Cùng suy gẫm

Cùng suy gẫm
Khi con chim còn sống, nó ăn kiến.

Khi chim chết, kiến ăn nó.

Thời gian và hoàn cảnh có thể thay đổi bất cứ lúc nào,

Vì vậy, đừng nhục mạ, đừng làm khổ bất cứ ai trong đời sống này.

Bạn có thế đầy quyền lực ngày hôm nay,

Nhưng đừng quên rằng,

Thời gian còn nhiều quyền lực hơn bạn.

Một cây có thể làm được hàng triệu que diêm,

Nhưng một que diêm cũng có thể thiêu hủy được hàng triệu cây.

Hãy là người tốt và làm những điều tốt.

Thử nghĩ mà xem,

Thượng Đế cấu tạo cơ thể con người một cách rất hợp lý,

Nhưng sao chúng ta lại không xử dụng nó theo đúng ý của Ngài:

1- Ngài đặt hai mắt chúng ta ở đằng trước, vì Ngài muốn chúng ta luôn hướng tới phía trước, chứ không phải để chúng ta cứ ngoái nhìn về những sự việc ở phía sau.

2- Ngài đặt hai tai chúng ta ở hai bên là để chúng ta nghe từ hai phía, cả lời khen lẫn tiếng chê, chứ không phải để chúng ta chỉ nghe từ một phía hoặc chỉ để nghe những lời tâng bốc êm tai.

3- Ngài tạo cho chúng ta chỉ một cái miệng và một cái lưỡi mềm mại, vì Ngài muốn chúng ta nói ít nghe nhiều và chỉ nói những lời khôn ngoan, chứ không phải để chúng ta nói nhiều hơn nghe và nói những lời sâu hiểm làm tổn thương người khác.

4- Ngài đặt bộ não chúng ta trong một hộp sọ vững chãi, vì Ngài muốn chúng ta nên tích lũy tri thức, những thứ chẳng ai có thể lấy đi, chứ không phải chỉ chăm lo tích lũy những của cải bên ngoài, những thứ dễ dàng bị mất mát.

5- Ngài đặt trái tim chúng ta nằm trong lồng ngực, vì Ngài muốn những tình cảm yêu thương giữa những con người phải được xuất phát và lưu giữ tận nơi sâu thẳm trong cõi lòng, chứ không phải ở một nơi hời hợt bên ngoài.

From Do Tan Hung và chị Kim Bằng gởi

Tạp chí Bách Khoa được ‘số hóa’ toàn bộ

Tạp chí Bách Khoa được ‘số hóa’ toàn bộ


CD toàn bộ tạp chí Bách Khoa đã được 'số hóa'

CD toàn bộ tạp chí Bách Khoa đã được ‘số hóa’

Phạm Phú Minh

Thời trước 1975 ở miền Nam báo chí tư nhân rất phong phú, nhất là từ sau năm 1963 thì nhật báo và các tạp chí xuất hiện rất nhiều. Nhưng những ai theo dõi tình hình báo chí cả hai thời kỳ Đệ nhất và Đệ nhị Cộng Hòa thì đều thấy tờ báo tồn tại lâu dài nhất của miền Nam Việt Nam chính là tờ bán nguyệt san BÁCH KHOA : số 1 ra đời vào ngày 15 tháng 01 năm 1957, số cuối cùng 426 ra ngày 19 tháng 4 năm 1975.

Hôm nay chúng tôi xin loan báo một tin vui, là sau nhiều năm cố gắng, một nhóm bạn bè của báo mạng Diễn Đàn Thế Kỷ đã sưu tầm đầy đủ toàn bộ báo Bách Khoa, chỉnh đốn lại để thành một bộ báo số hóa có thể phổ biến cho mọi người. Chúng ta đều biết sau biến cố năm 1975, tất cả sách vở báo chí của miền Nam đều là mục tiêu thiêu hủy của bên phía cộng sản thắng cuộc, nên dù trước kia các thư viện của Việt Nam Cộng Hòa đều có hầu như đầy đủ các loại sách báo của cả nước, chỉ một thời gian sau đều trở thành tan tác, rỗng tuếch để thay thế vào đó là các sách báo của phe cộng sản. Ngay các tủ sách gia đình của dân chúng miền Nam cũng luôn luôn bị đe dọa hoặc bị trực tiếp tịch thu đốt phá, bất kể là loại sách báo gì.

Việc chúng tôi nghĩ nên làm ngay sau khi hoàn tất việc sưu tầm là đến thăm ông Huỳnh Văn Lang, Chủ Nhiệm Sáng Lập tạp chí Bách Khoa để kính tặng ông đĩa DVD chứa đựng toàn bộ 426 số báo đã được điện tử hóa. Chiều ngày 16 tháng 10, 2017 vừa qua anh Trần Huy Bích và tôi đã tới thăm ông Huỳnh Văn Lang tại nhà ông trong thành phố Westminster Nam California, rất mừng thấy ông tuy đã ở tuổi 96, vẫn tương đối mạnh khỏe, nhất là tinh thần còn rất sáng suốt.

Ông đã rất vui và cảm động nhận đĩa DVD chứa toàn bộ báo Bách Khoa do chúng tôi tặng, và nói : “Với công trình tìm tòi và lưu giữ như thế này, tạp chí Bách Khoa sẽ an toàn tồn tại nhiều trăm năm về sau”. Và chúng tôi đã được vị sáng lập tờ Bách Khoa kể lại không biết bao nhiêu là “chuyện xưa tích cũ”, thời gian từ Mỹ mới về nước để giúp ông Ngô Đình Diệm xây dựng chính quyền, những ngày đám chuyên viên trẻ tuổi còn “ngủ ghế bố” trong dinh Gia Long cho đến khi Thủ Tướng dời vào dinh Độc Lập. Mỗi câu chuyện như thế đối với tôi là một mảng lịch sử, qua giọng kể Nam Kỳ hấp dẫn và chân thành của ông. Thú vị nhất là ý tưởng lập hệ thống các trường Bách Khoa Bình Dân, rồi hội Văn Hóa Bình Dân để sau cùng là tạp chí Bách Khoa chào đời.

Ông Huỳnh Văn Lang (bên phải), với DVD Bách Khoa trên tay, đang trò chuyện với Phạm Phú Minh. (Ảnh: Trần Huy Bích)

Ông Huỳnh Văn Lang (bên phải), với DVD Bách Khoa trên tay, đang trò chuyện với Phạm Phú Minh. (Ảnh: Trần Huy Bích)

Ông Huỳnh Văn Lang là người sáng lập, là Chủ nhiệm kiêm Chủ bút của Bách Khoa từ số ra mắt cho đến cuộc đảo chánh 1963 chấm dứt Đệ Nhất Cộng Hòa. Ông nói : “Ngay khi quyết định ra báo, 30 thành viên của hội Nghiên cứu Kinh tế Tài chánh mà tôi đứng đầu mỗi người góp 1000 đồng (trừ một vị chỉ góp 500) để làm vốn. Hồi đó 30,000 đồng là một số tiền lớn, nhưng khi bắt tay làm báo thì tiền in nó ngốn mau lắm, tôi phải xoay xở liên tục cho đến khi tờ báo ổn định…”

Qua buổi gặp gỡ và trò chuyện với ông Huỳnh Văn Lang, tôi hình dung ra hoạt động của một nhóm trí thức trẻ cách đây 60 năm, đồng lòng xắn tay áo lao vào những công việc cụ thể, trong buổi bình minh của một vận hội mới mẻ cho vùng phía Nam của đất nước.

***

Cho tới nay, Bách Khoa là tờ báo tư nhân sống lâu nhất trong lịch sử báo chí Việt Nam. Tờ sống lâu thứ nhì là tạp chí Nam Phong của học giả Phạm Quỳnh, ra đời vào tháng Bảy năm 1917, đình bản ở số 210, ngày 10 tháng Mười Hai năm 1934. Trên Nam Phong số cuối này có dòng chữ Năm thứ mười tám, nhưng đó là chỉ mới bước vào năm thứ 18 thôi, trong thực tế Nam Phong thọ 17 năm 5 tháng. Trong khi đó báo Bách Khoa xuất bản từ tháng 1 năm 1957, tính tới tháng 1 năm 1975 là đủ 18 tuổi, tới hết tháng 4-1975 nó được 18 năm 3 tháng. Đó là chưa kể số lượng các số báo, Bách Khoa xuất bản 426 số; Nam Phong tổng cộng 210 số, chỉ bằng một nửa. Dễ hiểu, Nam Phong là nguyệt san (mỗi tháng ra một số), Bách Khoa là bán nguyệt san (mỗi tháng ra hai số).

Do đời sống lâu dài của nó suốt gần 20 năm cộng với nội dung mà nó mang lại, Bách Khoa có thể coi là cái xương sống tinh thần của miền Nam từ khi đất nước chia cắt 1954 cho đến 1975. Cho đến nay, các bài viết về báo Bách Khoa trong và ngoài Việt Nam đã khá nhiều, từ các hồi ức của những người trực tiếp góp phần xây dựng tờ báo đến những nhà nghiên cứu về sau, chúng tôi chỉ xin tóm tắt một ít điểm chính để giới thiệu một cách tổng quát Bách Khoa với độc giả.

Bách Khoa do ai sáng lập? Dưới đây là hình bìa trước và bìa sau của số đầu tiên. Ở bìa sau chúng ta thấy danh tính những người tạo ra nó:

Chủ nhiệm sáng lập là Huỳnh Văn Lang, “hợp tác cùng các bạn” gồm ba mươi người liệt kê ngay bên dưới. Tập thể này là những chuyên viên của Hội Kinh tế/ Tài chánh thành lập từ 1955, đứng đầu là ông Huỳnh Văn Lang. Họ là những người hầu hết còn trẻ tuổi vào thời điểm đó, một số du học ngoại quốc mới về nước, tham gia chính quyền miền Nam với lý tưởng xây dựng một quốc gia Việt Nam tự do và phú cường. Sinh hoạt của Hội là họp mỗi hai tuần một lần, thảo luận về những vấn đề kinh tế tài chánh Việt Nam đang phải giải quyết. Sau một thời gian hoạt động nhóm chuyên viên này nhận thấy cần phổ biến rộng rãi các nghiên cứu của họ, nên đã quyết định tổ chức một tờ báo như là một “diễn đàn chung của tất cả những người tha thiết đến các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”: tờ BÁCH KHOA ra đời.

Số đầu tiên ra mắt ngày 15 tháng 01 năm 1957 và những số kế tiếp các bài nòng cốt là của các cây bút “cơ hữu” như Huỳnh Văn Lang, Phạm Ngọc Thảo, Hoàng Minh Tuynh, Nguiễn-Ngu-Í… Các cây bút có tên tuổi dần dần tham gia ngày một đông : Nguyễn Hiến Lê xuất hiện vào số 4, Mặc Thu, Vi Huyền Đắc số 5, Võ Phiến số 7, Bùi Giáng số 8…

Trong cuốn Hồi Ký của mình xuất bản sau 1975, học giả Nguyễn Hiến Lê, người bắt đầu viết cho Bách Khoa từ cuối tháng 2 năm 1957 và “dính” luôn với Bách Khoa cho đến số cuối ra ngày 19 tháng 4 năm 1975, đã viết:

Trong lịch sử báo chí nước nhà, tờ Bách Khoa có địa vị đặc biệt. Không nhận trợ cấp của chính quyền mà sống được mười tám năm từ 1957 đến 1975, bằng tờ Nam Phong, có uy tín, tập hợp được nhiều cây bút giá trị như Nam Phong, trước sau các cộng tác viên được khoảng một trăm.”

Nhà văn Võ Phiến, người cũng đã gắn bó với Bách Khoa suốt 18 năm, với các sáng tác truyện ngắn, truyện dài, tùy bút, tạp luận, ngoài ra ngày càng viết nhiều mục với các bút hiệu khác nhau như Tràng Thiên, Thu Thủy. Ông tuy không phải là người làm việc trực tiếp trong tòa soạn Bách Khoa nhưng có thể coi như là người quan trọng tạo nên linh hồn của tờ báo. Ông kể :

“Thoạt tiên là tờ báo của hai nhân vật trong chính quyền: các ông Huỳnh Văn Lang và Hoàng Minh Tuynh. Về sau các ông này rút lui ra khỏi chính quyền, rồi tờ Bách Khoa cũng dần dần chuyển về ông Lê Ngộ Châu.

Các ông Huỳnh và Hoàng là những chuyên viên trong giới ngân hàng, rồi ngay ông Lê cũng không phải là một văn gia, ấy vậy mà Bách Khoa phải kể là một trong những tờ báo thành công nhất ở miền Nam trong ngót hai mươi năm. Đó là chỗ lý thú trong tình hình sinh hoạt của thời kỳ văn học này.”

(Văn Học Miền Nam – tổng quan, Võ Phiến, trang 238)

Đoạn này nhà văn Võ Phiến hình như cố tình viết không rõ về hai sự kiện ông Huỳnh Văn Lang và Hoàng Minh Tuynh “rút lui ra khỏi chính quyền” và việc “tờ Bách Khoa cũng dần dần chuyển về ông Lê Ngộ Châu”. Xem lại quyển Ký Ức Huỳnh Văn Lang (tập 1) do tác giả xuất bản năm 2011, có đoạn viết :

Sau 6 tháng hoạt động, 30 thành viên toàn là chuyên môn quyết định, mỗi người bỏ ra 1000 đồng (trừ ra một GS chỉ chịu hùn 500 đồng thôi, vì xem như là bố thí), để phổ biến những nghiên cứu của Hội trên một tạp chí.

Và Bách Khoa Tạp chí đã ra đời. Số 1 phát hành ngày 15 tháng 1 năm 1957, người viết kiêm chủ nhiệm và chủ bút cho đến năm 1963 phải giao cho anh thư ký tòa soạn Lê Ngộ Châu, vì bị chế độ ‘người lính cai trị’ bắt đi bắt lại ba bốn lần giam giữ sau trước gần ba năm.”

(Ký Ức Huỳnh Văn Lang tập 1, trang 624)

Sự kiện người Thư ký Toà soạn Lê Ngộ Châu được giao toàn quyền điều hành tiếp tục tờ Bách Khoa trong một biến cố bất ngờ như thế đã cho chúng ta hiểu rằng vị Thư ký Tòa soạn này đã thực sự đóng một vai trò rất tích cực đối với tờ báo từ nhiều năm tháng trước đó. Về tài làm báo cùng kiến thức, tính tình của ông Lê Ngộ Châu, xem lại hồi ức của nhiều nhà văn cộng tác, thấy ai cũng yêu mến và kính phục ông.

Ý kiến của Nguyễn Hiến Lê, người cộng tác với Bách Khoa từ 1957 đến 1975:

“Ông Châu làm việc rất siêng, đọc hết mọi bài nhận được, đăng hay không ông đều báo cho tác giả biết. (…) Tôi mến ông vì ông có tinh thần trách nhiệm, làm việc đàng hoàng, biết cương quyết giữ vững chủ trương cả khi báo suy, biết xét người, xét văn và có tình với người cộng tác: ai gặp nạn gì ông lại nhà thăm, tìm mọi cách giúp đỡ; nhất là sau vụ Mậu Thân, ông rất băn khoăn lo lắng về các anh em bị kẹt trong vòng máu lửa.”

(Trích từ “Đời viết văn của tôi” của Nguyễn Hiến Lê)

Nhà phê bình văn học Đặng Tiến, trong bài viết tưởng niệm khi nghe tin ông Lê Ngộ Châu qua đời (vào ngày 24 tháng 9 năm 2006), có đoạn đánh giá Lê Châu -như cách gọi của anh em văn nghệ- như sau:

“Nhờ đức tính kín đáo, hòa nhã, Lê Châu đã tập hợp không những trên mặt báo nhiều khuôn mặt khác biệt, thậm chí trái ngược về hoàn cảnh, tính tình lẫn chính kiến, mà còn quy nạp được nhiều bè bạn đến từ những chân trời khác nhau, trong đời sống cụ thể hằng ngày. Chưa kể những tác giả sinh sống ở ngoài nước thường xuyên gửi bài về cộng tác.

Lê Châu kiến thức rộng, thường xuyên giao tiếp với quan chức hay các nhà văn hóa danh vọng, nhưng luôn luôn từ tốn, trong cách ứng xử hàng ngày, với những người viết trẻ tuổi. Ông đặc biệt lưu tâm đến những người viết mới, viết từ các tỉnh nhỏ, đặc biệt là từ Miền Trung. Bách Khoa là một tờ báo phổ thông, chủ tâm vào những đề tài chính trị, quốc tế, kinh tế, khoa học, chỉ dành một phần cho văn học nghệ thuật, nhưng về lâu về dài đã có những đóng góp lớn lao cho bộ môn văn nghệ. Về sau, phần văn nghệ này lại là khối tài liệu quý giá.

Lê Châu còn là gương sáng về đức khiêm tốn trí thức. Hai chữ Bách Khoa bình thường được dịch ra tiếng Pháp là Encyclopédie theo nghĩa từ điển bách khoa, hoặc tư trào Bách Khoa trong văn học Pháp thế kỷ XVIII ; nhưng Lê Châu không nhận từ này, cho rằng quá to tát so với tờ báo. Ông dịch Bách Khoa là Variétés, sát nghĩa là « tạp chí ». (…)

“Lê Châu là kẻ sĩ theo truyền thống, luôn luôn mực thước, trong nếp trung dung của cửa Khổng sân Trình và theo nếp mực thước, juste mesure của bực trí thức tân học. Trong đời sống, ông là người bảo thủ ; trên cương vị chủ báo, ngược lại, ông khuyến khích văn chương trẻ và tư tưởng mới, nhưng chừng mực thôi.”

(Tạp văn: Lê Ngộ Châu, 160 Phan Đình Phùng – Đặng Tiến)

Trong cuốn Văn Học Miền Nam tổng quan, nhà văn Võ Phiến đã ghi lại một nhận xét của nhà văn Nguyễn Hiến Lê mà chắc ông cũng đồng ý: “Tuy vậy kể là cây bút chủ yếu của Bách Khoa từ trước đến sau vẫn là hai người : Võ Phiến và Nguyễn Hiến Lê (xem Hồi ký Đời viết văn của tôi của Nguyễn Hiến Lê)”.

Học giả Nguyễn Hiến Lê (1912 - 22.12.1984).

Học giả Nguyễn Hiến Lê (1912 – 22.12.1984).

Thế nào là cây bút chủ yếu của một tờ báo? Có cần đó là Chủ bút hay Chủ nhiệm không? Có cần là Thư ký toà soạn không? Không cần, vì những chức vụ ấy có những trách nhiệm khác phải lo, không đương nhiên phải viết lách gì cả ngoài những lá thư nhắc nhở nọ kia về việc điều hành, đường lối. Vậy có phải là người viết thường xuyên trong một thời gian dài cho tờ báo ấy? Có thể đó cũng là một điều kiện, nhưng số lượng các bài viết cũng không đương nhiên khiến cho một tác giả trở nên một cây bút chủ yếu, vì không ai đếm số bài để định giá mức độ ảnh hưởng của một cây bút.

Theo chúng tôi, một cây bút gọi là chủ yếu của một tờ báo là một người thường xuyên, qua bài vở của mình, đem đến cho độc giả một ích lợi và ảnh hưởng tinh thần nhất định, được đa số độc giả biết giá trị và ham thích đón nhận. Hai vị Nguyễn Hiến Lê và Võ Phiến quả thật là những người như thế, có thể nói những đóng góp dài lâu của họ đã góp phần quan trọng tạo nên linh hồn của tờ báo.

Thứ nhất, về phương diện bài vở, hai vị là những người đóng góp dài hơi nhất. Như trên đã nói, Nguyễn Hiến Lê gửi bài đầu tiên cho Bách Khoa ở số 4, ra ngày 1 tháng 3 năm 1957; Võ Phiến số 7, ra ngày 15 tháng 4, 1957. Từ thời điểm ban đầu đó, hai vị liên tục tham dự xây dựng nội dung tờ báo cho đến số cuối cùng, ra ngày 19 tháng 4, 1975. Về số lượng bài vở đã đăng trên Bách Khoa trong suốt 18 năm thì chắc chắn hai ông chia nhau ngôi thứ một/hai, có thể Võ Phiến nhiều hơn Nguyễn Hiến Lê, vì không những đóng góp phần sáng tác phong phú gồm truyện ngắn, truyện dài, tùy bút, tạp bút…, ông còn viết các mục khác (Thời sự Văn nghệ, Thời sự Chính trị…) và dịch các tác giả Tây phương, dưới các bút danh Tràng Thiên, Thu Thủy.

Báo Bách Khoa tại 160 Phan Đình Phùng Sài Gòn càng về các năm sau càng biến thành một địa chỉ thân mật cho mọi người cộng tác, với tình thân như gia đình. Theo lời kể của bà Võ Phiến (vào tháng 10, 2017), năm 1960 khi Võ Phiến từ Qui Nhơn dời vào Sài Gòn để làm việc với bộ Thông Tin, chính Lê Ngộ Châu là người lo đi tìm nhà để thuê cho bạn, yểm trợ ngay các nhu cầu cần thiết cho một gia đình từ tỉnh mới về nơi đô thị. Các văn thi sĩ cộng tác đều coi báo quán là nơi gần gũi, tin cậy; những người đóng góp bài vở từ khắp mọi miền đất nước, khi có dịp về Sài Gòn đều ghé thăm Bách Khoa, như về một loại “nhà tinh thần” của mình.

Chính trong loại tình thân và tin cậy có tính chất đại gia đình ấy, những người như Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, với uy tín và năng lực của mình, đã biến thành những “cây bút chủ yếu” của tạp chí Bách Khoa. Trước sau họ vẫn chỉ là người “cộng tác” thôi, không bao giờ giữ một chức vụ nào của tổ chức tòa báo. Nhưng họ vẫn là những “cây bút chủ yếu” đúng nghĩa.

Lê Ngộ Châu (trái) gặp lại Võ Phiến trong chuyến đi Mỹ năm 1994.

Lê Ngộ Châu (trái) gặp lại Võ Phiến trong chuyến đi Mỹ năm 1994.

***

Trong số những người tham gia vào Bách Khoa sớm nhất, phải kể đến Nguiễn-Ngu-Í (1921-1979, tên thật Nguyễn Hữu Ngư, còn có các bút hiệu Trần Hồng Hừng, Tân-Fong-Hiệb, Ngê-Bá-Lí v.v…). Ông là người đã thực hiện nhiều cuộc phỏng vấn với giới viết lách, từ những nhà văn lớp trước như Nhất Linh, Đông Hồ, Lê Văn Trương, Đỗ Đức Thu, Nguyễn Vỹ… đến lớp sau như Bình Nguyên Lộc, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Võ Phiến, Nguyễn Văn Trung… Nhà văn Nguyễn Hiến Lê đã viết : “Ngu Í chuyên nghề phỏng vấn, từng trải, có nhiều nhiệt tâm, văn có duyên”. Các đề tài phỏng vấn của ông và câu trả lời của giới cầm bút thời ấy vẫn còn giá trị cho người nghiên cứu văn học ngày nay lẫn mai sau.

Nhà báo Nguiễn-Ngu-Í.

Nhà báo Nguiễn-Ngu-Í.

Ngoài tài phỏng vấn, Nguiễn-Ngu-Í cũng viết nhiều bài báo có giá trị, ví dụ bài Nhớ và Nghĩ về bài Quốc Ca Việt là một bài nghiên cứu tường tận về tác giả, trường hợp sáng tác, vai trò của bài hát đó trong xã hội từ năm 1942 trở về sau: đã được những ai đặt bao nhiêu nhan đề và lời ca, những ai đã sử dụng nó, với mục đích gì v.v… Thiết tưởng cộng đồng người Việt lưu vong vẫn dùng bản quốc ca Việt Nam Cộng Hòa trong bao nhiêu lễ lạc, biến cố của mình, cần hiểu biết rõ hơn về tiếng hát Này công dân ơi ! ấy qua bài nghiên cứu này.

Sau cùng, nên nói đến một vấn đề tế nhị liên quan đến tờ báo Bách Khoa, là tên gọi của nó qua những năm tháng thăng trầm. Chúng ta vẫn gọi chung tờ báo là Bách Khoa từ số đầu đến số cuối, nhưng cũng nên biết rằng để giữ được hai tiếng Bách Khoa vững chắc và thân yêu ấy, nó phải theo thời mà có những biệt danh đi kèm. Đây là những cái mốc cho những biến thiên ấy:

1. BÁCH KHOA : Số 1 (ngày 15-1-1957) đến số 193-194 (15-1-1965)

2. BÁCH KHOA THỜI ĐẠI : số 195 (15-2-1965) đến số 312 (1-1-1970)

3. trở lại tên BÁCH KHOA : số 313-314 (Xuân Canh Tuất) (15/1 và 1/2/1970) đến số 377 (15-9-1972)

4. ĐẶC SAN BÁCH KHOA : số 378 (1-10-1972) – đến số 379 (15-10-1972)

5. GIAI PHẨM BÁCH KHOA : số 380 (1-11-1972) đến số chót 426 (19-4-1975)

Tất cả những việc vẽ vời “làm cho khác” tên gọi như thế thì hoặc là vì lý do chính trị (cho khác với tên gọi từ “chế độ cũ”), hoặc để thích ứng với chế độ kiểm duyệt hoặc luật báo chí về sau. Thời gian qua, những cái đó được hiểu chỉ là những thủ thuật né tránh để sống còn, và sống còn luôn luôn với cái tên khai sanh của nó: Bách Khoa. Vậy chúng ta trước sau chỉ nên gọi nó là BÁCH KHOA.

22 tháng Mười, 2017.

Phạm Phú Minh

NÊN THÁNH GIỮA ĐỜI

NÊN THÁNH GIỮA ĐỜI

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Theo giáo lý Công giáo, các thánh là những người sống tốt lành đạo đức trong cuộc sống trần gian, và nay, sau khi đã kết thúc hành trình trần thế, họ đang được hưởng hạnh phúc thiên đàng.  Khi sống ở đời này, họ đã kiên trì cộng tác với ơn Chúa, nỗ lực cố gắng để vượt qua những cám dỗ đời thường và sống trọn lành, thanh tịnh.  Giáo Hội Công giáo tôn những tín hữu này là những đấng thánh, vì họ phản ánh trung thành sự thánh thiện của Thiên Chúa.  Có những vị thánh đã trung kiên theo Chúa và làm chứng cho Ngài, dù phải đổ máu, như trường hợp các thánh tử đạo.  Các vị thánh theo đúng nghĩa là những vị được tôn phong và được tôn kính trên các bàn thờ.  Cũng có những vị thánh, dù không được Giáo Hội phong thánh, nhưng trước mặt Chúa, họ tinh tuyền thánh thiện và đang cùng với triều thần ca ngợi vinh quang của Đấng Tối Cao.  Trong số đó, có những người thân của chúng ta, có những người suốt đời âm thầm gieo hạt công bình bác ái, có những người chỉ đơn giản chu toàn bổn phận của mình một cách trọn vẹn, có những người dù nghèo khổ, cơ hàn, bệnh tật, nhưng vẫn vững một niềm cậy trông.

Từ buổi sơ khai của Giáo Hội, những người tin Chúa và gia nhập Đạo được gọi là “các thánh” hoặc “dân thánh.”  Thánh Phaolô, trong các thư giáo huấn của ngài, đã để lại cho chúng ta những chứng từ này (x. 1Cr 1,2).  Họ hiệp thông với nhau trong kinh nguyện, trong đời sống và trong những nghĩa cử chia sẻ bác ái.  Nhờ lời giảng dạy của các tông đồ, họ say sưa tìm kiếm Đấng quyền năng vô biên mà họ gọi là Thiên Chúa.  Ngài là Đấng ngàn trùng chí thánh, hoặc là Nguồn của mọi cội nguồn.  Đức tin khẳng định với họ, Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ muôn loài.  Con tim nói với họ, Chúa là Đấng đáng yêu mến và kính tin.  Hành trình đức tin của họ cũng là hành trình tìm kiếm Chúa.  Những con tim khao khát Chúa chẳng bao giờ thỏa mãn, vì càng khám phá ra Chúa, thì lòng ao ước muốn kết hợp lại càng thâm sâu mãnh liệt hơn.  Thánh Augustinô là một ví dụ điển hình.  Ngài đã viết: “Lạy Chúa, Ngài đã dựng nên chúng con để hướng về Ngài và tâm hồn chúng con không nghỉ ngơi cho đến khi nghỉ yên trong Ngài.”

Nên thánh là mục đích của đời sống Kitô hữu. “Chúng con hãy nên thánh, vì Ta là Thánh” (Lv 11,45).  Đó là lời mời gọi từ thời Cựu ước.  Chúa Giêsu không tách biệt khỏi giáo huấn của truyền thống, Người tiếp nối lời mời gọi ấy: “Hãy nên thánh thiện như Cha các con trên trời là Đấng thánh thiện” (Mt 5,48).  Nên thánh vừa là một chuỗi cảm nghiệm sự ngọt ngào của ân sủng, vừa là một cuộc chiến đấu gian nan không ngừng.  Bởi lẽ, con người sống ở trần gian như giữa sóng cả ba đào, phải khôn ngoan bền chí mới có thể đứng vững.  Sống trên đời là đi vào cuộc giao tranh khốc liệt giữa thánh thiện và tội lỗi, giữa cái thanh tao và dung tục, giữa ánh sáng và tội lỗi, giữa chọn lựa Thiên Chúa và chọn lựa thế gian.  Cuộc giao tranh ấy xảy đến mỗi ngày, rất nghiệt ngã cam go.  Trong lịch sử, có nhiều người đã kiên gan trung tín, chiến thắng ba thù (ma quỷ, thế gian, xác thịt) để nên hoàn thiện.  Tuy vậy, cũng có những người không bền tâm vững chí, ngã gục trước những cám dỗ của cuộc đời.  Dù thế nào đi nữa, chúng ta vẫn không mất hy vọng.  Thiên Chúa là Cha yêu thương không bỏ rơi những ai cậy trông phó thác nơi Ngài. “Mỗi vị thánh đều có một quá khứ, mỗi tội nhân đều có một tương lai”, những người đã một thời lầm lỗi, nay nhận ra con đường chân lý để sám hối trở về, sẽ được Chúa yêu thương tha thứ và giang rộng vòng tay thân thương đón nhận.  Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” trong Tin Mừng Thánh Luca đã chứng minh điều ấy.  Trong cuộc chiến đấu này chúng ta không đơn lẻ một mình, vì có Chúa luôn ở cùng với chúng ta.  Cùng với ơn Chúa, chúng ta còn sự nâng đỡ của cộng đoàn đông đảo các thánh trên trời, tức là những người đã đạt tới sự hoàn thiện.  Ngoài ra, chúng ta còn có tình hiệp thông huynh đệ của anh chị em tín hữu trong Giáo Hội, điều mà chúng ta gọi là “Mầu nhiệm các thánh cùng thông công.”  Nhờ sự hiệp thông huynh đệ này, chúng ta vững tin bước đi trong cuộc đời mà không còn sợ vấp ngã.

Nếu hiểu các thánh là những người, qua cuộc sống của mình, phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa Tối Cao, thì trong cuộc sống xung quanh ta, có rất nhiều vị thánh.  Thiên Chúa là Đấng Chí Thánh.  Ngài là nguồn mạch của sự thánh thiện.  Ngài là khởi nguyên của Chân, Thiện, Mỹ.  Tất cả những gì con người thực thi trong cuộc sống, nếu đó là những việc tốt, nhằm đem lại niềm vui và ích lợi cho mọi người, đều hướng về Thiên Chúa và đang góp phần xây dựng vương quốc của Thiên Chúa nơi trần gian.  Vương quốc của Thiên Chúa là vương quốc tình yêu, công bình, bác ái.  Vì vậy, những việc làm xây dựng công bình bác ái và nối kết yêu thương đều làm cho vương quốc ấy sớm được thực hiện nơi trần thế này.  Xung quanh chúng ta, có những người đang âm thầm làm việc góp phần xây dựng công ích.  Họ là những thiện nguyện viên, tham gia những hoạt động bảo vệ môi trường, giúp đỡ người nghèo, mở mang đường sá, khai thông cống rãnh.  Họ cũng là những chị lao công âm thầm làm việc, những bác xích lô nghèo nhưng chân chính thanh bạch.  Họ là những thày cô giáo, vượt non cao đem cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số câu văn cái chữ, nhằm giúp các em hội nhập với thế giới hiện đại và có một tương lai tốt đẹp.  Họ còn là những nghệ sĩ, văn sĩ, thi sĩ, đam mê thể hiện cái đẹp qua các tác phẩm của mình, để rồi, giúp cho độc giả, thính giả và khán giả khám phá vẻ đẹp diệu kỳ của Đấng làm nên vẻ đẹp của thiên nhiên vũ trụ và cuộc sống con người.  Những người này đang cố gắng để diễn tả Chân, Thiện, Mỹ ở nhiều khía cạnh khác nhau.  Người tín hữu tin rằng, vinh quang của Thiên Chúa phản chiếu nơi con người và mọi tạo vật.  Bởi lẽ khi sáng tạo, Thiên Chúa đã nhận định “mọi sự là tốt đẹp” (x St 1,31).  Khi chuyên cần lao động cũng như khi để tâm suy tư và tâm huyết sáng tạo, người lao động nói chung và người nghệ sĩ nói riêng đang cố gắng để làm cho những điều tốt đẹp hiện hữu trong cuộc đời.  Thánh Gioan Phaolô II Giáo Hoàng đã viết: “Đẹp là hình thức bên ngoài của cái tốt, cũng như tốt là điều kiện siêu hình của cái đẹp.  Người Hy Lạp rất hiểu rõ việc này, nên họ kết hợp hai khái niệm ấy, tạo nên một thuật ngữ bao gồm cả hai khái niệm đó là “kalok-agathia” hay “tốt đẹp”(Thư gửi các nghệ sĩ, năm 1999, số 3).  Ngài còn viết: “Bởi đó, Thiên Chúa cho con người hiện hữu, trao cho con người nhiệm vụ của những nghệ nhân.  Chính qua hoạt động sáng tạo nghệ thuật ấy mà hơn bao giờ hết, con người cho thấy mình “giống Thiên Chúa” (Sđd, số 1).  Cái đẹp giúp ta nâng tâm hồn để gặp gỡ Đấng Tối Cao.  Nhà văn người Nga Dostoievski còn khẳng định: “Cái đẹp cứu chuộc thế giới.”  Trong xã hội hôm nay, người ta có khuynh hướng để ý nhiều đến những vụ việc gây ấn tượng mạnh, hay những tin tức giật gân.  Nhiều người cũng thường chú trọng đến những thông tin hoặc vấn đề tiêu cực mà không quan tâm đến những việc tích cực.  Quả vậy, công bằng mà nói, dù cuộc sống này có nhiều xáo trộn, bạo lực, nhưng đây đó vẫn có những cá nhân hay tập thể đang âm thầm làm cho cuộc sống thêm tốt đẹp.  Họ làm việc mà không cần được tôn vinh ca ngợi.  Dù thuộc tín ngưỡng tôn giáo nào, họ đang góp phần phản ánh sự thánh thiện của Thượng Đế.  Họ là những vị thánh giữa đời.

Không có ai sinh ra đã đương nhiên trở thành thánh.  Nên thánh là kết quả của những cố gắng suốt cuộc đời.  Mỗi chúng ta đều được mời gọi đạt tới mục tiêu cao cả ấy.  Hãy nên thánh từ ngày hôm nay, trong hoàn cảnh và bổn phận cụ thể của mỗi người, âm thầm, khiêm tốn, nhưng có giá trị giúp chúng ta nên hoàn thiện.  Hãy trở nên những vị thánh giữa đời, để trần gian này trở thành vương quốc bình an và công chính, là phác thảo của đời sau, nơi chúng ta sẽ được gặp gỡ, chiêm ngưỡng và tôn vinh Thiên Chúa, Đấng ngàn trùng chí thánh.  Ngài là mẫu mực và là Cha Chung của chúng ta.

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Bánh vẽ

  1. Bánh vẽ
  2. Chế Lan Viên
  3. Chưa cần cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ
    Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
    Cầm lên nhấm nháp
    Chả là nếu anh từ chối
    Chúng sẽ bảo anh phá rối
    Đêm vui
    Bảo anh không còn có khả năng nhai
    Và đưa anh từ nay ra khỏi tiệc…
    Thế thì còn dịp đâu nhai thứ thiệt?
    Rốt cuộc anh lại ngồi vào bàn
    Như không có gì xảy ra hết
    Và những người khác thấy anh ngồi
    Họ cũng ngồi thôi
    Nhai nhồm nhoàm
    Trừ Đi
  4. Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
    Có phải tôi viết đâu! Một nửa
    Cái cần đưa vào thơ, tôi đã giết rồi
    Giết một tiếng đau – giết một tiếng cười
    Giết một kỷ niệm – giết một ước mơ – tôi giết
    Cái cánh sắp bay – trước khi tôi viết
    Tôi giết bão ngoài khơi cho được yên ổn trên bờ
    Và giết luôn mặt trời lên trên biển – Giết mưa
    Và giết cả cỏ trong mưa luôn thể
    Cho nên câu thơ tôi gầy còm như thế
    Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của mình
    Và thơ này rơi đến tay anh
    Anh bảo đấy là tôi.
    Không phải!
    Nhưng cũng chính là tôi – Người có lỗi
    Đã phải giết đi bao nhiêu cái
    Có khi không có tội như mình
  5. Ai? Tôi!
  6. Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng
    Chỉ một đêm, còn sống có 30
    Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
    Tôi!
  7. Tôi – người viết những câu thơ cổ võ
    Ca tụng người không tiếc mạng mình
    trong mọi cuộc xung phong.
    Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm
    Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
  8. Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ,
    Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!
    Ai chịu trách nhiệm vậy?
    Lại chính là tôi!
  9. Người lính cần một câu thơ giải đáp về đời,
    Tôi ú ớ.
    Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong
    Mà tôi xấu hổ.
    Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
    Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
    Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười
  10. Chế Lan Viên

Stalin không phải một kẻ điên mà là nhà Marxist thực thụ.

Trần Bang‘s post

Image may contain: 7 people, text
Trần Bang

BBC: Cuốn sách mới “Stalin Waiting for Hitler 1928-1941” của Stephen Kotkin vừa ra mắt ở Anh nói Stalin không phải một kẻ điên mà là nhà Marxist thực thụ.

Các tội ác khủng khiếp của Stalin xảy ra chỉ đơn giản là vì ông ta theo đuổi không khoan nhượng logic của chủ nghĩa Marx.

Sau khi Lenin qua đời năm 1924, chỉ đến năm 1929, Stalin đã hoàn toàn làm chủ bộ máy chính trị Liên Xô và không ai dám đặt câu hỏi về quyền lực của ông ta, theo Stephen Kotkin, Giáo sư trưởng bộ môn nghiên cứu về Nga tại Đại học Princeton, Hoa Kỳ.

Đánh vào chính bộ máy

Nhưng cuốn sách mang tên ‘Stalin đợi Hitler’ đã bỏ ra hai phần ba để giải thích vì sao Stalin đã quyết định thanh lọc tiếp tục bộ máy Đảng, Nhà nước và Hồng quân Liên Xô.

Nhà độc tài đã tung ra liên tiếp các chiến dịch bắt và giết, nhằm vào các “kẻ thù tưởng tượng” bên trong.

Chỉ trong hai năm 1937-38, công an Liên Xô đã bắt hơn 1,5 triệu công dân và xử bắn 682 nghìn người.

Đa số các ủy viên trung ương Đảng, các tướng Hồng quân đều bị xử bắn.
Trong 10 đô đốc của Hải quân Liên Xô, chín người bị Stalin ra lệnh thủ tiêu.

Cuộc Đại Khủng Bố (Great Terror) trong thập niên 1930 làm lu mờ đợt Khủng bố Đỏ (Red Terror) sau khi phái Bolshevik giành chiến quyền năm 1917.
Theo Stephen Kotkin, chỉ trong hai năm của năm 1918, có ít nhất 6185 vụ xử bắn mà chính quyền mới thực hiện.

Con số này gần bằng 6321 vụ xử tử mà chính quyền Nga Hoàng thực hiện trên toàn đế chế Nga trong 100 năm trước đó.

Nhưng vào giai đoạn trước Thế Chiến 2, số người bị thiệt mạng trong các vụ bắn giết, hành hình, và tù đày trên toàn các nước cộng hòa của Liên Xô thời Stalin lên tới nhiều triệu.

Mục tiêu của Stalin mà ông ta thực sự tin vào, là để “cải tạo toàn bộ xã hội theo mô hình cộng sản”, từ nông thôn tới thành thị.

Hơn 120 triệu nông dân bị cưỡng bức “hợp tác hóa”, và quá trình này đã gây ra nạn đói ở Vựa lúa của Liên Xô là Ukraine, nơi từ 5 đến 7 triệu người bị chết.
Hợp tác hóa đã tiêu diệt toàn bộ tầng lớp trung nông và địa chủ ở Liên Xô với khoảng 5 triệu ‘kulak bị bắt, bị đi đày và một con số lớn bị giết.

Cuồng tín nhưng không bị điên

Tuy thế, Stephen Kotkin bác bỏ một thuyết khá phổ biến ở Phương Tây rằng Stalin bị điên, hoặc có vấn đề tâm thần, hoặc bị tổn thương tâm lý hồi nhỏ nên đâm ra thù oán, nghi ngờ người xung quanh một cách bệnh hoạn.

http://www.bbc.com/vietnamese/world-41803852

Nợ công dự kiến năm 2020 là 4,2 triệu tỷ, nợ đầu người khoảng 46tr/ người từ đứa mới sinh đến người sắp chết.

Chỉ còn 26 tháng là đến mốc 2020, theo Đại hội 7 thì VN đạt mục tiêu Công nghiệp hoá, mà CN ở VN chỉ thấy Samsung, Toyota, Ford, Interl, Formosa, Boss…

Nợ công dự kiến năm 2020 là 4,2 triệu tỷ, nợ đầu người khoảng 46tr/ người từ đứa mới sinh đến người sắp chết.

Bộ máy ngày càng phình to, tới 4tr người ( công viên chức) sống và ăn vào ngân sách; 17/22 Bộ ( và ủy ban ) còn bộ trong bộ ( Bộ có Tổng cục); chục hội đoàn quốc doanh là cánh tay ĐCS cũng ăn bám vào ngân sách từ thuế phí của dân và tài sản Quốc gia…

30% công viên chức vô dụng, ăn bám “ sáng cắp ô đi tối cắp ô về “ còn nguyên từ khi hô hào giảm biên 4 năm qua.

BOT nhóm lới ích chặn đường QL thu tiền khắp nơi…
TP: Thảo luận về tình hình kinh tế, xã hội tại Quốc hội sáng 31/10, Uỷ viên Thường trực Uỷ ban Tài chính – ngân sách Hoàng Quang Hàm bày tỏ sự “căng thẳng” về ngân sách. Ông dẫn chứng, việc dành 80.000 tỷ đồng bố trí cho các công trình quan trọng quốc gia nhưng đã ba năm vẫn chưa bố trí được vào kế hoạch sử dụng vốn.

Hay như Dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành đang báo cáo Quốc hội dự án khả thi thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, nhưng chưa bố trí được vốn trong năm 2018. Tương tự, hai chương trình mục tiêu quốc gia là nông thôn mới và giảm nghèo bền vững sau 3 năm chỉ bố trí được hơn 37.000 tỷ đồng, đạt 36% mức tối thiểu được phê duyệt trong 3 năm, nên khó đạt mục tiêu. Nhiều chương trình khác cũng tương tự như vậy.

Theo ông Hàm, ngân sách trung ương 3 năm liền hụt thu. “Chính phủ cần nhìn nhận nghiêm túc, có giải pháp khắc phục các vấn đề trên thì mới đạt mục tiêu phát triển”, ông Hàm nói.

Ông Hàm cũng cảnh báo hiện tượng bội chi cao, nợ công sát trần nhưng kỷ luật tài chính chưa nghiêm. Nợ công dự báo đến năm 2020 khoảng 4,2 triệu tỷ đồng, trả lãi vay hàng năm chiếm khoảng 27-28% tổng chi ngân sách nhà nước, bình quân hàng năm trả lãi khoảng 100.000 tỷ đồng. Thu ngân sách trung ương khó khăn, rơi vào tình trạng phải vay đảo nợ làm quy mô nợ tăng nhanh, nợ chồng lên nợ.

Ông Hàm cũng cho rằng, đến năm 2020, cũng chưa thoát ra được tình trạng này: “Tình trạng chi tiêu ngân sách đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến an toàn ngân sách và nợ công”, ông Hàm cảnh báo.
“Chính phủ cần kịp thời có giải pháp thu, thực hiện nghiêm chủ trương giảm biên chế, giao dự toán đúng biên chế được giao, đẩy nhanh thực hiện cơ chế tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp công… Chính sách tài chính cần phải thực hiện nghiêm theo hướng tăng thu, tiết kiệm chi và ưu tiên trả nợ”, ông Hàm đề nghị.

See More

Image may contain: 4 people, text

 

Cô giáo khóc ròng vì chỉ được 1,3 triệu lương hưu

From facebook:   Jeffrey Thai‘s post.
No automatic alt text available.
Image may contain: 1 person, standing
Jeffrey Thai added 2 new photos.

Cô giáo khóc ròng vì chỉ được 1,3 triệu lương hưu

VBF-Cô giáo ở Hà Tĩnh khóc ròng khi về hưu mà lương chỉ có 1,3 triệu. Gia đình khó khăn, với số tiền này chẳng đủ cho cô chứ nói chi đến gia đình. Trong khi đó cô từng giảng dạy 37 năm và đóng bảo hiểm xã hội 22 năm. Trường hợp của cô không phải là hiếm.

Giảng dạy suốt 37 năm với hơn 22 năm đóng bảo hiểm xã hội, khi nghỉ hưu, cô giáo mầm non ở Hà Tĩnh chỉ nhận mức lương 1,3 triệu đồng/tháng.

Ngày 26/10, mạng xã hội Facebook chia sẻ thông tin về việc cô giáo mầm non công tác 37 năm vừa nhận quyết định nghỉ hưu với số tiền lương hưu hàng tháng 1,3 triệu đồng.

Cô Lan buồn bã ngày nhận quyết định nghỉ hưu với mức lương ít ỏi. Ảnh: Hoàng Dương.

Thông tin kèm hình ảnh đăng tải lên mạng xã hội nhận được sự quan tâm của nhiều người. Không ít bình luận chia sẻ sự khó khăn với cô giáo và mong muốn có sự thay đổi lương hưu phù hợp hơn với giáo viên.

Cô Nguyễn Thị Thu Hà, Hiệu trưởng trường Mầm non Lê Duẩn ở xã Cẩm Duệ, huyện Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh), cho biết nữ giáo viên trong câu chuyện đó là Trương Thị Lan.

Trân trọng giới thiệu trang web Việt Nam Thời Báo của Hội Nhà báo độc lập Việt Nam

From facebook:  Pham Chi Dung‘s post.

Image may contain: text

Pham Chi Dung

Trân trọng giới thiệu trang web Việt Nam Thời Báo của Hội Nhà báo độc lập Việt Nam vừa được nâng cấp về kỹ thuật và nội dung bài viết.

Kính mong bạn đọc ở Việt Nam và nước ngoài đọc Việt Nam Thời Báo và chia sẻ tinh thần tự do ngôn luận, tự do báo chí theo đường link:

http://vietnamthoibao.org/
https://d1s66ldlhegqs2.cloudfront.net/

Nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng

Nóng : Sập hầm bãi thử hạt nhân Bắc Triều Tiên chôn vùi 200 nạn nhân ?

From facebook:  Trần Bang‘s post.

Image may contain: text
Trần Bang

Nóng : Sập hầm bãi thử hạt nhân Bắc Triều Tiên chôn vùi 200 nạn nhân ?

TP: Khoảng 100 công nhân đã mắc kẹt khi một đường hầm đang xây dựng tại bãi thử hạt nhân Punggye-ri của Triều Tiên bất ngờ đổ sụp, hãng thông tấn Yonhap dẫn nguồn TV Asahi của Nhật Bản cho biết.

Một sự cố tương tự xảy ra ngay sau đó có thể đã lấy mạng thêm khoảng 100 người khác, khi những người này đang cố giải cứu các công nhân mắc kẹt trong vụ sập hầm đầu tiên.

Thông tin chi tiết về sự cố nghiêm trọng nói trên hiện chưa được tiết lộ.

Nghị sĩ Hàn Quốc Kyeong Dae-soo ngày 31/10 cho biết Triều Tiên đã lấy cắp kế hoạch chi tiết về các tàu được trang bị tên lửa và tàu ngầm chưa xác định trong vụ trộm tài liệu mật từ Tập đoàn Kỹ thuật Hàng hải và Đóng tàu Daewoo của Hàn Quốc.
Trước đó, các chuyên gia đã cảnh báo rằng khu vực bãi thử Punggye-ri của Triều Tiên đang có dấu hiệu mất ổn định sau khi trải qua sáu đợt thử hạt nhân, bao gồm đợt thử mới nhất và mạnh nhất được tiến hành hồi đầu tháng Chín.

Hôm qua, 30/10, Giám đốc Cơ quan khí tượng thủy văn Hàn Quốc Nam Jae-cheol cho biết trong một cuộc họp của nghị viện rằng vụ thử hạt nhân thứ sáu của Bình Nhưỡng có thể khiến khu vực đồi núi quanh bãi thử sạt lở nặng nề và rò rỉ chất phóng xạ.

Bãi thử Punggye-ri là địa điểm thử hạt nhân duy nhất của Triều Tiên được biết tới cho đến thời điểm hiện tại. Địa điểm thử nghiệm nằm trong lòng đất, dưới chân núi Mantap.

Hôm 3/9, tại đây đã diễn ra vụ thử hạt nhân lần thứ sáu của chính quyền Chủ tịch Kim Jong-un. Vụ nổ này có sức công phá ước tính là 250 kiloton (tương đương 250.000 tấn thuốc nổ TNT), mạnh hơn 16-17 lần so với quả bom nguyên tử của Mỹ ném xuống Hiroshima (Nhật Bản) vào năm 1945.

Theo Yonhap, cuộc thử nghiệm hạt nhân mới nhất của Triều Tiên đã gây ra một loạt các vụ lở đất và các cơn địa chấn ở vùng núi gần bãi thử Punggye-ri, dẫn tới nguy cơ gây sập cửa đường hầm

Hội Cờ đỏ, con bài nguy hiểm

Hội Cờ đỏ, con bài nguy hiểm

Kính Hòa RFA
2017-10-30

Buổi họp mặt Hội cờ đỏ Hà Nội bên cạnh nhà thờ giáo họ Văn Thai, xứ Song Ngọc, hạt Thuận Nghĩa hôm 29/10/2017.

Buổi họp mặt Hội cờ đỏ Hà Nội bên cạnh nhà thờ giáo họ Văn Thai, xứ Song Ngọc, hạt Thuận Nghĩa hôm 29/10/2017.

Courtesy of FB Thanh niên Công giáo.

Ngày 30 tháng 10, 2017 hai linh mục ở Giáo phận Vinh đến làm việc với Ủy ban nhân dân xã Diễn Mỹ, Huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An thì bị những người tự xưng là Hội Cờ đỏ bao vây thóa mạ, đe dọa, hai ông phải trú trong Ủy ban để an toàn.

Chuyện gì đang xảy ra?

Có phải chính quyền đứng sau Hội Cờ đỏ

Đây không phải là lần đầu tiên Hội cờ đỏ này xuất hiện, vào tháng đầu tháng Chín, năm 2017, một số thành viên của hội này đã đến một giáo xứ ở Đồng Nai, mang theo vũ khí, đe dọa các linh mục ở đây, với lý do là một linh mục ở đây lên tiếng kêu gọi trưng cầu dân ý về những vấn đề xã hội trên trang Facebook của mình. Sau khi vụ việc được đem ra cơ quan công quyền, một thanh niên của nhóm này đã bị phạt 8 triệu 200 ngàn đồng, nhưng cơ quan công an từ chối trao văn bản kết quả điều tra cho những người bị đe dọa là các linh mục ở đây.

Đây là sự yếu kém của cái gọi là công tác đối thoại với dân… Chỉ đẩy tới chuyện dân nghi ngờ chính quyền, đẩy tới mâu thuẫn của các nhóm dân cư khác nhau.
-Ông Nguyễn Khắc Mai.

Theo Linh mục Đặng Hữu Nam, việc thành lập Hội Cờ đỏ là có tôn chỉ rất rõ ràng:

“Đầu tháng Năm, năm 2017, khi mà Hội cựu chiến binh cũng như các hội khác, kêu gọi thành lập Hội Cờ đỏ, thì họ có một mục đích tôn chỉ rất rõ ràng, đó là lập nên để trấn áp người giáo dân biểu tình khiếu kiện Formosa và diệt giặc đạo. Khi họ nói diệt giặc đạo thì họ chỉ đích danh những người họ muốn giết, đó là Giám mục Phao Lô Nguyễn Thái Hợp, Giáo phận Vinh, Linh mục Đặng Hữu Nam, Giáo xứ Phú Yên, và Linh mục Nguyễn Đình Thục,”

Vào ngày 29 tháng 10, theo Facebook của một người có tên là Quỳnh Hoan, thì tại xã Sơn Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An đã có cuộc gặp mặt của hơn một 1000 thành viên của các Hội Cờ đỏ ở Hà Nội, Nghệ An. Chúng tôi có liên lạc với bộ phận phụ trách thông tin của Huyện Quỳnh Lưu để hỏi về việc này nhưng không liên lạc được.

Chúng tôi cũng liên lạc với một thành viên của Hội Cờ đỏ Hà Nội là anh Nguyễn Quang Bách, thì anh này trả lời là không có chuyện đe dọa các linh mục, cũng như Hội Cờ đỏ có giấy phép thành lập của chính quyền. Qua liên lạc với cô Quỳnh Hoan, người được cho là đứng đầu Hội Cờ đỏ ở xã Sơn Hải, chúng tôi hỏi rằng những việc làm như đe dọa tính mạng và phá hoại tài sản người khác sẽ bị xem là tội phạm hay không? Cô Quỳnh Hoan không trả lời.

Theo Linh mục Đặng Hữu Nam thì sự thành lập của Hội Cờ đỏ là có sự tiếp tay của chính quyền, ông đưa ra bằng chứng là trong những vụ lộn xộn có thành viên của Hội Cờ đỏ tham gia, không thấy các nhân viên cảnh sát có hành động gì cả.

Ông Nguyễn Khắc Mai, nguyên Trưởng ban nghiên cứu của Cơ quan dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đồng tình quan điểm này:

“Có thể có sự chỉ đạo của một số nhóm cầm quyền nào đấy. Bên công an, bên tuyên giáo, hoặc các tổ chức đảng ra lệnh gì đấy, bật đèn xanh cho họ làm, làm rầm rộ lắm. Tôi thấy rất đáng lo vì có thể là chính quyền đang bật đèn xanh cho một trạng thái vô chính trị, vô chính phủ, bất chấp đạo lý và luật pháp.”

Chúng tôi có liên lạc với một số người làm công tác tuyên giáo của Đảng cộng sản nhưng không được.

Sự nguy hiểm của xung đột Lương Giáo

Theo ông Nguyễn Khắc Mai, việc người dân ở những giáo xứ thuộc các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh bị thảm họa môi trường Vũng Áng Formosa làm hại, biểu tình đòi quyền lợi là việc làm chính đáng của họ, nhưng nếu chính quyền không thích và dùng những nhóm Cờ đỏ để đàn áp người dân, thì đó là một sai lầm:

Nhìn lại lịch sử thì chúng ta thấy có những xung đột lương giáo, và xung đột lương giáo này là do chính quyền gây nên.
-Linh mục Đặng Hữu Nam.

“Đây là sự yếu kém của cái gọi là công tác đối thoại với dân, mà đảng cộng sản gọi là dân vận, nhưng có lẽ là hệ thống dân vận không đối thoại được với dân. Pháp luật cũng không làm gì đến nơi đến chốn về các vấn đề mâu thuẫn các mặt trong xã hội. Đây là thể hiện sự yếu kém của chính quyền hiện nay.

Chỉ đẩy tới chuyện dân nghi ngờ chính quyền, đẩy tới mâu thuẫn của các nhóm dân cư khác nhau.”

Trong lịch sử cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiều lần những nhóm người được tổ chức như Hội Cờ đỏ để tấn công những người đối lập, hay các tổ chức tôn giáo đã từng xảy ra, và thường được gọi là những nhóm quần chúng tự phát. Những việc này đã xảy ra trong thời kỳ cải cách ruộng đất, với những nhóm bần nông được tổ chức để đấu tố những người thuộc tầng lớp địa chủ, trung nông, hay trí thức. Những cuộc đấu tố này đã làm bùng nổ một cuộc nổi dậy cũng tại Quỳnh Lưu, Nghệ An, chống lại chính quyền cộng sản vào năm 1956.

Linh mục Đặng Hữu Nam bình luận:

“Nhìn lại lịch sử thì chúng ta thấy có những xung đột lương giáo, và xung đột lương giáo này là do chính quyền gây nên. Tất cả những vụ xung đột lương giáo dù ở Việt Nam hay khắp nơi trên thế giới, đều để lại hậu quả vô cùng tàn khốc mà lịch sử rất khó làm cho vết thương lành miệng. Đó cũng là một điều rất tệ hại cho nhân loại.”

Trên vùng đất miền Trung từ Quảng Bình ra đến Nghệ An, đã từng xảy ra những vụ xung đột Lương Giáo đẫm máu, tiếp theo chính sách cấm đạo và bức đạo Công giáo của các vua Minh Mạng, Tự Đức của triều đình nhà Nguyễn. Chính việc bức đạo này đã làm cho một số làng Công giáo ở vùng này theo thực dân Pháp xâm chiếm Việt Nam.

Ông Hoành Linh Đỗ Mậu, một cựu tướng lãnh quân đội Việt Nam Cộng Hòa, nay đã mất, viết trong hồi ký của ông rằng tại vùng quê Quảng Bình, vào những năm 1950 vẫn còn vô số những nấm mồ của nhiều người chết trong những xung đột Lương Giáo đó.

Ông Nguyễn Khắc Mai rất lo ngại:

“Nếu bọn này không được ngăn chận, làm quá đà, ví dụ như gây ra đập phá, xúc phạm sự linh thiêng của tôn giáo thì chắc chắn giáo dân họ không thể yên lặng. Và như thế là rất nguy hiểm.”

Trên trang Facebook của cô Quỳnh Hoan, của Hội Cờ đỏ tại Nghệ An, người ta thấy những status mắng chửi các giám mục, linh mục tại Nghệ An và Hà Tĩnh.

Linh mục Đặng Hữu Nam nói với chúng tôi:

Mặc dù chúng tôi sống trên tin thần ôn hòa, yêu thương tha thứ của người có đạo, nhưng chúng tôi cũng sản sàng sử dụng các luật pháp được phép để chúng tôi bảo vệ quyền lợi và mạng sống của mình.”

Ông nói rằng ông và các linh mục hiện nay đang kêu gọi giáo dân giữ bình tĩnh, tránh sự khiêu khích.

Sự kiện xuất hiện Hội Cờ đỏ làm cho Tiến sĩ Lê Tuấn Huy tại Sài Gòn nhớ lại thời điểm cách đây hơn hai năm, vào tháng Ba, năm 2015, khi nổ ra cuộc biểu tình chống Trung Quốc gây hấn trên Biển Đông tại Hà Nội, một nhóm thanh niên ăn mặc đồ đỏ, cầm cờ đỏ có sao vàng hay búa liềm đến, và suýt đã xảy ra xung đột với những người biểu tình. Tiến sĩ Nguyễn Tuấn Huy lúc đó viết rằng, những cái loạn của hiện tại đã định hình, cái loạn của tương lai cũng được dự báo: Trên đất nước này, một ngày kia, sẽ có cả những lực lượng cực hữu và cực tả đấu tranh hết sức gay gắt, thậm chí bằng chủ trương vũ lực.

Hai linh mục đi làm việc với xã bị đe dọa

Hai linh mục đi làm việc với xã bị đe dọa

Buổi họp mặt Hội cờ đỏ Hà Nội bên cạnh nhà thờ giáo họ Văn Thai, xứ Song Ngọc, hạt Thuận Nghĩa hôm 29/10/2017
Buổi họp mặt Hội cờ đỏ Hà Nội bên cạnh nhà thờ giáo họ Văn Thai, xứ Song Ngọc, hạt Thuận Nghĩa hôm 29/10/2017

Courtesy of FB Thanh Niên Công Giáo

Hai linh mục thuộc giáo phận Vinh gồm linh mục Đa Minh Phạm Xuân Kế, quản hạt Đông Tháp và Giuse Nguyễn Ngọc Ngự- quản xứ Đông Kiều vào ngày 30 tháng 10 đã bị khoảng 300 người bao vây, đe dọa sau khi có cuộc làm việc với cơ quan chứa năng tại trụ sở Ủy ban Nhân dân Xã Diễn Mỹ. Nhóm người đe dọa hai vị linh mục được cho biết tự xưng là ‘Hội Cờ Đỏ’.

Linh mục Đa Minh Phạm Xuân Kế, quản hạt Đông Tháp, vào lúc 6 giờ chiều ngày 30 tháng 10 nói với Đài Á Châu Tự Do :

Chúng tôi đến làm việc nhằm giải quyết ổn thỏa mọi việc nhưng các ông lại cho dân đến, bố trí- dàn dựng. Các ông lại nói là dân tự phát. Không thể có chuyện một cuộc làm việc giữa các người lớn với nhau mà lại để dân tự phát được.

Đén 4 giờ Công an tỉnh mới cho Cha Ngự vào trong xe. Sau đó tôi và cha Ngự cùng cha Thanh đi xe về nhưng giáo dân Đông Tháp dặn đừng đi vì có tin người ta chuẩn bị dao, kiếm và thậm chí thả dây điệ trần xuống đường. Thế nhưng sau đó chúng tôi đi và đến nay cha Ngự cũng về dưới đó bình an rồi.”

Theo những tin tức ghi nhận được từ các trang mạng xã hội thì trong khoảng thời gian một tháng trở lại đây có xuất hiện những nhóm người mệnh danh là Hội Cờ Đỏ, tổ chức những buổi tập hợp có mang nhiều cờ đỏ sao vàng, cờ đỏ búa liềm, mặc quần áo màu đỏ. Những nhóm người này dùng mạng xã hội để công kích các giáo xứ và giáo dân Công giáo.

Trên tài khoản Facebook của một người tên là Trần Nhật Quang, người ta thấy nhiều hình ảnh, video của các buổi tụ tập của Hội Cờ Đỏ. Ông Quang được nói là đã dùng những từ ngữ như là phản động, quạ đen để gọi các linh mục.

Hiện truyền thông nhà nước Việt Nam, cũng như giới chức địa phương các nơi có xảy ra hiện tượng này, chưa có lên tiếng chính thức gì về việc vừa nêu.

Biện pháp duy nhất để chống bạo lực là đối thoại,

 

Image may contain: 4 people, crowd
Nguyễn Tấn ThànhFollow

Vậy là cuối cùng Quang lùn đã dừng kế hoạch đem Cha Thục ra đấu tố để phá hỏng APEC. Cũng có thể phút cuối AN nhận ra ngăn chặn, cũng có thể nhận thấy Xứ Đạo phòng thủ chặt nên Quang lùn thấy đổi. Nhưng sự việc cho thấy chuyện tái diễn này trong một dịp khác là có thể.

Có thể nói chưa bao giờ mà đảng viên CS lo sợ như hôm nay. Khi đồng loạt:
– Quỹ bảo hiểm xã hội thâm hụt nặng, người về hưu không có lương hay lương hưu tầm chỉ một triệu không đủ sống.
– Ngân hàng cho doanh nghiệp nhà nước vay theo chỉ đạo…. Giờ không trả làm không có tiền trả lại cho người dân tiết kiệm gởi.
– Đất nước đang khó nhưng nhóm lợi ích lại xẻ thịt sân bay Tân sơn nhất làm sân gôn, để đầu tư sân bay Long Thành nơi chúng mua đất sẳn, bắt bồi thường cao hơn cả Mỹ xây sân bay mới tương tự.
– Chỉ của nổi không thôi mà Biệt phủ lan tràn khắp nơi, dân cơ cực ngày càng nhiều. Mâu thuẩn xã hội ngày trầm trọng mà ngày kia đã có người cầm dao chém kiếng xe hơi vì ghét giàu.
– Trái với kỳ vọng chống tham nhũng , chẩn chính đảng, ông Trọng đang cho thấy ngược lại bao che cho tham nhũng và chia rẽ đảng hơn với chống đám này bắt đám kia. Mà vụ thanh tra Biệt phủ Yên bái mất tới 6 tháng, xong có kết quả sai phạm nhưng Biệt phủ vẫn tồn tại không thu hồi công quỹ.
– Các quan chức tha hồ vơ vét và tha hồ nói ngu khinh dân. Để người mơ ngủ thì tỉnh, người tỉnh thì uất ức.
– Phong trào dân chủ khôn ngoan không tập trung trực diện để dể bắt hết mà tan rã hoà vào dân khai trí.
– Luôn có lực lượng cực đoan ở hải ngoại muốn giải giáp cộng sản bằng bạo lực. 40năm này họ không thành công vì họ không nắm được tình hình trong nước và thiếu đầu óc chiến lược. Giờ đây với cơ hội này họ sẽ không bỏ quầ khoét sâu vào nó.
– CA AN vẫn thói quen đánh người tàn ác phản cảm, trong khi điện thoại thì ai cũng có để post lên mạng mà gần đây là CSCĐ lên gối học sinh.
…..

Thế mà giờ đây lại thêm chuyện Quang lùn.

– Tập trung cả ngàn người đồng phục từ khắp các địa bàn về tận Xứ Vân Khôi.
– Tập trung vào chiều tối, chứng tỏ hậu cần để lo tối đó ở lại hay về là rất tốt.
– Được cả ngàn người phất cờ tung hô, điều mà ngay cả ông Trọng thời điểm đó có mặt gần đó không có.

Tất cả điều đó nó cho thấy việc mất kiểm soát của tất cả các bên trong trận bạo lực tới là bất cứ lúc nào.

Mà nói thật dân tộc mình man rợ lắm, họ rất say máu, khi say máu họ bất chấp … không thể kiểm soát được sau khi đã bùng lên đâu.

Biện pháp duy nhất để chống bạo lực là đối thoại, cụ thể là để xã hội dân sự phát triển làm kênh ở giữa trung hoà từng sự việc như phá sản ngân hàng, phá sản quỹ hưu … hay ngăn chặn các nhóm lợi ích như đền bù sân bay Long Thành quá cao. Rất tiếc đảng cộng sản không thấy mà coi họ như kẻ thù.

Đảng đang lao đầu tự sát theo cách của họ, lo cho các đảng viên và gia đình không thoát kịp được.