Sự bất nhân hay trò cười? – NHỮNG ĐIỀU BẤT NGỜ

Tu Le

 NHỮNG ĐIỀU BẤT NGỜ

Một cô học trò của tôi mới mua một MÁY CHẠY BỘ (treadmill) được vài tháng nay, và kết quả cải thiện sức khoẻ rất khả quan.

Vậy mà sáng nay mặt mày cô buồn hiu, tôi hỏi thì cô nói rằng:

– Trong một bài viết lan truyền trên mạng xã hội mới đây, kể cả Facebook, có bài viết sau đây:

NHỮNG ĐIỀU BẤT NGỜ!

  1. Người phát minh ra máy chạy bộ qua đời ở tuổi 54.
  2. Người phát minh ra thể dục dụng cụ qua đời ở tuổi 57.
  3. Nhà vô địch thể hình thế giới qua đời ở tuổi 41.
  4. Cầu thủ bóng đá xuất sắc nhất thế giới, Maradona, qua đời ở tuổi 60.

NHƯNG…

  1. Người phát minh ra KFC (Gà rán Kentucky) qua đời ở tuổi 94.
  2. Nhà phát minh ra thương hiệu Nutella qua đời ở tuổi 88.
  3. Hãy tưởng tượng, nhà sản xuất thuốc lá Winston qua đời ở tuổi 102.
  4. Người phát minh ra thuốc phiện chết ở tuổi 116 trong một trận động đất.
  5. Nhà phát minh ra Hennessy qua đời ở tuổi 98.

10.Làm thế nào mà các bác sĩ đã đi đến kết luận là tập thể dục kéo dài tuổi thọ?

Con thỏ luôn nhảy lên và nhảy xuống, nhưng chỉ sống được 2 năm, trong khi đó con rùa không vận động gì sống được 400 năm.

*****

NHẬN ĐỊNH –

Tôi đọc bài viết xong, bảo cô: 

– Bài viết này tôi đã đọc. Toàn những điều sai quấy độc địa, không hiểu sao lại lan truyền đến tận giờ, mà lại có người tin!

Nguyên tắc tối thiểu của một thông tin là phải MINH BẠCH, CHÍNH XÁC và phải dẫn NGUỒN chứ! Có thể người viết biện bạch rằng mục đích của họ chỉ là trò cười, nhưng tôi nghĩ đó là bất nhân!

+ CÂU 1 – Người phát minh ra máy chạy bộ QUA ĐỜI Ở TUỔI 54!

Trả lời: SAI!

Có 3 nhân vật liên quan đến lịch sử phát minh và phổ biến MÁY CHẠY BỘ trên thế giới.

Thứ nhất là WILLIAM CUBITT (1785 – 1861) – một kỹ sư người Anh, thọ 76 tuổi.

Source : [ Sir William Cubitt | British inventor | Britannica]

Thứ hai là WILLIAM STAUB (1915 – 2012) – một kỹ sư người Mỹ, thọ 97 tuổi!

Source : [William Staub, Pioneer of Affordable Treadmill, Dies at 96 – The New York Times (nytimes.com)]

Thứ ba là KENNETH COOPER một bác sỹ người Mỹ, sinh năm 1931- năm nay đã 91 tuổi!

Source : [ CooperAerobics – Cooper Aerobics – Full Biography of Kenneth Cooper, MD, MPH]

+ CÂU 2 – Người phát minh ra thể dục cụng cụ qua đời ở tuổi 57!

Trả lời: SAI!

Người phát minh ra thể dục dụng cụ là thầy giáo dạy thể dục người Đức tên FRIEDRICH LUDWIG JAHN (1778 – 1852), thọ 77 tuổi!

Source : [ Friedrich Ludwig Jahn | German educator | Britannica]

+ CÂU 3- Nhà vô địch thể hình thế giới qua đời ở tuổi 41.

Trả lời : SAI!

Tuyệt đại đa số nhà vô địch thể hình thế giới sống điều độ không ai chết sớm thế.

Nói đúng hơn những năm gần đây có một số nhà thể hình thiệt mạng do dùng chất Steroid làm tăng cơ bắp.

Riêng trong năm 2021, có những tên tuổi thể hình thế giới thiệt mạng vì dùng chất cấm trên như sau: Shawn Rhoden (1975 – 2021) – 46 tuổi; George Peterson (1984 – 2021) – 37 tuổi; John Meadows (1972   – 2021) – 49 tuổi; Andy Haman (1966- 2021) – 55 tuổi.

+CÂU 4 – Cầu thủ bóng đá xuất sắc nhất thế giới, Maradona, qua đời ở tuổi 60.

Trả lời : SAI!

Diego Maradona là cầu thủ Argentina (1960 – 2020)– chết không phải do luyện tập bóng đá, mà vì bệnh tim mạch, hậu quả của một lối sống bê tha truỵ lạc, sử dụng ma tuý…

Từ giữa những năm 1980 cho đến năm 2004, Maradona nghiện COCAINE. Ông bị cáo buộc bắt đầu SỬ DỤNG MA TUÝ ở Barcelona vào năm 1983.

Source: [ Diego Maradona – Wikipedia tiếng Việt]

+ CÂU 5 – Người phát minh ra KFC (Gà rán Kentucky) qua đời ở tuổi 94.

Trả lời : Doanh nhân người Mỹ Harland Sanders người phát minh ra món gà rán KFC (1890 – 1980) – 90 tuổi.

Nhưng ông thọ không phải vì ăn gà rán, mà nhờ một lối sống điều độ và chừng mực.

Source: [ Colonel Harland Sanders – KFC, Story & Death – Biography]

+ CÂU 6- Nhà phát minh ra thương hiệu Nutella qua đời ở tuổi 88.

Ông Pietro Ferrero, người Ý, giám đốc Công Ty Ferrero, phát minh ra thương hiệu mứt Nutella (1898 – 1949) – 51 tuổi-

Source: [ https://en.wikipedia.org/wiki/Pietro_Ferrero]

+ CÂU 7. Hãy tưởng tượng, nhà sản xuất thuốc lá Winston qua đời ở tuổi 102!

Trả lời : SAI!

Doanh nhân người Mỹ R. J. Reynolds sản xuất thuốc lá Winston (1850-1918) – 68 tuổi

+ CÂU 8- Người phát minh ra thuốc phiện chết ở tuổi 116 trong một trận động đất.

TRẢ LỜI : SAI!

Friedrich Wilhelm Adam Sertürner (1783- 1841) một dược sỹ người Đức phát hiện chất Morphine năm 1804; ông mất năm 1841, thọ 58 tuổi.

+ CÂU 9. Nhà phát minh ra Hennessy qua đời ở tuổi 98.

TRẢ LỜI : SAI!

Doanh nhân người Ireland tên là Richard Hennessy (1724 – 1800) sản xuất rượu Hennessy. Ông thọ 76 tuổi

+ CÂU 10-Làm thế nào mà các bác sĩ đã đi đến kết luận là tập thể dục kéo dài tuổi thọ? Con thỏ luôn nhảy lên và nhảy xuống, nhưng nó chỉ sống được 2 năm, trong khi đó con rùa không vận động gì sống được 400 năm.

TRẢ LỜI: Quý bạn thấy đó, những luận điệu vô căn cứ và bịa đặt trong 9 phát biểu trên đã được chỉ rõ! Bởi thế câu phát biểu thứ 10 là vô nghĩa và vô đạo đức.

Phải luôn biết rằng: Tập thể dục để sống khoẻ và đẹp là một chân lý!

Tuổi thọ của Thỏ từ 4 – 10 năm. Cớ gì hạ xuống còn 2 năm?

Rùa sống được từ 50 – 100 năm. Hãn hữu có một

vài loài Rùa cạn có thể sống đến 200 năm!

Cớ gì tăng đến 400 năm?

Rùa có di chuyển – nhưng không nhiều, chỉ vài km một ngày thôi. Tốc độ bò chậm khoảng 0,3km – 0,4 km / giờ, nhưng khi khẩn cấp nó có thể “ chạy” với vận tốc 10km/ giờ! Nghĩa là bằng với tốc độ chạy bền của một người bình thường đấy!

Riêng cơ chế sinh học đằng sau tuổi thọ của rùa phức tạp hơn. Tôi sẽ đề cập đến trong một bài khác. Ở đây chỉ xin vắn tắt thế này.

Một trong những thuyết được công nhận rộng rãi cho rằng tuổi thọ loài rùa có liên quan tới SỰ CHUYỂN HOÁ CHẤT chậm chạp của chúng.

Sự chuyển hóa chất là các quá trình vật lý cũng như hóa học diễn ra bên trong sinh vật để giữ cho chúng sống sót. Nói một cách chính xác hơn, chuyển hóa chất là quá trình tạo ra năng lượng.

Chuyển hóa chất chậm đồng nghĩa với việc rùa đốt năng lượng rất ít, giúp gia tăng tuổi thọ. Chúng có thể sống rất lâu mà không cần thức ăn. Hơn nữa, loài rùa nói chung di chuyển rất chậm nên cũng không tốn quá nhiều năng lượng.

Loài rùa còn có lớp mai cứng cáp bao phủ hầu hết cơ thể để bảo vệ chúng khỏi các loài săn mồi. Khi đã phát triển đầy đủ, rùa có thể tự bảo vệ bản thân khỏi hầu hết các loài.

Đặc biệt, chúng có lối sống rất lành mạnh. Chúng thường chỉ ăn rau, cây xanh, tránh khỏi các chất béo và cholesterol.

*****

TẠM KẾT-

Trên đây chỉ là một ví dụ về sự bất nhân của những thông tin khoa học nguỵ tạo – có thể gây hại cho cá nhân và cộng đồng. Xin quý thân hữu và các bạn lưu ý khi tiếp nhận thông tin, và không nên làm lan truyền những bài viết có hại tương tự.

Hãy luôn biết rằng: Tập thể dục để sống khoẻ và đẹp là một chân lý!

Yêu quý tất cả các bạn!

Nguyễn Đại Hoàng


 

KITÔ HỮU LÀ TÁC PHẨM KỲ DIỆU CỦA CHÚA BA NGÔI – TGM Giuse Vũ Văn Thiên 

TGM Giuse Vũ Văn Thiên 

Chúng ta vừa cùng với Giáo hội Hoàn vũ cử hành những mầu nhiệm căn bản của đức tin Kitô giáo: đó là cuộc khổ nạn và phục sinh vinh quang của Đức Giê-su; sự lên trời vinh hiển của Người; Chúa Thánh Thần hiện xuống khai sinh Giáo hội.  Hôm nay, Phụng vụ mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng Thiên Chúa, trong vinh quang viên mãn của Ngài.  Ngài là Thiên Chúa duy nhất, nhưng không đơn độc.  Giáo hội Kitô  tuyên xưng Ngài là Thiên Chúa Ba Ngôi.  Thiên Chúa là Cha, và Con và Thánh Thần.

 Trong cuộc đời dương thế, Đức Giê-su nói về Chúa Cha là Đấng Sáng tạo và là cội nguồn của sự thánh thiện.  Người nói về Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo trợ xuất phát từ nơi Chúa Cha.  Đấng ấy sẽ ở cùng các môn đệ, để tiếp nối công cuộc loan báo Tin Mừng mà Đức Giê-su đã khai mở.  Trong những lần tranh luận với người Do Thái, Chúa Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha, và Người là Con Một của Chúa Cha.  Tâm tình “Cha-Con” được diễn tả đặc biệt thân tình trong lời cầu nguyện của Chúa Giê-su với Chúa Cha mà thánh Gioan đã ghi lại (x. Ga 17).  Dựa vào những chứng cứ trong Tin Mừng, Giáo hội Kitô  ngay từ thuở ban đầu đã khẳng định: Đức Giêsu là Đấng được Chúa Cha sai đến trần gian; Chúa Thánh Thần là Đấng luôn hiện diện trong vũ trụ và đặc biệt trong Giáo hội do Đức Giê-su đã thành lập.  Mặc dù có nhiều trào lưu khẳng định ngược lại (những bè rối ở thế kỷ II và thế kỷ III), tín điều Chúa Ba Ngôi đã được khẳng định bởi các Công đồng.  Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi đã được công đồng La-tê-ra-nô (năm 1339) tuyên tín như sau: “Chúng tôi tin cách vững vàng và tuyên xưng cách đơn sơ rằng: “Chỉ có một Thiên Chúa chân thật, vĩnh cửu vô hạn và bất biến, vô phương hiểu thấu, toàn năng và khôn tả, là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần.  Ba Ngôi vị, nhưng chỉ có một yếu tính, một bản thể hoặc một bản tính toàn đơn nhất.” 

Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo nói về Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi như sau: “Mầu nhiệm Ba Ngôi Chí Thánh là mầu nhiệm trung tâm của Đức tin và đời sống Kitô  hữu.  Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể cho ta biết được mầu nhiệm ấy, khi Ngài tự mạc khải là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (số 261). 

Như chúng ta thấy trong Phụng vụ, khi cộng đoàn Giáo hội dâng lời cầu nguyện, là Giáo hội cầu nguyện với CHÚA CHA, nhờ công nghiệp của CHÚA GIÊSU, trong sự hiệp nhất của CHÚA THÁNH THẦN.  Như thế, lời cầu nguyện của cộng đoàn tín hữu quy hướng trực tiếp về Chúa Cha.  Tuy vậy, vì con người bất xứng, nếu tự mình thì lời cầu nguyện không có giá trị, nên phải cậy nhờ công nghiệp của Đức Giêsu, tức là cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Người, để xứng đáng dâng lên Chúa Cha những ước nguyện.  Và, những ước nguyện ấy được thân thưa trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần, tức là với ơn soi sáng phù trợ của Ngôi Ba Thiên Chúa. 

Không chỉ trong Phụng vụ, mà trọn vẹn đời sống của người Kitô hữu đều được chìm ngập trong tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa.  Nhờ vậy, chúng ta được chia sẻ sức sống thần linh với Đấng Tối Cao.

Đâu là mối tương quan giữa mầu nhiệm Ba Ngôi với cá nhân người tín hữu?  Mỗi chúng ta, tuy nhỏ bé, nhưng là tác phẩm của Chúa Ba Ngôi.  Giáo lý truyền thống dạy chúng ta: con người được Chúa Cha tạo dựng; được Chúa Con cứu chuộc và được Chúa Thánh Thần thánh hóa.  Mỗi chúng ta đều là tác phẩm của Thiên Chúa, là hình ảnh sống động của Ngài.  Chúa Ba Ngôi hiện diện trong tâm hồn người tín hữu từ khi được Thanh tẩy.  Chúa Ba Ngôi cũng là đích điểm cuộc đời chúng ta, vì hạnh phúc thiên đàng chính là được chiêm ngưỡng Chúa Ba Ngôi trong hạnh phúc trường tồn.

 Khi mừng lễ Chúa Ba Ngôi, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy nhận ra quyền năng cao cả của Đấng chúng ta tôn thờ (Bài đọc I).  Hơn nữa, Kitô  hữu còn là con Thiên Chúa và là đồng thừa kế với Đức Kitô, nhờ mầu nhiệm cứu chuộc của Đức Giê-su và nhờ Thánh Thần hướng dẫn (Bài đọc II).  Đức Giê-su Phục sinh đã trao các môn đệ và chúng ta hôm nay sứ mạng làm chứng cho tình yêu của Chúa Ba Ngôi, bằng cách sống tốt lành thánh thiện và nhiệt tâm loan báo sứ điệp yêu thương của Đức Giê-su, Đấng luôn hiện diện giữa chúng ta. 

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim


 

Bao nhiêu tuổi mới gọi là già nhỉ?

K75 LƯƠNG VĂN CAN

Huy Chiêu

 Chau Nguyen

 Ngày xưa, khi gã còn trẻ, ai nói đúng sai gì, gã cũng tìm cách phản bác.

Bây giờ già rồi, kinh nghiệm đầy mình, nhìn thấy cuộc đời muôn mặt, gã trở nên dễ dãi hơn, ai nói gì cũng… gật, ai nói gì cũng thấy có lý…

Gã nói: “Ấy là dấu hiệu đã về già”.

Rồi gã lại lẩn thẩn suy nghĩ: “Bao nhiêu tuổi mới gọi là già nhỉ?”

Hồi gã mới 14,15 tuổi, thấy các chị hàng xóm 18, đôi mươi, gã cứ nghĩ là những bà cô thuộc loại già khú đế!

Bây giờ, gần 60 tuổi, nhìn các bà 50 tuổi gã lại cho là trẻ, nhìn các mẹ bốn chục, gã cho là con nít ranh!

Thế thì, bao nhiêu tuổi mới gọi là già?!!!

Ở xóm trên có bà cụ tuổi 90, chiều qua, than vãn với gã:

“Giờ tôi còn khỏe, mai mốt già rồi chẳng biết nương dựa vào ai!”

90 tuổi mà còn nói: “…mai mốt già rồi…”.

Thế thì, bao nhiêu tuổi mới gọi là già?!!!

Mỗi sáng đứng trước gương, thấy trán mình cao hơn, đừng tưởng mình sắp trở thành người thông thái, mà phải biết đó là chứng rụng tóc, đó là dấu hiệu của tuổi già…

Nếu mình thấy thiên hạ dường như trẻ lại, thì chính là mình đang già đi.

Những lúc khề khà bên chén rượu với mấy ông bạn đồng liêu, gã nói: Khi về già thì tai điếc đặc, nghe nhạc cứ như “đàn gảy tai trâu”. Nhưng có cái lợi là ai chê bai, trách móc, thậm chí chửi bới, mình cũng chẳng nghe. Họ nói, họ nghe.

Khi về già, mắt kém, đọc sách báo một lúc, chữ cứ nhòe đi, nghĩ cũng bực nhưng lại có thời gian đi tản bộ quanh làng ngắm cảnh thiên nhiên.

Khi về già, đầu óc không còn minh mẫn nữa, nói trước, quên sau. Cũng hay, bởi nhiều thứ đang cần vứt bỏ bớt đi cho tâm hồn thanh thản, nhẹ nhàng, giữ lại cũng chẳng sinh ích lợi gì mà khiến mình cứ phải suy nghĩ vẩn vơ.

Khi về già, chân tay trở nên lóng cóng, ăn uống không được gọn gàng, thức ăn rơi vãi ra ngoài, dính cả lên râu, lên mép. Gã nhớ đến câu chuyện đứa bé đẽo máng gỗ để dành cho cha mẹ lúc về già có cái mà dùng, thật là chí lý.

Khi về già, ăn uống thứ gì cũng phải kiêng khem. Kiêng mặn, kiêng ngọt, kiêng chất béo, kiêng thuốc lá, kiêng rượu,…

Riêng gã, kiêng gì cũng được, nhất định không kiêng rượu. Đi khám bệnh, cố nèo cho được thang thuốc bắc về ngâm rượu. Bữa cơm nào cũng phải có tí rượu. Chán rượu, có nghĩa là sức khỏe có vấn đề.

Gã quan niệm, kiêng cũng chết mà không kiêng cũng chết.

Chết là quy luật của tạo hóa.

Chết là một phần tất yếu của cuộc sống, nếu như không muốn nói đó là một kinh nghiệm kỳ thú mà mỗi chúng ta chỉ được trải nghiệm một lần duy nhất trên đời…

Ai rồi cũng sẽ chết, kẻ chết già người chết trẻ.

Người già chết, chúng ta mừng cho họ vì họ thoát khỏi hệ lụy trần gian, không còn là gánh nặng cho con cháu.

Người trẻ chết, chúng ta cũng mừng cho họ vì họ không còn phải bận tâm công ăn việc làm, cơm áo gạo tiền, khỏi lo nhà cửa, khỏi lo yêu thương, giận hờn, ghen ghét, khỏi lo…

Khi về già, sức khỏe là vốn quý. Nhưng nếu không hề đau ốm, thì cũng rất nhàm chán, không cảm nhận hết được cái vốn quý ấy. Theo kinh nghiệm của gã, thỉnh thoảng nên ốm một trận.

Nhẹ thì chỉ cần bảo vợ con cho ăn bánh đúc mắm tôm, đấm lưng, cạo gió, nấu nồi nước xông. Xông xong rồi lau người cho khô, lên giường ngủ một giấc. Sáng mai thức dậy thấy đời tươi phơi phới!!!

Nếu bệnh nặng, phải đi nằm bệnh viện thì chớ vội nản lòng. Ngoài vợ con cháu chắt chạy ra chạy vào chăm sóc, thể nào cũng có một vài ông bạn cố tri tìm đến an ủi, thăm nom. Thế chẳng phải là hạnh phúc lắm ru?!

Nói thế thôi, khỏe mạnh thì vẫn hơn. Sáng sáng, ra đường đi bộ cho giãn gân cốt, hít thở khí trời trong lành, mà suy ngẫm về cuộc đời đã cho mình nhiều may mắn, mà tạ ơn Trời Đất.

Có một hôm, vô tình, không hẹn mà gặp, gã đi bộ cùng với bà hàng xóm. Chẳng biết bà nghĩ gì, nhưng gã thấy bà vui, gã cũng vui. Bà kể chuyện huyên thuyên, đủ mọi thứ trên đời, chẳng đâu vào đâu. Lúc chia tay, gã cảm thấy có một chút lưu luyến, bà ấy cũng vậy. Gã cảm thấy yêu đời hơn.

Gã cảm thấy yêu đời hơn, thế nên, gã đi nhuộm tóc. Tối hôm sau, gã rủ vợ đi ăn cơm tiệm. Chưa kịp yên vị, bà chủ tiệm hỏi: “Hai chị em dùng gì?”. Gã bực lắm. Hồi trẻ, chắc chắn sẽ to chuyện. Bây giờ già rồi, lão tự nhủ: “Một câu nhịn, chín câu lành”.

Già rồi, nhịn riết cũng quen.

Nhiều người già tự đặt cho mình một quy luật để sống, răm rắp tuân theo, sáng trưa chiều tối…

Gã nghĩ, thế cũng tốt nhưng khắt khe với bản thân mình quá thì cũng không nên.

Không nên để tâm bực bội những chuyện vu vơ.

Không nên tranh luận chuyện thiên hạ làm chi để hao mòn sinh lực, tổn hại tình thân hữu. Đánh cờ cũng vậy, đánh cờ là để giải trí, không nhất thiết phải thắng, thắng chưa chắc đã lợi, thua không hẳn là thiệt.

Già rồi, khi bị chê bai, gã cười, không buồn, không oán trách.

Già rồi, nghe thiên hạ khoe khoang, gã cứ giả vờ tin như thật. Gã chẳng mất gì mà làm cho thiên hạ sướng, lên tận mây xanh.

Già rồi, còn làm được gì giúp ích cho đời, cho gia đình, cho bản thân mình thì cố gắng mà làm. Đừng nuôi mộng ước cao xa để rồi đến chết vẫn không thực hiện nổi. Hôm trước gã đi thăm ông nhà văn sắp chết vì ung thư. Nằm thoi thóp trên giường bệnh mà cứ thở vắn than dài do tác phẩm để đời, ấp ủ bấy lâu nay, vẫn chưa viết được chữ nào!

Già rồi, thỉnh thoảng gặp gỡ bạn bè, lếu láo vài ba chung rượu, ôn lại buồn vui sự đời, đó là hạnh phúc.

Già rồi, còn gặp nhau được ngày nào biết ngày đó, nên phải trân trọng, yêu quý.

Già rồi, ai nói đúng sai gì, kệ họ. Cuộc đời muôn mặt, nên ai nói gì cũng có cái lý của riêng họ. Gã chỉ biết lắng nghe và cảm nhận.

Tiện đang nói về “già”, gã cầu chúc mọi người “già” thêm một tí, “lẩn thẩn” thêm một tí, “dở hơi” thêm một tí để tuổi già vui thêm một tí, để cuộc đời tươi thêm một tí và để thiên hạ “sướng” thêm một tí, “sướng” lên tận trời cao, ấy chứ lỵ….!

Fb Jimmy Nguyen


 

Những ký ức về cuộc tàn sát sinh viên biểu tình ở Quảng trường Thiên An Môn

Chau Doan

 Trên NY Times:

BẮC KINH – Trong ba thập kỷ, Jiang Lin giữ im lặng về cuộc tàn sát mà cô đã thấy trong đêm khi Quân đội Trung Quốc cho xe tăng lăn bánh qua Bắc Kinh để đè bẹp các cuộc biểu tình của sinh viên ở Quảng trường Thiên An Môn. Nhưng những ký ức ấy dày vò cô – về những người lính bắn vào đám đông trong bóng tối, họ ngã xuống vũng máu và tiếng gậy vụt khi có người lính dúi cô ngã xuống.

Cô Jiang là một trung úy trong Quân đội Giải phóng Nhân dân hồi đó, với cái nhìn trực tiếp về vụ thảm sát và một nỗ lực thất bại của các chỉ huy cấp cao khi can ngăn các nhà lãnh đạo Trung Quốc sử dụng lực lượng quân sự để đè bẹp các cuộc biểu tình dân chủ. Sau đó, khi nhà cầm quyền đưa người biểu tình vào tù và xóa sạch ký ức về vụ giết người, cô không nói gì, nhưng lương tâm đã không ngừng gặm nhấm cô.

Bây giờ, trong dịp kỷ niệm 30 năm ngày 4 tháng 6 năm 1989, bà Jiang, 66 tuổi, đã quyết định  kể câu chuyện của mình lần đầu tiên. Bà nói rằng bà cảm thấy cần phải kêu gọi các lãnh đạo Trung Quốc một sự nhìn nhận công khai đối với sự kiện này, kể cả Chủ tịch Tập Cận Bình. Họ đã không bày tỏ sự hối hận về bạo lực.

Cơn đau đã gặm nhấm tôi suốt 30 năm qua, cô ấy nói trong một cuộc phỏng vấn ở Bắc Kinh. Những người tham gia phải lên tiếng về những gì họ đã biết. Đó là nhiệm vụ của chúng ta đối với người chết, những người sống sót và những đứa trẻ của tương lai.

Góc nhìn của cô Jiang làm sáng tỏ một góc khác. Các chỉ huy quân sự đã cố gắng chống lại mệnh lệnh sử dụng lực lượng vũ trang để giải tỏa những người biểu tình khỏi quảng trường mà họ đã chiếm trong bảy tuần.

Các sinh viên, chủ nghĩa duy tâm vô tư, tuyệt thực, quở trách các quan chức và những hành động táo bạo như xây dựng tượng Nữ thần Dân chủ trên quảng trường đã thu hút sự đồng cảm của công chúng và khiến các nhà lãnh đạo chia rẽ về cách ứng phó.

Cô mô tả vai trò của mình trong việc truyền bá một lá thư từ các tướng lĩnh cao cấp chống lại quân luật, và đưa ra chi tiết về những lá thư khác từ các chỉ huy cảnh báo giới lãnh đạo không được sử dụng quân đội ở Bắc Kinh. Và cô nhìn thấy trên đường phố những người lính thực hiện mệnh lệnh của nhóm đã bắn bừa bãi khi họ vội vã chiếm lại Quảng trường Thiên An Môn.

Ngay cả sau 30 năm, vụ thảm sát vẫn là một trong những chủ đề nhạy cảm nhất trong chính trị Trung Quốc, chịu sự nỗ lực bền bỉ và phần lớn thành công của chính quyền để xóa nó khỏi lịch sử. Đảng đã bỏ qua các cuộc gọi liên tục để thừa nhận rằng việc bắn súng vào học sinh và cư dân là sai lầm, và chống lại yêu cầu về một kế toán đầy đủ về số lượng người chết.

Chính quyền thường xuyên giam giữ các cựu lãnh đạo biểu tình và phụ huynh của học sinh và người dân thiệt mạng trong vụ đàn áp. Một tòa án đã kết án bốn người đàn ông ở tây nam Trung Quốc trong năm nay vì bán chai rượu có liên quan đến vụ đàn áp Thiên An Môn.

Trong những năm qua, một nhóm nhỏ các nhà sử học, nhà văn, nhiếp ảnh gia và nghệ sĩ Trung Quốc đã cố gắng ghi lại các chương trong lịch sử Trung Quốc mà đảng muốn lãng quên.

Nhưng quyết định thách thức sự im lặng của cô Jiang, mang một trách nhiệm chính trị vì cô không chỉ là cựu quân nhân mà còn là con gái của giới quân sự. Cha cô là một vị tướng, và cô sinh ra và lớn lên trong các hợp chất quân sự. Cô tự hào gia nhập Quân đội Giải phóng Nhân dân khoảng 50 năm trước, và trong những bức ảnh từ thời còn là một nhà báo quân đội, cô đứng rạng rỡ trong bộ đồng phục quân đội màu xanh lá cây, một cuốn sổ tay và máy ảnh treo trên cổ.

Cô chưa bao giờ tưởng tượng rằng quân đội sẽ quay súng chống lại những người không vũ trang ở Bắc Kinh, cô Jiang nói.

Làm thế nào số phận có thể đột ngột quay đầu để bạn có thể sử dụng xe tăng và súng máy chống lại người bình thường? Đối với tôi, đó là sự điên rồ.

Qian Gang, người giám sát cũ của cô tại Nhật báo Quân đội Giải phóng, hiện đang sống ở nước ngoài, đã chứng thực các chi tiết về tài khoản của cô Jiang. Cô Jiang đã chia sẻ hàng trăm trang màu vàng của một cuốn hồi ký và nhật ký mà cô đã viết trong khi cố gắng hiểu ý nghĩa của cuộc tàn sát.

Nhiều hơn một lần tôi mơ mộng đến thăm Thiên An Môn mặc đồ tang và để lại một bó hoa huệ trắng tinh khiết, cô viết vào năm 1990.

Cô Jiang cảm thấy sợ hãi vào tháng 5 năm 1989 khi tin tức trên đài phát thanh và truyền hình nổ ra với thông báo rằng chính phủ Trung Quốc sẽ áp đặt luật thiết quân luật đối với phần lớn Bắc Kinh trong nỗ lực giải tỏa những người biểu tình khỏi Quảng trường Thiên An Môn.

Các cuộc biểu tình đã nổ ra vào tháng Tư, khi các sinh viên tuần hành để thương tiếc cái chết đột ngột của Hồ Diệu Bang, một nhà lãnh đạo cải cách nổi tiếng, và đòi hỏi chính phủ sạch sẽ hơn, cởi mở hơn.

Bằng cách tuyên bố thiết quân luật trên toàn đô thị Bắc Kinh, Đặng Tiểu Bình, lãnh đạo đảng đảng, đã báo hiệu rằng lực lượng vũ trang là một lựa chọn.

Cô Jiang vẫn hy vọng rằng những vụ ầm ĩ bên trong quân đội sẽ ngăn cản Đặng gửi lính đến để giải tỏa những người biểu tình. Nhưng vào ngày 3 tháng 6, cô nghe nói rằng quân đội đang tiến từ phía tây thành phố và bắn vào người dân.

Quân đội đã có lệnh dọn dẹp quảng trường vào đầu ngày 4 tháng 6, sử dụng bất kỳ phương tiện nào. Thông báo ra ngoài cảnh báo cư dân ở lại bên trong.

Cô đi vào thành phố bằng xe đạp để theo dõi quân đội tiến vào, biết rằng cuộc đối đầu đại diện cho một bước ngoặt trong lịch sử Trung Quốc. Cô biết mình có nguy cơ bị nhầm là người biểu tình vì cô mặc quần áo dân sự. Nhưng tối hôm đó, cô nói, cô không muốn bị đồng nhất với quân đội.

Đây là trách nhiệm của tôi, cô ấy nói. Công việc của tôi là báo cáo những tin tức lớn.

Cô Jiang đi theo những người lính và xe tăng khi họ tiến vào trung tâm Bắc Kinh, xông vào những cuộc phong tỏa tạm thời được hình thành bằng xe buýt và bắn dữ dội vào đám đông cư dân tức giận rằng chính phủ của họ đang sử dụng lực lượng vũ trang.

Cô Jiang nằm sát đất, tim đập thình thịch khi những viên đạn bay trên đầu. Những tiếng súng nổ và tiếng nổ từ những thùng xăng nổ tung làm rung chuyển không khí, và sức nóng từ những chiếc xe buýt đang cháy trên mặt cô.

Gần nửa đêm, cô Jiang đến gần Quảng trường Thiên An Môn, nơi những người lính đứng im lặng trước ánh lửa. Một người gác cổng lớn tuổi cầu xin cô đừng tiếp tục, nhưng cô Jiang nói rằng cô muốn xem chuyện gì sẽ xảy ra. Đột nhiên, hơn một tá cảnh sát vũ trang chán nản cô, và một số đánh đập cô bằng những cú điện. Máu tuôn ra từ đầu cô và cô Jiang ngã xuống.

Tuy nhiên, cô không rút thẻ xác định mình là nhà báo quân đội.

Hôm nay, tôi không phải là thành viên của Quân đội Giải phóng. Mùi tôi là một trong những thường dân bình thường.

Một người đàn ông trẻ đã đỡ cô trên chiếc xe đạp của mình để mang cô đi, và một số nhà báo nước ngoài đã nhanh chóng đưa cô đến một bệnh viện gần đó, cô Jiang nói. Một bác sĩ khâu vết thương ở đầu của cô. Cô nhìn, bàng hoàng, khi hàng chục người chết và bị thương đến.

Cảm giác giống như nhìn mẹ tôi bị hãm hiếp, cô nói. Điều ấy không thể chịu đựng được.

Cô Jiang đã do dự từ lâu để kể câu chuyện của mình. Chấn thương ở đầu năm 1989 khiến cô bị sẹo và đau đầu tái phát.

Cô bị thẩm vấn trong những tháng sau cuộc đàn áp năm 1989, và bị giam giữ và điều tra hai lần trong những năm sau đó về cuốn hồi ký riêng mà cô viết. Cô chính thức rời quân đội năm 1996 và từ đó sống một cuộc sống bình lặng, phần lớn bị chính quyền phớt lờ.

Khi nhớ lại các sự kiện qua nhiều cuộc phỏng vấn trong những tuần gần đây, giọng nói của cô Jiang Giang thường chậm lại và tính cách đầy nắng của cô dường như rút lui dưới cái bóng ký ức.

Trong nhiều năm, cô nói, cô đã chờ đợi một nhà lãnh đạo Trung Quốc tiến lên để nói với đất nước rằng cuộc đàn áp vũ trang là một lỗi thảm khốc.

Nhưng ngày đó không bao giờ đến.

Cô Jiang cho biết cô tin rằng sự ổn định và thịnh vượng của Trung Quốc sẽ rất mong manh miễn là đảng không chuộc lỗi.

Tất cả điều này được xây dựng trên cát. Có một nền tảng vững chắc, cô nói. Nếu bạn có thể phủ nhận rằng mọi người đã bị giết, thì mọi lời nói dối đều có thể.

BBC Vietnam: “Xe tăng chạy tới lui trên thi thể những người bị giết chết, cho đến khi xác của họ bị nghiền nát. Những gì còn lại sau đó bị xe ủi chất thành đống, để rồi bị súng phun lửa thiêu ra tro”.

Cựu Thủ tướng Úc Bob Hawke nói trong nước mắt khi ông đọc lại báo cáo từ tòa đại sứ Úc ở Bắc Kinh, 5 ngày sau cuộc thảm sát diễn ra trên Quảng trường Thiên An Môn ngày 4/6/1989.

“Nghiền nát tâm hồn và thân xác của tuổi trẻ, có khác nào nghiền nát tương lai của chính đất nước Trung Quốc,” ông nói trước các sinh viên Trung Quốc đang có mặt tại lễ tưởng niệm ở tòa nhà Quốc hội Úc, nhiều người quấn băng tang.”

Ngày này 30 năm trước, lãnh đạo Trung Quốc đã gây một tội ác vô cùng dã man đối với chính những người trẻ đẹp nhất của họ. Đây là một vết nhơ tởm lợm ngàn đời không rửa được của Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Có lẽ vì vậy mà chúng ta được xem những clip chứng tỏ sự vô cảm gần với súc vật của xã hội Trung Quốc ngày nay.

Ở Việt Nam, những kẻ mang danh con người với trái tim dã thú nên ngẫm về sự kiện này. Khi con người mất đi những giá trị đẹp đẽ thì chúng là những con vật ghê tởm và đáng sợ nhất. Mà bạn biết rồi đấy, con vật thì không thể sinh ra được con người, không thể vẽ ra được những điều quý giá để dạy con cháu khi chính chúng không thuộc những bài học ấy. Chưa nói tới luật nhân quả nhưng chắc chắn là khi làm một hành động tàn ác, lương tâm chúng sẽ mãi mãi không yên. Mà sự bình yên, thanh thản trong tâm hồn lại là điều tuyệt vời nhất của CON NGƯỜI, phải không các bạn?


 

Sự tàn nhẫn không thể biện minh-Truyen rat ngan HAY

Trầm Mặc Huơng Lai

Trong một trận đấu bò căng thẳng tột độ, matador Álvaro Múnera đã làm điều không ai ngờ tới. Khi đám đông cuồng nhiệt đang chờ đợi cú đâm kết liễu, anh đột ngột lùi khỏi con bò, chậm rãi bước về phía rìa đấu trường và ngồi xuống. Cả khán đài sững sờ chìm trong im lặng.

Sau này, anh kể lại khoảnh khắc đã làm thay đổi cả cuộc đời mình:

“Lúc ấy, tôi quên đi nguy hiểm từ cặp sừng. Thứ duy nhất tôi thấy là đôi mắt của nó – không phải ánh mắt giận dữ, mà là ánh nhìn vô tội. Nó không tấn công tôi, nó đang cầu xin được sống. Tôi chợt hiểu ra: đây không phải là một trận chiến, mà là sự tàn nhẫn không thể biện minh. Tôi buông kiếm, rời khỏi đấu trường và thề sẽ không bao giờ chiến đấu nữa. Từ nay, tôi sẽ đấu tranh – chống lại một thế giới biến nỗi đau thành trò tiêu khiển.”

Múnera đã quay lưng với đấu bò, trở thành một nhà hoạt động bảo vệ động vật đầy nhiệt huyết, cất tiếng nói cho những sinh linh mà anh từng đối đầu.

Câu chuyện của anh là minh chứng cảm động cho sức mạnh của lòng trắc ẩn và dũng khí để thay đổi.

Đôi khi, chỉ một khoảnh khắc kết nối là đủ để ta nhìn thế giới bằng một đôi mắt hoàn toàn khác.

TG Văn Chương


 

ĐIỀU LỚN HƠN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời!”.

“Lề luật chỉ là một tấm gương để cho thấy ta đã thiếu sót thế nào; còn tình yêu là con đường để ta vươn lên!” – Søren Kierkegaard.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đi vào “con đường tình yêu” để “vươn lên”, vượt quá những gì mà bất cứ ai tuân giữ lề luật đều có thể trải nghiệm. Rằng, cả khi không phạm tội ác, thì thường, ‘những thói quen’ vẫn làm chai cứng ‘ước muốn theo đuổi sự thánh thiện’ của chúng ta. Chúng khiến chúng ta đánh mất những ‘điều lớn hơn!’.

“Điều tốt là kẻ thù của điều tốt nhất!” – Gioan Bosco – khi chúng ta sống ‘theo nếp’ những thói quen cư xử ‘tốt’ của mình và chỉ ngần ấy, không thêm gì hơn! Chính đây là ‘nơi’ mà Lời Chúa muốn chạm đến bạn và tôi, Ngài mời gọi chúng ta làm những ‘điều lớn hơn’ bắt đầu với một thái độ khác, một tâm tình khác. Những ‘điều lớn hơn’ – nghịch lý thay – lại là những điều ‘nhỏ hơn’ và ‘nhỏ nhất!’.

Điều ‘nhỏ hơn’ và ‘nhỏ nhất’ như tức giận, khinh thường và chối bỏ tha nhân không phù hợp với người môn đệ của Vương Quốc vốn được gọi để trở thành – không hơn không kém – muối của đất và ánh sáng của trần gian. Đây là lý do tại sao sự công chính của chúng ta, đức hạnh của chúng ta, phải lớn hơn sự công chính của các kinh sư và người Pharisêu, những người chỉ dừng lại ở chữ nghĩa để không bao giờ đạt đến những ‘điều lớn hơn!’.

“Con đường” của Chúa Giêsu là con đường của luật mới về tình yêu – khắc trong tim, viết trong hồn; bởi lẽ tình yêu đòi hỏi nhiều hơn việc tuân thủ các quy tắc. Vì vậy, với uy thế trong lời quyền năng, Ngài đã thay đổi cách diễn giải giới răn tiêu cực “Ngươi không được giết người” thành cách diễn giải tích cực về yêu cầu sâu sắc và triệt để trong việc hoà giải – như tiêu chuẩn – liên quan đến việc thờ phượng! Do đó, sẽ không có lễ dâng nào sinh ích khi bạn nhớ rằng, “có người anh em đang có chuyện bất bình với mình”. Và như vậy, điều quan trọng là phải giải quyết bất kỳ tranh chấp nào bạn có với người anh em; bằng không, sự vô hiệu của lễ phẩm sẽ quay lại chống lại bạn.

Tất cả những điều này chỉ có thể được thực hiện bằng một tình yêu cao cả. Vì thế, “Ngươi không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn” và bất kỳ điều răn nào khác được tóm tắt trong ‘điều lớn hơn’ này: “Ngươi phải yêu người lân cận như chính mình!”. Tình yêu không làm hại người lân cận; do đó, “Yêu thương là chu toàn lề luật” – Phaolô.

Anh Chị em,

“Tình yêu là con đường để ta vươn lên!”. Bạn và tôi hãy cầu xin cho được đổi mới tâm tình và thái độ trong lễ phẩm dâng lên Chúa mỗi ngày! Đó là tình yêu – xuống đến từng chi tiết nhỏ nhất – dành cho những người lân cận, bắt đầu với những người gần gũi nhất trong gia đình, trong cộng đoàn. Và như thế, chúng ta sẽ không bao giờ đánh mất những ‘điều lớn hơn’ và cuộc sống sẽ là lễ vật tốt nhất, chân thực nhất dâng lên Chúa!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để những thói quen ‘tốt’ làm chai cứng ước muốn theo đuổi sự thánh thiện của con; vì như thế, con sẽ đánh mất những ‘điều lớn hơn!’”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

***********************************************

Thứ Năm Tuần X Thường Niên, Năm Lẻ

Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu. (Mt 5,20-26)

20 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.

21 “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng : Chớ giết người ; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà. 22 Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : Bất cứ ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt. 23 Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, 24 thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. 25 Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. 26 Thầy bảo thật cho anh biết : anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng.”


 

ĐỪNG CHỈ MẢI LO KIẾM TIỀN!

Gieo Mầm Ơn Gọi

 Sẽ đến lúc bạn nhận ra rằng vàng bạc châu báu trên đời này chẳng có thể mua được sức khỏe, sự tận hưởng hạnh phúc mỗi ngày.

  1. Cuộc đời con người có thể vì TIỀN mà vào sinh ra tử, cả nửa cuộc đời ai cũng mong mình có nhiều tiền tài, vật chất để có cuộc sống sung sướng. Nhưng rồi tiền tài cũng tựa như xiềng xích, càng tham lam thì càng tự đào hố để chôn mình.
  2. Chừng nào chúng ta càng để đồng TIỀN chi phối, trở thành nô lệ của đồng TIỀN thì chừng đó chúng ta chưa thể có được hạnh phúc.
  3. Rất nhiều người dành cả tuổi trẻ, sức khỏe để kiếm TIỀN, lao vào con đường làm việc không ngừng nghỉ với quan điểm: “Còn trẻ là còn làm việc”. Nhưng tiền kiếm ra mà không biết tiêu xài cho bản thân thì đâu còn ý nghĩa gì nữa.
  4. Trên đời này chiếc giường đắt giá nhất đó chính là giường bệnh. Kiếm TIỀN cả đời rồi về mang đốt hết vào nằm viện, TIỀN thuốc thang thì đâu còn gì là hạnh phúc nữa.
  5. Người chết vì tiền tài là đau khổ nhất, đừng để danh vọng, tiền tài và vật chất che mờ đôi mắt, buông thả ham muốn vô độ, cuối cùng đánh mất chính mình.

St


 

Thánh Barnabê tông đồ – Cha Vương

Chúc bình an, hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Barnabê tông đồ, mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 4: 11/06/2025

“Vị thánh này có phúc, vì đáng được kể thêm vào số các Tông Đồ: Người thật là tốt, đầy ơn Thánh Thần và lòng tin”( Cv 11, 24 ). Thánh Barnabê là một trong 72 môn đệ đầu tiên đã nghe Chúa Giêsu giảng dậy và đã trở thành môn đệ của Ngài

Thánh Barnabê môn đệ của Chúa Giêsu: Đã có lần, có dịp nghe Chúa Giêsu giảng dậy và đã chứng kiến Chúa Giêsu làm phép lạ, thánh Barnabê đã trở thành một trong 72 môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Vì Chúa Giêsu đã nói:” Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái…”( Ga 15, 16 ).Chính Chúa Giêsu đã chọn Barnabê để  thánh nhân làm chứng cho tình yêu của Chúa và giới thiệu Chúa Giêsu cho nhiều người. Sau biến cố Chúa Giêsu lên trời, các tông đồ sai Barnabê đi truyền giáo ở Antiokia, một miền trù phú và thịnh vượng, phồn vinh nhất lúc bấy giờ. Và như lời Chúa nói:”…hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danhThầy thì Thầy ban cho anh em”( Ga 15, 16 ). Thánh Barnabê luôn có Chúa Thánh Thần tràn đầy và nhờ tài giảng thuyết, Ngài đã đưa được biết bao nhiêu người trở về với Chúa. Thánh nhân đã mời thánh Phaolô về ở với mình và cùng giảng dậy, loan báo Tin Mừng ở Antiokia. Sau đó, thánh nhân mang món tiền mà Ngài đã quyên góp được về Giêrusa lem gặp các vị kỳ mục và các tông đồ khác. Đường lối và ý nhiệm mầu của Chúa lại khác, Barnabê và Phaolô lại được trao sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, nên các Ngài lại trẩy đi Séleucie và Chypre. Dân bản xứ và các người ngoại giáo, đón tiếp các Ngài một cách nhiệt tình, họ tin theo các Ngài. Tuy nhiên cũng có những người Do Thái có óc thủ cựu, hẹp hòi đã tìm cách gièm pha, chế diễu và nói nhiều lời ngạo mạn đối với các Ngài, họ xúi giục những thành phần bất hảo ngược đãi và trục xuất các Ngài  ( Cv 13, 50 ). Chúa cho các Ngài làm nhiều phép lạ: xua trừ ma quỉ, chữa bệnh, làm cho kẻ chết sống lại để củng cố niềm tin của các tân tòng.

  Chúa thưởng công cho Thánh Barnabê: Thánh Barnabê và thánh Marcô tiếp tục rao giảng ở đảo Chypre. Chúa đã  yêu thương cho thánh Barnabê được lãnh triều thiên qua cái chết tử đạo của Ngài:” Hạt lúa mì rơi xuống đất không thúi đi, thì nó sẽ không sinh nhiều bông hạt…”. Người Do Thái ở Syria đã xúi giục dân chúng ném đá và xử tử thánh Barnabê. Đời Hoàng Đế Zénon, vào năm 488, người ta đã tìm thấy xác của thánh Barnabê tại Salamine thuộc đảo Chypre, Hy Lạp.

 Lạy Chúa, Chúa đã truyền phải dành riêng thánh Barnabê là một người đầy lòng tin và Thánh Thần, để thánh nhân đưa dân ngoại về với Chúa. Xin cho mọi tín hữu biết dùng lời nói và việc làm để trung thành loan báo Tin Mừng Đức Kitô như thánh nhân đã can đảm rao truyền( ca nhập lễ, lễ thánh Barnabê, tông đồ ).

(Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)

From: Do Dzung

**************************

Đường con theo Chúa – tinmung.net

Di Dân Nga Trên Nước Mỹ – Trương Ngọc Anh- Truyen ngan HAY

06/06/2025

Trương Ngọc Anh

 Ngọc Anh là tác giả Viết Về Nước Mỹ ngay từ năm đầu tiên. Sau vụ khủng bố tấn công làm sụp đổ tháp đôi ở New York, cô viết bài “Tiểu Hợp Chủng Quốc” kể chuyện sở làm, một công ty chủ nhân người Ả Rập Hồi Giáo, nhưng hàng trăm nhân viên đủ gốc Á Âu, Do Thái… sống với nhau hoà thuận. Bài viết được trao tặng giải thưởng danh dự năm 2002. Bài viết sau đây tiếp tục ghi lại một hình ảnh đẹp của người di dân – một người Nga sống trên nước Mỹ.

***

Trải qua bao thời gian, những người bạn cũ rời xa, những người bạn mới xuất hiện, nhiều khuôn mặt đến, rồi đi, như nước chảy qua cầu. Vậy mà có một khuôn mặt đặc biệt, ở lại rất lâu trong góc trái tim tôi, một nhỏ bạn thật đặc biệt. Đặc biệt, là vì nó là… người Nga.

Tôi đã từng có ác cảm với dân tộc Nga, từ những ngày trước năm 1975, là năm đổi đời, đổi hướng tương lai của đa số dân tỵ nạn cộng sản. Ác cảm là vì, giống dân từ một quốc gia xa lạ và rất xa trên bản đồ trái đất, đầu tiên tạo ra chế độ Cộng sản, lại đầu độc cả thế giới qua cái chủ nghĩa Cộng sản ác nhân thất đức.

Niềm ác cảm đó còn gia tăng trọng lượng khi tôi, một nhân viên lâu năm trong nghề, lại bị chủ ra lịnh dạy nghề cho nó!

Trời đất quỉ thần ơi!

Hãng càng ngày càng sa sút, mất từ từ những khách hàng lâu năm quen thuộc, vì chính sách “toàn cầu hóa”. Chẳng những mất khách hàng, mất số lượng bán hàng quan trọng, mà thậm chí nguy là nhân viên càng ngày càng bị thu gọn lại. Nhiều người phải ra đi để hãng bớt chi phí, tiếp tục thắt lưng buộc bụng kéo dài thoi thóp, cho tới chừng nào tình thế khá hơn. Vậy là bao nhiêu là tin đồn trong hãng, người nầy sẽ ra đi, người kia sẽ mất việc.

Những nhân viên có số lương kha khá trong hãng lo lắng, trong đó có tui.

Nó là nhân viên mới. Nay ông chủ hãng biểu tui phải dạy nghề cho nó, chắc là để nay mai nó sẽ thế chân tui trong phòng kế toán, lương ít hơn, mà vẫn có thể làm việc giống như tui, “nhứt cử lưỡng tiện” cho chủ hãng.

Ngày đầu tiên bà sếp tui giới thiệu, ngó nó đã thấy phát nực rồi! Mặt nó trắng xác, đúng là giống dân bạch chủng. Mái tóc cắt cao kiểu demi-garçon, cái miệng không nhếch nổi một nụ cười khi được giới thiệu. Ngay lập tức ác cảm dâng lên, người đâu lạnh lùng, y chang mấy nhân vật người Nga trên phim ảnh loại gián điệp.

Nó ngó tui lạnh lùng, tui ngó nó còn lạnh hơn nước đá cục. Nó được cái bàn ngồi ngay bên cạnh tui trong phòng kế toán, bực thì thôi! Mấy ngày đầu tiên tui đì nó, bắt nó “file” hằng đống giấy tờ, chỉ cần dạy chút (chỉ chút xíu lấy lệ) xếp hồ sơ khách hàng theo mẫu tự ABC. Nó cần mẫn làm mọi chuyện tui sai bảo, nhưng ngậm câm, mặt lạnh càng khó ưa!

Được đâu một tuần lễ hai đứa nhìn nhau mà chẳng thấy nhau đó, một hôm, tự nhiên nó nói tên tui giống tên của nó. Tui ngạc nhiên, nói, tên tui là Anh, còn tên nó là Anna, làm sao giống. Nó mím miệng cười, nói phát âm hơi giống, nhưng ở nước nó không có tên Anh hay Anne, nên nó thấy gọi tui là Anna nghe dễ thương hơn. Mèn, tên tui hỏng phải cứ đổi thì đổi, hử?!

Có một buổi chiều tan sở, tui vừa ra cửa thì thấy nó chạy lại, nắm tay tui, đưa tới trước mặt một người đàn ông vóc dáng to lớn, mặc đồ lớn trang trọng đang đứng chờ, giới thiệu:

– Đây là ba tôi.

Rồi xây qua ba nó, nó nói liền:

– Ba ơi, đây là bạn con, cũng có tên giống con đó Ba.

Ông già đưa tay bắt tay tôi, cười thật hiền lành, và hơi ngạc nhiên, tui mới chợt nhớ ra là nó vừa nói tui là bạn nó, nở nụ cười đầu tiên với tui. Sao nó cười đẹp và mặt nó sáng rỡ vậy ta, đâu mất rồi nét lạnh lùng lần đầu tiên tui gặp nó.

Tui đang kể cho các bạn về một người bạn cũ, một nhỏ bạn thật bình thường, và có lẽ câu chuyện về nó cũng không có gì đặc sắc hết, ngoài việc nó là người Nga, một giống dân tôi ghét cay ghét đắng, vì nó là người Nga Cộng sản, một chế độ theo tôi rất là vô nhân bản.

Hồi còn học Trung Học, tôi biết rất sơ sài về thế giới Cộng sản, nhất là nước Nga. Dân tộc Nga, một dân tộc hiếu chiến, một chế độ tàn nhẫn không có tình người như trong cuốn sách “Bác sĩ Zhivago” mà tôi từng đọc say mê, được coi phim trên màn ảnh đại vĩ tuyến nữa. Từ sau ngày nó giới thiệu tui với ba nó, bằng lời nói thắt chặt tình bạn là hai đứa có cùng một tên giống nhau, coi như hai đứa tui đã quen nhau. Thiệt tình, giống gì mà giống!

Trước lúc chính thức “quen nhau”, vào giờ ăn trưa, tui vẫn thường ngồi tại chỗ, qua bữa một mình hộp cơm đơn sơ; vừa ăn vừa vặn máy cassette nghe nho nhỏ vài bản nhạc Việt.

Hôm đó, nó rủ tui cùng ngồi bàn ăn trưa với nó. Tui cũng ừ, xách túi đồ ăn ra bàn ăn chung. Thức ăn trưa nó đem theo, không đơn giản như của tui mà kèm theo món chánh có hai, ba món phụ, ngó hấp dẫn.

Thoạt tiên nó mời tui món gỏi chua bắp cải và cà-rốt. Nó nói ở xứ nó rau cải quý lắm. Món nầy dòn dòn, chua chua, ăn rất bắt cơm, lại gần gũi món đồ chua của mình. Tình thân từ từ đi xa hơn qua những món ăn mời nhau vào mỗi buổi cơm trưa. Vậy là tui lại phải bắt đầu đem nhiều món hơn, để mời nó trả lễ, thay vì chỉ một món mặn gì đó, để dưới đáy hộp, rồi dằn cơm trắng ở trên, hâm ăn gọn gàng như nào giờ. Ngày nào nó cũng đem theo một hộp cải chua đó, nhiều đủ hai đứa ăn, dòn rụm, ngon quá. Nó nói làm dễ ợt, chỉ cần cho chút muối, trộn lên với cải bắp và cà- rốt, đậy kín, sau hai, ba ngày cải lên men chua là ăn được. Cải chua nầy ăn với đủ thứ món ăn khác. Mình cũng có món cải chua nhưng đâu có ăn mỗi ngày như nó.

Một lần, nó đem theo cho tui nguyên dĩa món lưỡi bò chiên dòn, áo qua một lớp bột. Nó dạy tui cách làm món nầy, cũng công phu. Lưỡi bò luộc chín, lột bỏ lớp da bên ngoài, rồi cắt vừa miếng, lăn qua một áo trứng, một áo bột, rồi chiên dòn lên. Ui chu choa, ngon đặc biệt.

Lần khác, nó đem cho tui ăn món trứng gà chiên mỏng dính, rồi cuộn lại thành ống, khi cuộn rắc phô-mai lên, trứng còn nóng, phô-mai chảy ra, vừa thơm mùi trứng vừa béo béo vị phô-mai.

Hay trứng cuộn thịt dăm-bông cũng ngon. Tui hỏi nó ai làm, vì mấy món nầy vừa làm vừa cuộn mà. Nó nói nó chiên trứng, ba nó cuộn. Gia đình nó sống chung trong một căn chung cư vùng Los Angeles. Có lần nó đem cánh gà chiên mời tui ăn. Tui lọng cọng với đôi đũa, thì nó cười ha hả, nói rằng:

– Ở xứ tôi con gì có cánh là khi ăn mình phải dùng tay nắm chặt, không thôi nó bay.

Lần đó tui cũng cười ha hả với nó, và thấy sao nó đẹp quá. Khi cười, mặt nó hồng hào lên, hàm răng rất trắng và đều, đôi mắt nó to tròn, long lanh, ấm áp, mất hết vẻ lạnh lùng của lần đầu tiên gặp nó, mà tui từng ghét cay ghét đắng.

Một lần, vừa ngồi xuống ghế sửa soạn ăn trưa, bỗng nhiên nó đỏ mặt, đỏ cánh mũi, rồi bật khóc ngon lành làm tui lúng túng, không biết làm sao mà dỗ, vì nó nói tiếng Mỹ hơI khó nghe.

 

Phải chờ một lát cho dịu cơn xúc động, nó mới ấp úng kể cho tui nghe là hôm qua nó gây lộn với chồng nó một trận tưng bừng. Hỏi ra, tưởng gì, thì ra chồng nó khoét lỗ đeo bông tai.

Nó tức tưởi nói đàn ông mà đeo bông tai như đàn bà, giống ba tụi “du đãng”. Thời trang lúc đó vừa mới ra mốt đàn ông con trai đeo bông tai đó. Tui cười, nói đâu có gì lớn chuyện mà you khóc dữ thần?!

Từ đó nó kể thêm nhiều chuyện nhà. Nó nói nó là con một, mà là con gái, nên nó muốn giữ lại họ của ba nó bằng cách không đổi họ khi lấy chồng.

Rồi tới khi tụi nó có con, lại cũng là con gái, nên nó muốn con gái của nó theo họ mẹ. Tui thấy mắc cười, như vậy là nó ăn hiếp chồng nó quá cỡ, còn tức tưởi mấy chuyện nhỏ nhít nầy. Con gái của nó mới 11 tuổi thôi, như vậy nó trẻ hơn tui nhiều lắm. Tui coi nó như em tui.

*****

Qua những lời kể chuyện của nó về đời sống ở Nga, lần hồi “bức màn sắt” được kéo ra, để tui nhìn thấy rõ ràng nếp sống của người dân Nga dưới chế độ Cộng sản. Trời đất ơi, té ra từ nhỏ tới lớn, tui đã được sống thoải mái, tự do, đầy đủ hơn nó quá nhiều, dù sống ở xứ đang có chiến tranh.

Nó kể, năm nó mang bầu, nhà nó ở trong một căn phòng nhỏ xíu, tận trên lầu tám, mà chung cư nầy không có thang máy. Thử hình dung một bà bầu ngày nào cũng phải lên xuống tám tầng lầu để đi mấy hợp tác xã (HTX) mua thức ăn, cực kể gì. Chồng nó phải đi làm nên mấy chuyện nầy nó phải làm hết. Phương tiện giao thông chỉ là đi bộ, và đi xe buýt hay xe điện, có chiếc xe đạp là giàu lắm.

Tui nghe nó kể, ngó xuống hai bắp đùi thô kệch của nó, thấy thương. Khuôn mặt nó rất thanh tú dễ nhìn, so với đôi chân bự thù lu đó thiệt tình không xứng chút nào. Nó nói, không phải tới HTX là mua được đủ món đâu. Mỗi HTX chỉ bán ít món cần thiết mà thôi, như HTX nầy chỉ có bột, muốn mua thịt, cá, hay sữa thì phải tới những HTX khác.

Nó kể có lần, lúc mang bầu, nó thèm ăn cá. Trời ơi, mua được một con cá phải đi cả ngày, lội bộ lẫn trèo xe buýt, rồi còn lên tám tầng thang lầu mới về tới nhà, cực không kể xiết. Cá thì tanh rình hết tươi mà vẫn ăn vì đang cơn thèm. Còn rau cải thì mỗi năm vào khoảng tháng Tám, là tháng ấm áp nhứt, chính phủ sẽ cho dân chúng đi gặt hái, ở khoảnh vườn nào đó. Mỗi gia đình sẽ tự mình đào bới, thu thập từng củ khoai, từng củ cà-rốt, bắp cải…, rồi mang về nhà, tự lo liệu làm sao để số lương thực đó có thể để dành ăn suốt năm. Tui khó hình dung nỗi cơ cực đó khi cũng trong cùng thời gian, ở Sài Gòn chúng tôi mua thịt cá, rau cải hằng ngày ở chợ, tươi ngon quanh năm. Dĩ nhiên là gặt hái như vậy thì không phải trả tiền, nhưng nó nói chẳng thà có tiền, rồi dùng tiền mà mua thì đỡ khổ hơn nhiều lắm.

Đời sống sao mà quá đổi cơ cực!

Mà nó kể, đời sống như vậy cũng không được yên ổn đâu. Lúc nào cũng nơm nớp lo sợ bị bọn công an bắt, sợ hàng xóm “ăng ten”, rất dễ dàng bị bỏ tù cải tạo nếu ăn nói không cẩn thận… Chắc tại vậy mà người dân Nga không tỏ bày tình cảm trên nét mặt, thành thói quen lạnh lùng với người chung quanh, vì họ luôn thủ thế.

Có lần tui hỏi nó sao không để tóc dài dài, sao mấy người dân xứ nó, đàn bà con gái toàn cắt tóc tém? Nó nói tại ở nước nó, tất cả thanh niên, thiếu nữ đều phải học quân sự từ cấp trung học, phải cắt tóc như vậy, nên quen, để tóc dài lại thấy khó chịu. Nó còn nói với tui tất cả mấy người bạn gái của nó khi qua Mỹ sống đều gia nhập quân đội hết, vì lý do có việc làm liền, có tiền sống, và dễ dàng hơn vì đã được huấn luyện trước rồi.

Tui hỏi sao nó không đi lính như bạn bè, nó nói nó ghét chiến tranh lắm, đã thoát khỏi còn chui đầu vô lính làm gì, từ từ cũng kiếm được việc làm mà. Tui thấy nó thiệt hiền lành, ghét chiến tranh thì giống tui rồi.

Tánh nó mít ướt lắm, hở cái là mặt mũi đỏ ửng lên, rồi nước mắt nước mũi cứ vậy tuôn ra, cứ như là thèm khóc. Lâu lâu bị bà sếp bên phòng chủ sự rầy rà là buổi trưa nó khóc với tui liền.

Ngày nào giờ ăn trưa nó cũng kể chuyện cho tui nghe, ngay cả những chuyện trong nhà như buồn phiền chồng, con, v.v… Tui thấy nó giỏi quá, nhứt là chuyện bếp núc, gì nó cũng làm được, nhiều món ăn rất ngon. Món trứng cá muối, món rau cải trộn, nó nói nó cũng biết làm bơ, phô-mai tại nhà, phải biến chế tất cả các loại rau cải để cả nhà có đồ ăn, phải làm bánh mì, mứt cho cả nhà, bây giờ đi chợ gì cũng có sẵn, quá tiện.

Còn quần áo thì sao? Giặt tay đó, trong phòng nào cũng có cái ống dẫn sưởi thông qua, máng quần áo trên ống đó cho khô. Nó còn kể xứ nó là xứ tin đồn, ngày nào cũng có tin đồn, cứ một đồn lên thành mười, tùy theo chính phủ tung tin ra. Chẳng hạn như không có đủ trứng gà cho dân chúng ăn, thì chính phủ tung tin trong trứng có chất độc, không có thịt thì tung tin thịt nhiễm trùng, ăn vô là chết, Mỹ đầu độc…  

Nó kể, phong tục xứ nó khi con gái tới tuổi lấy chồng, mấy bà mẹ sẽ thăm viếng nhau để chấm điểm những món ăn ngon. Tài nội trợ của cô gái sẽ được lựa chọn cho con trai họ, đặc biệt là vài món súp ăn kèm bánh mì và kem chua. Sao giống người mình quá, con gái thì phải biết nấu ăn ngon mới là vợ hiền dâu thảo.

******

Hôm đó, vừa ngồi vô bàn ăn là nó líu lo không kịp thở:

– Trời ơi, một rừng quần áo, không thể tưởng tượng được.

– Từ từ mà nói.

Tui chận lại.

– Quần áo con nít đó, trời ơi, một rừng quần áo may sẵn…

Vừa nói nó vừa đưa hai cánh tay mở rộng.

– Tôi chưa từng nhìn thấy, quần áo con nít, đẹp lắm, may sẵn áo đầm, quần dài quần ngắn, đồ lót nón vớ đan len… Ở xứ tôi mỗi lần cần thì phải lội bộ ra HTX mua vải, hay mấy cuộn chỉ len, rồi cặm cụi cắt may, đan vá… để có được một cái áo, cái quần cho con nít.

Hỏi ra cô nàng được bạn mời sinh nhật em bé, mới có dịp đi mua và được nhìn thấy cả một rừng quần áo con nít may sẵn, mừng tới ngẩn ngơ phải khoe với cô bạn Việt Nam.

Nhìn nó hào hứng, vui quá với khám phá mới mẻ nầy của nó mà thương nó quá trời. Chuyện quần áo con nít hay người lớn may sẵn bên Việt Nam mình từ thuở xửa xưa, thời má tui, đã có rồi, mà con nhỏ người Nga nầy mới biết sau khi rời bỏ thiên đường Cộng sản. Đời sống sau “bức màn sắt” giờ thì tui đã tỏ tường, tội nghiệp dân tộc đó gì đâu. Nào có ai ngờ đàng sau cái vẻ lạnh lùng, khó gần gũi đó, chứa cả một tâm hồn ngây thơ, một tình cảm mãnh liệt, đã từng bị đè nén và che giấu vì sống trong một chế độ đàn áp con người.

Nó kể hồi vượt biên giới để trốn đi qua nước Mỹ, lúc ngồi trên xe lửa chạy vô thành phố Nữu Ước, vợ chồng con cái và ba má nó rất sợ, kéo màn cửa sổ kín mít vì sợ bị người Mỹ ném đá vào xe lửa như họ đã từng bị tuyên truyền về sự thù ghét của người Mỹ đối với người Nga, nhưng thật sự không hề xẩy ra.

Nó nói cuộc sống bây giờ của gia đình nó ở Mỹ là ở thiên đàng.

Sau ngày bức tường Bá Linh bị dân Đức đập xuống, dân nước Nga được “cộng hưởng”, từ từ bớt khổ. Chồng nó bỏ làm ở xí nghiệp mà ra ngoài thị trường “buôn lậu”. Nó nói chỉ có cách đó cả nhà mới có thức ăn để sống, vì đời sống trước đó quá khổ. Nó gọi là “black market”, tui thiệt tình cũng không hỏi rõ, chỉ nhớ đại khái nó nói là mua gì đó, rồi bán lại kiếm lời như vải vóc, thuốc lá, v.v… Nó nói thời đó không ai là không làm “black market”, để khỏi đói. Nghe giống Việt Nam thời bao cấp.

*****

Rồi một hôm, cũng giờ ăn trưa, nó bỗng nhiên òa khóc, rồi ôm tui, nói nó phải từ giã tui, vì bạn nó vừa kiếm cho nó một việc làm trong nhà băng.

Tui buồn quá, vì nó và tui chỉ mới làm việc chung thời gian quá ngắn ngủi. Tui chỉ vừa kịp dạy nó chút xíu tay nghề thôi. Coi nó như em gái, tui cũng mừng cho nó tìm được chỗ làm khác, có vẻ chắc chắn hơn chỗ làm nầy.

Từ ngày có cô bạn người Nga, tui cảm thấy cuộc sống của mình trong chế độ tự do từ lúc sống bên Việt Nam thời Cộng Hòa trước năm 1975 cho tới khoảng thời gian sống ở Mỹ, quá sung sướng, quá tự do, và quá đầy đủ.

Bạn tôi đó, không có gì nổi bật, chỉ là một phụ nữ bình thường sống cơ cực sau bức màn sắt, đã được mở cánh cửa tự do, cho tui tự nhìn thấy mình nên bỏ bớt những thành kiến về dân tộc, để cởi mở hơn, bớt xét đoán hơn; chuyện gì cũng có mặt phải, mặt trái, như đồng xu.

Đã lâu lắm rồi tui không có liên lạc với nó, nhưng nét đặc biệt có một không hai của nó làm tui nhớ hoài, nhỏ bạn cùng tên với tui, Anna. Những ngày cuối năm trời lành lạnh, tự nhiên tui thèm món súp béo béo mà nó từng đem đãi tui. Tui nghĩ giờ chắc nó đã hết ngạc nhiên với những phồn thịnh của xứ Mỹ và đã hòa đồng cùng dân bản xứ, nội cỏ thiên đường.

 Trương Ngọc Anh

From: T. Nguyen

Máu và quyền lực: Lằn ranh mỏng giữa chính nghĩa và tội ác

Tu Le

Có những đêm ở Manila không cần trăng, ánh đèn đường cũng đủ soi rõ những vũng máu chưa kịp khô. Đó không phải tai nạn, càng không phải tai ương. Đó là chính sách. Và người ban hành chính sách ấy là Rodrigo Duterte.

  1. Khi súng nổ từ miệng Tổng thống

Từ năm 2016, khi Duterte bước vào điện Malacañang với tư cách Tổng thống, ông mang theo một lời hứa giản đơn đến rùng mình: “Tôi sẽ giết lũ nghiện.” Không phải “xử lý,” không phải “cải tạo” – mà là “giết.” Và ông đã thực hiện lời hứa đó một cách triệt để.

Chiến dịch chống ma túy do ông phát động – mang tên “Oplan Tokhang” – không chỉ truy quét tội phạm, mà giết luôn cả người bị nghi là tội phạm. Không cần tòa án. Không cần chứng cứ. Chỉ cần một cáo buộc từ ai đó trong xóm. Cảnh sát, hoặc dân phòng, hoặc “tay súng lạ mặt,” sẽ thay trời hành đạo.

Tính đến khi ông rời nhiệm sở năm 2022, theo chính phủ, có hơn 6.200 người chết. Theo các tổ chức nhân quyền quốc tế: trên 30.000 người. Trong đó, có cả trẻ vị thành niên. Có cả người vô tội.

  1. Động cơ chính trị – hay chiếc mặt nạ của độc tài?

Có người bênh ông: “Ông ấy chỉ muốn bảo vệ dân.” Nhưng cách bảo vệ ấy sao mà giống tàn sát?

Khi Duterte làm thị trưởng Davao trước đó, ông đã sử dụng “biệt đội tử thần” – Davao Death Squad – để giết nghi phạm. Thành công ấy, ông mang lên cả quốc gia.

Chiến dịch ma túy không chỉ nhằm “diệt trừ” ma túy – nó còn là công cụ chính trị. Ai trái ý? Kẻ chỉ trích? Báo chí độc lập? Nhân quyền quốc tế? – đều có thể bị gán cho cái mác “bảo kê ma túy.” Từ đó, dư luận bị chia cắt: một bên khiếp sợ, một bên tung hô “người hùng hành động.”

Chống ma túy, thực chất, trở thành quân bài dân túy. Duterte khoác áo đạo đức lên nòng súng của mình.

  1. Người ủng hộ – kẻ lên án

Trong nước, không ít người hoan hô ông. Những khu nghèo nơi cái chết là quen thuộc, họ coi ông như “vị cứu tinh.” Báo chí thân chính phủ thì biến từng xác chết thành chiến công. Họ tin rằng xã hội cần một bàn tay sắt.

Nhưng cũng chính trong lòng dân, có tiếng nức nở. Có những bà mẹ ôm xác con vì bị bắn nhầm. Có luật sư, giám mục, nhà báo dũng cảm lên tiếng và rồi bị đe dọa. Tổ chức Human Rights Watch gọi chiến dịch ấy là “vết nhơ cho nhân loại.”

  1. Hậu quả và lời buộc tội từ thế giới

Khi Duterte mãn nhiệm, ông tưởng đã thoát. Nhưng Công lý có trí nhớ. Năm 2021, Tòa Hình sự Quốc tế (ICC) mở điều tra. Đến tháng 3/2025, ông bị bắt tại sân bay Manila – bị cáo buộc tội “chống lại loài người” (crimes against humanity).

Tội ác chống lại loài người là một khái niệm pháp lý: khi nhà nước – hoặc một hệ thống cầm quyền – tổ chức các cuộc tấn công có hệ thống, nhắm vào dân thường. Duterte phù hợp cả ba yếu tố: quy mô, chính sách, chủ ý.

Hệ quả không chỉ nằm ở xác người. Nó còn ở niềm tin lung lay vào pháp quyền. Khi lãnh đạo ra lệnh giết người không cần xét xử, thì ranh giới giữa chính phủ và mafia là gì?

  1. Một lời cảnh tỉnh

Duterte không phải người đầu tiên dùng bạo lực nhân danh đạo đức. Ông chỉ là minh chứng mới nhất cho sự nguy hiểm của chủ nghĩa độc đoán dân túy – nơi cái thiện bị cưỡng bức theo ý kẻ cầm quyền.

Nhân dân có thể vì sợ hãi mà im lặng. Nhưng lịch sử thì không. Và nay, trước Tòa án Hình sự Quốc tế, lịch sử đang hỏi ông:

“Nhân danh điều gì, ông đã giết cả một thế hệ người nghèo?”

#KhoaiG7

____

Cựu Tổng thống Philippines bị tạm giam ở Hà Lan

( Ảnh: Reuters)

 Không ai mạnh bằng cầu nguyện-Đấng Đáng kính Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận

Niềm Vui Tin Mừng

 “Con nắm một bí quyết: cầu nguyện. Không ai mạnh bằng người cầu nguyện, vì Chúa đã hứa ban tất cả. Khi các con hiệp nhau cầu nguyện, có Chúa ở giữa các con.

Cha tha thiết khuyên con, ngoài giờ kinh, hãy cầu nguyện mỗi ngày tối thiểu một giờ, nếu được hai giờ càng tốt. Không phải là mất mát vô ích đâu !

Trên quãng đường Cha đi, Cha đã thấy lời Thánh Têrêsa Avila ứng nghiệm: “Ai không cầu nguyện, không cần ma quỉ lôi kéo, sẽ tự mình sa xuống hỏa ngục”.”

Đấng Đáng kính Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận

CÓ THẦN LINH HAY KHÔNG?

Công Tú Nguyễn Chuyện tuổi Xế Chiều

Chuyện kể rằng, có một quốc gia nọ muốn dùng phương pháp khoa học để tuyên truyền thuyết ‘Vô Thần’.

Để chứng minh không có thần linh và muốn người dân không có tín ngưỡng, không tin vào Thần, Phật, Chúa, …

Họ mời 3 vị tiến sĩ lên thuyết giảng trước công chúng.

Người đầu tiên bước lên bục diễn thuyết là một vị tiến sĩ thiên văn.

Ông lý giải về thuyết Vô Thần.

Cuối cùng ông nói lớn: Tôi đã dùng kính viễn vọng quan sát vũ trụ trong hơn 20 năm nhưng chưa bao giờ trông thấy Thần.

Vì thế chắc chắn là không có Thần linh!

Một tràng pháo tay của quần chúng.

Người thứ hai là tiến sĩ Y khoa.

Ông nói rất nhiều về con người, tuyệt nhiên cho rằng, thế giới này không có linh hồn.

Ông tuyên bố:

Tôi đã từng giải phẫu hàng trăm thi thể, quan sát tỉ mỉ các bộ phận.

Nhưng không phát hiện có nơi nào để linh hồn gửi gắm.

Trong tim ư?

Trong đầu ư?

Trong máu ư?

Tôi đều giải phẫu nhiều lần nhưng không thấy gì cả.

Vì thế chắc chắn, không có linh hồn!

Một tràng pháo tay nữa vang lên.

Người thứ ba là một nữ tiến sĩ, nhà luận lý học. Bà ta nói:

Người chết giống như cái đèn bị tắt.

Chết là hết, tuyệt đối không có cái gọi là Thiên Đàng hay Địa ngục để phán xét.

Tôi từng đọc qua các sách cổ kim Đông Tây nhưng không thấy ghi chép gì về chuyện này.

Sau khi ba tiến sĩ thuyết giảng xong.

Người chủ trì hướng về phía công chúng nói lớn: Nếu ai cảm thấy không thỏa mãn, hoặc muốn tranh luận, đều có quyền lên phát biểu công khai!

Một bà cụ bước lên sân khấu, nói với người chủ trì: Tôi có thể hỏi vài câu hỏi được không?

Người chủ trì nói: Rất hoan nghênh cụ!

Bà cụ nhìn vị tiến sĩ đầu tiên:

– Anh dùng kính viễn vọng nhìn được hơn 20 năm.

   Thế anh có nhìn thấy gió không?

   Nó có hình dạng thế nào?

Tiến sĩ trả lời:

– Thưa cụ, kính viễn vọng sao có thể trông thấy gió?

Bà tiếp lời:

– Trên thế giới có gió nhưng anh dùng kính viễn vọng nhìn không thấy gió.  Anh dùng kính viễn vọng nhìn không thấy Thần linh, sao có thể hồ đồ kết luận, không có Thần linh?

Vị tiến sĩ đầu tiên im lặng.

Bà cụ quay sang vị tiến sĩ Y khoa là chuyên gia giải phẫu:

– Anh có yêu vợ anh không?

Vị tiến sĩ:

– Dạ, có yêu. thưa cụ!

Bà cụ tiếp lời:

– Vậy anh đưa con dao giải phẫu cho tôi, tôi thử mổ bụng anh xem thử cái gọi là ‘yêu’ đó nằm ở bộ phận nào?

Trong gan ư?

Trong dạ dày ư?

Hay trong ruột ư?

Hay tim?

Mọi người cười vang.

Cuối cùng, bà cụ lại nhìn sang nữ tiến sĩ:

– Cô đã đọc quyển sách này chưa?

   Nó gọi là ‘Kinh Thánh’.

   Chẳng phải quyển sách này rõ ràng có nói rằng, mọi người sau khi chết đều phải chịu phán quyết dựa trên những việc làm của mình khi còn sống đó sao?

Cô đừng tưởng chết là hết.

Phải biết rằng việc sau khi chết còn nhiều và dài hơn lúc còn sống vô vàn!

Bà cụ nói tiếp:

– Khi cô còn là bào thai trong bụng mẹ, nếu có người nói với cô rằng, không lâu nữa cô sẽ có mặt trên trái đất, ở đó có trời, trăng, núi và biển nhưng cô sẽ phải ăn cơm mặc quần áo, cô có tin không?  Lúc đó cô chỉ loanh quanh trong bụng mẹ, cảm thấy thế giới này đối với cô chật chội như thế.

Nhưng hôm nay, cô không chỉ tin mà còn thực sự đã và đang sống trong không gian này, chứng kiến trời, biển, núi, sông.

Thế giới sau khi chết rồi, cuối cùng, cô cũng sẽ biết thôi!

Hàng tràng pháo tay không dứt vang lên tán thưởng bà cụ.

« Những gì chúng ta chưa nhìn thấy không có nghĩa là nó không tồn tại, những gì chúng ta biết được của ngày hôm nay chưa phải là những gì chúng ta sẽ biết vào ngày mai.

Hãy luôn mở lòng và đón nhận những điều kỳ diệu quanh ta! »

Sưu tầm