát mẻ.

Thôi đúng như là đi nghỉ hè.

Nghỉ một chút, rửa mặt mũi xong thì ông trưởng ty vào đề mời ba chúng tôi đi ăn cơm tối. Trương Ân “lão luyện” trong nghề nên từ chối rất khéo. Tưởng yên, ai ngờ chiều tối, một hiệu ăn Tầu chở bàn ghế tới bầy tiệc ngay tại nhà. Không có cách nào khác đành chịu trận ngồi ăn. Trong bàn tiệc có thêm mấy người, trong đó có hai cô giáo và một giáo viên trẻ, con trai ông Trưởng ty.

Chúng tôi ăn uống vui vẻ. Không một chữ nhắc đến thi cử. Nhân tiện đó, mấy cô giáo mời chúng tôi, bữa sau đến nhà ăn cơm. Chúng tôi hoan hỉ không thắc mắc.

Buổi sáng thi cử diễn ra bình thường. Chỉ có điều tôi nhận ra giáo viên, con trai ông trưởng ty lại coi ở một phòng khác. Xem xét lại, tôi biết là có sự nhầm lẫn. Tôi nhẹ nhàng nói nhỏ với anh ấy về lại phòng thi mà anh đã được chỉ định. Cũng hơi ngượng. Sáng hôm sau thì có sao quả tạ xảy ra cho tôi. Tôi đi rảo qua hành lang. Chỉ cần đi thoáng qua là biết ngay cô cậu nào đang “quay film”. Đầu cứ cúi gằm xuống là có chuyện. Tôi vào phòng và nhận ra “thủ phạm” dấu bài quay dưới vạt áo dài ở đùi. Tôi đến gần, cúi xuống nói nhỏ với em nữ sinh cất “bửu bối” đi và tránh không để em bị xấu hổ. Không biết vì sao, em hối hả lấy miếng giấy cho vào miệng nhai phi tang, đồng thời nói to là tôi bắt oan em. Em nói to, bù lô, bù loa làm câu chuyện thành lớn. Tôi bối rối, luống cuống rồi đành lấy bài thi của em. Dằng co dằng lại chẳng ra làm sao cả. Cuối cùng thì em thả ra và nhận tờ giấy thi mới. Tôi cầm tờ giấy làm bài đi về văn phòng Hội Đồng thi. Em hoảng tưởng tôi làm biên bản. Khổ thế, tôi lấy để vứt đi thôi. Em bỏ phòng thi, chạy theo tôi vừa nói lải nhải. Một điều tối kỵ không cho phép làm là ra khỏi phòng thi như vậy. Lại ồn ào, hình như có khóc lóc. Mọi người, các thư ký văn phòng ngoái nhìn. Nói mãi em mới chịu về. Tôi trở lại phòng thi của em, tức giận. Nhờ giáo viên ghi vào phách là: Thí sinh gian lận. Ký tên.

Buổi trưa ra về, em đón tôi tại cổng trường ra chiều tuyệt vọng không năn nỉ nữa và hét to trước khi bỏ đi: “Thầy ác quá, sau này không có con”. May là lời nguyền rủa của em không ứng nghiệm. Sau này, tôi có hai con trai và có cả hai bàn tọa bình thường. Tôi im lặng không nói gì để cho em rủa và xỉ vả. Nhưng buồn.

Cho đến bây giờ nhắc lại vẫn thấy buồn. Và tự nhiên còn hối hận vì nặng tay với em. Thôi thì cho xin lỗi. Trong đời đi dạy, niềm vinh hạnh đến cho tôi thì đầy không có chỗ chứa. Nhưng bên cạnh đó, có những ân hận việc này, việc nọ nhiều khi chẳng đáng mà vẫn còn ân hận như mắng nặng một em nữ sinh, dĩ chí có lần tát vào má một nữ sinh trước mặt đông đảo học trò. Ân hận này sao nguôi!

Bữa cơm tối tại nhà các cô giáo thật vui. Trừ Trương Ân có vợ là Hoa, chúng tôi đều độc thân. Buổi tối về nhà. Trương Ân lôi trong cặp ra một bản nhạc có nhan đề: Hãy trả lời em đi anh… Hãy trả lời em đi anh. Hắn mở đĩa nhạc trong nhà và nói: “con X nó mê cậu rồi và nó nhờ mang bản nhạc này về tặng cậu”. Thế rồi hắn rống lên theo cô ca sĩ đang hát như thể đó là mối tình của anh ta với cô X. Bản nhạc sến ơi là sến. Sau 4 ngày thi cử, chúng tôi ra phi trường về lại Nha Trang. Không biết ai đó tặng ba đứa mỗi đứa một túi sắc trong có cá mực, nước mắm nhĩ. Và mỗi người không quên nhận một lô giấy ghi tên học sinh, số báo danh vv…

Điều bất ngờ đến ngạc nhiên là X theo ra phi trường từ lúc nào, đứng sẵn ở một góc, mắt đỏ hoe. Tội nghiệp. Tôi đã vứt tất cả đám giấy tờ vì một lẽ dản dị là nhiệm vụ của tôi đã chấm dứt, tôi chẳng có thể làm việc gì cho ai cả. Tôi không có chân trong Hội đồng thi ở Nha Trang vì đây là kỳ thi tú tài một. Tôi có muốn gian lận cũng không được. Và tôi cũng đã không có dịp trả lời thư mà X đã gửi cho tôi.

Sau này X trở thành nhà văn. Phải chăng bắt đầu từ những giọt nước mắt tiễn đưa?

Mùa thi ở Huế, sau tết Mậu Thân 1968

Mậu thân xong, tôi lấy vợ trong hoàn cảnh đât nước mà tương lai không sáng sủa gì. Tôi nhận Sự Vụ Lệnh ra Huế chấm thi. Lại một tháng trời đằng đẵng, sống chung với gió Lào. Huế, nơi mà những năm trước tôi phải chứng kiến những cảnh rối loạn chính trị không mấy vui.

Nhiều lúc tôi ghét Huế lắm. Ra là buồn, về đôi khi cũng vương buồn. Trong khi xuống Cần Thơ, đi tuốt xuống miệt Long Xuyên, Rạch Giá vẫn thấy lòng thảnh thơi, ăn uống thoải mái. Đến và đi nhẹ nhàng. Chẳng biết tại sao, chẳng hề có dịp nào quen biết một cô gái.

Từ phi trường về đến thành phố, nét hoang tàn đổ nát vẫn không dấu diếm được. Những tàu lá chuối tả tơi rách nát. Những cây bị cắt đứt ngang đoạn. Những mái nhà tôn tróc nóc. Con đường dẫn vào Huế bụi mù.

Đôi mắt con gái Huế buồn tang tóc. Những “con đường tình nhân” ở Huế thưa bóng người. Vắng bóng xe đạp đi hàng đôi.

Nghỉ ngơi xong ra phố, đi một vòng. Những con đường như Trần Hưng Đạo, áo dài Huế nay không thấy thướt tha nữa.

Vết đổ nát vì bom đạn vẫn còn in đó chưa kịp sửa chữa hay không sửa chữa vì chủ nhân đã dọn đi vào Sài Gòn.

Huế đã có những mất mát không bao giờ lấy lại được. Ai phải chuộc lại cho những cái mất mát ấy?

Học trò Huế gian lận dễ sợ hơn các nơi khác. Cả con trai, con gái. Họ phải sống còn mà. Họ gian lận không dấu diếm, bắt được thì năn nỉ. Con gái thì nước mắt lưng tròng. Ai nỡ làm gì, đành ngoảnh mặt quay đi.

Lòng đã nản. Chấm thi như là “phóng sinh”, tôi cho rộng rãi hơn giám khảo khác đến hai ba điểm. Cứ có một vài ý là có điểm. Cho điểm rộng, chấm nhanh. Rồi bỏ ra phố. Nhiều giám khảo khác nhìn với ánh mắt thiếu tôn trọng.

Hoàn cảnh đất nước như thế còn có can đảm gò lưng từng phân ly nửa điểm để làm gì? Tôi nghĩ tôi hiểu biết đất nước hơn những giám khảo cù lần kia. Tôi có cái lý bắt từ chuỗi cảm nghiệm từ cuộc sống mà mặt đất đang rung lên từng hồi của bom đạn và chết chóc. Chẳng còn nghĩa lý gì nữa. Tôi như sờ thấy, giáp mặt với chiến tranh. Tôi sợ và thù ghét chiến tranh.

Trong chiến tranh, cái gì cũng có thể được. Tout est possible.

Điểm của tôi là điểm của thời chiến, điểm của thời kỳ bom đạn. Thay vì những viên đạn, tôi cho điểm rộng hy vọng có một người khỏi chết vì bom đạn.

Cũng như những lần ra Huế trước, tôi gặp một cô giáo viên cùng coi chung phòng. Tạm gọi tên cô là N. Tôi và N. nói chuyện tương đắc, mặc dầu N. hầu như không nói câu nào cả. N. nói chuyện bằng những mỉm cười, bằng ánh mắt, bằng những thỏa thuận ngầm của cả con người N. N. nhẹ nhàng, N. kín đáo, nụ cười chúm chím, môi hồng phơn phớt. Tôi ghét chỗ ấy đậm mầu. Tôi không cắt nghĩa tại sao. 

Chúng tôi đã đi dạo buổi chiều ở một chỗ có nước rất êm đềm, rất ngọt nào đó. Mát dịu hẳn lên. Tôi nhìn N. qua làn áo dài mỏng thấy được nét trinh nguyên, tinh tuyền của N. Nếp quần dài au lên tuổi con gái. Không một tì vết. N. đi nhẹ nhàng, cẩn trọng từng bước. Không nói năng. Lâu lâu một tiếng dạ nhỏ. Ánh mắt ngước nhìn tinh nghịch. Cái đẹp nhất của người con gái để ta tôn thờ là nét trinh nguyên ấy. Lòng mềm đi khi nghĩ đến điều ấy khi nghĩ về N. Chẳng bao giờ còn những cảm giác như thế nữa. Chẳng bao giờ gặp những cảm giác như thế ngoài Huế. Gặp nhau chỉ có mấy ngày coi thi. Nhưng N. đã đi với tôi nhiều buổi chiều xem ra tin cẩn lắm. Chúng tôi có cảm tưởng quen nhau từ kiếp nào. Còn đi nhiều nơi không nhớ hết. Chúng tôi cứ đi thế thôi. Có lần đi trên một loại xe hàng như xe thùng, vuông, mầu trắng bẩn. Đi đâu không nhớ. Chỉ biết đi. Nắm nhẹ tay nhau truyền cảm giác chẳng nói năng gì mà nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ ấy. Tôi còn nhớ vài nốt mụn trứng cá tuổi dậy thì phía má trái, phấn son không che hết của N.

Tôi thích nhất là N. biết ngượng ngùng. Rồi một bữa, N. bạo dạn mời tôi đến nhà ăn cơm tối. Hình như chỉ có hai mẹ con. Nhà neo đơn lắm, thanh bạch không dấu nổi. Mẹ N soắn sít đến tội nghiệp không dấu được nỗi mừng cho con gái. Phần tôi đã có vợ. Tôi làm gì được?

Như thể những người phụ nữ chân chính nhất như N. bao giờ cũng nhận những phần thiệt thòi về mình.

Tôi rời xa Huế mà không có lấy cái địa chỉ. Sao N. có thể dại khờ đến như thế. Không biết trao tay một cái địa chỉ để liên lạc. Thế còn tôi thì sao?

Một sáng chủ nhật trong cái tuần lễ cuối cùng ở lại Huế, tôi lần mò lên nhà thờ Phủ Cam. Đường buổi sáng còn vắng người. Hai bên đường không còn một dấu vết đổ nát. Đã đến giờ lễ rồi. Tôi len lén ngồi dưới cuối dãy nhà thờ như một người khách xa lạ. Tiếng cầu kinh vang vang. Nhưng đến cái kinh: Lạy Chúa tôi, tôi ở dưới vực sâu kêu lên Chúa tôi thì giọng đọc kinh dần không còn bình thường nữa. Càng ngày nó càng biến thành những tiếng nỉ non, rồi tiếng rên xiết ứ trong cổ họng. Cả nhà thờ trắng xóa một mầu tang từ trên xuống dưới. Sao chết nhiều thế. Không trừ ai, không trừ nhà nào.

Huế tang thương. Huế giết Huế. Tôi rời Huế với những ý nghĩ đen tối như thế. Tôi vứt bỏ lại đằng sau những chuyện thi cử và muốn chạy trốn khỏi Huế.

Tôi ra trụ sở hãng máy bay Air Viet Nam để trở về Sài Gòn. Hết một tháng mệt mỏi. Hình bóng N. lúc tỏ, lúc nhạt. Tôi đã vô tình không hỏi nàng về những ngày tết Mậu thân vừa qua.

Quầy bán vé cũng chỉ loe ngoe người. Không có đến quá 5 người. Còn sớm quá chăng? Tôi tạt qua bên kia đường, phía chợ Đông Ba thấy bầy bán nhiều nhãn lồng Huế. Tôi mua vội ít chùm tính làm quà cho gia đình. Mua xong mới thấy hố, vì bà bán nhãn không có túi ni lông để đựng. Tôi vào đại một cửa hàng bán tạp hóa thuộc loại sang hỏi mua túi ni lông. Cô bán hàng lắc đầu không có bán. Nhưng nghĩ thế nào, cô bắc ghế trèo lên những kệ bán áo chemise bầy trong tủ kính. Cô lấy xuống hai chiếc và tháo gỡ bao ni lông ra. Cô đưa cho tôi và không tính tiền. Tôi ái ngại vì chiếc áo có giá là vì có vỏ ni lông bao bên ngoài. Tôi đã nán lại và nói chuyện hỏi thăm cô. Cô cho biết Ba cô có tiệm trên đường Gia Long hay Lê Thánh Tôn gì đó. Tôi cho địa chỉ và không chờ đợi có dịp gặp lại được cô.

Về Sài Gòn, bẵng đi một thời gian, tôi nhận được điện tín nhắn tôi ra phi trường đón cô. Quá đột ngột mà tôi lại vừa cưới vợ. Tôi đành thất hẹn với cô.

 Tôi nợ những người con gái Huế nhiều lắm. Đây là lần thứ hai, tôi mong muốn tuyệt vọng gặp lại N và cô. Cô có đẹp không nhỉ ? Nói đẹp thì ai tin. Nhưng thưa, cô xinh đẹp và quý phái lắm, người cao mảnh khảnh. Nhưng đẹp xấu lúc này để làm gì?

Mỗi mùa thi đối với tôi là một mùa kỷ niệm và mùa tình ái. Mỗi lần bước lên máy bay đi về từ Huế thì hình như máy bay nặng thêm.


 

LÚC NÀY VÀ Ở ĐÂY – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo!”.

“Đừng để bị đánh lừa bởi những tưởng tượng về tương lai hay gánh nặng của quá khứ. Hãy sống và yêu mến trong hiện tại, vì ở đó có Chúa!” – Giuse Marello.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta sống khoảnh khắc hiện tại – ‘lúc này và ở đây’ – đừng để mình bị đánh lừa bởi những tưởng tượng về tương lai hay gánh nặng của quá khứ!

Đừng tiếc xót về ngày hôm qua, nhưng phó thác toàn thân cho Chúa và lòng thương xót của Ngài; cũng đừng hành hạ bản thân về ngày mai, nhưng dâng tất cả cho sự quan phòng của Chúa. “Khoảnh khắc hiện tại là nơi duy nhất bạn có thể gặp gỡ Thiên Chúa. Quá khứ đã chết, tương lai chưa hiện hữu. Chỉ ‘lúc này và ở đây’ là thật!” – Thomas Merton.

Sự bận tâm không bao giờ giải quyết được bất kỳ vấn đề nào. Điều có thể giải quyết các vấn đề là đức tin và sự tự tin. Chúa Giêsu nói, “Nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém lòng tin!”. Bản thân cuộc sống không phải là vấn đề quá lớn; chính con người thiếu đức tin mới là vấn đề lớn! Sự tồn tại không phải lúc nào cũng dễ dàng, đôi khi có thể gây căng thẳng; và chúng ta thường cảm thấy bị tổn thương và sốc trước những gì xảy ra trong cuộc sống của mình hoặc của người khác. Hãy đối mặt với nó ‘lúc này và ở đây’ bằng đức tin và cố gắng sống từng ngày trong niềm tin rằng, Chúa sẽ thực hiện lời hứa của Ngài. Đức tin sẽ dẫn chúng ta đến với bình an và sự cứu rỗi.

Vậy “Ngày mai, cứ để ngày mai lo!” có nghĩa là gì? Nghĩa là hãy cố gắng sống một cuộc sống công bằng, theo logic của Vương Quốc, với sự tin tưởng, đơn sơ và từ bỏ; đồng thời ra sức tìm kiếm Chúa. Chúa sẽ lo liệu mọi thứ khác. Điều làm chúng ta mệt mỏi thường xuyên là quay trở lại quá khứ và sợ hãi về tương lai; đang khi nếu chỉ sống giây phút hiện tại, chúng ta sẽ tìm thấy sức mạnh một cách bí ẩn. “Không, chúng ta sẽ có không quá một đứa con, không! Bởi khi đó chúng ta không thể đi nghỉ, không thể đến đây, không thể mua nhà. Theo Chúa Giêsu thì tốt và ổn nhưng chỉ đến một mức độ nhất định. Sự sung túc ngăn cản chúng ta tiến về phía trước, chúng ta cần có lòng can đảm để theo sát Chúa Giêsu!” – Phanxicô.

Anh Chị em,

“Ngày mai, cứ để ngày mai lo!”. Mỗi chúng ta có ân sủng Chúa để sống mỗi ngày. Và nếu ngày mai tôi phải đối mặt với những tình huống khó khăn hơn, Chúa sẽ gia tăng ân sủng. Ân sủng Chúa được ban cho chúng ta ngay tại thời điểm này – ‘lúc này và ở đây’ – từng ngày một. Sống giây phút hiện tại có nghĩa là chấp nhận những điểm yếu: từ bỏ việc làm lại quá khứ hoặc thống trị tương lai. Những gì tôi phải sống hôm nay là tin yêu phó thác trong vòng tay yêu thương của Chúa.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con bị đánh lừa bởi những tưởng tượng về tương lai hay gánh nặng của quá khứ, cho con yêu mến thật nhiều và làm những gì Chúa yêu thích ngay giờ này!’”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

***********************************************************

Thứ Bảy Tuần XI Thường Niên, Năm Lẻ

Anh em đừng lo lắng về ngày mai.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.      Mt 6,24-34

24 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được.

25 “Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết : đừng lo lắng cho mạng sống : lấy gì mà ăn ; cũng đừng lo lắng cho thân thể : lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao ? 26 Hãy xem chim trời : chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho ; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao ? 27 Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay ? 28 Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì ? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào : chúng không làm lụng, không kéo sợi ; 29 thế mà, Thầy bảo cho anh em biết : ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. 30 Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém lòng tin ! 31 Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi : ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây ? 32 Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. 33 Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. 34 Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai : ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.


 

Thánh Antôn Padua (1195-1231) – Cha Vương

Chúc bình an đến bạn và gia đình nhé, hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh An-tôn, mừng bổn mạng đến những ai nhận thánh Antôn làm quan thầy.

Cha Vương 

Thứ 6: 13/06/2025

Thánh Antôn Padua (1195-1231) người Bồ Đào Nha và là tu sĩ Dòng Phanxicô. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu có ở Lisboa, Bồ Đào Nha nhưng mất tại Padua, Ý. Với kiến thức chuyên sâu về Kinh Thánh, ông đã rao giảng mạnh mẽ về đức tin Kitô giáo cho người khác, chính vì thế, ông được phong thánh rất sớm sau khi qua đời và được Giáo hội Công giáo Rôma phong làm tiến sĩ Hội thánh vào ngày 16 tháng 1 năm 1946. Antôn là một người người làm việc không biết mệt mỏi. Ông thường được nhiều người ta gán cho tên “Hòm Bia giao ước” hoặc “Cái búa của bọn lạc giáo”. Người ta thường gọi thánh Antôn Padua là “ông thánh hay làm phép lạ”. Tuy ngay lúc sinh thời Ngài đã làm rất nhiều phép lạ, nhưng Ngài một mực hạ mình khiêm nhu. Chính sự khiêm nhượng cùng với lòng mến Chúa yêu Ðức Mẹ say mê và thương người tha thiết của Ngài đã làm nên nhiều phép lạ…

    Tại thành Tulu, nước Pháp, thầy Antôn tranh luận với nhóm rối đạo về mầu nhiệm Chúa Giêsu ngự thật trong Thánh Thể. Sau khi nghe thầy trình bày những luận cứ vững vàng, thì một người rối đạo nói:

– “Đã hay lời Chúa Giêsu thì rõ ràng lắm, song nếu con mắt tôi không tỏ tường, thì tôi không tin”.

Thầy Antôn liền hỏi:

– Vậy anh muốn tôi làm phép lạ nào?

– Tôi có một con ngựa. Ngày thứ bốn tôi sẽ dắt ra đây cùng một bó cỏ non. Còn thầy, thầy sẽ đưa Thánh Thể ra trước mặt nó. Nếu nó bỏ cỏ không ăn mà quỳ lạy Thánh Thể, thì tôi sẽ tin có Chúa Giêsu ngự thật trong đó.

    Thầy Antôn nhận cuộc, rồi quay về tu viện ăn chay, cầu nguyện ba ngày ba đêm.

    Đến ngày hẹn, từ sáng sớm, dân chúng đã tuôn đến đầy chợ. Ông chủ dắt ngựa đi trước, đầy tớ đội cỏ theo sau. Đồng thời, thầy Antôn cũng kiệu Mình Thánh Chúa đến và nói lớn: “Hỡi con vật vô tri, nhân danh Chúa Giêsu đã dựng nên mi, và đang ngự trước mặt mi, ta truyền cho mi phải quỳ gối thờ lạy Chúa, để thiên hạ biết rằng vạn vật trên trời, dưới đất phải thờ lạy Ngài”.

    Đang khi thầy nói, thì đầy tớ vâng lời chủ vội đem sọt cỏ đặt ngay trước mõm ngựa, nhưng nó chẳng thèm để ý tới: chỉ vội vàng quỳ hai chân trước xuống thờ lạy Chúa; dù tên đầy tớ ra sức ấn cỏ vào mồm, nhưng ngựa vẫn không thèm ăn, cứ quỳ yên cho đến khi thầy Antôn kiệu Mình Thánh Chúa về mới đứng lên ăn. Phần người rối đạo nói trên cùng cả dòng họ thì đã trở lại đạo thật và sống đạo nên gương. Ông lại còn bỏ tiền của xây một đền thờ tôn kính thánh Phêrô tại thành Tulu, đến nay hãy còn.

    Lạy Chúa, vì lời cầu bầu của thánh Antôn, xin nâng đỡ chúng con, vì chúng con yếu đuối và bé mọn, trong cơn đau đớn phần hồn và xác,… (thinh lặng nói lên ý cầu xin) xin giúp chúng con trung thành với Chúa đến cùng. Lạy thánh Antôn hay làm phép lạ, cầu cho chúng con. 

From: Do Dzung

************************

Theo Chúa -tinmung.net

Bạn có nhớ người Nữ Tu này không?

Chuyện tuổi Xế Chiều – Công Tú Nguyễn 

Bạn có nhớ người Nữ Tu này không?

Đó là sơ Maria Nguyễn Thị Kim Hoa, người đã bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ Y khoa với đề tài “Nghiên cứu biến đổi gen trong chẩn đoán và điều trị bệnh bạch cầu cấp trẻ em tại Bệnh viện Trung ương Huế”.

Mình đã đăng bài về sơ hồi năm ngoái. Là một Nữ Tu Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm, sơ Kim Hoa đồng thời là Phó Trưởng khoa Ung bướu – Huyết học – Ghép tủy Trung tâm Nhi, Bệnh viện Trung ương Huế.

Sơ Kim Hoa được gọi là “Cô tiên của các bệnh nhi ung thư” bởi nhiều em nhỏ đã được sơ cùng các Y Bác sĩ Bệnh viện Trung ương Huế cứu chữa khỏi căn bệnh hiểm nghèo này. Là một chuyên gia hàng đầu về kỹ thuật ghép tế bào gốc tự thân (GTBGTT), sơ đã miệt mài nghiên cứu, ứng dụng phương pháp ghép tủy để giành giật sự sống lại cho các em.

Sơ Kim Hoa từng trực tiếp chủ trì những ca mổ ghép tủy cho nhiều cháu bé. Không chỉ vậy, với kinh phí mỗi ca mổ lên tới hàng trăm triệu đồng, quá tầm với những gia đình lao động nghèo miền Trung, sơ còn giúp vận động, tìm kiếm nguồn hỗ trợ từ nhiều nhà hảo tâm để giúp các em có chi phí chữa chạy. Không ít gia đình bệnh nhi đã coi sơ như Ân nhân của họ.

Là dân chuyên Toán tại Trường THPT chuyên Quốc học Huế, sơ Kim Hoa có ý định đi tu để phụng sự Chúa từ khi còn trẻ; mà ngành Y khoa thì rất hợp với tu sĩ nên sơ đã đầu tư thời gian cho việc học các môn “khối B” để thi vào Đại học Y dược Huế. Trở thành Bác sĩ, sơ được Bệnh viện cử đi đào tạo tại Mỹ, Nhật Bản, Singapore. Nhờ ơn Chúa và nhờ quá trình phấn đấu học hỏi không ngừng, sơ trở thành Tiến sĩ Nhi khoa đầu tiên của Bệnh viện Trung ương Huế.

Nói về sơ Kim Hoa, một gia đình bệnh nhi cho biết: “Cô Hoa là nữ bác sĩ tuyệt vời khó có từ nào diễn tả. Cô ấy khác rất nhiều những người mà vợ chồng em từng gặp. Ở cô Hoa mình cảm nhận cô ấy có một sự ấm áp, nhân từ, thân thiện rất khó tả. Không chỉ con của mình mà nhiều bé khác đang điều trị ở đây đều xem cô ấy như một người mẹ thứ hai, một vị thiên thần mang tình yêu thương đến cho con người, cho bọn trẻ.

    Nguồn: Chuoc Dang/Bao Nguyen Quang

Tự hào là con Thiên Chúa


 

Ông An Giang tông chó rồi giết luôn chủ chó

Ba’o Nguoi-Viet

June 19, 2025

AN GIANG, Việt Nam (NV) – Nghi can Chau Linh E, 31 tuổi, ở thị xã Tịnh Biên, tỉnh An Giang, bị bắt với cáo buộc chạy xe gắn máy tông phải chó nhà hàng xóm rồi dùng búa đánh bà này thiệt mạng.

Theo báo VNExpress hôm 19 Tháng Sáu, vào ba hôm trước, nghi can Linh E chạy xe gắn máy về đến gần nhà thì tông một con chó của hàng xóm, bà Nèang Ron, 50 tuổi. Bà Ron thấy vậy, ra đường chửi bới nam nghi can.

Nghi can Chau Linh E (trái) tại đồn công an. (Hình: Tiến Tầm/VNExpress)

Sau một hồi cự cãi qua lại, nghi can Linh E bực tức lấy một cây búa chẻ củi trong cốp xe đuổi chém bà hàng xóm.

Lúc đó, ông Chau Ao, cha bà Ron, chạy ra ngăn cản cũng bị nam nghi can cầm búa tấn công. Bà Ron thiệt mạng tại chỗ, ông Ao được đưa đi cấp cứu kịp thời nên giữ được mạng sống.

Nam nghi can bị công an bắt giữ gần hiện trường.

Trong một vụ án mạng khác liên quan đến việc nuôi chó, vào đêm 8 Tháng Sáu, nghi can Nguyễn Thị Cúc, 47 tuổi, ở tỉnh Vĩnh Long, sang nhà kế bên phàn nàn với bà hàng xóm 65 tuổi về chuyện con gái bà này thường xuyên dẫn chó đái ị trước cửa nhà mình, gây hôi thối.

Khi nghi can Cúc vừa quay về nhà, mẹ con bà hàng xóm kéo sang nói chuyện phải quấy, dẫn đến xô xát.

Bà cao niên 65 tuổi nắm tóc nghi can Cúc, đè xuống đất. Nữ nghi can sau đó dùng tay đánh vào đầu bà này đến khi nạn nhân bất tỉnh. Bà cao niên chết trên đường đi cấp cứu.

Hiện trường vụ án mạng xảy ra tại thị xã Tịnh Biên, tỉnh An Giang. (Hình: Tiến Tầm/VNExpress)

Đáng lưu ý, hầu hết ý kiến độc giả bên dưới bản tin về sự việc trên báo VNExpress đều tỏ ý bênh vực nghi can Nguyễn Thị Cúc.

Độc giả “Trancongthai1939” cho biết: “Chủ chó có lỗi thả chó phóng uế, đã không nhận lỗi lại còn sang đánh người hàng xóm tố cáo. Theo tôi, việc người hàng xóm bị đánh đau, oan ức và đánh trả là tự vệ chính đáng, không cố ý giết người.”

Độc giả “Bachminhtrieu45” nêu ý kiến: “Người ta đem chó qua cửa nhà mình để cho chó đi vệ sinh. Nếu là mình thì mọi người sẽ xử lý ra sao? Chủ nhà qua nhắc nhở là quá chuẩn mực rồi, không biết điều thì thôi còn kéo đến nhà người ra tay trước. Theo tôi thì nghi can phòng vệ chính đáng và vô tình gây chết người.” (N.H.K) [qd]


 

Tôi Không Còn Đau Đớn Nữa… Vì Tôi Không Còn Trông Đợi Nữa !

Kimtrong Lam

“Người ta đã bỏ tôi lại trong viện dưỡng lão… như một món đồ cũ không ai còn muốn giữ. Giờ thì món đồ cũ ấy đang làm ra bạc triệu.”

Tôi tên là Alejandro, 81 tuổi. Năm năm trước, các con tôi đưa tôi lên xe, nói là sẽ đưa đi xem một căn nhà ở vùng quê. Nhưng khi đến nơi, họ dừng xe trước một viện dưỡng lão. Tôi không khóc, cũng không phản đối… Tôi chỉ lặng lẽ im lặng.

Vài ngày trước đó, tôi đã bán ngôi nhà của mình để chia tiền cho các con. Tôi nghĩ mình làm thế vì tình yêu. Nhưng với chúng, tôi chỉ là người không còn giá trị. Một gánh nặng. Chúng bỏ đi không một lời từ biệt. Và tôi cũng chẳng bao giờ còn gặp lại nữa.

Viện dưỡng lão ấy không tồi. Có giường sạch, có bữa ăn, có y tá chăm sóc. Nhưng có một điều mà không ai để ý: ở đây là những trí tuệ từng rất rực rỡ – giờ chỉ còn lại sự lặng im vì bị bỏ rơi. Là bác sĩ đã nghỉ hưu, kỹ sư bị lãng quên, kế toán còn trí nhớ sắc bén. Ai cũng mang trong mình cô đơn, kỷ niệm… và một khát khao mãnh liệt được chia sẻ.

Chúng tôi bắt đầu tụ họp mỗi chiều. Chia sẻ ý tưởng, kể về những dự án đã từng làm – hay từng mơ nhưng chưa dám bắt đầu. Và từ đó, không ngờ, một “vườn ươm khởi nghiệp” tóc bạc đã ra đời.

Tôi xin phép được sử dụng một căn phòng trống. Với một chiếc tablet cũ, chút Wi-Fi và sự đóng góp của những người bạn già, chúng tôi bắt đầu xây dựng. Có người giỏi cây cảnh, người biết tài chính, người khéo tay làm đồ thủ công. Thế là chúng tôi tạo ra một thương hiệu hàng thủ công do người già sản xuất: xà phòng, khăn len, mứt, đồ gỗ tái chế…

Chúng tôi bán hàng online. Tháng đầu, thu về 500.000 peso. Một năm sau, 1 triệu mỗi tháng. Giờ đây, chúng tôi có 4 cửa hàng, một website, và hơn 30 cư dân làm việc với tất cả trái tim.

Gần đây, các con tôi liên lạc. Chúng đã xem một phóng sự về tôi trên truyền hình và muốn đến thăm. Chúng đến ăn mặc chỉn chu, tay mang đầy quà cáp. Tôi ôm lấy chúng, rồi nói rằng món quà quý nhất chính là việc các con đã bỏ tôi ở đây. Nhờ đó, tôi đã được tái sinh. Giờ đây, mỗi khi chúng rời đi, tôi không còn đau đớn nữa… vì tôi không còn trông đợi nữa.

Ở đây, tôi đã tìm được một gia đình – không sinh ra từ máu mủ, mà từ ý nghĩa. Và một “đế chế” được xây dựng từ những gì mà người khác đã vứt bỏ.

“Đôi khi, khi người ta ném bạn đi như rác… chính là lúc bạn chuẩn bị trở thành nguyên liệu quý cho một điều gì đó vĩ đại hơn rất nhiều.”

Alejandro Torres


 

KHO TÀNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó!”.

“Trái tim con người được tạo ra cho những hứa hẹn về một kho tàng hạnh phúc, an toàn; cho những niềm vui mà nó mang lại. Nhưng vấn đề là bạn nên giao phó trái tim mình, con người mình cho loại kho tàng nào?” – Anon.

Kính thưa Anh Chị em,

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ ra loại ‘kho tàng’ mà bạn và tôi nên “giao phó trái tim và toàn thể con người mình”; đồng thời, Ngài cũng cảnh báo về một loại kho tàng mà chúng ta thường ‘tưởng như kho tàng’ vốn đưa đến hư mất.

Điều mà con người ‘tưởng như kho tàng’ là của cải vật chất vốn đang giằng xé trái tim và lòng dạ nó mỗi ngày. Đó là những gì thuộc về trần gian như của cải, địa vị, quyền lực hay danh vọng. Vậy mà những điều này có thể bị lấy khỏi chúng ta bất cứ lúc nào; và vào lúc chúng ta cần sự giúp đỡ của nó nhất – lìa đời – những ‘của cải’ này sẽ ngoảnh mặt. “Không có chiếc túi nào trong tấm vải liệm!” – Ngạn ngữ Tây Ban Nha; “Đừng bám víu vào những điều chóng qua, kẻo bạn sẽ đánh mất điều vĩnh cửu!” – Gioan Thánh Giá.

Là Kitô hữu, chúng ta có một ‘kho tàng’ duy nhất xứng tầm với trái tim; không bao giờ phản bội hay hư mất, và sẽ cùng chúng ta vượt qua nấm mồ để bước vào mái vòm sự sống vĩnh cửu. Kho tàng đó là Chúa Kitô và tất cả những hành động tốt đẹp chúng ta làm vì Vương Quốc Ngài. Đó là các việc lành phúc đức dành cho tha nhân được làm trong tình yêu Ngài. Hôm nay, ‘Kho Tàng’ ấy lên tiếng, “Kho tàng của anh ở đâu thì lòng anh ở đó!”.

Chúa Giêsu thúc giục chúng ta đặt niềm tin và sự an toàn của mình vào Ngài và chỉ một mình Ngài. Tuy nhiên, “tích trữ kho tàng trên trời” không chỉ là tích luỹ thật nhiều “việc lành” vì quỹ ‘tín dụng’ này cũng có thể mất rất nhanh khi chúng ta sa ngã hay để ma quỷ lợi dụng. Vấn đề quan trọng là làm sao bạn và tôi ngày càng phát triển thành ‘loại người’ thấm nhuần các giá trị và quan điểm Tin Mừng, nghĩa là, ngày càng nên giống Chúa Kitô. Đó không phải là vấn đề ‘làm’ hơn là vấn đề ‘là’, vấn đề ‘trở thành!’. Bên cạnh đó, bạn xây dựng kho tàng ấy bằng những gì bạn cho đi; đặc biệt, cho đi ‘Giêsu!’.

Anh Chị em,

“Kho tàng của anh ở đâu!”. Vậy kho tàng đích thực bạn và tôi đang vun quén là một ‘kho tàng thực’ hay chỉ là cái ‘tưởng như kho tàng?’. “Nhưng cha ơi, con là người làm việc, có gia đình, đối với con, thực tại quan trọng nhất là duy trì gia đình và công việc của con. Chắc chắn, điều này đúng và nó quan trọng! Nhưng sức mạnh nào đã gắn kết gia đình? Đó thực sự là tình yêu và Đấng gieo tình yêu vào lòng chúng ta – Chúa Kitô – Chính tình yêu của Ngài đã mang lại ý nghĩa cho những công việc nhỏ hằng ngày giúp chúng ta đối mặt với những thử thách lớn. Đây là kho tàng đích thực: tiến bước trong cuộc sống với tình yêu mà Chúa Kitô đã gieo vào lòng chúng ta, tình yêu của Thiên Chúa!” – Phanxicô.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con hiểu rằng, của cải lớn nhất không nằm trong két sắt, mà trong linh hồn biết yêu – yêu Thiên Chúa và yêu người khác vì Ngài!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

******************************************************

Thứ Sáu Tuần XI Thường Niên, Năm Lẻ

Kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.   Mt 6,19-23

19 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. 20 Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi. 21 Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó.

22 “Đèn của thân thể là con mắt. Vậy nếu mắt anh tốt, thì toàn thân anh sẽ sáng. 23 Còn nếu mắt anh xấu, thì toàn thân anh sẽ tối. Vậy nếu ánh sáng nơi anh lại thành bóng tối, thì tối biết chừng nào !”


 

Thánh Rômualđô, viện phụ (956 – 1027) – Cha Vương

Tạ ơn Chúa đã ban cho Bạn một ngày mới! Ước mong bạn cảm nhận được Chúa đang ôm bạn thật chặt. Hôm nay Giáo Hội mừng kính thánh Rômualđô, viện phụ (956 – 1027). Mừng bổn Mạng đến những ai chọn ngài làm bổn mạng nhé.

Cha Vương

Thứ 5: 19/6/2025

Thánh Rômualđô là một nhà quý tộc người Ý, được sinh khoảng năm 951 tại Ravenna, nước Ý. Khi lên 20 tuổi, Rômualđô bị sốc mạnh khi thấy thân phụ ngài giết chết một người đàn ông trong một cuộc đọ kiếm tay đôi. Rồi thánh Rômualđô vào tu trong đan viện Bênêđictô. Ngài quyết tâm sống cuộc đời ngay chính. Thánh Rômualđô cũng muốn sám hối thay cho hành vi bệ rạc của người cha. Đối với Rômualđô, môi trường và lối sống của đan viện thật mới lạ vì ngài đã quen với nếp sống sang trọng, xa hoa và vô công rỗi nghề ở gia đình. Nhưng dần dần, chàng quý tộc bị ảnh hưởng sâu sắc bởi gương sáng của nhiều đan sĩ. Rômualđô quyết tâm trở nên một đan sĩ. Ngài đã xin một ẩn sĩ tốt lành tên là Marinô dạy cho cách thức nên thánh. Cả Marinô và Rômualđô đã cố gắng dùng thời giờ mỗi ngày để ca ngợi, tôn vinh và yêu mến Thiên Chúa. Thân phụ của Rômualđô là ông Sêgiô đến quan sát lối sống của con trai mình. Ông bị đánh động bởi sự đơn sơ và tinh thần bỏ mình của người con. Sêgiô nhận thức rằng chắc chắn phải có một thứ hạnh phúc đặc biệt nào đó trong đan viện – bởi vì con trai ông đã tự tình chấp nhận vào sống ở đó. Và đó là điều Sêgiô đang cần. Ông đã từ bỏ mọi thứ của cải mình có và cũng bắt chước người con sống phần đời còn lại như một đan sĩ.

    Sau cùng, thánh Rômualđô thiết lập hội dòng Camalđôlêsêô Bênêđictô. Thánh nhân đi khắp nước Ý lập thêm các ẩn viện và các đan viện. Ở bất cứ nơi đâu, thánh Rômualđô cũng đều làm gương sáng cho các đan sĩ về lòng sám hối. Suốt một năm trời, mỗi ngày Rômualđô chỉ ăn chút ít đậu luộc. Rồi cả ba năm tiếp theo, thánh nhân chỉ dùng một ít thức ăn hầu nuôi sống mình. Nhờ những hy sinh này, thánh Rômualđô sống kết hợp mật thiết hơn với Thiên Chúa.

    Thánh Rômualđô về trời ngày 19 tháng Sáu năm 1027, tại đan viện Valđi Castrô. Ngài ở một mình trong đan phòng của ngài và qua đời cách lặng lẽ âm thầm. Chắc hẳn thánh Rômualđô đã thầm thĩ lời nguyện rất được ưa chuộng này: “Ôi, lạy Đức Chúa Giêsu dịu hiền! Chúa đáng yêu mến của lòng con! Chúa là niềm khoái cảm vui thích của các linh hồn thanh khiết! Chúa là đối tượng của mọi sự con ước ao!”

    Chúng ta hãy nài xin thánh Rômualđô giúp chúng ta biết quý trọng sự cầu nguyện và sự sống của Chúa Giêsu trong ta. Chúng ta cũng hãy nài xin thánh nhân ban ơn để chúng ta đủ sức thực hiện những việc thiêng liêng cách liên lỉ.

    Bài học chúng ta có thể học được từ cuộc đời của thánh Romualđô là cùng nhau giúp nhau nên thánh. 

(Nguồn: TGP Sài Gòn)

From Do Dzung

************************

Nên Thánh Giữa Đời – Xara Trần – (St: Sr Têrêsa)

50 năm kết thúc chiến tranh: Cuộc tranh luận chưa dứt giữa Phan Châu Trinh và Hồ Chí Minh

BBC News Tieng Viet

  • Tác giả,
  • Tiến sĩ Kevin D. Phạm (viết); Bùi Văn Phú (dịch)
  • Gửi cho BBC News Tiếng Việt từ Amsterdam, Hà Lan
  • 18 tháng 6 2025

Chủ điểm của bài viết này là tìm hiểu về các hệ tư tưởng chính trị tại Việt Nam từ đầu Thế kỷ XX cho đến cuộc cách mạng vào giữa Thế kỷ XX, qua đó cho chúng ta thấy hai ví dụ về phản ứng của người Việt đối với chủ nghĩa thực dân Pháp (1858-1954).

Tôi cho rằng các lý thuyết gia người Việt như Phan Châu Trinh (Phan Chu Trinh) và Hồ Chí Minh đã áp dụng truyền thống Nho giáo cùng với các hệ tư tưởng phương Tây để đưa ra tầm nhìn khác nhau về việc làm sao đưa dân tộc thoát khỏi ách thực dân. Các cuộc tranh luận của họ vào đầu thế kỷ XX nay vẫn còn mang tính thời sự đối với tranh luận về các hệ tư tưởng hiện đại.

Trong nghiên cứu gần đây về những chủ trương thoát thực dân của người Việt, tôi đã giới thiệu những tư tưởng chính trị Việt Nam vào lĩnh vực học thuật trong lý thuyết chính trị và đặt ra những câu hỏi như: Cuộc sống tốt đẹp là gì? Nên đặt ưu tiên cho những giá trị nào? Ai là thành phần lãnh đạo? Thế nào là một chính phủ tốt?

Ngoài việc đưa ra những đáp án cho những luận đề kinh điển nêu trên về “lý thuyết chính trị”, các nhà tư tưởng người Việt thời kỳ thuộc địa đã tìm câu trả lời cho những vấn đề khác như: Người châu Âu đã cai trị chúng ta như thế nào? Chủ nghĩa thực dân châu Âu có phải là quy luật tự nhiên, kẻ mạnh thống trị kẻ yếu, như những người theo chủ nghĩa Darwin xã hội thường nói không? Hay đó là hệ quả của chủ nghĩa tư bản như Lenin vẫn nói? Chúng ta nên làm gì với các giá trị truyền thống của mình trước sự du nhập những ý tưởng mới từ châu Âu? Khi kẻ thực dân hành hạ chúng ta vì không cùng chủng tộc, làm nhục hoặc bóc lột chúng ta, chúng ta nên phản ứng như thế nào? Làm thế nào để tạo nên sức mạnh và đoàn kết giữa chúng ta để chống lại chủ nghĩa thực dân hay làm cách mạng? Nói chính xác thì kháng chiến và cách mạng sẽ được tiến hành như thế nào? Mục tiêu là gì và phương pháp thực hiện nó ra sao? Nói cách khác, viễn cảnh tốt nhất để thoát khỏi nô lệ thực dân là gì?

Thành phần trí thức và giới hoạt động người Việt quan tâm đến những vấn đề nêu trên vốn có xuất thân từ truyền thống Nho giáo, một triết lý xã hội do Khổng Tử khởi xướng. Những người theo tư tưởng Không Tử tin rằng điều đáng giá nhất mà bất kỳ ai cũng có thể làm trong quãng đời của họ là rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức, hay “đức hạnh”, để trở nên quan tâm hơn tới tha nhân. Họ tin rằng một người trở nên có đức hạnh hơn thì có thể thúc đẩy sự hòa hợp trong xã hội và tạo ảnh hưởng qua tấm gương tốt của mình (thay vì sử dụng vũ lực hoặc sự đe dọa).

 Tuy nhiên, mỗi lý thuyết gia trong số này đều có cách diễn giải riêng về Nho giáo, và trước làn sóng du nhập của các tư tưởng chính trị-xã hội từ phương Tây, họ có những ý tưởng khác nhau trong cách tổng hợp hay tìm thỏa hiệp giữa truyền thống Nho giáo với các hệ tư tưởng chính trị mới đến từ “phương Tây”, như chủ nghĩa tự do (một hệ tư tưởng chính trị nhấn mạnh đến quyền và tự do cá nhân), dân chủ, cũng như chủ nghĩa Mác. Họ đối chiếu giữa các truyền thống tri thức của nước ngoài để tìm ra những ý tưởng phù hợp với họ. Có rất nhiều nhà tư tưởng Việt đã làm điều này và chúng ta sẽ tìm hiểu về hai người trong số họ.

Nguyễn Ái Quốc tại đại hội Đảng Xã hội Pháp ở Tours vào năm 1920

Vào một buổi tối mùa đông năm 1919, tại căn hộ ở số 6 Villa des Gobelins thuộc quận 13 Paris, nhà yêu nước Việt Nam nổi tiếng Phan Châu Trinh đã có một cuộc tranh luận gay gắt với một học trò của mình – một thanh niên vô danh trạc tuổi con trai của ông. Người thanh niên trẻ này đã tỏ ra mất kiên nhẫn khi lập luận rằng thực dân Pháp đã làm nhục người Việt Nam trong hơn sáu thập kỷ vì thế đã đến lúc người Việt phải hành động trực tiếp bằng bạo lực. Nhưng ông Phan kêu gọi thận trọng:

“Anh muốn hai mươi triệu đồng bào ta phải làm gì khi trong tay không có vũ khí để chống lại vũ khí khủng khiếp của người Âu? Tại sao chúng ta lại tự sát vô ích để chẳng đi đến một kết quả nào cả?… Phải chăng tốt hơn là chúng ta đòi hỏi một cách mềm mỏng nhưng rất kiên quyết và với lòng kiên nhẫn, nhất là những quyền mà phẩm cách con người cho phép chúng ta đòi hỏi.”

Chàng trai trẻ trả lời:

“Dân An Nam đã chờ đợi thay đổi từ sáu mươi năm nay nhưng chính phủ [thực dân Pháp] không làm được gì đáng kể cho họ thỏa mãn. Nếu trong dân chúng có kẻ nào lên tiếng bày tỏ với nhà đương cục những yêu cầu và nỗi thống khổ của họ và để kêu xin những phương thuốc chống đỡ nỗi khổ đau họ phải gánh chịu, thì người ta trả lời họ bằng nhà tù, bằng lưu đày và tử hình. Nếu bác luôn tin cậy vào sự quan tâm của chính phủ để cải tiến tình trạng hiện nay thì bác sẽ phải đợi đến muôn đời.”

Thế giới về sau đã biết đến chàng trai trẻ tuổi này với cái tên Hồ Chí Minh. Trong căn phòng tối hôm đó có một mật vụ ngầm đã ghi âm cuộc đối thoại giữa hai người. Người này được lệnh chính quyền Pháp theo dõi Hồ Chí Minh vì bởi kể từ mùa hè năm ấy, ông đã gây nên cho họ những nghi ngờ.

Khi đó, ông Hồ đã gửi một bản kiến nghị mang vẻ chính thức đến các đại biểu tại Hội nghị Hòa bình Paris ở Versailles. Bản kiến nghị không yêu cầu độc lập, thay vào đó, nó chứa đựng các yêu cầu công nhận các quyền tự do căn bản cho người Việt ngay cả khi vẫn còn dưới sự cai trị của thực dân Pháp. Ông Hồ đã ký thay mặt cho Nhóm những người Việt Nam yêu nước mà ông và người thầy của ông, Phan Châu Trinh, sau đó nhận ra rằng các thỉnh cầu này đã không được quan tâm.

Qua những trích dẫn, cả Hồ Chí Minh và Phan Châu Trinh dường như đã thể hiện một quan điểm quen thuộc được công nhận, đó là về phẩm giá của con người: phẩm giá là thứ thừa hưởng ở mỗi con người riêng lẻ, nó là sự biện minh cho các quyền, và nó đòi hỏi sự công nhận của xã hội. Phan Châu Trinh nghĩ rằng người Việt Nam nên đòi từ người Pháp “những quyền mà phẩm giá con người cho phép chúng ta được có.” Hồ Chí Minh có quan điểm ngược lại, với lập luận rằng người Việt Nam phải buộc người Pháp công nhận phẩm giá của người Việt Nam.

Nhưng rồi cả hai bắt đầu nhận ra những hạn chế của quan điểm qui ước về phẩm giá. Biết rằng phẩm giá vốn có ở mỗi cá nhân không làm dịu đi nỗi đau khi chứng kiến sự phủ nhận phẩm giá của dân mình. Người Việt phải chờ bao lâu và phải “đòi hỏi” bao nhiêu lần thì thực dân Pháp mới chịu công nhận phẩm giá và quyền của họ? Nếu người Pháp không bao giờ làm vậy thì sao? Và nếu không có thực thể nào mạnh hơn Pháp để trừng phạt người Pháp hoặc buộc họ phải công nhận phẩm giá của người Việt Nam thì sao? Vậy phải làm gì? Câu trả lời hiển nhiên là kháng chiến và làm cách mạng.

Nhưng như đã đề cập ở trên, điều khó xác định hơn nhiều chính là hình thức cụ thể mà kháng chiến và cách mạng nên diễn ra như thế nào. Phan Châu Trinh và Hồ Chí Minh có tầm nhìn khác nhau về kháng chiến và cách mạng.

Năm 1925, Phan Châu Trinh trở về Việt Nam và có bài phát biểu về “Đạo đức và luân lý Đông Tây” ở Sài Gòn. Trong bài phát biểu, ông lập luận rằng Việt Nam bị Pháp đô hộ là vì người Việt yếu kém, xuất phát từ việc thiếu đạo đức Nho giáo đích thực. Sự yếu kém của người Việt là do sự suy đồi của vua quan Việt khi họ bóp méo tư tưởng Nho giáo để biện minh cho sự cai trị áp bức của họ. Chính điều đó khiến dân tộc bị che mắt để không hiểu đúng về đạo đức và luân lý Nho giáo đích thực. Điều này tạo ra sự yếu kém ở người Việt nên dễ bị khuất phục trước ngoại bang.

Phan Châu Trinh đã từng sống mười ba năm ở Pháp và ông nhận thấy người châu Âu phát triển hơn về mặt đạo đức xã hội. Ông lập luận rằng người Âu biết cư xử tử tế với đồng bào của họ vì “người bên Âu châu họ cũng tranh giành nhau dữ dội lắm, song giành nhau cũng ở trong vòng pháp luật mà thôi. Chí như công đức là giúp đỡ lẫn nhau, kính trọng quyền lợi cho nhau thì họ vẫn không bỏ.” Ngược lại, “lấy một việc đó mà so với người mình quanh năm trọn tháng chỉ lo cho cái xác thịt, cái tuổi già mà vẫn không xong thì cũng đủ xấu hổ rồi; huống hồ là nói đến việc xã hội nhân quần, họ hơn ta xa như thế thì làm sao ta không kính trọng họ cho được?”

Tóm lại, ông cho rằng người châu Âu có bản sắc “Nho giáo” hơn người Việt và điều này là do người châu Âu có truyền thống phản ứng lại chế độ quân chủ chuyên chế của họ bằng cách thúc đẩy “tự do” (ý ông là quyền của con người) và “dân chủ” (ý ông là “chính quyền theo pháp luật”).

Ông lập luận rằng nếu người Việt muốn tự cường và xây dựng phẩm giá dân tộc, họ nên từ bỏ truyền thống quân chủ của mình và thay vào đó áp dụng chủ nghĩa tự do và dân chủ từ châu Âu như một “phương thuốc”. Làm như vậy, ông lập luận, sẽ cải thiện đạo đức và luân lý của người Việt, từ đó cho phép tư tưởng Khổng Mạnh được phát huy trọn vẹn ở Việt Nam:

“Đem văn minh Âu châu về tức là đem đạo Khổng Mạnh về… Thế thì đem văn minh Âu châu về đã không hại gì mà lại còn làm cho rỡ ràng đạo Khổng Mạnh ra.”

Thông thường, những lý thuyết gia chính trị coi chủ nghĩa tự do của “văn minh châu Âu” là một sự đối lập với “Nho giáo.” Vậy làm sao Phan Châu Trinh có thể đưa ra lập luận này? Hóa ra là vì ông gạt bỏ sự tập trung của chủ nghĩa tự do vào quyền và tự do cá nhân, và tập trung diễn giải nó như một hệ tư tưởng đề cao quyền và tự do của người dân. Thông thường chúng ta có thể cho rằng việc hiểu sai các truyền thống ngoại lai là điều không tốt, nhưng Phan Châu Trinh cho thấy rằng việc diễn giải một cách tích cực – dù có phần lý tưởng hóa – các tư tưởng ngoại lai có thể là một phương thức sáng tạo như một “phương thuốc” làm sống lại các truyền thống đang tàn lụi của chính mình.

Bây giờ chúng ta hãy chuyển sang người học trò trẻ tuổi của Phan Chu Trinh, người sau này được biết đến với tên gọi Hồ Chí Minh.

Hãy trở lại với buổi tối năm 1919 ấy. Hồ Chí Minh, thất vọng với Phan Châu Trinh, lang thang qua những con phố của Paris, đến tòa soạn các báo để tìm cách phổ biến các yêu sách của mình, nhưng chẳng ai quan tâm, ngoại trừ những người theo Đảng Xã hội Pháp. Với sự cảm thông, họ đã mời ông đến các cuộc họp của họ.

Lúc bấy giờ, những đảng viên Xã hội Pháp đang theo dõi sát những diễn biến của cuộc cách mạng Nga, nơi mà chủ nghĩa cộng sản đang chuyển từ lý thuyết sang thực tiễn. Họ tranh luận xem liệu nước Pháp có nên theo hướng cải cách dần dần (evolution) hay đi theo người Nga, với một cuộc cách mạng hướng tới chủ nghĩa cộng sản. Nhưng điều quan trọng nhất đối với Hồ Chí Minh là sự áp bức đối với các dân tộc đang bị thực dân cai trị. Tại các cuộc họp này, ông nêu vấn đề là nếu quan tâm đến việc giải phóng người bị áp bức, tại sao không ai nói về chủ nghĩa thực dân?

Sau đó, trong các buổi họp này, có một ai đó đã trao cho Hồ Chí Minh một bản sao của “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lenin. Mặc dù khi đó Hồ Chí Minh đã quen với những ý tưởng cộng sản, nhưng việc đọc Lenin là một bước ngoặt trong tư tưởng chính trị của ông. Đối với Hồ Chí Minh, Lenin đã đưa ra những lý luận thuyết phục nhất về vấn đề thực dân áp bức cũng như giải pháp cho những gì cần phải làm.

Hồ Chí Minh nổi tiếng là người đã tham gia vào việc thành lập Đảng Cộng sản Pháp vào tháng 12 năm 1920. Ông bắt đầu viết báo đăng trên các tạp chí, đưa ra lập luận rằng người Việt phải tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và lén đưa các ấn phẩm này về Việt Nam. Đó là cách người ở trong nước đã được giới thiệu đến chủ nghĩa Mác.

Vào một ngày trong năm 1922, Hồ Chí Minh nhận được lá thư mang tính nhượng bộ của Phan Châu Trinh.

“…Anh cũng không ưa cái phương pháp khai dân khí, chấn dân khí, hậu dân sinh của tôi; còn tôi thì lại không thích cái phương pháp ngọa ngoại chiêu hiền đãi thời đột nội của anh và cả cái phương pháp bất hòa mà anh đã nói với anh Phan [Văn Trường] là tôi là hạng người hủ nho hủ cựu.

“Cái điều anh gán cho tôi đó, tôi chẳng giận anh tí nào cả, bởi vì suy ra thì tôi thấy rằng: tôi đọc chữ Pháp bập bẹ nên không am tường hết sách vở ở cái đất văn minh này… Tôi tự ví tôi ngày nay như con ngựa đã hết nước tế; tôi nói thế chẳng hề đem ví anh là kẻ tử mã lục thạch [Hoàng Xuân Hãn giải thích là ‘ngựa non háu đá’],…

“…Lần này tôi phải viết cái thơ này cho anh là tôi có cái hy vọng muốn anh nghe theo tôi mà lo cái đại sự… Theo ý tôi thì mình mà học hỏi lý thuyết hay, phương pháp tốt, tóm thâu được chủ nghĩa, có chí mưu cầu lợi quyền cho quốc dân đồng bào, thì đừng có dùng cái lối nương náu ngoại bang để rung chuông, gõ trống, mà phải trở về ẩn náu trong thôn dã, hô hào quốc dân đồng bào đồng tâm hiệp lực đánh đổ cường quyền áp chế, ắt là thành công…”

Sau đó Hồ Chí Minh rời Pháp sang Nga và Trung Quốc và rèn luyện trong nhiều năm để trở thành một nhà cách mạng trước khi trở về nước vào năm 1941 để lãnh đạo phong trào giành độc lập cho Việt Nam. Năm 1945, ông đọc Bản tuyên ngôn Độc lập và chính thức khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Nhưng người Pháp không nhượng bộ. Họ vẫn cố gắng tìm cách quay lại chiếm đóng Việt Nam, đẫn đến cuộc kháng chiến của người Việt và khơi mào cho Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Người Pháp cuối cùng thua ở Điện Biên Phủ năm 1954 và một năm sau thì người Mỹ vào Việt Nam.

Lính Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất

Trong suốt những năm tháng chiến tranh, Hồ Chí Minh đã phát triển một lý thuyết cách mạng, theo kiểu tinh thần gia trưởng vì ông tin rằng Đảng Cộng sản tiền phong nên hành động như bậc “cha mẹ” của dân vì ông coi nhân dân như những đứa trẻ chưa phát triển cần được hướng dẫn về đạo đức và chính trị. Ông cho rằng lãnh đạo của Đảng phải là những “cha mẹ” khôn ngoan, nhân từ của các con.

Để trở thành “cha mẹ” tốt, Hồ Chí Minh lập luận rằng các lãnh đạo của Đảng phải trau dồi đạo đức cách mạng cho chính bản thân qua việc thường xuyên “phê và tự phê.” Chỉ khi đó họ mới có thể dẫn dắt quần chúng một cách hiệu quả trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Tuy nhiên, song với đó, ông cũng diễn giải lý thuyết cách mạng của mình là mang tính dân chủ. Ông nhấn mạnh rằng chính quyền là “đầy tớ” của dân và dân là “chủ của đất nước.” Như vậy, trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, tập thể nhân dân vừa là người chủ của đất nước vừa là trẻ thơ cần có được dìu dắt về đạo đức.

Trung tâm của quan điểm này là quan niệm của Khổng giáo về tự tu dưỡng. Hồ Chí Minh tin rằng lãnh đạo phải thấm nhuần đức tính cách mạng. “Muốn làm cách mạng, trước hết phải cải tạo tâm hồn. Muốn cải tạo xã hội, trước hết phải cải tạo bản thân.” Đối với ông, đạo đức cá nhân và đạo đức xã hội là quá trình liên tục gắn kết với nhau – một quan điểm mà ông tiếp thu từ án thư Đại học của Khổng giáo, một tác phẩm đưa ra lập luận rằng bằng cách thay đổi bản thân, người ta tự động thay đổi thế giới: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.”

Nếu như Phan Châu Trinh kết hợp Nho giáo với chủ nghĩa tự do, thì Hồ Chí Minh lại kết hợp Nho giáo với chủ nghĩa Mác-Lênin. Đối với Phan Châu Trinh, chủ nghĩa tự do nên được sử dụng để đạt được những điều tốt hơn của Nho giáo. Ngược lại, đối với ông Hồ, Nho giáo nên được sử dụng để bồi dưỡng đạo đức cách mạng để tiến tới chủ nghĩa cộng sản:

“…Những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình về mặt tinh thần bằng đọc các tác phẩm của Khổng Tử và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lenin!”

Hồ Chí Minh cho rằng đạo đức Nho giáo là tốt, nhưng chủ nghĩa thực dân Pháp đã ngăn cản người Việt thực hành đạo đức Nho giáo bằng cách áp bức họ qua bóc lột, rượu chè và thuốc phiện. Do đó, ông đã thúc giục lãnh đạo Đảng:

“Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: cần, kiệm, liêm, chính.”

Cần lưu ý, ở đây, “nhân dân” tiếp tục được xem như những “đứa trẻ” cần được giáo dục lại. Và cũng cần lưu ý bốn đức tính cốt lõi này (cần, kiệm, liêm, chính) có nguồn gốc từ đạo Khổng như thế nào. Đây là những gì ông gọi là “đạo đức cách mạng.”

Như chúng ta biết, Hồ Chí Minh và tầm nhìn của ông đã tiếp tục dẫn đường cho những người cộng sản Việt Nam vượt qua cuộc chiến tranh chống Pháp trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1945-1954), vượt qua cuộc chiến tranh với Mỹ và Việt Nam Cộng hòa trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai (1955-1975). Hệ tư tưởng chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay được gọi là “Tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Trong khi đó, tư tưởng của Phan Châu Trinh dù đã từng truyền cảm hứng cho một số người nhưng lại rồi bị rơi vào quên lãng sau khi ông qua đời năm 1926. Tuy vậy, những nét chính về chủ nghĩa cộng hòa của ông đã xuất hiện ở miền Nam Việt Nam. Và ngày nay đang có sự hồi sinh tiềm năng và quan tâm đến tư tưởng của Phan Châu Trinh cũng như ông vẫn rất được kính trọng và ca ngợi ở xã hội Việt Nam đương đại.

Play video, “Chiến Tranh Việt Nam: Việt Nam Cộng Hòa thua do sự phản bội của Kissinger?”, Thời lượng 12,20

12:20

Chiến Tranh Việt Nam: Việt Nam Cộng Hòa thua do sự phản bội của Kissinger?

Trong căn hộ đó tại số 6 Villa des Gobelins vào buổi tối mùa đông năm 1919, cuộc tranh luận giữa Phan Châu Trinh và Hồ Chí Minh có vẻ quen thuộc với nhiều người trong chúng ta. Để đáp lại bất công, bóc lột, thống trị và sự phân biệt chủng tộc, chàng thanh niên tỏ ra mất kiên nhẫn và thúc giục hành động ngay trong khi người đàn ông lớn tuổi thì thận trọng và khuyên nhủ thực hiện những thay đổi chậm rãi và bền vững.

Nhưng chính trong căn hộ ấy, những hạt mầm đã được gieo xuống cho các cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, thứ hai và thứ ba. Trực giác con người cho thấy nếu những ai có lợi thế về quyền lực mà không nhận ra phẩm giá của những người ở vị thế yếu kém hơn và không đưa họ vào các cuộc thảo luận về lợi ích chung, thì những người yếu thế ấy sẽ tìm cách xây dựng phẩm giá của họ theo những cách khác – dù là bạo lực hoặc phi bạo lực, dù là phá hoại hay kiến tạo.

Vài tháng trước, tôi đã thăm Việt Nam, một đất nước dường như đang khởi sắc. Tôi đã đến viếng mộ Phan Châu Trinh và lăng Hồ Chí Minh và suy ngẫm về những tầm nhìn khác nhau của họ. Rõ ràng là cả hai đều được kính trọng ở Việt Nam, nhưng các bài phát biểu của lãnh đạo Việt Nam hiện nay cho thấy rằng tư tưởng của Hồ Chí Minh đã chính thức chiếm ưu thế so với tư tưởng của Phan Châu Trinh.

Dù vậy, tôi vẫn tự hỏi: Liệu đề xuất của Phan Châu Trinh về việc kết hợp các tư tưởng phương Tây về chủ nghĩa tự do và dân chủ với Nho giáo có còn phù hợp ở Việt Nam ngày nay không? Những lập luận do Phan Châu Trinh và Hồ Chí Minh đưa ra có còn hữu ích cho những ai đang quan tâm đến các câu hỏi đương đại như: Chính quyền Việt Nam hiện đang – hoặc nên – dựa trên cơ sở tư tưởng nào để xây dựng tính chính danh? Những tư tưởng nào định hướng (hoặc nên định hướng) cho những hoạt động của thanh niên? Về kiểm duyệt và giới hạn của tự do ngôn luận về chính trị? Và về bản sắc của cộng đồng người Việt hải ngoại (nơi rất nhiều người Việt như tôi lớn lên với cả tư tưởng “tự do” và đạo lý Nho giáo truyền thống)?

Hay, phải chăng, ngày nay, Việt Nam cần một hệ tư tưởng hoàn toàn khác? Những câu hỏi như vậy vẫn còn để ngỏ.

Tác giả Kevin D. Phạm là phó giáo sư/tiến sĩ về lý thuyết chính trị tại Đại học Amsterdam, chuyên về tư tưởng chính trị thế kỷ XIX và XX, với chú trọng vào dân chủ, tự do và cách mạng qua các nền văn hóa. Tác phẩm của ông, The Architects of Dignity: Vietnamese Visions of Decolonization – Những kiến trúc sư của phẩm giá: Những viễn kiến của người Việt về giải thoát khỏi ách thực dân (Nhà xuất bản Đại học Oxford, 2024), giới thiệu các nhà tư tưởng chính trị Việt, tiếp cận với những tranh luận về lý thuyết chính trị, chú trọng đến cách họ thách thức các quan niệm của phương Tây về phi thực dân hóa và phẩm giá. Nghiên cứu của ông được phổ biến trên các tạp chí như Philosophy and Global Affairs, The Review of PoliticsEuropean Journal of Political Theory.


 

HỒNG ÂN THÁNH THỂ – Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

LỄ MÌNH MÁU CHÚA GIÊ-SU

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

  (Suy niệm Lễ Mình Máu thánh Chúa)

Sứ điệp: Kết hợp nên một với Chúa Giê-su để được sống đời đời.

***

Sự sống quý hơn mọi báu vật trên đời

Trên cõi đời nầy, không gì quý bằng sự sống. Được sống vui, sống khỏe là mơ ước, là khát vọng mãnh liệt và thâm sâu nhất của con người. Vì thế, khi mắc những chứng bệnh nguy hiểm đe dọa mạng sống, người ta tìm cách chạy chữa với bất cứ giá nào, miễn là được khỏi bệnh và được sống.

Tuy nhiên, cuộc sống con người trên dương gian chỉ như bông hoa sớm nở tối tàn, có thể tan biến bất cứ lúc nào như sương, như khói…

Vì thế, ai cũng muốn sống lâu và tìm cách kéo dài tuổi thọ. Tuy vậy, con người không thể thắng được sự chết và sớm muộn gì cái chết cũng đến cướp đi sự sống của từng người trên dương gian.

Thiên Chúa thông ban sự sống đời đời   

Thiên Chúa là Cha của mọi người và Ngài hết lòng yêu thương họ. Ngài cũng là chủ của sự sống, là cội nguồn thông ban sự sống cho muôn vật, muôn loài.

Ngoài việc thông ban cho loài người sự sống đời nầy, Thiên Chúa còn muốn ban sự sống vĩnh cửu của chính Ngài cho con người, để họ được sống đời đời với Ngài, để họ được hạnh phúc vĩnh cửu như Ngài

Nhưng làm sao thực hiện được điều tuyệt vời nầy?

Muốn cho cành nho tiếp nhận được sự sống của thân nho, thì nó phải được tháp nối nên một với thân nho.

Muốn cho một bàn tay bị cắt lìa thân được tiếp nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào thân thể, trở nên một với thân thể.

Vậy muốn cho loài người tiếp nhận được Sự Sống của Chúa Giê-su thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giê-su.

Để thực hiện điều nầy, Chúa Giê-su lập nên bí tích Thánh thể, hiến ban Thịt và Máu Ngài, dưới hình bánh rượu, làm của ăn cho nhân loại, để những ai lãnh nhận Mình Máu thánh Ngài cách xứng đáng, thì được hòa nhập nên một với Ngài như giọt nước hòa trong chén rượu, được ở lại trong Ngài như lời Ngài phán:“Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy”(Ga 6,56).

Và những ai “ở lại trong Chúa Giê-su và có Chúa Giê-su ở lại với mình”, thì người đó là một với Chúa Giê-su và tất nhiên Sự Sống của Chúa Giê-su sẽ được thông ban cho người ấy.

Điều tuyệt vời là Sự Sống mà Chúa Giê-su thông ban cho những ai tiếp nhận Mình Máu Ngài không phải là sự sống sinh vật có thể bị lụi tàn theo năm tháng mà là Sự Sống vĩnh cửu không bao giờ tàn phai.

Đức Giê-su khẳng định điều nầy khi nói rằng: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh nầy, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6, 51).

“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời…” (Ga 6, 54).

Thế là thông qua việc tiếp nhận Mình và Máu Chúa Giê-su khi rước lễ, con người được nên “cùng một thân mình, cùng một dòng máu”[1] với Chúa Giê-su và do đó, Sự Sống thần linh của Chúa Giê-su sẽ được thông ban cho họ. Họ sẽ được sống đời đời với Chúa! Hạnh phúc biết bao!

Lạy Chúa Giê-su,

Chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con cơ hội để hiệp thông nên một với Chúa, hòa tan trong Chúa như giọt nước hòa trong chén rượu và nhờ đó Sự Sống đời đời của Chúa được thông truyền cho chúng con.

Xin cho chúng con sốt sắng tham dự Thánh lễ hằng ngày để đón nhận hồng phúc vô cùng cao quý nầy. 

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

PHÚC ÂM: Lc 9, 11b-17 năm C

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân chúng về nước Thiên Chúa và chữa lành những kẻ cần được cứu chữa. Vậy khi đã xế chiều, nhóm mười hai đến thưa Người rằng: “Xin Thầy giải tán dân chúng, để họ đi vào trong các làng mạc và trại quanh đây mà trú ngụ và kiếm thức ăn, vì chúng ta đang ở nơi hoang địa”. Nhưng Người nói với các ông: “Các con hãy cho họ ăn đi”. Các ông trả lời: “Chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, trừ phi chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám đông này”. Số đàn ông độ năm ngàn. Người nói với các môn đệ rằng: “Hãy cho họ ngồi xuống từng nhóm độ năm mươi người”. Các ông đã làm như thế, và bảo tất cả ngồi xuống. Chúa Giêsu cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, nhìn lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và phân phát cho các môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Tất cả đều ăn no nê, và người ta thu lượm được mười hai thúng miếng vụn còn dư lại.  

[1] Trích từ bài giảng của thánh Lê-ô cả Giáo hoang

From: ngocnga_12 &  NguyenNThu


 

THẦN LƯƠNG – Lm. Giuse Trần Việt Hùng  

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

 Vào năm 1263, tại nhà thờ thánh Catherine, thành Bolsène nước Ý, có một linh mục trong khi dâng lễ, sau khi đọc lời truyền phép đã nghi ngờ về bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa.  Xảy ra là Máu Thánh chảy ướt khăn thánh và khăn bàn thờ.  Đức Giáo Hoàng nghe tin và đã rước khăn thánh về để tạm tại nhà thờ Orviette.  Sau đó, xây nhà thờ để thờ kính Máu Chúa nơi Khăn Thánh này.  Ngày 8 tháng 9, 1264, Đức Giáo Hoàng Urbanô IV (1262-1268) đã ban hành tự sắc Transiturus, lập lễ kính Mình Máu Thánh Chúa Kitô và cử hành sau tuần 8 ngày của lễ Chúa Thánh Thần.  Thánh Tôma Aquinô đã sáng tác bài Pange Lingua và Adoro Te để tôn kính Mình Máu Thánh Chúa.

 Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ muôn loài và quan phòng mọi sự một cách lạ lùng.  Mọi thụ tạo trong hoàn vũ đều thay đổi mỗi giây phút.  Các loài có sự sống từ thực vật, động vật đến sinh vật đều theo một tiến trình phát triển, có sinh và có tử.  Trong mọi loài Chúa đã dựng nên, được phát triển và nẩy nở theo thời gian năm tháng tùy theo mỗi loại.  Nơi mọi loài có sự sống, đều phải hấp thụ dưỡng chất qua môi trường chung quanh để sinh tồn.  Có nghĩa mọi loài hiện hữu cần có ăn uống, hấp thụ, tiêu hóa, đào thải, phát triển, già nua và tiêu diệt.  Ăn uống là nhu cầu cần thiết để sống và sinh tồn.  Ngày xưa dân Do-thái lữ hành trong sa mạc trên đường về miền Đất Hứa, Thiên Chúa đã nuôi dân bằng Manna, thịt chim cút và nước nguồn.  Chúa đã nuôi dân suốt thời gian: Trong hoang địa, Người đã nuôi các ngươi bằng Manna mà cha ông các ngươi chưa từng biết tới (Đnl 8, 16a).  Manna lương thực nuôi dưỡng hằng ngày là hình ảnh của bánh trường sinh.

 Khi ra rao giảng tin mừng, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân.  Cả bốn phúc âm đều kể lại sự kiện biến hóa năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ.  Chúa Giêsu đã cầm bánh và cá, ngước mắt lên trời, tạ ơn và bẻ ra trao cho các tông đồ và các tông đồ trao cho hơn năm ngàn người ăn no nê và còn dư thừa.  Chúa rộng ban một cách dồi dào dư giả.  Chúa Giêsu nhận biết các nhu cầu cả tâm linh lẫn thể xác của những người đang đi theo Chúa.  Chúa Giêsu đã dậy dỗ họ và đã nuôi dưỡng họ.  Nhưng chúng ta biết Chúa đến trần gian không nhằm đáp ứng mọi nhu cầu đòi hỏi về thân xác của con người.  Chúa làm phép lạ để minh chứng về sứ mệnh cứu độ của Chúa và để chuẩn bị tinh thần họ đón nhận của ăn cao quí hơn.  Đó chính là của ăn nuôi hồn và là thần lương tinh tuyền.  Chúa muốn dùng chính thân mình Ngài làm của ăn ban sự sống đời đời.

 Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể trong bữa tiệc ly, trước khi Ngài chịu chết.  Như đã hứa, Chúa Giêsu đã chọn bánh miến và rượu nho làm của ăn nuôi hồn.  Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể: Ngài cầm lấy bánh, tạ ơn, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ và nói: Tất cả các con hãy nhận lấy mà ăn vì này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con.  Rồi Ngài cầm lấy chén rượu, tạ ơn, dâng lời chúc tụng, trao cho các môn đệ và nói: Tất cả các con hãy nhận lấy mà uống, vì này là chén máu Thầy, máu giao ước mới và vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được ơn tha tội.  Và truyền: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.  Khi Chúa nói: Đây là Mình Thầy và đây là Máu Thầy, thì bản thể của bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa.  Chúng ta hiểu Chúa Giêsu nói: Đây là Mình Thầy, chứ không phải là dấu chỉ của Mình Thầy.

 Chúng ta có thể nhận biết hình dáng bên ngoài của bánh và rượu như mầu sắc, mùi vị, hình thù và kích cỡ.  Trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta không thể nhìn thấy Chúa Kitô với con mắt trần.  Chúng ta chỉ có thể nhìn với con mắt đức tin.  Chúng ta tin rằng Chúa Kitô hiện diện trọn vẹn trong hình bánh rượu, bởi vì Chúa đã sống lại và không còn chết nữa (Rm 6, 9).  Với quyền năng vô biên, Chúa đã biến đổi bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa.  Chúng ta học biết chính Chúa đã tạo dựng vũ trụ muôn loài từ hư vô.  Chúa hóa bánh nuôi năm ngàn người.  Chúa biến nước thành rượu tại tiệc cưới Cana.  Chúa cho kẻ chết sống lại.  Chúa đã làm rất nhiều phép lạ để chứng minh quyền năng vô biên.  Bí tích Thánh Thể là sự lạ vượt trên tầm trí hiểu của con người.  Đây là mầu nhiệm của đức tin. 

Chúng ta có thực sự tin Chúa Giêsu ngự thật trong Bí tích Thánh Thể không?  Chúng ta có tin bánh và rượu thực sự trở nên Mình và Máu Thánh Chúa Kitô sau khi linh mục đọc công thức truyền phép trong thánh lễ không?  Trong cuộc thăm dò ý kiến (Gallup poll) mới đây về thái độ của một số người Công giáo về Bí tích Thánh Thể.  Kết qủa làm cho nhiều người Công giáo bị lo lắng xôn sao về một trong những niềm tin căn bản nhất của Giáo Hội.  Nói rằng chỉ có 30 phần trăm những người được hỏi ý kiến, tin là họ đã lãnh nhận Mình và Máu Thánh, linh hồn và thần tính của Chúa Giêsu Kitô dưới hình bánh và rượu trong khi rước lễ.

 Trải qua truyền thống của hai ngàn năm, lời Kinh Thánh và giáo huấn của Giáo Hội luôn dậy rằng Bí tích Thánh Thể chính là Mình và Máu của Giêsu Kitô, không còn là bánh và rượu bình thường.  Phúc âm thánh Gioan chương 6 đã nêu rõ: Bấy giờ, Chúa Giêsu nói với họ: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Người, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi (Ga 6, 53).  Chúa Giêsu nhấn mạnh về Thịt và Máu, chứ không phải chỉ là biểu tượng.  Vì có một số môn đệ nghe lời Chúa nói về ăn thịt và uống máu Ngài, họ đã không thể chấp nhận và đã bỏ đi.  Chúa Giêsu không kêu gọi các ông trở lại để giải thích rằng Ngài chỉ có ý nói một cách biểu trưng.  Chúa Giêsu xác tín lời thật: Ai ăn thịt và uống Máu Ta, thì có sự sống đời đời và Ta, ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết (Ga 6, 54).

 Thời kỳ Giáo Hội sơ khai đã khắc cốt ghi tâm những lời truyền này một cách rất cẩn thận.  Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu thành Corintô đã làm rất sáng tỏ: Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa (1Cor 11, 27).  Phaolô đã tin nhận bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô thực sự.  Giáo Hội luôn luôn dạy rằng qua lời truyền phép của linh mục trong Kinh Nguyện Thánh Thể, bánh và rượu đã được biến đổi bản thể.  Mặc dầu hình dạng bề ngoài vẫn là bánh và rượu, nhưng bởi quyền năng của Chúa, bánh rượu đã trở nên Mình và Máu Thánh Chúa.  Làm sao chúng ta có thể hiểu biết điều này?  Đòi hỏi niềm tin.  Sau khi truyền phép, linh mục nâng Mình Máu Chúa và tuyên xưng: Đây là mầu nhiệm đức tin.  Là mầu nhiệm, giống như tình yêu, chúng ta không bao giờ hiểu thấu hoàn toàn.  Tất cả mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, thần tính của Chúa Giêsu, sự Chết và Sống lại của Chúa Kitô đều là những mầu nhiệm.

 Nhận lãnh Bí tích Thánh Thể, chúng được thông hiệp với Chúa và với nhau: Tấm bánh mà chúng ta bẻ ra chẳng phải là thông hiệp vào Mình Chúa đó sao? (1Cor 10, 16b).  Thánh Thể liên kết chúng ta nên một.  Thánh Phaolô diễn tả rất rõ: Vì có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần cùng một tấm bánh (1Cor 10, 17).  Chúa Giêsu đã dùng của ăn cụ thể nuôi thân xác để biến đổi trở thành của ăn nuôi hồn.  Chúa hiện diện với đoàn con cái mọi nơi và mọi lúc qua Bí tích Thánh Thể trong Nhà Tạm.

 Lạy Chúa, với quyền năng vô biên, Chúa đã nuôi dưỡng chúng con bằng bánh hằng sống.  Xin cho chúng con biết chuẩn bị tâm hồn xứng đáng để lãnh nhận của ăn thiêng liêng và hồng phúc này.  Xin cho chúng con đáng hưởng phần gia nghiệp Chúa hứa ban: Ai ăn thịt và uống Máu Ta, thì có sự sống đời đời.

 Lm. Giuse Trần Việt Hùng

From:Langthangchieutim