VÌ SAO CẦN BẦU CỬ CHÍNH TRỊ TỰ DO?

From facebook: Lê Việt Kỳ Nhi shared Thức Followers‘s photo.
Năm ấy, 2009 – mưa lất phất một ngày đầu xuân tôi được biết về người luật sư tên Lê Công Định qua lời giới thiệu của anh Trần Huỳnh Duy Thức: “nhi search ls Lê Công Định và cho nhận xét về người này giúp anh”. Từ đó tôi biết thêm, có một trí thức yêu nước.

Và với tôi …anh ứng với một câu Sấm liên quan với việc xem anh Thức là thủ lĩnh và rất làm nên việc.

Không phải ai cũng nhận ra tử huyệt của thể chế hiện tại của Việt Nam. Hay bất cứ thể chế độc tài nào và bất kể nơi đâu. Những chính trị gia thực sự nhìn ra cách tranh đấu trực diện, hiệu quả, không đi đường vòng. Họ theo quy tắc căn bản của dân chủ là quyền công dân. Martin Luther King hay Nelson Mandela, Aung San Suu Kyi v.v… bất cứ nhà hoạt động dân chủ nào đã thành công cũng tranh đấu dân chủ qua sự quyết liệt đòi quyền công dân. Vì đó là chính nghĩa duy nhất tạo sức mạnh.

Ngoài anh Thức, tôi thấy ở anh Định cũng là một chính trị gia thực sự nhưng vì sự kiềm tỏa đã vùi dập tài năng. Tôi không nằm trong sự kiềm tỏa đó, và đang nhận trách nhiệm thay anh Thức thực hiện ý muốn yêu cầu trưng cầu dân ý cùng với nhóm Thức followers.

Xin giới thiệu bài viết của ls Lê Công Định, cùng với trang www.civilrightvn.org, nơi bạn có thể ký tên đòi trưng cầu dân ý về quyền tự quyết, tạo cơ sở pháp lý thay đổi thể chế.

Không những tôi tiếp tục tranh đấu cho nền dân chủ Việt Nam mà hậu độc tài tôi còn muốn góp phần xây dựng lại đất nước theo như đã từng chia sẻ với anh Trần Huỳnh Duy Thức cũng như trong “ước mơ của Thủy”.

 
Image may contain: 1 person, indoor
Thức Followers is with Hoa Kim Ngo and 13 others.

 

VÌ SAO CẦN BẦU CỬ CHÍNH TRỊ TỰ DO?
(Ls. Lê Công Định)

Sơ lược về bầu cử

Bầu cử chính trị là một thể thức dân chủ giúp người dân quyết định chọn người nắm giữ các chức vụ chính quyền trong bộ máy lập pháp, hành pháp và tư pháp. Bầu cử cũng là một đối tượng nghiên cứu của ngành Luật Hiến pháp.

Bầu cử chính là nền tảng pháp lý thể hiện ý dân trong việc trao quyền lực nhà nước cho các cơ quan công quyền, bởi lẽ đối với một nền dân chủ, quyền lực của nhà nước chỉ hình thành từ ý nguyện của nhân dân, do đó phải được tổ chức một cách công bằng và tự do.

Ở các quốc gia dân chủ, bầu cử quốc hội và bầu cử tổng thống là hai sinh hoạt chính trị quan trọng bậc nhất. Tuy nhiên, ngoài những cuộc bầu cử mang tính chất chính trị, bầu cử còn được tổ chức trong phạm vi một số tổ chức xã hội, như nghiệp đoàn và các đoàn thể nghề nghiệp, để chọn ra những người đứng đầu tổ chức một cách minh bạch.

Bầu cử chính trị luôn là hoạt động chính trị-xã hội quan trọng của toàn dân bởi sự tham gia đông đảo của cử tri đại diện cho các giai tầng xã hội, tôn giáo, đảng phái, tổ chức xã hội, v.v…. Vì vậy mọi cuộc bầu cử đều diễn ra theo trình tự và thủ tục luật định chặt chẽ.

Thực trạng Việt Nam

Trên toàn cõi Việt Nam từ năm 1975 đến nay, dưới sự cai trị độc đoán và bất tài của những người cộng sản, nền kinh tế đất nước không ngừng tụt hậu, các nhóm lợi ích lũng đoạn cả về kinh tế lẫn chính trị, tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, môi trường bị hủy hoại, đời sống người dân ngày càng khó khăn. Thiểu số đảng viên cộng sản nắm quyền thống trị hà khắc trên đại đa số dân chúng và cả phần đông những người cộng sản kém thế.

Từ lâu, quyền tự quyết lựa chọn thể chế chính trị của người dân Việt Nam đã được bảo hộ bởi các hiệp định quốc tế về nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, bao gồm Hiệp định Geneva năm 1954 và Hiệp định Paris năm 1973. Tuy nhiên, sau khi giành được chính quyền bằng xương máu của nhân dân, giới lãnh đạo cộng sản đã hoàn toàn phớt lờ ý nguyện chính đáng của toàn dân.

Suốt hơn 40 năm qua, nhiều thế hệ người Việt, bao gồm các nhân sĩ trí thức, tổ chức tôn giáo, đảng phái chính trị và tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam, đã tranh đấu không mệt mỏi vì công bằng và thịnh vượng, kêu gọi hòa hợp hòa giải dân tộc và thực hiện trưng cầu dân ý để cùng nhau chọn lựa một hướng đi tốt đẹp chung cho cả dân tộc. Tuy nhiên, trong môi trường xã hội mà thành phần phi cộng sản bị kỳ thị và quyền công dân không được bảo vệ đầy đủ, hàng triệu người Việt đã bỏ nước ra đi kể từ năm 1975 nhằm mưu tìm một thể chế chính trị đối xử bình đẳng và bảo vệ nhân phẩm của mình.

Điều đáng tiếc là, trong hơn 40 năm toàn trị trên toàn lãnh thổ quốc gia, về đối ngoại, nhà cầm quyền ngày càng tỏ ra ươn hèn trước sự xâm lấn biển đảo và lãnh thổ của tập đoàn bành trướng Bắc Kinh, bỏ mặt ngư dân bị tàu Trung Quốc đánh đập, cướp phá, bắn giết và đâm chìm ngoài khơi Biển Đông; về đối nội, quyền chính trị của công dân trong việc tham gia bình đẳng vào công cuộc xây dựng đất nước đã bị hệ thống độc đảng mặc nhiên loại bỏ, trong khi nhân dân vẫn nai lưng đóng thuế nuôi bộ máy cai trị chính mình.

Thủ tục bầu cử tuy cũng được luật hóa với hàng loạt bản văn pháp lý, bao gồm Hiến pháp, Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân và các bản văn pháp lý dưới luật như Nghị định của Chính phủ hướng dẫn chi tiết các văn bản nêu trên, nhưng bầu cử vẫn mãi là cuộc chơi riêng do đảng cộng sản cầm quyền thao túng. Luật bầu cử chỉ hiện hữu trên danh nghĩa, còn diễn biến của cái gọi là “bầu cử” mới là thực tế mà ai cũng nhìn rõ thực chất của nó; đó là hai điều hoàn toàn tách biệt và khác xa nhau.

Dù các cuộc bầu cử tốn kém vẫn luôn diễn ra theo định kỳ, nhưng vì đảng cầm quyền thao túng mọi thủ tục và tiến trình thực hiện, nên bộ máy nhà nước chỉ dung nạp và dung dưỡng những kẻ bất tài, vô liêm sỉ, tham nhũng, tham quyền cố vị, thậm chí được Bắc Kinh cài vào hoặc ủng hộ để duy trì sự lệ thuộc toàn diện của Việt Nam vào Trung Quốc.

Đáng buồn thay, khi lương tâm và lương tri của nhân dân thức tỉnh trước thực trạng ngày càng tệ hại của đất nước, thì thay vì bảo vệ luật pháp, bảo hộ quyền công dân và lắng nghe nguyện vọng của nhân dân, nhà cầm quyền lại công khai tấn công và dập tắt tiếng nói đối lập từ những người hoạt động xã hội dân sự và các nhà tranh đấu vì quyền con người, đồng thời giam cầm hàng trăm tù nhân chính trị và tôn giáo. Công an và quân đội hợp tác với bọn côn đồ lại trở thành đội quân vũ trang hung hãn nhất tấn công bất cứ ai cất tiếng phản kháng nạn toàn trị cộng sản.

Bầu cử tự do: giải pháp duy nhất

Sự bất lực và thất bại của đảng cộng sản cầm quyền trong công việc quản lý và điều hành quốc gia từ lâu có nguyên nhân từ hệ thống chính trị độc đảng, nhưng được ngụy trang dưới chiếc áo dân chủ bằng các cuộc bầu cử chính trị giả hiệu.

Do vậy, thực trạng nêu trên chỉ có thể được giải quyết và thay đổi bằng bầu cử tự do để lựa chọn nhân tài cho bộ máy công quyền của quốc gia. Đó chính là quyền tự quyết của công dân trong việc lựa chọn thể chế chính trị cai quản đất nước của chính mình.

Những ai tin tưởng vào sức mạnh dân tộc trong công cuộc phục hưng nước nhà, mong muốn đất nước hòa nhập vào thế giới văn minh trên cơ sở tôn trọng đầy đủ quyền con người và quyền công dân, cần sớm ủng hộ bầu cử tự do, bởi đó là giải pháp duy nhất vào lúc này. Tương lai dân tộc tùy thuộc vào thái độ và quyết định của chúng ta ngày hôm nay.

 
 

Những đức tính khiêm nhường của Mẹ Têrêxa.

From facebook: Bang Uong shared Diep Nguyen Quang‘s post.
 
 
Image may contain: one or more people, shoes and outdoor

Diep Nguyen Quang

 

Những đức tính khiêm nhường của Mẹ Têrêxa.

“Khiêm nhường là mẹ của tất cả mọi đức hạnh; tinh tuyền, bác ái và vâng lời. Chỉ khi chúng ta có đức tính khiêm nhường thì tình yêu của chúng ta mới chân thật, mới tận tâm và nồng nhiệt. Nếu chúng ta khiêm tốn thì không có gì làm xao động chúng ta, kể cả được khen cũng như bị vô ơn, vì chúng ta biết mình là ai. Nếu chúng ta bị lên án, chúng ta cũng không nản chí. Nếu người ta cho mình là thánh, mình cũng không ở trên bệ thờ”. Mẹ Têrêxa Calcutta

Những đức tính khiêm nhường của Mẹ Têrêxa

1. Nói về mình ít nhất có thể.
2. Lo việc mình chứ không lo việc người khác.
3. Tránh tò mò.
4. Không can thiệp vào việc của người khác.
5. Vui vẻ chấp nhận các bực mình nhỏ.
6. Đừng chăm chú vào lỗi của người khác.
7. Chấp nhận phê bình dù mình không đáng bị.
8. Theo ý người khác.
9. Chấp nhận những lời xúc phạm và tổn thương.
10. Chấp nhận bị khinh thường, bị lãng quên, bị không biết tới.
11. Lịch sự và tế nhị dù bị khiêu khích.
12. Đừng tìm cách để được ngưỡng mộ, được thương.
13. Đừng tự bảo vệ mình với chính phẩm cách của mình.
14. Trong các cuộc thảo luận, nhịn, dù mình có lý.
15. Luôn chọn công việc khó nhất.

Theo: catholiccompany.com, Gretchen Filz, 2016-09-03; phanxico.vn

 

Hiện tại gia đình em NMTT không còn nhà, không còn đất, họ phải đi ở nhờ.

 
 
From facebook: Trần Bang added 7 new photos — with Nghe Bui and 6 others
 

Hôm nay em Nguyễn Mai Trung Tuấn ( SN 2000) cùng bố mẹ (ông Nguyễn Trung Cang, bà Mai Thị Kim Hương), bác em Tuấn là ông Nguyễn Trung Tài và bà Phùng Thị Ly, họ là 5 người trong số 14 Dân oan Thạnh Hoá, Long An sau khi ra tù lên SG khám bệnh.

Dân oan Thạnh Hoá, Long An là những người dân oan kiên quyết giữ nhà đất của mình, không chấp nhận đền bù rẻ mạt ( 300.000 đ/m2) của địa phương, trong khi đất đối diện giá bán 20.000.000 đ/m2 thuộc trung tâm thương mại Thạnh Hoá …. Họ đã chống lại đoàn mấy trăm người (đủ binh chủng, với đầy đủ trang bị ) đến cưỡng chế nhà đất của họ vào giữa năm 2015. Kết quả 14 người bị bắt, bị tù vì ” tội chống người thi hành công vụ”.

Hiện nay 13 người trong 14 người trong vụ Dân Oan Thạnh Hoá đã tự do, còn Nguyễn Trung Linh ( con ông Nguyễn Trung Tài ) vẫn đang thụ án ở Bến Tre.

Bà Phùng Thị Ly cho biết: ” gia đình bà có ba người bị tù, người nhẹ nhất là 3 tháng”
Gia đình em Nguyễn Mai Trung Tuấn bị bắt tù tất cả bố mẹ, nội ngoại, cậu, ông, bà, bác, anh em họ là 11 người.

Khi bị bắt em Tuấn bị đánh chảy máu tai, trong khi bị giam thì bị chích điện, bị đánh…

Dù thầy cô giáo, bạn bè em NMTT ở Trường THCS Thạnh Hoá nơi em học đều khen em là thiếu niên ngoan, hiền, học khá; NMTT đối xử tốt với bạn bè và thầy cô, được thầy và bạn quý mến; em có sức khỏe không tốt, hay bị bệnh…. Cháu NMTT cũng cho biết, sau khi ra tù cháu đã tiếp tục đi học lại tại trường cũ.

Sau khi Toà xử, họ giam mỗi người một nơi cách nhau mấy trăm km, mẹ em Tuấn bị giam ở An Giang, bố em Tuấn bị giam ở Hàm Tân ( Bình Thuận), em Tuấn bị giam một tỉnh khác, bác em là Nguyễn Trung Tài bị giam ở Bến Tre, bà Phùng Thị Ly bị tù ở Hớn Quản, Bình Phước…

Hiện tại gia đình em NMTT không còn nhà, không còn đất, họ phải đi ở nhờ.

Dù bị tù vì bảo vệ căn nhà và mảnh đất ( mấy trăm mét vuông) ông cha để lại từ trước 30-4- 1975, họ đều cho biết sẽ tiếp tục đấu tranh đòi lại công bằng cho bản thân, gia đình, những người dân VN bị cướp đoạt quyền tư hữu đất đai bất công, và giành tự do nhân quyền cho người VN.

P/s TB thay mặt Nhóm Vì Môi Trường trao quà cho em NMTT 4,5tr (gồm: quỹ nhóm 2tr, người hảo tâm ở Mỹ gửi qua Bích Ngà 100usd ( đổi ra và Ngà bù thêm được 2.500.000₫ ); bà Phùng Thị Ly 1tr ( quỹ nhóm ).

Image may contain: 10 people, people smiling, people standing
Image may contain: 13 people, people smiling, indoor
Image may contain: 2 people, people standing
Image may contain: 2 people, people smiling, people standing
Image may contain: 7 people, people standing
+3
 
 

Vì sao người Việt kém yêu nước?

 Vì sao người Việt kém yêu nước?

Viết từ Sài Gòn
Hình chụp một quán bia hơi ở Hà Nội hôm 17/9/2016

Hình chụp một quán bia hơi ở Hà Nội hôm 17/9/2016

 AFP

Người Việt mê nhậu, người Việt ham bóng đá, người Việt thừa thời gian để ngồi quán cà phê từ sáng tới chiều, người Việt thích tiểu tiện ngoài đường, người Việt thích trộm cắp ở siêu thị nước ngoài, người Việt không yêu nước… bla, bla… Tất cả những nhận xét trên đây về người Việt, có vẻ như không sai! Vì sao? Và tại sao một đất nước tự xem mình có đến bốn ngàn năm văn hiến lại ra nông nỗi như vậy?

Ở câu hỏi thứ nhất, vì sao người Việt lại trở nên xấu xí trong con mắt người nước ngoài và người Việt bỗng dưng không yêu nước? Để trả lời câu hỏi này, thử xem lại người Việt trước đây chừng 150 năm trở lại có những tính xấu xí này không?

Và câu trả lời là từ 150 trở lại thời Việt nam Cộng Hòa, đã có rất nhiều người Việt đi ra nước ngoài để làm ăn, học hành, họ chỉ để lại những hình ảnh đẹp và chí ít cũng học được một món nào đó của thế giới tiến bộ để mang về Việt Nam. Cụ Phạm Phú Thứ không học được kĩ thuật làm xe đạp nước là gì? Cụ Phan Châu Trinh không học được tư tưởng canh tân để tổng hợp thành hệ thống tư tưởng cho Việt Nam là gì? Và còn rất nhiều thanh niên, trí thức Việt Nam sang nước ngoài để học, làm việc hay buôn bán, làm ăn, lại những dấu ấn đẹp trên xứ người. Câu chuyện ăn cắp ở xứ người chỉ mới xuất hiện trong thời đại Cộng sản xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là thời gian gần đây.

Câu chuyện trộm cắp này xảy ra song hành với tính khí thay đổi một cách dị hợm của số đông người Việt như hôi của người bị nạn, mê nhậu, ham mê bóng đá, thừa thời gian để ngồi quán cà phê từ sáng tới chiều, thích tiểu tiện ngoài đường, không yêu nước… Sở dĩ có mối tương trùng kỳ quái như vậy là vì các lý do: Người Việt đã sống quá lâu trong khuôn khổ độc tài, toàn trị; Người Việt đã bị giam hãm trong một bầu khí quyển sắt máu và tàn bạo; Người Việt đã bị tịch thu mọi thứ quyền và; Quyền lợi luôn đi đôi với trách nhiệm, lương tri, nếu bị tước đoạt quyền lợi, sau đó tước đoạt cả trách nhiệm thì lương tri sẽ bị méo mó.

Và vấn để đáng bàn ở đây lại nằm ở chỗ tại sao người Việt trở nên dửng dưng với hiện tình đất nước? Giữa những đổ đốn và thói dửng dưng, không yêu nước có quan hệ gì với nhau?

Thực ra, người Việt vẫn chưa bao giờ xấu xa như người ta nhìn thấy hiện nay, và người Việt cũng không dửng dưng với chính sự với mức như đang thấy. Vấn đề nằm ở chỗ người Việt đã phải đấu tranh sinh tồn ngay trong gia đình với những chiêu trò đấu tố của đảng cầm quyền, để rồi tiếp theo đó là sống dấm dúi, giấu cái ăn, giấu cái mặc và giấu mọi thứ có được do mồ hôi, nước mắt làm ra để phòng tránh bị đảng Cộng sản cướp trắng bằng chiêu bài trưng thu, sáp nhập tập thể. Và thói quen dấm dúi, cạnh khóe, đội trên đạp dưới không phải là bản chất nhưng theo thời gian mà hình thành để thích nghi, tồn tại.

Bên cạnh đó, một hệ thống giáo dục tồi với hàng trăm vấn đề cặn bã, dốt nát ẩn náu bên trong cũng như quan niệm giáo dục cũ kĩ, thiếu triết lý giáo dục dẫn đến thiếu tri chất giáo dục và kéo theo hệ quả hàng nhiều thế hệ phải mắc kẹt trong sự tụt hậu của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, hiếm có người may mắn thoát ra khỏi tình trạng này. Và những gì nó để lại, chúng ta đang nhìn thấy.

Thử nghĩ bạn đang sống trong một đất nước mà mở miệng nói cũng có thể bị vạ, tài sản làm từ mồ hôi, nước mắt của bản thân và của cả gia tộc cũng có thể bị nhà cầm quyền tìm cách này hay cớ khác mà trưng thu, nhũng nhiễu, khi thấy đất nước lâm nguy, bày tỏ thái độ chống ngoại xâm bằng biểu tình thì bị đánh đập, bị nhốt tù… Mọi quyền được ăn được nói được gói được mở bị giới hạn đến mức tối thiểu. Mọi quyền lợi và trách nhiệm cũng bị lấy mất vì đất nước không có dân chủ, thì bạn sẽ làm được gì?

000_Hkg10236271.jpg

Một quán cafe nhỏ ở khu phố cổ Hà Nội hôm 8/12/2015 AFP

Câu hỏi của người trẻ đưa ra, người già đặt lại đều rơi vào bế tắc. Bởi một khi mọi quyền lợi, trách nhiệm công dân đều bị thâu tóm bởi một nhóm cầm quyền, người dân không được tham dự, tham gia bất kì hoạt động chính trị nào nếu chưa có định hướng của đảng cầm quyền, thì liệu người ta có còn giữ được lương tri, phẩm chất yêu nước của mình?

Điều này hoàn toàn khó và sẽ không thể xảy ra. Bởi người ta đã bị cắt mất quyền yêu nước, thậm chí quyền yêu thương cũng bị giới hạn tối đa do yếu tố lý lịch, xét gốc. Cũng đã từng có nhiều nhóm trí thức, văn nghệ sĩ và thanh niên quyết vượt qua mọi rào cản để đấu tranh, để biểu tình, phát động kêu gọi lòng yêu nước. Nhưng tiếng nói của họ rơi vào thinh lặng và họ bị cô lập.

Trong tình hình hiện nay, rất có thể xảy ra tình trạng Trung Cộng tấn công Việt Nam và sẽ không có người yêu nước nào cất lên tiếng nói của mình nữa. Họ không nói bởi vì họ hết yêu nước mà vì họ hết tin vào chế độ Cộng sản. Bởi dù sao, danh nghĩa quốc gia cũng được nhìn nhận bằng hệ thống nhà nước trên phương diện quốc tế. Người ta liên lạc với quốc gia nào đó thông qua hệ thống nhà nước của quốc gia này. Yêu nước cũng là yêu cả hệ thống nhà nước.

Với một hệ thống nhà nước độc tài, toàn trị và dối trá như đang có, Việt Nam chắc chắn sẽ không còn người yêu nước. Nhưng điều này không hẳn xấu, sự dửng dưng hiện tại manh nha và hun đúc một cuộc cách mạng trong một sớm một chiều. Người ta buộc phải thay đổi hệ thống nhà nước để phục hồi và bảo lưu tình yêu dành cho quốc gia. Bởi đây là điều cần thiết.

Bởi nhà nuốc chỉ là phần rất nhỏ, mang tính chất đại diện của một quốc gia. Tình yêu dành cho quê hương, đất nước là một đại thể. Người ta không dễ gì đánh đổi đại thể để chấp nhận một thứ tiểu thể ngược qui luật. Có lẽ cũng chính vì điều này mà đảng Cộng sản luôn cố gắng đồng nhất họ với dân tộc, quốc gia. Điều này cho thấy họ đã nhận thức được sự nguy hiểm đang rình rập họ và cũng cho thấy sự thoái trào, tan rã của họ là chuyện không thể tránh.

Hiện nay, tìm một người yêu nước sẽ rất khó, bởi họ chẳng dại gì biểu lộ điều đó. Nhưng tìm những nhân tố hình thành cách mạng thì có vẻ như không còn là chuyện bí mật, khó nói như trước đây. Bởi nhân tố cách mạng nằm ngay trong thái độ dửng dưng, không cần bày tỏ lòng yêu nước và không còn tin tưởng gì vào hệ thống cầm quyền cũng như sự phản tư đi từ trong bếp ra tới chợ, trường học, bệnh viện và (có thể) cả trong các quân nhân.

Và hơn hết, kinh nghiệm lịch sử cho thấy bất kì nhà nước phong kiến nào, dấu hiệu trước khi sụp đổ của họ là sự quay lưng của họ đối với nhân dân và sự dửng dưng của nhân dân dành cho họ. Thời nhà Nguyễn, người dân đã đứng xem lính nhà Nguyễn và quân Pháp đánh nhau như xem đá banh. Thời bây giờ cũng chẳng khác chi mấy một khi nhân dân chẳng còn tin vào nhà nước, đảng cầm quyền. Nhưng có một điểm khác biệt rất cơ bản là thời này, người ta có thể động viên, rút con em của mình ra khỏi quân ngũ nếu thấy cần thiết và thời cơ đến.

Đảng Cộng sản Việt Nam, có thể họ còn tồn tại rất lâu, bởi cho dù sau này Việt Nam có đầy đủ dân chủ đa nguyên thì cơ hội tồn tại của họ cũng còn rất mạnh. Vấn đề là họ tồn tại để làm gì trước pháp đình dân tộc? Và họ tồn tại thêm được bao lâu. Bởi họ đã làm thất lạc chút niềm tin cuối cùng mà dân tộc Việt nam dành cho họ thông qua lòng yêu nước!

Đừng tưới nước lên gốc cây rã mục (phản biện bài viết của GS Tương Lai)

Đừng tưới nước lên gốc cây rã mục (phản biện bài viết của GS Tương Lai)

 Trần Trung Đạo

clip_image001

Giáo sư Tương Lai, trong bài viết Vietnam’s Overdue Alliance With America đăng trong mục Ý Kiến của Nytimes.com và bản tiếng Việt Những Cơ Hội Bị Bỏ Lỡ cho Một Liên Minh Việt Mỹ do Liêm Nguyễn dịch đăng trên nhiều trang web tiếng Việt, đã lấy làm tiếc khi nhiều cơ hội đã bị bỏ qua cho một liên minh Việt Mỹ.

Lần đầu do cơ quan tình báo chiến lược Mỹ OSS (tiền thân của CIA) “giúp huấn luyện và thành lập đơn vị du kích Mỹ-Việt đầu tiên vào cuối năm 1944”. Và cơ hội khác khi TT Truman không phúc đáp các lá thư của Hồ Chí Minh bày tỏ lòng ngưỡng mộ của người Việt Nam” đối với “dân tộc Mỹ vì sự đấu tranh cho những lý tưởng cao đẹp của Công lý và Nhân đạo quốc tế, vì những thành tựu kỹ thuật hiện đại mà người Việt Nam cảm thấy bị lôi cuốn”.

Tôi không dám phê bình trình độ chính trị học của giáo sư Tương Lai nhưng sẽ ngạc nhiên nếu ông thật sự tin rằng nếu lúc đó TT Truman đáp ứng lời kêu gọi của Hồ Chí Minh và quân đội Mỹ, giống như OSS từng làm, yểm trợ Việt Nam để phục hồi nền độc lập, xây dựng đất nước thì Việt Nam đã là một quốc gia dân chủ, tự do chứ đâu phải bị nô lệ trong ý thức hệ cộng sản (CS) và bị Trung Cộng đè đầu cưỡi cổ như hiện nay.

Giáo sư Tương Lai bỏ qua mối quan hệ “tuy hai mà một” giữa Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Trung Quốc (CSTQ) như vô số tài liệu cho thấy và cũng không nhắc đến những khả năng gì sẽ xảy ra với liên minh Mỹ Việt sau khi CSTQ đã chiếm hết lục địa Trung Hoa năm 1949.

Quan điểm của giáo sư Tương Lai cũng có thể gây cho người đọc hiểu lầm rằng Hồ Chí Minh không hẳn là người CS và chỉ trở thành người CS khi không có chỗ dựa nào khác trong cuộc chiến chống thực dân Pháp mà quên đi sự kiện chính Hồ Chí Minh từ tháng 2 năm 1920 đã “vui mừng đến phát khóc” khi đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin.

Lý do TT Truman không đáp ứng thư của Hồ Chí Minh

Theo tài liệu lưu trữ trong văn khố Hoa Kỳ, tổng số gồm 11 lá thư Hồ Chí Minh gởi TT Truman, Ngoại trưởng James Byrnes và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Lá thư thứ nhất ký ngày 17 tháng 10 năm 1945 và lá cuối cùng vào ngày 28 tháng Hai năm 1946.

Ngày 12 tháng 9 năm 1946, George M. Abbott, lúc đó là Đệ nhất Tham Vụ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Paris, đã điện đàm với Hồ Chí Minh. Dĩ nhiên quan tâm hàng đầu của Hoa Kỳ vẫn là gốc gác của họ Hồ. Theo báo cáo của George M. Abbott cho đại sứ Hoa Kỳ tại Pháp, Hồ Chí Minh không thừa nhận ông ta là CS.

Không những thế, ông Hồ còn chỉ ra cho George M. Abbott thấy “không một người nào trong nội các của ông ta là CS”.

Trong thực tế, các chức vụ then chốt gồm Chủ tịch (Hồ Chí Minh), Bộ trưởng Quốc phòng (Võ Nguyên Giáp), Bộ trưởng Tài Chánh (Lê Văn Hiến), Bộ trưởng Tư Pháp (Vũ Đình Hòe) trong nội các liên hiệp kháng chiến đều do các đảng viên đảng CS hay đảng Dân chủ nắm giữ.

Khi George M. Abbott hỏi có hay không có một đảng CS tại Việt Nam, Hồ Chí Minh thừa nhận là trước đây có nhưng đã giải tán mấy tháng trước rồi. Dĩ nhiên, như viết trong báo cáo, George M. Abbott cũng biết những câu trả lời của Hồ Chí Minh chỉ là những câu nói dối.

Ngày 12 tháng Ba năm 1947, TT Harry Truman xin quốc hội chuẩn chi ngân sách 400 triệu Mỹ kim để viện trợ vũ khi cho chính phủ Cộng hòa Hy Lạp để đánh bại phiến loạn CS và để giúp hiện đại hóa quân đội Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ nhằm đối phó với đe dọa quân sự của Liên Xô.

Ngăn chận làn sóng CS trên phạm vi thế giới là trọng tâm của Chủ thuyết Truman (Truman Doctrine). Lẽ ra, những lá thư của Hồ Chí Minh là cơ hội hiếm hoi để Truman đóng nút sự bành trướng của chủ nghĩa CS ở Đông Nam Á qua ngả Trung Quốc. Nhưng không. TT Truman không đáp ứng vì chính phủ Mỹ biết rõ rằng Hồ Chí Minh và đảng CS Việt Nam là một bộ phận Đông Dương của đệ tam quốc tế CS chứ chẳng quốc gia dân tộc gì.

Với đảng CS, việc thay tên đổi họ, từ một người hay thậm chí cả đảng, theo nhu cầu chiến lược mỗi thời kỳ là chuyện bình thường.

Đảng CS tổ chức tinh vi và chặt chẽ đến mức dù dùng tên gì vẫn hoạt động thống nhất và tuân chỉ triệt để một cương lĩnh. Vào thời điểm 1946, trước khi CSTQ chiếm toàn lục địa Trung Hoa, nếu Mỹ viện trợ, Hồ Chí Minh sẽ nhận và nếu Mỹ lên tiếng phản đối Pháp, Hồ Chí Minh sẽ cám ơn nhưng chắc chắn không bao giờ có chuyện “giải tán đảng CS” hay thành thật từ bỏ đảng CS.

Niềm tin tuyệt đối vào chủ nghĩa CS đã đóng đinh vào nhận thức của các tầng lớp lãnh đạo CSVN. Cộng sản hóa Việt Nam là canh bạc của đời họ. Dòng lịch sử đầy tang thương của đất nước diễn ra từ đó đến nay qua các đợt khủng bố tiêu diệt các đảng phái quốc gia, Cải Cách Ruộng Đất, đày ải nhiều trăm ngàn công nhân viên chức VNCH, đưa đất nước vào ngõ tối độc tài lạc hậu đã cho thấy nhận định của chính phủ Truman về Hồ Chí Minh và đảng CSVN là đúng.

Năm 1954, vừa chiếm được nửa nước, chưa có một ngày ổn định và đời sống người dân miền Bắc còn quá sức nghèo, trung ương đảng CSVN đã nghĩ đến việc chiếm nửa nước còn lại. Có tổng tuyển cử? Tốt, đảng sẽ chiếm miền Nam mà không tốn nhiều xương máu. Không có tổng tuyển cử? Không sao, đảng vẫn chiếm miền Nam nhưng bằng súng đạn Nga, Tàu. Dù qua phương cách gian lận bầu cử, khủng bố cử tri hay phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn” mục tiêu toàn trị vẫn không thay đổi. Sinh mạng của nhiều triệu người Việt, tương lai bao nhiêu thế hệ Việt Nam, viễn ảnh một Việt Nam nghèo nàn thua sút phần lớn nhân loại không nằm trên bàn tính của Bộ Chính trị Trung ương Đảng CSVN.

Trung Cộng muốn gì?

Hôm nay, hoàn cảnh chính trị thế giới đã thay đổi. Việt Nam đang đứng trước một đế quốc thực dân mới và lần này là chủ nghĩa bành trướng Trung Cộng. Như người viết đã phân tích trong các bài trước, Trung Cộng muốn Việt Nam:

– Hoàn toàn lệ thuộc về cơ chế chính trị và tư tưởng.

– [Là] Một phần không thể tách rời trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của Trung Cộng.

– Trung Cộng độc chiếm toàn bộ các quyền lợi kinh tế vùng Biển Đông bao gồm cả các vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang tranh chấp.

Nội dung của mật ước Thành Đô không được công bố, tuy nhiên, các diễn biến kinh tế, chính trị và quốc phòng cho thấy ba điểm nêu trên là ba yêu sách chính mà Trung Cộng đã đưa ra trong các phiên họp vào hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 tại khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên.

Về mặt kinh tế chính trị: Khi thỏa hiệp bán nước Thành Đô vừa ký kết xong, ngày 25 tháng 2 năm 1992, Quốc vụ viện Trung Cộng thông qua “Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp” quy định lãnh hải rộng 12 hải lý, áp dụng cho cả bốn quần đảo ở Biển Đông trong đó có quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa). Ba tháng sau đó, Trung Cộng ký hợp đồng khai thác dầu khí với công ty năng lượng Crestone, cho phép công ty này thăm dò khai thác dầu khí trong thềm lục địa Việt Nam và hứa sẽ bảo vệ công ty Creston bằng võ lực. Ngoài ra, Trung Cộng còn ra lịnh cấm đánh cá, thành lập các đơn vị hành chánh cấp huyện tại Hoàng Sa và Trường Sa.

Về mặt quốc phòng: Việt Nam theo đuổi một chính sách quốc phòng “ba không”: (1) không tham gia các liên minh quân sự(2) không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào(3) không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kiaĐây là một chính sách quốc phòng tự sát vì chỉ có lợi cho Trung Cộng. Việt Nam là một nước nhỏ, và cũng chính vì là một nước nhỏ, những người lãnh đạo lẽ ra phải biết từng bước hội nhập vào cộng đồng nhân loại, biết nâng cao vị thế quốc gia trong bang giao quốc tế, biết linh động trong việc mở rộng các mối quan hệ song phương và đa phương, gần và xa để tạo thế đứng thuận lợi trong hòa bình và chiến lược trong chiến tranh.

Trong Thế chiến thứ Hai, trong số 20 quốc gia châu Âu tuyên bố trung lập chỉ có 6 quốc gia là không bị lôi kéo vào chiến tranh. Sáu quốc gia này may mắn không phải nhờ Hitler tôn trọng lời tuyên bố mà chỉ vì không nằm trên trục tiến quân của các sư đoàn Panzer Đức, rất tốn kém để chinh phục như trường hợp Thụy Điển, hay vì vị thế chính trị có lợi cho khối trục mà không cần đánh chiếm như trường hợp Tây Ban Nha dưới chế độ độc tài Francisco Franco.

Để làm nhẹ áp lực Trung Cộng, Việt Nam cần có liên minh. Vâng, nhưng liên minh được với Mỹ trong vị trí tương xứng với Nam Hàn, Nhật Bản chỉ là giấc mơ ngày. Mỹ có quyền lợi ở vùng Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương? Có. Mỹ có xung đột với Trung Cộng về ảnh hưởng kinh tế chính trị và cả quân sự trong vùng Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương? Có. Mỹ có phê bình, lên án chính sách bá quyền Trung Cộng đối với các nước nhỏ trong vùng Nam Thái Bình Dương? Có. Tuy nhiên, với quan hệ kinh tế tài chánh quá lớn và vô cùng phức tạp giữa hai cường quốc này như hiện nay, ngoại trừ xung đột sâu sắc, trầm trọng và trực tiếp về quyền lợi của Mỹ trong khu vực, Mỹ sẽ không can thiệp vào các tranh chấp song phương giữa Trung Cộng và Việt Nam hay Trung Cộng và một quốc gia nào đó của ASEAN. Trung Cộng hiểu được điều đó nên theo đuổi chính sách gặm nhấm từng mảnh nhỏ tài nguyên của Việt Nam, bao vây kinh tế Việt Nam, và tránh né việc quốc tế hóa các xung đột với Việt Nam và các nước trong vùng.

Nỗi sợ lớn nhất của Trung Cộng

Như người viết đã phân tích trong bài Để thắng được Trung Cộngchính sách tuyên truyền thâm độc và bưng bít thông tin tuyệt đối tại Trung Cộng cho thấy mối lo sợ lớn nhất của lãnh đạo CSTQ là ánh sáng dân chủ. Trung Cộng không ngại mấy chiếc tàu ngầm kilo mà rất lo “sân sau” CSVN trở thành một nước dân chủ. Việt Nam có dân chủ trước Trung Cộng là cách tốt nhất để vô hiệu hóa sự lệ thuộc vào Trung Cộng về mặt cơ chế chính trị và tư tưởng. Độc lập chính trị là tiền đề dẫn đến độc lập chủ quyền lãnh thổ.

Với Trung Cộng, việc giải quyết xung đột lãnh thổ gắn liền với nhu cầu ổn định nội bộ. Theo nghiên cứu của M. Taylor Fravel trong tác phẩm Strong borders, Secure Nation: Cooperation and Conflict in China‘s Territorial Disputes, trong thập niên 1960, lãnh đạo Trung Cộng nhân nhượng lãnh thổ với hàng loạt quốc gia nhỏ như Burma, Nepal, Mongolia, Bắc Hàn, Pakistan và Afghanistan chỉ vì họ cần tập trung vào việc ổn định vùng biên giới phía Bắc sau cuộc xâm lăng Tây Tạng và giải quyết nạn đói sau chính sách Bước tiến nhảy vọt đầy thảm họa của Mao.

Con đường giành lại được Hoàng Sa và bảo vệ Trường Sa là con đường dài, đầy kiên nhẫn, khai thác mọi khó khăn, mọi nhược điểm của Trung Cộng, nhưng dù làm gì cũng phải bắt đầu từ độc lập về cơ chế chính trị. Không có con đường nào khác. Như người viết đã nhấn mạnh nhiều lần, một Việt Nam văn minh dân chủ với một nền kinh tế cường thịnh, một hệ thống khoa học kỹ thuật hiện đại là phương pháp hữu hiệu nhất để ngăn chận không những Trung Cộng mà bất cứ một thế lực xâm lăng nào muốn thách thức đến chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.

Đừng hoài công tưới nước lên gốc cây rã mục

Ba mươi chín năm qua, không chỉ đất nước đứng trước ngã ba mà nhiều người Việt quan tâm cho đất nước cũng đang đứng trước ngã ba. Không ít người, ngoài miệng lớn tiếng phê bình đảng nhưng trong đáy lòng vẫn nghĩ chỉ có đảng CS mới thay đổi được hướng đi của đất nước. Vì thế họ mãi loay hoay, hy vọng, chờ đợi trong mỏi mòn một bình minh không bao giờ đến.

Thay vì tìm cách cứu đảng hãy chung lưng góp sức để đẩy mạnh cuộc cách mạng dân chủ được diễn ra và thành công trong hòa bình, thuận lợi, ít lãng phí tài nguyên dân tộc. Con đường dân chủ có thể làm cho một số người chưa quen cảm thấy bỡ ngỡ lúc ban đầu hay ngay cả gây ít nhiều đau nhức nhưng đó là con đường của thời đại. Hãy đi cùng dân tộc và thời đại. Ý thức hệ CS chưa bao giờ lỗi thời và lạc hậu hơn hôm nay. Đừng hoài công tưới nước vào một gốc cây đang rã mục mà hãy dành để tưới lên những mầm xanh hy vọng của tương lai đất nước.

T.T.Đ.

Nguồn: https://www.facebook.com/notes/tr%E1%BA%A7n-trung-%C4%91%E1%BA%A1o/b%C3%A0i-50-%C4%91%E1%BB%ABng-t%C6%B0%E1%BB%9Bi-n%C6%B0%E1%BB%9Bc-l%C3%AAn-g%E1%BB%91c-c%C3%A2y-r%C3%A3-m%E1%BB%A5c-ph%E1%BA%A3n-bi%E1%BB%87n-b%C3%A0i-vi%E1%BA%BFt-c%E1%BB%A7a-gs-t%C6%B0%C6%A1ng-lai/1669672683056711/

Facebook bán quảng cáo ‘tin giả’ chính trị của Nga hồi bầu cử 2016

 Facebook bán quảng cáo ‘tin giả’ chính trị của Nga hồi bầu cử 2016

(Hình minh họa: Kimihiro Hoshino/AFP/Getty Images)

WASHINGTON, DC (NV) – Facebook khai với các điều tra viên Quốc Hội hôm Thứ Tư, rằng họ từng thu tiền quảng cáo chính trị trong thời gian bầu cử tổng thống năm 2016, từ một tổ chức ngầm của Nga, mà đối tượng là cử tri Hoa Kỳ.

Đài truyền hình CNN trích lời ông Alex Stamos, người phụ trách an ninh của Facebook, cho hay rằng, qua sự duyệt lại các quảng cáo, “chúng tôi khám phá thấy số tiền chi cho quảng cáo khoảng $100,000 trong thời gian từ Tháng Sáu, 2015 đến Tháng Năm, 2017, liên hệ đến chừng 3,000 quảng cáo, liên quan đến khoảng 470 trương mục không xác thực, coi như vi phạm chủ trương của chúng tôi.”

Ông Stamos tiếp: “Phân tích của chúng tôi cho thấy những trương mục này có liên kết lẫn nhau và có vẻ xuất xứ từ Nga.”

Tiết lộ này từng được báo The Washington Post tường thuật đầu tiên, trong bối cảnh cuộc điều tra về việc Nga xen vào cuộc bầu cử của Hoa Kỳ đang diễn tiến, gồm việc sử dụng truyền thông xã hội để loan truyền tin thất thiệt và để tuyên truyền.

Các quảng cáo nhằm mục đích gieo rắc bất đồng giữa cử tri Mỹ với nhau bằng cách phóng đại thêm “những thông điệp chính trị và xã hội gây chia rẽ, từ vấn đề đồng tính LGBT đến chủng tộc, di dân và quyền sử dụng súng.”

Theo ông Ramos, mục tiêu của khoảng một phần tư các quảng cáo có tính cách địa dư nhưng không nói rõ chỗ nào các quảng cáo nhắm tới.

Có thể còn có thêm những quảng cáo đen tối khác mà Facebook chưa nhận diện được.

Facebook nói, họ bán quảng cáo qua dịch vụ tự động, qua đó người mua tự chọn vùng địa dư, khu vực dân số. Do số lượng quảng cáo quá nhiều, Facebook không thể nhận diện được hết tính chất thiếu xác thực của các quảng cáo. (TP)

Nguyên Phó Thống đốc Ngân hàng nhà nước bị khởi tố

Nguyên Phó Thống đốc Ngân hàng nhà nước bị khởi tố

RFA
2017-09-08
 
Nguyên Phó thống đốc NHNN Đặng Thanh Bình

Nguyên Phó thống đốc NHNN Đặng Thanh Bình

Courtesy 24h.com.vn
 

Nguyên Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ông Đặng Thanh Bình, vừa bị khởi tố vì hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng theo điều 285, Bộ luật Hình Sự và bị cấm đi khỏi nơi cư trú. Cơ quan Cảnh sát điều tra, Bộ Công an cho báo chí biết như vậy vào hôm 8/9.

Ông Bình bị khởi tố vì liên quan đến vụ đại án kinh tế ở ngân hàng Xây dựng gây thất thoát hơn 9.000 tỷ đồng. Đây là một trong 12 đại án kinh tế và là 1 trong 5 đại án về ngân hàng được Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng chỉ đạo phải giải quyết dứt điểm trong năm 2017.

Các lãnh đạo của ngân hàng này bao gồm nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Phạm Công Danh, nguyên Tổng giám đốc Phạm Thành Mai và nguyên giám đốc chi nhánh Sài gòn Mai Hữu Khương đã bị khởi tố và bắt giam hôm 29 tháng 7 năm 2014.

Phiên tòa xét xử 36 bị cáo trong vụ án gây thất thoát tại Ngân hàng Xây dựng đã diễn ra vào ngày 19 tháng 7 năm 2016. Bị cáo Phạm Công Danh bị tuyên phạt 30 năm tù. Hai lãnh đạo khác là Phan Thành Mai bị tuyên 22 năm tù và Mai Hữu Khương là 20 năm tù.

Ông Đặng Thanh Bình là người có 25 năm công tác trong ngành tài chính ngân hàng. Ông được bổ nhiệm làm Phó thống đốc Ngân hàng nhà nước vào năm 2005 dưới thời của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho đến khi về hưu năm 2014.

Với cương vị Phó thống đốc NHNN, ông Đặng Thanh Bình được giao chuyên trách về nợ xấu và tái cơ cấu các tổ chức tín dụng trong một thời gian dài. Đây cũng là giai đoạn các ngân hàng ở Việt Nam gặp phải vấn đề về nợ xấu tồn đọng lớn đòi hỏi phải có xử lý kịp thời, hoạt động của hệ thống ngân hàng yếu kém.

Để giải quyết tình trạng này, vào tháng 6/2013 Ngân hàng Nhà nước đã quyết định thành lập Công ty mua bán nợ các tổ chức tín dụng VAMC với nhiệm vụ chính là mua nợ xấu của các tổ chức tín dụng, thu hồi nợ, đòi nợ và xử lý, bán nợ….

Ông Đặng Thanh Bình đã được giao thêm nhiệm vụ là Chủ tịch Hội đồng thành viên đầu tiên của VAMC. Nhưng ông Bình chỉ ở vị trí này 1 năm thì phải bàn giao lại chức vì đã đến tuổi về hưu vào năm 2014.

Lời phản biện tại buổi trình chiếu sơ lược Phim The Vietnam War

Lời phản biện tại buổi trình chiếu sơ lược Phim The Vietnam War

TS.Nguyễn Ngọc Sẵng 


– Tôi may mắn được đại diện đài truyền hình PBS và Thư Viện địa phương mời vào Ban Điều Hành Thảo Luận (discussing panel) về phim The Vietnam War do hai nhà làm phim Ken Burns và Lynn Novick bỏ ra mười năm thu thập tài liệu để làm ra cuốn phim 18 tập nầy. Phim sẽ được trình chiếu vào ngày 17 tháng 9 năm 2017 trên Đài Truyền Hình PBS của Mỹ.

Trước lượng khán giả khoảng hơn 200 người, toàn là người Mỹ (trừ cô phụ tá tôi là một bác sĩ trẻ, Quyên Huỳnh). Tôi rất áy náy, nhưng quyết định nhận lời vì nghĩ rằng đây là cơ hội để nói lên quan điểm của Người Lính Việt Nam Cộng Hoà về Chiến Tranh Việt Nam. Tôi lên đường vì ý niệm đó dù biết sẽ không dễ dàng, nhất là ngôn ngữ.

Sau phần trình chiếu, họ hỏi mỗi người trong Ban Điều Hành Thảo Luận một câu. Trong phim có một cựu chiến binh Bắc Việt, tên Bảo Ninh được phỏng vấn, và ông nói rằng trong cuộc chiến tranh Việt Nam KHÔNG có người thắng (no vinners). Người điều khiển chương trình hỏi tôi nghĩ gì về ý kiến nầy?

Trước khi trả lời, tôi trình bày nhận định rằng muốn biết ai thắng, ai thua phải biết ít nhất ba (3) điều căn bản: (1) mục tiêu tham chiến của các bên, (2) Sự tổn thất mà họ trả giá. (3) và đánh giá trên tổng thể do cuộc chiến gây ra. 

                                                     A) Mục Tiêu Tham Chiến

  1. Mỹ tham gia cuộc chiến vì muốn KỀM CHẾ Trung Cộng, theo tài liệu Pantagon Papers, một nghiên cứu chính thức của Bộ Quốc Phòng Mỹ về sự tham dự của Mỹ tại Việt Nam từ 1945 đến 1967 do ông Daniel Ellsberg thực hiện và được công khai trên tờ The New York Times năm 1971, chủ yếu không nhằm bảo vệ sự độc lập của Miền Nam. Bảo vệ Miền Nam là chiến thuật trong chiến lược ngăn chận Tàu. Tài liệu nầy dài khoảng 4000 trang và được liệt kê là Tối Mật và được giải mã ngày 4 tháng 5 năm 2011 tại  thư viện của Tổng Thống Richard Nixon tại California.
  2. Mục tiêu của Bắc Việt là Giải Phóng Miền Nam bằng vũ lực để Làm Bàn Đạp cho cuộc bành trướng của cộng sản quốc tế xuống vùng Đông Nam Á. Việc nầy do Hồ Chí Minh thực hiện với sứ mạng là người lãnh đạo cộng sản Đông Dương từ năm 1932. Và điều nầy hoàn toàn phù hợp với lời tuyên bố của Tổng Bí Thư Lê Duẩn “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Sô, Trung Quốc”, nếu câu nói nầy đúng sự thật. Đây là sứ mạng của những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam.
  3. .Mục tiêu của những nhà lãnh đạo Miền Nam là bảo vệ độc lập, chủ quyền Miền Nam chống lại sự xâm lăng của cộng sản Miền Bắc với sự viện trợ tối đa của Nga, Tàu và khối cộng sản Đông Âu, kể cả Cuba. Nhưng vì thế yếu họ chấp nhận và yêu cầu Mỹ và khối tư bản viện trợ để họ bảo vệ lãnh thổ, và dân chúng theo họ.                                                                                                                                                                                                                                                                                                    B) Những Tổn Thất Của Các Bên
  1. Phía Mỹ có 58.307 binh sĩ tử trận, chi tiêu 168 tỷ Mỹ kim (có tài liệu nói 1020 tỷ), 303.604 binh sĩ bị thương, 1948 binh sĩ mất tích và lúc cao điểm của chiến tranh có 543.000 binh sĩ tham chiến. Khi chiến binh Mỹ từ chiến trường Việt Nam về bị dân chúng khinh thị, không đón tiếp trọng thể như những binh sĩ tham gia trong những cuộc chiến ngoại biên khác. Và vết thương chiến tranh chưa hoàn toàn hàn gắn được.
  2. Phía Bắc Việt có 950.765 binh sĩ tử trận, gần 600.000 bị thương, số mất tích không có con số rõ ràng, ước tính khoảng 300 ngàn người... Trong chiến cuộc, Miền Bắc được xếp vào hạng 1 trong 5 quốc gia nghèo nhất thế giới. Và cuộc chiến do Miền Bắc gây ra làm thiệt mạng 2 triệu thường dân.
  3. Phía Việt Nam Cộng Hoà có 275 ngàn chiến sĩ thiệt mạng, khoảng 1.170.000 người bị thương, không có con số mất tích được liệt kê và ngày 30 tháng 4 năm 1975 họ đầu hàng vô điều kiện.                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                         C) Ai Thắng? Ai Thua?                                                                      1.Từ những phân tích trên, tôi trình bày quan điểm riêng rằng Mỹ đã đạt được mục tiêu Kềm Chế Trung Cộng, vậy Mỹ là người THẮNG.                                                                                     2.cũng từ phân tách nầy, tôi trình bày cho thính giả rằng Bắc Việt hy sinh gần 1 triệu binh sĩ, gần 6 trăm ngàn người thương tật, 300 ngàn người mất tích, làm 2 triệu thường dân bị chết oan và biến đất nước thành 1 trong 5 nước nghèo nhất thế giới, vậy Bắc Việt là người THUA vì phải trả giá quá đắt mà Trung Cộng vẫn không nhuộm đỏ được vùng Đông Nam Á. Họ THUA vì không đạt được mục tiêu.                                                                                                                 3.Việt Nam Cộng Hoà đầu hàng vô điều kiện ngày 30 tháng 4 năm 1975 là người THUA. Theo bài phỏng vấn của Tướng Frederick C. Weyand ngày 12 tháng 6 năm 2006 thì cuộc chiến bị thua không phải do quân đội kém cỏi mà do những người lãnh đạo chính trị ở Washington. Họ thắng trên chiến trường, nhưng thua vì sự bội ước của đồng minh. Nhưng theo thiển nghĩ thì sau khi Hoa Kỳ đã hoàn thành mục tiêu kiềm chế Trung Cộng, họ rút lui bằng sự trả giá của nhiều bên, trong đó có cả binh sĩ của họ.

Kết luận sau cùng của tôi với cử toạ là cả hai phía người Việt đều là kẻ thua, nhất là dân tộc Việt Nam là người thua trong cuộc chiến tranh ủy nhiệm của người cộng sản do Hồ Chí Minh, người cộng sản quốc tế, thực hiện sứ mạng trên sự đau xót vô vàn của dân tộc, làm kiệt quệ đất nước và tạo vết thương lịch sử dù 42 năm rồi vẫn chưa lành và không biết có cơ hội nào để lành vết thương dân tộc nầy.

Một cử toạ hỏi tôi về hậu quả tâm lý hiện tại của cuộc chiến, tôi chỉ đơn giản trả lời “bên thắng cuộc vẫn coi bên thua cuộc là kẻ thù cho dù chiến tranh đã chấn dứt 42 năm rồi”.

Cuốn phim vẫn trình bày những sự kiện mang tính cách tuyên truyền cũ rích dù họ bỏ ra 10 năm sưu tập tài liệu, phỏng vấn một số người trong và ngoài nước. Vẫn trưng tấm hình Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn tên Việt Cộng Bảy Lốp trên đường phố Sài Gòn, vẫn bản cũ kết tội tên Trung úy William Calley sát hại 128 thường dân, vẫn chuyện thả bom napalm vào một số làng mạc gây thương tích cho thường dân v.v…, nhưng tôi nói thẳng với họ rằng Việt Cộng pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy ngày 9 tháng 3 năm 1974 làm thiệt mạng gần 200 em học sinh tiểu học sao đoàn làm phim không biết? Trong  trận Tết Mậu Thân, người cộng sản sát hại gần 6 ngàn đồng bào vô tội tại Huế, sự kiện chấn động cả thế giới mà đài truyền hình PBS không hay? Phim vẫn cho rằng công ty hoá chất Dow Chemical sản xuất bom Napalm để dội vào làng giết hại dân lành, tôi thẳng thắn nói với họ rằng bom Napalm không chế tạo để giết dân lành và vụ cô Kim Phúc là một trong những nhầm lẫn trong chiến trường như Mỹ đã từng nhầm lẫn ném bom trúng tòa đại sứ Trung Cộng tại Kosovo 1999, thỉnh thoảng ném bom nhầm tại Iraq, Afghanistan, Syria v.v…, Thậm chí họ còn ném bom nhầm vào những đơn vị quân đội của Hoa Kỳ, bắn nhầm binh sĩ Hoa Kỳ v.v…, trong chiến tranh không thế nào tránh nhầm lẫn được. Thế mà bọn truyền thông dòng chính vẫn cố tình vu khống một cách lố bịch, không chút liêm sỉ những sai lầm mà ai cũng có thể nhận thấy. Thảo nào Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump miệt thị họ không oan chút nào.

Sau buổi hội thảo, một sử gia Mỹ tên Bill Laurie gặp tôi và ông nói Bảy Lốp là tên khủng bố đã sát hại 6 người thân của viên chức VNCH, nên bắn Lốp là không vi phạm công ước Geneve.

Có thể đáng lẽ người Mỹ đã rút quân trước 1969, nếu người tư lệnh chiến trường Việt Nam của họ có chiến thuật đúng đắn, khác với chiến thuật “Truy tầm, tiêu diệt” mà Tướng Westmoreland, người được báo chí gọi là vị Tướng bại trận tại Việt Nam (The General Who Lost Vietnam) áp dụng trong nhiều năm. Những nhà bình luận quân sự chỉ trích chiến thuật dùng lực lượng hùng hậu để truy lùng giặc của Westmoreland  là không đúng. Chiến thuật nầy chỉ có kết quả khi đối phương chấp nhận đương đầu, nhưng quân Bắc Việt vào thời điểm đó, họ tránh né trong những cuộc hành quân lớn, họ rút sâu vào rừng hoặc vượt qua biên giới Cao Miên, Lào để bảo toàn lực lượng.

Nếu họ sử dụng những vị Tướng tài như Tướng Harold K. Johnson, Frederick C. Weyand, v,v,. thì có lẽ người lính Mỹ đã hồi hương sớm, ít thiệt hại sau khi đã hoàn thành mục đích Kềm Chế Trung Cộng. Và mức độ thiệt hại mà quân đội hai phía Việt Nam sẽ ít hơn, nhất là con số thiệt hại nhân mạng dân lành sẽ thấp hơn, mức độ nghèo nàn, đói rách, lạc hậu của người dân Việt Nam sẽ ít hơn, và trên hết, hận thù không dai dẳng như ngày hôm nay.

Vấn đề viện trợ quân sự cho Miền Nam cũng góp phần trong chánh sách “phủi tay” của Hoa Kỳ. Từ con số 2..8 tỉ năm 1973, còn 1 tỉ năm 1974 và 300 Triệu cho năm 1975. Và cuối cùng, tháng 12 năm 1974 quốc hội Hoa Kỳ quyết định cắt hết viện trợ quân sự, chỉ 55 ngày sau là Việt Nam Cộng Hoà sụp đổ. Không có quân đội nào đánh giặc mà không có vũ khí, hoặc viện trợ vũ khí, chỉ trừ “truyền thuyết” Quân Giải Phóng với tay không bắt được máy bay Mỹ.

Không ai kéo lịch sử lùi lại được. Người gây ra cuộc chiến vì nhiệm vụ quốc tế cộng sản phải thành khẩn thú nhận trách nhiệm lịch sử. Không chấp nhận hôm nay, trong tương lai lịch sử cũng sẽ ghi lại bởi chính con cháu chúng ta, họ đọc lịch sử từ hai phía, họ đọc lịch sử thế giới, họ sẽ viết lại sự thật mà thế hệ cha ông họ đã trải qua. Đó là chính sử chứ không phải tài liệu tuyên truyền, xuyên tạc, bóp méo sự thật mà người cộng sản dùng bạo lực để bóp méo và gọi là lịch sử.

Họ phải thành tâm Hoà Giải Hoà Hợp với những nạn nhân của họ, với đồng bào trong nước để xây dựng lại sức mạnh dân tộc để chống lại giặc Tàu. Làm chậm trễ sẽ mất nước và tội của họ sẽ chồng chất thêm với đất nước và dân tộc.

Đây là bộ phim phản ảnh một phía, trình bày phân nửa sự thật, không xứng đáng bỏ thời giờ xem. Điều nầy tôi đã viết trên Yahoo, nhưng 15 phút sau bị gỡ xuống. Hy vọng Burns và Novick sẽ đọc và nhìn lại vấn đề, nếu họ muốn trình bày một số khía cạnh thật về chiến tranh Việt Nam./.

TS.Nguyễn Ngọc Sẵng

 Anh chị Thụ & Mai gởi

Từ Nguyễn Chí Thiện đến Vũ Thành An…!!!

  Từ Nguyễn Chí Thiện đến Vũ Thành An…!!!

  bài của GS Nguyễn Lý Tưởng

 Tôi đã từng ở tù với Vũ Thánh An nên biết nhiều chuyện. Khi những tố cáo Vũ Thánh An được đưa lên báo, tôi rất ngạc nhiên. Nghị sĩ Trần Tấn Toán cùng ở tù chung với tôi và Vũ Thánh An, đã viết một tài phản bác với những phản chứng rất vũng chắc đăng trên báo Saigon Nhỏ, chẳng thấy ai nói gì. 

       Tôi xin chuyển dưới đây bài của Nguyễn Lý Tưởng nói về chuyện Vũ Thành An để quý vị biết thêm.

    LG

Tuỳ nghi.

Người chuyển không có ý kiến,  chỉ yêu cầu:  

Xin mọi người hãy cẩn thận, chuyện gì liên quan đến danh dự người khác mà ta không thấy không nghe thì chớ vội tin lời ai mà xúm nhau kết án hoặc chụp mũ người khác. 

TM

Từ Nguyễn Chí Thiện đến Vũ Thành An…!!!

GS Nguyễn Lý-Tưởng

Trong mấy tháng gần đây, trên “Tin Paris” chuyển đi những tài liệu (viết từ 1995) về Vũ Thành An mà một số báo, diễn đàn đã tiếp tay phổ biến như là một bản cáo trạng về những tội lỗi mà Vũ Thành An đã phạm phải trong thời gian còn ở trong trại tù cải tạo của CS…Sự việc bùng nổ ra trong thời gian có cuộc vận động tổ chức ngày họp mặt tù nhân chính trị tại Dallas vào các ngày 3,4 và 5 tháng 10/2008 vừa rồi. Vũ Thành An hiện  nay là một Phó Tế của Giáo Hội Công Giáo tại Hoa Kỳ, một người đã tìm được  niềm tin và con đường cho cuộc đời mình vào lứa tuổi ngoài 60…So với những ngừơi khác, Vũ Thành An không phải là hạng ngừơi bỏ đi và cũng không phải là hạng ngừơi đáng bị nguyền rũa với những lời lẽ thậm tệ như “Antena, Sâu bọ làm ngừơi”…Phải chăng đây là một chiến dịch có ác ý?

Chúng tôi cũng vừa nhận được tờ báo “Góp Gió” từ Seattle gửi đến với những luận điệu như trên…Có lẽ “người gửi” chưa từng đọc bài của chúng tôi lên tiếng trả lời ông Trần Trung Chính về trường hợp Vũ Thành An ?…Vì thế chúng tôi xin được đăng lại bài đã viết  đề ngày 12/12/1995 gửi đăng trên các báo. Ứơc mong được làm sáng tỏ một vài điều về Vũ Thành An…

Kính mong các cơ quan ngôn luận vui lòng đăng tải giúp. Xin cám ơn.

Vài Góp Ý Với Ông Trần Trung Chính

qua bài của Ông viết về Vũ Thành An đề ngày 1/11/1995 đăng trên SàiGòn Nhỏ  số 233 xuất bản tại Orange County ngày 10/11/1995

Nhân đọc bài của ông Trần Trung Chính viết về Vũ Thành An, đăng trên báo Sài Gòn Nhỏ, số 233, xuất bản tại Orange County ngày  10/11/1995, chúng tôi xin được góp một vài ý kiến với ông như sau:

  1. Năm 1975 – 1976, Vũ Thành An ở trại Long Thành với chúng tôi. An không  hề có mặt tại trại Long Giao như ông Trần Trung Chính nói. Năm 1975 có khoảng 3500 ngừơi bị giam giữ tại Trại tù cải tạo Long Thành, trong đó có chúng tôi. Trại trưởng lúc đó là tên Trung Tá Công An Việt Cộng Đặng Côn và cán bộ phụ trách giáo dục là tên Bào. Hồi đó, mỗi bùông cử ra một ngừơi gọi là “Uỷ viên Văn Thể Mỹ”. Vũ Thành An được bầu vào chức đó. Vũ Thành An phụ trách tập cho những quản ca hát những bài hát do cán bộ giáo dục của trại phổ biến. Quản ca đem về buồng tập lại cho anh em hát. Cán bộ còn gợi ý cho Vũ Thành An làm những bài hát đề cao sự lao động và học tập cải tạo, các quản ca góp ý sửa chữa…

Vì là một nhạc sĩ có tên tuổi nên Vũ Thành An bị bắt buộc phải làm, không thể từ chối được. Giai đoạn nầy, đa số anh em thất vọng, mất niềm tin, cảm thấy bị bạn bè và Đồng Minh Hoa Kỳ phản bội, bỏ rơi…sợ bị trả thù, nhiều ngừơi đâm ra nghi kỵ lẫn nhau…nên ai cũng có thái độ vâng dạ cho qua…Không riêng gì Vũ Thành An mà có biết bao nhiêu Dân Biểu, Nghị Sĩ, Tướng lãnh, Tổng Bộ Trưởng, các lãnh tụ chính trị, tôn giáo,v.v…cũng đã phải chấp nhận hoàn cảnh như vậy. Ở đây, chúng tôi không múôn nêu lên những ngừơi đã công khai làm những điều tai tiếng và tên tuổi của họ đã đi vào những hồi ký, sách vở…tiếng xấu để đời. Một điều đáng chú ý là Vũ Thành An chưa bao giờ ở trại Long Giao với ông Trần Trung Chính như ông Trần Trung Chính đã nói. Do đó những chuyện xẩy ra ở Long Giao  hoàn toàn không liên hệ gì đến Vũ Thành An. Trong thời điểm 1975 – 1976, ở trại Long Thành chưa có vấn đề phạt kỷ luật, chưa có một anh em nào bị biệt giam, cùm một chân như ở các trại miền Bắc sau nầy. Có ngừơi chết, nhưng lý do vì bị bệnh không phải do Vũ Thành An báo cáo mà chết. Trong anh em cũng có ngừơi không ưa Vũ Thành An vì thái độ ngoan ngoản, vâng lời của anh ta đối với cán bộ, đặt một số bài hát,v.v…Tiếng đồn về Vũ Thành An từ đó mà ra. (Nguyễn Vạn Hùng đã một lần viết về vấn đề nầy trên Nguyệt san Dân Tộc Việt số 1 tháng 6, 1991).

  1. Ngừơi làm “Văn Hoá Thi Đua” ở trại Phú Sơn tên là Thu chứ không phải Vũ Thành An như ông Trần Trung Chính nói. Vũ Thành An chỉ là đội trưởng của đội Nông Nghiệp, đi lao động như anh em khác, không phải là trật tự hay văn hoá thi đua. Cựu Dân Biểu Trương Vỹ Trí không hề bị cùm tại trại Phú Sơn vì bị Vũ Thành An báo cáo.

Khi đọc đến đoạn nầy trên báo, tôi rất ngạc nhiên. Tôi có hỏi nhiều người và tối 11 tháng 12, 1995, tôi có điện thoại cho Cựu Dân Biểu Trương Vỹ Trí ở Florida. Chính anh Trương Vỹ Trí xác nhận với tôi anh không bị cùm tại trại Phú Sơn. Nhưng anh cho biết anh có bị cùm tại Thanh Hoá, lúc đó Vũ Thành An đã đi trại khác rồi. Hồi đó, có ngừơi trốn trại, không trở về. Công an tìm không ra, có lẽ mất tích luôn…nên anh Trương Vỹ Trí bị nghi là có dự mưu và bị cùm một chân trong nhà kỷ luật. Việc nầy không phải do Vũ Thành An báo cáo.

3.Vụ Đại Tá Sơn Thương chết , xảy ra trong đội của Nguyễn Minh Đăng, lúc đó, Vũ Thành An ở đội khác, buồng khác không liên hệ gì đến chuyện đó.

Điều nầy tôi có hỏi nhiều ngừơi ở chung một đội, một buồng với Vũ Thành An và ngay cả anh Trương Vỹ Trí cũng xác nhận như vậy. Trong bài báo, ông Trần Trung Chính khẳng định Sơn Thương chết là do Vũ Thành An báo cáo. Xin ông hỏi lại anh em cho chính xác.

  1. Trong bài báo, ông Trần Trung Chính có nêu lên một biến cố xảy ra vào đêm 30 tháng 12/1980 tại trại Phú Sơn: Vũ Thành An đã lên sân khấu…Tôi không có mặt tại trại Phú Sơn lúc đó, nhưng cũng chính vào ngày 30/12/1980 Vũ Thành An đang có mặt tại buồng I trại Hà Tây …Vũ Thành An chuyển từ trại Thanh Hoá về trại Hà Tây vào cuối năm 1979 trứơc biến cố nói trên một năm. Có cả ngàn anh em ở trại Hà Tây biết rõ điều nầy. Xin ông xem lại, có điều gì lầm lẫn không?
  2. Vấn đề báo cáo Trung Tá Nguyễn Văn Cử, cựu Dân Biểu là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng…Theo chúng tôi nghĩ, điều đó cũng bằng thừa vì Việt Cộng biết rất rõ  ông Nguyễn Văn Cử là con của Cụ Nguyễn Văn Lực (một trong những lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng). Chúng cũng biết rõ ông Nguyễn Văn Cử là ngừơi ném bom dinh Độc Lập thời TT Ngô Đình Diệm cùng với Phạm Phú Quốc và có biết bao nhiêu anh em VNQDĐ đã khai về ông Nguyễn Văn Cử…Và chính ông Nguyễn Văn Cử cũng được tha về trứơc nhiều anh em khác, có thể trứơc cả Vũ Thành An, trứơc chúng tôi.v.v… Vậy thì lời báo cáo của Vũ Thành An có giá trị gì?
  3. Từ cúôi năm 1979 đến tháng 3/1983, Vũ Thành An ở buồng I trại Hà Tây cùng buồng với chúng tôi, có Cụ Nguyễn Văn Mân (cựu Nghị Sĩ), Cụ Hoàng Văn Úy (hiện là Chủ Tịch Việt Nam Quốc dân Đảng) Cụ Phan Như Toản, Cụ Chu Tử Kỳ, anh Nguyễn Vạn Hùng (tác giả Vùng Đất Ngục Tù hiện ở Los Angeles), anh Bữu Uy, Cựu DB Trần Cảnh Chung,v.v…Từ đó về sau, chúng tôi không thấy Vũ Thành An làm điều gì có hại cho anh em. Vũ Thành An cũng không làm tổ trưởng, đội trưởng, buổng trưởng hay trật tự, văn hoá thi đua ở trại Hà tây cũng như ở Nam hà. Từ 1980, anh đọc Kinh Thánh, tìm hiểu đạo Công Giáo và đã trở lại đạo vào đêm 19 tháng 3 năm 1981. Những ngừơi được mời tham gia hôm đó có: Cụ Nguyễn Văn Mân (cựu Nghị Sĩ, ngừơi đỡ đầu cho Vũ Thành An theo đạo), anh Nguyễn Thành Tiên (ngừơi thực hiện nghi thức dội nước trên đầu Vũ Thành An), anh Nguyễn Văn Độ, bác Vũ Công Định (Phật Giáo), anh Ca Văn Dương (Hoà Hảo), anh Nguyễn Trung Tín (Tin Lành), cùng các anh Nguyễn Vạn Hùng, Huỳnh Văn Trứ (Cựu Dân Biểu), Nguyễn Văn Ngà, Phạm Ngọc Lâm và tôi, Nguyễn Lý-Tưởng (Cựu Dân Biểu). Chúng tôi cũng thông báo cho các cụ Hoàng Văn Úy, Phan Như Toản, Trương Đình Nam, Ngô Quốc Tượng (tức Chu Tử Kỳ),v.v. nằm cạnh đó biết và nhờ họ canh chừng…Các Đại Tá Hồ Ngọc Tâm, Nguyễn Quang Thông, Đoàn Công Hậu, Võ Hữu Hạnh,v.v…cũng được thông báo trứơc để hiệp ý cầu nguyện…Chúng tôi nêu sự kiện nầy để xác nhận rằng Vũ Thành An đã tìm được niềm tin và đã thực sự thay đổi. Đó là điều đáng mừng!

Vũ Thành An cũng đã âm thầm sáng tác một số “tù ca” trong thời điểm đó, nói lên cảnh tù đày của anh em trong trại Phú Sơn và Hà Tây, v.v…Những bài nầy đã được chuyển cho một số anh em hát. Ở Texas có Trung Tá Nguyễn Thế đã thuộc một số tù ca của Vũ Thành An. Cúôi 1980, Vũ Thành An được thăm nuôi, ngừơi nhà hát cho anh nghe mấy bài hát được sáng tác ở Hải Ngoại sau 30/4/1975. Anh đã học thuộc lòng, vào trại chép ra cho anh em hát…Tết năm 1981, Vũ Thành An lén đến khu vực cấm (khu F) nơi giam các tứơng và đại tá và hát cho họ nghe những bài nầy…Có hàng ngàn anh em ở trại Hà Tây và Nam Hà (từ tháng 3/1983 đến 1985) sống chung với Vũ Thành An, hiện số anh em đó có mặt khắp nơi trên đất Mỹ…nếu anh em cho rằng lời chúng tôi  nói đây là không đúng sự thật, xin cứ lên tiếng theo lương tâm của anh em.

Kính thưa hai ông Trần Trung Chính và Trần Văn Chính (ở 4223 Colgate LN, Garland, Texas 75042), kính thưa tất cả anh em.

Tôi cũng là nạn nhân của những tên antena trong trại tù cải tạo, ba lần bị cùm chân trong nhà kỷ luật, 7 tháng biệt giam tại Hoả Lò, Hà Nội, được tự do vào năm 1988 (13 năm tù) rồi bị bắt lại năm 1992, bị 13 tháng biệt giam ở 3 C Tôn Đức Thắng (bến Bạch Đằng Saigon), 4 Phan Đăng Lưu (Gia Định) và khu Kiên Giam, lao xá Chí Hoà (Saigon) cho đến tháng 7/1993 mới được tự do…Tôi sống giữa anh em ở trại Long Thành, Hà Tây, Nam Hà…Anh em biết tôi. Cha tôi cũng chết trong nhà tù CS, anh tôi bị CS giết, họ hàng bị VC cầm tù, sát hại, nhà cửa ruộng vừơn bị chúng tịch thu hết…Chúng tôi phải bỏ quê hương, bỏ mồ mả tổ tiên chạy vào Sài Gòn từ 1972. Do đó chúng tôi rất căm thù CS. Vì bọn Antena trong tù mà tôi phải trải qua nhiều lần bị biệt giam, bị cùm chân trong nhà kỷ luật. Tôi cũng căm thù bọn chúng như hai ông họ Trần căm thù. Trên nguyên tắc, tôi hoàn toàn ủng hộ lập trừơng của hai ông khi lên án bọn chúng.

Chúng tôi tôn trọng quyền tự do ngôn luận của anh em. Anh em có quyền lên án, có quyền buộc tội. Nhưng phải chính xác, phải vô tư. Những điều mà chúng tôi vừa nêu trên, không riêng gì một mình tôi mà nhiều ngừơi cũng nhận thấy có sự nhầm lẫn việc nầy với việc khác, thời điểm nầy qua thời điểm nọ…Có những ngừơi trứơc đây đã làm tay sai, làm chó săn cho CS cho đến thời điểm 1987, 1988 vẫn còn tiếp tục. Nhưng Vũ Thành An, từ 1980 đã tìm về với Chúa trong niềm tin Công Giáo và anh đã sống với niềm tin của mình.

Ai cũng mong muốn  được làm lại cuộc đời sau những biến cố đau thương: gia đình tan nát, quê hương điêu tàn, chúng ta đã trở thành kẻ vong quốc, nương thân nơi xứ ngừơi.

Chúng tôi xin gửi đến hai ông Trần và tất cả anh em cựu tù nhân chính trị và đồng hương một vài nhận xét như trên. Xin tuỳ sự suy nghĩ của mỗi ngừơi.

Xin thành thật cám ơn qúy vị.

Nam Cali ngày 12/12/1995 

Nguyễn Lý-Tưởng  

From: Do Tan Hung & Nguyễn Kim Bằng

Em trai Nguyễn Mai Trung Tuấn 15 tuổi kêu gọi:

From facebook:  Hoa Kim Ngo and Dawson Le shared Like cho VIỆT NAM‘s live video.

30,292 Views

Like cho VIỆT NAM is live now.Follow

httpv://www.youtube.com/watch?v=_CXBHcCMkKc&feature=youtu.be

Phỏng vấn em Nguyễn Mai Trung Tuấn sau những ngày bị lao tù

 

Em trai Nguyễn Mai Trung Tuấn 15 tuổi kêu gọi: – “Đảng cộng sản VN là đảng bán nước cho tàu cộng –
Tiêu diệt Đảng Cộng Sản Việt Nam – Đả đảo Nguyễn Tấn Dũng bù nhìn – Đả đảo chế độ cộng sản đàn áp dân – Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm.”
——-
Phần 1: Mời quý vị đón nghe cuộc phỏng vấn đặc biệt với em Nguyễn Mai Trung Tuấn sau những ngày em bị lao tù cộng sản.

Clip: Tin Mừng Cho Người Nghèo
https://youtu.be/_CXBHcCMkKc

Phần 2: Nguyễn Mai Trung Tuấn live stream: “Cháu xin cảm ơn . Cháu sẽ luôn luôn sống tốt để không phụ lòng thường yêu cuả các chú bác , cô dì đã dành cho con.”

Phần 3: Nguyễn Mai Trung Tuấn 15 tuổi – Trần Quốc Toản thời đại. Bất lực trước sức mạnh của “Công lý và sự thật”, Công An Cộng Sản Việt Nam đứng nhìn…
Em trai Nguyễn Mai Trung Tuấn 15 tuổi kêu gọi: – Tiêu diệt Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Clip: Chân Lý

Lại một lần nữa cái gì xấu xa là cứ lôi hai chữ Sài Gòn ra chịu trận.

From facebook:  Christina Le
 

Lại bán dâm, và lại một lần nữa cái gì xấu xa là cứ lôi hai chữ Sài Gòn ra chịu trận.

Tội cho SG quá, quý vị cướp nó đã 42 năm, đổi tên thành tp HCM, thế mà cứ cướp, giết, hiếp, xì ke, đĩ điếm là quý vị vu cho SG; còn cái gì tốt đẹp là lại HCM.

Tôi ví dụ, giờ mình có cái nhà thôi chẳng hạn, mình bán nó lại cho thằng chủ mới, đã sang tên đổi chủ. Thằng chủ mới dọn vào ở thì giờ cái nhà ấy lỡ chó mèo vào nó ỉa, hay xảy ra cướp bóc, giết hiếp, xì ke ma tuý gì thì người ta lôi cái tên nó ra chứ chẳng lẽ đổ cho thằng chủ cũ.

Còn nói vì quen miệng, hay vì hoài niệm này kia thì phải nói cho công bằng, tốt xấu gì cũng nói tuốt, chứ đừng kiểu xấu xa là đổ cho SG, tốt đẹp thì HCM, chơi vậy chơi với dế.

Còn nữa, sợ ghép những cái xấu xa vào tên gọi hiện tại nó phạm huý thì trả lại cái tên SG nguyên bản cho người ta đi, rồi muốn gán cho người ta thế nào cũng được, có ai bắt ép phải đổi tên đâu. Đây đã đổi rồi thì có xì ke, đĩ điếm hay cướp hiếp chi cũng lo mà gọi cho đúng tên, đừng có lôi SG vào.

(Nhân Thế Hoàng)

Image may contain: one or more people and people sitting