Lễ giỗ lần thứ 54 cố Tổng thống Ngô Đình Diệm và Bào Đệ của Ngài tại nghĩa trang Lái Thiêu, B…ình Dương

From facebook: Trần Bang‘s post.

Image may contain: 10 people, people standing and outdoor
Image may contain: 11 people, crowd and outdoor
Image may contain: 10 people, people smiling, people standing and outdoor
Trần Bang added 3 photos and a video.

Chiều 1/11/2017 từ lúc 16h, khoảng hơn 300 người đi viếng mộ và dự Lễ giỗ lần thứ 54 cố Tổng thống Ngô Đình Diệm và Bào Đệ của Ngài tại nghĩa trang Lái Thiêu, Bình Dương do Linh mục Vinh Sơn Phạm Trung Thành cựu Giám tỉnh DCCT Chủ tế, một số Linh mục ở Văn phòng Công lý & Hoà Bình DCCT, Lm Nguyễn Duy Tân Giáo xứ Thọ Hoà, cùng một số Linh mục khác đồng tế.

Vào giờ ấy, mấy tuần nay trời thường mưa to kéo dài gây ngập úng, nhưng hôm nay trời chỉ mưa lất phất mấy phút rồi tạnh, không khí mát mẻ, đúng như lời cầu nguyện và tín thác vào Chúa của Linh mục Lê Ngọc Thanh DCCT đã nói mấy ngày trước.

Buổi lễ giỗ đã diễn ra trang nghiêm, tốt đẹp ngoại trừ một số hạt sạn như dưới đây:

1. Kẻ lạ đóng, khóa 2 cổng gần làm người dự phải chui rào, sau đó lỗ chui cũng bị tấp cây có gai, người về sau phải đi vòng cổng xa cả hơn 1 km mới về đến chỗ gửi xe ngoài hàng rào, kế ngay mộ của Cụ Diệm.

2. Kẻ lạ mang loa thùng lớn đến ngồi ngoài hàng rào B40 ăn uống bừa bãi, ngay mộ cụ Diệm và mở nhạc to nhằm át lời giảng của Lm, lời cầu nguyện của người dự ( như clip 4 dưới ). Họ cố tình quấy rối buổi lễ, nhưng đã không át nổi tiếng kinh cầu, tiếng hát Thánh ca của hơn 300 người tham dự.

3. Rất đông an ninh chìm nổi, canh trừng trong ngoài nghĩa trang; vài kẻ đội mũ đỏ, đen, bịt khẩu trang chà trộn vào trong quay phim, chụp hình, ai cũng biết nhưng mọi người vẫn tập trung vào nghe các Cha giảng, đọc kinh cầu nguyện, hát Thánh ca.

4. Sự việc làm an ninh Bình Dương mất điểm nhất là sau khi kết thúc buổi Lễ, theo FB Lm Lê Ngọc Thanh thì có kẻ leo lên xe hành hung phóng viên Huyền Trang và sau đó 4 kẻ đi 2 xe máy cầm đá chạy theo xe chở Huyền Trang đe dọa…

Học, học nữa học mãi.

From facebook:   Huynh Lan
Fb Uyên Lê
 
Học, học nữa học mãi.
 
Sau năm 75 thì bên thắng cuộc vào miền Nam rất đông. Có 1 cán bộ bên phòng giáo dục xuống 1 trường cấp 3 để nói chuyện.
 
CB: chế độ ta là rất xem trọng việc giáo dục, và tất cả mọi người từ dân cho đến cán bộ, đảng viên ai cũng phải học tập, học hỏi không ngừng để mà tiến bộ. Vì đất nước ta còn xây dựng cnxh, và sau này tiến lên cscn đó là con đường mà chúng ta phải đi đến. Vì thế đồng chí Lê Nin đã nói: học, học nữa học mãi. Bây giờ các em trong các gương người tốt, việc tốt trong cuộc sống hàng ngày em nào có biết được ai mà siêng năng học tập tiến bộ thì cho thầy biết.
 
HS: dạ thưa, em có biết như trường hợp bác của em là bác sĩ rồi, học ở bên Pháp về, mà bây giờ bác em cũng còn đi học nữa.
 
CB: Tốt, thế là tốt quá. Thế bác em đang học gì ?
 
HS: dạ, bác em đang học tập cải tạo.
 
CB: ờ ờ, cái đấy thì cũng được, vì đấy là chủ trương đường lối của nhà nước thì học cho biết. Nhưng thầy muốn nói cụ thể là văn hoá cơ, thì em nào biết ?
 
HS: thưa thầy em biết ạh. Cụ thể như là trường ta đấy. Thầy hiệu trưởng là đảng viên, mà thầy vẫn đi học rất là siêng năng ạh.
 
CB: Tốt, tốt quá. Thế thầy học gì nào ?
 
HS: dạ thầy đang học bổ túc văn hoá ạh, vì thầy chưa có bằng cấp 3.
 
CB: Thôi, thôi thế là được rồi, hôm nay giao lưu thế là xong nhé, thôi thầy đi về nhé.
 
(st)

Hơn 150 con đường ở An Giang bị đào xới rồi bỏ ngang

Hơn 150 con đường ở An Giang bị đào xới rồi bỏ ngang

Một con đường ở phường Mỹ Long, thành phố Long Xuyên, bị đào xới thi công ảnh hưởng đến việc đi lại, buôn bán của người dân. (Hình: Báo Thanh Niên)

AN GIANG, Việt Nam (NV) – Dự án “giải quyết nước thải thành phố Long Xuyên” được làm gần hai năm nhưng đến nay vẫn chưa hoàn thành dù có hơn 150 con đường bị đào xới, làm ảnh hưởng nặng nề đến sinh hoạt và kinh doanh của người dân.

Dự án do công ty Điện Nước An Giang làm chủ đầu tư; công ty công nghiệp Kumho, Nam Hàn, là nhà thầu chính cung cấp thiết bị và thi công xây lắp, nhằm “nâng tầm thành phố Long Xuyên lên đô thị loại một, sẽ chấm dứt việc xả nước thải chưa qua chế biến ra sông Hậu.”

 

Theo báo Thanh Niên, công trình thực hiện từ đầu năm 2016, đến nay đã đào hơn 150 con đường nội ô khắp trong thành phố Long Xuyên như “cánh đồng hoang.” Nó ám ảnh đến nỗi, hiện cứ thấy đơn vị thi công đến đào trước nhà là người dân cả khu vực lo lắng, bất mãn vì ảnh hưởng đến việc buôn bán, đi lại. Ngay cả khi đào xong, trả lại mặt đường thì cũng rất tạm bợ, đá dăm văng tứ phía, nhiều đoạn nước mưa đọng thành vũng khiến giao thông qua lại bị ảnh hưởng…

Chưa hết, tuyến đường Trần Hưng Đạo chạy qua các phường Bình Khánh, Mỹ Bình, Mỹ Long, Mỹ Quý nằm trên trục quốc lộ 91 gần đây thường xuyên kẹt xe do đào đường liên tục. Trong khi các tuyến đường trong nội ô ngày nào cũng thi công ầm ĩ.

Bà Nguyễn Thị Hằng, chủ tiệm cơm tấm Anh Đào ở phường Mỹ Xuyên, nói: “Gặp mấy ông công trình kéo máy xúc tới đào đường là tụi tôi lo. Họ làm mấy tuần mới xong, đất đá móc lên bừa bãi, ngổn ngang… Tôi phải đóng cửa gần nửa tháng trời do bụi bặm vì đào đường, lối vào quán không an toàn, khách không vào được.”

Theo Sở Giao Thông Vận Tải An Giang, việc triển khai thi công dự án trên ảnh hưởng rất lớn đến đời sống, sinh hoạt của người dân. Do đơn vị thi công hoàn trả lại hiện trạng không đúng như ban đầu, khiến kết cấu hạ tầng giao thông thành phố Long Xuyên xuống cấp.

Ông Lâm Vĩnh Cường, trưởng Phòng Quản Lý Chất Lượng Công Trình Giao Thông, Sở Giao Thông Vận Tải, thừa nhận: “Nhắc đến dự án này, ai cũng phàn nàn việc đào đường ảnh hưởng đến an toàn giao thông, đời sống sinh hoạt và kinh tế, mất mỹ quan đô thị.”

Tin cho biết, để hoàn trả như ban đầu theo ước tính phải tốn cả trăm tỷ đồng nên Sở Giao Thông Vận Tải yêu cầu đơn vị thi công phải khắc phục, hoàn trả lại đúng hiện trạng ban đầu sau khi thi công. Tuy nhiên, ông Nguyễn Phú Hoàng, Ban Quản Lý Dự Án Nước Thải Long Xuyên, chỉ “mong người dân… thông cảm.” (Tr.N)

Quần chúng tự phát đe dọa linh mục

Quần chúng tự phát đe dọa linh mục

RFA
2017-10-31
 

 

Hội Cờ đỏ bao vây hai linh mục đi ra từ văn phòng Ủy ban Nhân dân xã Diễn Mỹ hôm 30/10/2017

Hội Cờ đỏ bao vây hai linh mục đi ra từ văn phòng Ủy ban Nhân dân xã Diễn Mỹ hôm 30/10/2017

Courtesy of FB Thanh Niên Công Giáo

 

Hai linh mục Đa Minh Phạm Xuân Kế, quản hạt Đông Tháp và Giuse Nguyễn Ngọc Ngự, quản xứ Đông Kiều, vào ngày 30 tháng 10 bị một nhóm được giải thích là ‘quần chúng tự phát’ đe dọa. Vụ việc xảy ra ngay sau khi hai linh mục vừa ra khỏi có cuộc làm việc với cơ quan chức năng tại xã Diễn Mỹ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.

Chân Như có cuộc nói chuyện với linh mục Đa Minh Phạm Xuân Kế về tình hình liên quan. Trước hết ông cho biết phản ứng của các linh mục thuộc Hạt Đông Tháp về tình trạng những nhóm cờ đỏ gây hấn:

Linh mục Đa Minh Phạm Xuân Kế: Các cha trong Hạt nói cần họp lại để có biện pháp gì đó chứ không thể để họ lấn lướt như thế được. Tôi nói rằng giáo dân Đông Triều ít. Xã Diễn Mỹ có 7 ngàn dân mà giáo dân chỉ có 700 mà lại không phải ở theo nhóm mà ở cách nhau. Mấy gia đình ở cách giáo xứ chỉ có 1 cây số thì hơn hai tháng rồi bị họ phá tan nát tài sản. Thậm chí Tượng Chúa bị đập bể, tượng Đức Mẹ bị bắn thủng mặt. Rồi sau đó một gia đình bị phá phách, đập tượng Thánh Giuse, một gia đình bán quán cà phê bị đập phá.

Theo tôi nghĩ nếu cả hạt đến ‘làm thế này, thế khác’ thì chỉ được một lần đó thôi; khi mình về họ sẽ trả thù. Ngay cả chuyện sau khi các cha trong hạt làm đơn tố cáo, họ lại kéo ‘xã hội đen’ đến phá phách các gia đình ở đó. Nên tôi bảo các cha cứ xem họ làm như thế nào đã, trước mắt chờ lặng lại chứ kéo xuống thì sợ hậu quả để lại khiến Xứ Đồng Kiều vất vả.

Bây giờ làm việc với chính quyền huyện, xã tôi không còn tin nữa.

Chân Như: Linh mục có thể cho biết ông đã về phục vụ tại giáo phận Vinh bao lâu rồi? Và trong thực tế từng xảy ra những vụ việc tương tự bao giờ chưa?

Linh mục Đa Minh Phạm Xuân Kế: Tôi về đây được gần 6 năm rồi, từ đó đến nay cũng bình thường tôi. Vừa qua mới thành lập giáo xứ Đông Kiều và cha Ngự về quản xứ ở đó. Và từ việc xây một cái nhà trên đất nông nghiệp. Họ biết và tức tối lắm nhưng không làm gì. Sau này mới xảy ra chuyện cắm cờ và cái cổng chào giữa lương- giáo. Phía giáo xứ chưa kịp hạ xuống thì phía bên lương họ hạ xuống để căng băn-rôn ngày 2 tháng 9. Và chuyện cái cổng chào chỉ qua là ‘giọt nước tràn ly’ đối với chuyện cái nhà (xây trên đất nông nghiệp) thôi.

Chân Như: Theo linh mục có phải sau khi xảy ra những vụ biểu tình phản đối nhà máy Formosa gây thảm họa môi trường thì tình trạng những người tự xưng ‘cờ đỏ’ xuất hiện mạnh mẽ hơn?

Linh mục Đa Minh Phạm Xuân Kế: Theo tôi nghĩ, vụ việc Formosa đã đành, nhưng họ thấy tình hình chính trị và muốn bảo vệ chế độ độc đảng nên họ lên mặt đàn áp một số nơi như vậy. Tuy nhiên chỉ có thể đàn áp một số nơi ít thôi, chứ những nơi đông thì họ không dám.

Thì cũng có chuyện Formosa nên họ ‘tức’ sang những chuyện khác. Theo tôi nghị họ muốn bảo vệ chế độ mà họ muốn làm bằng được. Ngay cả ngày hôm kia, cả một đội cờ đỏ cả từ ở Hà Nội vào về tập trung dưới Văn Thai, Diễn Hải làm những ‘trò’ rất mất lịch sự, ‘vô học’.

Chân Như: Linh mục nhận định về tác động của tình trạng các nhóm cờ đỏ đối với tình hình an ninh- trật tự tại những nơi mà số này xuất hiện ra sao?

Linh mục Đa Minh Phạm Xuân Kế: Nói thật sống trong chế độ này đến bây giờ tôi không thể tin được vì tôi về đây mấy năm sống rất đoàn kết lương giáo và với tinh thần đối thoại. Gần đây ngay tại xã Diễn Hồng này có miếng đất của Nhà Thờ mà giáo dân hiến cách đây hơn 60 năm rồi. Miếng đất rộng hơn 1 ngàn mét vuông thôi; mà mới đây xã họ mới giải quyết chỉ vì nể thôi.

Cách đây mấy hôm tôi lên huyện và nói với chính quyền là các ông hãy làm thế nào để chúng tôi tin. Chứ hình như chính quyền đến với chúng tôi là xã giao để làm việc thôi chứ không chân tình. Hôm trước các vị nói với chúng tôi khác; nhưng sau đó các vị làm khác.

Chân Như: Vậy theo linh mục cần tạo điều kiện gì để không xảy ra tình trạng chia rẽ ‘lương- giáo’ tại địa phương như hiện nay?

Linh mục Phạm Xuân Kế: Bây giờ để hai bên hòa hợp nhau hai bên phải chân tình, chính quyền phải tạo điều kiện cho những sinh hoạt, nhu cầu của bên giáo hội.

Đối với Công giáo họ tìm cách chèn ép, đàn áp. Bây giờ tôi không tin được nữa bởi vì qua bao lần gặp gỡ, bề ngoài họ rất thân thiện; nhưng sau gặp gỡ thì không phải như vậy. Như sau khi xảy ra vụ Đông Kiều, họ nói phải điều 30-40 công an đến để giữ trật tự; nhưng rồi tài sản của công dân vẫn bị phá phách. Mà công an giỏi lắm mà, một ‘con kiến’ vào trong huyện này công an vẫn biết, mà sao những người đến đập phá mà được để ‘tung hoành’ như thế buộc lòng chúng tôi phải suy nghĩ, đặt câu hỏi ‘có sự dàn dựng, chống lưng’ của chính quyền.

Chân Như: Chân thành cám ơn linh mục.

LỄ HỘI THÁNH NHÂN VÀ LỄ HỘI MA QUỶ

LỄ HỘI THÁNH NHÂN VÀ LỄ HỘI MA QUỶ

Theo báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật (số 30-10-2011), từ khoảng mươi năm nay, lễ hội Halloween được du nhập vào Việt Nam.  Đây là lễ hội ở các nước phương Tây, được tổ chức hằng năm vào ngày 31-10.  Sau đó, nhà báo giới thiệu những hình thức lễ hội Halloween ở một số địa điểm tại Sàigòn.

Nhắc đến ngày 31-10 là ngày hội Halloween, nhưng không nói gì đến ngày 1-11 vì không biết mối liên hệ giữa hai ngày này.  Ở nguồn gốc, ngày này được gọi là All Hallows’ Eve, nghĩa là buổi chiều áp lễ Các Thánh.  Kể từ thời Đức Grêgôriô III (năm 741), Lễ Các Thánh được cử hành vào ngày 1-11 hằng năm, là ngày ngài thánh hiến một nhà nguyện trong Đền Thánh Phêrô để tôn vinh toàn thể Các Thánh.  Rồi sau đó, Đức Grêgôriô IV (năm 835) truyền lệnh cử hành lễ này trong toàn thể Giáo Hội.  Nhưng thuở xa xưa, lễ này được cử hành vào Thứ Sáu sau lễ Phục sinh để làm nổi bật sự chiến thắng của Chúa Kitô trên tâm hồn của biết bao người, cụ thể là các thánh.  Chúa Kitô đã chiến thắng sự chết và Người cũng chiến thắng ma quỷ qua việc chinh phục các tâm hồn.  Dù sau này, ngày cử hành lễ đã được thay đổi nhưng ý nghĩa chính yếu trên vẫn được giữ lại.

Các tín hữu thời xưa tin rằng vào ngày áp lễ Các Thánh 1-11, trái đất rung chuyển, đất đai nứt nẻ và ma quỷ từ địa ngục chui lên với nỗ lực cuối cùng nhằm lôi kéo các linh hồn về với nó.  Thế nên vào buổi chiều áp lễ Các Thánh, họ túa ra ngoài đường, mặc những trang phục kinh dị như ma quỷ, đồng thời miệng hô vang Danh Chúa Giêsu và khua chiêng gõ mõ để xua đuổi ma quỷ, đuổi chúng về địa ngục.  All Hallows’ Eve là thế.

Rất tiếc là ngày nay, ý nghĩa tôn giáo đó đã phai mờ, nếu không nói là biến mất, để chỉ còn là lễ hội Halloween mang tính giải trí thuần túy, tệ hơn nữa còn thành dịp ăn chơi đàng điếm.  Thay vì xua đuổi ma quỷ đi thì lại rước nó vào nhà mình, vào linh hồn mình.  Thế nên đã có những Giáo Hội phản ứng mạnh mẽ trước tình trạng này, cụ thể là Hội Đồng Giám Mục Philippines mới đây lên tiếng cảnh giác các tín hữu và gọi lễ hội Halloween là lễ hội phản Kitô.


Nhắc lại nguồn gốc ngày lễ như thế để thấy rõ hơn xu hướng tục hóa trong thời hiện đại, tước đoạt nội dung tôn giáo và thay vào đó bằng nội dung phản tôn giáo.  Đừng tưởng rằng xu hướng tục hóa chỉ diễn ra ở phương Tây!  Tiến trình tục hóa cũng đang diễn ra ngay tại Việt Nam, nhất là khi cái hay thì ít học mà cái dở lại tiếp thu rất nhanh.  Người ngoài công giáo không biết đã đành, nhưng đáng tiếc là cả người công giáo cũng không biết và cứ thế mà làm, người ta làm sao thì mình làm vậy, thay vì giúp người khác thấy được vẻ đẹp của Tin Mừng, thì lại thành kẻ tiếp tay để giết chết Tin Mừng!

Nhắc lại nguồn gốc của ngày lễ như thế còn để nhắc nhở nhau sống tinh thần lễ Các Thánh, tinh thần có thể tóm gọn trong lời kêu gọi nổi tiếng của Đức Chân phước Gioan Phaolô II: “Đừng sợ, hãy mở rộng cửa đón Chúa Kitô.”  Cách cụ thể, hãy mang trong lòng mình những tâm tư của Đức Kitô Giêsu: tâm tư hiền lành và khiêm nhường, thương xót và tha thứ, dấn thân và phục vụ.  Chính vì thế, bài Tin Mừng được công bố trong ngày lễ Các Thánh là Tin Mừng về Tám Mối Phúc Thật:

“Phúc thay những ai có tinh thần nghèo khó vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Phúc thay ai sầu khổ vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc thay ai khát khao nên người công chính vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng.
Phúc thay ai xót thương người vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Phúc thay ai xây dựng hòa bình vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc thay ai bị bách hại vì lẽ công chính vì Nước Trời là của họ” (5,3-11).


Mang lấy tâm tư của Đức Kitô Giêsu giữa lòng thời đại hôm nay quả là không dễ, vì thời đại này cổ võ lối nghĩ và lối sống hầu như hoàn toàn ngược lại Tin Mừng.  Sách Khải Huyền (bài đọc II) diễn tả thực tế này bằng hình ảnh vừa bi hùng vừa sống động: “Những người mặc áo trắng kia là ai vậy?  Họ từ đâu đến?  Tôi trả lời: Thưa Ngài, Ngài biết đó.  Vị ấy bảo tôi: Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao.  Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7,13-14).

Áo chỉ được trắng sạch khi được giặt bằng máu!  Thật lạ thường.  Nhưng sự thật là thế.  Phải chấp nhận cộng tác với tác động thánh hóa của Chúa Thánh Thần, giặt tấm áo cuộc đời bằng máu của hi sinh từ bỏ, chiến đấu chống trả cám dỗ, gian nan tập luyện các nhân đức.  Đó là tín thư mà lễ Các Thánh gửi đến tất cả chúng ta, những người cũng được gọi là “thánh” vì đã được thanh tẩy trong Đức Kitô, nhưng còn phải thể hiện tiềm năng thánh thiện ấy bằng chính cuộc sống của mình.  Để có thể hòa chung với Các Thánh trong lời chúc tụng:

“AMEN! Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta
Lời chúc tụng và vinh quang,
Sự khôn ngoan và lời tạ ơn,
Danh dự, uy quyền và sức mạnh,
Đến muôn thuở muôn đời. AMEN!” (Kh 7,12)

Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm

“Hội cờ đỏ”, nước cờ nham hiểm của đảng cộng sản

“Hội cờ đỏ”, nước cờ nham hiểm của đảng cộng sản

 

Hải Âu (Danlambao)Dưới chế độ cai trị độc tài của đảng cộng sản, không một nhóm, hội hay tổ chức xã hội dân sự độc lập nào được phép công khai thành lập và hoạt động. Mặc dù hầu hết các nhóm, hội, tổ chức xã hội dân sự đều đặt mục tiêu xây dựng một xã hội, một đất nước nhân quyền và phát triển. Những mục tiêu, lý tưởng cao cả ấy được cổ suý bằng tinh thần yêu nước và hoạt động trong phương châm bất bạo động. Nhưng điều đó lại khai sáng tri thức cho người dân cũng như phơi bày sự tàn độc của một chế độ thối nát. Vì thế đảng cộng sản luôn xem tất cả các tổ chức, nhóm, hội có tiếng nói bất đồng chính kiến với tư tưởng cộng sản là những tổ chức phản động. Từ đó cộng sản luôn ra sức trấn áp nhằm triệt hạ các nhóm, hội, tổ chức này bằng những thủ đoạn đê tiện.

Thế nhưng “hội cờ đỏ”, một liên minh khủng bố mới vừa công khai ra mắt trong sự bảo kê của những kẻ cầm quyền cộng sản. Đây là một tổ chức qui tụ thành phần nam, nữ, già, trẻ có tư duy cuồng đảng, cuồng Hồ. Chúng tự đặt cho mình trách nhiệm “bảo vệ tổ quốc” bằng những đợt bạo loạn, tấn công khủng bố những nhà hoạt động dân chủ, những vị chức sắc và giáo dân Công Giáo.

Kể từ tháng 4/2017, hội cờ đỏ đã nhiều lần khủng bố tinh thần các linh mục và bà con giáo dân tại nhiều giáo xứ thuộc giáo phận Vinh. Chúng tấn công giáo xứ Văn Thai, giáo xứ Đông Kiều, giáo xứ Song Ngọc. Chúng hung hãn đánh đập nhiều giáo dân gây thương tích nặng và đập phá tài sản cùng nhiều ảnh tượng Chúa, Đức Mẹ của người Công Giáo. Những việc làm của chúng đều được người dân ghi lại hình ảnh bằng camera an ninh. Thế nhưng trước những dữ liệu được người dân cung cấp cho phía côn an nhưng thành viên hội cờ đỏ không hề mất một sợi tóc trên đầu. Bởi lẽ chúng được sự bảo kê ngầm của nhà cầm quyền cộng sản.

Sau những “chiến tích” trên, công cuộc “bảo vệ an ninh tổ quốc” bằng bạo lực và sự tàn độc của những tên cuồng đảng cuồng Hồ đã nhận được sự “khích lệ” âm thầm của những kẻ cầm quyền trong đảng. Vì thế ngày 29/10/2017, “hội cờ đỏ” đã chính thức ra mắt với hơn 700 thành viên tại buổi giao lưu được tổ chức tại xóm 8 xã Sơn Hải, cách nhà thờ giáo họ Văn Thai khoảng 30 mét. Đây được xem là buổi phô trương thanh thế của một tổ chức ô hợp nhằm thách thức và khủng bố linh mục, giáo dân giáo họ Văn Thai nói riêng và giáo xứ Song Ngọc nói chung.

Hội cờ đỏ nổi lên sau vụ việc Phan Sơn Hùng cùng đồng bọn hành hung mấy người phụ nữ tại quận 2 thành Hồ. Tiếp đến là sự kiện một nhóm cờ đỏ hung hãn mang theo súng và hung khí xâm nhập nhà thờ Thọ Hoà, Đồng Nai để gây hấn với linh mục quản xứ tại đây. Nhưng điểm nóng mà chúng muốn “xử lý” chính là các giáo xứ thuộc giáo phận Vinh. Nơi đây bà con giáo dân đang vật lộn với thảm họa môi trường biển do Formosa và đảng cộng sản gây ra tại 4 tỉnh miền Trung.

Rất có thể sắp tới đây, giáo dân và các vị chức sắc Công Giáo tại giáo phận Vinh sẽ gặp nhiều bất trắc trước sự hung tàn của đám người ô hợp trong cái gọi là hội cờ đỏ. Máu có thể rơi, mạng có thể mất nhưng niềm tin vào Công Lý và Sự Thật của linh mục, giáo dân nơi đây sẽ chẳng bao giờ suy tàn. Đó chính là sức mạnh, là vũ khí để chống lại bạo tàn của cộng sản và để Hoà Bình ngự trị trên quê hương Việt nam.

Không cần nói thì ai cũng biết kẻ chủ mưu đứng sau liên minh “hội cờ đỏ” chính là đảng cộng sản. Nhưng vì sao một thể chế cộng sản với khí giới và quyền lực trong tay lại sử dụng những tên ô hợp như Trần Nhật Quang, Nguyễn Trọng Nghĩa, Lê Quỳnh Hoan, Phan Sơn Hùng…Câu trả lời thật ra rất đơn giản khi tính “chính danh” của cộng sản không cho phép sử dụng bạo lực trấn áp những người giáo dân hiền lành. Lại càng không thể dùng bạo lực một cách chính qui để trấn áp những nhà hoạt động xã hội bất bạo động. Vì thế việc sử dụng thành phần ô hợp trong “hội cờ đỏ” là một chính sách ném đá giấu tay của cộng sản với mục đích khủng bố những tiếng nói bất đồng.

Điểm nữa là vấn nạn tham nhũng và những cuộc chiến quyền lực trong đảng cộng sản đang gây ra sự khủng hoảng ngân sách trầm trọng. Vì vậy việc sử dụng những kẻ ngu muội trong “hội cờ đỏ” sẽ giúp cộng sản giảm chi phí đáng kể so với lực lượng chính qui. Cộng sản chỉ cần ban phát cho chúng chút danh tiếng cùng vài khoản chi phí cho việc tụ tập là có thể khiến chúng lên đồng đánh đập, hủy hoại tài sản của giáo dân, giáo xứ mà chúng xem là thành phần “phản động”.

Khi cộng sản sử dụng “hội cờ đỏ” khủng bố, tấn công trấn áp các vị linh mục và giáo dân công giáo, điều đó đồng nghĩa với việc bàn tay của những kẻ cầm quyền sẽ không vấy máu nhân dân. Cộng sản phủi tay bằng cách dùng dân đánh dân càng minh chứng cho sự thâm độc, tàn ác của những kẻ cầm quyền. Tuy nhiên âm mưu nham hiểm của đảng cộng sản sớm muộn sẽ vấp phải những tác hại cực kỳ nghiêm trọng. Một con dao hai lưỡi có thể gây tổn thương cho chính đảng cộng sản và “hội cờ đỏ”.

Những tên tham gia “hội cờ đỏ” chắc chắn là những kẻ “đáng thương” nhất trong một xã hội bị cộng sản tuyên truyền bằng sự gian dối. Một ngày nào đó, chính cộng sản sẽ triệt hạ chúng vì đối với cộng sản, ngoài đảng mafia đỏ thì không thể có một tổ chức nào được phép tồn tại. Dù cho tổ chức đó được tạo ra từ những thủ đoạn nham hiểm của cộng sản. Và một ngày nào đó khi cộng sản sụp đổ thì người dân sẽ truy tìm những tên trong “hội cờ đỏ” khát máu cuồng cộng, cuồng hồ để thanh toán. Bài học “hồng vệ binh” từ người bạn vàng Trung cộng vẫn còn đó để những kẻ trong “hội cờ đỏ” rút ra cái nhìn đúng đắn trước khi quá muộn.

31/10/2017

Hải Âu

danlambaovn.blogspot.com

Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền quốc gia Việt Nam.

From facebook: ed Phan Thị Hồng‘s post

Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền quốc gia Việt Nam.

Người Pháp có đầy đủ sử liệu để chứng minh các đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Bởi chính những hòn đảo này là thuộc địa của Pháp trong giai đoạn lịch sử Pháp bảo hộ Việt Nam, cho đến năm 1956, chính phủ Pháp trao trả những hòn đảo HS và TS cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.

 
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
Phan Thị Hồng added 2 new photos — with Hoang Le Thanh and Đào Nguyên.

Cảm ơn nước Pháp đã lên tiếng với lịch sử Việt Nam!

Menras André

1) Tại sao đại đa số chuyên gia quá thông thái được mời ăn bánh, uống rượu vang và được lấy tiền luận văn (thuyết trình) từ cuộc hội thảo này đến cuộc hội thảo khác không bao giờ nói rõ:

– Quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc chiếm bằng vũ lực từ đầu tháng giêng năm 1974?

2) Tại sao họ không nói rõ Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa lúc đó, là của VN hiện nay.

3) Tại sao họ không dám nói rằng kẻ tội phạm quốc tế TQ phải trả lại cho VN các quần đảo và vùng biển đã cướp lúc ấy?

Xin trả lời:

– Vì họ chuyên nghiệp về nghề làm trung gian giữa con dê cái và cái bắp cải, … để con dê tiếp tục gặm cái bắp cải thoải mái và an toàn, và từ đó, họ vắt chút ít sữa của con dê. Tội nghiệp cái bắp cải.

Với tư cách nước Pháp là nước bảo hộ, họ có đủ cơ sở lịch sử và pháp lý để ủng hộ phía VN trong cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền.

Đó là trách nhiệm và cái NỢ LỊCH SỬ của nước Pháp đối với dân tộc Việt Nam và công lý. Dù thái dộ của lãnh đạo VN đối với TQ lơ mơ hay rõ ràng đến mức nào. Đó phải là niềm tự hào của nhân dân Pháp !

Và, nếu nói về hiện tại, chính quyền Pháp, bất chấp cái màu chánh trị của họ (nhà cai trị Việt Nam), phải hình dung:

[ Vài năm nữa, coi thường phán quyết của Tòa Trọng tài Quốc tế về cái “đường lưỡi bò”, “Mao Tập” sẽ đòi vé phép (giấy phép thông thương) từ bất cứ quốc gia nào muốn đi qua biển Đông Nam Á ].

Hãy đừng quên các hậu quả của Hiệp ước München năm 1938 với Hitler!

Hèn = Nhục + Chiến tranh.

Theo: Menras André

*

Ảnh 1: Bản đồ Nam Việt, Cochinchine Francaise, thời Pháp thuộc.
Ảnh 2: Trường Sa, các nước tranh chấp chủ quyền đảo, đá (nổi, chìm).

Mời các bạn xem thêm chi tiếc:
Pháp có nhiều lý do để quan tâm xung đột Biển Đông.

https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=543489085990464&id=100009881313541

Cùng suy gẫm

Cùng suy gẫm
Khi con chim còn sống, nó ăn kiến.

Khi chim chết, kiến ăn nó.

Thời gian và hoàn cảnh có thể thay đổi bất cứ lúc nào,

Vì vậy, đừng nhục mạ, đừng làm khổ bất cứ ai trong đời sống này.

Bạn có thế đầy quyền lực ngày hôm nay,

Nhưng đừng quên rằng,

Thời gian còn nhiều quyền lực hơn bạn.

Một cây có thể làm được hàng triệu que diêm,

Nhưng một que diêm cũng có thể thiêu hủy được hàng triệu cây.

Hãy là người tốt và làm những điều tốt.

Thử nghĩ mà xem,

Thượng Đế cấu tạo cơ thể con người một cách rất hợp lý,

Nhưng sao chúng ta lại không xử dụng nó theo đúng ý của Ngài:

1- Ngài đặt hai mắt chúng ta ở đằng trước, vì Ngài muốn chúng ta luôn hướng tới phía trước, chứ không phải để chúng ta cứ ngoái nhìn về những sự việc ở phía sau.

2- Ngài đặt hai tai chúng ta ở hai bên là để chúng ta nghe từ hai phía, cả lời khen lẫn tiếng chê, chứ không phải để chúng ta chỉ nghe từ một phía hoặc chỉ để nghe những lời tâng bốc êm tai.

3- Ngài tạo cho chúng ta chỉ một cái miệng và một cái lưỡi mềm mại, vì Ngài muốn chúng ta nói ít nghe nhiều và chỉ nói những lời khôn ngoan, chứ không phải để chúng ta nói nhiều hơn nghe và nói những lời sâu hiểm làm tổn thương người khác.

4- Ngài đặt bộ não chúng ta trong một hộp sọ vững chãi, vì Ngài muốn chúng ta nên tích lũy tri thức, những thứ chẳng ai có thể lấy đi, chứ không phải chỉ chăm lo tích lũy những của cải bên ngoài, những thứ dễ dàng bị mất mát.

5- Ngài đặt trái tim chúng ta nằm trong lồng ngực, vì Ngài muốn những tình cảm yêu thương giữa những con người phải được xuất phát và lưu giữ tận nơi sâu thẳm trong cõi lòng, chứ không phải ở một nơi hời hợt bên ngoài.

From Do Tan Hung và chị Kim Bằng gởi

Tạp chí Bách Khoa được ‘số hóa’ toàn bộ

Tạp chí Bách Khoa được ‘số hóa’ toàn bộ


CD toàn bộ tạp chí Bách Khoa đã được 'số hóa'

CD toàn bộ tạp chí Bách Khoa đã được ‘số hóa’

Phạm Phú Minh

Thời trước 1975 ở miền Nam báo chí tư nhân rất phong phú, nhất là từ sau năm 1963 thì nhật báo và các tạp chí xuất hiện rất nhiều. Nhưng những ai theo dõi tình hình báo chí cả hai thời kỳ Đệ nhất và Đệ nhị Cộng Hòa thì đều thấy tờ báo tồn tại lâu dài nhất của miền Nam Việt Nam chính là tờ bán nguyệt san BÁCH KHOA : số 1 ra đời vào ngày 15 tháng 01 năm 1957, số cuối cùng 426 ra ngày 19 tháng 4 năm 1975.

Hôm nay chúng tôi xin loan báo một tin vui, là sau nhiều năm cố gắng, một nhóm bạn bè của báo mạng Diễn Đàn Thế Kỷ đã sưu tầm đầy đủ toàn bộ báo Bách Khoa, chỉnh đốn lại để thành một bộ báo số hóa có thể phổ biến cho mọi người. Chúng ta đều biết sau biến cố năm 1975, tất cả sách vở báo chí của miền Nam đều là mục tiêu thiêu hủy của bên phía cộng sản thắng cuộc, nên dù trước kia các thư viện của Việt Nam Cộng Hòa đều có hầu như đầy đủ các loại sách báo của cả nước, chỉ một thời gian sau đều trở thành tan tác, rỗng tuếch để thay thế vào đó là các sách báo của phe cộng sản. Ngay các tủ sách gia đình của dân chúng miền Nam cũng luôn luôn bị đe dọa hoặc bị trực tiếp tịch thu đốt phá, bất kể là loại sách báo gì.

Việc chúng tôi nghĩ nên làm ngay sau khi hoàn tất việc sưu tầm là đến thăm ông Huỳnh Văn Lang, Chủ Nhiệm Sáng Lập tạp chí Bách Khoa để kính tặng ông đĩa DVD chứa đựng toàn bộ 426 số báo đã được điện tử hóa. Chiều ngày 16 tháng 10, 2017 vừa qua anh Trần Huy Bích và tôi đã tới thăm ông Huỳnh Văn Lang tại nhà ông trong thành phố Westminster Nam California, rất mừng thấy ông tuy đã ở tuổi 96, vẫn tương đối mạnh khỏe, nhất là tinh thần còn rất sáng suốt.

Ông đã rất vui và cảm động nhận đĩa DVD chứa toàn bộ báo Bách Khoa do chúng tôi tặng, và nói : “Với công trình tìm tòi và lưu giữ như thế này, tạp chí Bách Khoa sẽ an toàn tồn tại nhiều trăm năm về sau”. Và chúng tôi đã được vị sáng lập tờ Bách Khoa kể lại không biết bao nhiêu là “chuyện xưa tích cũ”, thời gian từ Mỹ mới về nước để giúp ông Ngô Đình Diệm xây dựng chính quyền, những ngày đám chuyên viên trẻ tuổi còn “ngủ ghế bố” trong dinh Gia Long cho đến khi Thủ Tướng dời vào dinh Độc Lập. Mỗi câu chuyện như thế đối với tôi là một mảng lịch sử, qua giọng kể Nam Kỳ hấp dẫn và chân thành của ông. Thú vị nhất là ý tưởng lập hệ thống các trường Bách Khoa Bình Dân, rồi hội Văn Hóa Bình Dân để sau cùng là tạp chí Bách Khoa chào đời.

Ông Huỳnh Văn Lang (bên phải), với DVD Bách Khoa trên tay, đang trò chuyện với Phạm Phú Minh. (Ảnh: Trần Huy Bích)

Ông Huỳnh Văn Lang (bên phải), với DVD Bách Khoa trên tay, đang trò chuyện với Phạm Phú Minh. (Ảnh: Trần Huy Bích)

Ông Huỳnh Văn Lang là người sáng lập, là Chủ nhiệm kiêm Chủ bút của Bách Khoa từ số ra mắt cho đến cuộc đảo chánh 1963 chấm dứt Đệ Nhất Cộng Hòa. Ông nói : “Ngay khi quyết định ra báo, 30 thành viên của hội Nghiên cứu Kinh tế Tài chánh mà tôi đứng đầu mỗi người góp 1000 đồng (trừ một vị chỉ góp 500) để làm vốn. Hồi đó 30,000 đồng là một số tiền lớn, nhưng khi bắt tay làm báo thì tiền in nó ngốn mau lắm, tôi phải xoay xở liên tục cho đến khi tờ báo ổn định…”

Qua buổi gặp gỡ và trò chuyện với ông Huỳnh Văn Lang, tôi hình dung ra hoạt động của một nhóm trí thức trẻ cách đây 60 năm, đồng lòng xắn tay áo lao vào những công việc cụ thể, trong buổi bình minh của một vận hội mới mẻ cho vùng phía Nam của đất nước.

***

Cho tới nay, Bách Khoa là tờ báo tư nhân sống lâu nhất trong lịch sử báo chí Việt Nam. Tờ sống lâu thứ nhì là tạp chí Nam Phong của học giả Phạm Quỳnh, ra đời vào tháng Bảy năm 1917, đình bản ở số 210, ngày 10 tháng Mười Hai năm 1934. Trên Nam Phong số cuối này có dòng chữ Năm thứ mười tám, nhưng đó là chỉ mới bước vào năm thứ 18 thôi, trong thực tế Nam Phong thọ 17 năm 5 tháng. Trong khi đó báo Bách Khoa xuất bản từ tháng 1 năm 1957, tính tới tháng 1 năm 1975 là đủ 18 tuổi, tới hết tháng 4-1975 nó được 18 năm 3 tháng. Đó là chưa kể số lượng các số báo, Bách Khoa xuất bản 426 số; Nam Phong tổng cộng 210 số, chỉ bằng một nửa. Dễ hiểu, Nam Phong là nguyệt san (mỗi tháng ra một số), Bách Khoa là bán nguyệt san (mỗi tháng ra hai số).

Do đời sống lâu dài của nó suốt gần 20 năm cộng với nội dung mà nó mang lại, Bách Khoa có thể coi là cái xương sống tinh thần của miền Nam từ khi đất nước chia cắt 1954 cho đến 1975. Cho đến nay, các bài viết về báo Bách Khoa trong và ngoài Việt Nam đã khá nhiều, từ các hồi ức của những người trực tiếp góp phần xây dựng tờ báo đến những nhà nghiên cứu về sau, chúng tôi chỉ xin tóm tắt một ít điểm chính để giới thiệu một cách tổng quát Bách Khoa với độc giả.

Bách Khoa do ai sáng lập? Dưới đây là hình bìa trước và bìa sau của số đầu tiên. Ở bìa sau chúng ta thấy danh tính những người tạo ra nó:

Chủ nhiệm sáng lập là Huỳnh Văn Lang, “hợp tác cùng các bạn” gồm ba mươi người liệt kê ngay bên dưới. Tập thể này là những chuyên viên của Hội Kinh tế/ Tài chánh thành lập từ 1955, đứng đầu là ông Huỳnh Văn Lang. Họ là những người hầu hết còn trẻ tuổi vào thời điểm đó, một số du học ngoại quốc mới về nước, tham gia chính quyền miền Nam với lý tưởng xây dựng một quốc gia Việt Nam tự do và phú cường. Sinh hoạt của Hội là họp mỗi hai tuần một lần, thảo luận về những vấn đề kinh tế tài chánh Việt Nam đang phải giải quyết. Sau một thời gian hoạt động nhóm chuyên viên này nhận thấy cần phổ biến rộng rãi các nghiên cứu của họ, nên đã quyết định tổ chức một tờ báo như là một “diễn đàn chung của tất cả những người tha thiết đến các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”: tờ BÁCH KHOA ra đời.

Số đầu tiên ra mắt ngày 15 tháng 01 năm 1957 và những số kế tiếp các bài nòng cốt là của các cây bút “cơ hữu” như Huỳnh Văn Lang, Phạm Ngọc Thảo, Hoàng Minh Tuynh, Nguiễn-Ngu-Í… Các cây bút có tên tuổi dần dần tham gia ngày một đông : Nguyễn Hiến Lê xuất hiện vào số 4, Mặc Thu, Vi Huyền Đắc số 5, Võ Phiến số 7, Bùi Giáng số 8…

Trong cuốn Hồi Ký của mình xuất bản sau 1975, học giả Nguyễn Hiến Lê, người bắt đầu viết cho Bách Khoa từ cuối tháng 2 năm 1957 và “dính” luôn với Bách Khoa cho đến số cuối ra ngày 19 tháng 4 năm 1975, đã viết:

Trong lịch sử báo chí nước nhà, tờ Bách Khoa có địa vị đặc biệt. Không nhận trợ cấp của chính quyền mà sống được mười tám năm từ 1957 đến 1975, bằng tờ Nam Phong, có uy tín, tập hợp được nhiều cây bút giá trị như Nam Phong, trước sau các cộng tác viên được khoảng một trăm.”

Nhà văn Võ Phiến, người cũng đã gắn bó với Bách Khoa suốt 18 năm, với các sáng tác truyện ngắn, truyện dài, tùy bút, tạp luận, ngoài ra ngày càng viết nhiều mục với các bút hiệu khác nhau như Tràng Thiên, Thu Thủy. Ông tuy không phải là người làm việc trực tiếp trong tòa soạn Bách Khoa nhưng có thể coi như là người quan trọng tạo nên linh hồn của tờ báo. Ông kể :

“Thoạt tiên là tờ báo của hai nhân vật trong chính quyền: các ông Huỳnh Văn Lang và Hoàng Minh Tuynh. Về sau các ông này rút lui ra khỏi chính quyền, rồi tờ Bách Khoa cũng dần dần chuyển về ông Lê Ngộ Châu.

Các ông Huỳnh và Hoàng là những chuyên viên trong giới ngân hàng, rồi ngay ông Lê cũng không phải là một văn gia, ấy vậy mà Bách Khoa phải kể là một trong những tờ báo thành công nhất ở miền Nam trong ngót hai mươi năm. Đó là chỗ lý thú trong tình hình sinh hoạt của thời kỳ văn học này.”

(Văn Học Miền Nam – tổng quan, Võ Phiến, trang 238)

Đoạn này nhà văn Võ Phiến hình như cố tình viết không rõ về hai sự kiện ông Huỳnh Văn Lang và Hoàng Minh Tuynh “rút lui ra khỏi chính quyền” và việc “tờ Bách Khoa cũng dần dần chuyển về ông Lê Ngộ Châu”. Xem lại quyển Ký Ức Huỳnh Văn Lang (tập 1) do tác giả xuất bản năm 2011, có đoạn viết :

Sau 6 tháng hoạt động, 30 thành viên toàn là chuyên môn quyết định, mỗi người bỏ ra 1000 đồng (trừ ra một GS chỉ chịu hùn 500 đồng thôi, vì xem như là bố thí), để phổ biến những nghiên cứu của Hội trên một tạp chí.

Và Bách Khoa Tạp chí đã ra đời. Số 1 phát hành ngày 15 tháng 1 năm 1957, người viết kiêm chủ nhiệm và chủ bút cho đến năm 1963 phải giao cho anh thư ký tòa soạn Lê Ngộ Châu, vì bị chế độ ‘người lính cai trị’ bắt đi bắt lại ba bốn lần giam giữ sau trước gần ba năm.”

(Ký Ức Huỳnh Văn Lang tập 1, trang 624)

Sự kiện người Thư ký Toà soạn Lê Ngộ Châu được giao toàn quyền điều hành tiếp tục tờ Bách Khoa trong một biến cố bất ngờ như thế đã cho chúng ta hiểu rằng vị Thư ký Tòa soạn này đã thực sự đóng một vai trò rất tích cực đối với tờ báo từ nhiều năm tháng trước đó. Về tài làm báo cùng kiến thức, tính tình của ông Lê Ngộ Châu, xem lại hồi ức của nhiều nhà văn cộng tác, thấy ai cũng yêu mến và kính phục ông.

Ý kiến của Nguyễn Hiến Lê, người cộng tác với Bách Khoa từ 1957 đến 1975:

“Ông Châu làm việc rất siêng, đọc hết mọi bài nhận được, đăng hay không ông đều báo cho tác giả biết. (…) Tôi mến ông vì ông có tinh thần trách nhiệm, làm việc đàng hoàng, biết cương quyết giữ vững chủ trương cả khi báo suy, biết xét người, xét văn và có tình với người cộng tác: ai gặp nạn gì ông lại nhà thăm, tìm mọi cách giúp đỡ; nhất là sau vụ Mậu Thân, ông rất băn khoăn lo lắng về các anh em bị kẹt trong vòng máu lửa.”

(Trích từ “Đời viết văn của tôi” của Nguyễn Hiến Lê)

Nhà phê bình văn học Đặng Tiến, trong bài viết tưởng niệm khi nghe tin ông Lê Ngộ Châu qua đời (vào ngày 24 tháng 9 năm 2006), có đoạn đánh giá Lê Châu -như cách gọi của anh em văn nghệ- như sau:

“Nhờ đức tính kín đáo, hòa nhã, Lê Châu đã tập hợp không những trên mặt báo nhiều khuôn mặt khác biệt, thậm chí trái ngược về hoàn cảnh, tính tình lẫn chính kiến, mà còn quy nạp được nhiều bè bạn đến từ những chân trời khác nhau, trong đời sống cụ thể hằng ngày. Chưa kể những tác giả sinh sống ở ngoài nước thường xuyên gửi bài về cộng tác.

Lê Châu kiến thức rộng, thường xuyên giao tiếp với quan chức hay các nhà văn hóa danh vọng, nhưng luôn luôn từ tốn, trong cách ứng xử hàng ngày, với những người viết trẻ tuổi. Ông đặc biệt lưu tâm đến những người viết mới, viết từ các tỉnh nhỏ, đặc biệt là từ Miền Trung. Bách Khoa là một tờ báo phổ thông, chủ tâm vào những đề tài chính trị, quốc tế, kinh tế, khoa học, chỉ dành một phần cho văn học nghệ thuật, nhưng về lâu về dài đã có những đóng góp lớn lao cho bộ môn văn nghệ. Về sau, phần văn nghệ này lại là khối tài liệu quý giá.

Lê Châu còn là gương sáng về đức khiêm tốn trí thức. Hai chữ Bách Khoa bình thường được dịch ra tiếng Pháp là Encyclopédie theo nghĩa từ điển bách khoa, hoặc tư trào Bách Khoa trong văn học Pháp thế kỷ XVIII ; nhưng Lê Châu không nhận từ này, cho rằng quá to tát so với tờ báo. Ông dịch Bách Khoa là Variétés, sát nghĩa là « tạp chí ». (…)

“Lê Châu là kẻ sĩ theo truyền thống, luôn luôn mực thước, trong nếp trung dung của cửa Khổng sân Trình và theo nếp mực thước, juste mesure của bực trí thức tân học. Trong đời sống, ông là người bảo thủ ; trên cương vị chủ báo, ngược lại, ông khuyến khích văn chương trẻ và tư tưởng mới, nhưng chừng mực thôi.”

(Tạp văn: Lê Ngộ Châu, 160 Phan Đình Phùng – Đặng Tiến)

Trong cuốn Văn Học Miền Nam tổng quan, nhà văn Võ Phiến đã ghi lại một nhận xét của nhà văn Nguyễn Hiến Lê mà chắc ông cũng đồng ý: “Tuy vậy kể là cây bút chủ yếu của Bách Khoa từ trước đến sau vẫn là hai người : Võ Phiến và Nguyễn Hiến Lê (xem Hồi ký Đời viết văn của tôi của Nguyễn Hiến Lê)”.

Học giả Nguyễn Hiến Lê (1912 - 22.12.1984).

Học giả Nguyễn Hiến Lê (1912 – 22.12.1984).

Thế nào là cây bút chủ yếu của một tờ báo? Có cần đó là Chủ bút hay Chủ nhiệm không? Có cần là Thư ký toà soạn không? Không cần, vì những chức vụ ấy có những trách nhiệm khác phải lo, không đương nhiên phải viết lách gì cả ngoài những lá thư nhắc nhở nọ kia về việc điều hành, đường lối. Vậy có phải là người viết thường xuyên trong một thời gian dài cho tờ báo ấy? Có thể đó cũng là một điều kiện, nhưng số lượng các bài viết cũng không đương nhiên khiến cho một tác giả trở nên một cây bút chủ yếu, vì không ai đếm số bài để định giá mức độ ảnh hưởng của một cây bút.

Theo chúng tôi, một cây bút gọi là chủ yếu của một tờ báo là một người thường xuyên, qua bài vở của mình, đem đến cho độc giả một ích lợi và ảnh hưởng tinh thần nhất định, được đa số độc giả biết giá trị và ham thích đón nhận. Hai vị Nguyễn Hiến Lê và Võ Phiến quả thật là những người như thế, có thể nói những đóng góp dài lâu của họ đã góp phần quan trọng tạo nên linh hồn của tờ báo.

Thứ nhất, về phương diện bài vở, hai vị là những người đóng góp dài hơi nhất. Như trên đã nói, Nguyễn Hiến Lê gửi bài đầu tiên cho Bách Khoa ở số 4, ra ngày 1 tháng 3 năm 1957; Võ Phiến số 7, ra ngày 15 tháng 4, 1957. Từ thời điểm ban đầu đó, hai vị liên tục tham dự xây dựng nội dung tờ báo cho đến số cuối cùng, ra ngày 19 tháng 4, 1975. Về số lượng bài vở đã đăng trên Bách Khoa trong suốt 18 năm thì chắc chắn hai ông chia nhau ngôi thứ một/hai, có thể Võ Phiến nhiều hơn Nguyễn Hiến Lê, vì không những đóng góp phần sáng tác phong phú gồm truyện ngắn, truyện dài, tùy bút, tạp bút…, ông còn viết các mục khác (Thời sự Văn nghệ, Thời sự Chính trị…) và dịch các tác giả Tây phương, dưới các bút danh Tràng Thiên, Thu Thủy.

Báo Bách Khoa tại 160 Phan Đình Phùng Sài Gòn càng về các năm sau càng biến thành một địa chỉ thân mật cho mọi người cộng tác, với tình thân như gia đình. Theo lời kể của bà Võ Phiến (vào tháng 10, 2017), năm 1960 khi Võ Phiến từ Qui Nhơn dời vào Sài Gòn để làm việc với bộ Thông Tin, chính Lê Ngộ Châu là người lo đi tìm nhà để thuê cho bạn, yểm trợ ngay các nhu cầu cần thiết cho một gia đình từ tỉnh mới về nơi đô thị. Các văn thi sĩ cộng tác đều coi báo quán là nơi gần gũi, tin cậy; những người đóng góp bài vở từ khắp mọi miền đất nước, khi có dịp về Sài Gòn đều ghé thăm Bách Khoa, như về một loại “nhà tinh thần” của mình.

Chính trong loại tình thân và tin cậy có tính chất đại gia đình ấy, những người như Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, với uy tín và năng lực của mình, đã biến thành những “cây bút chủ yếu” của tạp chí Bách Khoa. Trước sau họ vẫn chỉ là người “cộng tác” thôi, không bao giờ giữ một chức vụ nào của tổ chức tòa báo. Nhưng họ vẫn là những “cây bút chủ yếu” đúng nghĩa.

Lê Ngộ Châu (trái) gặp lại Võ Phiến trong chuyến đi Mỹ năm 1994.

Lê Ngộ Châu (trái) gặp lại Võ Phiến trong chuyến đi Mỹ năm 1994.

***

Trong số những người tham gia vào Bách Khoa sớm nhất, phải kể đến Nguiễn-Ngu-Í (1921-1979, tên thật Nguyễn Hữu Ngư, còn có các bút hiệu Trần Hồng Hừng, Tân-Fong-Hiệb, Ngê-Bá-Lí v.v…). Ông là người đã thực hiện nhiều cuộc phỏng vấn với giới viết lách, từ những nhà văn lớp trước như Nhất Linh, Đông Hồ, Lê Văn Trương, Đỗ Đức Thu, Nguyễn Vỹ… đến lớp sau như Bình Nguyên Lộc, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Võ Phiến, Nguyễn Văn Trung… Nhà văn Nguyễn Hiến Lê đã viết : “Ngu Í chuyên nghề phỏng vấn, từng trải, có nhiều nhiệt tâm, văn có duyên”. Các đề tài phỏng vấn của ông và câu trả lời của giới cầm bút thời ấy vẫn còn giá trị cho người nghiên cứu văn học ngày nay lẫn mai sau.

Nhà báo Nguiễn-Ngu-Í.

Nhà báo Nguiễn-Ngu-Í.

Ngoài tài phỏng vấn, Nguiễn-Ngu-Í cũng viết nhiều bài báo có giá trị, ví dụ bài Nhớ và Nghĩ về bài Quốc Ca Việt là một bài nghiên cứu tường tận về tác giả, trường hợp sáng tác, vai trò của bài hát đó trong xã hội từ năm 1942 trở về sau: đã được những ai đặt bao nhiêu nhan đề và lời ca, những ai đã sử dụng nó, với mục đích gì v.v… Thiết tưởng cộng đồng người Việt lưu vong vẫn dùng bản quốc ca Việt Nam Cộng Hòa trong bao nhiêu lễ lạc, biến cố của mình, cần hiểu biết rõ hơn về tiếng hát Này công dân ơi ! ấy qua bài nghiên cứu này.

Sau cùng, nên nói đến một vấn đề tế nhị liên quan đến tờ báo Bách Khoa, là tên gọi của nó qua những năm tháng thăng trầm. Chúng ta vẫn gọi chung tờ báo là Bách Khoa từ số đầu đến số cuối, nhưng cũng nên biết rằng để giữ được hai tiếng Bách Khoa vững chắc và thân yêu ấy, nó phải theo thời mà có những biệt danh đi kèm. Đây là những cái mốc cho những biến thiên ấy:

1. BÁCH KHOA : Số 1 (ngày 15-1-1957) đến số 193-194 (15-1-1965)

2. BÁCH KHOA THỜI ĐẠI : số 195 (15-2-1965) đến số 312 (1-1-1970)

3. trở lại tên BÁCH KHOA : số 313-314 (Xuân Canh Tuất) (15/1 và 1/2/1970) đến số 377 (15-9-1972)

4. ĐẶC SAN BÁCH KHOA : số 378 (1-10-1972) – đến số 379 (15-10-1972)

5. GIAI PHẨM BÁCH KHOA : số 380 (1-11-1972) đến số chót 426 (19-4-1975)

Tất cả những việc vẽ vời “làm cho khác” tên gọi như thế thì hoặc là vì lý do chính trị (cho khác với tên gọi từ “chế độ cũ”), hoặc để thích ứng với chế độ kiểm duyệt hoặc luật báo chí về sau. Thời gian qua, những cái đó được hiểu chỉ là những thủ thuật né tránh để sống còn, và sống còn luôn luôn với cái tên khai sanh của nó: Bách Khoa. Vậy chúng ta trước sau chỉ nên gọi nó là BÁCH KHOA.

22 tháng Mười, 2017.

Phạm Phú Minh

NÊN THÁNH GIỮA ĐỜI

NÊN THÁNH GIỮA ĐỜI

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Theo giáo lý Công giáo, các thánh là những người sống tốt lành đạo đức trong cuộc sống trần gian, và nay, sau khi đã kết thúc hành trình trần thế, họ đang được hưởng hạnh phúc thiên đàng.  Khi sống ở đời này, họ đã kiên trì cộng tác với ơn Chúa, nỗ lực cố gắng để vượt qua những cám dỗ đời thường và sống trọn lành, thanh tịnh.  Giáo Hội Công giáo tôn những tín hữu này là những đấng thánh, vì họ phản ánh trung thành sự thánh thiện của Thiên Chúa.  Có những vị thánh đã trung kiên theo Chúa và làm chứng cho Ngài, dù phải đổ máu, như trường hợp các thánh tử đạo.  Các vị thánh theo đúng nghĩa là những vị được tôn phong và được tôn kính trên các bàn thờ.  Cũng có những vị thánh, dù không được Giáo Hội phong thánh, nhưng trước mặt Chúa, họ tinh tuyền thánh thiện và đang cùng với triều thần ca ngợi vinh quang của Đấng Tối Cao.  Trong số đó, có những người thân của chúng ta, có những người suốt đời âm thầm gieo hạt công bình bác ái, có những người chỉ đơn giản chu toàn bổn phận của mình một cách trọn vẹn, có những người dù nghèo khổ, cơ hàn, bệnh tật, nhưng vẫn vững một niềm cậy trông.

Từ buổi sơ khai của Giáo Hội, những người tin Chúa và gia nhập Đạo được gọi là “các thánh” hoặc “dân thánh.”  Thánh Phaolô, trong các thư giáo huấn của ngài, đã để lại cho chúng ta những chứng từ này (x. 1Cr 1,2).  Họ hiệp thông với nhau trong kinh nguyện, trong đời sống và trong những nghĩa cử chia sẻ bác ái.  Nhờ lời giảng dạy của các tông đồ, họ say sưa tìm kiếm Đấng quyền năng vô biên mà họ gọi là Thiên Chúa.  Ngài là Đấng ngàn trùng chí thánh, hoặc là Nguồn của mọi cội nguồn.  Đức tin khẳng định với họ, Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ muôn loài.  Con tim nói với họ, Chúa là Đấng đáng yêu mến và kính tin.  Hành trình đức tin của họ cũng là hành trình tìm kiếm Chúa.  Những con tim khao khát Chúa chẳng bao giờ thỏa mãn, vì càng khám phá ra Chúa, thì lòng ao ước muốn kết hợp lại càng thâm sâu mãnh liệt hơn.  Thánh Augustinô là một ví dụ điển hình.  Ngài đã viết: “Lạy Chúa, Ngài đã dựng nên chúng con để hướng về Ngài và tâm hồn chúng con không nghỉ ngơi cho đến khi nghỉ yên trong Ngài.”

Nên thánh là mục đích của đời sống Kitô hữu. “Chúng con hãy nên thánh, vì Ta là Thánh” (Lv 11,45).  Đó là lời mời gọi từ thời Cựu ước.  Chúa Giêsu không tách biệt khỏi giáo huấn của truyền thống, Người tiếp nối lời mời gọi ấy: “Hãy nên thánh thiện như Cha các con trên trời là Đấng thánh thiện” (Mt 5,48).  Nên thánh vừa là một chuỗi cảm nghiệm sự ngọt ngào của ân sủng, vừa là một cuộc chiến đấu gian nan không ngừng.  Bởi lẽ, con người sống ở trần gian như giữa sóng cả ba đào, phải khôn ngoan bền chí mới có thể đứng vững.  Sống trên đời là đi vào cuộc giao tranh khốc liệt giữa thánh thiện và tội lỗi, giữa cái thanh tao và dung tục, giữa ánh sáng và tội lỗi, giữa chọn lựa Thiên Chúa và chọn lựa thế gian.  Cuộc giao tranh ấy xảy đến mỗi ngày, rất nghiệt ngã cam go.  Trong lịch sử, có nhiều người đã kiên gan trung tín, chiến thắng ba thù (ma quỷ, thế gian, xác thịt) để nên hoàn thiện.  Tuy vậy, cũng có những người không bền tâm vững chí, ngã gục trước những cám dỗ của cuộc đời.  Dù thế nào đi nữa, chúng ta vẫn không mất hy vọng.  Thiên Chúa là Cha yêu thương không bỏ rơi những ai cậy trông phó thác nơi Ngài. “Mỗi vị thánh đều có một quá khứ, mỗi tội nhân đều có một tương lai”, những người đã một thời lầm lỗi, nay nhận ra con đường chân lý để sám hối trở về, sẽ được Chúa yêu thương tha thứ và giang rộng vòng tay thân thương đón nhận.  Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” trong Tin Mừng Thánh Luca đã chứng minh điều ấy.  Trong cuộc chiến đấu này chúng ta không đơn lẻ một mình, vì có Chúa luôn ở cùng với chúng ta.  Cùng với ơn Chúa, chúng ta còn sự nâng đỡ của cộng đoàn đông đảo các thánh trên trời, tức là những người đã đạt tới sự hoàn thiện.  Ngoài ra, chúng ta còn có tình hiệp thông huynh đệ của anh chị em tín hữu trong Giáo Hội, điều mà chúng ta gọi là “Mầu nhiệm các thánh cùng thông công.”  Nhờ sự hiệp thông huynh đệ này, chúng ta vững tin bước đi trong cuộc đời mà không còn sợ vấp ngã.

Nếu hiểu các thánh là những người, qua cuộc sống của mình, phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa Tối Cao, thì trong cuộc sống xung quanh ta, có rất nhiều vị thánh.  Thiên Chúa là Đấng Chí Thánh.  Ngài là nguồn mạch của sự thánh thiện.  Ngài là khởi nguyên của Chân, Thiện, Mỹ.  Tất cả những gì con người thực thi trong cuộc sống, nếu đó là những việc tốt, nhằm đem lại niềm vui và ích lợi cho mọi người, đều hướng về Thiên Chúa và đang góp phần xây dựng vương quốc của Thiên Chúa nơi trần gian.  Vương quốc của Thiên Chúa là vương quốc tình yêu, công bình, bác ái.  Vì vậy, những việc làm xây dựng công bình bác ái và nối kết yêu thương đều làm cho vương quốc ấy sớm được thực hiện nơi trần thế này.  Xung quanh chúng ta, có những người đang âm thầm làm việc góp phần xây dựng công ích.  Họ là những thiện nguyện viên, tham gia những hoạt động bảo vệ môi trường, giúp đỡ người nghèo, mở mang đường sá, khai thông cống rãnh.  Họ cũng là những chị lao công âm thầm làm việc, những bác xích lô nghèo nhưng chân chính thanh bạch.  Họ là những thày cô giáo, vượt non cao đem cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số câu văn cái chữ, nhằm giúp các em hội nhập với thế giới hiện đại và có một tương lai tốt đẹp.  Họ còn là những nghệ sĩ, văn sĩ, thi sĩ, đam mê thể hiện cái đẹp qua các tác phẩm của mình, để rồi, giúp cho độc giả, thính giả và khán giả khám phá vẻ đẹp diệu kỳ của Đấng làm nên vẻ đẹp của thiên nhiên vũ trụ và cuộc sống con người.  Những người này đang cố gắng để diễn tả Chân, Thiện, Mỹ ở nhiều khía cạnh khác nhau.  Người tín hữu tin rằng, vinh quang của Thiên Chúa phản chiếu nơi con người và mọi tạo vật.  Bởi lẽ khi sáng tạo, Thiên Chúa đã nhận định “mọi sự là tốt đẹp” (x St 1,31).  Khi chuyên cần lao động cũng như khi để tâm suy tư và tâm huyết sáng tạo, người lao động nói chung và người nghệ sĩ nói riêng đang cố gắng để làm cho những điều tốt đẹp hiện hữu trong cuộc đời.  Thánh Gioan Phaolô II Giáo Hoàng đã viết: “Đẹp là hình thức bên ngoài của cái tốt, cũng như tốt là điều kiện siêu hình của cái đẹp.  Người Hy Lạp rất hiểu rõ việc này, nên họ kết hợp hai khái niệm ấy, tạo nên một thuật ngữ bao gồm cả hai khái niệm đó là “kalok-agathia” hay “tốt đẹp”(Thư gửi các nghệ sĩ, năm 1999, số 3).  Ngài còn viết: “Bởi đó, Thiên Chúa cho con người hiện hữu, trao cho con người nhiệm vụ của những nghệ nhân.  Chính qua hoạt động sáng tạo nghệ thuật ấy mà hơn bao giờ hết, con người cho thấy mình “giống Thiên Chúa” (Sđd, số 1).  Cái đẹp giúp ta nâng tâm hồn để gặp gỡ Đấng Tối Cao.  Nhà văn người Nga Dostoievski còn khẳng định: “Cái đẹp cứu chuộc thế giới.”  Trong xã hội hôm nay, người ta có khuynh hướng để ý nhiều đến những vụ việc gây ấn tượng mạnh, hay những tin tức giật gân.  Nhiều người cũng thường chú trọng đến những thông tin hoặc vấn đề tiêu cực mà không quan tâm đến những việc tích cực.  Quả vậy, công bằng mà nói, dù cuộc sống này có nhiều xáo trộn, bạo lực, nhưng đây đó vẫn có những cá nhân hay tập thể đang âm thầm làm cho cuộc sống thêm tốt đẹp.  Họ làm việc mà không cần được tôn vinh ca ngợi.  Dù thuộc tín ngưỡng tôn giáo nào, họ đang góp phần phản ánh sự thánh thiện của Thượng Đế.  Họ là những vị thánh giữa đời.

Không có ai sinh ra đã đương nhiên trở thành thánh.  Nên thánh là kết quả của những cố gắng suốt cuộc đời.  Mỗi chúng ta đều được mời gọi đạt tới mục tiêu cao cả ấy.  Hãy nên thánh từ ngày hôm nay, trong hoàn cảnh và bổn phận cụ thể của mỗi người, âm thầm, khiêm tốn, nhưng có giá trị giúp chúng ta nên hoàn thiện.  Hãy trở nên những vị thánh giữa đời, để trần gian này trở thành vương quốc bình an và công chính, là phác thảo của đời sau, nơi chúng ta sẽ được gặp gỡ, chiêm ngưỡng và tôn vinh Thiên Chúa, Đấng ngàn trùng chí thánh.  Ngài là mẫu mực và là Cha Chung của chúng ta.

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Bánh vẽ

  1. Bánh vẽ
  2. Chế Lan Viên
  3. Chưa cần cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ
    Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
    Cầm lên nhấm nháp
    Chả là nếu anh từ chối
    Chúng sẽ bảo anh phá rối
    Đêm vui
    Bảo anh không còn có khả năng nhai
    Và đưa anh từ nay ra khỏi tiệc…
    Thế thì còn dịp đâu nhai thứ thiệt?
    Rốt cuộc anh lại ngồi vào bàn
    Như không có gì xảy ra hết
    Và những người khác thấy anh ngồi
    Họ cũng ngồi thôi
    Nhai nhồm nhoàm
    Trừ Đi
  4. Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
    Có phải tôi viết đâu! Một nửa
    Cái cần đưa vào thơ, tôi đã giết rồi
    Giết một tiếng đau – giết một tiếng cười
    Giết một kỷ niệm – giết một ước mơ – tôi giết
    Cái cánh sắp bay – trước khi tôi viết
    Tôi giết bão ngoài khơi cho được yên ổn trên bờ
    Và giết luôn mặt trời lên trên biển – Giết mưa
    Và giết cả cỏ trong mưa luôn thể
    Cho nên câu thơ tôi gầy còm như thế
    Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của mình
    Và thơ này rơi đến tay anh
    Anh bảo đấy là tôi.
    Không phải!
    Nhưng cũng chính là tôi – Người có lỗi
    Đã phải giết đi bao nhiêu cái
    Có khi không có tội như mình
  5. Ai? Tôi!
  6. Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng
    Chỉ một đêm, còn sống có 30
    Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
    Tôi!
  7. Tôi – người viết những câu thơ cổ võ
    Ca tụng người không tiếc mạng mình
    trong mọi cuộc xung phong.
    Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm
    Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
  8. Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ,
    Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!
    Ai chịu trách nhiệm vậy?
    Lại chính là tôi!
  9. Người lính cần một câu thơ giải đáp về đời,
    Tôi ú ớ.
    Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong
    Mà tôi xấu hổ.
    Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
    Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
    Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười
  10. Chế Lan Viên