Quan chức CSVN: Sợ dân hay sợ nhau?

Phạm Chí Dũng

Đã đến lúc Luật Cảnh Vệ cần mở rộng tối đa, không chỉ 18 “đối tượng” được bảo vệ mà cho cả những ai đã thấm đủ sợ hãi vì “ân oán giang hồ.”

Có một câu chuyện nhỏ, tưởng như hài hước nhưng lại đặt dấu mốc thật sâu xa cho nỗi sợ hãi khôn nguôi ấy.

Từ thần hồn nát thần tính đến “cả ba bị bắn”

Tháng Chín, 2014, một vị tướng quân đội “phát hiện” trước nhà ông một hộp quà lạ. Không biết bởi tâm trạng bất an đến mức nào, vị tướng này đã triệu hàng chục binh sĩ công binh đến để xác minh. Báo chí cũng được nước đăng tải ồn ào như thể có “âm mưu khủng bố.” Nhưng rốt cuộc, kết quả được mở ra: đó chỉ là một gói quà trung thu bình thường, trong số hàng chục ngàn gói quà trung thu chuyển theo dạng bưu phẩm ở Việt Nam.

Chỉ vài tháng sau cơn sợ hãi thần hồn nát thần tính trên, nổ ra vụ “tau khỏe mà, có chi mô” của người sắp trở thành cố trưởng ban nội chính trung ương Nguyễn Bá Thanh. Những bóng ma lẩn khuất ở đầu giường bệnh nhân ung thư đã khiến báo chí nhà nước câm bặt trong cơn rùng mình lạnh buốt. Cho tới giờ, cái không khí tang tóc ấy vẫn chưa được “giải mật.”

Hai năm sau, bùng nổ Yên Bái. Dấu ấn của vụ này là thảm sát thực sự chứ không còn là âm mưu trong trí tưởng tượng bị ám ảnh suốt ngày đêm. Một dấu ấn nổi bật khác là vụ Yên Bái có “chủ thể” và khách thể” đều là giới quan chức – lần đầu tiên từ năm 1975 đã xảy ra vụ quan chức bắn nhau chết hàng loạt như thế. Nhưng cũng không thể bỏ qua dư luận về một dấu hỏi vô cùng lớn: “cả ba bị bắn.”

Chẳng biết có phải “thần giao cách cảm” hay không, nhưng chỉ trước vụ Yên Bái vài ngày, Quốc Hội đã bàn về Luật Cảnh Vệ. Theo đó, khá nhiều “yếu nhân” như nguyên tổng bí thư, nguyên ủy viên bộ chính trị, và đương nhiên tất cả các ủy viên bộ chính trị hiện nay đều được đặc ân có cảnh vệ bảo vệ. Nhưng chi tiết cần mô tả là trong cuộc họp bàn này, đã hiện ra lộ liễu nhu cầu cần được bảo vệ – không phải như một thời trang, mà là thực chất cần phải thế.

Không ai còn an toàn!

Bây giờ thì không còn quan chức nào an toàn. Sau những xung đột trầm kha trước đại hội 12 và vài cái chết không mấy rõ ràng trước đó, bầu không khí xung đột trong nội bộ đảng đã được “nâng lên một tầm cao mới.” Vụ bắn nhau của quan chức Yên Bái cho thấy tình đồng đội và từ cửa miệng “đồng chí” xưng hô với nhau đã bị đẩy vào vô thức, để thay bằng một ý chí sẵn sàng thanh trừng, loại trừ và diệt trừ nhau. Điều được gọi là “nhân học chính trị” ở Việt Nam đã tiệm cận giới hạn bùng nổ thảm sát cá nhân.

Bây giờ thì không còn quan chức nào an toàn. Thậm chí với một số “đồng chí ủy viên bộ chính trị,” phương án chuyển đổi chỗ ngủ đêm có thể trở thành một nhu cầu chính trị – tương đương với nhu cầu ăn uống.

Sau vụ Yên Bái, trong Quốc Hội, Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng “bỗng dưng” dậy lên những đề xuất, đề nghị là phải tăng cường lực lượng cảnh vệ, phải bổ sung trang thiết bị, và đồng thời gia tăng số đối tượng, thành phần được bảo vệ. Nghe nói một số ủy viên Bộ Chính Trị đã được tăng gấp đôi lực lượng cảnh vệ cùng quy chế bảo vệ rất nghiêm khắc.

Phía trước còn là cả một con đường “không biết đến cuối thế kỷ này có được chủ nghĩa xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay không.” Sẽ còn vô số cuộc xung đột và tranh giành quyền lực lẫn tiền bạc trong “chuyến tàu vét.” Sẽ không một quan chức nào an toàn. Chuyện gì cũng có thể xảy ra!

Giờ đây, không một ai còn an toàn. Ở Việt Nam, không một địa phương nào là không có mâu thuẫn, thậm chí nhiều chính quyền địa phương xảy ra xung đột nội bộ rất nặng nề, đặc biệt về quyền lực và lợi ích nhóm. Sau vụ quan chức bắn nhau ở Yên Bái, điều được dự báo chắc chắn sẽ xảy ra đang dần ứng nghiệm: nhiều quan chức ở nhiều tỉnh thành khác đã đòi có cơ chế cảnh vệ bảo vệ mình, đồng thời sẽ ban hành cơ chế kiểm tra vũ khí, chất nổ… tại những cuộc họp quan trọng của thành/tỉnh ủy, ủy ban nhân tỉnh ; thành, thậm chí xuống cả cấp quận /huyện… Không khí họp hành có vẻ đang bước vào “thời chiến.”

Vào đầu năm 2017, Sài Gòn là địa chỉ đầu tiên công khai cơ chế kiểm tra người vào cổng theo sắc màu “xanh – vàng – cam – đỏ,” trong khi các trụ sở hành chính địa phương khác có thể đã âm thầm tiến hành việc này nhưng không công bố.

Chi tiết thú vị là “xanh – vàng – cam – đỏ” lại khá giống với các mức độ cảnh báo mà cơ quan hình sự quốc tế Interpol đặt ra trong việc cảnh báo và truy nã tội phạm. Phải chăng  nhà cầm quyền thành phố Sài Gòn  đang “học tập tấm gương” của Interpol?

Sợ dân hay sợ nhau?

Đến kỳ họp Quốc Hội Tháng Nam – Sáu, 2017, một đại biểu quốc hội còn gợi ý “cho thêm” các bí thư, chủ tịch tỉnh/thành vào đối tượng được cảnh vệ với lý do “khi có tình hình phức tạp ở địa phương thì có thể ảnh hưởng đến an toàn của một số cán bộ chủ chốt.”

Vậy là đã diễn ra một cuộc tranh luận quyết liệt về việc có nên bổ sung các bí thư, chủ tịch vào đối tượng được cảnh vệ để tránh bị “ám sát”?

Đề xuất “bí thư, chủ tịch vào đối tượng được cảnh vệ” chắc chắn đã xuất phát từ nỗi sợ hãi khôn nguôi của dàn lãnh đạo địa phương trước sự phẫn nộ của nhiều người dân bị cướp đất, nạn nhân ô nhiễm môi trường, nạn nhân bạo hành của công an trị…, lẫn sợ hãi lẫn nhau trong nội bộ “đồng chí.”

Tại sao họ lo sợ đến thế? Lẽ ra người lãnh đạo phải gần nhau, thật sự gần dân, óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm, nhưng lại xây dựng một hàng rào ngăn cách với dân.

Họ sợ dân hay sợ cái gì khác? Nếu là cái gì khác, có phải họ sợ chính nhau hay không? Có phải sợ trong chính nội bộ họ hay không?

Sợ dân đã nhiều, sợ nhau còn nhiều hơn.

Từ vụ Nguyễn Bá Thanh đến những cái chết lộ thiên kinh hoàng xảy đến với giới quan chức ở Yên Bái, cùng những hiện tượng “lãnh đạo bị đe dọa” trong thời gian gần đây, e rằng Luật Cảnh Vệ sẽ được đòi hỏi nới rộng hơn hẳn số lượng chính khách có cảnh vệ riêng. Còn dân chúng Việt lại phải chuẩn bị tinh thần để đóng thêm một khoản thuế nữa, dành cho việc bảo vệ các nhân vật lãnh đạo không chỉ cấp trung ương mà ở cả ở cấp địa phương.

Từ thói quen “ăn của dân không chừa thứ gì,” giờ đây các “đồng chí” lại tìm cách không chừa thứ gì để tự bảo vệ mình. Thêm một lần nữa, dân sẽ phải è cổ đóng thuế để phục vụ cho cái nhu cầu tham sống sợ chết ấy.

Sinh viên Mỹ bị Bắc Triều Tiên giam cầm vừa qua đời


Sinh viên Mỹ Otto Warmbier tại buổi họp báo ngày 29/2/16 tại Bắc Triều Tiên.

Sinh viên Mỹ Otto Warmbier tại buổi họp báo ngày 29/2/16 tại Bắc Triều Tiên.

Anh Otto Warmbier, 22 tuổi, được đưa về Mỹ trong tình trạng hôn mê cách đây chưa tới một tuần, trút hơi thở cuối cùng ở bệnh viện Cincinnati, theo thông cáo từ gia đình ngày 19/6.

“Thật đau lòng, không thể có kết cục khả dĩ nào khác ngoài những gì chúng tôi đang trải qua ngày hôm nay với sự ngược đãi tra tấn tàn tệ mà con trai chúng tôi phải gánh chịu dưới bàn tay Bắc Triều Tiên,” thông cáo gia đình nêu rõ sau cái chết của Warmbier lúc 2:20 chiều (giờ địa phương), tại Trung tâm Y khoa Đại học Cincinnati.

Gia đình cho hay Warmbier bị rơi vào tình trạng hôn mê từ tháng ba năm ngoái, ngay sau khi anh bị Bình Nhưỡng tuyên án 15 năm tù khổ sai.

Theo truyền thông nhà nước Bắc Triều Tiên, anh bị bắt vì bị cáo buộc trộm một bảng hiệu in nội dung tuyên truyền của Bình Nhưỡng tại một khách sạn mà anh tạm trú khi ghé thăm Bắc Triều Tiên vào năm ngoái.

Bắc Triều Tiên phóng thích Warmbier tuần trước, viện dẫn lý do ‘nhân đạo.’

Ngoại trưởng Hoa Kỳ Rex Tillerson ngỏ lời chia buồn với gia đình Warmbier và tuyên bố rằng ‘Bắc Triều Tiên phải chịu trách nhiệm về sự giam cầm bất công đối với Otto Warmbier.’

Vẫn theo lời Ngoại trưởng Tillerson, Washington yêu cầu Bình Nhưỡng phóng thích 3 công dân khác của Mỹ đang bị giam cầm phi pháp tại Bắc Triều Tiên.

Tòa bảo bà Nguyễn Tuyết Lan: “không liên quan đến vụ án.”

 
 
From facebook:  Hoa Kim Ngo shared Pham Doan Trang‘s post.
 

Pham Doan Trang

Khi các đại sứ quán, các chính trị gia nước ngoài đề nghị được tham dự phiên tòa xử người bất đồng chính kiến, thì an ninh Việt Nam sai tòa từ chối, lấy lý do “không đảm bảo an toàn” cho họ.

Khi báo chí quốc doanh xin dự phiên xử thì an ninh sai tòa, và phối hợp với tòa, chọn lọc rất kỹ, xem cơ quan báo chí nào thật sự là “lề phải”, phóng viên có thẻ nhà báo không, có vấn đề gì về tư tưởng, thái độ không, có tiền sử chống phá gì không… rồi mới xem xét ban cho cái giấy mời.

Lúc vào tòa, phóng viên cũng phải trình đầy đủ giấy mời, thẻ nhà báo, giấy giới thiệu của tòa soạn, phải nộp lại toàn bộ điện thoại, máy ảnh, máy ghi âm… (Điều này không áp dụng với những trường hợp phóng viên là các đồng chí đến từ VTV, VOV, Thông tấn xã và tập đoàn các báo công an, quân đội).

Khi báo chí nước ngoài, blogger, nhà hoạt động nhân quyền xin dự thì thường tòa lờ đi không trả lời. Vào ngày diễn ra phiên xử, blogger, nhà hoạt động nhân quyền sẽ bị canh gác chặt chẽ, nhốt kỹ trong nhà, ai cố tình ra ngoài hoặc đến tòa hôm đó sẽ bị bắt về đồn.

Còn hôm nay, khi thân nhân gần gũi nhất – bà Nguyễn Tuyết Lan, mẹ ruột của nhà hoạt động nhân quyền Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (blogger Mẹ Nấm) – ngỏ ý muốn vào tòa dự phiên xử con mình thì tòa bảo bà “không liên quan đến vụ án”. (Tuy thế, trước đấy, trong quá trình điều tra con gái bà, thì công an thường xuyên triệu tập bà, và 8 tháng nay, vẫn liên tục rình rập, canh cửa nhà bà).

* * *

Với mỗi đối tượng hoặc nhóm đối tượng, chính quyền công an trị ở Việt Nam đều có cách khu xử riêng như vậy, thật là khéo léo, biến hóa, uyển chuyển, linh hoạt.

Chỉ có một điều không thay đổi là bản chất tàn bạo, hèn hạ và trơ trẽn, vô liêm sỉ của chúng.

TÂM CAO KHÍ NGẠO , BÁC HỌC VÔ ÍCH.

 TÂM CAO KHÍ NGẠO , BÁC HỌC VÔ ÍCH.

Ở đời, mọi chuyện nhiều lúc sẽ không diễn ra theo đúng ý nguyện của con người. Việc tưởng rằng có lợi có khi lại thành vô ích. Đọc “10 điều vô ích” dưới đây, chúng ta sẽ rõ nguyên do.

Lâm Tắc Từ (1785 – 1850) là một trọng thần của triều Thanh. Ông nổi tiếng là người liêm khiết, có dũng khí. Lúc 54 tuổi, Tắc Từ viết ra 10 câu cách ngôn, sau hàng trăm năm vẫn khiến người đời tấm tắc khen ngợi.

Lâm Tắc Từ đã lấy những điều mà con người thường cho là hữu ích, lần lượt xem xét, phân định để chỉ ra vì sao chúng lại trở nên vô nghĩa. “10 vô ích” này vừa là tiêu chuẩn tu dưỡng của Lâm Tắc Từ, và cũng là nguyên tắc giáo dục con cái của ông.

  1. Tâm còn bất thiện, phong thủy vô ích

“Tồn tâm bất thiện, phong thủy vô ích”.

Sách “Đại học” có viết: “Cái đạo của việc học làm những việc quốc gia đại sự là làm rạng rỡ cái đức sáng của mình, là làm cho dân thay đổi tốt lên, là đạt đến và dừng ở nơi chí thiện”.

Nếu trong lòng còn có điều bất thiện, làm trái với thiên đạo, rõ ràng là tự chuốc lấy diệt vong. “Phong thủy vô ích” là nói nếu là người bất thiện, làm nhiều việc bất nghĩa, thì người đó không những mắc tội làm hổ thẹn tổ tông mà còn làm tổn hại đến con cháu.

Người ta cũng thường cho rằng chọn được phong thuỷ tốt, mảnh đất đẹp là có thể dưỡng được phúc khí, tài lộc cho con cháu đời đời. Thế nhưng, cái gốc của phong thuỷ không phải ở long mạch hay huyệt mộ mà chính ở lòng người. Tâm tốt thì dẫu ở vào nơi hiểm địa cũng gặp dữ hoá lành, chuyển hoạ thành phúc.

  1. Bất hiếu cha mẹ, thờ Thần vô ích

“Bất hiếu phụ mẫu, phụng thần vô ích”.

Sách “Luận ngữ” có viết: “Hiếu đễ là cái gốc làm người”. Trăm đức hạnh thì hiếu đứng đầu. Một người dù có được thành tựu vĩ đại như thế nào, trên đầu đội bao nhiêu vòng nguyệt quế đi nữa, nếu bất hiếu với cha mẹ, thì tất cả vinh quang kia đều trở nên vô nghĩa. Nếu bất hiếu với cha mẹ, cho dù có thành kính, kính cẩn với Thần như thế nào chăng nữa, tất cả đều là giả dối cả.

  1. Anh em bất hòa, bạn bè vô ích

“Huynh đệ bất hòa, giao hữu vô ích”.

“Kinh Thi” có viết: “Người khắp thiên hạ không bằng tình anh em”. Trong gia đình, cha mẹ là gốc rễ, anh em là cành lá. Chỉ có anh chị em dìu dắt giúp đỡ nhau, thì gia nghiệp mới hưng thịnh. Anh chị em mà còn không thể hòa thuận với nhau thì nói gì đến kết giao bạn bè, bằng hữu.

Rất nhiều người ra ngoài tiếp đãi bạn bè, rất mực lịch sự lễ độ, chân thành thẳng thắn, nhưng đối với anh chị em trong nhà thì khó mà thổ lộ hết lòng, thậm chí còn lời qua tiếng lại với nhau, thật đúng là hành vi đảo lộn, đạo nghĩa xa rời cả.

  1. Hành vi bất chính, đọc sách vô ích

“Hành chỉ bất đoan, độc thư vô ích”.

Khổng Tử nói: “Người xưa học vì mình, người nay học vì người”. Ý nói người xưa đi học là vì chính bản thân mình, ngày nay người ta lại đi học là vì người khác.

Học vì người khác tức là muốn được người khác ghi nhận, đánh giá, hành vi nông nổi, thiển cận, a dua. Còn học vì mình thì học tập, tu dưỡng, tích lũy năng lực, trong thì tu nhân đức, ngoài thì tu lễ nghĩa.

Nói một cách đơn giản, học là tu thân, làm điều chân chính. Nếu học cả bồ sách Thánh hiền, mà chỉ là để khoe khoang bản thân, hành vi bất chính, có thể nói là đọc sách vô ích.

  1. Làm việc ngang bướng, thông minh vô ích

“Tác sự quai trương, thông minh vô ích”.

Khổng Tử dạy học trò chuẩn mực hành xử chính đáng là: “Học trò ở nhà thì hiếu đễ, ra ngoài thì cung kính, cẩn thận, gần gũi với những người nhân đức, yêu thương tất cả mọi người, làm được như vậy mà còn dư sức thì lúc đó mới bắt đầu học văn hóa”.

“Làm việc ngang bướng” là nói người hành xử bất chấp tình lý, cố chấp, làm gì cũng tỏ ra hơn người. Người thích mị dân lấy lòng người khác, rắp tâm bất lương, thì cái thông minh tài hoa của họ cũng bị người khác lợi dụng, trở thành công cụ làm việc ác.

  1. Lòng dạ cao ngạo, học rộng vô ích.

“Tâm cao khí ngạo, bác học vô ích”.

Tự mãn chuốc lấy tổn hại, khiêm tốn được nhiều lợi ích. Cái đạo người quân tử khiêm nhu, xưa nay vẫn được người đời tán thưởng.

Đọc sách học rộng để làm gì? Để thông hiểu cổ kim, để tung hoành ngang dọc, biết đóng biết mở, có đầu có đuôi, là để tu thân dưỡng tính mà thôi. Người càng có học thức thâm sâu, càng là người khiêm tốn.

Nếu lấy học rộng để khoe khoang, tự cao tự đại, hùng hổ ép người, thì chỉ có thể nói là vẫn chưa lĩnh hội được cảnh giới cao nhất của việc học của cổ nhân.

  1. Thời vận không còn, cố cầu vô ích.

“Thời vận bất tế, vọng cầu vô ích”.

“Vào bước đường cùng thì tự mình làm tốt thân mình, khi hiển đạt thì giúp cho cả thiên hạ được tốt”. Đường cùng tức là thời vận không còn. Thời vận cũng là một sức mạnh, khi hết thời vận thì chú ý tăng cường tu dưỡng tâm tính bản thân, nâng cao sức mạnh bản thân, thì thời cơ sẽ tự đến.

“Cố cầu” là truy cầu bừa bãi, cố gắng truy cầu thời cơ vốn không thuộc về bản thân mình, trái lại, nên tự truy cầu bản thân, vì lúc này dù cho có được cơ hội thì cũng sẽ mất đi rất nhanh.

  1. Lấy bừa của người, bố thí vô ích.

“Vọng thủ nhân tài, bố thí vô ích”.

Khổng Tử nói: “Bất nghĩa mà giàu và sang, đối với ta như phù vân. Người quân tử quý của cải, để có được của cải phải thuận theo đạo”. Lấy bừa của cải của người khác là bất nghĩa. Không có công lao mà nhận lộc, vơ đầy túi tham, tiện tay dắt dê, đều là hành vi bất nghĩa.

Lấy bừa của người, rồi đi bố thí, nói theo cách mĩ miều là mượn hoa dâng Phật, thì thực ra chỉ là giả thiện. Chi bằng dựa vào sức của đôi bàn tay, cần cù, ra sức lao động, bố thí bởi thiện tâm, như thế mới có thể yên lòng, đạt lý.

  1. Không giữ nguyên khí, thuốc  men vô ích.

“Bất tích nguyên khí, y dược vô ích”.

Mạnh Tử nói: “Ta giỏi dưỡng cái khí lớn lao của ta”. Nguyên khí là trạng thái nội tâm tinh thần phong phú, chính khí tràn trề, là cội nguồn hăng hái vươn lên, tích cực tiến thủ của con người.

Người không giữ gìn nguyên khí, thì hành động là cái vũ dũng của kẻ thất phu, cho rằng mình sức mạnh vô tận, nhưng lại luôn bị những ngoại lực làm cho nguyên khí tổn thương lớn.

Khi nguyên khí bị tổn thương nhiều, thì gửi gắm hy vọng vào thuốc thần tiên cứu chữa. Chữa được ngọn chứ không chữa được gốc, chữa được nhất thời chứ không chữa được cả đời.

  1. Dâm ác phóng túng, âm đức vô ích.

“Dâm ác tứ dục, âm đức vô ích”.

“Âm đức”, ý là tích âm đức, tích việc thiện nhỏ mà trở thành công đức lớn, phòng tránh việc ác nhỏ để tránh tổn hao công đức.

Nếu cuộc sống phóng túng xa xỉ, hoang dâm vô độ, tuy làm nhiều việc thiện, tích nhiều âm đức, thì cũng uổng công vô ích. Muốn độ cho người khác thì trước tiên phải tự độ cho mình, lấy mình làm gương, nghiêm khắc giữ mình theo giới luật, bắt đầu từ gian khổ, chất phác.

Vậy nên, “chớ thấy việc thiện nhỏ mà không làm, chớ thấy việc ác nhỏ mà cứ làm”.

Chị Lucie 1937 gởi

Đường ống nước sông Đà lại vỡ lần thứ 21

Đường ống nước sông Đà lại vỡ lần thứ 21.

TTO – Một sự cố rò rỉ lại vừa xảy ra với đường ống nước sông Đà (Hà Nội) vào sáng hôm qua 18-6. Cho đến khi khắc phục xong vào đêm qua, Vinaconex mới thông báo rộng rãi về sự cố này.

Đường ống nước sông Đà lại vỡ lần thứ 21
Các công nhân khắc phục sự cố trong một lần đường ống cấp nước sông Đà bị vỡ – Ảnh: Q.Thế

Người Tị Nạn và Việt Kiều

Người Tị Nạn và Việt Kiều
(Tựa nguyên tác của tác giả)

Sau năm 1975, người Việt Nam bỏ nước ra đi tị nạn đã bị Cộng Sản gọi bằng những danh từ khác nhau. Những danh từ nầy mang những hậu ý chính trị gian xảo, do đó việc tìm hiểu ý nghĩa chính xác những danh từ nầy thật cần thiết để chúng ta sử dụng chính xác trong từng trường hợp.

Người tị nạn.

Khi vào cưỡng chiếm đất miền Nam, cưỡng đoạt tài sản dân miền Nam, Cộng Sản đã gọi tất cả dân miền Nam là bọn Mỹ Ngụy. Đối với người dân có cơ may vượt thoát được bằng những cuộc vựơt biển, vượt biên để xin tị nạn ở các xứ tự do, cộng sản dùng nhiều danh từ để điểm mặt người tị nạn.

Nhưng chẳng bao lâu, Cộng Sản hiện nguyên hình là bọn gian manh. Năm 1990, khi Cộng Sản bắt đầu nhận tiền của người tị nạn gởi về là Việt kiều, và ân tình hơn, Đỗ Mười tuyên bố Việt Kiều là những khúc ruột ở bên ngoài ngàn dặm của dân tộc.

Tưởng cần hiểu từ nguyên chữ Việt kiều để thấy rõ thâm ý của Cộng Sản. «Kiều» chữ Hán có nghĩa là ở nhờ, ở làng khác hay nước khác được dùng làm tỉnh từ cho những danh từ như «kiều dân» là người sống ở ngoài lãnh thổ mà người đó đã được sinh ra, «kiều bào» là đồng bào ở nước ngoài. Dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, người Hoa sống ở VN được gọi là Hoa Kiều và chế độ Hà Nội gọi những người Việt sống ở nước ngoài và ủng hộ họ là «Việt kiều yêu nước».

Người Việt bỏ xứ ra đi tị nạn không phải là Việt kiều, kiều bào, vì những người nầy đã không chấp nhận chế độ Cộng Sản, đã sinh cơ lập nghiệp vĩnh viễn trên một quốc gia khác, đã có quốc tịch của một quốc gia khác. Gọi người tị nạn là Việt kiều, Cộng Sản có gian ý là muốn «tóm thâu» cái khối chất xám nầy là «con dân» của họ, còn đặt dưới quyền sinh sát của họ. Nghị định số 78/2009/NĐ ngày 22/09/2009 về luật quốc tịch xác định rõ quan niệm nầy, theo đó bao giờ người mang quốc tịch VN chưa được chính phủ VN cho phép từ bỏ quốc tịch, người ấy vẫn còn quốc tịch VN dù rằng người ấy đã có quốc tịch Mỹ, Canada, Úc…Càng lộng ngôn và ngang ngược hơn, với con cháu của người Việt tị nạn, dù sinh ra và lớn lên tại các quốc gia của ông cha họ đã định cư, cộng sản cũng xem những người nầy vẫn có quốc tịch Việt Nam nếu chưa phép làm đơn xin bỏ quốc tịch và chưa được chính phủ VN chấp thuận.

Về điểm nầy, chúng ta thấy rõ chánh sách trơ tráo, đánh lận con đen của Cộng Sản. Theo điều 13, khoản 2, Luật Quốc tịch sửa đổi năm 2008 , «Người VN định cư ở nước ngoài vẫn có quốc tịch VN. Sau 5 năm từ khi luật nầy có hiệu lực, kiều bào phải đến cơ quan đại diện của chính phủ VN tại nước ngoài để đăng ký xin giữ quốc tịch, nếu không, sau ngày 1/7/2014 sẽ mất quốc tịch».

Sau 5 năm, chỉ có khoảng 6000 người ghi tên xin giữ quốc tịch. Trái với dự tính vì số người xin giữ quốc tịch quá ít, tháng 7/2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký luật gia hạn cho người muốn giữ quốc tịch thêm 5 năm nữa, tức là sẽ chấm dứt ngày 1/7/2019.

Ngôn từ Cộng Sản thật lật lọng. Cho đến ngày 1/7/2019, người Việt ở hải ngoại mặc nhiên vẫn còn quốc tịch VN, vẫn bị chi phối bởi Luật quốc tịch VN giải thích «rộng rãi» theo luật rừng. Chính bà Ngô Bá Thành, chuyên viên xách động xuống đường thời VNCH, được CS phong cho chức Chủ nhiệm Ủy Ban Pháp Luật của Quốc Hội đã ví von : Việt Nam có một rừng luật và áp dụng luật rừng. 

Và cho đến đầu năm 2014, chính phủ VN vẫn còn khư khư giữ quan niệm cha chú nầy với người Việt tị nạn. Trong bài huấn từ của Nguyễn Thanh Sơn, Thứ Trưởng Bộ Ngoại giao đặc trách Cục Người Việt nước ngoài đã nhắn nhủ cho phái đoàn «Việt Kiều yêu nước» về quê ăn Tết, ông nhắc lại lời của Thủ Tướng Võ Văn Kiệt 20 năm trước như sau : «Cộng đồng người Việt ra đi sau chiến tranh và định cư ở nước ngoài rất đặc thù, không giống các cộng đồng ngoại kiều khác. Những thuyền nhân ra đi đa số là vì mục tiêu kinh tế chứ không phải mục đích chính trị. Có bộ phận những người ra đi sau cuộc chiến tranh mang theo tư tưởng hận thù của những người thua trận và được tuyên truyền rất nhiều điều ghê sợ không có thực về chủ nghĩa cộng sản ... Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị đã khẳng định rõ chủ trương, chính sách của đảng, nhà nước, coi cộng đồng người Việt nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của dân tộc Việt Nam, tức là những người máu mủ ruột thịt thực sự, không phân biệt đó là thành phần nào, đó là ai. (Xuân quê hương 2014 – danlambao 3/2/2014).

Đối với những Việt Kiều yêu nước, Cộng Sản muốn gọi tên gì thì cứ gọi và sai bảo điều gì thì cứ làm. Nhưng đối với người Việt tị nạn Cộng Sản, họ không phải là Việt kiều mà là người Mỹ, người Canadiens , người Pháp, người Úc, người Đức gốc Việt… Phải gọi chính danh như vậy và phải tôn trọng quyền chọn lựa của họ là không chấp nhận chế độ cộng sản.

 

 

 

 

 

 

 

 

Việt Kiều và Nghị Quyết 36.

Không người Việt tị nạn nào ngu xuẩn tự xưng mình là Việt kiều, nếu có, đó là những Việt kiều yêu nước. Tưởng cần biết qua lai lịch của những Việt kiều yêu nước nầy.
Đa số những Việt Kiều nầy là những sinh viên xuất ngoại du học từ thời Việt Nam Cộng Hòa nhờ học bổng của Plan Colombo hay các quốc gia Âu Mỹ. Từ cuối năm 1970, một số con em của những người có thế lực, nhà giàu cũng được xuất ngoại tự túc. Những sinh viên có học bổng sau khi hết học bổng không chịu về nước vì sợ đi quân dịch, nên tìm cách ở lại tại các quốc gia đã du học một cách bất hợp pháp. Phương thức thông thường là kết hôn với người dân sở tại để có quốc tịch, và để biện minh cho hành động hèn nhát, họ chạy theo các phong trào sinh viên phản chiến ở Pháp, Mỹ, Canada để chống chiến tranh Việt Nam mà theo họ là do Mỹ và chế độ quân phiệt miền Nam chủ động. Họ được cộng sản lợi dụng để tuyên truyền và được phong danh hiệu là Việt kiều yêu nước. Sau 1975, nhiều đám sinh viên phản chiến phản quốc nầy từ Nhựt, Âu châu, Mỹ chạy sang Canada xin tị nạn cùng lúc với thân nhân của họ vừa di tản đến. Họ trương cờ đỏ sao vàng ở những tụ điểm của họ, một số xin về nước để lấy uy với bạn bè, nhưng chính phủ cộng sản lạnh lùng với họ, có khi còn bắt họ bởi lẽ cộng sản dư biết những Việt kiều yêu nước.

Từ cuối thập niên 1990 xuất hiện thêm một số Việt kiều yêu nước già, nguyên gốc là HO, có học và vô học, vì không hội nhập được vào xã hội định cư nên đi đi về về Việt Nam để sống với tiền xã hội của quốc gia định cư, một số khác thất nghiệp muốn về VN để kiếm việc, làm ăn buôn bán. Để đạt được ý định, họ lập công với cộng sản bằng những mưu chước hèn hạ, phản bội lại đồng hương và đồng đội họ, xâm nhập vào các hội đoàn, cơ quan ngôn luận để quấy phá. Nghị Quyết 36 nhờ sự tiếp tay của những Việt Kiều trở cờ phản bội nầy.

Nhiều người Việt tị nạn không biết hay xem thường những tác hại của Nghị Quyết 36 viện lẽ không làm chính trị. Ban hành vào tháng 3 năm 2004, Nghị Quyết 36 nhằm mục đích chiêu dụ người Việt ở hải ngoại về nước và đem tài sản về nước để gọi là đầu tư, đồng thời tìm cách khống chế lực lượng người Việt ngoài nước. Nói chung, Nghị Quyết 36 có thể tóm lược trong 5 điểm:

– Giúp người tị nạn trong việc sinh sống
– Giúp người tị nạn đoàn kết lẫn nhau
-Thu góp tiền bạc và chất xám
– Biện pháp đối với các thành phần chống lại chánh phủ và Đảng ở hải ngoại
– Tổ chức văn hóa vận và tình báo ở hải ngoại

Nhận định từng điểm, NQ 36 mang bản chất gian xảo, trịch thượng . Làm sao CS có khả năng và uy tín giúp người Việt hải ngoại trong cuộc sinh sống trong khi họ đã đẩy đa số người dân trong nước đến chổ bần cùng và mất cả đạo lý, và càng tệ hại hơn, họ xuất cảng tệ trạng ăn cắp tràn lan tại những nơi mà cán bộ của họ đi qua, làm xấu xa dân tộc. Tại Nhật, Mã Lai, Thụy Điễn, nhiều cửa hàng treo bảng hiệu : Cảnh cáo Ăn cắp vặtNo dogs, no Vietnamese.

Họ nói giúp người tị nạn đoàn kết với nhau, nhưng thực sự họ đưa công an và Việt kiều yêu nước xâm nhập các đoàn thể để gây đố kỵ, đánh phá nhau. Chuyện thu góp tài sản thì quá rõ, từ việc gởi tiền đến Việt kiều du lịch mang về nước tiêu xài cung cấp cho cộng sản 12% GDP, duy chỉ có chuyện thu góp chất xám là một cuộc thảm bại .

Một số tác hại của NQ 36 đã thấy rõ trong một số công tác chiến lược như sau:

 Trường dạy tiếng Việt và sinh hoạt tập thể cho thanh thiếu nhi là lò huấn luyện, tuyên truyền
Tại những nơi có đông đảo người Việt, cán bộ cộng sản chủ động hay hợp tác với các đoàn thể, tư nhân mở trường dạy tiếng Việt, đưa sách báo từ VN sang, hay soạn sách theo quan điểm tuyên truyền cho cộng sản. Những buổi sinh hoạt tập thể là những cơ hội thuận lợi để cán bộ hay thầy cô thân cộng rỉ tai, hướng dẫn những măng non theo tư tưởng cộng sản. Tùy mức độ ảnh hưởng, chính sách văn hóa vận nầy tạo một tư tưởng chống đối của giới trẻ với ông cha trong công cuộc chống cộng.

Trong đại hội «Tổng kết 10 năm thực hiện NQ36 và công tác đối với người Việt nước ngoài» ngày 22 tháng 5, 2014, Thứ Trưởng Giáo Dục Trần Quang Quý đã có chỉ thị rõ rệt «…Cần sớm có quy chế về việc dạy tiếng Việt cho người Việt nước ngoài, đặc biệt thế hệ thứ ba, thứ tư để việc kết nối giao lưu được thuận lợi…»

– Xâm nhập các cơ quan truyền thông
Cộng Sản đã tung ra hàng triệu mỹ kim để thành lập, hùn vốn để mua chuộc các cơ sở truyền thông ở hải ngoại, bề mặt chửi bới Cộng Sản linh tinh, nhưng thỉnh thoảng gài vào những bản tin, bài viết vận động chính trị chiến lược có lợi cho cộng sản. Trong bản tổng kết Hội nghị Người Việt nước ngoài lần thứ hai từ ngày 27-29 tháng 09 năm 2012 ở TP Hồ Chí Minh, Thứ Trưởng Nguyễn Thanh Sơn, Chủ nhiệm Ủy Ban Người Việt nước ngoài đã nói rõ chương trình hành động: «Tăng cường công tác thông tin đối ngoại , tăng cường đầu tư cho các chương trình dành cho người Việt ở nước ngoài như đài phát thanh, TV, báo chí, thông qua tổ chức các buổi giao lưu văn hóa, nghệ thuật, triễn lãm tranh ảnh về đất nước, các hoạt động từ thiện, du lịch, sinh hoạt khoa học, sinh hoạt các nhóm trong cộng đồng người Việt hải ngoại…» 
Chúng áp dụng kỹ chiến thuật tuyên truyền của Goebbels (Bộ Trưởng Thông tin Tuyên truyển của Đức Quốc Xã) : Nhắc đi nhắc lại hoài một sự việc không đúng sự thật, ban đầu người ta không tin, lần lần người ta bán tin bán nghi sau cùng người ta tin là sự thật. Internet và báo chí là những phương tiện hữu hiệu dể chúng bôi lọ những người quốc gia tranh đấu chân chính, làm yếu đi lực lượng chống cộng. để từ đó chúng đưa người của chúng vào các hội đoàn. Nhiều tổ chức tranh đấu chính trị đã bị chẻ làm đôi, làm ba và khi các cộng đồng hay tổ chức này bị chúng đánh cho yếu đi hay tan vỡ thì chúng dùng tiền để mua chuộc đám Việt kiều – Việt gian nhảy ra làm bình phong cho chúng hoạt động. Mặc dù chúng dùng mọi mưu chước nhưng cho đến nay, chúng vẫn không thành công lắm trong công tác vận động quần chúng ở Bắc Mỹ, Úc và vài quốc gia ở Tây Âu.

Nhưng Cộng Sản có hai bộ mặt chồng chéo nhau : dịu ngọt và bạo lực.

Tạp chí Cộng Sản gần đây đã viết: «…Tính đến nay, có hơn 100 tổ chức chính trị phản động người VN ở hải ngoại đang nuôi chí phục thù nhằm thực hiện ý đồ đen tối phục quốc. Cầm đầu các hội, các nhóm trên là những phần tử cực đoan, từng là ngụy quân ngụy quyền cũ, có nhiều nợ máu với cách mạng. Chúng đã, đang móc nối, cấu kết chặt chẻ với nhau và với bọn phản động trong nước để hoạt động chống phá cách mạng nước ta …» (TCCS. Phát huy vai trò của Cộng đồng @ttp://tapchicongsan.orgvn ngày 28/05/2013)

Chánh sách vừa chiêu dụ vừa khủng bố của Cộng Sản đã có tác dụng phần nào trên các vùng đất có người Việt định cư ở Bắc Âu và Đông Âu, nơi có đông đảo người lao động xuát khẩu, di dân bất hợp pháp và du sinh. Trong thập niên qua, các tòa đại sứ hay lãnh sự Cộng sản đã nỗ lực thiết lập 13 cộng đồng người Việt theo chủ trương của NQ 36: «… Nếu chúng ta phát huy cao độ các lợi thế của các lực lượng người Việt Nam ở nước ngoài để phân hóa, cô lập các lực lượng phản động thì chúng ta có thể hạn chế một cách hiệu quả, thiết thực các thế lực thù địch…». Mười ba cộng đồng cộng sản nầy là : 4 tại các quốc gia trước đây là cộng sản (Ba Lan, Tiệp Khắc, Nga, Đông Đức), 4 tại các quốc gia có nhiều lao động xuất khẩu (Hàn Quốc, Đài Loan, Qatar, Angola), 5 tại các quốc gia ít có người tị nạn (Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan, Thụy Sĩ – ( chú thích: tại Thụy Sĩ còn có một cộng đồng chống Cộng của người Việt tị nạn). Các chủ tịch các cộng đồng nầy là người cộng sản, chỉ làm bù nhìn, việc điều khiển Cộng Đồng do sứ quán hay tòa lãnh sự đảm nhiệm theo quyết định Q12 năm 2008 (Mobiliser les Vietnamiens à l’étranger, p.50).

Ngày 18 tháng 8 , 2014, Trung ương đảng đã tổ chức một cuộc «mạn đàm» tại Praha (Tiệp Khắc) qui tụ những nhân vật cao cấp của Bộ Chính Trị từ trong nước và các đại sứ, đại diện 14 cộng đồng người Việt ở Đông Âu, Bắc Âu , kể cả Thụy Sĩ, Anh, Bỉ để «trao đổi công tác xây dựng tổ chức, vận động quần chúng, lôi cuốn giới trẻ tham gia và phát huy các sinh hoạt cộng đồng»

– Gởi sư quốc doanh ra hải ngoại lập chùa, tu viện
Chùa là nơi gia đình người Việt tị nạn gặp nhau để lễ Phật, niệm kinh, và còn là nơi sinh hoạt xã hội, văn hóa. Biết như vậy, Nguyễn Thanh Sơn, Chủ nhiệm Ủy Ban Người Việt nước ngoài đã ký kết với Hòa Thượng Thích Thanh Tứ (Tứ chớ không phải Thích Thanh Từ) Phó Chủ tịch Hội Đồng Trị sự Giáo Hội Phật giáo VN ngày 16 /07/2009 một văn kiện nhằm «phối hợp cộng tác phât sự ở nước ngoài, mở rộng quan hệ, hoạt động của giáo hội sang các nước có đông kiều bào sinh sống». Từ mươi năm nay, tại hải ngoại có nhiều chùa, tu viện được thành lập, mà sinh hoạt chùa không theo truyền thống tôn nghiêm của Phật pháp. Những ngôi chùa nầy tổ chức đại nhạc hội, du lịch, thi hoa hậu và nhiều sinh hoạt của đời thường. Một số thầy chùa, sư nữ gốc là công an, tác phong không phù hợp với người tu hành, làm người phật tử chân chính chán ngán. Ngôi chùa trở nên cơ sở kinh tài cho cá nhân và đảng, sư quốc doanh làm công tác báo cáo, tuyên truyền cho chế độ. Nghị Quyết 36 đã làm tổn hại rất nhiều đời sống tâm linh của người tị nạn.

Người Việt ở hải ngoại
Ngoài ra, chúng ta thường có thói quen gọi chúng ta thuộc cộng đồng người Việt hải ngoại (diaspora) mà Cộng Sản gọi là người Việt nước ngoài. Nếu từ ngữ nầy đúng với tất cả các sắc tộc khác nhưng đối với người Việt, có khi không đúng hẳn bởi lẽ trong số người Việt hải ngoại lại có thêm những người không phải là người tị nạn. Đó là những người xuất khẩu lao động, di dân kinh tế hợp pháp và bất hợp pháp, các du học sinh thân cộng hay theo Cộng. Hiểu như vậy, sự chính xác của từ ngữ sử dụng cần phân biệt theo nội dung và hoàn cảnh.

Bảng 1- Tổng số người Việt tị nạn Cộng Sản ở hải ngoại

 

 

 

 

Bảng 2- Số người Việt xuất khẩu lao động, du sinh, định cư

hợp pháp và bất hợp pháp tại hải ngoại (Việt Kiều)

 

 

 

 

 

 

Nguồn :
– Người Việt ờ nước ngoài @ww.vietkieu.info;
– Wikipedia,
– Migration Policy Institute.
– World Facts Book

Chú thích :

Bảng thống kê trên, tuy xuất xứ từ các cơ quan thẩm quyền nhưng chỉ là những con số ước lượng gồm có:

– 700 000 người Việt ở Cambốt, Thái Lan và Lào là người Việt đã sống lâu đời nhiều thế hệ tại các quốc gia nầy, đại đa số đã nhập tịch. Về người Việt ở Cambot, số thống kê chỉ là phỏng định vì quốc gia nầy không có thống kê. TheoWikipedia, và World Facts Book, người Cambốt gốc Việt chiếm 5% dân số tức khoảng 600 000 người. Bertrand Didier trong bài Vietnamiens au Cambodgevà Annuska Derks trong A picture of the Vietnamese in Cambodia trình bày chi tiết các giai đoạn di cư, định cư, diện mạo của người Việt ở Cambốt (có thể đọc online).

Migration Policy Institute thiết lập thống kê người di dân VN (immigrants) vào tháng 9 năm 2013 dựa vào ước lượng của United Nations Population Division công bố một con số thấp hơn chỉ gồm người di cư xuất khẩu lao động: Cambot: 37 000, Lào: 11 000, Thái Lan: 6000.

– 700 000 người ở Đài Loan, Hàn Quốc, Mã Lai, Nhựt, Trung Quốc, Đông Âu , Nga, Bangladesh, Trung Đông và Phi Châu. Dân số VN tại các quốc gia nầy thuộc nhiều diện khác nhau:

– một số là cư dân hợp pháp phần lớn là phụ nữ lấy chồng người Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Mã Lai và những du học sinh tại các quốc gia Đông Âu, Nga, được nhập tịch tại các quốc gia nầy
– một số là người xuất khẩu lao động và cư dân bất hợp pháp.

Như vậy tổng số người Việt ở hải ngoại là :
– Người tị nạn Cộng sản: 2.500 000 người (số tròn) Bảng 1
– Người Việt di cư kinh tế, xuất khẩu lao động, du học sinh, định cư bất hợp pháp: 1 400 000 người Bảng 2 

Tổng cộng số người Việt ở hải ngoại: 3 900 000 người. 
Một cách dễ nhớ: 4 triệu người.
Nguồn : Lâm Vĩnh Bình, Giá Tự Do

Về tổng số người Việt ở hải ngoại, thống kê của nhiều người viết, ngay cả những nhà nghiên cứu khoa bảng thường có khuynh hướng khuếch đại con số, bởi lẽ thay vì sử dụng thống kê chính thức của các quốc gia sở tại, họ lại sử dụng những thống kê của Cục Người Việt nước ngoài của Cộng Sản mà bản chất là gian dối, thiếu chính xác. Đan kể như luận án tiến sĩ : Mobiliser les Vietnamiens de l’étranger : enjeux, stratégies et effets d’un nationalisme transnational của Christophe Vigne do Institut de recherche sur l’Asie du Sud-Est contemporaine (IRASEC) xuất bản năm 2012 cho biết là người Việt ở hải ngoại là 4.3 triệu người trong đó người Việt ở Mỹ là 2.2 triệu (thay vì 1.5 triệu) và ở Canada là 250 000 (thay vì 220 000). «Le RSVN estime à environ 4.3 M le nombre de Vietnamiens résidents à l’étranger. La communauté vietnamienne des États-Unis est de loin la plus nombreuse avec 2.2M de personnes. Environ 250 000 Viet Kieu vivent au Canada, 120 000 en Allemagne et 60 000 en Russie…(p. 13).

Kết luận
Chúng tôi vừa phân tích hai từ ngữ người tị nạn và Việt kiều để phân biệt hoàn cảnh lúc ra đi và vị trí chính trị đối với chế độ cộng sản. Tuy nhiên, khi phải nhắc đến một từ ngữ khác có chữ kiều là kiều hối (mà cộng sản dùng thay cho danh từ ngoại tệ), cái biên giới giữa người tị nạn và Việt Kiều như không còn nữa bởi cả hai đều dùng kiều hối để nuôi dưỡng và củng cố chế độ trong nước.

Thật vậy, kể từ khi Clinton bắt tay với VN năm 1995, người Việt tị nạn về nước ào ạt vì đủ thứ lý do, thăm gia đình, du lịch, du hí… Thật là khó hiểu khi nhiều người đã ra đi tìm cái sống trong cái chết để vượt biển, vượt biên sau những ngày đói rách, khổ nhục hay bị lao tù, và trên đất mới, sau đó cũng không bao lâu, họ lại quay trở về để tiếp tục luồn cúi, nịnh bợ công an, cán bộ phường xã, những người trước đó không lâu là kẻ thù của họ. Vui thú, vinh quang gì? Cứ mỗi lần Tết đến, có khoảng nửa triệu người về VN ăn Tết, mỗi người mang về VN để chi tiêu trung bình khoảng 4000 mỹ kim, như vậy Cộng sản có được dễ dàng ít nhất 2 tỷ mỹ kim kiều hối chỉ trong hai thángNgoài raviệc gởi tiền về VN triền miên từ 40 năm nay để nói là giúp đỡ thân nhân cũng là hiện tượng cần suy nghĩ, bởi lẽ chính số kiều hối khổng lồ nầy đã nuôi dưỡng, củng cố chế độ và duy trì một lớp thân nhân ỷ lại lười biếng, thỏa hiệp với công an để được dễ dàng trong cuộc sống. Dưới lăng kính nầy, người tị nạn có khác gì những Việt kiều yêu nước hay xuất khẩu lao động thân cộng?

Theo Viện Nghiên cứu Quản Lý Kinh Tế Trung Ương (Central Institute for Economic Management CIEM), « tính từ năm 1991 đến 2013, lượng kiều hối gởi về hơn 90 tỷ mỹ kim, là chiếc phao cứu tinh cho nhiều doanh nghiệp và là nguồn tài chính quan trọng cho quốc gia. Số tiền trên không kể đến 28% «kiều hối chui» không qua đường dây chính thức và những khoản tiền tiêu khi Việt kiều về thăm nhà. Chỉ năm 2013, số kiều hối gởi về là 11 tỷ. Mỹ là quốc gia chuyển kiều hối về VN nhiều nhất (57% trong tổng số kiều hối chính thức), kế đó là Úc (khoảng 9%), Canada (8%), Đức (6%), Pháp (4%) . Kiều hối là nguồn vốn thứ hai tại VN sau FDI (chú thích của người viết: Foreign Direct Investment là tiền ngoại quốc đem vào VN đầu tư) giúp tăng tiết kiệm, đầu tư, giảm nợ, cải tiến bảng xếp hạng tín nhiệm quốc gia, giúp ổn định tỉ giá, cán cân thanh toán và tăng dự trử ngoại hối . Tóm lại, kiều hối dùng để trả sinh hoạt hằng ngày, đầu tư vào sản xuất kinh doanh và trả nợ». (Cứu tinh của nền kinh tế VN /Alan Phan – ngày 18/12/2014.)

Thông tin trên phát xuất từ một cơ quan kinh tế chiến lược đầu não của cộng sản đã cho thấy không phải là nhóm Việt kiều Đông Âu, hay nói chung những Việt kiều thân Cộng đã gởi tiền về nước để nuôi chế độ mà chính đa số làngười tị nạn. Chỉ tại 5 quốc gia có đông đảo người tị nạn, đặc biệt là Hoa Kỳ, đã đóng góp hàng năm cho cộng sản VN 84% ngoại tệ. Có gì phi lý hơn, khi người Việt ở Mỹ, Úc, Canada, Pháp, Tây Đức là thành trì chống Việt Cộng, nhưng đồng thời cũng là đại ngân hàng tài trợ cho Việt Cộng. Giải quyết cái phi lý nầy phải là chuyện số một phải làm, tuy đã muộn màng lắm rồi, trước khi nói đến những chuyện tranh đấu khác.

Lâm Văn Bé

Về tác giả Lâm Văn Bé:
Trước 1975, tác giả làm việc và từng giữ các chức vụ:

  • Giáo sư, Giám học, Hiệu trưởng Trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu Mỹ Tho
  • Tổng Thư Ký Viện Đại Học Tiền Giang
  • Chánh Sở Học Chánh Định Tường

Sau 1975, ông làm Giám đốc Thư Viện Mile End ở Montreal, Canada. Hiện nay, ông về hưu và dành thời gian viết biên khảo.

Đất Nước Tôi

From facebook:  Vu Vo shared Gửi Lời Qua Thơ‘s photo.
Đất nước tôi ngày nay bạc nhược

Giặc Tàu ô từng bước gồm thâu

 
Image may contain: 1 person, sitting and outdoor
Gửi Lời Qua Thơ

 

Đất Nước Tôi

Đất nước tôi bây giờ thống nhất
Nhưng lòng người chia cắt không nguôi
Bốn hai (42) năm ai còn, ai mất?
Hận thù kia đè nặng kiếp người.

Đất nước tôi ngày nay bạc nhược
Giặc Tàu ô từng bước gồm thâu
Hồn tử sĩ ngàn năm ấm ức
Máu xương thành bèo bọt biển sâu !

Đất nước tôi tự do chẳng có
Mở miệng là đấu tố, bắt giam
Sống phải biết lặng im, khiếp sợ
Muốn an bình vứt bỏ lương tâm !

Đất nước tôi trẻ thơ khó nhọc
Bơi ngang sông, đu cáp đến trường
Những bà mẹ tuổi đời thất thập
Còng lưng già kiếm sống thê lương !

Đất nước tôi đói nghèo đeo bám
Dẫu rừng vàng, biển bạc, đồng xanh…
Bởi lãnh tụ không dung chất xám
Để tham ô, lý lịch điều hành

Đất nước tôi bạo tàn thống trị
Kẻ giết người, cướp của lên hương
Dân thống khổ, trời đầy oán khí
Vẫn rêu rao hạnh phúc, thiên đường !

Tác giả: Trần Đức Phổ

Nhận định về tình hình nhân quyền Việt Nam

Chân Như, phóng viên RFA
2017-06-16
Phóng viên Chân Như phỏng vấn ông Phil Robertson, Phó Giám đốc phụ trách Châu Á thuộc HRW.

Phóng viên Chân Như phỏng vấn ông Phil Robertson, Phó Giám đốc phụ trách Châu Á thuộc HRW.

RFA photo
 

Chân Như: Xin chào ông, trước hết xin ông có thể chia sẻ với khán giả thông tin mới nhất về tình hình nhân quyền ở Việt Nam ?

Ông Phil Robertson: Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Human Rights Watch chuẩn bị đưa ra thông báo về tình hình nhân quyền ở Việt Nam vào thứ Hai tuần tới và sẽ kiểm chứng tình trạng sử dụng côn đồ hành hung các nhà hoạt động và sự liên kết giữa các nhóm côn đồ này với Chính phủ.

Đây sẽ là một cuộc kiểm chứng toàn diện, không chỉ sử dụng các bản báo cáo và còn cả các đoạn ghi hình và sẽ thay đổi cách mọi người hiểu về tình hình nhân quyền ở Việt Nam bởi vì tất cả những gì chúng ta nhìn thấy trong suốt những năm 2011, 2012, 2013 là việc chính phủ mở rộng việc khởi tố các nhà hoạt động theo Bộ luật Hình sự. Và đột nhiên, cộng đồng quốc tế đồng loạt quan tâm đến các tù nhân chính trị ở Việt Nam và họ đặt ra câu hỏi là điều gì đang diễn ra ở đất nước này vậy?

Tôi nghĩ rằng Chính phủ Việt Nam đã nhận ra là thế giới đang đánh giá họ qua số lượng nhà hoạt động bị đưa ra tòa. Cho nên bây giờ họ đã thay đổi chiến lược. Chỉ những người đứng đầu mới bị đưa ra tòa, còn những người tầm trung, hay những người xuất hiện trong các cuộc biểu tình bây giờ sẽ bị côn đồ hành hung, đánh đập, thậm chí là ngay trước mắt chính quyền. Và khi những nhà hoạt động báo là họ bị đánh đập, không ai là người đứng lên chịu trách nhiệm cả.

Chân Như: Ông nói rằng bản báo cáo sẽ được công bố vào thứ 2 tuần tới, liệu báo cáo này có đề cập đến cụ thể nhà hoạt động hay nhà bất đồng chính kiến nào không?

Ông Phil Robertson: Như tôi đã nói, báo cáo sẽ đề cập đến những vụ việc mới nhất. Khán giả chắc cũng đã ước tính được số lượng những người bị côn đồ tấn công. Vì vậy chắc chắn họ sẽ không thất vọng về nội dung bản báo cáo này.

Chân Như: Theo quan điểm của ông vì sao chính phủ Việt Nam tiếp tục sử dụng các biện pháp mạnh chẳng hạn như sử dụng côn đồ để tấn công các nhà hoạt động?

Ông Phil Robertson: Tôi nghĩ đây là một cách nhằm dập tắt tiếng nói của các nhà hoạt động và thể hiện khả năng kiểm soát của chính quyền. Trong một số vụ như Formosa chẳng hạn, họ nhận thấy rằng người dân biểu tình không chỉ vì chuyện bồi thường chưa thỏa đáng, mà họ còn đòi hỏi chính quyền phải chịu trách nhiệm và phải đưa ra lời giải thích về thảm họa này.

Họ nhận ra rằng họ không thể kiểm soát được tình hình vì vậy họ làm nản lòng những người chủ chốt và họ muốn các nhà hoạt động là họ phải trả giá cho hành động của họ bằng cách sử dụng côn đồ đe dọa, khiến các nhà hoạt động lo sợ rằng bất cứ khi nào họ cũng có thể bị tấn công chẳng hạn như khi họ đang lái xe đến nơi nào đó. Nỗi sợ này chính là mục tiêu của Chính phủ khi sử dụng côn đồ.

phil_channhu01-400.jpg
Ông Phil Robertson. RFA photo

Chân Như: Vậy thì luật pháp Việt Nam có được tuân thủ hay không hay chỉ là lời nói cửa miệng?

Ông Phil Robertson: Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, luật pháp là bất cứ luật nào họ nói ra. Những luật này không nhất thiết sẽ được thực thi, cũng không quan trọng đối tượng là ai, tình trạng ra sao và hành động của họ là thế nào. Thực chất là luật Đảng còn mạnh hơn cả luật pháp.

Chân Như: Những kêu gọi của các tổ chức nhân quyền như Human Rights Watch có tác động lên Chính phủ Hà Nội không?

Ông Phil Robertson: Tôi nghĩ chúng tôi đã tạo ra nhiều ảnh hưởng. Chính phủ Việt Nam rất nhạy cảm về hình ảnh của họ trong mắt quốc tế. Họ đã thực hiện nhiều biện pháp để thuyết phục những tổ chức họ quan tâm như Liên Hiệp Quốc rằng họ đang nỗ lực giải quyết vấn đề nhân quyền. Tôi nghĩ đó là một đòn bẩy quan trọng thúc giục họ thay đổi các chính sách. Chúng tôi cũng chứng kiến nhiều bước tiến khác như việc giảm số lượng án tử hình, công nhận quyền cho cộng đồng người đồng tính.

Đây là sự nhượng bộ với cộng đồng quốc tế trong các lĩnh vực mà Chính phủ Việt Nam nhận ra rằng việc họ nhượng bộ về nhân quyền  không hề ảnh hưởng lớn đến quyền kiểm soát xã hội của họ. Hiện tại Chính phủ Việt Nam chỉ quan tâm đến việc kiểm soát quyền lực. Họ đang nỗ lực dập tắt tất cả những phong trào quần chúng, họ phá vỡ sự liên kết giữa các nhà hoạt động trong mọi chiến dịch như lao động hay môi trường, hay những người chống Tàu cũng bị xếp vào hàng chống đối chính quyền.

Chân Như: Ông nghĩ điều gì có thể giúp đóng góp thêm vào các hoạt động thúc giục Chính phủ Hà Nội thay đổi các chính sách thù nghịch thành những tiếng nói ôn hòa về vấn đề dân chủ, nhân quyền và tự do cho người Việt Nam?

Ông Phil Robertson: Tôi nghĩ thứ chúng ta thiếu hiện giờ là những tiếng nói của cộng đồng quốc tế về vấn đề nhân quyền. Chúng tôi rất thất vọng khi Tổng thống Donald Trump mời Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sang Hoa Kỳ mà không đề cập gì đến vấn đề nhân quyền. Điều đó có nghĩa là Nhà Trắng đón chào những kẻ độc tài. Và thật đáng xấu hổ khi Tổng thống Trump đã xóa bỏ thông lệ nhân quyền là một phần của chính sách Hoa Kỳ.

Tuy nhiên các quốc gia khác cần đứng lên lấp khoảng trống mà ông Trump tạo ra, chứ đừng bỏ bên vấn đề nhân quyền giống ông ấy. Liên minh châu Âu, Úc, Canada, New Zealand và các nước như Nhật Bản, Nam Hàn, nơi mà dân chủ, nhân quyền được tôn trọng, cần đưa nhân quyền vào chính sách của họ và lên tiếng công khai yêu cầu Việt Nam thay đổi.

Chân Như: Xin cám ơn những chia sẻ của ông.

CHUYÊN GIA KINH TẾ MỸ NÓI VỀ QUAN HỆ NGOẠI THƯƠNG VIỆT- MỸ

From facebook:  Hoang Le Thanh
CHUYÊN GIA KINH TẾ MỸ NÓI VỀ QUAN HỆ NGOẠI THƯƠNG VIỆT- MỸ

Copy từ trang
FB: Huỳnh Ngọc Chênh

Bà là chuyên gia của Morgan Stanley, nick facebook có tên Việt Nam là Thơ Phương. Dưới đây là bài viết của bà:

Đây là hồ sơ ngoại thương giữa Mỹ và VN. Đó là nhiều năm Mỹ là quốc gia nhập khẩu hàng hóa của VN nhiều hơn bất cứ thị trường nào mà VN xuất khẩu nếu so với kích thước GDP kinh tế của VN, bạn đọc xem ở đây:

https://www.census.gov/foreign-trade/balance/c5520.html

Đó là Mỹ nhập khẩu hàng hóa của VN và bị thâm hụt thương mại đối với VN là rất lớn. Đó là nhiều hơn cả 28-nước Âu châu (tính cho UK vẫn còn trong EU). Mỹ cũng nhập linh kiện điện thoại của VN do Samsung đầu tư.

Các đời tổng thống Mỹ nhiều lần xem hồ sơ này, họ đắn đo cân nhắc rất kỹ là làm lơ cho hàng hóa của VN xuất khẩu sang Mỹ để thay thế TQ và nâng đỡ VN.

Hãy tưởng tượng nếu Mỹ đánh đòn ngoại thương là VN sẽ có nhiều triệu lao động thất nghiệp, thậm chí là Samsung của Hàn Quốc sẽ dời nhà máy di chuyển sang nước khác mà Mỹ không áp thuế để đầu tư, kể cả các doanh nghiệp nước ngoài khác cũng vậy.

VN nhiều năm được Mỹ cho nâng đỡ về ngoại thương như most favored nation status (tình trạng tối huệ quốc),…

Bây giờ nếu Mỹ siết lại hồ sơ này thì cả doanh nghiệp Nhật họ đang đầu tư ở VN cũng bỏ chạy sang nước khác như Ấn Độ, Indonesia, Miến Điện, và nhiều xứ khác mà Mỹ không áp thuế. VN bán buôn với Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên hiệp châu Âu (Vietnam – EU AFTA), rồi VN và các nước thành viên Liên minh Kinh tế Á – Âu (EEUV-FTA) tham gia như Nga, Armenia, Belarus, Kazakhstan, Kyrgyzstan,… bán buôn chỉ lắt nhắt chỉ vài con số là dấu phẩy ở hàng đơn vị tỷ $ chả đáng bao nhiêu cả so với bán hàng sáng Mỹ.

Hãy nhớ rằng VN bán buôn với TQ trao đổi hai chiều, nếu tính luôn hóa đơn bán buôn mậu biên thì lớn nhất. Tuy nhiên con số lớn nhất kia là rất đáng báo động đó là VN là quốc gia nhập khẩu hàng hóa của TQ một con số rất lớn là nếu không muốn nói là sự tàn phá nền kinh tế mà TQ tặng cho VN.

Đó là không tính những thứ hàng hóa độc hại của TQ chi phối mọi ngõ ngách của nền kinh tế VN rất khủng khiếp là bất cứ ở đâu nơi nào cũng thấy hàng hóa độc hại của họ ở VN.

Vì nhập khẩu nhiều của TQ nên VN cần ngoại tệ lớn, và nó cũng giải thích phần nào là dự trữ ngoại hối của VN rất thấp là dù quốc gia này xuất khẩu rất lớn, nhưng xuất khẩu cực nhọc vất vả để thu về từ đồng bạc lẻ USD của họ thì đem cống nạp “Thiên Triều” là TQ, khiến cho VN không có dự trữ ngoại tệ để dành để nâng đỡ tỷ giá hối đoái hay dùng cho đầu tư để phát triển các dự án kinh tế lớn, mà phải quanh năm đi vay tiền của thiên hạ, đã thế chiến lược phát triển kinh tế của VN còn lệch lạc là rước hàng hóa rẻ mạt độc hại kém phẩm chất của TQ về tàn phá hàng tiêu dùng trong nước của họ, khiến cho không có bất cứ doanh nghiệp nào của VN ngóc đầu lên nổi.

Đã thế một tên hề trong quốc hội: “Đại biểu Ngọ Duy Hiểu đề nghị lấy tinh thần chống Mỹ để cứu dân tộc thoát khỏi tình trạng thực phẩm không an toàn.”, thì đúng là mất chục năm rồi vẫn thế là không biết làm gì cả ngoài mang khoe mấy tấm huy chương chống Mỹ ra làm chuyện hài 👩..

Ảnh: Bà chuyên gia của Morgan Stanley, nick facebook có tên Việt Nam là Thơ Phương. Trước đây bà còn có nick là Phương Thơ nhưng đã bị đánh sụp đến 5 lần…

Image may contain: 1 person, smiling, closeup and outdoor
 

Hàng trăm côn đồ cầm hung khí đánh người, chính quyền ‘im re’

Hàng trăm côn đồ cầm hung khí đánh người, chính quyền ‘im re’

Cả trăm côn đồ mang hung khí đi nghênh ngang giữa đường để giải quyết mâu thuẫn tại nhà nghỉ, karaoke Hoàn Xuyến. (Hình: Báo Tuổi Trẻ)

LÂM ĐỒNG, Việt Nam (NV) – Mâu thuẫn từ trước, khoảng 120 thanh niên mang hung khí đi tìm chủ quán karaoke ở huyện Di Linh, Lâm Đồng để trả thù. Không tìm được, cả nhóm tấn công con trai ông này và đập phá đồ đạc.

Theo báo Tuổi Trẻ, khoảng 9 giờ 30 phút sáng 13 Tháng Sáu, khoảng 120 người đi trên sáu xe hơi mang nhiều dao, kiếm, mã tấu, gậy… đến quán karaoke của ông Nguyễn Văn Hoàn (43 tuổi), xã Tân Lâm, huyện Di Linh, để giải quyết mâu thuẫn ba ngày trước.

Sau khi xuống xe, đám đông vác hung khí đi bộ nghênh ngang giữa đường tìm đối thủ, khiến nhiều người hoảng sợ.

Tuy nhiên, khi vào đến nơi nhóm này không gặp được ông Hoàn nên quay sang đập phá tivi, máy tính, cửa kính, camera… Thấy con trai ông Hoàn là cháu Nguyễn Việt Anh (16 tuổi) chạy ra, chúng liền lao vào đánh, chém khiến em bị thương nặng phải nhập viện.

Theo công an huyện Di Linh, qua xác minh, nhóm giang hồ này được tập hợp từ huyện Lâm Hà và Bảo Lâm. Tuy nhiên, sau khi xảy ra vụ việc, công an huyện phối hợp với ủy ban xã Tân Lâm tăng cường lực lượng tuần tra, kiểm soát, nhưng “do địa bàn quản lý rộng, giáp ranh với các huyện Bảo Lâm, Lâm Hà và với tính chất phức tạp của vụ việc, nên huyện phải nhờ công an tỉnh vào cuộc.”

Báo Tuổi Trẻ cho biết, trong thời gian qua xã Tân Lâm với các xã Lộc Đức, Lộc Phú, Lộc Ngãi, Tân Thanh, xuất hiện nhiều băng nhóm giang hồ.

Đây cũng là khu tái định canh của Dự Án Thủy Điện Đồng Nai 3, do Ban Quản Lý Dự Án Thủy Điện 6 làm chủ đầu tư. Song do dự án khai triển chậm dẫn tới tình trạng lấn chiếm đất, tranh chấp đất đai gay gắt.

Các băng nhóm này có hành vi đe dọa, uy hiếp cán bộ quản lý bảo vệ rừng vùng giáp ranh; cưỡng đoạt, lấn chiếm đất lâm nghiệp đối với hộ nhận khoán. (Tr.N)

Bản án cho dân tộc !

From facebook:  Hoang Le Thanh added 3 new photos 
 Bản án cho dân tộc !

Blogger Mẹ Nấm- Nguyễn Ngọc Như Quỳnh là một nhà hoạt động lên tiếng mạnh mẽ về nhiều vấn đề tại Việt Nam như chống Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa; cổ xúy cho quyền con người; chống nạn công an bạo hành, bảo vệ môi trường sạch…

Mẹ Nấm là một người phụ nữ dũng cảm và kiên cường.

Ở bên ngoài, người khen kẻ chê, thậm chí còn có kẻ thù hằn nhỏ nhoi. Dư luận và công luận phán xử theo cảm tính và không phải lúc nào cũng công tâm.

Họ làm như họ đúng đắn, kiên định và công bằng lắm.

Bước chân vào tù, mọi suy nghĩ và đấu trí rất căng thẳng, người tù nhân lương tâm bị cắt đứt hoàn toàn mọi nguồn tin, thậm chí không cho thăm nuôi, không cho thân nhân gặp mặt.

Mẹ Nấm – trong suốt hơn 8 tháng qua – đã không được gặp mẹ già và 2 đứa con thơ dại thậm chí Mẹ Nấm cũng không được gặp Luật sư của mình, …

Tư tưởng, tinh thần người tù nhân lương tâm chiến đấu trong cô đơn, tuyệt vọng, đến khi có quyết định ra tòa, gia đình và công luận mới biết cô còn sống.

Bất cứ Mẹ Nấm nhận tội hay không nhận tội, cô vẫn là tấm gương sáng chói mà hằng vạn người phải tôn trọng và học hỏi.

Những tội trạng vô lý mà nhà cai trị áp đặt trên vai gầy bé nhỏ của cô quả hết sức nặng nề, tuy còn 10 ngày nữa mới ra tòa, nhưng ai cũng biết bản án bỏ túi đã định sẵn.

Bất cứ bản cáo trạng như thế nào, Mẹ Nấm vẫn là người VÔ TỘI.

Bất cứ hoàn cảnh nào Mẹ Nấm vẫn xứng danh nữ anh thư đất Việt.

Chế độ này sẽ không tồn tại để giam Mẹ Nấm đến hết hạn tù.

Chúng ta càng trân trọng những công lao đóng góp và cống hiến cho Tổ quốc Việt Nam của Mẹ Nấm – Nguyễn Ngọc Như Quỳnh.

Hãy ghi nhớ gương mặt tên chánh án và bọn tay sai Trung cộng. Dân tộc và Tổ Quốc sẽ có ngày trừng trị bọn chúng.

Chúng ta yêu thương, cảm phục và kính trọng Mẹ Nấm – Nguyễn Ngọc Như Quỳnh.

Ảnh mới nhất của Mẹ Nấm tại chụp tại công an tỉnh Khánh Hòa vào chiều ngày 10/10/2016 (đã chụp cách nay hơn 250 ngày).

Image may contain: 1 person, closeup
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.