Anh & Tôi – Thơ Bùi Giáng – Nhạc Phạm Trung

httpv://www.youtube.com/watch?v=gFrHxsrYOzM&feature=youtu.be

Anh & Tôi – Thơ Bùi Giáng – Nhạc Phạm Trung

Tháng 11 nhớ đến các linh hồn.

Xin chia sẻ bài hát phổ từ thơ của thi sỹ Bùi Giáng.

Ta là cát ta sẽ về với bụi

Trả trần gian những cay đắng muộn phiền

Hồn ta đi về nơi cao xanh ấy

Không còn buồn lo lắng chốn trần ai

Kính mến,

P.Trung

BÀN VỀ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN Ở VN

From facebook: Christina Le

BÀN VỀ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN Ở VN
(Nguyễn Hưng Quốc)

Chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay như một đám lục bình chỉ nổi bập bềnh trên mặt nước. Sự tồn tại của nó chỉ dựa vào sự trung thành của công an. Do đó, một mặt, đảng cộng sản đưa ra sự khuyến dụ đối với công an: “Còn đảng, còn mình”; mặt khác, họ ngoảnh mặt làm ngơ trước hai tệ nạn do công an gây ra: tham nhũng và trấn áp dân chúng một cách dã man.

Trước đây, trên thế giới, có 15 quốc gia chính thức theo chủ nghĩa cộng sản và 11 quốc gia tự nhận là cộng sản hoặc theo khuynh hướng cộng sản. Mười lăm quốc gia ở trên là: Albania, Bulgaria, Czechoslovakia, Đông Đức, Hungary, Mông Cổ, Ba Lan, Romania, Liên Xô, Yugoslavia, Trung Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào và Việt Nam. Mười một quốc gia ở dưới là: Angola, Benin, Congo, Ethiopia, Mozambique, Zimbabwe, Grenada, Nicaragua, Campuchia, Afghanistan và Nam Yemen. Tổng cộng, từ hai bảng danh sách ấy, có cả thảy 26 nước cộng sản hoặc có khuynh hướng theo cộng sản. Từ đầu thập niên 1990, tất cả các chế độ cộng sản ấy đều lần lượt sụp đổ. Hiện nay, trên cả thế giới, chỉ còn năm nước mang nhãn hiệu cộng sản: Trung Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào và Việt Nam.

Chưa có dấu hiệu nào cho thấy chủ nghĩa cộng sản ở năm quốc gia này sẽ sụp đổ sớm. Trong năm nước, có ba nước có quan hệ chặt chẽ với nhau: Trung Quốc, Việt Nam và Lào. Có lẽ Lào chỉ thay đổi được thể chế chính trị nếu, trước đó, Việt Nam cũng thay đổi; và Việt Nam có lẽ chỉ thay đổi nếu trước đó Trung Quốc cũng thay đổi. Như vậy, quốc gia có khả năng châm ngòi cho bất cứ sự thay đổi lớn lao nào là Trung Quốc.

Tuy nhiên, ngay cả khi Trung Quốc và Việt Nam chưa thay đổi và chưa từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, giới nghiên cứu cũng phát hiện những dấu hiệu suy tàn âm thầm của chủ nghĩa cộng sản bên trong hai quốc gia này.

Ở đây, tôi chỉ tập trung vào Việt Nam.

Nhìn bề ngoài, chế độ cộng sản tại Việt Nam vẫn mạnh. Hai lực lượng nòng cốt nhất vẫn bảo vệ nó: công an và quân đội. Dân chúng khắp nơi bất mãn nhưng bất mãn nhất là nông dân, những người bị cướp đất hoặc quá nghèo khổ. Có điều nông dân chưa bao giờ đóng được vai trò gì trong các cuộc cách mạng dân chủ cả. Họ có thể thành công trong một số cuộc nổi dậy nhưng chỉ với một điều kiện: được lãnh đạo. Trong tình hình Việt Nam hiện nay, chưa có một tổ chức đối kháng nào ra đời, hy vọng nông dân làm được gì to lớn chỉ là một con số không. Ở thành thị, một số thanh niên và trí thức bắt đầu lên tiếng phê phán chính phủ nhưng, một, số này chưa đông; và hai, còn rất phân tán. Nói chung, trước mắt, đảng Cộng sản vẫn chưa gặp một sự nguy hiểm nào thật lớn.

Thế nhưng, nhìn sâu vào bên trong, chúng ta sẽ thấy quá trình mục rữa của chủ nghĩa cộng sản đã bắt đầu và càng ngày càng lớn. Như một căn bệnh ung thư bên trong một dáng người ngỡ chừng còn khỏe mạnh.

Sự mục rữa quan trọng nhất là về ý thức hệ.

Khác với tất cả các hình thức độc tài khác, chủ nghĩa cộng sản là một thứ độc tài có… lý thuyết, gắn liền với một ý thức hệ được xây dựng một cách có hệ thống và đầy vẻ khoa học. Thật ra, chủ nghĩa phát xít cũng có lý thuyết, chủ yếu dựa trên sức mạnh và tinh thần quốc gia, nhưng không phát triển thành một hệ thống chặt chẽ và có ảnh hưởng sâu rộng như chủ nghĩa cộng sản. Còn các chế độ độc tài ở Trung Đông chủ yếu gắn liền với tôn giáo cộng với truyền thống quân chủ kéo dài (thường được gọi là độc tài quốc vương, sultanistic authoritarianism) hơn là lý thuyết. Nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh: các chế độ cộng sản không thể tồn tại nếu không có nền tảng ý thức hệ đằng sau.

Ý thức hệ cộng sản một thời được xem là rất quyến rũ vì nó bao gồm cả hai kích thước: quốc gia và quốc tế. Ở bình diện quốc gia, nó hứa hẹn giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân; ở bình diện quốc tế, nó hứa hẹn giải phóng giai cấp vô sản và tạo nên sự bình đẳng và thịnh vượng chung cho toàn nhân loại. Ở bình diện thứ hai, chủ nghĩa cộng sản, gắn liền với một ước mơ không tưởng, rất gần với tôn giáo; ở bình diện thứ nhất, đối lập với chủ nghĩa thực dân, nó rất gần với chủ nghĩa quốc gia. Trên thực tế, hầu hết các nước cộng sản trước đây đều cổ vũ và khai thác tối đa tinh thần quốc gia trong cả quá trình giành chính quyền lẫn quá trình duy trí chế độ. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa quốc gia dễ thấy nhất là ở các nước thuộc địa và cựu thuộc địa như Việt Nam.

Sau năm 1991, tức sau khi chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, ý thức hệ cộng sản cũng bị phá sản theo. Thực trạng nghèo đói, bất công và áp bức dưới các chế độ cộng sản ấy đều bị vạch trần và phơi bày trước công luận. Sự hứa hẹn về một thiên đường trong tương lai không còn được ai tin nữa. Tính hệ thống trong chủ nghĩa Marx-Lenin cũng bị đổ vỡ. Nền tảng ý thức hệ của các chế độ cộng sản bị tan rã tạo thành một khoảng trống dưới chân chế độ.

Để khỏa lấp cái khoảng trống ấy, Trung Quốc sử dụng hai sự thay thế: chủ nghĩa Mao và Nho giáo (trong chủ trương tạo nên một xã hội hài hòa, dựa trên lòng trung thành). Việt Nam, vốn luôn luôn bắt chước Trung Quốc, không thể đi theo con đường ấy. Lý do đơn giản: Đề cao chủ nghĩa Mao là một điều nguy hiểm cả về phương diện đối nội lẫn đối ngoại; còn với Nho giáo, một là Việt Nam không am hiểu sâu; hai là, nó đầy vẻ… Tàu, rất dễ gây phản cảm trong quần chúng. Bế tắc, Việt Nam bèn tạo nên cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng ông Hồ Chí Minh lại không phải là một nhà lý thuyết. Ông chỉ là một người hành động. Ông viết nhiều, nhưng tất cả đều rất thô phác và đơn giản. Hơn nữa, ở Việt Nam hiện nay, cũng không có một người nào giỏi lý thuyết để từ những phát biểu sơ sài của Hồ Chí Minh xây dựng thành một hệ thống sâu sắc đủ để thuyết phục mọi người. Thành ra, cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh hoàn toàn không trám được khoảng trống do sự sụp đổ của ý thức hệ Marx-Lenin gây ra. So với Trung Quốc, khoảng trống này ở Việt Nam lớn hơn gấp bội.

Mất ý thức hệ cộng sản, chính quyền Việt Nam chỉ còn đứng trên một chân: chủ nghĩa quốc gia.

Nhưng cái chân này cũng rất èo uột nếu không muốn nói là đã lung lay, thậm chí, gãy đổ.

Trên nguyên tắc, Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước rất cao. Bao nhiêu chế độ ra đời từ giữa thế kỷ 20 đến nay đều muốn khai thác và tận dụng lòng yêu nước ấy. Tuy nhiên, với chế độ cộng sản hiện nay, việc khai thác vốn tài sản này gặp rất nhiều khó khăn. Lý do là lòng yêu nước bao giờ cũng gắn liền với sự căm thù. Không ai có thể thấy rõ được lòng yêu nước trừ phi đối diện với một kẻ thù nào đó của đất nước. Hai kẻ thù chính của Việt Nam, trong lịch sử mấy ngàn năm, là Trung Quốc; và gần đây nhất, là Mỹ. Nhưng Việt Nam lại không dám nói quá nhiều về hai kẻ thù này. Với Mỹ, họ cần cả về phương diện kinh tế lẫn phương diện chiến lược. Đề cao truyền thống chống Mỹ, do đó, là điều rất nguy hiểm. Đề cao truyền thống chống Trung Quốc lại càng nguy hiểm hơn: Trung Quốc có thể đánh hoặc ít nhất đe dọa VIệt Nam bất cứ lúc nào.

Bởi vậy, Việt Nam, một mặt, phải hạ giọng khi nói về truyền thống chống Mỹ và phải né tránh việc nhắc nhở đến truyền thống chống Trung Quốc. Hai hành động này có lợi về phương diện đối ngoại nhưng lại có tác hại nghiêm trọng về phương diện đối nội: chính quyền hiện ra, dưới mắt dân chúng, như những kẻ hèn, hèn nhát và hèn hạ. Từ một chế độ được xây dựng trên thành tích chống ngoại xâm, chế độ cộng sản tại Việt Nam lại bị xem như những kẻ bán nước, hoặc bán nước dần dần bằng cách hết nhượng bộ điều này sang nhượng bộ điều khác trước sự uy hiếp của Trung Quốc.

Trước sự sụp đổ của cả hai nền móng, ý thức hệ cộng sản và chủ nghĩa quốc gia, đảng Cộng sản Việt Nam bèn chuyển sang một nền tảng khác: kinh tế với phương châm ổn định và phát triển. Nội dung chính của phương châm này là: Điều cần nhất đối với Việt Nam hiện nay là phát triển để theo kịp các quốc gia khác trong khu vực cũng như, một cách gián tiếp (không được nói công khai), đủ sức để đương đầu với Trung Quốc. Nhưng để phát triển, cần nhất là phải ổn định về chính trị, nghĩa là sẽ không có thay đổi về thể chế và cũng không chấp nhận đa đảng.

Phương châm ấy, thật ra, là một sự bịp bợm: Nó chuyển vấn đề từ chính trị sang kinh tế với lý luận: nếu vấn đề quan trọng nhất của Việt Nam hiện nay là vấn đề kinh tế thì mọi biện pháp sửa đổi sẽ chỉ giới hạn trong phạm vi kinh tế. Với lập luận này, chính quyền có thể trì hoãn mọi yêu cầu cải cách chính trị.

Tuy nhiên, nó hoàn toàn không thuyết phục, bởi, ai cũng thấy, lãnh vực kinh tế là mặt mạnh nhất của chủ nghĩa tư bản và cũng là mặt yếu nhất của chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản. Tất cả các quốc gia dân chủ ở Tây phương đều có hai đặc điểm nổi bật: về chính trị, rất ổn định và hai, về kinh tế, rất phát triển. Ở Việt Nam, người ta cố thu hẹp phạm vi so sánh: các cơ quan truyền thông chính thống chủ yếu tập trung vào các nước Đông Nam Á, đặc biệt Thái Lan với một thông điệp chính: đa đảng như Thái Lan thì lúc nào cũng bị khủng hoảng. Nhưng ở đây lại có hai vấn đề: Một, dù liên tục khủng hoảng về chính trị, nền kinh tế của Thái Lan vẫn tiếp tục phát triển, hơn hẳn Việt Nam; hai, ngày nay, do xu hướng toàn cầu hóa, tầm nhìn của dân chúng rộng rãi hơn nhiều; chính quyền không thể thu hẹp mãi tầm nhìn của họ vào tấm gương của Thái Lan được.

Về phương diện lý luận, chiêu bài ổn định và phát triển, do đó, không đứng vững. Về phương diện thực tế, những sự phá sản của các đại công ty quốc doanh và đặc biệt, khối nợ nần chồng chất của Việt Nam khiến dân chúng càng ngày càng thấy rõ vấn đề: các chính sách kinh tế của Việt Nam không hứa hẹn một sự phát triển nào cả, nếu không muốn nói, ngược lại, chỉ lún sâu vào chỗ bế tắc.

Thành ra, có thể nói, tất cả các nền tảng chế độ cộng sản Việt Nam muốn nương tựa, từ chủ nghĩa Marx-Lenin đến chủ nghĩa quốc gia và lập luận ổn định để phát triển, đều lần lượt sụp đổ. Chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay như một đám lục bình chỉ nổi bập bềnh trên mặt nước. Sự tồn tại của nó chỉ dựa vào sự trung thành của công an. Do đó, một mặt, đảng cộng sản đưa ra sự khuyến dụ đối với công an: “Còn đảng, còn mình”; mặt khác, họ ngoảnh mặt làm ngơ trước hai tệ nạn do công an gây ra: tham nhũng và trấn áp dân chúng một cách dã man. Nhưng chính sách này chỉ càng ngày càng biến công an thành một đám kiêu binh và càng ngày càng đẩy công an cũng như chính quyền trở thành xa lạ với dân chúng. Sự xa lạ này càng kéo dài và càng trầm trọng, đến một lúc nào đó, trở thành đối nghịch với quần chúng.

Một nhà nước được xây dựng trên một đám kiêu binh, trong thời đại ngày nay, không hứa hẹn bất cứ một tương lai nào cả.

(Nguyễn Hưng Quốc)

“KỂ LẠI VỤ BẮT CÓC HÔM QUA (phần 1).

From facebook:   Trần Bang‘s post.
 
Image may contain: 1 person, text and outdoor
Trần Bang

Rất nên học hỏi anh Trương Dũng!

“KỂ LẠI VỤ BẮT CÓC HÔM QUA (phần 1).

Sáng hôm qua, 15/11, tôi có hẹn với Tường Thuỵ, Hà Thanh đi thăm TNLT Nguyễn Văn Điển tại trại giam số 1.

7h30 tôi rời khỏi hàng nước gần nhà, đi được 3 bước thì lực lượng an ninh quận và thành phố ập đến xông vào đánh và bắt tôi lên xe ô tô 7 chỗ, đi thẳng về CQANĐT thành phố, 89 Trần Hưng Đạo.

Tại phòng làm việc có viên trung tá Phạm Hồng Hải Ninh và nữ đại uý Lê Phương Hồ Lưu Ly tươi cười chào tôi và tự giới thiệu tên tuổi và bảo sẽ trực tiếp làm việc với tôi. Vừa lúc đó có tên AN mặc thường phục đi vào ngồi chễm chệ trước mặt tôi.
Tôi hỏi trung tá Ninh:
– Người này là ai? 
– Đây là đồng chí Khương đội phó AN đống đa.
– Tôi không làm việc với CA mặc thường phục, đề nghị mời ra ngoài! Tôi lên tiếng.
– Có gì đâu anh, đồng chí ấy kết hợp làm việc với em, sao anh nặng nề thế?
– Đây là nguyên tắc nhé. Nếu anh 
không mời ra tôi sẽ ko làm việc! 
– (Bất đắc dĩ )trung tá Ninh mời hắn ra ngoài 
Mắt long sòng sọc, hắn tiến về phía tôi gầm gừ một lúc mới đi ra rõ ràng vẻ cay cú.

Trước khi làm việc, trung tá Ninh giải thích cho tôi 
– 1) anh hợp tác thành khẩn khai báo với CQĐT
– 2) anh có quyền bày tỏ quan điểm sự việc…
Tôi xen vào:
– Còn điểm thứ 3 là tôi có quyền im lặng! 
– Đúng rồi. Hắn trả lời vẻ bối rối.
– Tôi sẽ chọn cách thứ 3, im lặng. Tôi nói dứt khoát.

Cuộc đấu trí bắt đầu. Đại uý Lưu Ly trực tiếp hỏi tôi:
– Anh cho biết họ và tên.
Tôi giữ quyền im lặng, ko trả lời 
– Bọn em biết hết rồi 
– Anh có tham gia HAEDC không?
– Im lặng
– Anh có quen biết ls Nguyễn Văn Đài, Phạm Văn Trội, Nguyễn Trung Tôn, Nguyễn Bắc Truyển, Lê Thu Hà, Trương Minh Đức không?
– Có 
– Anh quen vào hoàn cảnh nào? 
– Đó là chuyện cá nhân, tôi không nói.
– Anh có sử dụng fb không ?
– Có!
– Nick của anh là gì?
– Của cá nhân tôi không nói 
– Tại sao nick Truong Dung có ảnh đại diện của anh?
– Kể cả ảnh của em anh cũng làm đại diện được nhé! Tôi bảo.
– Thế tại sao nick trương dũng lại có giấy triệu tập của anh?
– Có lẽ nick đó của AN, bởi vì họ hack vào máy của tôi và dán vào nick trương dũng thì sao?
– Khiếp, anh cứ làm như an ninh quá siêu
– À thì trước diễn đàn quốc hội ông Nguyễn Đình Quyền chả bảo: “An ninh việt nam giỏi nhất thế giới” đó sao. Tôi đáp.
– Anh có biết quan hệ với HAEDC là phản động không? 
– À, hoá ra Nông Đức Mạnh chụp ảnh với Cù Huy Hà Vũ thì cũng là phản động! Tôi đáp.
– Anh còn nhớ thập niên 70 và 80 anh đã vi phạm pháp luật không?
Sau đó ả đọc vanh vánh tất cả các tiền án và tiền sự của tôi. Tôi bảo với ả: 
– Việc vi phạm pháp luật của tôi muốn nói gì thì nói tôi cũng chỉ là dân đen. Thằng Trần Đại Quang và Phạm Quí ngọ trộm cắp trong vụ Vinaline sao ko xử lý đi?
– Anh không được xúc phạm đến lãnh đạo! Cô ta dằn giọng.
– Tôi nói cho chị biết, tôi cũng là công dân, nó cũng vậy, tất cả đều bình đẳng trước pháp luật!
– Anh có biết tội lật đổ chính quyền nhân dân án phạt là bao nhiêu không?
– Tôi không biết, vậy chị đọc cho tôi nghe.
Ả đọc một số khung hình phạt, tội cao nhất là tử hình.
– Tôi chưa biết về khái niệm tội lật đổ. Tôi hỏi.
– Những đối tượng lôi kéo, kích động, xuyên tạc, tuyên truyền, bôi nhọ lãnh đạo đều bị xử lý. 
– Nếu phản đối Lê Đức Anh bán nước trong vụ Gạc Ma hy sinh 64 chiến sĩ, hoặc biểu tình chống trung quốc có bị phạm tội không ? 
Ả trả lời tỉnh queo:
– Đều phạm tội. Nếu anh có đủ bằng chứng việc anh vừa nêu thì làm đơn gửi tới cơ quan công an sẽ xem xét nghiên cứu giải quyết!
– À ra thế 
– Từ sáng tới giờ việc lập biên bản với anh rất khó khăn. Bây giờ em sẽ lập theo cách nhanh gọn nhất rồi đi về, thí dụ: Anh có tham gia HAEDC không? Chỉ cần trả lời có hay không. Em sẽ ghi vào và một loạt câu khác nữa. sau đó anh ký và đi về. 
– Tôi đã nói rồi, tôi sẽ im lặng không ký gì hết. 
Ả ta nổi xung lên: “Anh đừng có chống đối!”.
– Chị đừng có nặng lời với tôi, nếu còn nặng lời hoặc xúc phạm ko làm việc được với tôi đâu. Tính tôi thích nhẹ nhàng. Tôi nhắc nhở.
– Em nói cho anh biết trong HAEDC cứng đầu nhất Lê Thu Hà bây giờ đã khai thành khẩn hết, em đã làm việc với Hà nhiều lần rồi, hiện nay trong số những người đang tạm giữ, họ đã khai anh là cộng tác viên.
– Kể cả họ khai ra tôi là chủ tịch HAEDC tôi cũng không quan tâm, đấy là việc của họ!
– Anh có biết nếu không thành khẩn khai báo sẽ phạm tội ko, việc này đã qui định trong BLHS.

– Bây giờ tôi có sáng kiến, lập biên bản ghi rõ tôi im lặng, không ký, sau đó chị nhờ người dân vào làm chứng, được chưa? Tôi bảo.
– Đây là CQĐT, không cần anh phải dạy! Cô ta nói.
Tôi tươi cười bảo ả: “Em lại nổi nóng rồi”.
Ả nhẹ giọng nài nỉ tôi không được, cuối cùng phải nhờ một đôi nam nữ vào làm chứng việc tôi không ký.
Tôi tươi cười bảo ả: 
– Đấy, tôi nói có sai đâu, đây là sáng kiến của tôi nhé!
Trước khi họ ký, tôi hỏi 2 nhân chứng: 
– Bọn em có biết vụ của anh không? 
Trung tá Ninh nói xen vào:
– Họ chỉ vào đây làm chứng anh ko hợp tác với CQCA, không cần thiết phải cho họ biết!
Tôi chủ động nói với 2 nhân chứng: 
– Đây là vụ án lật đổ chính quyền nhân dân đấy!
Ả Lưu Ly giãy nảy:
– Đây là vụ án trong quá trình điều tra, phải giữ bí mật quốc gia.
Tôi bảo: 
– Đây là sự thật, nếu không nói ra họ tưởng tôi phạm tội ma tuý, mãi dâm thì sao?

* Đến đây đã kết thúc phần hỏi cung buổi sáng, sau đó họ mang cơm trưa đến cho tôi, tôi từ chối bảo với họ: “Tôi chỉ ăn cơm ở nhà, hãy gọi điện bảo vợ tôi đem cơm đến, nếu không tôi sẽ nhịn. Cuối cùng tôi nhịn cả bữa sáng và bữa trưa.
(Phần 2, hỏi cung buổi chiều, xin kể lại vào ngày mai)”.

Việt Nam: Tự do Internet dậm chân tại chỗ?

Việt Nam: Tự do Internet dậm chân tại chỗ?

Ngày càng nhiều người Việt được tiếp cận với Internet, nhưng sự tự do truyền tải thông tin ngày càng thu hẹp.
Bản quyền hình ảnhHOANG DINH NAM/GETTY IMAGES
Ngày càng nhiều người Việt được tiếp cận với Internet, nhưng sự tự do truyền tải thông tin ngày càng thu hẹp.

Sau đúng 20 năm mở cửa cho Internet, cánh cửa tự do thông tin mạng vẫn đóng chặt ở Việt Nam, theo báo cáo của Freedom House.

Freedom House, tổ chức đánh giá dân chủ do chính phủ Hoa Kỳ tài trợ, xếp hạng Việt Nam 76/100 trên mức thang tự do Internet.

Trên thang 0-100, với 0 tự do nhất, và 100 ít tự do nhất, Việt Nam vẫn nằm trong những nước “Không có tự do Internet” cùng với Trung Quốc và Nga, theo báo cáo công bố hôm 14/11 của tổ chức này.

Ngày 19/11 tới đây sẽ đánh dấu 20 năm Việt Nam bắt đầu hòa nhập mạng Internet toàn cầu, theo Thông tấn xã Việt Nam.

Đến nay đã có hơn 50 triệu người dùng mạng Internet, chiếm 53% tổng dân số. Số người dùng mạng tăng nhiều trong nhiều năm qua, nhưng theo báo cáo của các tổ chức phi chính phủ quốc tế, thì sự tự do truyền tải thông tin trên mạng tại Việt Nam lại ngày càng thu hẹp.

Trong khu vực, Việt Nam đứng cuối bảng, chỉ đứng trên Trung Quốc
Bản quyền hình ảnh  FREEDOM HOUSE
Trong khu vực, Việt Nam đứng cuối bảng, chỉ đứng trên Trung Quốc

Theo báo cáo của Freedom House, tự do Internet ở Việt Nam vào năm 2017 được phản ánh qua tình trạng gia tăng bắt giữ và đàn áp các nhà blogger và nhà hoạt động dân chủ.

Việt Nam đã thả tự do cho 14 blogger và nhà hoạt động khi chịu áp lực từ chính phủ Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Obama trong năm 2014 và 2015 lúc đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Tuy nhiên, trong nửa cuối năm 2016 xảy ra thêm nhiều cuộc bắt giữ và năm 2017 chứng kiến một cuộc trấn áp mạnh mẽ lên các nhà bất đồng chính kiến.

‘Chặn mạng, kiểm soát và thao túng thông tin’

Phúc trình của Freedom House đưa ra những dẫn chứng cụ thể về việc giới chức Việt Nam ngăn chặn luồng thông tin bất lợi cho chính quyền hay giới tài phiệt bằng cách chặn mạng, kiểm soát nội dung và thao túng thông tin bằng ‘dư luận viên’.

Bản phúc trình của Freedom House nhắc tới vụ đụng độ giữa người dân Đồng Tâm và chính quyền Hà Nội diễn ra căng thẳng, với việc hôm 19/4 sóng điện thoại và 3G hoàn toàn không hoạt động trong vài giờ đồng hồ ở thôn Hoành, nơi hơn 30 cán bộ công an bị tạm giữ.

Bản phúc trình cũng dẫn chứng vụ ngược đãi động vật và người lao động ở Safari Phú Quốc của Vingroup. Trang Facebook đăng các thông tin liên quan bị đóng tài khoản tạm thời và người quản trị trang sau đó nói ‘phải dừng việc đăng thông tin vì lý do an toàn’.

Freedom House cũng nhấn mạnh vào sự tồn tại của một lực lượng được gọi là ‘dư luận viên’ giúp chính quyền ‘thao túng thông tin trên mạng xã hội’.

Thanh niên Việt Nam tham gia một khóa học miễn phí về cách sử dụng Internet tại Hà Nội vào 17/7/2001
Bản quyền hình ảnhHOANG DINH NAM/GETTY IMAGES
Thanh niên Việt Nam tham gia một khóa học miễn phí về cách sử dụng Internet tại Hà Nội vào 17/7/2001

Cụ thể là từ 2013, ông Hồ Quang Lợi, Trưởng an Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội tuyên bố thành phố có một đội ngũ ‘dư luận viên’ 900 người, được ‘giao nhiệm vụ làm công tác tuyên truyền tư tưởng cho Đảng’.

Đội ngũ này đã thành lập 18 trang web và hơn 400 tài khoản để giám sát và định hướng thảo luận trên mạng về mọi chủ đề từ chính sách đối ngoại đến tranh chấp đất đai.

‘VN không có tiến bộ về tự do Internet’

Chưa kể Việt Nam vẫn không ngừng gây áp lực lên hai mạng xã hội phổ biến nhất thế giới là Facebook và Youtube. Theo Freedom House, chính quyền yêu cầu các công ty đa quốc gia và doanh nghiệp Việt Nam ngừng quảng cáo trên hai trang mạng xã hội trên.

Theo truyền thông Việt Nam, giới chức cũng yêu cầu Youtube tháo gỡ hàng ngàn clip nhưng Google, công ty mẹ của Youtube nói họ chỉ mới nhận được khoảng 50 yêu cầu gỡ bỏ, và từ 2009 đến tháng 12/2016 chỉ có 5 yêu cầu từ chính quyền Việt Nam.

Freedom House cũng đề cập đến phần mềm FinFisher hoạt động trên 25 quốc gia, bao gồm Việt Nam, như một cách để thâm nhập và theo dõi hợp pháp. FinFisher có thể giám sát các cuộc trao đổi, thu thập danh bạ, tin nhắn và email mà không cần sự cho phép của chủ tài khoản.

VN ‘thúc đẩy mạng xã hội của doanh nghiệp Việt’

Trong báo cáo trả lời với với 4 nội dung chính trước phiên chất vấn gửi đại biểu Quốc hội Việt Nam, Bộ trưởng Thông tin Truyền thông Trương Minh Tuấn nói Bộ Thông tin và Truyền thông muốn “thúc đẩy mạng xã hội do doanh nghiệp Việt Nam cung cấp”.

Người ủng hộ blogger/luật sư Nguyễn Hữu Vinh yêu cầu trả tự do cho ông trước phiên tòa xét xử ông vào tháng 3/2016.
Bản quyền hình ảnhHOANG DINH NAM/GETTY IMAGES
Người ủng hộ blogger/luật sư Nguyễn Hữu Vinh yêu cầu trả tự do cho ông trước phiên tòa xét xử ông vào tháng 3/2016.

Theo Vietnamnet, Bộ trưởng TT&TT nói “các thông tin tiêu cực như xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ, kêu gọi kích động biểu tình, chống phá nhà nước… chủ yếu tồn tại trên các mạng xã hội nước ngoài.”

Ông Trương Minh Tuấn đề nghị ra các giải pháp, hầu hết là cải thiện hệ thống pháp lý và công cụ quản lý để giám sát lượng thông tin trên mạng.

Ngoài ra, ông nói muốn thúc đẩy mạng xã hội do doanh nghiệp tại VN cung cấp dịch vụ.

Hiện tại Việt Nam có mạng xã hội Zalo, thuộc sở hữu của tập đoàn VNG. Theo trang báo Zing.vn, cũng thuộc VNG, đến tháng 8/2017, đã có khoảng 80 triệu người dùng Zalo trên toàn thế giới.

Trước đó, có một điều khoản trong Dự luật An ninh mạng trên gây tranh cãi trên mạng xã hội, với lo ngại Facebook và Youtube ‘có thể bị đóng cửa ở Việt Nam’.

Khoản 4, Điều 34 trong Dự thảo Luật An ninh mạng có ra quy định các doanh nghiệp nước ngoài cung cấp dịch vụ viễn thông, internet… phải đặt máy chủ quản lý dữ liệu ở Việt Nam.

Tuy nhiên trong phiên thảo luận Quốc Hội hôm 13/10, có đại biểu cho rằng việc bắt buộc Facebook đặt máy chủ ở Việt Nam ‘là không khả thi’.

Bộ trưởng Công an, Thượng tướng Tô Lâm nói “nếu vì đảm bảo an ninh, không sử dụng mạng, không ứng dụng tiến bộ mạng thì rất lạc hậu, không thể ‘chơi được với ai’ hay hội nhập với thế giới.”

Tuy nhiên, hầu hết các đại biểu đều thống nhất trong việc gia tăng quản lý, giám sát thông tin trên mạng vì ‘an ninh quốc gia’.

Ai mua tranh ‘Leonardo da Vinci’ với giá 450 triệu USD?

Ai mua tranh ‘Leonardo da Vinci’ với giá 450 triệu USD?

 
Bức tranh đã được làm vệ sinh sạch sẽ và phục hồi hình ảnh, để thay đổi như từ hình bên trái trở thành hình bên phải.

Bức họa 500 năm tuổi về Chúa Jesus, được cho là tác phẩm của danh họa Leonardo da Vinci, đã được bán tại New York với giá cao kỷ lục, 450 triệu đôla.

Bức tranh có tên là Salvator Mundi (Đấng Cứu rỗi Thế giới).

Đây là mức bán đấu giá đạt giá chót cao nhất từ trước tới nay đối với một tác phẩm nghệ thuật.

Bức tranh đã được làm vệ sinh sạch sẽ và phục hồi hình ảnh, để thay đổi như từ hình bên trái trở thành hình bên phải.

Việc bán diễn ra ở nhà Christie's ngày 15/11, tại New York
Bản quyền hình ảnh  AFP
Việc bán diễn ra ở nhà Christie’s ngày 15/11, tại New York

Hồi năm 1958, tranh này chỉ được bán đấu giá với giá 45 bảng ở London.

Khi đó, người ta nghĩ rằng đây là tác phẩm của một người hâm mộ chứ không phải của Leonardo.

Các nhân viên ăn mừng khi xong việc bán đấu giá
Bản quyền hình ảnh   GETTY IMAGES
Các nhân viên ăn mừng khi xong việc bán đấu giá

Cho đến gần đây, bức tranh thuộc về tỉ phú Nga Dmitry E Rybolovlev. Ông này được cho là đã mua với giá 127,5 triệu đôla năm 2013.

Không rõ lần này ai đã mua tranh, tuy có đồn đoán có thể người mua là từ châu Á.

Năm 2015: Bức Nafea Faa Ipoipo của Paul Gauguin tạo kỷ lục với giá 300 triệu đôla
Bản quyền hình ảnh GETTY IMAGES
Năm 2015: Bức Nafea Faa Ipoipo của Paul Gauguin tạo kỷ lục với giá 300 triệu đôla

Chuột chưa chết, Bình đã vỡ

Chuột chưa chết, Bình đã vỡ

Mai Hữu Tín (Danlambao) – Chia rẽ trầm trọng trong hàng ngũ lãnh đạo của ĐCSVN không phải là điều mà ai cũng nhận thấy. Qua hội nghị APEC lần này, bề ngoài, ai cũng cho rằng, nước chủ nhà Việt Nam đã thành công trong việc giới thiệu và trình ra với thế giới hình ảnh của một nước Việt Nam đang lên, văn minh, tiến bộ, sẵn sàng hội nhập và ĐCSVN là một đảng lãnh đạo toàn diện, đoàn kết và hợp lòng dân. Thế nhưng, nhìn cho rõ, sự rạn nứt trong thượng tầng lãnh đạo dù được ông TBT dùng kỹ xảo để che đậy, như bằng cách ra lệnh kết đoàn ngũ rầm rộ đi thăm và kỷ niệm cuộc CMT10 Nga, ngay trước khi hội nghị diễn ra nhằm mục đích trưng bày với thế giới sự lãnh đạo thống nhất và đoàn kết trong DCS, cũng không thể che đậy sự cách biệt và rạn nứt to lớn ngay trong cách thể hiện của 3 vị lãnh đạo cao nhất: Tổng Bí thư, Thủ tướng, Chủ tịch nước.

Sự niềm nở có giới hạn của ông TBT Nguyễn Phú Trọng đối với lãnh đạo của các nước và cường quốc không nằm trong quỹ đạo và ảnh hưởng của chủ nghĩa CS, như Mỹ, Canada, Úc, Nhật, đã hoàn toàn ngược lại với cách tiếp đón niềm nở, nắm tay thân mật một cách quá mức của ông TT Nguyễn Xuân Phúc, một người tiếp cận nhiều và công du nhiều ở các nước Tư bản theo Hoa Kỳ. 

Và hành động dẫn bè đoàn đi kỷ niệm CMT10 Nga và 21 phát đại bác dành cho Tập của ông Nguyễn Phú Trọng một lần nữa lại trái hẳn với sự lạnh nhạt của ông TT Nguyễn Xuân Phúc với lãnh đạo của hai nước Nga và Trung Quốc, Cả hai việc này, vô tình lại làm rõ sự cách biệt về quan điểm của hai khuynh hướng thân Nga, Trung quốc, và thân Mỹ, Phương Tây ngay trong ĐCSVN.

Trong phạm vi bài viết này, tác giả không tìm cách biện giải cho luận điểm này, liên quan đến mục đích mà mọi phe trong ĐCSVN mưu tìm qua việc lợi dụng sự kiện APEC được tổ chức tại VN, mà chỉ muốn làm nổi rõ mâu thuẫn nội bộ trầm trọng ngay trong ĐCSVN và câu hỏi: Vì sao ông Trần Đại Quang lại trở nên quan trong dù: Chủ tịch nước chỉ là một “hữu danh, vô thực”?

Bài viết “Nguyễn Phú Trọng nhìn từ Tập Cận Bình” của nhà báo Nguyễn Chí Dũng trên BBC đã phân tích mục đích và ý đồ của ông TBT Trọng, mục tiêu mà ông ta nhắm tới qua chủ trương diệt trừ tham nhũng. Chiến dịch “đập chuột” của ông TBT mà mục đích chính là diệt trừ vây cánh của Nguyễn Tấn Dũng, đã phần nào đó thành công khi đưa được con chuột to nhất trở về “làm người tử tế”. Nhưng chuột CS thì dễ gì mà diệt cho hết khi bản thân của chính hệ thống này, của chính cái “bình “này, lại là nơi sinh sản và nuôi dưỡng những con chuột kinh khủng đó. Con này về “làm người tử tế “thì lại có ngay con khác, trưởng thành, to lớn và đầy mưu mô xảo quyệt. Kẻ đi diệt chuột dễ dàng bị chuột giết chết như lời của ông thanh tra chính phủ – Phạm Trọng Đạt – “Chống lại có khi chúng tôi chết trước”. Ngay chính bản thân của ông TBT cũng hiểu rõ điều này là không thể.

Bí lối, ý thức được xu hướng thân TQ và say mê ý thức hệ Cộng sản của nhiều người trong ĐCSVN cộng thêm mỗi quan hệ gần gũi với TQ về ý thức hệ, ông TBT bèn lợi dụng sức mạnh của láng giềng khổng lồ nhằm đạt được mục đích tối thượng của mình.

Còn người khác lại cho rằng, sự tận tụy và thái độ hết sức thân mật của ông TT NXP với lãnh đạo của các nước Tư bản như HK, Canada, Úc, v.v… lại là dấu hiệu của nhu cầu hết sức cấp thiết về… “tiền”.

Nhiều tháng trước hội nghị APEC, ông Thủ tướng đã đăng đàn báo động về việc thiếu hụt ngân sách trầm trọng. Tiền đã hết, đầu tư nước ngoài sụt giảm, Việt Kiều lại ít gởi tiền về cho thân nhân, các nguồn viện trợ không hoàn lại bị cắt, bị chuyển đổi thành nợ cho vay có thời hạn. Đã vậy, TTP, hy vọng kiếm tiền, công cụ để tiếp cận các nguồn cho vay lại có nguy cơ bị “vỡ trận”. Hết tiền, ông TT kêu la thắm thiết, năn nỉ WB tìm giúp nguồn tài trợ. Còn Nhà nước ra chiêu khuyến dụ Việt Kiều, xóa bỏ hận thù, đem tiền về xây dựng quê hương. Các nhà thơ, trí thức được bật đèn xanh rát họng kêu gọi hòa giải, hòa hợp Dân tộc. Làm đủ cách nhưng vẫn thiếu hụt nghiêm trọng. May mắn là có APEC, ông TT được dịp tung hết chiêu trò ve vãn, tỏ tình thân mật, niềm nở hết mức. Ông cũng nhân đây tô vẽ bản thân trở thành một nhân vật đại diện cho khuynh hướng “kỹ trị”, hoặc chỉ chú trọng đến “làm ăn”, kinh tế, lo kiếm tiền, hết sức thân thiện, để… “mượn tiền”. Và khi thể hiện mình như một nhân vật thân thiện với giới kinh doanh, đặc biệt là HK và các nước phương Tây, ông TT đã tự đặt mình vào vị trí đối nghịch với phe của ông TBT, chọn cho mình sự hậu thuẫn của các nước này dù có thể bản thân của ông cũng chưa chắc đã muốn như vậy, nhất là khi vây cánh của ông ta trong đảng cộng sản còn chưa đủ mạnh. Ông TT cho đến giờ này không còn là một ẩn số khi nhiều người vẫn nghi ngờ rằng, chính người “tử tế” đã chọn ông làm kẻ “kế thừa”.

Ông Chủ tịch nước lại là một ẩn số khác, dù rằng dư luận đang nghi ngờ ông cũng là một kẻ kế thừa khác của người “đang tử tế”. Xuất thân từ ngành công an, một lực lượng mà theo đánh giá là ngang ngửa với đảng CSVN, thậm chí còn mạnh hơn phe có nhiều súng ống, đạn dược là Quân đội. Sở dĩ được đánh giá như vậy vì thời buổi này, việc sử dùng súng ống, hiện thân của bạo lực đã trở nên không còn cần thiết trong việc “Tề gia, Trị Quốc, Bình thiên hạ”. Giờ công an muốn giết người thì có đủ mọi cách, không cần phải bóp cò, gây tiếng nổ lớn. Và cũng vì mọi việc diễn ra trong âm thầm, bí mật nên ông CTN xuất thân từ nơi này, trở thành một lực lượng đáng gờm trong thế chân kiềng tay ba này. Tuy nhiên, qua APEC, dù danh thì rất thuận, nhưng vai trò của ông có vẻ hết sức mờ nhạt trước những thế lực khác ngoài đảng, ngoài nước. Thậm chí, việc thủ tướng Úc cắt bỏ sự xuất hiện của ông CTN trong ảnh selfie khi đăng lại trên Facebook đã gần như tỏ thái độ xem thường ông CTN. Tin tức tình báo từ phương Tây khá chính xác. Có vẻ như số phận của ông CTN gần như đã được định đoạt từ bây giờ. Vấn đề kế tiếp sẽ là ai là người thay thế ông ta trong nhiệm kỳ tới.

Tấm hình mà truyền thông loan tải khi phái đoàn của nhà cầm quyền CSVN xếp hàng, vái lạy trước tượng đài Lenin đã bị rách toạc. Ai cũng đánh giá rằng, Việt Nam đã hưởng lợi rất nhiều từ APEC, từ kinh tế, ngoại giao, đến hình ảnh. Lợi ích thì chưa thấy, hoặc nếu có cũng chỉ một thiểu số những thương gia, những kẻ có quyền, có tiền mới có đủ khả năng tiếp cận và nhìn thấy được cơ hội kiếm tiền. Riêng với những người trong đảng CS, hơn ai hết, họ hiểu rõ, việc tiếp tục đoàn kết cùng nhau để cùng cai trị, cùng tiếp tục nắm vững quyền lực, ngồi trên đầu 90 triệu dân Việt mới là điều quan trọng sống còn. Và với sự chia rẽ và mâu thuẫn ngay từ trong thượng tầng lãnh đạo, dù có APEC hay không, vấn đề đoàn kết mà ĐCSVN coi là vấn đề sống còn sẽ tiếp tục là nỗi lo lắng thường xuyên của những nhà lãnh đạo CSVN

16.11.2017

Mai Hữu Tín

danlambaovn.blogspot.com

Quân đội Zimbabwe bắt giữ vợ chồng TT Mugabe, kiểm soát thủ đô

 Quân đội Zimbabwe bắt giữ vợ chồng TT Mugabe, kiểm soát thủ đô

Hai vợ chồng Tổng Thống Mugabe của Zimbabwe. (Hình: AP)

HARARE, Zimbabwe (AP) – Quân đội Zimbabwe hôm Thứ Tư cho hay họ bắt giữ Tổng Thống Robert Mugabe, người cầm quyền đã 37 năm, và bà vợ của ông ta, đồng thời kiểm soát các cơ quan chính phủ, tuần tiễu đường phố thủ đô tiếp theo một đêm có các biến động. Quân đội đã chiếm giữ đài phát thanh và truyền hình.

Các hoạt động quân sự đêm Thứ Ba khiến nhiều người cho rằng có cuộc đảo chánh, tuy nhiên giới ủng hộ quân đội cho hay đây chỉ là “cuộc chỉnh lý không đổ máu”. Tổng Thống Nam Phi cho hay có nói chuyện với ông Mugabe và ông này khỏe mạnh nhưng bị quản thúc tại gia. 

Đây là lần đầu tiên quốc gia ở vùng Nam lục địa Phi Châu này thấy quân đội chống lại ông Mugabe, năm nay 93 tuổi, nhà lãnh đạo cao niên nhất của thế giới và cũng là một trong những nhà độc tài tồn tại lâu nhất. Ông Mugabe cầm quyền từ khi Zimbabwe được hình thành vào năm 1980, từ quốc gia Rhodesia, do thành phần thiểu số da trắng cai trị trước đó.

Hành động của quân đội Zimbabwe diễn ra sau khi ông Mugabe giải nhiệm phó tổng thống nước này, để mở đường cho đệ nhất phu nhân Grace Mugabe lên nắm quyền. Tuy nhiên, bà Mugabe không được dân chúng Zimbabwe ưa thích, trong khi phó tổng thống bị giải nhiệm, ông Emmerson Mnangagwa, được sự ủng hộ của quân đội.

Hôm Thứ Tư người ta không rõ ông Mnangagwa ở đâu, dù rằng tuần qua ông rời khỏi nước sau khi cho hay có đe dọa đến tính mạng cá nhân và gia đình.

Các binh sĩ võ trang đi trên các thiết vận xa thấy đóng ở các ngã tư trọng yếu ở thủ đô Harare, trong khi người dân Zimbabwe sắp hàng dài trước ngân hàng để rút tiền, một điều thường thấy ở quốc gia trong cơn khủng hoảng tài chánh này.

Trong bài diễn văn phát đi sau khi quân đội chiếm quyền kiểm soát đài phát thanh và truyền hình, Thiếu Tướng Sibusiso Moyo vào lúc rạng sáng ngày Thứ Tư cho hay quân đội nhắm vào “thành phần tội phạm” quanh ông Mugabe và tìm cách tái lập an ninh trật tự.

Hai tòa đại sứ Mỹ và Anh ở Harare đều đóng cửa ngày Thứ Tư và kêu gọi kiều dân của mình ở yên trong nhà vì tình hình bất ổn lúc này. (V.Giang)

Những nhà văn bị cầm tù

Kính Hòa RFA
2017-11-15
 
Blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh tại phiên tòa sơ thẩm ở Nha Trang, 6/2017.

Blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh tại phiên tòa sơ thẩm ở Nha Trang, 6/2017.

AFP
 

Ngày 30 tháng 10, năm 2017, Tổ chức Văn bút quốc tế có trụ sở tại Thụy sĩ gửi một bức thư đến Chủ tịch nước Việt Nam, ông Trần Đại Quang, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, và Ngoại trưởng Phạm Bình Minh yêu cầu Chính phủ Việt Nam trả tự do cho blogger Mẹ Nấm, cũng như những người cầm bút bị bắt giam vì thể hiện quan điểm của mình một cách hòa bình qua ngòi bút.

Nhân sự kiện này, chúng tôi xin điểm lại sơ lược câu chuyện những người cầm bút Việt Nam bị bỏ tù từ năm 1956 đến nay.

Bắt đầu là Nhân văn Giai phẩm….

Việc đàn áp những người cầm bút diễn ra chỉ hai năm sau khi những người cộng sản lên cầm quyền ở miền Bắc Việt Nam vào năm 1954. Vào năm 1956, một phong trào văn học nghệ thuật bùng lên tại Hà Nội mang tên Nhân văn Giai phẩm, do những văn nghệ sĩ nổi tiếng nhất Việt Nam thời ấy chủ trương, với hai tờ Giai phẩm và Nhân văn, đòi hỏi tự do chính trị, tự do sáng tác, không phải chịu sự giám sát của Đảng Cộng sản cầm quyền.

Chỉ đến cuối năm 1956, hai tờ báo này đã bị đình bản, các văn nghệ sĩ bắt đầu bị đàn áp bằng nhiều hình thức khác nhau, như là phải đi lao động ở vùng rừng núi, bị gạt ra khỏi việc cầm bút, hoặc bị cầm tù.

Theo tìm hiểu của nhà văn Song Nhị, hiện sống ở thành phố San Jose, Hoa Kỳ, thì có bảy người bị cầm tù, đó là các nhà văn, nhà thơ Hoàng Cầm, Hữu Loan, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Thụy An, và Phùng Cung. Có những người trong nhóm này bị đến 15 năm tù và nhiều năm quản chế sau đó. Tất cả những người vừa nêu đều đã mất.

Lý do được đảng cầm quyền đưa ra để bỏ tù những người này là họ có tư tưởng chính trị thù địch phản động chống lại giai cấp công nông của Đảng Cộng sản.

Sang đến những năm 1960, lại xảy ra một vụ án gọi là xét lại chống đảng, trong đó có một số nhà văn bị liên lụy. Một trong số đó là nhà văn Bùi Ngọc Tấn bị án 5 năm tù giam vào năm 1968.

Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, hiện sống ở Hải Phòng, nói về việc này:

Khi đã tách ra khỏi sự quản lý của Hội nhà văn Việt Nam, chính quyền Cộng sản Việt Nam, thì tác phẩm của họ phải có vấn đề, phải biểu thị sự tách ra đấy, mà nếu biểu thị sự tách ra của mình thì sự an nguy của họ bị ảnh hưởng.
-Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa.

“Nhà văn Bùi Ngọc Tấn là một cây bút có tài, và ông ấy đã trải qua một quảng đời cực kỳ khó khăn, với năm năm tù đày, do cái tư tưởng của ông ấy, trong cái thời điểm mà Liên Xô và Trung Quốc đang tranh giành ảnh hưởng đối với Việt Nam đang đu giây. Khi tư tưởng thân Trung Quốc chiếm ưu thế ở ban lãnh đạo, thì nhà văn Bùi Ngọc Tấn đi tù, tù không có án, mà ở Việt Nam gọi là án cao su, hết năm năm.”

Trong những năm 1960 này thế giới cộng sản bắt đầu bị phân liệt thành hai nhóm, do Liên Xô và Trung Quốc đứng đầu và cạnh tranh với nhau rất quyết liệt, đỉnh điểm là cuộc chiến tranh biên giới Trung Xô nổ ra vào năm 1969.

Sau khi ra tù, ông Bùi Ngọc Tấn đã viết tác phẩm Truyện kể năm 2000 vào năm 1990. Ông nói với đài RFA về tác phẩm này trong một lần trao đổi trước khi mất vào năm 2014:

Câu chuyện nó báo hiệu cái tình trạng mất dân chủ, tình trạng đàn áp, tình trạng bất công với những người lương thiện kiểu như tôi. Quyển đó nó chỉ nói một cái tiền đề về tình trạng mất dân chủ, tình trạng ức hiếp quần chúng hoặc ở dạng này dạng khác.

Quyển sách của ông được nhà xuất bản Thanh Niên trong nước cho in, nhưng sau đó bị thu hồi ngay lập tức.

Năm 1986 Đảng Cộng sản Việt Nam tuyên bố cải cách kinh tế, chấp nhận nền kinh tế thị trường. Một số nhà văn bắt đầu cảm thấy được tự do sáng tác hơn với một số tác phẩm mang tính phê bình chế độ chính trị xã hội, không theo định hướng của đảng. Nổi tiếng nhất trong giai đoạn này là nhà văn Dương Thu Hương với các tác phẩm như Những thiên đường mù, Bên kia bờ ảo vọng,…

Tuy nhiên sự kềm chế các nhà văn lại trở lại ngay sau đó, bà Dương Thu Hương bị cầm tù trong một giai đoạn ngắn vào năm 1991. Sau khi được trả tự do, bà sống như một người tị nạn chính trị tại Pháp.

Trải qua suốt hai thời kỳ vừa nêu, có một nhà thơ bị bỏ tù rất lâu là ông Nguyễn Chí Thiện. Ông bị bỏ tù vào năm 1961 vì tội “phản tuyên truyền”. Ông bị giam giữ làm nhiều lần với tổng cộng thời gian ở tù là 27 năm. Ông sang Mỹ định cư vào năm 1995. Ông Nguyễn Chí Thiện có tập thơ nổi tiếng Hoa Địa ngục, mô tả cảnh sống trong xã hội cộng sản.

….. và hiện nay

Năm 1995 có một nhà văn nữa bị bỏ tù là Tiến sĩ Hà Sĩ Phu. Ông bị án tù một năm với tội danh làm tiết lộ bí mật nhà nước khi ông trao đổi với một số bạn bè, lá thư của cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi cho Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng theo ông lý do làm ông bị bắt là ông đã viết hai bài tiểu luận trước đó là Dẫn tay nhau đi dưới tấm bảng chỉ đường, và Chia tay ý thức hệ, với những chỉ trích phê bình lý thuyết cộng sản.

Ông kể lại với chúng tôi cuộc hỏi cung sau khi ông bị bắt:

Sau khi hỏi lăng nhăng thì họ xoáy vào chuyện tôi viết bài Chia tay ý thức hệ. Thế chứ, họ quan tâm, và bắt tôi là vì tôi viết bài Chia tay ý thức hệ.”

Năm 2008, một nhà văn nữa bị cầm tù với tội danh tuyên truyền chống nhà nước, là nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa tại Hải Phòng. Ông Nguyễn Xuân Nghĩa có một tiểu thuyết và một truyện ngắn viết trước khi bị bắt, trong đó truyện ngắn nói về cuộc sống cơ cực của những người thợ Việt Nam đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan. Cả hai tác phẩm này đều không được xuất bản. Ông nói với chúng tôi:

Tôi không bị cầm tù vì hai tác phẩm, vì họ không xuất bản, nên không ghi tội tôi vào đấy, nhưng họ qui tội tuyên truyền chống nhà nước ở những bài chính luận, những bài thơ, những bài văn xuôi tả cảnh nghèo khổ, bất công của xã hội.”

Ông Nguyễn Xuân Nghĩa được trả tự do vào năm 2014. Đến tháng 10 năm 2017, ông lại bị thẩm vấn về thời gian ngắn ông gia nhập một tổ chức chính trị có tên là Hội Anh Em Dân chủ, chủ trương cạnh tranh chính trị hòa bình với Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong thời gian vài năm trở lại đây, trong số những người cầm bút bị bỏ tù, số lượng những blogger chính trị tăng dần lên như các ông Phạm Viết Đào, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Ngọc Già, Hồ Hải,… bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh,…. Theo tổ chức Phóng viên không biên giới, nội trong năm nay 2017, Việt Nam đã bắt và trục xuất ít nhất 15 blogger, đa số các trường hợp họ bị gán cho tội danh tuyên truyền chống nhà nước theo điều luật số 88 của Bộ Luật hình sự Việt Nam, mà các tổ chức nhân quyền cho là có nội dung không rõ ràng nhằm trấn áp những người chỉ nêu lên chính kiến của mình một cách hòa bình.

Bên cạnh đó một số nhà văn lại lên tiếng tách khỏi Hội nhà văn, tổ chức quản lý các nhà văn của Đảng Cộng sản, và Nhà nước Việt Nam, và những người này đã thành lập một tổ chức gọi là Văn đoàn độc lập vào tháng Ba năm 2014 với số thành viên ban đầu là 62 người.

Tuy nhiên theo nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, cho đến nay chưa có công trình nào đáng kể do những người thuộc Văn đoàn độc lập này tạo ra, lý do theo ông là sự đe dọa bị bỏ tù vẫn còn treo lơ lửng:

Khi đã tách ra khỏi sự quản lý của Hội nhà văn Việt Nam, chính quyền Cộng sản Việt Nam, thì tác phẩm của họ phải có vấn đề, phải biểu thị sự tách ra đấy, mà nếu biểu thị sự tách ra của mình thì sự an nguy của họ bị ảnh hưởng. Cũng có thể là họ sẽ bị qui tội tuyên truyền chống nhà nước, mà đối với một nhà văn mà bị truy tố tội đó, bị cầm tù, thì là một điều người ta kiêng kỵ.”

Công việc xuất bản và phát hành sách hiện nay của Việt Nam vẫn thuộc quyền quản lý của nhà nước do cơ quan tuyên giáo của Đảng chịu trách nhiệm. Việc xuất bản sách trên mạng, hay in không chính thức cũng được tiến hành, nhưng theo ông Nguyễn Xuân Nghĩa những người viết sách không có đủ tài lực để theo đuổi chuyện đó dài lâu.

Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa có cái nhìn khá bi quan về sáng tác văn học của Việt Nam hiện nay, đó là các nhà văn không còn muốn viết nữa.

Hai người Khách Trọ

 Hai người Khách Trọ

Hai vợ chồng người Do Thái tỵ nạn –  Cách họ cảm ơn nước Mỹ

Hai ông bà Peter and Joan , sống ở Seattle , Hoa Kỳ đã qua đời , để lại di chúc nhờ luật sư chuyển toàn bộ gia tài của mình là $847,215.57 cho chính phủ Hoa Kỳ . Hai ông bà không có con cháu , và thân nhân gần cũng không có ai vì họ là những người Do Thái bị Đức Quốc Xã giết hại . Hầu hết thân nhân của họ đã chết trong các trại tập trung của Hitler từ mấy chục năm trước .

Hai ông bà không để lại gia tài cho các hội từ thiện mà để lại cho chính phủ Hoa Kỳ , vì theo di chúc , họ muốn cám ơn chính phủ Hoa Kỳ đã mở rộng vòng tay đón họ và giúp đỡ họ có cuộc sống mới từ trại tập trung kinh hoàng của Đức Quốc Xã .

Ông Peter Petrasek sanh năm 1920 tại nước cộng hòa Czech . Khi quân đội Đức xâm lược nước này thì ông mới 12 tuổi .. Chị của ông chết vì trúng đạn pháo kích , cha của ông bị bắt vào trại tập trung và bị giết tại đây , mẹ của ông thì bị lưu lạc mất tích . Ông còn sống sót là nhờ có sức khỏe và thể hình tốt , nên được chọn chuyển vào trại Thiếu nhi để phục vụ cho quân đội Đức ..

Khi quân đội Mỹ của phe Đồng Minh giải phóng khu trai tập trung đó , ông được nhận vào quy chế tỵ nạn của Mỹ và được đưa sang Mỹ , được 1 gia đình người Mỹ nhận nuôi . Ông không trở về quê hương vì sau khi Phát xít Đức thua cuộc thì đất nước của ông lại bị Liên Xô chiếm đóng và trở thành nước Czech cộng sản .

Bà Joan , vợ ông , cũng là người Do Thái , đến từ Ái Nhĩ Lan . Hai người gặp nhau và làm đám cưới ở Canada , sau đó bà theo ông về Mỹ và sống ở Seatle cho đến ngày mất . Ông Peter làm thợ cơ khí cho hãng Bethlehem Steel suốt mấy chục năm và bà Joan làm nghề thợ may .

Khi bà Joan bị ung thư năm 1998 , biết không qua khỏi , 2 vợ chồng bàn đến việc để lại gia tài cho ai . Hai ông bà đã đồng ý và viết di chúc giống hệt nhau , trong đó nói họ rất cám ơn nước Mỹ đã cho họ cơ hội sống 1 cuộc sống bình an và tự do , 1 cuộc sống không chiến tranh , không lo nghĩ và được đối xử bình đẳng và tôn trọng như mọi người Mỹ khác , là những điều mà họ biết họ không có được nếu sống trong 1 quốc gia độc tài như Phát xít hay Cộng sản , và họ muốn biểu lộ lòng biết ơn đó bằng cách để lại toàn bộ gia tài chắt chiu cả đời cho chính phủ Mỹ .

Sau khi ông Peter mất , đại diện của Tòa Bạch Ốc  đã được mời đến văn phòng luật sư của hai ông bà để nhận tấm ngân phiếu và đã chuyển nó vào ngân khố quốc gia của nước Mỹ . 

MUỐN SINH LỢI PHẢI DÁM LIỀU

MUỐN SINH LỢI PHẢI DÁM LIỀU

“Ông chủ đi vắng…”

Dụ ngôn những nén vàng là dụ ngôn cuối cùng trong ba dụ ngôn được thánh Mátthêu gom lại để nói lên chủ đề “Thời cuối cùng.”  Trong câu chuyện này, ai là ông chủ sắp đi xa, nếu không phải là chính Đức Giêsu? Trước đây một khoảng thời gian ngắn, chính Người đã tuyên bố: “Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ thấy Thầy.” (Ga 16,16).  Người sẽ ra đi để được Chúa Cha tôn vinh cách công khai và long trọng, Người cũng sẽ trở lại để tính sổ.  Vì vậy, Tin Mừng Mát-thêu đã nối kết câu chuyện xét xử tên gia nhân bất tài với cuộc phán xét chung (Mt 25,31-46).

Ngoài ra, trình thuật hôm nay được đặt trong bối cảnh Đức Giêsu sắp tiến vào Giêrusalem và chịu khổ nạn.  Con Người sắp ra đi và trao phó vương quốc lại cho những người được tín nhiệm.  Các ông có nhiệm vụ làm cho vương quốc ấy được tiến triển.

“Một người kia sắp đi xa, liền gọi gia nhân đến mà giao phó của cải mình cho họ.”

Trước hết, tất cả các gia nhân đều được trao một số nào đó, không ai trắng tay, không có vốn ban đầu.  Tuy vậy, mỗi người nhận được số vàng không như nhau.  Sau này, khi trở về, ông chủ tính sổ với mỗi người theo tình trạng không đồng đều này: ông không đòi người nhận hai nén phải trả lại năm nén.  Ông đòi mỗi người theo mức độ ông đã giao, và chỉ chừng đó thôi.

Thời gian của lịch sử nhân loại, đó là thời gian “ông chủ đi vắng”: mỗi người bị đặt trước thử thách, như gia nhân được ông chủ trao phó những trách nhiệm lớn lao.  Quả thế, đời sống của con người qua đi trong lúc dường như Thiên Chúa vắng mặt hay rút lui để cho các thụ tạo có thể phát huy sáng kiến của mình.  Điều này cho thấy Thiên Chúa rất tin tưởng và tôn trọng con người.

Với các môn đệ của Đức Giêsu, nén vàng chính là “Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ…, dạy họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em…” (Mt 28,19.20).  Ngay từ lúc ấy, các môn đệ của Đức Giêsu, đặc biệt là ông Phêrô, được tung vào một thử thách ghê gớm: cuộc đối đầu với các vị lãnh đạo cao nhất về tôn giáo của đất nước.  Ông sẽ mạnh mẽ lên tiếng làm chứng: “Anh em đã giết chết Đấng khơi nguổn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người chỗi dậy từ cõi chết.” (Cv 3,15).  Chẳng có ai ban sức mạnh cho ông, ngoại trừ Thánh Thần của Thiên Chúa.  Tất cả đã được trao cho các môn đệ, cho ông Phêrô.

Ít lâu sau, một cuộc khủng hoảng xảy ra: Có nên từ bỏ Giu-đa giáo không?  Câu trả lời không dễ dàng và cũng không có ngay được.  Dường như chính Đức Giêsu đã không giới hạn sứ vụ của Người nơi đoàn chiên Israel.  Cuối cùng, Hội Thánh đã can đảm tiến lên phía trước: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định…” (Cv 15,28).

Tiếp đó là cuộc đụng đầu với bộ máy cầm quyền ở Rô-ma, rồi với cuộc xâm lăng của dân man-di, việc tiếp xúc với những nền văn minh xa lạ.  Mỗi lần lại là những vấn đề mới.

Nhìn chung chỉ khi nào vượt lên khỏi sự sợ hãi, lúc ấy Hội Thánh mới ý thức được rằng Tin Mừng không phải là một kho tàng để cất giữ, nhưng là một hạt giống cần được gieo xuống, một vườn nho phải sinh hoa trái, một nắm men phải dậy lên, một cuộc phiêu lưu cần mạo hiểm, một số vốn phải sinh lời, và cuối cùng, một trách nhiệm phải chu toàn cho đến ngày ông chủ trở về.

Như thế, ông chủ đi vắng, nhưng ông đã tin tưởng vào các gia nhân.  Ông đã trao toàn bộ tài sản của ông cho họ.  Bổn phận của họ là làm lợi thêm để khi ông trở về, ông sẽ tính sổ và ban thưởng.

“… nhưng ông sẽ trở về”

Ông chủ ra đi khá lâu và cuộc thử thách vẫn kéo dài.  Người ta có cảm tưởng rằng ông không trở về, hay là ông đã chết rồi.  Nhưng không, ông sẽ trở về, vào giờ phút không ngờ.  Không ai biết được lúc nào ông chủ trở về.  Chính vì vậy, Đức Giêsu khuyên các môn đệ luôn phải sẵn sàng, phải tỉnh thức trong khi chờ đợi.

Rồi đến lúc ông chủ trở về và đòi các gia nhân tính sổ.  Những người đã sử dụng vốn liếng ông đã trao để sinh lợi, ông ban tặng phần thưởng xứng đáng.  Riêng với người đem cất kỹ nén vàng ông đã trao, ông xử phạt.  Tại sao thế?  Anh đã không sinh lợi thêm, nhưng ít ra vẫn bảo toàn nén vàng, không suy suyển, mất mát.

Thật ra, anh ta không phải là người bất lương; không sinh lợi thêm không có nghĩa là ăn cắp.  Vậy, anh không làm điều bất công, không lỗi đức công bằng, tại sao anh lại bị quở trách và bị xử phạt?

Ông chủ quở trách anh, không phải vì anh đã phạm tội làm trái lẽ công bằng, nhưng tại vì anh đã cư xử trái ngược với sự tín nhiệm ông đặt nơi anh.  Thái độ đáng bị khiển trách của anh, không phải là không làm lợi thêm cho ông chủ, nhưng chính là không dám làm.  Lý do anh đưa ra để bào chữa cho thái độ của mình: anh sợ ông chủ “là một người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi.”  Anh đã tính toán và nghĩ rằng tốt hơn cả là không nên liều.  Anh đã nghĩ sai về ông chủ, anh đã hồ nghi.  Tội của anh là ở chỗ đó.

Và ông chủ đối xử với anh như anh đã nghĩ về ông.  Anh sợ ông, anh nghi ngờ ông, anh nghĩ ông là người hà khắc; vậy ông xử với anh như anh nghĩ.  Ông đã quở trách anh là bất tài, là vô dụng, thu lại nén vàng đã giao và hơn nữa, còn giam anh vào nơi tối tăm.

Như thế, khi ông chủ tính sổ, thái độ tin tưởng hay hồ nghi sẽ là mức độ để ban thưởng hay xử phạt. Anh gia nhân được giao một nén chỉ nghĩ đến sự hà khắc của ông chủ, nên anh bị phạt, còn những người khác lại nghĩ đến lòng đại lượng của ông chủ, và họ đã sống theo đó, nên được ban thưởng.  Càng tính toán kỹ, người ta lại trở về tay trắng, còn khi tin tưởng, người ta được tràn trề, vượt quá lòng mong ước.

Đây là một thử thách lớn với con người, kể từ thời A-đam. Người ta vẫn có thói quen coi Thiên Chúa như một vị bạo chúa hơn là một người cha đầy tình yêu thương, Đấng đã thiết lập “giao ước” với con người, sau khi họ phạm tội.  Đây cũng là ý nghĩ của những người biệt phái và kinh sư: họ nghĩ rằng chỉ có họ là người công chính, còn người khác thì không.  Họ chẳng yêu mến gì Thiên Chúa, nhưng chỉ vì muốn an toàn và thu lợi về cho mình.  Vì vậy, đương nhiên họ cũng hiểu Đức Giêsu muốn ám chỉ họ khi kể dụ ngôn này.

Như vậy, chắc chắn ông chủ sẽ trở về.  Ông sẽ ban thưởng cho người yêu mến ông, sống xứng đáng với lòng tín nhiệm của ông, ai sống ngược lại, sẽ bị xử phạt.

Mỗi người có vị trí riêng

Một cách gián tiếp, dụ ngôn này đặt nền cho sự tự do của chúng ta.  Nhờ bí tích thanh tẩy, mỗi người đã đón nhận những nén vàng, và phải sinh lợi thêm.  Mỗi người đều có trách nhiệm phát huy sáng kiến để làm tăng thêm những nén vàng.  Tự do cũng đồng nghĩa với dám liều.  Thiên Chúa không muốn chúng ta sống như những người nô lệ, nhưng là như những người tự do, tức là biết quyết định về đời sống hiện tại cũng như tương lai của mình.

Trong thời gian chờ đợi ngày Chúa trở lại, mỗi người chúng ta sẽ sử dụng, điều hành mọi sự không phải như là tài sản của riêng mình, nhưng là của Đấng Sáng Tạo.  Việc sử dụng tốt nhất chính là cộng tác tích cực vào việc xây dựng Nước Thiên Chúa.  Chúng ta sẽ không phân bì, tính toán mình nhận được nhiều hay ít, nhưng hiểu rằng mỗi người có những nén vàng, có vai trò và trách nhiệm riêng của mình.  Thiên Chúa tín nhiệm mỗi cá nhân và giao cho mỗi cá nhân một vị trí đặc biệt, có thể nói mạnh rằng, không ai giống ai.  Điều cần thiết là mỗi người phải hoàn thành “vai trò lịch sử” của mình; bởi vì, vào ngày Chúa trở lại, Người đòi mỗi người phải tính sổ, phải trả lời về những nén vàng mình đã nhận.

Để được như thế, chắc chắn chúng ta phải vượt ra khỏi ý nghĩ cho rằng Thiên Chúa là người hà khắc, trái lại phải sống với Người như với một người cha đầy tình âu yếm.  Thái độ này sẽ khơi dậy lòng tin để dám thoát ra khỏi sự an toàn cá nhân, kể cả việc tỉ mỉ tuân giữ Lề Luật, và vươn tới tinh thần tự do, tinh thần của những người dám đưa ra sáng kiến và đảm nhận trách nhiệm của mình.

Thiên Chúa vắng mặt,

nhưng Người đã tín nhiệm chúng ta,

Người mong muốn chúng ta tỉnh thức

và đảm nhận tương lai của mình.

Chúng ta không có quyền coi thường hay hồ nghi sự tín nhiệm đó,

không có quyền ngủ yên trong hiện tại,

nhưng nhận ra đó là một vinh dự

để nỗ lực hướng tới tương lai, đợi ngày Người trở lại và tính sổ.

 Lm. G Nguyễn Cao Luật, OP

From Langthangchieutim

Trương Minh Tuấn – ngu toàn tập!

From facebook:  Thuc Tran
Trương Minh Tuấn – ngu toàn tập!

Người Quan Sát (Danlambao) – Bộ trưởng Thông tin Truyền thông Trương Minh Tuấn vừa tuyên bố mặc dù Việt Nam đang có đến 363 trang mạng xã hội do “tổ chức trong nước” cung cấp nhưng người dân chủ yếu vẫn dùng Facebook và YouTube (*).

Trương Minh Tuấn cho biết hiện tại có khoảng 53 triệu người Việt trong nước sử dụng Facebook và 35 triệu người dùng YouTube. Cũng theo Trương Minh Tuấn thì lý do chừng đó người dùng 2 mạng xã hội trên vì đây là nơi “Các thông tin tiêu cực như xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ, kêu gọi kích động biểu tình, chống phá nhà nước… chủ yếu tồn tại trên các mạng xã hội nước ngoài, do nhận thức của người sử dụng cho rằng mạng xã hội là môi trường ảo nên có thể tự do phát ngôn mà không phải chịu trách nhiệm, gây ảnh hưởng đến tổ chức, cá nhân”.

Nói như vậy thì chẳng khác gì thú nhận có nhiều triệu người dân đã “xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ, kêu gọi kích động biểu tình, chống phá nhà nước”?

Để giải quyết tình trạng không kiểm soát và che giấu được thái độ của người đối với chế độ, Trương Minh Tuấn hô hào sẽ thúc đẩy mạng xã hội do doanh nghiệp trong nước cung cấp.

Nói cho đầy đủ và chính xác thì đó là những “tổ chức trong nước” do đảng và nhà nước cộng sản toàn quyền kiểm soát.

Trương Minh Tuấn nghĩ rằng khả năng công nghệ trong nước sẽ vượt trội hơn Facebook hoặc YouTube để người dân chọn lựa sản phẩm tốt hơn!? Và người dân sẽ chọn lựa những trang mạng xã hội do “tổ chức trong nước” cung cấp để không còn có thể tự do phát ngôn và chui vào vòng kiểm soát của Bộ 4T và tập đoàn côn an theo như lời Trương Minh Tuấn tuyên bố: “Bộ Thông tin Truyền thông cũng đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an để ngăn chặn, xử lý các trường hợp vi phạm ẩn danh tính…”

Câu trả lời đương nhiên là không. Cách giải quyết duy nhất của tà quyền là tống cổ Facebook, YouTube ra khỏi không gian Việt Nam hay tìm cách sửa luật lệ thông tin mạng để 2 công ty này buột phải rút khỏi Việt Nam vì không thể kinh doanh theo những luật rừng. Đó là điều mà đảng và nhà nước CSVN đang nhắm để tiếp tục thực hiện chính sách bịt mồm cả nước và ngu dân để trị.

16.11.2017

Người Quan Sát
danlambaovn.blogspot.com

Image may contain: 1 person, eyeglasses