TÌM LẠI NIỀM TIN ĐÃ MẤT – TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

 TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

Cả ba năm A, B, C của Chúa nhật thứ hai Phục sinh đều có chung một bài Phúc âm.   Đó là trình thuật của tác giả Gio-an về việc Chúa Giê-su phục sinh hiện đến với các tông đồ, lần thứ nhất không có Tô-ma, và lần thứ hai, có Tô-ma ở đó (x. Ga 20,19-31).  Biến cố thập giá đã gây cho ông Tô-ma một cú sốc quá lớn.  Trước đó, khi Chúa Giê-su quyết định đến Bê-ta-ni-a để làm cho ông La-gia-rô đã chết được sống lại, bất chấp những nguy hiểm đe dọa, ông Tô-ma đã khẳng khái nói với các tông đồ khác rằng: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy” (Ga 11,16).  Điều này chứng tỏ ông là một người bạo dạn cương quyết trong việc theo Thầy mình.

 Trước biến cố thập giá, Tô-ma là người đã mất niềm tin.  Khi gặp Đấng Phục sinh bằng xương bằng thịt, ông tìm lại được niềm tin đã mất.  Trước cuộc thương khó của Thầy mình, Tô-ma cũng như các tông đồ khác đã cùng ăn uống với Người, nhưng bây giờ để tin, ông cần bằng chứng.  Cũng như biết bao người khác của mọi thời đại, Tô-ma cần có chứng cớ xác thực, làm nền tảng cho niềm tin của mình.  Ông đã thách thức: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.”  Điều kiện của Tô-ma đưa ra cũng hợp lý.  Bởi lẽ để gửi gắm niềm tin nơi một người nào đó, người ta cần có chứng cớ cụ thể.  Ba động từ được ông dùng trong câu trích dẫn trên là thấy, xỏ ngón tay, đặt bàn tay.  Ông muốn khẳng định: để tin thì phải mắt thấy tai nghe và thân xác phải chạm tới.  Tuy vậy, tám ngày sau đó, khi Chúa Giê-su phục sinh hiện ra và chấp nhận những điều kiện của Tô-ma, thì ông lại “đứng hình” khiếp vía.  Ông không còn dám xỏ ngón tay và đặt bàn tay vào các vết thương của Người nữa.  Cuộc gặp gỡ Chúa Giê-su Phục sinh bằng xương bằng thịt đã làm cho Tô-ma hoàn toàn bị thuyết phục.  Điều đặc biệt ở đây là Tô-ma tuyên xưng đức tin bằng một công thức chưa hề có trước đó trong Tin Mừng thánh Gio-an: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”  Qua lời tuyên xưng này, ông Tô-ma đã diễn tả định nghĩa tín lý cốt lõi sau này của Ki-tô giáo.  Đối với Tô-ma và các tông đồ, từ nay Đức Giê-su không còn phải là Chúa, mà là Thiên Chúa, tức là Đấng quyền năng đã tỏ mình ra trong lịch sử của dân tộc Ít-ra-en.  Quyền năng ấy thể hiện ở việc cửa nhà đóng kín mà Người vẫn vào được.  Cũng vậy, dù các ông nhìn thấy Chúa bằng con mắt thể lý, nhưng vẫn chưa nhận ra Người vì chưa được Người soi sáng.  Đấng Phục sinh không còn bị giới hạn bởi thời gian và không gian.  Người là Thiên Chúa thật.  Niềm tin đã mất không chỉ được thấy lại, mà còn hoàn hảo và trọn vẹn sâu sắc hơn nhiều.

 “Phúc thay những người không thấy mà tin!”  Đây không phải chỉ là lời dành cho Tô-ma, mà còn là thông điệp cho mọi thế hệ.  Cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi lúc đó đâu có nhìn thấy Đức Giê-su bằng xương bằng thịt, vậy mà số tín hữu càng ngày càng đông.  Niềm xác tín vào sự hiện diện của Đấng Phục sinh đã giúp ông Phê-rô có thể chữa bệnh, thậm chí cái bóng của ông phủ lên bệnh nhân, cũng làm cho họ được chữa lành khỏi những bệnh hiểm nghèo.  Cũng chính từ niềm tin Chúa Giê-su là Thiên Chúa mà các Ki-tô hữu hội họp tại hành lang Sa-lô-môn, tức là một phần của Đền thờ Giê-ru-sa-lem, là nơi thờ phượng Thiên Chúa của người Do Thái để ôn lại giáo huấn của Người.  Từ nay, Thiên Chúa của các Tổ phụ cũng là Thiên Chúa của các Ki-tô hữu (Bài đọc II).

 Hai mươi thế kỷ sau sự kiện Phục sinh, hôm nay Giáo Hội vẫn tiếp tục rao giảng Đấng Phục sinh và khẳng định: Người đang hiện diện giữa chúng ta!  Chúa Ki-tô đang sống!  Các tín hữu hôm nay và chúng ta đang được Đấng Phục sinh chúc phúc, vì chúng ta là những người “tuy không nhìn thấy mà vẫn vững niềm tin.”

 Trong Bài đọc II, tông đồ Gio-an chia sẻ với chúng ta hạnh phúc thiên đàng, là tương lai và lý tưởng của Ki-tô hữu.  Đó là hình ảnh Con Người trong vinh quang thiên quốc.  Phúc cho những ai vững niềm xác tín vào sự hiện diện của Đấng Hằng Sống, người đã chiến thắng tử thần và âm phủ.  Người đang được tôn vinh nơi thiên quốc và đồng thời cũng đang hiện diện giữa chúng ta. 

Hôm nay cũng là Chúa nhật của lòng Chúa Thương Xót, do sáng kiến của Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô từ năm 2000.  Mục đích của ngày này giúp chúng ta cảm nhận lòng thương xót của Chúa Cha thể hiện qua cuộc đời Chúa Giê-su mà đỉnh cao là biến cố thập giá, từ đó chúng ta sẽ thực thi lòng thương xót đối với tha nhân.  Nếu Chúa Giê-su chúc phúc cho những người tin vào Chúa, thì Người cũng chúc phúc cho những ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa, Đấng Tối cao (x.Mt 5,7).  Thế giới hôm nay rất cần đến lòng thương xót, không chỉ là từ nhu cầu vật chất, mà còn thiếu tình thương, tình liên đới cảm thông và giúp nhau hướng về sự thiện.  Mỗi chúng ta cũng cần đến lòng thương xót của Chúa, như lá chắn che chở chúng ta giữa những xô đẩy của dòng đời.  Lạy Chúa Giê-su, con tín thác vào Chúa!

 TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim


 

“Người tin thì không cần giải thích, người không tin thì giải thích cũng vô ích!” (Thánh Bernadette, Lộ Đức) – Cha Vương

Alleluia, Alleluia! Xin Chúa đồng hành với bạn luôn mãi nhé.

Cha Vương

Thứ 5, BNPS: 24/4/2025

TIN MỪNG: Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. Các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không?” (Lc 24:40-41)

SUY NIỆM: Thánh Bernadette, Lộ Đức nói: “Người tin thì không cần giải thích, người không tin thì giải thích cũng vô ích!” (Thánh Bernadette, Lộ Đức) Một lối giải thích về đức tin hữu hiệu nhất là hãy sống đức tin. Chúa Giêsu sau khi phục sinh dường như vẫn luôn hiện diện đồng hành thật gần gũi với các môn đệ và với những người thân quen để nâng đỡ, cảm thông và khích lệ họ sống và làm chứng cho Chúa Phục sinh. Có khi Ngài đến với họ như một người làm vườn để thăm hỏi an ủi: “Này bà, sao bà khóc?” (Ga 20:13). Bà tìm ai? Có khi ngài hiện diện như người đồng hành với hai môn đệ đi làng Emmau. “Các ông vừa đi vừa nói những chuyện gì vậy?” (Lc 24:17). Và rồi qua sự gần gũi ấy, Chúa Giêsu từng bước dùng Kinh Thánh để soi dẫn cho họ hiểu về những gì đang xảy ra trong mầu nhiệm ơn cứu độ: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Vậy thì, Chúa Phục sinh có gần gũi hoặc đang hành động trong cuộc đời của bạn hay không?

LẮNG NGHE: Anh em là dân riêng của THIÊN CHÚA, hãy loan truyền những công trình vĩ đại của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền. (1 Pr 2:9)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Giê-su Phục sinh, trong Chúa sự sự sống là tiếng nói cuối cùng trên sự chết, xin tăng thêm niềm tin cho con.

THỰC HÀNH: Đọc một Kinh Lạy Cha, 3 Kinh Kính Mừng và một Kinh Vực Sâu cầu nguyện cho Linh Hồn Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô.

From: Do Dzung

***************************

Chúa Đồng Hành Cùng Con (Sáng tác: Đại Tài) – Th. Nguyễn Trí

Ai sẽ được bầu làm Giáo Hoàng trong mật nghị hồng y sắp tới

Tổng hợp báo chí  Mật nghị của các hồng y sắp diễn ra sẽ không chỉ đơn giản là chọn một người kế nhiệm ngai tòa, nó sẽ là sự chọn lựa về một hướng đi của con thuyền Giáo Hội. Liệu Giáo hội sẽ tăng lên gấp đôi sức mạnh của sự tiếp cận mục vụ giống như những gì Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã thực hiện, hay xoay trục về nền tảng vững chắc và truyền thống của giáo lý Công Giáo? Liệu mật nghị  sẽ nhìn vào Nam Bán Cầu hay Châu Âu hoặc thậm chí Bắc Mỹ để tìm vị lãnh đạo? Mỗi hồng y từ các đại lục này đều đại diện cho một tầm nhìn khác nhau về tương lai của Giáo Hội Công giáo. Bất kể ai được cộng nhận  qua làn khói trắng ở điện Sistine, sự lựa chọn sẽ có ý nghĩa sâu sắc không chỉ đối với người Công giáo, mà còn đối với trường quốc tế.

Hồng Y nào sẽ được chọn trong Mật Nghị?

Theo đài TV CBS

Đức Hồng y Pietro Parolin, Bộ trưởng Ngoại giao Vatican 

Đức Hồng y Pietro Parolin, 70 tuổi, là người đứng thứ hai tại Vatican và là một nhà ngoại giao lâu năm luôn vượt lên trên mọi biến động trong triều đại giáo hoàng của mình. 

Quốc vụ khanh Tòa thánh Vatican Hồng y Pietro Parolin
Bộ trưởng Ngoại giao Vatican, Hồng y Pietro Parolin chủ trì Thánh lễ kỷ niệm 20 năm ngày mất của Đức Giáo hoàng Thánh Gioan Phaolô II tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô vào ngày 2 tháng 4 năm 2025,Hình ảnh Simone Risoluti / Getty

Ông được coi là người ôn hòa, nếu được bầu, có thể hàn gắn rạn nứt bên trong nhà thờ. Ông cũng được coi là người tiến bộ với tầm nhìn toàn cầu. 

Đức Hồng Y Pierbattista Pizzaballa, Thượng Phụ La Tinh của Jerusalem 

Đức Hồng y Pierbattista Pizzaballa, 60 tuổi, là ứng cử viên mục vụ đã lên tiếng trong cuộc chiến tranh Israel-Hamas và đã đến thăm Gaza trong suốt cuộc xung đột. 

JORDAN-CƠ ĐỐC GIÁO HỘI
Đức Thượng phụ Latinh của Jerusalem Pierbattista Pizzaballa, bên phải, đang có bài phát biểu trong khi Bộ trưởng Ngoại giao Vatican, Hồng y Pietro Parolin chứng kiến ​​lễ cung hiến Nhà thờ Chúa Giêsu chịu phép rửa tại Al-Maghtas ở Jordan vào ngày 10 tháng 1 năm 2025.KHALIL MAZRAAWI/AFP qua Getty Images

Ông là người ủng hộ công lý xã hội và coi mình là người phục vụ nhân dân. Ông giống với Francis về mối quan tâm đối với người di cư, đối thoại liên tôn và sự khinh miệt của ông đối với chủ nghĩa giáo sĩ. 

Đức Hồng Y Luis Tagle của Philippines

Đức Hồng y Luis Tagle, 67 tuổi, phó tổng trưởng Bộ Truyền giáo các Dân tộc, được mệnh danh là “Đức Phanxicô châu Á” vì tinh thần truyền giáo cũng như sự chú trọng chăm sóc người nghèo và chào đón những người LGBTQ và những người Công giáo đã ly hôn và tái hôn.

Đức Hồng Y Luis Antonio Tagle
Đức Hồng y Luis Antonio Tagle tham dự thánh lễ trọng thể về Cuộc Thương Khó của Chúa vào Thứ Sáu Tuần Thánh tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô vào ngày 18 tháng 4 năm 2025 tại Thành phố Vatican./ Hình ảnh Getty

Ông là cựu Tổng giám mục Manila, Philippines, một trong những quốc gia Công giáo nhất ở lục địa Châu Á, và đã học tập tại Hoa Kỳ trong bảy năm. Việc ông được bầu làm Giáo hoàng sẽ báo hiệu sự tiếp nối triều đại Giáo hoàng của Francis. 

Đức Hồng Y Matteo Zuppi, Tổng Giám mục Bologna, Ý 

Đức Hồng y Matteo Zuppi, 69 tuổi, là chủ tịch hội đồng giám mục Ý. Ông được biết đến như một “linh mục đường phố” và nhà truyền giáo và muốn có một nhà thờ lắng nghe tín đồ và sẵn sàng hiện đại hóa. Zuppi bao gồm cả các cặp đôi đồng giới, cũng như những người theo các tôn giáo khác nhau.

Đức Hồng Y Matteo Maria Zupp
Đức Hồng y Matteo Maria Zuppi tham dự Thánh lễ khai mạc Thượng hội đồng giám mục do Đức Giáo hoàng Phanxicô chủ trì tại Quảng trường Thánh Phêrô vào ngày 2 tháng 10 năm 2024./ Hình ảnh Getty

Đức Phanxicô đã chọn Zuppi làm sứ giả của mình tới Nga và Ukraine, cũng như tới Bờ Tây và Bắc Kinh, để thúc đẩy hòa bình.

 

Đức Hồng Y Peter Erdo, Tổng Giám Mục Budapest, Hungary

Hồng y Peter Erdo, một luật sư giáo luật 72 tuổi, là nhà lãnh đạo Công giáo cấp cao nhất ở một quốc gia có 80% dân số là người theo đạo Thiên chúa. Ông được biết đến với sự ủng hộ của mình đối với việc giáo hoàng tiếp cận với những người theo đạo Chính thống giáo.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô chào đón Đức Hồng Y Peter Erdo, Tổng Giám Mục Budapest

 

Đức Giáo hoàng Phanxicô chào đón Tổng giám mục Budapest, Hồng y Peter Erdo, vào ngày 28 tháng 4 năm 2023, khi ngài đến thăm Budapest, Hungary. / Hình ảnh Getty

Erdo cũng thuộc phe bảo thủ của sự chia rẽ văn hóa châu Âu. Về vấn đề di cư, một vấn đề quan trọng đối với Hungary, ông đã truyền đạt một cách tiếp cận cân bằng, công nhận quyền di cư nhưng cũng coi trọng việc đảm bảo ổn định chính trị. Erdo được coi là người theo chủ nghĩa truyền thống nhưng cũng được những người theo chủ nghĩa tự do tôn trọng, điều này có thể khiến ông trở thành một thế lực thống nhất trong nhà thờ. 

Đức Hồng Y Fridolin Ambongo, tổng giám mục Kinshasa, Cộng hòa Dân chủ Congo 

Đức Hồng y Fridolin Ambongo, chủ tịch Hội đồng Giám mục Châu Phi và Madagascar, đã thu hút sự chú ý của toàn cầu vì các giám mục hàng đầu Châu Phi đã nhất trí bác bỏ “Fiducia Supplicans”, một tuyên bố mà Vatican ban hành năm 2023, trong đó có hướng dẫn về việc ban phước cho những người trong mối quan hệ đồng giới.

Đức Hồng Y Fridolin Ambongo Besungu

 

Đức Hồng y Fridolin Ambongo Besungu sau buổi lễ bổ nhiệm của Đức Giáo hoàng Phanxicô vào ngày 5 tháng 10 năm 2019 tại VaticanTIZIANA FABI / AFP qua Getty Images

Ở tuổi 65, ông được biết đến là người ủng hộ chính thống giáo và bảo vệ chế độ độc thân của linh mục và giáo lý đạo đức của Giáo hội. Ông cũng được biết đến là người thúc đẩy công lý xã hội và là người bảo vệ người nghèo và người không có tiếng nói, và thẳng thắn chỉ trích chính phủ Congo. 

Đức Hồng Y Mario Grech, Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục

Hồng y Mario Grech, 68 tuổi, là một luật sư giáo luật có ảnh hưởng lớn đến cách điều hành các hội đồng trong nhà thờ. Những người ủng hộ đã ca ngợi ông vì đã dẫn đầu trong việc thực hiện một cách tiếp cận mang tính tham vấn và toàn diện hơn đối với việc quản lý nhà thờ. 

Đức Hồng Y Mario Grech

 

Đức Hồng y Mario Grech, tổng thư ký của Thượng hội đồng giám mục, tham dự Thánh lễ tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô vào ngày 29 tháng 10 năm 2023.TIZIANA FABI / AFP qua Getty Images

Grech đến từ Malta, một trong những quốc gia nhỏ nhất thế giới. 

Quân Dân Việt Nam Cộng Hòa đã bị bức tử qua Hiệp định Paris 1973

Austin D Nguyen

Quân Dân Việt Nam Cộng Hòa đã bị bức tử qua Hiệp định Paris 1973 :

“Trong khi Mỹ cắt giảm viện trợ cho miền Nam từ 2 tỉ 300 triệu xuống 964 triệu và cuối cùng bác bỏ luôn ngân khoản này thì Nga Xô tăng mức viện trợ quân sự năm 1974 cho Bắc Việt lên gấp đôi là 1 tỉ 700 triệu. Trung Quốc cũng gửi qua Bắc Việt 500 ngàn súng cá nhân với 90 triệu đạn, 21 ngàn súng cộng đồng với 4 triệu 500 ngàn đạn và ngót 3 triệu quân trang, quân phục… Trong khi quân đội Mỹ cùng các quốc gia đồng minh rút khỏi miền Nam thì tàu hàng Nga Xô chở đầy ắp chiến cụ nối nhau cập bến cảng Hải Phòng.

Cuối tháng 2-1973, tức vỏn vẹn 30 ngày sau hiệp định ngưng bắn, phi cơ quan sát đã ghi nhận 175 xe vận tải và 223 chiến xa Bắc Việt băng qua khu phi quân sự vượt đường mòn Hồ Chí Minh xâm nhập miền Nam. Cuộc xâm nhập không còn lén lút vì quân đội Mỹ đã rời cuộc chiến và hiệp định ngưng bắn cũng loại bỏ hoàn toàn khả năng ngăn chặn bằng không quân của quân đội Miền Nam. 

Cuối tháng 4-1975, tin ghi nhận cho biết đã có 18 ngàn lượt xe vận tải công khai chạy trên đường mòn Hồ Chí Minh chở vào Nam gần 80 ngàn quân cùng hàng trăm ngàn tấn chiến cụ, các loại đại pháo, hoả tiễn tối tân của Nga Xô và 650 xe tăng…”

(Pierre Darcourt, Dương Hiếu Nghĩa dịch)

 


 

Phiên bản khác của “Thương Tiếc – Uyên Nguyên

Tran Triet

Uyên Nguyên

Trong một không gian thinh lặng, “Thương Tiếc” hiện ra không như một hình khối bất động, mà như một tiếng thở dài đã hóa đá — tiếng thở dài của một người lính đã đi qua chiến tranh, không bằng vẻ kiêu hùng mà với ánh mắt nhìn xa xăm, tâm tư trĩu nặng của một thời loạn không thể nguôi quên.

Tác phẩm của điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu vừa là biểu tượng của người lính – vừa là hiện thân của một thời đại, một khúc ngoặt định mệnh trong lịch sử dân tộc. Người lính không đứng trong tư thế chiến đấu, không hô vang khẩu hiệu mà ngồi lặng trên một phiến đá, tay đặt hờ lên vũ khí như đang vấn lại một câu hỏi không ai trả lời: “Chúng ta mất gì, và còn lại gì?”

Từng đường nét trên gương mặt như chạm từ ký ức – chứa đựng một nỗi buồn kiêu hãnh. Chiếc nón sắt không còn là vật che chở mà trở thành một bóng mờ đè nặng ký ức. Bàn tay rắn chắc không còn siết chặt vũ khí, mà đang buông thõng giữa hai đầu gối, như thể đang ôm lấy một nỗi mất mát không tên.

Đây chỉ là một phiên bản khác của “Thương Tiếc”. Còn bức tượng nguyên thủy đã bị lật đổ vào những ngày tháng Tư, 1975, theo định mệnh quê hương và số phận của một thành phố đã mất tên. Tác giả của nó – người nghệ sĩ từng tạc nỗi đau vào đá – đã gánh lấy tù tội và giờ đây, đang thở những hơi dốc cuối đời trên giường bệnh. Với ông, có lẽ lúc này không còn gì để sợ mất. Nhưng cái chúng ta còn giữ được là gì? Vẫn còn là một câu hỏi. Phải chăng, mỗi chúng ta là một phiên bản khác của “Thương Tiếc” – sau 50 năm im tiếng súng, chỉ còn tiếng khóc thầm.

Không hô hào, không bi lụy, không lên án cũng không cầu xin, “Thương Tiếc” là một lời tưởng niệm trong im lặng. Im lặng để lắng nghe tiếng bước chân đồng đội không về. Im lặng để nhận diện từng khuôn mặt đã rơi vào vô danh. Im lặng để trái tim người xem tự thốt lên những câu hỏi về giá trị của sự hy sinh, về chiều sâu của khổ đau và về cái đẹp đau đớn của sự thua cuộc mà vẫn giữ nhân tính.

Trong khối đá rắn đó, Nguyễn Thanh Thu đã gửi vào không chỉ kỹ thuật điêu khắc, mà cả linh hồn của một thế hệ. Một linh hồn không muốn lãng quên, cũng không dám quên. Một linh hồn cúi đầu trước bi thương, nhưng ngẩng lên bằng nhân phẩm.

Bức tượng này, vì thế, không để chiêm ngưỡng, mà dành để chúng ta cúi đầu!

(Khúc chiêu niệm Tháng Tư – 22.4. 2025)

https://uyennguyen.net/…/uyen-nguyen-phien-ban-tiec…/


 

ĐƠN SƠ ĐẾN TẬN CÙNG – MỘT CÁI CHẾT NÓI LÊN CẢ MỘT CUỘC ĐỜI-Lm. Anmai, CSsR

Thao Teresa

Lm. Anmai, CSsR

Không hương hoa.

Không đèn nến.

Không di ảnh lộng lẫy.

Linh cữu Đức Thánh Cha Phanxicô lặng lẽ nằm đó – giữa đền thờ Thánh Phêrô uy nghi, chỉ là một cỗ quan tài gỗ trơn, mộc mạc, không một hoa văn, không một điểm nhấn xa hoa.

Ngài đến với Hội Thánh bằng đôi chân trần của Tin Mừng.

Ngài sống giữa trần gian với trái tim của một người cha nghèo – gần gũi, đơn sơ, không ồn ào, không phô trương.

Và rồi, Ngài ra đi – cũng nhẹ nhàng như thế.

Đám tang của một Giáo Hoàng – người đứng đầu Giáo Hội hoàn vũ, nhưng lại được tổ chức giản dị đến ngỡ ngàng. Không vì thiếu tôn kính. Mà vì sự tôn kính cao cả nhất chính là tôn trọng nguyện ước cuối cùng của một con người – được trở về với Chúa trong tinh thần khó nghèo và khiêm hạ.

Người ta biện hộ cho việc có hoa, có di ảnh, có nến sáng chói lọi vì “đó là phong tục”, là “để tỏ lòng hiếu thảo”, là “cho trang trọng”. Nhưng phong tục nào cũng có thể đổi thay nếu chân lý nói lên điều gì đó đẹp hơn, sâu sắc hơn, đúng hơn với tinh thần Tin Mừng.

Chúng ta không phủ nhận nét đẹp văn hóa của từng vùng miền. Nhưng có những điều giản dị đến mức ta phải dừng lại để tự hỏi: có thật cần thiết không khi phải tổ chức một đám tang quá hoành tráng cho một người đã chọn sống cả đời đơn sơ?

Sự đơn sơ nơi Đức Thánh Cha Phanxicô không chỉ là phong cách – mà là chứng tá.

Là một tiếng nói mạnh mẽ giữa thời đại chuộng hình thức.

Là một cái tát nhẹ vào não trạng khoác áo đạo đức mà quên mất căn cốt Tin Mừng.

Là một bài học sống động cho tất cả chúng ta – những người đang sống trong thế giới quá nhiều ồn ào, quá nhiều “bề ngoài”.

Ngài từng nói: “Giáo Hội phải nghèo và vì người nghèo.”

Và rồi chính Ngài đã làm nghèo chính mình để Tin Mừng được sáng lên.

Không cần lời ca ngợi ồn ào.

Không cần những thước phim lộng lẫy.

Chỉ cần một cỗ quan tài mộc, nằm lặng lẽ như một lời tuyên xưng:

Tôi đã sống cho Chúa.

Tôi đã sống cho con người.

Giờ đây tôi về với Ngài, trong sự nhẹ nhàng của người hành hương.

Có những người thích lễ tang rộn ràng, nhiều người đưa tiễn, nhiều vòng hoa, nhiều nến, nhiều ảnh.

Nhưng cũng có những người chọn cho mình cái chết thầm lặng – bởi cuộc đời họ đã quá đủ tiếng nói bằng hành động.

Không cần thêm gì nữa.

Sự lặng thinh ấy – mới chính là âm vang mạnh mẽ nhất.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã dạy chúng ta một bài học bằng chính cái chết của mình:

Sự vĩ đại không cần tô vẽ.

Sự thánh thiện không cần chứng minh.

Và lòng tin – không cần phô trương.

Giáo Hội, cũng như từng người tín hữu, được mời gọi nhìn lại:

Chúng ta có đang sống quá nhiều cho hình thức?

Chúng ta có đang đánh đổi bản chất Tin Mừng để lấy sự hoành tráng bề ngoài?

Và rồi, đến khi lìa đời, ta sẽ để lại gì? Một di ảnh to? Một vòng hoa đắt tiền? Hay một trái tim từng sống thật, yêu thật, và chết đi trong bình an vì đã sống đúng?

Đơn sơ không có nghĩa là sơ sài.

Mà là chọn sống có chiều sâu – để đến cuối cùng, không còn gì để tiếc nuối.

Bởi vì, sống đẹp nhất không phải là được người ta nhớ lâu, mà là sống trọn vẹn từng phút giây theo cách mình tin là đúng.

Tạm biệt Đức Thánh Cha Phanxicô – vị Giáo hoàng của sự thật, của lòng thương xót, và của tinh thần nghèo khó Tin Mừng.

Cảm ơn Ngài, vì đã sống và chết như một người môn đệ đích thực.

Và xin cho tất cả chúng con – những người đang sống – biết học lấy sự đơn sơ ấy, để cuối cùng cũng được ra đi bình an như Ngài, trong bàn tay Thiên Chúa.

Lm. Anmai, CSsR


 

Tiểu sử Đức Thánh Cha Phanxicô (1936-2025)

-Dưới đây là tiểu sử chi tiết của Đức Giáo hoàng Phanxicô – vị Giáo hoàng thứ 266 của Giáo hội Công giáo Rôma, người vừa qua đời ngày 21/4/2025. Bản tiểu sử này bao gồm các chặng đường chính trong cuộc đời, ơn gọi, hoạt động mục vụ, những cải cách lớn cũng như tầm ảnh hưởng toàn cầu của ngài.

* THỜI NIÊN THIẾU VÀ GIA ĐÌNH

Tên khai sinh: Jorge Mario Bergoglio

Sinh ngày: 17 tháng 12 năm 1936

Nơi sinh: Buenos Aires, Argentina

Cha: Mario José Bergoglio (nhân viên đường sắt, người Ý)

Mẹ: Regina María Sívori (nội trợ, người Argentina gốc Ý)

Là con cả trong một gia đình có 5 người con.

Ngay từ nhỏ, Jorge đã nổi bật bởi sự thông minh, tính kỷ luật và lòng đạo đức sâu sắc. Tuy mắc bệnh nặng thời niên thiếu (viêm phổi nặng dẫn đến phải cắt bỏ một phần phổi), Ngài vẫn kiên cường vượt qua và tiếp tục học tập.

* HỌC VẤN VÀ ƠN GỌI

Tốt nghiệp kỹ thuật viên hóa học tại Trường Kỹ thuật Công nghiệp.

Năm 1958, ở tuổi 21, Ngài gia nhập Dòng Tên (Jesuit).

Học triết học và thần học tại Colegio Máximo de San José.

Được thụ phong linh mục ngày 13 tháng 12 năm 1969.

Ngài nổi tiếng là một nhà giáo dục nghiêm túc và sống khắc khổ. Từng giảng dạy văn học, tâm lý học, thần học và triết học.

* TRONG DÒNG TÊN

1973 – 1979: Bề trên tỉnh Dòng Tên tại Argentina (ở tuổi 36).

Sau đó, giữ các vai trò linh hướng và giám đốc chủng viện.

Dưới thời độc tài quân sự tại Argentina, cha Bergoglio được cho là đã can đảm bảo vệ các tu sĩ, người nghèo và người bị đàn áp — một thời kỳ nhạy cảm mà sau này được nhìn lại với nhiều tranh cãi và suy ngẫm.

* GIÁM MỤC VÀ HỒNG Y

1992: Được Đức Gioan Phaolô II bổ nhiệm làm Giám mục phụ tá Buenos Aires.

1998: Trở thành Tổng Giám mục Buenos Aires.

2001: Được phong Hồng y.

Tại đây, Ngài nổi bật với lối sống giản dị: từ chối xe riêng, sống trong một căn hộ nhỏ, tự nấu ăn, đi làm bằng phương tiện công cộng. Ngài được người dân gọi thân thương là “Giám mục của người nghèo”.

* TRỞ THÀNH GIÁO HOÀNG

Ngày bầu chọn: 13/3/2013

Lúc ấy: 76 tuổi

Là Giáo hoàng đầu tiên đến từ Nam Mỹ, đầu tiên từ Dòng Tên, và đầu tiên lấy danh hiệu “Phanxicô” – theo gương Thánh Phanxicô Assisi, biểu tượng của hòa bình, nghèo khó và khiêm nhu.

* PHONG CÁCH GIÁO HOÀNG ĐỘC ĐÁO

Ở Nhà Thánh Marta thay vì Dinh Tông Tòa.

Mặc áo chùng trắng đơn sơ, không đeo thánh giá vàng.

Luôn gần gũi người nghèo, tù nhân, người di cư, người vô gia cư.

Ngài thúc đẩy Giáo hội “đi ra” – nghĩa là hướng về vùng ngoại vi, đến với người bị bỏ rơi, không ở trong “tháp ngà”.

* CÁC CẢI CÁCH QUAN TRỌNG

  1. Cải tổ Giáo triều Vatican

Thành lập Hội đồng Hồng y cố vấn (C9) để tư vấn cải cách.

Tái cấu trúc bộ máy Giáo triều theo hướng phục vụ hiệu quả và minh bạch.

  1. Minh bạch tài chính

Cải cách Viện Giáo vụ (Vatican Bank).

Thành lập bộ Kinh tế Vatican, đưa chuyên gia giáo dân vào quản lý.

  1. Đồng hành mục vụ thay vì phán xét

Hướng mục vụ dành cho người đồng tính, người ly dị tái hôn, phụ nữ…

Chống lại thái độ “luật lệ khắt khe”, cổ vũ lòng thương xót và đồng hành thiêng liêng.

* ẢNH HƯỞNG TOÀN CẦU

Kêu gọi bảo vệ môi trường (Thông điệp Laudato Si’, 2015).

Nhấn mạnh công lý xã hội, lên án nền kinh tế loại trừ.

Tăng cường đối thoại liên tôn, gặp gỡ cả giáo sĩ Hồi giáo, Do Thái giáo, Phật giáo.

Gặp Thượng phụ Kirill của Chính Thống giáo Nga (2016) – lần đầu sau 1000 năm.

Nỗ lực hiện đại hóa và làm mới hình ảnh Giáo hội trong thế giới thế tục hóa.

* NHỮNG NĂM CUỐI ĐỜI VÀ QUA ĐỜI

Những năm cuối, Ngài bị viêm phổi mạn tính, thoái hóa khớp gối, phải ngồi xe lăn.

Vẫn giữ nhịp làm việc cao: tiếp khách, dâng lễ, viết Tông huấn.

Nhập viện lần cuối vào tháng 3/2025 tại Bệnh viện Gemelli, Rôma.

Qua đời vào sáng 21 tháng 4 năm 2025 (Thứ Hai Phục Sinh), tại Nhà Thánh Marta, thọ 88 tuổi.

* DI SẢN THIÊNG LIÊNG

Biểu tượng của Giáo hội gần gũi, khiêm nhường, cải cách và lòng thương xót.

Truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên thế giới, kể cả ngoài Công giáo.

Được ca ngợi là “một vị thánh sống”, người thực thi Tin Mừng bằng hành động nhỏ bé mỗi ngày.

From: NguyenNThu

ĐƠN SƠ ĐẾN TẬN CÙNG. Không hương hoa. Không đèn nến

ĐẾN VỚI MẸ HẰNG CỨU GIÚP

Linh cữu Đức Thánh Cha Phanxicô lặng lẽ giữa đền thờ Thánh Phêrô – một cỗ quan tài gỗ trơn, mộc mạc, không một hoa văn.

Ngài đã chọn sống nghèo khó và khiêm hạ – và ra đi cũng như thế.

Mong sao các đám tang Công giáo cũng bày trí đơn sơ như thế này.

Tạm biệt Đức Thánh Cha Phanxicô, chứng nhân của Tin Mừng, người hành hương của hy vọng.


 

Di Chúc Cuối Cùng Của Giáo Hoàng Francis: Một Lời Nguyện Cho Hòa Bình và Một Nơi An Nghỉ Giản Dị

Ba’o Dat Viet

April 23, 2025

Không vương miện vàng, không cỗ quan tài dát ngọc, không lễ tang xa hoa trong hầm mộ Vatican – chỉ một mong ước duy nhất: được yên nghỉ trong lòng đất, nơi ngài từng đến cầu nguyện trước mỗi chuyến tông du. Đó là điều mà Đức Giáo hoàng Francis, vị giáo hoàng của lòng khiêm nhường và đức ái, để lại trong bản di chúc thiêng liêng được Vatican công bố hôm 21 Tháng Tư.

Được lập ngày 29 Tháng Sáu 2022 – khi ngài vẫn còn minh mẫn và đầy tâm lực – bản di chúc không nói về quyền lực, tài sản hay địa vị. Thay vào đó, toàn bộ nội dung chỉ là một lời nguyện cuối cùng dành cho Mẹ Maria và một chỉ dẫn chi tiết về nơi chôn cất ngài.

“Cảm thấy rằng hoàng hôn cuộc đời trần thế đang đến gần, với niềm hy vọng sống động vào Cuộc sống Vĩnh hằng, tôi muốn viết di chúc của mình chỉ liên quan đến nơi chôn cất tôi…”

Trong di chúc, Giáo hoàng Francis bày tỏ nguyện vọng được an táng tại Vương cung Thánh đường Đức Bà Cả (Santa Maria Maggiore) ở Rome – ngôi đền thánh lâu đời gắn bó với ngài suốt hành trình mục vụ. Mỗi chuyến tông du, dù xa xôi đến đâu, ngài đều ghé nơi đây để cầu nguyện trước Đức Mẹ. Và giờ đây, đó cũng sẽ là nơi khép lại hành trình trần thế của ngài.

Ngài yêu cầu được chôn dưới lòng đất, trong một hốc giữa Nhà nguyện Pauline và Nhà nguyện Sforza, không có bất kỳ trang trí đặc biệt nào, và chỉ khắc một dòng chữ duy nhất bằng tiếng Latinh: Franciscus.

Chi phí cho việc chôn cất sẽ được thanh toán từ quỹ ân nhân mà ngài đã sắp xếp trước và giao phó cho Đức ông Rolandas Makrickas quản lý.

Nhưng điều khiến hàng triệu người xúc động không chỉ là sự đơn sơ, mà là tấm lòng mục tử bao trùm cả nhân loại trong lời kết của di chúc:

“Xin Chúa ban phần thưởng xứng đáng cho những người đã quý mến tôi và sẽ liên lỉ cầu nguyện cho tôi. Tôi đã dâng Chúa những đau khổ vào cuối đời mình để cầu xin cho hòa bình trên thế giới và tình huynh đệ giữa các dân tộc.”


 

NIỀM VUI LẠ THƯỜNG- Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Các ông còn chưa tin, vì mừng quá!”.

Một ấn phẩm Anh trao giải cho ai định nghĩa hay nhất về “Một Người Bạn Tốt Nhất”. Trong hàng nghìn câu trả lời, có những câu sau đây: “Một người hiểu được sự im lặng của bạn!”; “Một người đến, khi cả thế giới ra đi!”; “Một người xuất hiện đúng lúc để nhân lên niềm vui, chia sẻ hạnh phúc và nỗi đau; giúp bạn trải nghiệm một niềm vui lạ thường ngay giữa những mất mát!”. Câu trả lời cuối cùng đạt giải.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay chỉ ra “Người Bạn Tốt Nhất!” – Giêsu – Đấng Phục Sinh, người xuất hiện đúng lúc cho các bạn của Ngài. Luca ghi lại một tâm trạng khó tả vì vừa không thể, lại vừa rất thật, “Các ông còn chưa tin, vì mừng quá!”. Họ vui mừng nhưng chưa chuẩn bị đủ để có thể trải nghiệm ‘niềm vui lạ thường’ này.

Bất cứ cuộc gặp nào với Chúa Giêsu đều luôn dẫn đến trải nghiệm một ‘niềm vui lạ thường!’. Nó là một kinh nghiệm rất khác vượt quá sự nhiệt tình, hâm mộ hoặc phấn khích. Các môn đệ vui mừng, nhưng ‘điều này là không thể’. Hãy chụp lại ‘cái khung tâm trí’ đẹp đẽ này! “Chưa tin” có nghĩa là không chắc mình phải tin điều gì. Kìa, một Giêsu bị đóng đinh đang đứng trước họ với những hõm sâu còn chưa khô trên thân mình; nhưng kìa, một Giêsu đang yêu cầu một chút gì đó để ăn. Họ sốc! Nhưng dường như nơi họ, vẫn có một niềm vui đang chực bùng nổ vì những gì đang thấy nhưng có một điều gì đó đang kìm hãm. Tất cả là quá tốt nhưng không biết có đúng như vậy không?

Một đôi khi, được hưởng nếm ân sủng Chúa, nhưng chúng ta vẫn do dự! Một trong những lý do là sự nản lòng! Trước cái chết của Thầy, các môn đệ vô cùng nản lòng; và bây giờ, dù Thầy ở trước mặt, họ vẫn tần ngần để ‘buông bỏ’ nó – điều mà họ đang cố ‘ôm chặt’. Cũng thế, chúng ta dễ dàng để sức nặng của thế giới, sức nặng tội lỗi của mình hoặc của người khác ghì xuống; chúng ta tức giận, khó chịu và ủ rũ. Chúng ta ‘ôm chặt’ chúng; đang khi nhận lấy niềm vui phục sinh giả thiết là phải ‘buông bỏ’ sự nản lòng để chăm chút nhìn vào thực tại Chúa muốn chúng ta tập trung vào. Ngài mời bạn nhìn xa hơn để đạt được một điều gì đó vĩ đại hơn; nhìn vào chiến thắng của Ngài để vui mừng.

Kìa, Phêrô đang hướng niềm vui của đoàn người đang chạy theo ông đến việc trải nghiệm ‘niềm vui lạ thường’ ở Đấng mà nhờ danh Ngài, anh què đi được – bài đọc một. Thánh Vịnh đáp ca bộc lộ nỗi hân hoan, “Lạy Chúa, lẫy lừng thay danh Chúa trên khắp cả địa cầu!”.

Anh Chị em,

“Các ông còn chưa tin, vì mừng quá!”. “Chúa Giêsu không phải là một “bóng ma”, mà là một Người sống; khi đến gần chúng ta, Ngài lấp đầy chúng ta bằng niềm vui đến mức không tin. Trở thành Kitô hữu trước hết, không phải là người của một học thuyết hay một lý tưởng đạo đức; nhưng là sống mối quan hệ sống động với Ngài – Chúa Phục Sinh!” – Phanxicô. Ngài là “Người Bạn đến, khi cả thế giới ra đi”; “Người Bạn Tốt Nhất xuất hiện đúng lúc để nhân lên niềm vui”; “Người Bạn Tốt Nhất” có thể giúp bạn và tôi trải nghiệm ‘niềm vui lạ thường’ ngay giữa những mất mát, đổ vỡ. Hãy sống chết cho tình bạn cao cả này!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, lấy khỏi con những vui thú ‘tầm thường’; giúp con buông bỏ những gì vô nghĩa, hầu có thể hưởng nếm niềm vui ‘khác thường’ mang tên “biến đổi!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

**********************************************************

Thứ Năm trong tuần Bát Nhật Phục Sinh

Có lời Kinh Thánh chép rằng : Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 24,35-48

35 Khi ấy, hai môn đệ từ Em-mau trở về, thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.

36 Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo : “Bình an cho anh em !” 37 Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. 38 Nhưng Người nói : “Sao lại hoảng hốt ? Sao lòng anh em còn ngờ vực ? 39 Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà ! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây ?” 40 Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. 41 Các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi : “Ở đây anh em có gì ăn không ?” 42 Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. 43 Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông.

44 Rồi Người bảo : “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm.” 45 Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh 46 và Người nói : “Có lời Kinh Thánh chép rằng : Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại ; 47 phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. 48 Chính anh em là chứng nhân về những điều này.”


 

Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người – Cha Vương

Happy Easter đến bạn và gia quyến nhé! Alleluia! Alleluia! Ước mong bạn nhận ra sự hiện diện của Chúa Phục sinh trong mọi sự của ngày hôm nay nhé.

Cha Vương

Thứ 4, BNPS, 23/4/2025

TIN MỪNG: Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. Họ mới bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (Lc 24:30b-32)

SUY NIỆM: Trong cuộc sống không phải lúc nào cũng “thuận buồm xuôi gió”… vì thực ra có những biến cố xảy ra nằm ngoài tầm kiểm soát của bạn, và chính Thiên Chúa cũng không muốn bạn lúc nào cũng phải trải nghiệm những điều này. Như các môn đệ trên đường Em-mau, trong lúc bối rối và thất vọng, lòng trí họ hoá ra lung lay và “thật là chậm tin”.  Có bao giờ, khi bị một cú “sốc” đến, bạn cảm thấy đức tin của bạn bị lung lay chưa? Có lẽ các môn đệ đang rớt vào tình trạng này sau khi Chúa chết. Đúng!Chỉ có Chúa mới hiểu thấu con tim yếu đuối của họ cho nên Ngài đã củng cố đức tin của họ bằng cách giúp cho họ nhận ra Ngài qua 3 yếu tố: 

(1) Nhận ra Chúa trong Kinh Thánh: “Thật, tôi bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống.” (Ga 5:24)

 (2) Nhận ra Chúa trong Bí tích Thánh Thể: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6:51), 

(3) Nhận ra Chúa trong cộng đoàn sống đức tin: “Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.” (Mt 18:20)  Vậy khi đức tin của bạn bị lung lay, bị thử thách, bạn cần kiểm điểm lại coi thái độ của bạn đối với 3 yếu tố trên như thế nào nhé.

LẮNG NGHE: CHÚA nói: “Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc,  

hãy đến mà thừa hưởng vương quốc dành sẵn cho các ngươi, ngay từ thuở tạo thành trời đất.” (Mt 25:34)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Giê-su Phục sinh, con thật là người có phúc vì Chúa đã tìm gặp con trong lữ hành cuộc đời, giữa những mất mát ê chề trong cuộc sống, xin khơi dậy trong con niềm tin yêu bừng cháy. 

THỰC HÀNH: Tích cực sống 3 yếu tố kể trên.

From: Do Dzung

***********************

Trên Đường Emmau (St: Thành Tâm) | Nhật Hạ, Chiron, Xuân Mai


 

20 năm và 50 năm vẫn nguyên vẹn giá trị Việt Nam Cộng Hòa

Ba’o Nguoi-Viet

April 23, 2025

Trần Doãn Nho/Người Việt

KENNEDALE, Texas (NV) – Như nhiều người cùng thế hệ, tôi đã sống trọn 20 năm trong lòng chế độ Việt Nam Cộng Hòa (1955-1975) và cảm thấy tự hào là người Việt Nam. Nhìn trở lại, với tôi, đó là một quá khứ thân thuộc, êm đềm, sinh động.

Đường phố Sài Gòn trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa vào Tháng Mười Một, 1968. (Hình: Terry Fincher/Daily Express/Hulton Archive/Getty Images)

Hai mươi năm ấy và 50 năm sau, biết bao nước chảy qua ghềnh, qua thác, qua suối, qua cầu, qua sông, qua biển… Trong khoảng thời gian vừa ngắn lại vừa dài dằng dặc đó, tôi trải qua ít nhất là bốn cuộc đời: như một công dân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), như một tù nhân trong trại tù Cộng Sản, như một công dân Việt Nam hạng chót (nếu tôi nhớ không lầm, thì là hạng thứ 14 quy cho những ai bị đi tù “cải tạo”) và sau cùng, như một người lưu vong.

Hai mươi năm đầu: giữa chiến tranh và hòa bình, giữa hận thù, nhiễu nhương và hoa mộng, tươi vui, giữa tuyệt vọng và hy vọng.

Năm mươi năm sau: cuộc đời lộn ngược. Nhiều lần. Đối với tôi mà cũng là đối với vô số người. Xem như cộng nghiệp!

Giá trị VNCH

Trong một lần gặp gỡ bà con, một người cháu thuộc thế hệ của những người trưởng thành trong nước sau năm 1975, giáo viên về hưu, thành thật hỏi tôi: “Tại sao đã gần nửa thế kỷ trôi qua rồi mà các chú các bác ở ngoài đó [hải ngoại] vẫn còn giữ mãi thái độ không thân thiện với nhà nước hiện nay vậy?”

Tôi cười, trả lời: ở nước ngoài, chuyện “không thân thiện” hay nói cho rõ ra, chống đối nhà cầm quyền, là chuyện “thường ngày ở huyện,” một sinh hoạt vô cùng bình thường như mọi sinh hoạt khác trong xã hội. Trong chế độ dân chủ, cứ phải tâng bốc, ca tụng nhà cầm quyền hay im lặng trước những sai trái của họ mới là điều lạ. Các ông tổng thống, thủ tướng hay các dân biểu nghị sĩ hay bất cứ quan chức nào đương nhiệm vẫn bị dư luận và báo chí phê phán, chỉ trích, thậm chí rủa sả hàng ngày về đủ thứ chuyện (thực cũng như bịa), nhưng chẳng ai bị lên án là phản động, là bán nước hay phá hoại. Người cầm quyền chỉ có một quyền duy nhất: phản bác lại, cũng qua báo chí, hay kiện ra tòa, chứ tuyệt đối không quy chụp và bắt bớ dựa trên các lời phát biểu.

Người cháu gật gù, tỏ ra hiểu. Tôi đoán: hiểu nhưng chưa chắc đã thông. Không sao. Người cháu sống thời của cháu: chịu đựng và làm quen với chịu đựng trở thành một nếp sống, một quán tính sinh tồn. Đụng chạm đến nhà nước, dù đúng hay sai, đều là “taboo,” điều cấm kỵ.

Còn tôi, tôi sống thời của tôi. Vâng, thời của tôi! Hai mươi năm và 50 năm với những quãng đời đứt đoạn, chập chờn nổi trôi giữa cuộc thăng trầm.

Trong chế độ VNCH, tôi được học hành vui chơi, được mơ ước, được phục vụ, được hưởng thụ và không những thế, tham gia tranh đấu chống lệ thuộc ngoại bang, chống bất công, chống đàn áp, đòi hỏi bầu cử tự do, dân chủ. Và đã từng ăn cơm nhà tù vài lần. Có bênh có chống.

Với tôi, VNCH không hoàn hảo, nhưng rộng mở, có chỗ cho thế hệ chúng tôi mở mang kiến thức đa dạng, có chỗ cho kẻ sĩ và người lương thiện, không cần phải nhịn nhục, bợ đỡ và hô khẩu hiệu để được sống yên thân.

Những ưu điểm đó làm nên cái mà tôi gọi là “giá trị VNCH.” Còn nhớ, sáng 30 Tháng Tư, 1975, đứng trên đường Trương Minh Giảng, Sài Gòn, nhìn những chiếc xe tăng bộ đội Cộng Sản chạy vào từ hướng phi trường Tân Sơn Nhất, tôi bàng hoàng nghe như cả bầu trời sụp xuống. Trời nắng mà tràn đầy bóng tối. Trong phút chốc, VNCH biến mất. Tưởng đã vĩnh viễn đi vào hư vô.

Nhưng không!

Khác với các triều đại ngắn ngủi trước đây, tuy chế độ thì không còn nữa, nhưng giá trị VNCH không biến mất, vẫn tiếp tục kéo dài đến ngày nay, 50 năm sau. Ở hải ngoại, đã đành, mà còn lan tỏa vào trong nước dưới nhiều khía cạnh khác nhau.

Khởi đầu, do những đợt ra đi liên tục làm chấn động lương tâm nhân loại sau năm 1975. Từ đó, dù vì chính trị hay kinh tế, bằng cách vượt biên hay có giấy tờ, dù định cư ở Hoa Kỳ, Úc, Pháp, Anh hay các nước khác ở Âu Châu, Phi Châu, Á Châu, những người rời bỏ đất nước mang theo tấm lòng của những người sống trong, sống với và yêu mến các giá trị đó. Nói như nhạc sĩ Ngô Thụy Miên trong “Em Còn Nhớ Mùa Xuân,” đó là những “hôm qua” và những “mai sau” trong tâm thức “hồi hương:”

“Những thành phố em sẽ đi qua
Đây Ba-Lê, đây Luân Đôn, đây Vienne
Nhưng có đâu bằng Sài Gòn hôm qua
Nhưng có đâu bằng Sài Gòn mai sau
Em có mơ ngày hát câu hồi hương”

“Ra đi” này kéo theo “ra đi” kia. “Ra đi,” cuối cùng, không còn có nghĩa là “bỏ đi” mà là để trốn thoát, để gìn giữ và để nối dài. Tôi thích nhóm chữ “VNCH nối dài” của sử gia Tạ Chí Đại Trường. Vâng, có một VNCH nối dài. Đó là sự “nối dài” đầy ý nghĩa của một mô thức xã hội, vừa có tính thừa kế những giá trị có sẵn, vừa được bổ sung thêm những giá trị mới từ văn minh Tây phương. Nó đánh dấu sự tồn tại những nét son của phe thua cuộc.

Người miền Nam ra đi kéo theo người miền Bắc (cũng tìm cách) ra đi. Những đợt ra đi “không có phép” được nối tiếp với những cuộc ra đi “có phép.” Cho đến nay, người ta vẫn tiếp tục ra đi, dưới dạng này hay dạng khác. Trong số đó, không thiếu những người đã từng hoạt động cho Cộng Sản và con cháu của họ, kể cả con cháu của nhân vật cao cấp trong chính quyền. Nối dài và nối dài và nối dài…

Những “nối dài” đó khiến cho cộng đồng Việt Nam, trong 50 năm qua, từ những nhóm người tị nạn tả tơi, rách nát trong quá khứ cho đến hiện nay, bành trướng ra, lớn mạnh hơn, có mặt hầu như trên khắp thế giới, hình thành nên một hiện thực chưa hề có trong lịch sử nước nhà: Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại.

Hai chữ “hải ngoại” vừa là một khái niệm địa lý lại vừa đồng nghĩa với một cái gì “khác hẳn” – và trong một số trường hợp, “đối lập” – với (nhà cầm quyền) trong nước. Hiểu cách nào thì hải ngoại cũng là một chỗ dựa, là chỗ bù đắp cho những gì thiếu vắng, thiếu thốn hay bị cấm đoán – cả tinh thần lẫn vật chất – ở trong nước. Hải ngoại động viên, dung chứa, lưu giữ và phổ biến, không những nền văn hóa dân tộc đa dạng, mà còn những tiếng nói phản biện mọi mặt từ trong nước ra toàn thế giới bằng cách thực hiện các cuộc phỏng vấn, phát hành ca khúc, xuất bản các tác phẩm văn chương, các sách biên khảo xã hội và chính trị của họ. Hải ngoại trở thành một đối trọng (contre-poids) cần thiết, góp phần thúc đẩy tiến bộ và cải cách đất nước.

Thương xá Phước Lộc Thọ ở thành phố Westminster, California, ngay trung tâm Little Saigon – “thủ đô” của người Việt tị nạn. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Little Saigon – căn cước của một VNCH nối dài

Ở một mặt nào đó, có thể nói hải ngoại là một thực thể Việt Nam khác, phong phú, cởi mở và tự do hơn. Nhất là ở Hoa Kỳ. Với tổng dân số được ước tính hiện nay hơn 2.2 triệu người, cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ chiếm khoảng một nửa số người Việt trên toàn thế giới, với một cái tên mà cũng là một nơi chốn đã trở thành biểu tượng để hướng về: Little Saigon.

Little Saigon – “thủ đô” của người Việt tị nạn – bây giờ là ID (căn cước) của một VNCH nối dài. Tuy không phải là một chính quyền, một tổ chức, một cơ cấu, nhưng Little Saigon hoàn toàn mang không khí và hơi thở của những tháng năm VNCH ngày cũ, từ chợ búa, truyền thanh, truyền hình, báo chí cho đến văn chương, âm nhạc và, tất nhiên, lá cờ vàng, bây giờ được xem là “Lá Cờ Tự Do và Di Sản” (Vietnamese Freedom and Heritage Flag) của người Mỹ gốc Việt.

Little Saigon – Sài Gòn Nhỏ – tượng trưng cho sự tồn tại của một Sài Gòn Lớn, vốn là thủ đô của VNCH, đã bị đổi tên. Cứ nhìn những ứng cử viên người Việt ra ứng cử các chức vụ hành pháp và lập pháp (trung ương hay địa phương) trong các cuộc bầu cử Tháng Mười Một, 2024, tại Little Saigon là thấy rõ sự kiện đó: ứng cử viên, dù thuộc đảng nào, cũng đều nêu bật những giá trị VNCH để thu hút sự ủng hộ của cử tri.

Sự lớn mạnh và ảnh hưởng của nó về nhiều mặt khiến Little Saigon trở thành đề tài nghiên cứu cấp đại học. Chẳng hạn như tiểu luận “Creating a Sense of Place: The Vietnamese-Americans and Little Saigon” của Sanjoy Mazumdar, Shampa Mazumdar, Faye Docuyanan và Colette Marie McLaughlin. Theo các tác giả, ở Hoa Kỳ, hầu hết những nhóm người mới đến định cư đều có nhu cầu phải diễn tả căn cước cộng đồng của họ bằng cách tạo ra một không gian và nơi chốn riêng của họ. Chẳng hạn “Chinatown” (Khu Phố Tàu), “Polish enclave” (Cộng Đồng Ba Lan), “Lebanese enclave” (Cộng Đồng Li-Băng/Lebanon), Germantown (Khu Phố Đức), “Little Havana” (Tiểu Havana/cho người Cuba).

Tương tự, các tác giả cho biết: “Kinh nghiệm của người Việt Nam là câu chuyện về sự đau đớn và mất mát, mất nước, mất nhà, mất gia đình, mất văn hóa và căn cước.” Cho nên, Little Saigon xuất hiện như là “trung tâm của căn cước và sự gắn bó của cộng đồng.” Nó đã trở nên, “không chỉ là trung tâm thương mãi mà còn là trọng điểm xúc động của cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ.”

Vì thế, những người Việt nào không cư trú ngay tại Little Saigon, thì đến “Little Saigon giống như thực hiện một cuộc hành hương. Đối với họ, đó là một ngôi nhà thay thế, một ngôi nhà cách xa nhà (a home away from home), một nơi chốn họ có thể dễ dàng đến để có được một chuyến về thăm nhà. (…) Đối với một cộng đồng người tị nạn đã mất quê hương, trong đó có thủ đô Sài Gòn, việc thành lập Little Saigon tượng trưng cho niềm hy vọng từ ‘không nhà’ (homeless) trở thành ‘có nhà’ trở lại (a ‘home’ again). Cuối cùng, chính sự hiện diện của Little Saigon đã truyền tải một cách đầy biểu tượng đến xã hội sở tại khao khát của cộng đồng di dân Việt Nam muốn bám rễ thường trực trên vùng đất tạm dung mới (trong đất Mỹ) trong lúc vẫn duy trì được bản sắc dân tộc riêng của họ thông qua sự chuyển dịch thành công tôn giáo, văn hóa và doanh nghiệp của họ.”

Điều thú vị là, Little Saigon này làm phát sinh ra những Little Saigon khác.

Hiện nay, đã có khá nhiều Little Saigon hiện diện tại nhiều địa phương, ở Hoa Kỳ cũng như ở một vài nước khác. Cái tên dễ thương này đã trở thành – hoặc đang được vận động để trở thành – chính thức, như Little Saigon San Jose (California), Little Saigon San Francisco (California), Little Saigon Sacramento (California), Little Saigon Houston (Texas), Little Saigon Vancouver (Canada), Little Saigon in Sydney (Úc), Little Saigon Plaza Bankstown (Úc).

Ở những nơi mà cộng đồng người Việt nhỏ bé hơn, lại sống tản mác, không có đại diện trong chính quyền địa phương để vận động đặt tên, cư dân Việt vẫn tự gọi khu sinh hoạt hay khu thương mại địa phương mình cư trú là Little Saigon. Dần dà, dưới mắt người Mỹ, Little Saigon đồng nghĩa với “Khu Phố Việt.” Tại các khu phố này, có nơi tuy chỉ thu gọn trong một vài cơ sở thương mại (đôi khi chỉ là một cái chợ nhỏ), mọi mặt sinh hoạt hằng ngày của chúng đều đậm nét quê hương, hình thành những thỏi nam châm thu hút và quy tụ đồng hương.

Nhật báo Người Việt đón Tết. Tờ báo ra đời ngày 15 Tháng Mười Hai, 1978, là một trong những tờ báo tiếng Việt lớn nhất tại hải ngoại. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

“Nền” văn học, báo chí riêng

Nối kết các khu phố Việt rải rác trên toàn thế giới là âm nhạc, báo chí và văn chương, những phương tiện xuyên quốc gia hữu hiệu trong thời đại điện tử. Các nhóm chữ “âm nhạc hải ngoại,” “báo chí hải ngoại” hay “văn chương hải ngoại” để chỉ các hoạt động văn hóa của người Việt trên toàn thế giới đã trở thành từ vựng chính thức trong ngôn ngữ Việt Nam hiện nay. Hoạt động của các trung tâm hay cơ sở này quá đa dạng và quá nhiều đến nỗi, chưa người viết nào có đủ điều kiện để tìm biết và liệt kê đầy đủ.

Về mặt âm nhạc và báo chí, ngoài những cái tên vô cùng quen thuộc như Thúy Nga, Asia, Vân Sơn hay Người Việt, Viễn Đông, Việt Báo, Thời Luận, vân vân, nằm ngay trong Little Saigon “thủ đô,” còn có nhiều cơ sở âm nhạc và hàng trăm, hàng ngàn tạp chí hay tuần báo, nguyệt san khác (vừa giấy vừa mạng) nằm rải rác trong tất cả các Little Saigon “địa phương,” cung cấp món ăn tinh thần cho hàng triệu người Việt.

Về mặt văn chương, tuy không sôi động và gây ảnh hưởng tức thời như hai lãnh vực trên, cộng đồng người Việt hải ngoại đã tạo nên được một “nền” văn học riêng (cả tiếng Việt lẫn Anh hay tiếng Pháp) vô cùng phong phú với một số lượng tác giả, tác phẩm và tạp chí văn chương dồi dào. Đó là một tổng hợp của nhiều dòng văn chương khác nhau: Văn Chương Miền Nam trước 1975, Văn Chương Miền Nam “nối dài,” văn chương của những cây bút mới xuất hiện ở hải ngoại, văn chương của những nhà văn phản kháng hay bất đồng chính kiến, vân vân và vân vân.

Có rất nhiều tạp chí văn chương, giấy cũng như mạng: Làng Văn, Ngôn Ngữ, Da Màu, Thư Quán Bản Thảo, Diễn Đàn Thế Kỷ, Gió-O, Đàn Chim Việt, Diễn Đàn Forum, Thất Sơn Châu Đốc, Tân Hình Thức, Tiền Vệ, T. Vấn & Bạn Hữu, Phố Văn, Phạm Cao Hoàng, Trần Thị Nguyệt Mai… Cũng có khá nhiều nhà xuất bản: Tiếng Quê Hương, Văn Mới, Văn Nghệ, Nhân Ảnh, Văn Học Press, Thế Kỷ 21, Da Màu Press, Người Việt Books, Nhà Xuất Bản Trẻ, Anh Thư, Tân Thư, Thư Ấn Quán, Literary Hub…

Các tạp chí và nhà xuất bản này, ngoài việc đăng tải hay tái bản các tác phẩm của Văn Học Miền Nam trước 1975, xuất bản các tác phẩm của các tác giả hải ngoại, còn xuất bản hàng trăm tác phẩm bị cấm của những cây bút, hoặc đã qua đời hoặc còn ở trong nước hay đã thoát ra ngoài như Vũ Thư Hiên, Nguyễn Viện, Phạm Đoan Trang, Nguyễn Bình Phương, Bùi Ngọc Tấn, Tô Hải, Tiêu Dao Bảo Cự, Hoàng Hưng, Trần Đĩnh, Huy Đức…

Đặc biệt nhất, một số tác giả và tác phẩm văn chương của họ đã đi vào lãnh vực quốc tế (do được viết bằng ngoại ngữ hoặc được chuyển dịch từ tiếng Việt) như Nguyễn Thanh Việt, Ocean Vương (Mỹ), Kim Thúy (Canada), Dương Thu Hương, Trần Thị Hảo (Pháp)… Văn chương hải ngoại, với sức sống mạnh mẽ của nó, hiện đã trở thành một dòng văn học với sắc thái riêng biệt, nhất định sẽ chiếm một vị trí xứng đáng trong lịch sử văn học Việt Nam.

Mẹ và con đi chợ Tết. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Người ngoại quốc gọi Tết là “Tết!”

Một điều lý thú khác cũng cần được ghi nhận, đó là ngôn ngữ. Qua một thời gian dài sống chung với nhiều nền văn hóa khác nhau, ngôn ngữ Việt Nam dần dà phổ biến, do đó, một số từ ngữ Việt Nam như “banh mi” (bánh mì), “pho” (phở), “ao dai” (áo dài), “tet” (Tết) trở thành từ vựng có tính cách quốc tế, được đưa vào một số tự điển tiếng Anh, trong đó có Merriam-Webster, Cambridge Dictionary, Oxford English Dictionary, Collins Dictionary, Dictionary.com, vân vân.

Dictionary.com định nghĩa “banh mi” là “a Vietnamese sandwich on a crisp baguette spread with mayonnaise, typically containing pork or chicken and pâté, with pickled vegetables, cucumber, and cilantro” (Một loại bánh mì giòn có phết sốt mayonnaise kẹp thịt heo hoặc thịt gà và pa-tê kèm thêm rau, dưa leo và ngò).

William-Webster định nghĩa “ao dai” là “the traditional dress of Vietnamese women that consists of a long tunic with slits on either side and wide trousers” (Trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam gồm áo dài xẻ hai bên và quần ống rộng).

Riêng chữ “Tet,” trước đây, người nước ngoài đã biết đến và sử dụng nó, nhưng để chỉ biến cố Tết Mậu Thân 1968: “Tet Offensive.” Bây giờ, chữ Tết với nghĩa phổ thông hơn, cũng đã chính thức được ghi vào tự điển tiếng Anh. Xin ghi lại định nghĩa về chữ “Tet” trong hai tự điển tiếng Anh nổi tiếng:

-Tự điển Merriam-Webster: Tet (noun) là “the Vietnamese New Year observed during the first several days of the lunar calendar beginning at the second new moon after the winter solstice” (Tết là Lễ Mừng Năm Mới của người Việt được tổ chức vào những ngày đầu tiên của âm lịch bắt đầu từ ngày trăng non thứ hai sau ngày đông chí).

-Tự điển Dictionary.com: Tet (noun) là “the Vietnamese New Year celebration, occurring during the first seven days of the first month of the lunar calendar” (Tết là Lễ Mừng Năm Mới của người Việt, diễn ra vào bảy ngày đầu tiên của Tháng Giêng Âm Lịch).

Tết Việt Nam, như thế, đã được tách hẳn khỏi Tết Tàu, “Chinese New Year.”

Xét cho cùng, theo tôi, đó cũng là một thành tựu. Nhưng không chỉ là thành tựu về mặt ngôn ngữ.

Thành tựu đó gắn liền với nỗ lực bảo vệ truyền thống của mọi người Việt Nam khi bị buộc phải xa rời cội nguồn, chủ yếu là qua hình thức ẩm thực và lễ hội. Trong suốt 50 năm ở xứ người, năm nào cũng như năm nào, ở đâu có người Việt cư ngụ là ở đó có hội Tết, dù nhỏ dù lớn. Tha hương, buồn thì buồn, nhớ thì nhớ, nhưng vẫn ăn mừng: “Ăn” và “Mừng.” “Ăn” Tết, “Mừng” Xuân là mang quê hương đến với mình. Đồng thời, cột chặt mình với quê hương. Có Tết là có quê hương. Không kể Little Saigon, nơi mà không khí Tết rộn ràng và rực rỡ mà cao điểm là các cuộc Diễn Hành Tết và Hội Chợ Tết, ở các vùng khác, sinh hoạt Tết đều diễn ra hằng năm, cũng thấm đẫm màu sắc quê hương không kém.

Gia đình tôi sang định cư ở một thành phố nhỏ miền Đông Bắc nước Mỹ, nơi mà Tết bao giờ cũng rơi vào lúc cao điểm của mùa tuyết. Không có Tết nào là vắng tuyết, thậm chí có năm, bão tuyết lớn rơi vào đúng đêm Giao Thừa với lượng tuyết lên đến 10-15 inch. Chữ “Tết,” vô hình trung, gắn với và nằm trong chữ “T(uy)ết.”

Tết trong tuyết, tuyết trong Tết! Tết và tuyết chỉ cách nhau một bước chân: bước vào, Tết, bước ra, tuyết! Có năm, cúng Giao Thừa xong, muốn cắm một cây nhang ở ngoài trời cũng không được, vì toàn là tuyết và tuyết. Không sao! Dù chỉ là những ngày cuối năm “giả thuyết,” những chiều 30 “bịa đặt,” những Giao Thừa “tự chế” (biến), những ngày đầu năm “hư cấu,” thế nhưng, năm nào gia đình tôi cũng lấy một hay vài ngày nghỉ phép (nghỉ làm, nghỉ học) để “ăn Tết.” Mứt bánh thiệp chúc mừng quà cáp tiền lì xì cúng ông Táo cúng Tất Niên đi chợ Tết đi chùa hái lộc đi thăm bạn bè… Có đủ.

Ngoài Tết nhà, là Tết chợ. Không khí Tết dồn vào trong ba, bốn cái chợ, tọa lạc ở những khu riêng biệt, cách xa nhau. Dẫu vậy, đối với cộng đồng Việt Nam nhỏ bé ở đây, chợ là hình ảnh của một quê nhà thu nhỏ. Không thiếu thứ gì: chậu mai, chậu đào, phong pháo, bánh chưng, bánh tét, mứt dừa, mứt khoai, mứt gừng, mứt bí, hạt dưa, bao lì xì, dưa hành, câu đối, lịch coi ngày, hương đèn, hoa quả, nhạc xuân, báo Tết…

Đi chợ cũng là một cách ăn Tết: người người mua sắm, tiếng cười đùa, trò chuyện râm ran hòa cùng với tiếng hát vang vang từ băng nhạc Xuân: “…Đón Xuân này tôi nhớ Xuân xưa một chiều Xuân tôi đã hẹn hò… bên mái tranh nghèo ngồi quanh bếp hồng trông bánh chưng chờ trời sáng”… Ngậm ngùi lắng nghe tuổi thơ, lắng nghe quê nhà, lắng nghe xóm giềng qua tiếng trò chuyện lao xao của đồng hương chen chúc, lắng nghe những đói nghèo, lắng nghe những ước mơ đơn sơ và mộc mạc ngày cũ. Quá khứ quê nhà trộn lẫn với hiện tại tha hương.

Ngoài “Tết chợ,” là “Tết chùa” hay “Tết nhà thờ,” nơi mà tối 30 và ngày Mùng Một, các cơ sở tôn giáo này đều có những chương trình đặc biệt dành trọn cho các sinh hoạt Tết, cũng múa lân, hái lộc, cho tiền lì xì, đốt pháo… Và xôm tụ nhất là “Tết Cộng Đồng.” Đây là một lễ hội truyền thống (với đủ thứ sinh hoạt: hội chợ, đánh bài, thi áo dài, thi tiếng Việt, chợ hoa, xổ số, hái lộc, múa lân, đốt pháo…) diễn ra ở nơi công cộng, dành cho không những tất cả cư dân Việt trong vùng, mà còn mở rộng ra chào đón cư dân các sắc tộc khác, với sự tham dự của các viên chức hành pháp và lập pháp địa phương như thị trưởng hay nghị viên Hội Đồng Thành Phố.

Tết Cộng Đồng, một mặt, duy trì và chuyển tải truyền thống văn hóa cho các thế hệ sau và một mặt, giới thiệu và giao thiệp văn hóa Việt Nam với các cộng đồng sắc tộc bạn. Đặc biệt lúc nào cũng có các “ca sĩ Cali” trong chương trình văn nghệ. Sự hiện diện của họ vừa để giúp vui, lại cũng vừa để Little Saigon “địa phương” chia sẻ phần nào không khí rộn ràng của Little Saigon “thủ đô.”

Trong suốt hàng chục năm gia đình tôi cư ngụ ở vùng tuyết giá này, mùa Xuân không lúc nào vắng mặt. Đã ấm áp tình đồng hương, lại còn được sống trọn mùi vị và cảnh sắc quê nhà, từ bàn thờ tổ tiên, áo quần truyền thống cho đến mứt, bánh, hoa, pháo, bao lì xì, múa lân và đặc biệt nhất là được sống lại không khí thanh bình tươi vui của một miền Nam trước 1975 với bàn thờ tổ tiên, áo dài, khăn đóng, cờ xí, nhạc lính, nhạc tình, nhạc Xuân… Chẳng thế mà, đám con cháu tôi, dù đa phần sinh trưởng ở xứ người, nhưng vẫn còn rất là Việt Nam. Một niềm an ủi lớn! (Trần Doãn Nho) [qd]