NGƯỜI CÙNG KHỔ

From:   Quế Tâm shared Luân Lê‘s post.
Image may contain: text and outdoor
Luân LêFollow

NGƯỜI CÙNG KHỔ

Cải cách ruộng đất những năm 1950s thì lấy của cải của người giàu chia cho người nghèo.

Gần 70 năm sau, khi cứu đói người dân, họ lấy của người nghèo chia cho người ít nghèo hơn.

Đúng là đại văn hào Victor Hugo, tác giả lừng danh của “Những người khốn khổ”, đã nhận định chuẩn xác đến kinh ngạc về chủ nghĩa xã hội, đó là nó sẽ chia đều sự nghèo khó cho tất cả.

Còn trong Trại súc vật của Goerge Orwell thì nêu rõ, tất cả các loài vật đều bình đẳng, tuy rằng sẽ có những con vật bình đẳng hơn.

Nếu không khởi tố vụ án có dấu hiệu cưỡng đoạt tài sản này thì sẽ dung túng cho hành vi của những loại bất lương nhân danh sự nhân đạo để cướp đoạt tài sản của những người cùng khổ trên đất nước này, mà nó vốn đã diễn ra ở rất nhiều nơi và nhiều lần như đã thấy, mà điều đó đã khiến dân chúng gần như mất hết niềm tin và chẳng còn hy vọng vào bất kỳ thứ gì gọi là tốt đẹp nữa.

Người ta có thể đói ăn, khát nước, thiếu mặc, nhưng một khi không còn niềm tin thì đó là lúc có một điều gì đó đã sụp đổ vĩnh viễn.

———-
http://vnexpress.net/…/nhan-cuu-tro-2-trieu-bi-thon-thu-lai…

Donald Trump và Hillary Clinton, những hình mẫu về sự sa ngã của bản chất con người

Donald Trump và Hillary Clinton, những hình mẫu về sự sa ngã của bản chất con người

  • Khi người Kitô hữu ngoảnh mặt với tội lỗi thay vì đáp lại lời kêu gọi tiên tri cho thấy bản chất con người có thể đạt đến một lý tưởng cao hơn, đó là lúc chúng ta đang hạ thấp sứ điệp Tin Mừng.
  • Người Kitô hữu được mời gọi để ứng xử theo cách khác. Chúng ta được kêu gọi phải quan tâm đến tình hình chính trị và xem xét mọi việc theo lộ trình của lịch sử cứu độ.

*Câu trả lời cuối cùng của họ cho những hành vi sai trái của mình lại là thái độ lấp liếm và che giấu thay vì hối hận ăn năn.

Cũng như nhiều người, tôi rất thất vọng, nhưng không hề bất ngờ về đoạn Video vừa được công bố, trong đó Donald Trump khoe khoang “khả năng sàm sỡ phụ nữ” của mình. Nhưng điều khiến tôi phẫn nộ hơn cả chính là chứng kiến không ít Kitô hữu đã vội vã bao che hoặc xem nhẹ hành vi ấy của Trump.

Khi tôi bày tỏ nỗi thất vọng về hành vi của Donald Trump trên mạng xã hội, tôi đã bị kết tội là ủng hộ cho Hillary và là nguyên cớ gây nên tình trạng bàng quan với vấn đề bảo vệ sự sống. Một người gọi tôi là “kẻ phản bội”, người khác cho tôi là một “nữ tu giả mạo”. Họ nói rằng tôi cần được trừ tà, thậm chí có người quả quyết tôi phải chịu trách nhiệm cho việc các Kitô hữu bị ném vào các trại tập trung thời phát xít. Nhưng những gì tôi nhận được vẫn chẳng thấm vào đâu so với sự phản bác mà một số người khác gặp phải.

Khi người Kitô hữu ngoảnh mặt với tội lỗi thay vì đáp lại lời kêu gọi tiên tri cho thấy bản chất con người có thể đạt đến một lý tưởng cao hơn, đó là lúc chúng ta đang hạ thấp sứ điệp Tin Mừng. Vấn nạn này càng trở nên trầm trọng hơn trong cuộc tranh cử năm nay, bởi chúng ta có hai ứng cử viên với thói hành xử không minh bạch, thể hiện chính xác những hành vi mà các Kitô hữu được kêu gọi phải loại bỏ. Cả Hillary Clinton và Donald Trump đều là những tấm gương phản ánh tội lỗi của chúng ta, cũng như cho thấy bản chất sa ngã của chúng ta, của nền văn hóa và của đất nước của chúng ta có thể suy đồi đến mức nào. (Xin lưu ý, tôi không có ý xét đoán tình trạng đạo đức của hai ứng viên trước mặt Thiên Chúa, Đấng duy nhất biết rõ lương tâm mỗi người, mà chỉ đơn giản đánh giá những hành động khách quan của họ).

Lúc khởi đầu, Adam đổ lỗi cho cả Eva lẫn Thiên Chúa khi ăn trái cấm:Người đàn bà mà Chúa đã đặt bên tôi, chính y thị đã hái nơi cây ấy cho tôi, nên tôi đã ăn” (3,1).

Eva cũng phản ứng cách tương tự:Con rắn dụ dỗ tôi nên tôi đã ăn” (3,13).

Cũng như Adam và Eva, cả hai ứng cử viên tổng thống của chúng ta đều cho thấy cách thức họ phản ứng với những sai lầm của mình là lảng tránh và che đậy hơn là hối lỗi. Nhưng thói hành xử của Trump và Clinton không chỉ dừng lại ở kiểu “tìm cách hợp lý hóa vấn đề” như Adam và Eva, mà thực sự là kiểu “lừa dối có chủ tâm” của con rắn. Hillary Clinton chọn cách lấp liếm có chủ ý, dùng mục đích “thuận tiện cho công việc chính trị” để biện minh cho hành động sử dụng email cá nhân vào công việc (đây là kiểu nói dối có tính toán). Trái lại, kiểu phủ nhận của Donald Trump lại có vẻ thường xuyên và bộc phát hơn là được tính toán trước. Trên truyền hình, ông chối bỏ hoàn toàn mọi sự thật đã được chứng minh mà không hề chớp mắt. Và “câu xin lỗi” của ông luôn kết thúc bằng lời bào chữa và lấp liếm.

Khi Thiên Chúa nghe lời biện minh của Adam, Eva, và nhận thấy họ thiếu sự ăn năn, Ngài đã trục xuất họ khỏi vườn Địa Đàng.

Chúa cảnh báo Eva về những hệ lụy sinh ra do tội nguyên tổ, “Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, nhưng nó sẽ thống trị ngươi” (St 3, 16).

Cuộc sống của Donald Trump đã minh chứng việc người phụ nữ sẽ bị thống trị, lạm quyền, và bị đối xử như đồ vật mà Thiên Chúa từng cảnh báo Eva. Trump ly dị vợ không chỉ một, mà đến hai lần. Ông khoác lác chuyện mình ngoại tình. Ông từng có không ít lời lẽ quấy rối tình dục trẻ vị thành niên, trong đó có cả con gái mình. Và suốt chiến dịch tranh cử, khi tỷ lệ ủng hộ đang ở mức cao nhất, Trump dường như không thể tránh khỏi việc chế giễu, dọa nạt, và bình luận tục tĩu về phụ nữ. Loạt hành vi nói trên của Donald Trump là minh họa cụ thể cho cách hành xử sai lầm của một bộ phận đàn ông đối với phụ nữ.

Tương tự như vậy, Hillary Clinton cũng là điển hình về mẫu phụ nữ sa ngã khi chối bỏ thiên tính của phái nữ. Như Hillary thừa nhận về bản thân, bà thường gây ấn tượng như một người lạnh lùng hơn là cảm thông, ấm áp. Rõ ràng, đây là cách bà nỗ lực để thành công trong thế giới chính trị vốn ưu ái đàn ông. Nhưng việc dựng nên bức tường ngăn cách bản thân cũng khiến bà phải trả giá bằng thiên tính đích thực của người phụ nữ và thế giới quan đạo đức của con người. Bà càng chối bỏ nữ tính của mình hơn nữa khi lên tiếng ủng hộ hoàn toàn việc phá thai (một giải pháp “tiện lợi” cho kiểu đàn ông có lối sống tương tự Donald Trump). Hillary cũng phỉ báng ơn gọi làm mẹ của người phụ nữ (một thiên chức chứ không chỉ đơn thuần là vấn đề sinh học) khi bà cho rằng có thể bỏ em bé ngay sát ngày sinh. Và chính bà đã bào chữa cho sự sa ngã của đàn ông khi ca ngợi những phụ nữ tố cáo Donald Trump lạm dụng tình dục, nhưng lại tấn công người phụ nữ từng buộc tội chồng mình.

Ngay khi Adam và Eva phạm tội lần đầu, cách hành xử của họ lập tức trở nên ích kỷ bởi cuộc sống của họ không còn quy hướng về Thiên Chúa.

Cách hành xử của Hillary và Trump cũng tiêu biểu cho những hành vi đặt trọng tâm vào những điều sai lầm, đặc biệt khi đề cập đến tiền bạc và quyền lực. Ví dụ, cả hai người đều quản lý những cơ sở “từ thiện” nhưng có vẻ làm từ thiện còn ít hơn phục vụ lợi ích của chính họ. Trump còn lợi dụng quỹ từ thiện của mình để hối lộ quan chức chính phủ và mua bức chân dung khổng lồ cao 6 feet (khoảng 1 thước 8) của chính mình.

Thực tế, Trump đã không góp xu nào cho quỹ từ thiện của mình trong suốt 5 năm. Tương tự, khi Hillary còn là ngoại trưởng Mỹ, các khoản phí cho việc diễn thuyết của Bill Clinton cũng tăng gấp đôi, một số trường hợp thậm chí tăng gấp ba làm dấy lên nhiều mối nghi ngờ về vấn nạn “đổi chác”. Cụ thể, trong số 154 người từng gặp Hillary thời còn là ngoại trưởng, ít nhất 85 người đã ủng hộcho quỹ Clinton Foundation. Tại Mỹ, việc người nước ngoài ủng hộ cho các chiến dịch chính trị là điều trái luật, nhưng Hillary lại chấp nhận nguồn quyên góp cho Clinton Foundation đến từ nhiều quốc gia, bao gồm cả Ả Rập Saudi. Rắc rối chỉ nảy sinh khi những email rò rỉ từ các chiến dịch của Clinton cho thấy những nội dung nhạo báng người Công giáo.

Cách hành xử và vấn đề đạo đức đáng ngờ của Donald Trump và Hillary Clinton rõ ràng khiến chúng ta phải lo ngại. Chắc chắn cả hai đều nên bị tước bỏ tư cách ứng cử viên tổng thống. Tiếc thay, nước Mỹ lại quá chia rẽ đến nỗi không thể đồng thuận với nhau, thậm chí trước thực trạng hết sức rõ ràng này. Thay vào đó, người dân lại tiếp tục bám víu vào những ứng viên hoàn toàn thiếu tư cách này. Một số người tìm cách bào chữa hoặc phớt lờ các sai lầm nghiêm trọng của ứng viên mình thích, nhưng lại nổi xung lên khi ứng viên kia làm điều gì sai quấy.

Nhưng người Kitô hữu được mời gọi để ứng xử theo cách khác. Chúng ta được kêu gọi phải quan tâm đến tình hình chính trị và xem xét mọi việc theo lộ trình của lịch sử cứu độ. Chúng ta được mời gọi trở thành những tiên tri, để chỉ ra mọi sai trái khi chúng ta nhận thấy, không chỉ những sai trái của phe đối lập với bên chúng ta ủng hộ. Thật không may, cũng như Adam và Eva, nhiều người trong chúng ta thay vào đó lại tìm cách bao che và lấp liếm cho ứng cử viên mình thích. Ta đang trở thành những con người sa ngã và dễ dàng đánh mất hy vọng nơi những thông điệp nền tảng của Tin Mừng. Ta quên rằng bản chất con người được mời gọi trở nên điều gì đó cao cả hơn, nhờ sức mạnh từ cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô. Ta đang hạ thấp tiêu chuẩn của con người đến mức chỉ bằng một con rắn.

Khi cuộc tranh cử này kết thúc, việc ai trở thành tổng thống chẳng còn quan trọng, bởi nước Mỹ đều sẽ bước vào một kỷ nguyên hết sức khó khăn. Hy vọng của tôi là các Kitô hữu sẽ dành thêm thời gian cầu nguyện cho vị tân tổng thống hoán cải hơn là chỉ trích ông/bà ấy. Tôi cũng hy vọng chúng ta cũng sẽ rút ra bài học từ đó: Ta sẽ không bao giờ tìm thấy được sự cứu rỗi nơi một đảng phái chính trị nào, và ta nên trở thành những con người nỗ lực giải thích, bảo vệ, và không ngần ngại ủng hộ cho chỉ mình Đức Giêsu Kitô.

Cecilia chuyển ngữ

Giáo Sư Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh gia nhập đạo Công Giáo

Giáo Sư Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh gia nhập đạo Công Giáo

(VienDongDaily.com – 21/10/2016)

Nghi thức “Tiếp Nhận” được bắt đầu từ ngoài cửa chính nhà thờ. Đức Giám Mục chủ sự hỏi một số câu hỏi có tính cách xác nhận sự tự nguyện theo Chúa để giáo sư Nguyễn Xuân Vinh trả lời. Sau đó, Đức Giám Mục cùng các linh mục hướng dẫn GS Vinh lên cung thánh.

“Điều làm tôi lúc nào cũng cảm thấy ân hận là không tìm về với Chúa từ nhiều năm về trước tuy lòng lúc nào cũng muốn có được niềm tin”, GS. Vinh.

Bài THANH PHONG

HUNTINGTON BEACH – Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh bút hiệu Toàn Phong, nguyên Tư Lệnh Không Quân QL/VNCH, tiến sĩ Quốc Gia Toán Học của Đại Học Paris (Pháp) một khoa học gia được Hội Khoa Học Vũ Trụ Hoa Kỳ (American Astronautical Society) trao tặng giải thưởng “Dirk Brouwer” về Cơ Học Phi Hành Không Gian, đã tìm gặp Chúa và tin nhận Ngài qua việc lãnh nhận ba Bí Tích: Thánh Tẩy, Thêm Sức và Thánh Thể tại thánh đường Saint Bonaventure Church, 16400 Springdale, Huntington Beach, CA 92649, và đã chọn thánh Anphongsô, một vị tiến sĩ Hội Thánh làm Bổn Mạng.

dc-mai-thanh-luong

 

 

 

 

 

 

 

 

Đức GM Mai Thanh Lương đang làm nghi thức rửa tội cho GS Nguyễn Xuân Vinh. (Thanh Phong/ Viễn Đông)

Vào lúc 3 giờ chiều thứ Tư, ngày 19 tháng 10, 2016 trước một số đông tín hữu Công Giáo, trong đó có Thị Trưởng Tạ Đức Trí, BS Trần Văn Cảo (Chủ Nhiệm) và các thành viên Diễn Đàn Giáo Dân, một số thân hữu của gia đình bác sĩ Nguyễn Xuân Vinh như ông bà Đinh Hồng Phong, ông bà giáo sư Nguyễn Lý Tưởng, ông bà giáo sư Trần Phong Vũ, ông bà Nguyễn Văn Quát, giáo sư Trần Huy Bích, các giáo sư Gia Long, Hoàng Huyên và Nguyễn Thị Nhung, và nhiều vị từ xa như ông bà bác sĩ Đặng Vũ Vương từ Michigan, bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh từ Florida, ông Nguyễn Văn Tỵ từ Dallas, ông bà giáo sư Lê Thanh Minh Châu từ Indiana, ông bà Đàm Văn Tiếu từ Munich, Đức Quốc..

moi-nguoi-nguyen-xuan-vinh

 

 

 

 

 

 

 

 

Mọi người cùng chụp tấm ảnh kỷ niệm với gia đình GS Nguyễn Xuân Vinh. (Thanh Phong/ Viễn Đông)

Đức Giám Mục Đa Minh Mai Thanh Lương, nguyên Giám Mục Phụ Tá Giáo phận Orange cùng các linh mục Mai Khải Hoàn, nguyên Giám Đốc TTCG, Cao Phương Kỷ (Linh Hướng Diễn Đàn Giáo Dân), Martin Trần Đức (Cha Phó, Quản Nhiệm Cộng Đoàn Huntington Beach) và Thầy Sáu Bình phụ tá đã cử hành nghi thức Thánh Tấy (rửa tội), Thêm Sức và ban Mình Thánh Chúa cho giáo sư Nguyễn Xuân Vinh để từ nay, giáo sư Vinh trở thành tín hữu trong Giáo Hội Công Giáo.

Nghi thức “Tiếp Nhận” được bắt đầu từ ngoài cửa chính nhà thờ. Đức Giám Mục chủ sự hỏi một số câu hỏi có tính cách xác nhận sự tự nguyện theo Chúa để giáo sư Nguyễn Xuân Vinh trả lời. Sau đó, Đức Giám Mục cùng các linh mục hướng dẫn GS Vinh lên cung thánh. Vì là người dự tòng lớn tuổi nên được Đức Giám Mục cử hành ba bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể cùng một lúc.

nguyen-xuan-vinh-chia-se-tam-tinh

                             

 

 

 

 

 

 

 

 

GS Nguyễn Xuân Vinh chia sẻ tâm tình. (Thanh Phong/ Viễn Đông)

Buổi lễ diễn tiến trang nghiêm đúng theo nghi thức của Giáo Hội với phần công bố Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể. Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, 86 tuổi, được dẫn tới Giếng Rửa Tội phía bên phải cung thánh và được Đức Giám Mục chủ sự vừa đổ nước trên đầu vừa đọc: “Tôi rửa ông, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.” Sau nghi thức rửa tội, giáo sư Vinh được khoác trên người chiếc áo choàng trắng, tượng trưng cho sự đổi mới từ con người cũ trở thành tạo vật mới trong Chúa Kitô. Đức Giám Mục sức Dầu Thánh trên trán GS Vinh, đọc lời nguyện và nói, “Bình an của Chúa ở cùng ông,” và giáo sư Vinh thưa lại “Và ở cùng cha.” Sau đó, Đức Giám Mục cử hành nghi thức phụng vụ Thánh Thể và trao Mình Thánh Chúa cho giáo sư Vinh . Nghi thức ban ba bí tích kết thúc, Đức Giám Mục, quý linh mục, Phó Tế và mọi người có mặt hân hoan vỗ tay chúc mừng Giáo sư Vinh.

Bác sĩ Trần Văn Cảo, người điều hợp chương trình mời giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh lên chia sẻ tâm tình. Trong phần đầu, giáo sư Nguyễn Xuân Vinh nói, “Hôm nay là ngày trọng đại của con, là người bắt đầu làm con cái Chúa. Sau nghi lễ Thánh Tẩy, đứng trước quý vị nơi đây , con là một con người rất nhỏ bé, rất tầm thường nhưng đã từng suốt cuộc đời, đi lần từng bước tìm về với Chúa.”

Giáo sư cho biết, ông sinh vào tháng Giêng năm 1930 tại tỉnh lỵ Yên Bái. Sau khi nói qua về quãng thời thơ ấu của mình, Giáo Sư Vinh cho biết, ông mới học giáo lý vài tháng nay, ông cám ơn một số vị đang hiện diện trong thánh đường đã đến nhà hướng dẫn, tặng kinh sách cho ông, và cám ơn đặc biệt Đức Cha Mai Thanh Lương đã cử hành nghi thức ban phép Thánh Tẩy cho ông được trở thành con cái Chúa. Giáo Sư Vinh cũng kể một số sự kiện xảy ra trước đây, nhất là việc ông được Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho đi du học vào tháng Tám 1962 thì 14 tháng sau, vào ngày 1 tháng 11, 1963 Tổng Thống Diệm và bào đệ đã bị thảm sát. Nhóm đảo chánh cũng sát hại một số vị chỉ huy trung thành với nền Đệ Nhất Cộng Hòa trong đó có người bạn đồng sự với ông là Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân. Nếu ông không được đi du học cùng với gia đình năm trước đó, thì chắc chắn ông cũng chung số phận như Đại Tá Hồ Tấn Quyền, nên ông xem đây là sự an bài của Thiên Chúa, ông đã tin vào Đức Maria Mẹ Hằng Cứu Giúp từng cứu giúp ông qua nhiều điều khó khăn. Khi còn đi học cũng như khi hành xử khảo cứu về khoa học không gian, ông đã được nhiều ân sủng của Chúa và ông vẫn tuân giữ các điều răn của Chúa.

nguyen-xuan-vinh-lan-dau-ruoc-minh-thanh-chua

 

 

 

 

 

 

 

 

Lần đầu tiên, GS Vinh rước Mình Thánh Chúa. (Thanh Phong/ Viễn Đông)

Cuối lời tâm tình, giáo sư Vinh nói, “Giờ đây, tiếp tục con đường đã chọn, là một chiến sĩ phục vụ cho Tổ Quốc và Không Gian, và cũng có thêm đức tin, con sẽ dành trọn cuộc đời còn lại để vinh danh Thiên Chúa.”
Phóng viên Phiến Đan, hiền thê của giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, thay mặt gia đình lên cám ơn đức cha, quý cha, thầy phó tế, ca đoàn nhà thờ Đức Mẹ La Vang và tất cả quý ân nhân, thân hữu. Bà xúc động nói, “Hôm nay là ngày vui sướng nhất đời của gia đình chúng con, vì nhà con đã trở nên con cái Chúa, một điều mà con hằng ao ước bao nhiêu năm nay.”

Bác sĩ Trần Văn Cảo mời mọi người cùng chụp tấm ảnh kỷ niệm với gia đình giáo sư Vinh, và sau đó cùng xuống hội trường dự tiệc mừng. Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh tốt nghiệp cử nhân Toán Học và cao học toán tại đại học Marseille, trong khi theo học Trường Sĩ Quan Không Quân ở Salon de Provence, và trở thành sĩ quan phi công lái máy bay hai động cơ với thẻ trắng để bay trời mù. Ông từng là giáo sư Toán tại các trường Trung Học Chu Văn An, Petrus Ký. Khi ông vừa tuổi 28 đã được cử giữ chức Tư Lệnh Không Quân và đem lại vinh quang cho Không Lực VNCH. Giáo sư Vinh đã viết khoảng 100 tài liệu đăng trên các báo khoa học và kỹ thuật quốc gia và quốc tế, ba cuốn sách về Khoa Học Hàng Không và Không Gian được tàng trữ trên 200 thư viện kỹ thuật trên toàn thế giới. Ông được chính phủ Pháp mời làm giáo sư thỉnh giảng ở Sup Aero và được tự điển bách khoa quốc tế Wikipedia và ấn bản American Men and Women of Sciences giới thiệu tiểu sử. Giáo sư là người Việt Nam đầu tiên được trao tặng giải thưởng Dirk Brouwer là giải thương cao quý nhất về Cơ Học Phi Hành Không Gian. Trong ngày nhận giải thưởng vào năm 2007 tại Sedona, thuộc tiểu bang Arizona, giáo sư đã có bài nói chuyện về đề tài “ Unified Theory for Optimal Thrust and Aerodynamic Control in Hypersonic Flight” dài gần một giờ và được khoảng hai trăm khoa học gia đến từ nhiều nơi trên thế giới nồng nhiệt tán thưởng.

ĐẠI BI KỊCH VIỆT NAM

ĐẠI BI KỊCH VIỆT NAM

Nguyễn Đình Cống

24-10-2016

Bi kịch của người dân VN, luôn trốn chạy CS. Ảnh poster ngày 5-8-1954. Nguồn: internet

“Đất nước mình ngộ quá phải không anh. Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn” (Trần Thị Lam).

Vâng, ngộ quá. Đúng là một đất nước không chịu phát triển, hoặc đúng hơn là không thể phát triển được vì mắc kẹt vào các nghịch lý, các mâu thuẫn nội tại chưa có cách gì gỡ ra được, đang loay hoay trong đại bi kịch.

1- Chế độ mang danh XHCN mà thực chất không phải XHCN

Chế độ XHCN chỉ mới manh nha ở Liên Xô và Đông Âu một thời gian đã vội tan rã. Theo tưởng tượng của Mác thì XHCN và sau đó CNCS, chủ yếu là thể chế kinh tế “làm tùy sức, hưởng theo nhu cầu”, không có bóc lột, không có áp bức. Nền kinh tế đó phải dựa trên công hữu tư liệu sản xuất. Vấn đề lãnh đạo của đảng cộng sản, chuyên chính vô sản chỉ là biện pháp để thực hiện nền kinh tế đó. Trong chế độ XHCN công nhân và nông dân làm chủ nhà máy, ruộng đồng, mọi người sống tự do, hạnh phúc, giáo dục và y tế miễn phí v.v… Nếu hiểu CNXH là như thế thì ở VN, ngoài việc chuyên chính do đảng CS thao túng, không có gì đáng kể là XHCN. Không cần dẫn chứng, không phải chứng minh, cứ nhìn vào cuộc sống thực tế là thấy hết. Phải chăng ở VN người ta chỉ đưa ra nhãn mác XHCN để tuyên truyền, còn thực chất là chế độ gì chưa biết chứ chắc chắn không phải là CNXH.

2- Nước Cộng hòa nhưng hành xử theo phong kiến (PK)

Chế độ PK ở VN có nhiều thời kỳ thịnh trị, có vua sáng tôi hiền, dân được sống ấm no hạnh phúc, nhưng cũng nhiều lúc thối nát, gặp phải vua đểu và hèn, quan tham và ngu. Những lúc như thế dân phải chịu trăm đường khổ nhục. Bản chất của PK là quyền bính tập trung vào vua quan, người dân chỉ là “thảo dân” chẳng có quyền gì, phải lo làm để nuôi bọn thống trị. Tội nặng nhất là khi quân (nói hoặc làm khác ý vua), nghĩa là không được tự do tư tưởng, không có tự do ngôn luận. Vua đứng trên luật pháp, cho sống được sống, bắt chết phải chết, nghĩa là không cần tôn trọng nhân quyền.

ĐCS đã làm cách mạng đánh đổ PK, nêu danh là nước Cộng hòa XHCN, xây dựng chính quyền của dân, do dân, vì dân, không ngờ lại tái lập PK dưới hình thức khác, không có một ông vua rõ ràng, mà vua tập thể, vua ở trung ương, vua tại các địa phương. Không phải tái lập được nền PK thịnh trị mà là PK thối nát. Theo mô tả của Milovan Djilas thì CS đã lập nên một “Giai cấp mới” để thống trị xã hội còn tàn bạo, thâm hiểm hơn bọn PK. Đúng như bài thơ của Trung tướng Trần Độ: Những mong xóa ác ở trên đời/ Ta phó thân ta với đất trời/ Tưởng ác xóa rồi thay cực thiện/ Ai hay cái ác cứ luân hồi. Cái ác mà Trần Độ nói đến là cái ác do bọn thống trị gây ra, bắt dân phải chịu.

3- Là tư bản man rợ nhưng được ngụy trang bằng định hướng XHCN

Chế độ kinh tế tư bản đã bắt đầu bằng những thủ đoạn man rợ, hoang dã như làm giàu trên sự bần cùng hóa công nông, hủy hoại tài nguyên và môi trường. Đó là thời kỳ vào thế kỷ 18, được Mác khảo sát để viết nên Tuyên ngôn đảng cộng sản và Tư bản luận, đồng thời tưởng tượng ra học thuyết CNCS. Tiếp theo chế độ tư bản có các thời kỳ phát triển và đến bây giờ đã có những nước được ví là thiên đường nơi hạ giới, như các nước Bắc Âu.

ĐCS VN một thời gian dài đã rất nhầm lẫn khi đồng nhất tư bản với đế quốc xâm lược và quyết tâm làm tên lính xung kích đào mồ chôn chúng nó. Từ năm 1986, VN cởi trói nền kinh tế, để cho tư nhân phát triển, gọi là đổi mới, nhưng thực ra chỉ là sửa sai để đi theo con đường kinh tế thị trường của tư bản. Mà còn đèo thêm định hướng XHCN.

Nhiều người thắc mắc ý nghĩa của khái niệm định hướng XHCN, nó có nội hàm và ngoại diên như thế nào. Theo tôi, ý muốn của người đưa ra định hướng XHCN là phải đặt cả nền kinh tế thị trường ấy nằm gọn dưới sự lãnh đạo của ĐCS. Thế thì dưới sự lãnh đạo ấy nền kinh tế VN phát triển như thế nào. Rõ ràng là nó đang theo sát những thủ đoạn man rợ, hoang dã thời kỳ đầu của kinh tế tư bản, mà còn tệ hại hơn nhiều. Đó là sự cấu kết của bọn người có quyền với bọn tài phiệt trong và ngoài nước nhằm đục khoét, chiếm đoạt tài sản quốc gia, cướp ruộng đất và bóc lột nhân dân, vay nợ nước ngoài để đút túi một phần và để lại cho dân phải trả. Không những cấu kết với bọn tài phiệt mà còn bảo vệ chúng, tôn thờ chúng trong việc phá hoại đất nước (trong nền kinh tế thị trường thực sự hầu như rất hiếm có sự cấu kết này). Thế rồi lãnh đạo chính phủ đi cầu xin hết nước này, đến nước khác, để họ công nhận cho có nền kinh tế thị trường, nghĩa là đã theo được tư bản. Lúc cầu xin như thế thì cố tình cắt cái đuôi định hướng.

4- Rập khuôn theo phát xít (PX) nhưng lại hô hào dân chủ

Sự xâm lược của PX Đức vào Liên xô và sự thắng lợi của Hồng quân trong đại chiến 2 làm nhiều người nhầm, cho rằng CS và PX là đối nghịch nhau. Thực ra không phải như vậy. Jeliu Jeliev, một trí thức Bungari, năm 1967 đã viết quyển sách “Chế độ phát xít” (năm 1990 Jeliu Jeliev được bầu làm Tổng thống của Bungari).

Đọc xong quyển Chế độ phát xít (Hitler- Đức và Mutxôlini- Ý) mới thấy tổ chức xã hội và sự thống trị của ĐCS VN gần như sao chép từ chế độ đó. Về nhà nước, đó là việc đặt đảng bao trùm lên toàn bộ chính quyền và xã hội, tạo ra một chính quyền nữa cao hơn, là việc bầu cử hài hước để tạo ra quốc hội bù nhìn, là tổ chức công an, mật vụ để do thám tổng thể và đàn áp, là các tòa án bị đảng thao túng, viện kiểm sát phải phục tùng cảnh sát, là việc dùng thủ đoạn dối trá và bạo lực trong cai trị, là việc bóp nghẹt tự do dân chủ, lập các trại cải huấn v.v… Về nhân dân, đó là cách khống chế mọi tầng lớp xã hội trong các đoàn thể quần chúng, biến nhân dân thành quần thể không tính cách, mọi thứ phải phục tùng đảng, là mâu thuẫn giữa đảng và tầng lớp trí thức chân chính, là sự tan rã của tầng lớp tinh hoa, là sùng bái cá nhân lãnh tụ v.v…

Xét về mặt thống trị thì CS và PX giống như hai anh em sinh đôi, được bú từ một nguồn sữa. Thế nhưng cứ nghe những lời tuyên truyền thì chế độ CSVN “dân chủ đến thế là cùng”, là dân chủ gấp hàng ngàn, hàng vạn lần các nước tư bản. Không biết họ nói thế và có tin vào điều đó không vì không thấy họ ngượng mồm một chút nào cả. Cũng không biết họ định đánh lừa ai. Hay là họ đã quen cho rằng dân chúng chỉ là một lũ người bảo sao nghe vậy. Mà khổ thay, vẫn có người tin và phụ họa lời họ nói.

CSVN và PX giống nhau nhiều điểm về thống trị, về đàn áp, nhưng có vài điểm CS không học được PX, đó là sự minh bạch và vững mạnh của chính quyền, là sự phát triển kinh tế hùng hậu. Cũng chưa nghe nói đến đảng PX phải ra nghị quyết làm trong sạch và chỉnh đốn.

5- Đại bi kịch

Tóm lại xã hội VN hiện nay là sự trộn lẫn các phần của CNXH, PK, tư bản, PX. Mà thảm thương thay lại chủ yếu là trộn lẫn những phần xấu xa nhất, tệ hại nhất của từng chế độ để tạo nên một đại bi kịch cho xã hội (Về hiện tượng, nhiều người thấy rõ, xin không kể ra dài dòng). Sẽ có người hỏi, nói như vậy có bôi đen quá mức không. Sao không nhìn vào những sân bay, những con đường, những chiếc cầu, những tòa nhà cao tầng được xây dựng ở khắp nới, sao không nhìn vào xuất khẩu tôm cá, lúa gạo, hoa quả, dầu thô, quần áo, giày dép, sao không nhìn vào vị thế ngoại giao với nhiều nước và Liên hiệp quốc, sao không biết sự tăng trưởng GDP mỗi năm đều trên 6%, sao không so sánh đời sống của dân chúng bây giờ với trước 1945 và thời kỳ 1980 v.v… Xin thưa, có nhìn thấy chứ. Nếu không có những thứ đó thì đảng tiêu vong rồi, dân tộc lụn bại lâu rồi chứ đâu còn như bây giờ để thảo luận. Có so sánh chứ. So sánh theo phương dọc, nghĩa là so sánh ta với ta qua thời gian, và so sánh theo phương ngang, là so sánh ta với người khác trong cùng thời gian và hoàn cảnh. Khi so sánh theo phương ngang mới thấy chúng ta thua kém người ta quá chừng.

Có lý thuyết cho rằng kinh tế của xã hội phát triển hơn kém nhau ở năng suất lao động và năng suất đó của VN đứng vào hạng thấp của khu vực và thế giới. Người ta kêu gọi tăng năng suất nhưng không biết tăng bằng cách nào. Tuy vậy năng suất lao động cũng chỉ là một chỉ tiêu của kinh tế. Quan trọng hơn là chỉ tiêu hiệu quả . Có thể hiểu sơ lược: Hiệu quả P = [ (T – C) / C] 100%. Trong đó T là phần thu được, C là phần chi phí bỏ ra. Trong phần lớn báo cáo của mọi cấp mọi ngành, người ta chủ yếu nêu ra T mà ít quan tâm đến C và P. Nếu tính được P cho nền kinh tế VN trong mấy chục năm qua thì thấy đó là một số âm có trị tuyệt đối khá lớn. Hiệu quả âm có nghĩa là kết quả càng lớn, làm càng nhiều thì thua lỗ càng nặng. Thể hiện rõ nhất của việc này là vay nợ nước ngoài càng ngày càng tăng và trước mắt chưa có cách gì trả được. Hàng năm phải vay thêm chỉ để trả phần tiền lãi.

Kinh doanh, khởi nghiệp, các dự án phần lớn không lành mạnh. Đa số doanh nhân làm giàu không phải bằng trí tuệ, sáng tạo mà bằng quan hệ đen tối, bất chính với thế lực có quyền (chia chác, hối lộ). Những doanh nghiệp làm ăn chân chính, không chịu chấp nhận liên minh ma quỷ với thế lực có quyền thường bị đe dọa, bị phá phách, bị triệt hạ. Vụ bà Ba Sương với nông trường Sông Hậu, vụ kiện ra Tòa án quốc tế của ông Trịnh Vĩnh Bình, quốc tịch Hà Lan, đòi Chính phủ VN bồi thường 1 tỷ USD là các dẫn chứng sinh động. Làm kinh tế như vậy chủ yếu là trò trộm cướp, lừa đảo, chứ không phải phát triển đúng hướng.

Mà phát triển xã hội đâu phải chỉ có kinh tế. Còn có thứ cần hơn là văn hóa, là đạo đức. Phát triển kinh tế với hiệu quả âm, lại phá nát tài nguyên và môi trường, hủy hoại văn hóa và đạo đức thì cái giá của nó là quá đắt. Trước năm 1986, vì phạm quá nhiều sai lầm nghiêm trọng trong chính sách kinh tế theo định hướng XHCN mà đất nước lâm vào cảnh đói kém, kiệt quệ. Tình trạng đó làm rối trí và mờ mắt nhiều người nên từ năm 1986, để sửa sai người ta lại đổ xô vào phát triển kinh tế bất chấp mọi tai họa về môi trường và đạo đức mà nó mang lại.

Để phát triển xã hội, ngoài kinh tế, văn hóa, đạo đức, còn cần đến tự do, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, một cuộc sống yên bình, một xã hội tin yêu, thân thiện, chứ đâu có phải chỉ kinh tế. Mà về kinh tế, con số tăng trưởng GDP hàng năm cũng rất đáng ngờ. Tăng như thế mà sao năm nào ngân sách cũng thâm hụt, mà nợ nần vẫn chồng chất, hay là phần lớn ngân sách tăng được lọt vào túi cá nhân.

Khi nhìn xã hội hiện tại nhiều người thấy rõ (vì không giấu đi đâu được) những tội ác như hủy hoại môi trường, nạn bạo hành, dân oan, hàng giả, hàng lậu, thực phẩm bẩn v.v…, những quốc nạn như tham nhũng, lãng phí, mua quan bán tước, giáo dục xuống cấp v.v… Đó chỉ là những thể hiện bề ngoài. Tôi cho rằng tội ác lớn nhất nằm ở bên trong, phần nào bị che giấu, mang sắc thái vô hình. Đó là sự phá nát truyền thống đạo lý và văn hóa của dân tộc, là để cho việc gian dối trở thành phương châm xử thế từ quan đến dân, là sự hủy hoại thành phần tinh hoa của dân tộc để phải chấp nhận những kẻ vừa thiếu trí tuệ vừa kém đạo đức giữ những cương vị lãnh đạo và quản lý đất nước. Công nhận rằng sự phá nát, sự hủy hoại này không phải là ý đồ tự giác của CS, họ không cố tình làm những việc đó, nhưng nó là kết quả tất yếu của dấu tranh giai cấp, của vô sản chuyên chính, của công hữu hóa tư liệu sản xuất, của nền độc tài đảng trị. Những kết quả tất yếu này ban đầu những người CS chưa nhận thấy, đến khi nó bộc lộ rõ ràng thì cố tình che giấu hoặc ngụy biện để bao che.

Trong lúc nội chính còn bị rối như tơ vò thì thảm họa từ Trung cộng lại chụp xuống. Sự bành trướng với ý đồ «Bình thiên hạ» của Đại Hán đã hủy diệt dần dần các dân tộc Mãn, Mông, Hồi, Tạng. Các dân tộc này đã có thời kỳ huy hoàng trong lịch sử, nhưng rồi vì chung ý thức hệ CS mà bị người Hán nô dịch. Đại Hán không ngừng âm mưu thôn tính và hủy diệt dân tộc Việt. Theo dự đoán của cố Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch thì sau hội nghị Thành Đô VN có thể mắc vào thời kỳ bắc thuộc lần thứ 2. Thế mà lãnh đạo Đảng và Nhà nước cam tâm thần phục Đại Hán. Đó cũng là một trong những đại bi kịch.

Vạch ra như thế để rồi tìm con đường khắc phục. Việc đó như thế nào đã có nhiều người bàn tới. Riêng với tôi, trước đây cũng đã có vài lần bàn đến. Lần này bài viết đã khá dài, xin hẹn vào dịp khác.

Cán bộ cướp đồ tiêu hủy, sự khốn cùng của nhân cách

Cán bộ cướp đồ tiêu hủy, sự khốn cùng của nhân cách

Phạm Trung Tuyến 

(Dân Việt) Tại buổi tiêu hủy công khai hàng hóa giả mạo nhãn hiệu thương mại do Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) phối hợp với Công an TP.Hà Nội tổ chức, hàng chục người, gồm quan khách, cán bộ cơ quan chức năng và nhà báo đã lao vào chia nhau toàn bộ số hàng hóa đang chờ tiêu hủy. Sự việc đáng xấu hổ xảy ra ngày 21.10.

  •   *   *   *

Họ đã lao vào tranh cướp nhau, hỉ hả chia nhau chính những thứ của cải phi pháp mà họ có chức năng, nhiệm vụ loại trừ khỏi cuộc sống văn minh. Họ không phải một đám đông vô danh tính. Họ là những người có vị trí nhất định trong xã hội, là quan khách đến chứng kiến việc tiêu hủy hàng giả, là cán bộ có trách nhiệm đấu tranh với hàng giả, là nhà báo đến phản ánh, đưa tin nhằm truyền thông giáo dục công chúng nói không với hàng giả. Nhưng, họ tranh nhau số hàng giả đó, thay vì tiêu hủy.

can bo cuop do tieu huy, su khon cung cua nhan cach hinh anh 1

Nhiều người tranh vào nhặt đồ trong buổi tiêu hủy tang vật vi phạm hành chính về sở hữu công nghiệp (ảnh cắt từ clip). Nguồn: TP

MẸ LÀ SAO BIỂN

MẸ LÀ SAO BIỂN

   me-la-sao-bien

Cuộc đời này được sánh ví như đại dương bao la.  Mỗi ngày sống là một ngày vượt trùng khơi, vật lộn với sóng cả ba đào để tới bến bờ.  Có những hành trình êm ả thuận lợi, nhưng cũng có những hành trình vất vả gian nan.  Trong hành trình vượt đại dương cuộc đời, người tín hữu Công giáo có Đức Mẹ là “Đấng chỉ bảo đàng lành”.  Như ngôi sao sáng dẫn chỉ lối giữa đại dương bao la, Mẹ Maria cũng được tôn vinh là “Ngôi Sao Biển – Maris Stella”.

Ai đã từng vượt biển mới cảm nghiệm nỗi kinh hoàng khi đại dương rùng mình dậy sóng.  Khi chuẩn bị bước sang thế kỷ 21, một số nhà nghiên cứu đã tổng hợp các sự kiện đáng ghi nhớ của dân tộc Việt Nam.  Biến cố vài trăm ngàn người Việt bỏ lại đàng sau quê hương xứ sở, vượt biển ra nước ngoài được coi như một sự kiện “vô tiền khoáng hậu” trong lịch sử dân tộc Việt Nam của thế kỷ 20.  Người vượt biển phải đối diện với biết bao nguy hiểm, lằn ranh giữa sự sống và cái chết rất mong manh.  Không ai thống kê được con số người đã bỏ mạng trên biển, vì đói khát, vì bão tố phong ba và vì hải tặc.  Nhiều người may mắn thoát chết đã bị ám ảnh suốt đời vì những gian nan đã trải qua.  Trong hành trình vượt biển này, có nhiều người đã được ơn lạ của Đức Mẹ.  Người viết bài này có dịp tiếp xúc với một số người quen biết hiện sinh sống tại Hoa Kỳ, nghe họ kể về những trường hợp lâm nguy, trên những con thuyền mong manh như chiếc lá giữa đại dương.  Trong giờ phút nguy khốn ấy, họ đã kêu cầu Đức Mẹ.  Trong số đó có những anh chị em ngoài Công giáo.  Có người hứa với Đức Mẹ, nếu thoát mạng, sẽ xin nhập Đạo.  Sau này, khi đến đất nước thứ ba, họ đã giữ lời hứa ấy và trong số đó có người đã làm linh mục.  Họ là chứng từ sống động về tình thương Thiên Chúa và về lời cầu bầu hiền mẫu của Đức Mẹ.  Đức Trinh nữ Maria quả thực đã là ngôi sao biển dẫn đưa những người có niềm cậy trông về bến an toàn.

Khi tôn vinh Đức Mẹ là ngôi Sao Biển, chúng ta thể hiện lòng cậy trông của chúng ta đối với Đức Mẹ.  Bên chân thập giá, Chúa Giêsu đã trối Đức Mẹ cho thánh Gioan, đồng thời Người cũng trao phó Thánh Gioan cho Đức Mẹ.  Cử chỉ ấy muốn nói lên rằng, trong đời sống của người môn đệ Chúa Giêsu, từ nay có Đức Mẹ đồng hành.  Thánh Gioan ghi chú thêm: “Kể từ giờ đó, người môn đệ đón Đức Mẹ về nhà mình” (Ga 19,27).  Hội đồng Giám mục Việt Nam, trong Thư Chung công bố đầu tháng 10-2016 vừa qua, cũng mời gọi các tín hữu Việt Nam hãy “đón Mẹ về nhà” và yêu mến Đức Mẹ với trọn tình con thảo.  Quả thật, có Đức Mẹ hiện diện, chắc chắn đời chúng ta không còn cô đơn.  Trên hành trình vượt biển cuộc đời, Đức Mẹ hiện diện ở đó để hướng dẫn chúng ta biết sống sao cho đẹp lòng Chúa.  Nhờ Đức Mẹ chỉ bảo, con thuyền cuộc đời của chúng ta biết “bát, cạy”, tức là biết lái sang bên phải hoặc bên trái, với mục đích đem lại cho chúng ta hạnh phúc niềm vui trong cuộc sống và ân sủng từ trời.

Trong buổi lễ kết thúc kỳ họp thứ ba của Công đồng Vatican II vào ngày 21-11-1964, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã chính thức tuyên bố Đức Maria là Mẹ Giáo Hội.  Sau khi tuyên bố Đức Maria là một “thành viên trổi vượt”, là “kiểu mẫu” và “gương sáng” của Giáo Hội, Công đồng viết: “Giáo hội Công giáo, được Chúa Thánh Thần chỉ dạy, dâng lên Người tình con thảo, như đối với người Mẹ rất đáng mến yêu” (LG 53).  Mẹ là Mẹ của Giáo Hội lữ hành đang vượt biển trần gian.  Giáo Hội vẫn được trình bày như con thuyền căng buồm lướt sóng ra khơi, giữa biết bao sóng cả ba đào.  Cờ hiệu của con thuyền Giáo Hội là cây thập giá, dấu chỉ của chiến thắng và hy vọng.  Trên con thuyền Giáo Hội, có Mẹ ở đó, hiện diện âm thầm, để dõi theo từng bước đi của Giáo Hội, như Mẹ đã âm thầm dõi theo từng bước đường truyền giảng Tin Mừng của Đức Giêsu, Con của Mẹ.  Hình ảnh Đức Mẹ hiện diện giữa các tông đồ, chìm sâu trong lời cầu nguyện, được Thánh Luca kể lại trong sách Công vụ Tông đồ, cho thấy, Giáo Hội của Đức Giêsu không cô đơn, vì có Đức Mẹ đồng hành (x.  Cv 1,12-14).  Lịch sử Giáo Hội đã chứng minh điều ấy.  Trên thế giới, có nhiều địa điểm được Đức Mẹ thăm viếng, và nhanh chóng trở thành những linh địa, những điểm hành hương nổi tiếng.  Tuy vậy, người tín hữu luôn tin rằng, dù không được đến những địa điểm hành hương nơi Đức Mẹ đã hiện ra, ở bất cứ nơi nào, nếu họ tin tưởng phó thác và kêu cầu sự bảo trợ của Đức Trinh nữ, thì Đức Mẹ vẫn hiện diện trong cuộc đời của họ.  Đó là sự hiện diện thân thương mà đầy quyền năng, đem lại cho tâm hồn người tín hữu ấm áp và an bình.

Một câu chuyện rất cảm động kể về lòng can đảm của một phụ nữ xóm chài: Trong lúc mọi ngư dân đang đánh cá ngoài khơi, thì bỗng một cơn bão lớn nổi lên.  Chiều đã tới và màn đêm buông xuống mà bão tố vẫn chưa tan.  Những người phụ nữ và trẻ em đều nóng lòng sốt ruột ngóng trông ra biển, vì hầu hết những người đàn ông và thanh niên trai tráng đều ở ngoài khơi, và giờ đây họ đang chống chọi với bão tố để tìm đường về.  Bà con làng chài đốt những bó đuốc lớn với hy vọng những người thân ngoài khơi nhận ra hướng đất liền để trở về.  Một người phụ nữ nhanh trí đã phóng lửa đốt cả ngôi nhà mình, mong tạo lên mội khối lửa khổng lồ, vượt xuyên màn đêm tối.  Nhờ khối lửa khổng lồ này, những ngư dân đã trở về đất liền an toàn.  Người phụ nữ đã hy sinh tất cả, với ước nguyện cứu sống những người thân.

Hình ảnh người phụ nữ xóm chài gợi lại cho chúng ta người mẹ đứng dưới chân thập giá trên đồi Canvê năm xưa, đó là Đức Trinh nữ Maria.  Mẹ đã hy sinh tất cả, đã âm thầm cầu nguyện trong đau đớn, để cùng với Con của mình dâng hy tế cứu độ trần gian.  Nhờ cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, nhân loại được hưởng niềm vui và hạnh phúc.  Đức Giêsu là tất cả của Mẹ.  Người là sự sống, là niềm vui, là niềm an ủi, là trọn niềm yêu thương.  Đức Maria đã can đảm hiến dâng người con ấy, để cho trần gian được cứu rỗi.

Ý thức được mình đang được ngôi Sao Biển có tên là Maria hướng dẫn, chúng ta không sợ lạc đường, nhưng an tâm bước đi trong cuộc sống mỗi ngày.  Như người lữ hành vượt trùng khơi, chúng ta phải luôn ngước mắt nhìn ánh sao biển để nhận biết phương hướng cho cuộc hành trình.  Cũng vậy, tôn vinh Đức Mẹ là Sao Biển không phải là một khẩu hiệu rỗng tuếch, nhưng đó phải là tâm tình yêu mến cậy trông.  Ngày hôm nay, Mẹ vẫn đang hiện diện giữa chúng ta để dặn dò chúng ta như Mẹ đã dặn dò những người giúp việc trong tiệc cưới ở Cana: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo!” (Ga 2,5).  Đúng vậy, khi chuyên tâm thực thi ý Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ tìm được hướng đi cho đời mình.  Đức Mẹ soi sáng cho chúng ta hiểu Lời Chúa, như Mẹ đã chiêm niệm, suy tư và ghi nhớ Lời Chúa trong lòng.

Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, trong Thông điệp “Chúng ta được cứu rỗi trong hy vọng – Spe Salvi” đã tôn vinh Đức Mẹ với tước hiệu “Ngôi Sao Hy Vọng”.  Ngài viết: “Còn ai hơn được Mẹ Maria, là ngôi sao của hy vọng cho chúng ta? Khi Mẹ “Xin Vâng” Mẹ đã mở cửa thế giới của chúng ta cho chính Thiên Chúa; Mẹ trở nên Hòm Bia Thiên Chúa sống động, trong đó Thiên Chúa nhập thể, trở nên một con người như chúng ta, và dựng lều ở giữa chúng ta (x.  Ga 1,14)” (Số 49).

Hành trình vượt biển là một hành trình dài, đầy những sóng xô nghiệt ngã và thử thách gian nan.  Mẹ Maria là ngôi Sao Biển rạng ngời hướng dẫn chúng ta.  Có Mẹ đồng hành, chúng ta không còn sợ nguy biến.  Nghe Mẹ chỉ bảo, chúng ta sẽ cập bến.

  Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Tháng Mân Côi 2016

Báo Thanh Niên: bất lương và đê tiện.

From :   Phan Thị Hồng with Hoang Le Thanh and 9 others.

Báo Thanh Niên: bất lương và đê tiện.

Nguyễn Công Khế cố ra sức bào chữa cho báo Thanh Niên. Khế không đủ dũng cảm để nêu tên các tổ chức hèn hạ, bỉ ổi đã thực hiện sự việc dối trá và ác độc này.

Hãy nghe lời biện hộ của Khế.

– “Nước mắm truyền thống nó có sức hấp dẫn với bất cứ người Việt Nam nào.

– “Song đến giờ này, nó lại bị nhóm lợi ích nào đó kết hợp với một Hội gọi là bảo vệ Tiêu dùng và một nhóm truyền thông (chủ yếu là báo Thanh Niên [*]) bất chính bố ráp tiêu diệt.

– “Nó muốn tiêu diệt cả một món ăn quốc hồn quốc túy của bao đời người Việt Nam luôn nâng niu giữ gìn và làm cho nó quốc tế hóa đến nổi đi đến ở đâu, châu Âu, châu Mỹ, châu Úc, người ta đều có nước mắm Việt trong siêu thị.

– “Đó là sự nhẫn tâm không tưởng tượng được.

– “Sự cố ở báo Thanh Niên là một nỗi buồn lớn của tôi”.

Nguyễn Công Khế.
[*]: Chú thích của người đăng bài.

Xin giới thiệu bài viết của Bạch Hoàn.

Chiêu bài đánh nước mắm truyền thống của Masan và Báo Thanh niên

FB Bạch Hoàn
24-10-2016

Hiện đã xuất hiện luận điệu Tập đoàn Masan, chủ nhãn hiệu nước mắm công nghiệp Nam Ngư và Chinsu, bị tấn công trước nên mới buộc phải tự vệ. Sau đây là những cứ liệu cho thấy Masan không hề bị đánh, mà hoàn toàn chủ động tiêu diệt nước mắm truyền thông, với sự tiếp tay của báo Thanh niên.

* Ngày 10-10, báo Thanh Niên dành 2/3 đất trang bìa cho bài viết “Nước + hoá chất = Nước mắm công nghiệp”. Nếu chỉ đọc title, nhiều người lầm tưởng bài báo đánh Masan. Nhưng, nếu đọc nội dung lại hoá ra Thanh Niên khen sản phẩm của tập đoàn này. Đồng thời, đây là bài đánh nước mắm truyền thống ở góc độ kinh tế tiêu dùng.

Các chiêu PR được sử dụng trong bài viết này gồm:

– Chiêu tác động vào tâm lý của người đọc: Bài báo dẫn ra rất nhiều ý kiến hoàn toàn tin tưởng vào nước mắm Nam Ngư từ người nội trợ.

– Chiêu dìm chất lượng nước mắm truyền thống để gián tiếp khen ngợi chất lượng nước mắm công nghiệp. Ví dụ, khi nói về chất lượng Chinsu, báo Thanh Niên dẫn lời một bà nội trợ (không thể xác tin danh tính nhân vật): “Riết rồi quen vị, trong nhà lại không thích dùng nước mắm truyền thống mặn chát nữa”. Hoặc, họ chê nước mắm truyền thống nặng mùi, khó nêm nếm…

– Chiêu so sánh giá: Nước mắm Nam Ngư chỉ 43.000 đồng/lít, trong khi nước mắm Hạnh Phúc giá tới 200.000 đồng/lít.

Bài báo có đề cập đến thành phần “tinh cốt cá cơm” trong nước mắm Nam Ngư không nêu rõ tỉ lệ, tuy nhiên Thanh Niên không chỉ ra tỉ lệ bao nhiêu. Cũng chính Thanh Niên nói đến việc sử dụng 17 loại hoá chất nhưng đã khẳng định đều là hoá chất được phép sử dụng để tạo độ ngon cho nước mắm. Đây giống lời giải thích cho Masan.

Vậy đó có phải bài đánh Masan không? Hãy hỏi trưởng ban Kinh tế báo Thanh Niên.

Sau bài báo này, báo Thanh Niên đăng loạt bài đánh nước mắm truyền thống trên trang nội dung (thời sự). Một nguồn tin của tôi cho biết, báo Thanh Niên bắt tay với Masan từ trước ngày 10-10. Thực tế, diễn biến kịch bản truyền thông bất lương về nước mắm Asen cũng chỉ ra điều đó.

* Ngày 11-10, Báo Thanh Niên đăng bài ” Đi tìm nước mắm sạch”, chê công nghệ sản xuất nước mắm truyền thống là thủ công!?

* Ngày 12-10, báo Thanh niên đăng bài “Cẩn trọng với hàm lượng thạch tín”. Bài báo này đê tiện, bỉ ổi hơn nhiều nếu so với cách công bố nước mắm truyền thống nhiễm Asen. Báo lấy 106 mẫu nước mắm đem kiểm nghiệm và công bố 80 mẫu nhiễm Asen vượt ngưỡng. Họ không nói đó là Asen hữu cơ hay vô cơ. Tất cả vẫn nhằm vào mắm truyền thống.

Các anh chị nào còn đang bênh vực Masan và báo Thanh Niên rằng, thì ngồi im tôi nói cho mà nghe.

Ngày 10-10, bài báo về nước mắm công nghiệp được đăng tải. Không thể vì bài này Masaj mới đánh lại nước mắm truyền thống, bởi 106 mẫu kiểm nghiệm thực hiện tại một công ty tư nhân mới thành lập không thể có kết quả để phóng viên viết bài vào ngày 11-10 (vì sáng sớm 12-10 bài đã lên trang).

Họ lấy mẫu ở 13 địa phương và kiểm nghiệm tất cả chỉ trong một ngày, thì đó chỉ có thề là kết quả tưởng tượng! Người nào ngớ ngẩn mới tin vào điều đó. Tôi đã từng đi kiểm nghiệm nước mắm truyền thống theo chỉ đạo của sếp, nhưng mất 10 ngày mới có kết quả. Tôi không viết bài vì kết quả cho thấy độ đạm và độ an toàn được đảm bảo.

Thực tế, việc tìm hiểu rồi thu thập mẫu được Thanh Niên thực hiện từ đầu tháng 9-2016. Tôi không ngớ ngẩn đến mức tin rằng Masan đã “dự báo” trước, rằng mình bị đánh trên báo Thanh niên, để bắt tay chính tờ báo này, chuẩn bị tung đòn đánh mắm truyền thống trước cả tháng trời.

* Ngày 13-10, Thanh Niên đăng tiếp bài “Tiêu chuẩn nào cho nước mắm Việt”, đánh vào nước mắm độ đạm cao – nước mắm truyền thống.

* Ngày 20-10, Báo Thanh Niên quảng cáo cho Masan, nội dung Masan cam kết nước mắm Chinsu, Nam Ngư an toàn về Asen. Họ quảng cáo sau khi cả báo Thanh Niên và Hội bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam (Vinastas), công bố nước mắm truyền thống nhiễm Asen, lập lờ đánh lận con đen gây hoang mang cho người tiêu dùng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các nhà sản xuất nước mắm truyền thống.

Đến đây, các anh chị muốn biết một trang nội dung trên báo Thanh Niên bán bao nhiêu tiền, hãy hỏi lãnh đạo tờ báo này, chẳng hạn như tổng thư ký toà soạn của họ chẳng hạn.

FB Bạch Hoàn
(Còn tiếp…).

bao-thanh-nien

Quốc hội Việt Nam yên lặng về biển Đông

Quốc hội Việt Nam yên lặng về biển Đông

Kính Hòa, RFA

Tàu Hải quân Qiandaohu của Trung Quốc cập cảng Gdynia, Ba Lan, vào ngày 7 tháng 10 năm 2015.

Tàu Hải quân Qiandaohu của Trung Quốc cập cảng Gdynia, Ba Lan, vào ngày 7 tháng 10 năm 2015.

AFP photo

Vào ngày 20/10/2016, Quốc hội Khóa 14 của Việt Nam bắt đầu phiên họp thứ hai. Cho đến lúc này chưa thấy vấn đề Biển Đông được đề cập đến, mặc dù trước đó, báo chí Việt Nam có tường thuật tại những buổi tiếp xúc cử tri của các vị lãnh đạo đại biểu quốc hội nhiều ý kiến lo lắng về thái độ và hành động cứng rắn của Trung quốc trên biển Đông lâu nay.

Đảng và Quốc hội

Ông Nguyễn Vũ Bình, một cựu tù nhân chính trị, và từng làm việc biên tập cho Tạp chí cộng sản của đảng cộng sản Việt Nam cho rằng việc truyền thông nhà nước loan tải các ý kiến cứng rắn của cử tri đối với Trung Quốc là một sự cởi mở trong không khí truyền thông ở Việt Nam,

“Dạo này cũng có cở mở do truyền thông lề trái rất gay gắt. Thứ hai là cũng có xu hướng ở trong dân, và một phần nào đó trong hệ thống, không khuất phục hoàn toàn chuyện đi chơi với Trung quốc.”

Tại Quốc hội Việt Nam, cơ quan được cho là không có thực quyền như đảng cộng sản, cũng từng có những đại biểu phát biểu một cách thẳng thắn thái độ của bản thân trên diễn đàn Quốc hội đối với sự lấn lướt của Trung Quốc ở Biển Đông.

Nhưng những phát biểu như thế không thấy ở những kỳ họp đảng, hay những quan chức đại diện đảng khi thực hiện những chuyến viếng thăm Trung Quốc.

Ông Trần Quốc Thuận, nguyên chánh văn phòng Quốc hội Việt Nam cho biết:

“Ở Việt Nam thì chỉ có một đảng lãnh đạo. Và đảng lãnh đạo thì thống nhất, trực tiếp và toàn diện. Cho nên về nguyên tắc thì những phát biểu đó phải thống nhất về nội dung, ý tưởng bên trong, còn sự thể hiện thì tùy ở mỗi con người, mỗi vai vế, phát biểu nó có thể khác nhau.

Ở đảng thì nói có thể khác quốc hội một chút, lực lượng vũ trang cũng có thể khác. Nhưng mục tiêu vẫn là giữ vững độc lập dân tộc, không lệ thuộc một nước nào. Cái độc lập đó, kể cả vùng biển đảo thì Việt Nam cũng đã khẳng định rồi.”

Ông Nguyễn Vũ Bình cũng cho rằng thực ra các phát biểu của các lãnh đạo đảng, hay đại biểu quốc hội, cũng là đảng viên, thực chất không khác nhau:

Nói năng và ứng xử có phần khác bên đảng thôi. Do môi trường nó như thế. Về mặt nói năng khá cởi mở hơn. Bởi vì anh tiếp xúc với dân thì ít nhiều anh cũng nghe phản ảnh của dân, tâm tư nguyện vọng của dân.

Rồi phải giao tiếp và trả lời, không thể cứng nhắc như bên đảng được. Cho nên nó bắt buộc là phải mềm dẻo phù hợp với môi trường đó. Chứ về bản chất không có gì khác nhau cả.”

Trưởng ban tuyên giáo sang Bắc Kinh

Ngày 20 tháng 10, ông Đinh Thế Huynh, Trưởng ban tuyên giáo Trung ương, cơ quan lo về lý luận của đảng cộng sản thăm Trung Quốc và có làm việc với ông Tập Cận Bình, người đứng đầu đảng cộng sản và nhà nước Trung Quốc.

000_HD434
Khu trục hạm có tên lửa dẫn đường USS Decatur của Mỹ tại vùng biển gần đảo Tri Tôn và Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa hôm 21/10/2016.AFP

Theo những bản tin của truyền thông Việt Nam loan tải thì ông Huynh có đề cập đến chuyện là Việt Nam đề nghị giải quyết chuyện Biển Đông bằng biện pháp hòa bình. Nhưng không thấy trích lời ông Tập Cận Bình về biển Đông.

Chuyến thăm Trung Quốc của ông Đinh Thế Huynh trùng với các phiên họp của quốc hội Việt Nam đang diễn ra tại Hà Nội.

Theo dõi các phiên hợp quốc hội này, ông Phạm Chí Dũng, một nhà báo độc lập tại Sài gòn nói rằng:

Kỳ này không khí phản ứng của quốc hội Việt Nam đối với Trung Quốc là rất yếu ớt. Rất yếu ớt so với cuối năm 2011, và rất yếu ớt với tháng năm tháng sáu năm 2014 khi mà có sự kiện giàn khoan 981 nổ ra ở biển Đông.”

Sau sự kiện giàn khoan 981, trong một phiên họp của Quốc hội, tướng Đỗ Bá Tỵ, lúc đó là thứ trưởng Bộ quốc phòng Việt Nam tuyên bố rất cứng rắn rằng âm mưu của Trung Quốc thực hiện thống trị Biển Đông với đường ranh giới 9 đoạn tự tuyên bố của họ, là không bao giờ thay đổi.

Trong buổi trao đổi với chúng tôi vào ngày 24 tháng 10, ông Trần Quốc Thuận nói rằng âm mưu của Trung Quốc đối với Việt Nam là câu chuyện đã kéo dài hàng ngàn năm nay, tuy nhiên chiến tranh không phải là điều hay.

Nhưng ông nói tiếp là cũng phải chuẩn bị chiến tranh để mong giữ được hòa bình.

Chính sách Biển Đông của Việt Nam?

Cuối tháng chín 2016, Tiến sĩ Nguyễn Quang A, một nhà hoạt động dân sự hiện sống ở Hà Nội có nói với chúng tôi rằng tình thế của Việt Nam rất khó khăn vì có một quốc gia láng giềng như Trung Quốc, và ông đánh giá cao chính sách ngoại giao đi giữa các cường quốc của Việt Nam. Ông nói thêm:

Có thể nói bất kỳ một lực lượng chính trị nào, lên nắm quyền ở Việt Nam thay cho chính quyền hiện tại, đều phải đối mắt với những vấn đề hết sức khó khăn đó.

Và nếu mình biết được mối quan hệ như thế, tình hình như thế, nhiều người cho rằng chính sách đối ngoại của Việt Nam là chính sách đu dây, chưa biết chừng chính sách ấy là chính sách khó thể bỏ qua được.”

Đánh giá về thái độ của Quốc hội Việt Nam hiện nay về hàng loạt vụ lấn át của Trung Quốc ở Biển Đông từ năm 2015 đến nay, ông Phạm Chí Dũng cho rằng có lẽ Việt Nam đang chờ xem thái độ của các cường quốc Mỹ và Trung Quốc ở Biển Đông.

Trong cuộc họp báo của Bộ ngoại giao Việt Nam vào ngày 24 tháng 10, bình luận về chuyến thực thi quyền tự do hàng hải của tàu chiến Mỹ ở khu vực quần đảo Hoàng Sa hôm 21 tháng 10, người phát ngôn bộ ngoại giao là ông Lê Hải Bình trả lời rằng Việt Nam có chủ quyền ở Hoàng sa và Trường sa, đồng thời ông mong rằng các cường quốc đến với biển Đông để duy trì hòa bình. Ông không nhắc gì đến Trung quốc cũng như Hoa Kỳ.

Đắk Nông: 3 cán bộ tham gia cưỡng chế đất bị bắn chết tại chỗ

Đắk Nông: 3 cán bộ tham gia cưỡng chế đất bị bắn chết tại chỗ

Khu vực xảy ra vụ nổ súng chết người. Ảnh: Báo Tuổi Trẻ

Bạn đọc Danlambao – Hàng trăm công an đã được huy động nhằm chốt chặn các ngả đường sau khi xảy ra vụ nổ súng khiến ít nhất 3 cán bộ bị chết và 15 người khác bị thương vào sáng ngày 23/10/2016, tại huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông.

Nguyên nhân vụ việc được nói là do mâu thuẫn trong tranh chấp đất đai giữa người dân địa phương và công ty trách nhiệm hữu hạn Long Sơn, thuộc xã Đắk Ngo, huyện Tuy Đức, Đắk Nông.
Báo Tuổi Trẻ dẫn lời ông Lê Văn Minh – bí thư xã Đắk Ngo cho hay: “Tôi nắm thông tin sơ bộ ban đầu, người của Công ty Long Sơn đã ủi vượt vào đất của người dân nên dẫn đến sự việc trên”
Trước đó, vào lúc 7:30’ sáng ngày 23/10/2016, công ty Long Sơn đã đưa máy móc vào khu vực đang tranh chấp nhằm tiến hành cưỡng chế, san ủi đất của người dân địa phương.
Căng thẳng đã xảy ra khi nhiều người dân kéo đến ngăn cản và phản đối việc cưỡng chiếm đất. Trong lúc xô xát, một nhóm khoảng 5 người lạ mặt bất ngờ rút súng hoa cải bắn xối xả vào lực lượng cưỡng chế.
Vụ nổ súng đã khiến ít nhất 3 cán bộ quản lý bảo vệ rừng thuộc công ty Long Sơn bị chết ngay tại chỗ. 15 người khác cũng được nói bị thương, trong đó có 3 người đang nguy kịch.
Các nghi phạm vụ nổ súng ngay sau đó đã nhanh chóng rút khỏi hiện trường.
Đại tá Lương Ngọc Lếp, phó giám đốc công an Đắk Nông cho biết đã huy động hàng trăm công an, cảnh sắt chốt chặn các ngả đường nhằm truy bắt 4 người bị tình nghi nổ súng.
Cũng theo ông Lếp, một người bị cơ quan công an cáo buộc là “có vai trò giúp sức”, 3 người còn lại tham gia vào vụ bắn chết người. Đây hầu hết là những di dân đến từ huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.
Từ nhiều năm qua, xã Đắk Ngô, huyện Tuy Đức, Đắk Nông  vốn là một điểm nóng về tranh chấp đất đai giữa người dân và công ty Long Sơn.
Khu vực xảy ra tranh chấp đa số là đất canh tác do người dân bỏ công sức khai phá, nhưng lại bị nhà cầm quyền địa phương cho là đất rừng và giao lại cho công ty Long Sơn 1000 ha để thực hiện dự án nông lâm kết hợp.
Trong lúc người dân đang khiếu kiện và chưa được giải quyết thì công ty Long Sơn tiến hành cưỡng chế, san ủi trên đất đang tranh chấp nên đã dẫn đến vụ nổ súng chết người như trên.

Nhân dịp ĐTC Phanxicô phong thánh Mẹ Têrêsa, ôn lại câu chuyện giữa Mẹ Thánh và Bà Hillary Clinton


Nhân dịp ĐTC Phanxicô phong thánh Mẹ Têrêsa, ôn lại câu chuyện giữa Mẹ Thánh và Bà Hillary Clinton

Đại Hội Đảng Dân Chủ (ĐDC) tổ chức tưng bừng tại Philadelphia vài tuần lễ trước đã đồng loạt quyết định chọn Bà Hillary Clinton làm ứng cử viên (UCV) chính thức của ĐDC ra tranh chức vụ Tổng Thống (TT) Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, đánh dấu một sự kiện chưa từng có trong lịch sử nước này, đó là có một phụ nữ ra tranh cử–và rất có thể–sẽ đắc cử vào chức vụ tối cao này. Bà Clinton là cựu Đệ Nhất Phu Nhân, cựu Nghị Sĩ Tiểu Bang New York, cựu ƯCV tranh chức TT cùng với đương kim TT Obama, và cựu Ngoại Trưởng. Bậc nữ lưu như thế dễ có mấy ai!

Chúa Nhật 4 tháng 9 năm 2016 sắp tới lại chính là ngày Đức Thánh Cha (ĐTC) Phanxicô ấn định cử hành đại lễ phong hiển thánh cho Mẹ Têrêsa Calcutta (xem tin trên trang VietCatholic ngày 8/8/2016). Đây là vị thánh của thời đương đại, tưởng chừng như không ai không biết đến, đó là chưa nói tới biết bao nhiêu người đã được nhìn thấy, chạm tay vào, hưởng nhận những giúp đỡ cụ thể từ chính bàn tay Mẹ, hoặc từ Hội Dòng Mẹ đã sáng lập, nơi con cái Mẹ nối bước tiếp nhận và xoa dịu những con người khốn khổ trong nhân loại hôm nay. Bậc nữ lưu như Mẹ tưởng cũng chẳng có ai!

Trước khi ôn lại câu chuyện giữa hai bậc nữ lưu nổi bật này, tưởng cũng nên biết rằng Hillary Clinton là người cầm chịch phong trào “phò chọn lựa” (pro-choice) nghĩa là chủ trương người phụ nữ có toàn quyền quyết định giữ lại hay phá bỏ thai nhi còn trong bụng mình. Lý do đơn giản là vì cái bào thai ấy—vốn chỉ là một cái bọc nhầy nhụa—không hề có một chút nhân quyền gì ráo trọi. Thành ra, sau khi “dính bầu,” người phụ nữ được hoàn toàn tự do quyết định về số phận cái bào thai ấy: nếu cho nó sống thì giữ nó lại, còn muốn cho nó chết thì đẩy nó ra. Nếu không đẩy được bằng cách này, thì cứ tự nhiên tìm cách khác–đừng đặt vấn đề về phương pháp hay kiêng dè vì độ non già của bào thai–miễn sao là tống khứ cái của nợ đó—có khác chi một thứ ung nhọt tai quái—ra khỏi cái cơ thể mà người phụ nữ hoàn toàn làm chủ là được. Đứa nào ngăn cản hay cấm đoán thì đã có pháp luật trừng trị. Phá thai hợp pháp cơ mà! Điều này đã được (các “Đấng) Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ công bố vào ngày 22 tháng 1 năm 1973 qua phán quyết ‘Roe vs. Wade.’

Trong khi đó, Mẹ Têrêsa–với tấm lòng khoan dung nhân hậu, giầu tình xót thương—đã nỗ lực tối đa để cứu các bào thai đó, trước khi các thai phụ thực hiện quyền tự quyết của mình. Đó là bối cảnh xẩy ra câu chuyện giữa hai người phụ nữ lừng danh.

Ngày 22 tháng 1 năm 1994, trong dịp gọi là “National Prayer Breakfast,” Mẹ Têrêsa được mời làm diễn giả chính. Ngay trước mặt TT Bill Clinton và Đệ Nhất Phu Nhân Hillary Clinton cùng quan khách, Mẹ Têrêsa dõng dạc vạch trần sự thối nát về mặt văn hóa nẩy sinh từ những tội ác chống lại các thai nhi. Mẹ Têrêsa nói như sau: “Tôi tin rằng thủ phạm tồi tệ nhất đang phá hoại nền hòa bình của ngày hôm nay chính là nạn phá thai, bởi vì đó chính là cuộc chiến tranh chống lại trẻ em, việc trực tiếp giết hại trẻ thơ vô tội, mà kẻ giết người lại chính là người mẹ của chúng. Nếu chúng ta đành tâm chấp nhận để cho người mẹ có thể ra tay sát hại con mình, thì làm thế nào chúng ta có thể nói cho người khác là đừng giết hại lẫn nhau? Làm cách nào chúng ta có thể thuyết phục một người phụ nữ đừng có phá thai? Lúc nào cũng thế, ta phải dùng tình yêu để thuyết phục họ, bởi vì tình yêu có nghĩa là sẵn sàng cho đi đến khi nào thấy nhói đau mới thôi. Quốc gia nào chấp nhận cho phá thai thì quốc gia ấy không hề dậy cho dân mình biết yêu thương, mà trái lại dậy cho họ cứ sử dụng bạo lực để đạt tới điều mình mong muốn. Đó là lý do tại sao thủ phạm tồi tệ nhất đang phá hoại tình yêu và nền hòa bình chính là nạn phá thai.”

Mẹ còn nói thêm: “Phá thai là chối bỏ giáo huấn của chính Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã dậy rằng ‘ai đón tiếp một em nhỏ, tức là đón tiếp chính Ta vậy.’ Rồi Mẹ kết luận: “Phá thai đúng là từ chối không tiếp nhận trẻ nhỏ, và do đó, cũng từ chối đón nhận chính Chúa Giêsu.”

Mẹ dừng lại giây lát để đón nhận những tràng pháo tay từ phía cử toạ đang nhất loạt đứng lên biểu tỏ lòng ngưỡng phục.

Chỉ có điều là cả Ông lẫn Bà Clinton đều không hề đứng lên và cũng chẳng hề vỗ tay.

Mẹ Têrêsa vẫn dõng dạc: “Tôi xin nói cho quý vị một điều đẹp đẽ. Chúng tôi chiến đấu chống nạn phá thai bằng việc tiếp nhận–tức là chăm sóc cho người mẹ và đón nhận thơ nhi…Xin đừng giết hại thơ nhi. Tôi muốn nhận thơ nhi. Hãy trao nó cho tôi. Tôi sẵn sàng đón nhận bất kỳ thơ nhi nào đang chờ bị phá bỏ để trao em cho một đôi vợ chồng đang sẵn lòng thương yêu trẻ thơ và được trẻ thơ yêu thương lại. Chỉ từ mái ấm tại Calcutta, chúng tôi đã cứu được hơn ba ngàn trẻ em khỏi bị phá bỏ. Các thơ nhi này đã đem lại tình yêu thương và niềm hân hoan vui sướng đến cho các cha mẹ nuôi của chúng. Chúng đã lớn lên đầy ắp yêu thương và hân hoan rạng rỡ.”

Tuy trong bụng không vui, nhưng Bà Clinton vẫn phải thốt lên: “Lời nói của Mẹ Têrêsa thật thẳng thắn, cho thấy rõ ràng Mẹ không cùng quan điểm với tôi.”

Nhưng cho dù nói năng thẳng thừng như thế, Mẹ vẫn cống hiến một điều gì đó mà Bà Clinton không thể chối từ, đó là đồng ý với Mẹ Têrêsa rằng việc tiếp nhận trẻ em chính là một chọn lựa khác, một chọn lựa tối hảo. Sau đó Mẹ Têrêsa đến gặp Bà Clinton để ngỏ ý xin thiết lập tại vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn một trung tâm tiếp nhận các trẻ thơ không ai muốn, các trẻ em côi cút và bị bỏ rơi. Mẹ đã nhờ Đệ Nhất Phu Nhân tiếp tay với Mẹ để làm việc này và mời Bà Clinton sang Ấn Độ để chứng kiến các công cuộc Mẹ làm tại xứ sở nghèo khổ này.

Cuộc vận động của Mẹ Têrêsa không hề vô ích. Sau khi về lại thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Bà Clinton đã khởi sự giúp Mẹ xây dựng “Trung Tâm Têrêsa Nuôi Dậy Trẻ Thơ” vào năm 1995 tại vùng ngoại ô Hoa Thịnh Đốn. Bà Clinton đã mời Mẹ Têrêsa đến khánh thành cơ sở này hai năm trước khi Mẹ qua đời. Thế là trước khi về trời, Mẹ Têrêsa đã tỏ cho người phụ nữ đầy quyền lực này nhìn thấy một nét gì đó thật đáng chú ý nơi con người nhỏ thó của một nữ tu khiêm hạ tầm thường, và cũng đã gây cảm hứng cho Bà Clinton thực hiện một công trình tốt đẹp, cho dù vẫn cương quyết chủ trương “phá thai an toàn và hợp pháp,” điều mà nhóm “Cha Mẹ Có Kế Hoạch” (Planned Parenthood) vẫn đang thực hiện hàng ngày.

Rất tiếc, “Trung Tâm Têrêsa Nuôi Dậy Trẻ Thơ”—vốn được tưng bừng khai trương thế nào không rõ—đã “âm thầm đóng cửa” vào năm 2002.

Tháng Chín tới, Mẹ Têrêsa sẽ được tôn phong lên bậc hiển thánh. Tháng 11 sắp đến, liệu Bà Clinton có làm nên lịch sử khi đắc cử chức vụ Nữ Tổng Thống đầu tiên của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ hay không? Điều này đang được nói đến hàng ngày, nhất là trên các phương tiện truyền thông xã hội. Chưa bao giờ có cuộc tranh cử nào kỳ quái đến thế, khi hai đối thủ chửi nhau ra rả, bới móc nhau một ngàn lẻ một chuyện, từ đời tư ra đến đời công, không trừ một ngõ ngách nào! Trong khi chờ đợi lịch sử sang trang, thôi thì ta cứ ôn lại bài học lịch sử giữa hai người phụ nữ lừng danh mà ta đang nói tới: Mẹ Têrêsa Calcutta và Bà Hillary Clinton, qua giai thoại nhỏ để kết thúc câu chuyện hôm nay:

“Trong một bữa ăn trưa được khoản đãi long trọng tại Toà Bạch Ốc, Đệ Nhất Phu Nhân Hillary Clinton hỏi nhỏ một thực khách cùng bàn: ‘Bà nghĩ sao khi mãi đến hôm nay chúng ta vẫn chưa có được một người phụ nữ lên làm tổng thống?’ Người phụ nữ nhỏ thó đồng bàn với Bà Clinton không chần chừ trả lời: ‘Có lẽ bởi vì người phụ nữ ấy đã bị bóp chết ngay từ lúc còn là bào thai.”

Đúng là câu trả lời của một vị thánh. Phải, người phụ nữ đồng bàn nhỏ thó ấy chính là Mẹ Têrêsa Calcutta.

Vọng Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời

08/14/2016

Nguyễn Kim Ngân

Xin đọc thêm: http:://crisismagazine.com/2016/marching-for-life-mother-teresa-and-mrs-clinton

HÀNH TRÌNH TÌM TỰ DO: TỪ SĨ QUAN QLVNCH ĐẾN THUYỀN NHÂN BI LÃNG QUÊN

HÀNH TRÌNH TÌM TỰ DO: TỪ SĨ QUAN QLVNCH ĐẾN THUYỀN NHÂN BI LÃNG QUÊN

VPY – Trong số 19 đồng bào tỵ nạn thuộc nhóm thuyền nhân cuối cùng bị bỏ quên ở Thái Lan đến vùng đất hứa hôm 23/09, có bà Lê Thị Ba, cựu nữ sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng Hòa.

ba-le-thi-ba

Năm 1974, đang học năm thứ 2 Luật khoa, bà Lê Thị Ba giã từ giảng đường đại học, tình nguyện gia nhập Quân đội. Tốt nghiệp trường Nữ Quân nhân, bà được gửi đi học khóa đào tạo huấn luyện viên tại trường Sĩ quan Trừ bị Long Thành.

 le-thi-ba
Nữ chuẩn úy Lê Thị Ba (thứ 7 hàng đầu từ trái sang) trong ngày lễ tốt nghiệp khóa sĩ quan nữ quân nhân.

Mãn khóa ngày 18 tháng 4 năm 1975, bà Lê Thị Ba được thuyên chuyển về trường Nữ Quân nhân đảm nhiệm chức vụ huấn luyện viên. Đúng 12 ngày sau, Sài Gòn sụp đổ. “Tôi buồn không thể nào nói được, chỉ biết khóc, ước mơ tan vỡ từ đây”, bà Lê Thị Ba hồi tưởng.

Đoạn đường chông gai bắt đầu sau ngày oan nghiệt 30 tháng Tư năm 1975. Để mưu sinh, bà Lê Thị Ba lặn lội suốt ngày ở chợ trời mua bán quần áo cũ hoặc bất cứ vật dụng nào. Sau một thời gian, bà chuyển sang mua bán cám từ Long An về Sài Gòn. “Sau đó, tôi mua bán dầu phọng, đường chảy. Khổ cực nhưng vẫn không yên. Mỗi khi có sự kiện nào xảy ra, tôi bị giam lỏng ở đồn Công an suốt ngày. Ngoài ra còn phải lao động xã hội chủ nghĩa, đào kinh, thủy lợi”, bà Lê Thị Ba nói.

Không thể sống trên quê hương, bà Lê Thị Ba bán các tài sản có giá trị của gia đình bỏ nước ra đi. Từ tỉnh Đồng Tháp (Sa Đéc và Kiến Phong trước 1975), điểm xuất phát của một hành trình nhiều gian nan, hiểm nguy, với ước mơ sẽ được sống trong Tự do, bà vượt biên sang Campuchia. Tạm trú ở quận ngoại ô Miengchay, khu vực cầu Sài Gòn (cầu Chba Om Pau), nơi có nhiều người Việt cư ngụ trong vài ngày, sau đó bà được đưa đến một địa điểm gần thành phố Kompong Som (Sihanoukville), và phải băng rừng để vào hải cảng này. Từ nơi đây, bà xuống tàu, đi một ngày một đêm đến tỉnh Trat, Thái Lan. Sau một tháng tạm trú tại Trat, Cao ủy Tỵ nạn Liên hiệp quốc chuyển bà Lê Thị Ba về trại tỵ nạn Phanat Nikhom vào ngày 26 tháng 11 năm 1989.

Để giảm bớt làn sóng người rời bỏ “thiên đường Cộng sản”, ngày 04 tháng 3 năm 1989, Cao ủy Tỵ nạn Liên hiệp quốc thi hành chính sách thanh lọc người tỵ nạn. Do tỷ lệ được công nhận là người tỵ nạn ở Thái Lan rất thấp, bà Lê Thị Ba bị từ chối cấp quy chế tỵ nạn và bị cưỡng bách hồi hương. Năm 1996, nhiều thuyền nhân bất hạnh bị xếp vào thành phần này, bị biệt giam, đã mổ bụng tự sát. Bà Lê Thị Ba uống thuốc tự vẫn, được đưa vào bệnh viện cứu cấp. Từ bệnh viện, bà trốn thoát ra ngoài, bắt đầu cuộc sống vô định, trở thành một người vô tổ quốc, lưu lạc ở Thái Lan và cương quyết không trở lại nơi bà đã ra đi.

“Lúc đó, khi trở thành người sống bất hợp pháp ở Thái Lan, tôi rất đau khổ. Tôi tự hỏi tại sao tôi phải như vầy và tôi sẽ ra sao. Tuy nhiên, tôi vẫn cố gắng sống dù không còn chút hy vọng về tương lai”, bà Lê Thị Ba nói thêm.

Hơn 20 năm qua, bà Lê Thị Ba cư ngụ ở một khu vực cách Bangkok 80 cây số và sinh sống với nghề may. Ròng rã trong hai thập niên, mỗi ngày lúc 3 giờ rưỡi sáng, từ nhà trọ, bà đi xe đạp đến ga xe lửa lên Bangkok làm “chui” và trở về nhà lúc 8 giờ tối. Trên đường đi làm, bà phải né tránh cảnh sát và xa lánh đám đông. Do chỉ nói được vài câu tiếng Thái thông dụng, trên xe lửa, bà phải giả vờ ngủ để không phải trả lời những hành khách hay bắt chuyện.

“Khi được tin Canada vì lý do nhân đạo, chấp nhận cho định cư, tôi vui mừng không thể diễn tả được thành lời. Tôi đếm từng ngày, mong cho đến ngày được khám sức khỏe, được cấp giấy xuất nhâp cảnh. Tôi và những người cùng đi Canada chuyến này vô cùng tri ơn vị mạnh thường quân ẩn danh đã đài thọ tiền vé máy bay và hai cô gái đã đóng tiền phạt cư trú bất hợp pháp cho chúng tôi để chúng tôi có thể rời khỏi Thái Lan”, bà Lê Thị Ba nói.

“Bây giờ đã đến được đất nước Tự do như đã ước mơ, và sẽ trở thành công dân thực thụ nhưng lo lắng đã bắt đầu hình thành dù tổ chức VOICE đã thu xếp nơi cư trú ổn định. Với hành trang đến xứ người chỉ là vài bộ quần áo cũ, tôi lo lắng đủ thứ: Ngôn ngữ bất đồng, làm thế nào để hội nhập xã hội mới khi tuổi trẻđã không còn. Nay chỉ ước mong sao có việc làm để có thể tự lập”

Tối thứ bảy 08/10 vừa qua, khi tham dự đêm Đại Dương do Hội Ái hữu Hải quân VNCH tổ chức, bà Lê Thị Ba cho biết bà vô cùng xúc động được nhìn thấy lại hình ảnh năm xưa qua bộ quân phục, bao nhiêu kỷ niệm hào hùng của những ngày tháng cũ chợt hiện về khi đứng nghiêm chào lá cờ Vàng ba sọc đỏ.

Đoạn đường trước mặt tất nhiên sẽ có nhiều khó khăn, nhưng với ý chí của một phụ nữ đã từng có thời chọn binh nghiệp là lý tưởng phục vụ tổ quốc, từng lưu lạc xứ người trong bao năm, chắc chắn bà Lê Thị Ba sẽ vượt qua.

VPY