Quân đội Zimbabwe bắt giữ vợ chồng TT Mugabe, kiểm soát thủ đô

 Quân đội Zimbabwe bắt giữ vợ chồng TT Mugabe, kiểm soát thủ đô

Hai vợ chồng Tổng Thống Mugabe của Zimbabwe. (Hình: AP)

HARARE, Zimbabwe (AP) – Quân đội Zimbabwe hôm Thứ Tư cho hay họ bắt giữ Tổng Thống Robert Mugabe, người cầm quyền đã 37 năm, và bà vợ của ông ta, đồng thời kiểm soát các cơ quan chính phủ, tuần tiễu đường phố thủ đô tiếp theo một đêm có các biến động. Quân đội đã chiếm giữ đài phát thanh và truyền hình.

Các hoạt động quân sự đêm Thứ Ba khiến nhiều người cho rằng có cuộc đảo chánh, tuy nhiên giới ủng hộ quân đội cho hay đây chỉ là “cuộc chỉnh lý không đổ máu”. Tổng Thống Nam Phi cho hay có nói chuyện với ông Mugabe và ông này khỏe mạnh nhưng bị quản thúc tại gia. 

Đây là lần đầu tiên quốc gia ở vùng Nam lục địa Phi Châu này thấy quân đội chống lại ông Mugabe, năm nay 93 tuổi, nhà lãnh đạo cao niên nhất của thế giới và cũng là một trong những nhà độc tài tồn tại lâu nhất. Ông Mugabe cầm quyền từ khi Zimbabwe được hình thành vào năm 1980, từ quốc gia Rhodesia, do thành phần thiểu số da trắng cai trị trước đó.

Hành động của quân đội Zimbabwe diễn ra sau khi ông Mugabe giải nhiệm phó tổng thống nước này, để mở đường cho đệ nhất phu nhân Grace Mugabe lên nắm quyền. Tuy nhiên, bà Mugabe không được dân chúng Zimbabwe ưa thích, trong khi phó tổng thống bị giải nhiệm, ông Emmerson Mnangagwa, được sự ủng hộ của quân đội.

Hôm Thứ Tư người ta không rõ ông Mnangagwa ở đâu, dù rằng tuần qua ông rời khỏi nước sau khi cho hay có đe dọa đến tính mạng cá nhân và gia đình.

Các binh sĩ võ trang đi trên các thiết vận xa thấy đóng ở các ngã tư trọng yếu ở thủ đô Harare, trong khi người dân Zimbabwe sắp hàng dài trước ngân hàng để rút tiền, một điều thường thấy ở quốc gia trong cơn khủng hoảng tài chánh này.

Trong bài diễn văn phát đi sau khi quân đội chiếm quyền kiểm soát đài phát thanh và truyền hình, Thiếu Tướng Sibusiso Moyo vào lúc rạng sáng ngày Thứ Tư cho hay quân đội nhắm vào “thành phần tội phạm” quanh ông Mugabe và tìm cách tái lập an ninh trật tự.

Hai tòa đại sứ Mỹ và Anh ở Harare đều đóng cửa ngày Thứ Tư và kêu gọi kiều dân của mình ở yên trong nhà vì tình hình bất ổn lúc này. (V.Giang)

Những nhà văn bị cầm tù

Kính Hòa RFA
2017-11-15
 
Blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh tại phiên tòa sơ thẩm ở Nha Trang, 6/2017.

Blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh tại phiên tòa sơ thẩm ở Nha Trang, 6/2017.

AFP
 

Ngày 30 tháng 10, năm 2017, Tổ chức Văn bút quốc tế có trụ sở tại Thụy sĩ gửi một bức thư đến Chủ tịch nước Việt Nam, ông Trần Đại Quang, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, và Ngoại trưởng Phạm Bình Minh yêu cầu Chính phủ Việt Nam trả tự do cho blogger Mẹ Nấm, cũng như những người cầm bút bị bắt giam vì thể hiện quan điểm của mình một cách hòa bình qua ngòi bút.

Nhân sự kiện này, chúng tôi xin điểm lại sơ lược câu chuyện những người cầm bút Việt Nam bị bỏ tù từ năm 1956 đến nay.

Bắt đầu là Nhân văn Giai phẩm….

Việc đàn áp những người cầm bút diễn ra chỉ hai năm sau khi những người cộng sản lên cầm quyền ở miền Bắc Việt Nam vào năm 1954. Vào năm 1956, một phong trào văn học nghệ thuật bùng lên tại Hà Nội mang tên Nhân văn Giai phẩm, do những văn nghệ sĩ nổi tiếng nhất Việt Nam thời ấy chủ trương, với hai tờ Giai phẩm và Nhân văn, đòi hỏi tự do chính trị, tự do sáng tác, không phải chịu sự giám sát của Đảng Cộng sản cầm quyền.

Chỉ đến cuối năm 1956, hai tờ báo này đã bị đình bản, các văn nghệ sĩ bắt đầu bị đàn áp bằng nhiều hình thức khác nhau, như là phải đi lao động ở vùng rừng núi, bị gạt ra khỏi việc cầm bút, hoặc bị cầm tù.

Theo tìm hiểu của nhà văn Song Nhị, hiện sống ở thành phố San Jose, Hoa Kỳ, thì có bảy người bị cầm tù, đó là các nhà văn, nhà thơ Hoàng Cầm, Hữu Loan, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Thụy An, và Phùng Cung. Có những người trong nhóm này bị đến 15 năm tù và nhiều năm quản chế sau đó. Tất cả những người vừa nêu đều đã mất.

Lý do được đảng cầm quyền đưa ra để bỏ tù những người này là họ có tư tưởng chính trị thù địch phản động chống lại giai cấp công nông của Đảng Cộng sản.

Sang đến những năm 1960, lại xảy ra một vụ án gọi là xét lại chống đảng, trong đó có một số nhà văn bị liên lụy. Một trong số đó là nhà văn Bùi Ngọc Tấn bị án 5 năm tù giam vào năm 1968.

Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, hiện sống ở Hải Phòng, nói về việc này:

Khi đã tách ra khỏi sự quản lý của Hội nhà văn Việt Nam, chính quyền Cộng sản Việt Nam, thì tác phẩm của họ phải có vấn đề, phải biểu thị sự tách ra đấy, mà nếu biểu thị sự tách ra của mình thì sự an nguy của họ bị ảnh hưởng.
-Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa.

“Nhà văn Bùi Ngọc Tấn là một cây bút có tài, và ông ấy đã trải qua một quảng đời cực kỳ khó khăn, với năm năm tù đày, do cái tư tưởng của ông ấy, trong cái thời điểm mà Liên Xô và Trung Quốc đang tranh giành ảnh hưởng đối với Việt Nam đang đu giây. Khi tư tưởng thân Trung Quốc chiếm ưu thế ở ban lãnh đạo, thì nhà văn Bùi Ngọc Tấn đi tù, tù không có án, mà ở Việt Nam gọi là án cao su, hết năm năm.”

Trong những năm 1960 này thế giới cộng sản bắt đầu bị phân liệt thành hai nhóm, do Liên Xô và Trung Quốc đứng đầu và cạnh tranh với nhau rất quyết liệt, đỉnh điểm là cuộc chiến tranh biên giới Trung Xô nổ ra vào năm 1969.

Sau khi ra tù, ông Bùi Ngọc Tấn đã viết tác phẩm Truyện kể năm 2000 vào năm 1990. Ông nói với đài RFA về tác phẩm này trong một lần trao đổi trước khi mất vào năm 2014:

Câu chuyện nó báo hiệu cái tình trạng mất dân chủ, tình trạng đàn áp, tình trạng bất công với những người lương thiện kiểu như tôi. Quyển đó nó chỉ nói một cái tiền đề về tình trạng mất dân chủ, tình trạng ức hiếp quần chúng hoặc ở dạng này dạng khác.

Quyển sách của ông được nhà xuất bản Thanh Niên trong nước cho in, nhưng sau đó bị thu hồi ngay lập tức.

Năm 1986 Đảng Cộng sản Việt Nam tuyên bố cải cách kinh tế, chấp nhận nền kinh tế thị trường. Một số nhà văn bắt đầu cảm thấy được tự do sáng tác hơn với một số tác phẩm mang tính phê bình chế độ chính trị xã hội, không theo định hướng của đảng. Nổi tiếng nhất trong giai đoạn này là nhà văn Dương Thu Hương với các tác phẩm như Những thiên đường mù, Bên kia bờ ảo vọng,…

Tuy nhiên sự kềm chế các nhà văn lại trở lại ngay sau đó, bà Dương Thu Hương bị cầm tù trong một giai đoạn ngắn vào năm 1991. Sau khi được trả tự do, bà sống như một người tị nạn chính trị tại Pháp.

Trải qua suốt hai thời kỳ vừa nêu, có một nhà thơ bị bỏ tù rất lâu là ông Nguyễn Chí Thiện. Ông bị bỏ tù vào năm 1961 vì tội “phản tuyên truyền”. Ông bị giam giữ làm nhiều lần với tổng cộng thời gian ở tù là 27 năm. Ông sang Mỹ định cư vào năm 1995. Ông Nguyễn Chí Thiện có tập thơ nổi tiếng Hoa Địa ngục, mô tả cảnh sống trong xã hội cộng sản.

….. và hiện nay

Năm 1995 có một nhà văn nữa bị bỏ tù là Tiến sĩ Hà Sĩ Phu. Ông bị án tù một năm với tội danh làm tiết lộ bí mật nhà nước khi ông trao đổi với một số bạn bè, lá thư của cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi cho Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng theo ông lý do làm ông bị bắt là ông đã viết hai bài tiểu luận trước đó là Dẫn tay nhau đi dưới tấm bảng chỉ đường, và Chia tay ý thức hệ, với những chỉ trích phê bình lý thuyết cộng sản.

Ông kể lại với chúng tôi cuộc hỏi cung sau khi ông bị bắt:

Sau khi hỏi lăng nhăng thì họ xoáy vào chuyện tôi viết bài Chia tay ý thức hệ. Thế chứ, họ quan tâm, và bắt tôi là vì tôi viết bài Chia tay ý thức hệ.”

Năm 2008, một nhà văn nữa bị cầm tù với tội danh tuyên truyền chống nhà nước, là nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa tại Hải Phòng. Ông Nguyễn Xuân Nghĩa có một tiểu thuyết và một truyện ngắn viết trước khi bị bắt, trong đó truyện ngắn nói về cuộc sống cơ cực của những người thợ Việt Nam đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan. Cả hai tác phẩm này đều không được xuất bản. Ông nói với chúng tôi:

Tôi không bị cầm tù vì hai tác phẩm, vì họ không xuất bản, nên không ghi tội tôi vào đấy, nhưng họ qui tội tuyên truyền chống nhà nước ở những bài chính luận, những bài thơ, những bài văn xuôi tả cảnh nghèo khổ, bất công của xã hội.”

Ông Nguyễn Xuân Nghĩa được trả tự do vào năm 2014. Đến tháng 10 năm 2017, ông lại bị thẩm vấn về thời gian ngắn ông gia nhập một tổ chức chính trị có tên là Hội Anh Em Dân chủ, chủ trương cạnh tranh chính trị hòa bình với Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trong thời gian vài năm trở lại đây, trong số những người cầm bút bị bỏ tù, số lượng những blogger chính trị tăng dần lên như các ông Phạm Viết Đào, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Ngọc Già, Hồ Hải,… bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh,…. Theo tổ chức Phóng viên không biên giới, nội trong năm nay 2017, Việt Nam đã bắt và trục xuất ít nhất 15 blogger, đa số các trường hợp họ bị gán cho tội danh tuyên truyền chống nhà nước theo điều luật số 88 của Bộ Luật hình sự Việt Nam, mà các tổ chức nhân quyền cho là có nội dung không rõ ràng nhằm trấn áp những người chỉ nêu lên chính kiến của mình một cách hòa bình.

Bên cạnh đó một số nhà văn lại lên tiếng tách khỏi Hội nhà văn, tổ chức quản lý các nhà văn của Đảng Cộng sản, và Nhà nước Việt Nam, và những người này đã thành lập một tổ chức gọi là Văn đoàn độc lập vào tháng Ba năm 2014 với số thành viên ban đầu là 62 người.

Tuy nhiên theo nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, cho đến nay chưa có công trình nào đáng kể do những người thuộc Văn đoàn độc lập này tạo ra, lý do theo ông là sự đe dọa bị bỏ tù vẫn còn treo lơ lửng:

Khi đã tách ra khỏi sự quản lý của Hội nhà văn Việt Nam, chính quyền Cộng sản Việt Nam, thì tác phẩm của họ phải có vấn đề, phải biểu thị sự tách ra đấy, mà nếu biểu thị sự tách ra của mình thì sự an nguy của họ bị ảnh hưởng. Cũng có thể là họ sẽ bị qui tội tuyên truyền chống nhà nước, mà đối với một nhà văn mà bị truy tố tội đó, bị cầm tù, thì là một điều người ta kiêng kỵ.”

Công việc xuất bản và phát hành sách hiện nay của Việt Nam vẫn thuộc quyền quản lý của nhà nước do cơ quan tuyên giáo của Đảng chịu trách nhiệm. Việc xuất bản sách trên mạng, hay in không chính thức cũng được tiến hành, nhưng theo ông Nguyễn Xuân Nghĩa những người viết sách không có đủ tài lực để theo đuổi chuyện đó dài lâu.

Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa có cái nhìn khá bi quan về sáng tác văn học của Việt Nam hiện nay, đó là các nhà văn không còn muốn viết nữa.

Hai người Khách Trọ

 Hai người Khách Trọ

Hai vợ chồng người Do Thái tỵ nạn –  Cách họ cảm ơn nước Mỹ

Hai ông bà Peter and Joan , sống ở Seattle , Hoa Kỳ đã qua đời , để lại di chúc nhờ luật sư chuyển toàn bộ gia tài của mình là $847,215.57 cho chính phủ Hoa Kỳ . Hai ông bà không có con cháu , và thân nhân gần cũng không có ai vì họ là những người Do Thái bị Đức Quốc Xã giết hại . Hầu hết thân nhân của họ đã chết trong các trại tập trung của Hitler từ mấy chục năm trước .

Hai ông bà không để lại gia tài cho các hội từ thiện mà để lại cho chính phủ Hoa Kỳ , vì theo di chúc , họ muốn cám ơn chính phủ Hoa Kỳ đã mở rộng vòng tay đón họ và giúp đỡ họ có cuộc sống mới từ trại tập trung kinh hoàng của Đức Quốc Xã .

Ông Peter Petrasek sanh năm 1920 tại nước cộng hòa Czech . Khi quân đội Đức xâm lược nước này thì ông mới 12 tuổi .. Chị của ông chết vì trúng đạn pháo kích , cha của ông bị bắt vào trại tập trung và bị giết tại đây , mẹ của ông thì bị lưu lạc mất tích . Ông còn sống sót là nhờ có sức khỏe và thể hình tốt , nên được chọn chuyển vào trại Thiếu nhi để phục vụ cho quân đội Đức ..

Khi quân đội Mỹ của phe Đồng Minh giải phóng khu trai tập trung đó , ông được nhận vào quy chế tỵ nạn của Mỹ và được đưa sang Mỹ , được 1 gia đình người Mỹ nhận nuôi . Ông không trở về quê hương vì sau khi Phát xít Đức thua cuộc thì đất nước của ông lại bị Liên Xô chiếm đóng và trở thành nước Czech cộng sản .

Bà Joan , vợ ông , cũng là người Do Thái , đến từ Ái Nhĩ Lan . Hai người gặp nhau và làm đám cưới ở Canada , sau đó bà theo ông về Mỹ và sống ở Seatle cho đến ngày mất . Ông Peter làm thợ cơ khí cho hãng Bethlehem Steel suốt mấy chục năm và bà Joan làm nghề thợ may .

Khi bà Joan bị ung thư năm 1998 , biết không qua khỏi , 2 vợ chồng bàn đến việc để lại gia tài cho ai . Hai ông bà đã đồng ý và viết di chúc giống hệt nhau , trong đó nói họ rất cám ơn nước Mỹ đã cho họ cơ hội sống 1 cuộc sống bình an và tự do , 1 cuộc sống không chiến tranh , không lo nghĩ và được đối xử bình đẳng và tôn trọng như mọi người Mỹ khác , là những điều mà họ biết họ không có được nếu sống trong 1 quốc gia độc tài như Phát xít hay Cộng sản , và họ muốn biểu lộ lòng biết ơn đó bằng cách để lại toàn bộ gia tài chắt chiu cả đời cho chính phủ Mỹ .

Sau khi ông Peter mất , đại diện của Tòa Bạch Ốc  đã được mời đến văn phòng luật sư của hai ông bà để nhận tấm ngân phiếu và đã chuyển nó vào ngân khố quốc gia của nước Mỹ . 

MUỐN SINH LỢI PHẢI DÁM LIỀU

MUỐN SINH LỢI PHẢI DÁM LIỀU

“Ông chủ đi vắng…”

Dụ ngôn những nén vàng là dụ ngôn cuối cùng trong ba dụ ngôn được thánh Mátthêu gom lại để nói lên chủ đề “Thời cuối cùng.”  Trong câu chuyện này, ai là ông chủ sắp đi xa, nếu không phải là chính Đức Giêsu? Trước đây một khoảng thời gian ngắn, chính Người đã tuyên bố: “Ít lâu nữa, anh em sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ thấy Thầy.” (Ga 16,16).  Người sẽ ra đi để được Chúa Cha tôn vinh cách công khai và long trọng, Người cũng sẽ trở lại để tính sổ.  Vì vậy, Tin Mừng Mát-thêu đã nối kết câu chuyện xét xử tên gia nhân bất tài với cuộc phán xét chung (Mt 25,31-46).

Ngoài ra, trình thuật hôm nay được đặt trong bối cảnh Đức Giêsu sắp tiến vào Giêrusalem và chịu khổ nạn.  Con Người sắp ra đi và trao phó vương quốc lại cho những người được tín nhiệm.  Các ông có nhiệm vụ làm cho vương quốc ấy được tiến triển.

“Một người kia sắp đi xa, liền gọi gia nhân đến mà giao phó của cải mình cho họ.”

Trước hết, tất cả các gia nhân đều được trao một số nào đó, không ai trắng tay, không có vốn ban đầu.  Tuy vậy, mỗi người nhận được số vàng không như nhau.  Sau này, khi trở về, ông chủ tính sổ với mỗi người theo tình trạng không đồng đều này: ông không đòi người nhận hai nén phải trả lại năm nén.  Ông đòi mỗi người theo mức độ ông đã giao, và chỉ chừng đó thôi.

Thời gian của lịch sử nhân loại, đó là thời gian “ông chủ đi vắng”: mỗi người bị đặt trước thử thách, như gia nhân được ông chủ trao phó những trách nhiệm lớn lao.  Quả thế, đời sống của con người qua đi trong lúc dường như Thiên Chúa vắng mặt hay rút lui để cho các thụ tạo có thể phát huy sáng kiến của mình.  Điều này cho thấy Thiên Chúa rất tin tưởng và tôn trọng con người.

Với các môn đệ của Đức Giêsu, nén vàng chính là “Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ…, dạy họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em…” (Mt 28,19.20).  Ngay từ lúc ấy, các môn đệ của Đức Giêsu, đặc biệt là ông Phêrô, được tung vào một thử thách ghê gớm: cuộc đối đầu với các vị lãnh đạo cao nhất về tôn giáo của đất nước.  Ông sẽ mạnh mẽ lên tiếng làm chứng: “Anh em đã giết chết Đấng khơi nguổn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người chỗi dậy từ cõi chết.” (Cv 3,15).  Chẳng có ai ban sức mạnh cho ông, ngoại trừ Thánh Thần của Thiên Chúa.  Tất cả đã được trao cho các môn đệ, cho ông Phêrô.

Ít lâu sau, một cuộc khủng hoảng xảy ra: Có nên từ bỏ Giu-đa giáo không?  Câu trả lời không dễ dàng và cũng không có ngay được.  Dường như chính Đức Giêsu đã không giới hạn sứ vụ của Người nơi đoàn chiên Israel.  Cuối cùng, Hội Thánh đã can đảm tiến lên phía trước: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định…” (Cv 15,28).

Tiếp đó là cuộc đụng đầu với bộ máy cầm quyền ở Rô-ma, rồi với cuộc xâm lăng của dân man-di, việc tiếp xúc với những nền văn minh xa lạ.  Mỗi lần lại là những vấn đề mới.

Nhìn chung chỉ khi nào vượt lên khỏi sự sợ hãi, lúc ấy Hội Thánh mới ý thức được rằng Tin Mừng không phải là một kho tàng để cất giữ, nhưng là một hạt giống cần được gieo xuống, một vườn nho phải sinh hoa trái, một nắm men phải dậy lên, một cuộc phiêu lưu cần mạo hiểm, một số vốn phải sinh lời, và cuối cùng, một trách nhiệm phải chu toàn cho đến ngày ông chủ trở về.

Như thế, ông chủ đi vắng, nhưng ông đã tin tưởng vào các gia nhân.  Ông đã trao toàn bộ tài sản của ông cho họ.  Bổn phận của họ là làm lợi thêm để khi ông trở về, ông sẽ tính sổ và ban thưởng.

“… nhưng ông sẽ trở về”

Ông chủ ra đi khá lâu và cuộc thử thách vẫn kéo dài.  Người ta có cảm tưởng rằng ông không trở về, hay là ông đã chết rồi.  Nhưng không, ông sẽ trở về, vào giờ phút không ngờ.  Không ai biết được lúc nào ông chủ trở về.  Chính vì vậy, Đức Giêsu khuyên các môn đệ luôn phải sẵn sàng, phải tỉnh thức trong khi chờ đợi.

Rồi đến lúc ông chủ trở về và đòi các gia nhân tính sổ.  Những người đã sử dụng vốn liếng ông đã trao để sinh lợi, ông ban tặng phần thưởng xứng đáng.  Riêng với người đem cất kỹ nén vàng ông đã trao, ông xử phạt.  Tại sao thế?  Anh đã không sinh lợi thêm, nhưng ít ra vẫn bảo toàn nén vàng, không suy suyển, mất mát.

Thật ra, anh ta không phải là người bất lương; không sinh lợi thêm không có nghĩa là ăn cắp.  Vậy, anh không làm điều bất công, không lỗi đức công bằng, tại sao anh lại bị quở trách và bị xử phạt?

Ông chủ quở trách anh, không phải vì anh đã phạm tội làm trái lẽ công bằng, nhưng tại vì anh đã cư xử trái ngược với sự tín nhiệm ông đặt nơi anh.  Thái độ đáng bị khiển trách của anh, không phải là không làm lợi thêm cho ông chủ, nhưng chính là không dám làm.  Lý do anh đưa ra để bào chữa cho thái độ của mình: anh sợ ông chủ “là một người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi.”  Anh đã tính toán và nghĩ rằng tốt hơn cả là không nên liều.  Anh đã nghĩ sai về ông chủ, anh đã hồ nghi.  Tội của anh là ở chỗ đó.

Và ông chủ đối xử với anh như anh đã nghĩ về ông.  Anh sợ ông, anh nghi ngờ ông, anh nghĩ ông là người hà khắc; vậy ông xử với anh như anh nghĩ.  Ông đã quở trách anh là bất tài, là vô dụng, thu lại nén vàng đã giao và hơn nữa, còn giam anh vào nơi tối tăm.

Như thế, khi ông chủ tính sổ, thái độ tin tưởng hay hồ nghi sẽ là mức độ để ban thưởng hay xử phạt. Anh gia nhân được giao một nén chỉ nghĩ đến sự hà khắc của ông chủ, nên anh bị phạt, còn những người khác lại nghĩ đến lòng đại lượng của ông chủ, và họ đã sống theo đó, nên được ban thưởng.  Càng tính toán kỹ, người ta lại trở về tay trắng, còn khi tin tưởng, người ta được tràn trề, vượt quá lòng mong ước.

Đây là một thử thách lớn với con người, kể từ thời A-đam. Người ta vẫn có thói quen coi Thiên Chúa như một vị bạo chúa hơn là một người cha đầy tình yêu thương, Đấng đã thiết lập “giao ước” với con người, sau khi họ phạm tội.  Đây cũng là ý nghĩ của những người biệt phái và kinh sư: họ nghĩ rằng chỉ có họ là người công chính, còn người khác thì không.  Họ chẳng yêu mến gì Thiên Chúa, nhưng chỉ vì muốn an toàn và thu lợi về cho mình.  Vì vậy, đương nhiên họ cũng hiểu Đức Giêsu muốn ám chỉ họ khi kể dụ ngôn này.

Như vậy, chắc chắn ông chủ sẽ trở về.  Ông sẽ ban thưởng cho người yêu mến ông, sống xứng đáng với lòng tín nhiệm của ông, ai sống ngược lại, sẽ bị xử phạt.

Mỗi người có vị trí riêng

Một cách gián tiếp, dụ ngôn này đặt nền cho sự tự do của chúng ta.  Nhờ bí tích thanh tẩy, mỗi người đã đón nhận những nén vàng, và phải sinh lợi thêm.  Mỗi người đều có trách nhiệm phát huy sáng kiến để làm tăng thêm những nén vàng.  Tự do cũng đồng nghĩa với dám liều.  Thiên Chúa không muốn chúng ta sống như những người nô lệ, nhưng là như những người tự do, tức là biết quyết định về đời sống hiện tại cũng như tương lai của mình.

Trong thời gian chờ đợi ngày Chúa trở lại, mỗi người chúng ta sẽ sử dụng, điều hành mọi sự không phải như là tài sản của riêng mình, nhưng là của Đấng Sáng Tạo.  Việc sử dụng tốt nhất chính là cộng tác tích cực vào việc xây dựng Nước Thiên Chúa.  Chúng ta sẽ không phân bì, tính toán mình nhận được nhiều hay ít, nhưng hiểu rằng mỗi người có những nén vàng, có vai trò và trách nhiệm riêng của mình.  Thiên Chúa tín nhiệm mỗi cá nhân và giao cho mỗi cá nhân một vị trí đặc biệt, có thể nói mạnh rằng, không ai giống ai.  Điều cần thiết là mỗi người phải hoàn thành “vai trò lịch sử” của mình; bởi vì, vào ngày Chúa trở lại, Người đòi mỗi người phải tính sổ, phải trả lời về những nén vàng mình đã nhận.

Để được như thế, chắc chắn chúng ta phải vượt ra khỏi ý nghĩ cho rằng Thiên Chúa là người hà khắc, trái lại phải sống với Người như với một người cha đầy tình âu yếm.  Thái độ này sẽ khơi dậy lòng tin để dám thoát ra khỏi sự an toàn cá nhân, kể cả việc tỉ mỉ tuân giữ Lề Luật, và vươn tới tinh thần tự do, tinh thần của những người dám đưa ra sáng kiến và đảm nhận trách nhiệm của mình.

Thiên Chúa vắng mặt,

nhưng Người đã tín nhiệm chúng ta,

Người mong muốn chúng ta tỉnh thức

và đảm nhận tương lai của mình.

Chúng ta không có quyền coi thường hay hồ nghi sự tín nhiệm đó,

không có quyền ngủ yên trong hiện tại,

nhưng nhận ra đó là một vinh dự

để nỗ lực hướng tới tương lai, đợi ngày Người trở lại và tính sổ.

 Lm. G Nguyễn Cao Luật, OP

From Langthangchieutim

Trương Minh Tuấn – ngu toàn tập!

From facebook:  Thuc Tran
Trương Minh Tuấn – ngu toàn tập!

Người Quan Sát (Danlambao) – Bộ trưởng Thông tin Truyền thông Trương Minh Tuấn vừa tuyên bố mặc dù Việt Nam đang có đến 363 trang mạng xã hội do “tổ chức trong nước” cung cấp nhưng người dân chủ yếu vẫn dùng Facebook và YouTube (*).

Trương Minh Tuấn cho biết hiện tại có khoảng 53 triệu người Việt trong nước sử dụng Facebook và 35 triệu người dùng YouTube. Cũng theo Trương Minh Tuấn thì lý do chừng đó người dùng 2 mạng xã hội trên vì đây là nơi “Các thông tin tiêu cực như xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ, kêu gọi kích động biểu tình, chống phá nhà nước… chủ yếu tồn tại trên các mạng xã hội nước ngoài, do nhận thức của người sử dụng cho rằng mạng xã hội là môi trường ảo nên có thể tự do phát ngôn mà không phải chịu trách nhiệm, gây ảnh hưởng đến tổ chức, cá nhân”.

Nói như vậy thì chẳng khác gì thú nhận có nhiều triệu người dân đã “xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ, kêu gọi kích động biểu tình, chống phá nhà nước”?

Để giải quyết tình trạng không kiểm soát và che giấu được thái độ của người đối với chế độ, Trương Minh Tuấn hô hào sẽ thúc đẩy mạng xã hội do doanh nghiệp trong nước cung cấp.

Nói cho đầy đủ và chính xác thì đó là những “tổ chức trong nước” do đảng và nhà nước cộng sản toàn quyền kiểm soát.

Trương Minh Tuấn nghĩ rằng khả năng công nghệ trong nước sẽ vượt trội hơn Facebook hoặc YouTube để người dân chọn lựa sản phẩm tốt hơn!? Và người dân sẽ chọn lựa những trang mạng xã hội do “tổ chức trong nước” cung cấp để không còn có thể tự do phát ngôn và chui vào vòng kiểm soát của Bộ 4T và tập đoàn côn an theo như lời Trương Minh Tuấn tuyên bố: “Bộ Thông tin Truyền thông cũng đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an để ngăn chặn, xử lý các trường hợp vi phạm ẩn danh tính…”

Câu trả lời đương nhiên là không. Cách giải quyết duy nhất của tà quyền là tống cổ Facebook, YouTube ra khỏi không gian Việt Nam hay tìm cách sửa luật lệ thông tin mạng để 2 công ty này buột phải rút khỏi Việt Nam vì không thể kinh doanh theo những luật rừng. Đó là điều mà đảng và nhà nước CSVN đang nhắm để tiếp tục thực hiện chính sách bịt mồm cả nước và ngu dân để trị.

16.11.2017

Người Quan Sát
danlambaovn.blogspot.com

Image may contain: 1 person, eyeglasses
 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Loa & Net

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Loa & Net

 tuongnangtien

Buồn tất cả.

Chỉ cái loa là vui!

Nguyễn Chí Thiện

Lịch sử cận đại của nước Việt vừa ghi nhận (thêm) hai lần … Nam Tiến nữa! Lần đầu – vào năm 1954 – gần một triệu người miền Bắc đã di cư vào Nam bằng tầu: tầu bay, tầu hoả, và tầu thủy … Họ mang theo nhiều thứ trông rất quen nhưng tên gọi thì hơi lạ: cái bàn là, cái bát, cái cốc, cái ô, cái môi, cái thìa …

Cuộc chung sống giữa cái bàn là với cái bàn ủi, cái bát với cái chén, cái cốc với cái ly, cái ô với cái dù, cái môi với cái vá, cái thìa với cái muỗm … tuy không toàn hảo nhưng (tương đối) thuận thảo và tốt đẹp. Từ thành thị đến nông thôn – trong mọi ngõ ngách – trẻ con miền Nam đồng lòng đổi lời bản “Khúc Nhạc Đồng Quê” (của Thúc Đăng) từ “Quê hương tôi gió chiều về trong nắng vàng” thành … “Quê hương tôi cái mùng mà kêu cái màn,”  với tiếng cười khúc khích.

1954 – 1975: tuy ngắn nhưng đủ khoảng cách để xoá nhoà mọi ngăn cách giữa cái mùng với cái màn. Rồi ra, ai cũng biết: cái mền và cái chăn là một, cái phong bì và với cái bao thư cũng vậy, cái bao diêm chính là cái hộp quẹt, cái hôn với cái hun cùng một nghĩa!

Đợt di cư thứ hai, khởi sự vào năm 1975, ồn ào và ồ ạt hơn trước. Những thứ được mang theo cũng rất khó coi, và gây ra rất nhiều phiền toái nơi vùng đất mới: nón cối, dép râu, tem phiếu, sổ gạo, sổ hộ khẩu, loa phóng thanh, tinh thần làm chủ tập thể, ảnh bác Hồ lộng kiếng …

Với thời gian, nón cối, dép râu, tem phiếu, sổ gạo, tinh thần làm chủ tập thể … đều lặng lẽ bị vứt vào sọt rác. Ảnh bác Hồ lộng kiếng, không ít kẻ, cũng liệng cống luôn. Tới tuần rồi thì cái sổ hộ khẩu cũng đã đi vào dĩ vãng khiến “hàng triệu người dân vỡ oà sung sướng” – theo như nguyên văn của báo Lao Động, số ra ngày 5 tháng 11 năm 2017:

“Nghị quyết số 112/NQ-CP ngày 30.10.2017 của Chính phủ về đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư, với việc xóa bỏ nhiều thủ tục liên quan đến hộ khẩu, đã làm hàng triệu người dân ‘vỡ òa’ sung sướng.”

Hồi đầu năm, dân Việt cũng đã trải qua một niềm vui (“vỡ oà”) tương tự, ngay sau khi báo Thanh Niên – số ra ngày 14 tháng 1 năm 2017 – hớn hở loan tin: “Loa phường đã hoàn thành vai trò lịch sử!” 

Ngoài việc tháo gỡ những chướng ngại vật đã gây ra đủ thứ rắc rối, khó khăn, nhũng nhiễu, phiền hà … cho dân chúng; Nhà Nước Cách Mạng còn đi rất xa trong tiến trình đổi mới. Báo chí tới tấp đi tin:

Hiệp Hội Doanh Nghiệp Điện Tử Việt Nam hân hoan cho biết: “Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý cho phép Bộ TT-TT thực hiện giai đoạn hai Dự án thí điểm nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập internet công cộng tại Việt Nam (BMGF-VN) tại 40 tỉnh, thành phố trên cả nước với tổng kinh phí hơn 50 triệu USD.”

Ủa, tiền ở đâu ra mà chính phủ (bỗng) hào phóng dữ vậy cà?

Tìm hiểu thêm chút xíu mới biết ra rằng BMGF là mấy chữ viết tắt của Bill & Melinda Gates Foundation của vợ chồng ông Bill Gates, có trụ sở tại Seattle, Washinton State. Theo trang Khoa Học Việt Nam : “Quỹ Bill & Melinda Gates viện trợ không hoàn lại 30 triệu USD, Microsof tài trợ 3,6 triệu USD (để mua máy tính) và số còn lại là vốn đối ứng của Việt Nam.”

Thảo nào mà quan chức, cũng như  báo giới VN, hào hứng và vui vẻ quá xá. “DỰ ÁN NÂNG CAO KHẢ NĂNG SỬ DỤNG MÁY TÍNH VÀ TRUY NHẬP INTERNET CÔNG CỘNG TẠI VIỆT NAM” được tán thưởng không tiếc lời: 

Được “vinh danh” nên các nhà báo công dân hiện diện khắp nơi. Ngay cả ở vùng xa, vùng sâu như xã Quảng Điền – huyện Krông Na, tỉnh Đắk Lắk – mà hình ảnh một ông công trưởng công an xã (đá tứ tung thúng mẹt rau cải, tôm cá … của bạn hàng) cũng được phổ biến khắp năm Châu, trong chớp mắt.

Trong một xã hội vốn khép kín mà bỗng dung mỗi công dân trở thành một phóng viên thì hệ lụy thật khó lường. Bung là cái chắc. Thông Tấn Xã Vỉa Hè thay thế ngay vai trò truyền thống của Thông Tấn Xã VN, và “từng bước đưa đất nước thoát khỏi cái vòng kim cô mang cái tên ‘định hướng’ trên lĩnh vực tư tưởng-truyền thông” – theo như nhận xét của nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh.

Bộ Thông Tin thất thủ. Truyền Thông vỡ trận. Chung qui cũng chỉ vì những con ngựa thành Troie, có tên gọi khác là máy vi tính, giữa lòng cách mạng!

Nhà văn Trần Đĩnh gọi internet là thằng … Thời Đại, và ông rất hả hê vì “luôn nhìn thấy Đảng loạng choạng lùi” trước cái “thằng” này. Nếu không vì nó thì mấy người dân Việt được nhìn thấy tận mắt phóng ảnh Công Hàm 1958, với chữ ký của Phạm Văn Đồng (hay Thư Xin Nhập Học Trường Thuộc Địa của sinh viên Nguyễn Tất Thành) và nói chắc cũng chả ai tin.

Buộc phải lùi thôi nhưng lùi hoài chắc chết, chết chắc. Phải làm một cái gì đó để cứu vãn tình thế, chứ không thể để tên tuổi của những vị lãnh đạo cấp cao (Quang GianTrọng Mặt DầyNgân Mặt ThớtPhúc Maze …) bị bôi bác mãi. Thế là Bộ Công An bèn trình Quốc Hội cái gọi là “Dự Án Luật An Ninh Mạng.”

 Bộ Trưởng Tô Lâm cho biết: “Dự thảo Luật An ninh mạng quy định các hành vi sử dụng không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội được quy định trong 7 điều. Cụ thể là: việc xử lý thông tin trên không gian mạng có nội dung kích động, gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối trật tự công cộng; làm nhục, vu khống; tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam …”

Dư luận, tất nhiên, dậy sóng:

  • Trương Huy San: “Luật chống lại loài người.”
  • Lê Văn Luân: “Luật pháp ban hành ngày càng tệ và có xu hướng đi ngược lại tiến trình phát triển văn minh của nhân loại.”
  • Người Buôn Gió: “Công cụ đàn áp mới – luật an ninh mạng.”
  • Trịnh Hữu Long: “Dự luật an ninh mạng: hàng Việt Nam made in China?”
  • Trương Duy Nhất: “Với gần 100 triệu công dân Việt, đó là bức tường giam hãm tự do tư tưởng, biểu đạt và giao tiếp.”
  • Nguyễn Thông: “Đó là thứ tư duy cộng sản man rợ.”
  • Nguyễn Ngọc Chu: “Chỉ có những chế độ độc tài vì muốn duy trì sự cai trị của mình, mới liều lĩnh khống chế thông tin.”
  • Trần Song Hào“Đảng muốn có chi bộ trong máy chủ!”
  • Nguyễn Sơn:“Việt Nam sẽ sắp sánh vai với… Bắc Hàn về mức độ tự do ngôn luận.”
  • Võ Văn Tạo: “Lại tiếp tục tư duy lỗi thời.”
  • Nguyễn Quang Lập: “Chỉ cần 1 năm vắng bóng Facebook và Google sẽ thấy đất nước này lạc hậu so với thế giới hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm.”                

Tất cả đều phẫn nộ hay buồn bực. Buồn tất cả. Chỉ cái loa là vui được tiếp tục vai trò lịch sử của mình. Với hệ thống loa phường thì an toàn là cái chắc. Không còn phải lo lắng đến sự phá hoại của những thế lực thù địch nước ngoài, và sự tự diễn biến/chuyển hoá của một bộ phận không nhỏ đảng viên nữa. Ban Tuyên Giáo lại độc quyền cầm loa nên chả việc gì phải “đối thoại” với bất cứ ai nữa.

Đất nước sẽ an bình và ổn định (Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc) như cũ, cứ y như là chưa bao giờ có chuyện gì đáng tiếc xẩy ra ráo trọi.

Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc dự đoán: “Ngày ấy sẽ không xa! Học viện KHXH sẽ đóng cửa; chủ nhân các biệt phủ sẽ ăn ngon ngủ yên; các quan anh sẽ tha hồ có bồ nhí; các trạm BOT sẽ có mặt khắp hang cùng hẽm cụt; lãnh đạo sẽ tha hồ cho trái đâm ra từ rễ cây; đày tớ sẽ thoải mái đá xô chậu, chặn xe đám cưới thu tiền …”

Từ trong hang đá chui ra
Vươn vai một cái rồi ta chui vào…
cho nó an toàn!

Trạm Cuối Cuộc Đời

 Trạm Cuối Cuộc Đời

Tác giả: Chú Chín Cali

Bài số 5267-19-31111-vb8111217

 Đây là một bài mới tác giả viết về tâm trạng của con cái khi phải đưa cha mẹ già vào nursing home. Tác Giả tham dự VVNM năm 2015, được giải danh dự trong năm đầu (2016) và giải “Vinh danh tác phẩm” ( Á khôi) năm 2017. Ông là một chuyên viên về hưu, đang định cư tại Orange County.

 ***
Sống ở Mỹ khá lâu nên tôi ít nhiều cũng bị ảnh hưởng tư tưởng của người Mỹ nên không có ý định nhờ vả con cái khi tuổi về chiều. Một ngày nào đó khi thấy mình không còn khả năng để tự lo cho mình được nữa tôi sẽ vào sống trong các “Boarding care” để có người chăm sóc, nếu tệ hơn sẽ được hưởng những phúc lợi dành cho người cao niên và được bảo vệ bởi hệ thống an ninh xã hội Mỹ. Ở Mỹ có “Nursing Home” được trang bị đầy đủ phương tiện, kỹ thuật và nhân sự chuyên môn để chăm sóc những người không còn khả năng tự lo cho mình, có “Hospice Service” chăm sóc vật chất lẫn tinh thần cho các bịnh nhân không thể sống hơn sáu tháng, giúp họ ra đi trong yên bình và giúp gia đình họ vượt qua giai đoạn khó khăn nhất.

Nhưng tư tưởng lạc quan nầy đã hoàn toàn thay đổi từ khi tôi thật sự đối diện với tử thần và nếm mùi bịnh viện sau khi trải qua một cơn bạo bịnh phải nhập viện trong 10 ngày. Tuy đã được thoát chết, vết thương mổ xẻ đã lành, nhưng những đau đớn về thể xác và vết thương tâm thần mà bịnh viện để lại vẫn còn hằn sâu trong ký ức không bao giờ lành. Từ đấy tôi bắt đầu thấy sợ bịnh viện, sợ luôn cả nursing home vì đây chẳng qua chỉ là một hình thức khác của bịnh viện, bịnh viện của người già.

Từ tâm trạng sợ hãi nầy tôi liên tưởng đến 4 năm hãi hùng mà nhạc mẫu tôi phải trải qua trong nursing home trước khi bà mất. Từ đấy những quảng cáo đẹp về nursing home với hình ảnh những cụ già vui chơi hạnh phúc được thay thế bằng những hình ảnh đau khổ của nhạc mẫu tôi và của những cụ già ngồi xe lăn ủ rủ, nghiêng ngả, cong queo, nhễu nhão, những gương mặt mếu máo, những ánh mắt vô thần.

Chúng tôi may mắn được sống chung với cha mẹ vợ vì bà xã tôi là con gái út. Lúc còn khỏe ông bà nhạc của tôi quán xuyến hết mọi chuyên trong nhà để vợ chồng tôi được rảnh tay lo chuyện ngoài xã hội. Hai con tôi gần gũi với ông bà ngoại nhiều hơn với cha mẹ chúng. Đi học về vừa đến cổng nhà là đã réo gọi ông bà ngoại. Tuy nuôi con nhưng thật ra tôi chưa biết thay tã hay cho con bú! Kể cã tiếng Việt chúng nói đều nhờ ông bà dạy từ ngày chúng bập bẹ tập nói.

Nhưng cuộc sống hanh phúc chấm dứt từ khi nhạc mẫu tôi ngã bịnh. Năm 78 tuổi, sau chuyến du lịch Việt Nam về, mẹ nằm suốt trong phòng, than mệt. Ngoài bịnh tiểu đường loại 2 mãn tính, mẹ thường xuyên bị nhiễm trùng đường tiểu, đau cột sống, ho kinh niên và sau đó khám phá ra bị ung thư phổi. Từ đấy bà ra vào bịnh viện như đi chợ. Thiếu bàn tay của mẹ, gia đình tôi rối loạn lung tung, con cái đi học trể, cơm nước thất thường, nhà cửa bề bộn. Vợ chồng tôi phải tập lại từ đầu cách quán xuyến gia đình, nuôi con, thêm nuôi mẹ già trong bịnh viện. Bố cũng yếu chỉ hụ hợ chuyện lấy thơ, đổ rác, đóng cổng là đã than mệt rồi.

Bác sĩ ung thư khuyến cáo không nên mổ xẻ hoặc trị liệu gì cho mẹ vì ung thư đã di căn đến não. Hơn nữa tuổi mẹ đã quá cao lại bị bịnh tiểu đường nên vết mổ không lành. Hãy để cho thiên nhiên quyết định vận mệnh của mẹ. Tôi dấu nhẹm lời bác sĩ bảo rằng mẹ chỉ sống tối đa là sáu tháng. Mẹ được cho về nhà với lời khuyên “thích ăn cái gì cho bà ăn cái nấy”. Nhưng “Còn nước còn tát” chúng tôi không chịu thua, chạy chửa bịnh cho mẹ bằng thuốc nam. Ai bày thuốc gì ở đâu tôi cũng tìm cho được. Khi lái xe mắt tôi cũng láo liên nhìn bên lề đường, dọc theo các hàng rào tìm cây cỏ “Dendelion” để hái lá cho mẹ ăn. Nghe nhà ai có cây nha đam  chúng tôi cũng tìm đến xin hay mua cho bằng được. Bã xã tôi cầu nguyện cho mẹ hàng ngày không xao lãng.

Như được một phép nhiệm mầu, bịnh ung thư của mẹ tôi thuyên giảm dần dần và sau mấy tháng khối u trong phổi tự nhiên biến mất. Bác sĩ gia đình rất vui bảo “đừng thắc mắc, hảy cứ tin là như vây đi”. Nhạc mẫu tôi thì tin là mình đã hết bịnh thật, còn vợ chồng tôi thì gần như kiệt lực, mong sau phép lạ sẽ kéo dài. Bịnh ung tư không thấy trở lại, nhưng bịnh đau cột sống làm mẹ đau đớn không ăn ngủ được nên sinh ra khó tính. Mẹ lại quên trước quên sau. Mẹ không còn kiểm soát được tiêu tiểu nữa nhưng nhất định không chịu mang tã. Bố cũng già mệt mõi, suốt ngày ngủ trong phòng. Ông bà lại không biết tiếng Mỹ, không dùng điện thoại, nên khi vợ chồng tôi đi làm lúc nào cũng phập phòng lo sợ.

Bác sĩ gia đình đề nghị nên cho mẹ vào nursing home để dễ bề chăm sóc. Vợ chồng tôi đồng ý ngay nhưng gặp sự phản khán quyết liệt của nhạc mẫu tôi. Suốt đời mẹ không bao giờ xa gia đình nửa bước nói chi chuyện cách ly vĩnh viễn! Đối với mẹ, mất gia đình là mất tất cã. Chúng tôi nể mẹ nên không dám nói chuyện nursing home nữa, chỉ sợ làm mẹ buồn ảnh hưỡng đến sức khỏe.

Nhưng sức khỏe của mẹ càng lúc càng tệ. Sau lần cấp cứu cuối cùng vì bị ngất xỉu, bác sĩ đề nghị phải đưa thẳng mẹ vào nursing home, vì theo ông, đó là cách tốt nhất để bác sĩ có thể theo dỏi bịnh tình và giữ an toàn cho mẹ.

Ngày đầu tiên vào nursing home không ai nỡ bỏ mẹ một mình nên quấn quít bên bà cho đến tối rồi cũng phải ra về. Đó là ngày đầu tiên trong cuộc đời mẹ phải sống lẻ loi một mình bên những người xa lạ. Tôi còn nhớ rỏ gương mặt thẫn thờ của mẹ nhìn theo con cháu đang bỏ bà mà đi. Tôi không dám nhìn mẹ lâu hơn vì tôi thấy mẹ khóc, một điều rất lạ đối với nhạc mẫu tôi vốn là người đàn bà can cường và cứng rắn. Bố thấy tội nhiệp đòi mỗi ngày chở bố vào nursing home để ông chăm sóc cho mẹ. Được mấy tuần rồi tôi cũng chịu thua vì chuyện đón đưa hàng ngày thật là bất tiện. Còn nếu để bố đi xe bus nếu có chuyện gì xảy ra thì ai lo cho bố đây!

Từ ngày Mẹ vào nursing home vợ chồng tôi thở phào nhẹ nhõm, không còn phải lo lắng như khi xưa khi bỏ mẹ ở nhà. Chúng tôi yên tâm là mẹ được theo dõi và chăm sóc 24/7.  Tan sở vợ chồng tôi chở bố vào thăm mẹ, thấy mẹ sạch sẽ thơm tho, giường nệm trắng tinh, kẻ qua người lại tấp nập vui vẻ lắm. Yên tâm chúng tôi dần dần xao lãng việc thăm viếng. Cả hai cháu cũng không còn đòi đi thăm ngọai nữa, nhiều khi phải bắt chúng mới chịu đi. Chúng không thích cái mùi trong nursing home.

Từ ngày sống trong nursing home mẹ hoàn toàn thay đổi, trở nên trầm lặng, ít nói,  khác hẳn với mẹ trước đó “quậy” tưng bừng trong bịnh viện. Mẹ chịu mang tã, nằm yên trên giường, không có ý kiến chuyện chung quanh, không đòi hỏi gì, không còn than phiền đau lưng nhức gối, hay càu nhàu vì thiếu ngủ, mất ăn như lúc ở nhà. Sau nầy mới biết bà đã được cho dùng thuốc an thần và thuốc đau nhức nồng độ cao nên lúc nào bà cũng ở trạng thái lờ đờ lim dim ngủ. Có lúc tỉnh táo, mẹ chỉ nhìn qua khung cửa sổ với đôi mắt vô thần. Hỏi mẹ có đau đớn gì không, mẹ lắc đầu. Hỏi có thích ăn uống đồ ăn Việt Nam không mẹ lắc đầu, tuy tôi biết là mẹ rất ghét đồ ăn Mỹ nhất là khẩu phần cho bịnh nhân tiểu đường và cao máu nhạt nhẽo không sao nuốt nỗi. Mẹ chịu đưng, sống âm thầm không một lời than thở.

Cho đến một hôm mẹ nắm tay nhà tôi, nước mắt rưng rưng mẹ van xin:

–  Mẹ muốn chết con à. Con xin người ta cho mẹ chết đi!

Bà xã tôi sững sờ, ôm mẹ năn nỉ:

–  Mẹ đừng nói kỳ vậy, phải ráng lên chớ, con biết phải làm sao bây giờ?

Rồi vợ tôi cũng khóc. Tôi chỉ đứng nhìn. “Chúng tôi biết phải làm sao bây giờ”?

Vợ chồng tôi đều nghĩ rằng đã tìm được giải pháp tốt nhất cho mẹ rồi. Mẹ thì đã “ráng” quá nhiều, ráng đến mõi mòn, đến kiêt quệ nên muốn bỏ cuộc. Đã bốn năm dài đăng đẵng mẹ sống nơi đây như cái xác không hồn.

Có lúc chúng tôi vào thăm mẹ vào giờ ăn trưa thấy mẹ ngồi gục đầu trên xe lăn như một em bé ngoan, mắt nhắm nghiền, đợị đến phiên mình há mồm được đút cho ăn. Mẹ không còn thiết tha gì nữa.

Những tháng cuối cùng mẹ nằm trên giường đưa mắt nhìn con cháu, không cử động hoặc nói năng gì. Hình như có điều gì u uẩn trong lòng mà mẹ không nói được hay mẹ có tâm sự gì nhưng muốn giấu kín trong lòng.

Một buổi sáng sớm, tôi nhận được cú điện thoại từ nursing home báo tin là mẹ chúng tôi đã mất đêm qua. Bà mất lúc nửa đêm nên không ai hay biết cho đến sáng ngày hôm sau. Bà âm thầm ra đi không một lời từ giả, không một giọt nước mắt tiển đưa. Chắc mẹ cô đơn lắm lúc trút hơi thở cuối cùng. Suốt đời mẹ lo cho chồng, cho con, cho cháu, ngày mẹ ra đi chỉ có một mình, trong cô đơn. Có ai biết rằng không phải mẹ chỉ cô đơn trong giây phút ra đi mà mẹ đã chết từ lâu rồi, kể từ ngày mẹ bước chân vào ngưởng cửa nursing home, một nhà tù không cần đóng cửa. Tôi chợt hiểu được tại sao mẹ đã khóc ngày đầu tiên đến nursing home. Ngày ấy mẹ chấp nhận bản ản tử hình không văn tự vì muốn hy sinh cho con cái. Ngày ấy Mẹ đã khóc lời vĩnh biệt các con cháu rồi.

Chúng tôi vội vã vào nursing home vừa kịp lúc nhìn mẹ lần cuối cùng trước khi người ta phủ kín mặt mẹ với tấm trải giường màu trắng rồi mang xác mẹ đi. Mọi người đứng nhìn theo chết đứng, ngỡ ngàng, đớn đau, nhưng không ai khóc thành lời. Chúng tôi đã biết là ngày nầy sẽ đến với mẹ, và hôm nay nó đã đến.

Cái chết của nhạc mẫu nhắc tôi nhớ lại chuyện cổ tích về chuyện người tiều phu đẩy xe chở mẹ vào rừng cho thú hoang ăn thịt vì bà đã quá già. Tôi có khác gì người tiều phu đó, đã đưa nhạc mẫu tôi vào nursing home để chết. Đến một ngày nào sẽ đến lượt con tôi chở tôi đi như vậy sao?

Tôi lại nhớ đến chuyện con voi già biết mình sắp chết, nó âm thầm đi vào cái “nghĩa địa voi” là cái hang động cho voi đến để chết. Nó âm thầm gục chết một mình bên cạnh những đống xương voi già đã chết trước nó. Tôi chợt nghĩ nếu con người làm được như con voi già thì con cháu không phải cực khổ vì cha mẹ già, không phải khổ tâm vì mặc cảm là đã làm một hành động bất nhân, bất hiếu, như tâm trạng hối hận của tôi bây giờ đối với nhạc mẫu của tôi.

Nursing home. Cái trạm cuối của cuộc đời mấy ai tránh khỏi!

Bạn đã chọn cho mình cách đến chưa?

Chú Chín Cali

Nếu hôm nay phải ra đi, liệu anh em đã sẵn sàng?

Nếu hôm nay phải ra đi, liệu anh em đã sẵn sàng?

#GNsP – Hôm Chúa nhật, ĐTC cổ võ mọi người đừng chờ đợi chiêm nghiệm sự sống, nhưng đau đáu câu hỏi: “Nếu hôm nay là ngày cuối còn hiện diện trên trần thế, liệu tôi đã sẵn sàng chưa?

 

Tôi có đang lãnh nhận ân sủng của Thiên Chúa không?

Vậy nên hãy sống khôn ngoan và thận trọng: đừng đợi thời khắc cuối cùng để lãnh nhận ân sủng của Thiên Chúa, nhưng hãy luôn sẵn sàng ngay từ hôm nay.

Điểm cốt lõi trong suy tư của ĐTC về việc chuẩn bị đón nhận Thiên Quốc là đoạn dụ ngôn về mười trinh nữ: năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại.

ĐTC nói rằng đoạn dụ ngôn đã “mách cho chúng ta điều kiện để được vào Thiên Quốc”, chúng ta nghe câu chuyện của năm cô khôn ngoan và thận trọng khi mang dầu lúc đợi chàng rể tới. Còn năm cô kia là những cô khờ dại khi không mang dầu. Vậy khi chàng rể đến, các cô khôn ngoan cùng chàng rể vào bữa tiệc và những cô khờ dại bị bỏ lại bên ngoài.

Chúa Giê-su dạy chúng ta điều gì qua dụ ngôn này?

Ngài dạy ta phải luôn sẵn sàng gặp Thiên Chúa, nghĩa là không chỉ tin mà còn phải thực sự sống đời Ki-tô hữu “trong yêu thương, bác ái với anh chị em ta”.

Trong đoạn dụ ngôn, dầu tượng trưng cho lòng bác ái, là ánh sáng cho đức tin của chúng ta, hãy thắp sáng nó và sinh hoa trái.

Mặt khác, nếu chúng ta sống đời chỉ xem mình là trung tâm và chỉ nghĩ đến lợi ích của cá nhân thì đời chúng ta đã xa cách và đức tin “nguội lạnh”.

Tuy nhiên nếu chúng ta thận trọng và cố gắng làm điều tốt qua cử chỉ yêu thương, chia sẻ và phục vụ anh chị em khó khăn của ta, thì ta đã luôn sẵn sàng khi đợi chàng rể đến.

“Mặc dù Thiên Chúa có thể đến vào bất kỳ lúc nào, ngay cả trong giấc ngủ ngàn thu cũng không thể khiến chúng ta sợ hãi vì chúng ta đã tích lũy đủ dầu qua những việc bác ái thường ngày”

Hãy nhìn lên Trinh nữ Maria, tấm gương bác ái sống động trong đức tin chúng ta, vì thế hãy để đèn được thắp sáng trên hành trình trần thế và mãi mãi sau này, tại bữa tiệc cưới trên thiên đường.”

Sau kinh Truyền Tin, ĐTC nói về Vicente Queralt Lloret và 20 bạn đồng hành và José María Fernández Sánchez và 38 bạn đồng hành sẽ được phong chân phước ở Madrid vào ngày 11 tháng 11. Một số là thành viên của Tu hội Truyền giáo: các linh mục, anh em và người tập tu. Và những người khác là thành viên Hội Đức Mẹ ban ơn. Họ đã tử đạo trong cuộc đàn áp tôn giáo thời kỳ Nội chiến Tây Ban Nha từ năm 1936 đến năm 1937.

Chúng con cảm tạ Thiên Chúa khi Ngài đã ban cho chúng con những chứng nhân tuyệt vời về Chúa Ki-tô và Tin Mừng.

ĐTC kết thúc buổi đọc kinh Truyền tin khi gặp các nhóm hành hương đến từ Washington, Philadelphia, Brooklyn và New York. Khi đó một nhóm đã đồng thanh hát lên, ĐTC liền dừng lại để lắng nghe. Sau đó ĐTC đã cảm ơn họ đã hát cho Ngài nghe và gọi mời mọi người cầu nguyện và chúc họ ăn trưa ngon miệng.

GNsP chuyển ngữ
Nguồn: https://www.catholicnewsagency.com/…/if-you-died-today-are-…

Phóng viên bị hạn chế đưa tin APEC tại Việt Nam

Phóng viên bị hạn chế đưa tin APEC tại Việt Nam

RFA
2017-11-15
 

Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump họp báo chung cùng Chủ tịch Trần Đại Quang ở Phủ Chủ tịch tại Hà Nội hôm 12/11/2017

Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump họp báo chung cùng Chủ tịch Trần Đại Quang ở Phủ Chủ tịch tại Hà Nội hôm 12/11/2017

 AFP
 

Tổ chức Phóng Viên Không Biên giới (RSF) hôm 14 tháng 11 ra thông cáo chỉ trích Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã bỏ rơi tự do báo chí trong chuyến công du châu Á từ ngày 4 đến 14/11 vừa qua.

Thông cáo viết từ việc không cho phóng viên tham dự một số sự kiện đến việc từ chối trả lời câu hỏi, Tổng thống Trump đang cho các lãnh đạo các nước Trung Quốc, Việt Nam và Philippines hàng ghế đầu đối với việc chối bỏ tự do báo chí.

Các phóng viên đã không được phép đưa câu hỏi trong cuộc họp báo chung giữa Tổng thống Trump và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình hôm 9/11. Thư ký báo chí của Nhà Trắng Sarah Huckabee Sanders sau đó nói lý do là vì Trung Quốc không muốn nhận câu hỏi.

Tại Thượng đỉnh APEC ở Đà Nẵng hôm 10 và 11/11, báo chí cũng bị hạn chế tham dự một số sự kiện quan trọng. Báo chí không được đưa tin về bữa tối APEC trong đó có sự tham gia của Tổng thống Trump và Tổng thống Nga Putin.

RSF gọi việc giới hạn báo chí đưa tin ở Việt Nam vốn là nước bị xếp hạng 175 trong số 180 nước theo báo cáo tự do báo chí thế giới 2017 của tổ chức này, là một điều hết sức lạ với cách Mỹ cho tự do báo chí.

RSF lên án chính phủ Việt Nam đã hình sự hóa có hệ thống tự do biểu đạt trong suốt năm qua bằng các biện pháp kiểm duyệt, giam giữ người trái phép và các tội khác. Theo tổ chức này đã có ít nhất 25 bloggers bị bắt giữ hoặc trục xuất khỏi Việt Nam trong năm qua.

Ông Daniel Bastard, phụ trách ban Châu Á Thái Bình Dương của RSF nói Tổng thống Trump đã trao cho những lãnh đạo độc tài trong khu vực một tấm séc khống.

QUA MỸ, MỸ QUA

From facebook:   Kim Tran shared Quan Nguyen Thanh‘s post.
 
Image may contain: one or more people and people standing
Quan Nguyen Thanh to Dân Saigon Xưa

 

QUA MỸ, MỸ QUA

Vậy là đen trắng rõ ràng rồi nha. Anh Trump đến rồi anh Trump đi. Anh Trump đi nhưng đã để lại một “thông điệp” rất rõ ràng. Là anh Trump chỉ lo cho nước Mỹ, cho dân Mỹ. Người VN đồng ý hay không đồng ý, khen hay chê, muốn chửi bới, muốn ỉa đái, muốn khạc nhổ, muốn đào mồ cuốc mả gì anh Trump cũng được, nhưng Trump đã “thể hiện” rõ ràng như vậy rồi thì từ nay đừng trông mong gì ở Mỹ nữa; mà hãy tự cứu mình.

Đừng chờ Mỹ qua; cũng đừng chờ qua Mỹ. Vì ngay cả “qua Mỹ” thì anh Trump cũng hạn chế không cho qua.

Nhưng như vậy không chừng là tốt. Vì người Việt sẽ thức tỉnh ra, không còn ngồi đó chờ nữa. Không còn ngồi đó chờ Trump hay vợ Trump cứu Nguyễn Ngọc Như Quỳnh nữa. Người Việt hãy mạnh dạn lên tiếng cứu những người Việt khác đang ở trong tù. Cứu Trần Huỳnh Duy Thức đang bị mù dần trong tù. Cứu Trần Thị Nga, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh v.v. đang bị hành hành hạ ngược đãi trong tù… Hãy góp tiếng nói khi thấy một số ít người khác lên tiếng. Không ai muốn giúp khi một nước có chín chục triệu dân, mà chỉ có vài ngàn người đi biểu tình chống Formosa, còn bao nhiêu đứng ngó, thậm chí còn có kẻ lên tiếng chửi bới, nhục mạ người biểu tình.

Nhưng thực sự có phải là không ai muốn giúp không? Tôi tin chắc rằng người Việt trong nước sẽ không bị bỏ rơi một khi họ đứng lên. Người Việt hải ngoại chắc chắn sẽ ủng hộ hết lòng. Thế giới chắc chắn sẽ ủng hộ, sẽ lên tiếng khi người Việt trong nước đồng loạt đứng lên. Dĩ nhiên, khi nói “hãy đứng lên bằng đôi chân của mình” thì không có nghĩa là mình không cần ai giúp đỡ. Từ cá nhân cho đến tập thể, từ một quốc gia cho đến thế giới, không ai có thể tự sống một mình mà không cần sự giúp đỡ của người khác hay của quốc gia khác. Nhưng nếu tự mình không dám hy sinh thì không ai hy sinh cho mình. Chân lý đó vĩnh viễn không bao giờ thay đổi.

“Đời khốn nạn” nhưng đời là vậy đó!…

–nguồn trang Facebook Ngo Du Trung 
=====

US President Donald J. Trump boards Air Force One before departing from Nội Bài International Airport, in Hà Nội, Vietnam 12 November 2017. Photo: Reuters

Robert Mugabe đã hủy hoại Zimbabwe như thế nào?

 

Robert Mugabe đã hủy hoại Zimbabwe như thế nào?

Print Friendly, PDF & Email

Nguồn: “How Robert Mugabe ruined Zimbabwe“, The Economist, 26/02/2017

Biên dịch: Lê Thị Hồng Loan | Biên tập: Lê Hồng Hiệp

Chủ nghĩa độc tài đơn thuần là không đủ cho Robert Mugabe; xây dựng chính sách ngông cuồng mới là điều quan trọng.

Vào năm 2016, khung cảnh thường thấy ở thủ đô của Zimbabwe là những công dân sợ hãi xếp hàng bên ngoài ngân hàng, chờ đợi đầy hy vọng để có thể rút tiền mặt. Đó là biểu hiện rõ ràng nhất của sự lo lắng về kế hoạch kinh tế mới nhất của Robert Mugabe. Trong tháng 11/2016, ngân hàng trung ương đã bắt đầu in một loại tiền mới, dưới hình thức “tiền trái phiếu”. Bề ngoài thì loại giấy bạc này có giá trị tương đương đồng đô la Mỹ, loại tiền tệ mà Zimbabwe đã sử dụng từ năm 2009 sau một đợt lạm phát ngoạn mục – nhưng không ai bị lừa. Đã có đủ điều kiện cho một thảm hoạ kinh tế nữa do Mugabe gây ra.

Zimbabwe đã từng có những nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, một ngành nông nghiệp phát triển bùng nổ và nguồn vốn con người dồi dào, nhưng trong suốt 37 năm qua, Mugabe đã làm phung phí gần như toàn bộ những nguồn lực đó. Gần một phần tư người dân Zimbabwe đang cần hỗ trợ lương thực và 72% trong số họ sống trong nghèo đói. Trong khoảng thời gian một thế hệ, Mugabe đã đảo lộn cả một quốc gia. Vậy ông ta đã làm Zimbabwe sụp đổ như thế nào?

Mugabe đã từng là một du kích quân Mác-xít. Ông lên nắm quyền vào năm 1980 sau khi đất nước này giành được độc lập từ Anh. Mugabe đã có một khởi đầu đầy hứa hẹn – kêu gọi hòa giải với người Zimbabwe da trắng, cải thiện việc tiếp cận giáo dục và chăm sóc sức khoẻ cho tất cả mọi người. Nhưng những chính sách ban đầu của ông ta bị làm lu mờ bởi những điều xảy ra tiếp theo. Để hỗ trợ chi phí cho nhiều kế hoạch khác nhau, Mugabe đã vung tay quá trán một cách điên cuồng – một thói quen mà ông đã tiếp tục trong suốt thời gian cầm quyền của mình. Và bởi ông nắm giữ quyền lực trong nhiều thập kỷ, sự cai trị của ông trở nên độc đoán, phi dân chủ và mang tính áp bức. Tất cả điều này đã gây ra những vấn nạn điển hình.

Tuy nhiên, cách thức mà Mugabe đã hủy hoại Zimbabwe là thông qua sự quản lý kinh tế hết sức yếu kém. Một bước ngoặt trong loạt những sai lầm của Mugabe là vào năm 2000, khi ông tiến hành cải cách ruộng đất “nhanh chóng” và khuyến khích việc tiếp quản một cách bạo lực các trang trại của người da trắng, khi đó vốn là xương sống của ngành nông nghiệp nước này. Phần lớn đất đai bị tịch thu được giao cho những nông dân da đen thiếu kinh nghiệm về hoạt động nông nghiệp hiện đại; nhiều người trong số họ được lựa chọn trên cơ sở mối quan hệ của họ với ông Mugabe và đảng của ông, Đảng Mặt trận Yêu nước Châu Phi Zimbabwe (Zanu-PF).

Các trang trại của Zimbabwe, cho đến lúc đó vẫn là điều ao ước của khu vực và là nguồn lực chính cho doanh thu xuất khẩu của nước này, bất ngờ trở nên sa sút – và đã khiến toàn bộ nền kinh tế bị sốc. Tình hình tài chính vốn đã căng thẳng, với việc ông Mugabe kéo Zimbabwe dính líu vào cuộc nội chiến ở Congo. Ngân hàng trung ương của ông bắt đầu in tiền nhanh hơn để trả nợ và bồi thường cho các cựu chiến binh, đối tượng được xem là một trụ cột quan trọng trong chính sách hỗ trợ của ông Mugabe, và để bù đắp cho mức giá cao hơn gây ra bởi sự thất bại của các trang trại.

Vòng xoáy ốc nhanh chóng vượt ra khỏi tầm kiểm soát. Tại một thời điểm trong năm 2008, lạm phát đạt tỷ lệ 231.000.000%. Đồng tiền này có các tờ giấy bạc với mệnh giá lên tới 100 nghìn tỷ đô la Zimbabwe – nhưng chỉ tương đương 40 xu Mỹ vào lúc nó bị sụp đổ. Siêu lạm phát kết thúc khi đồng đô la Zimbabwe bị loại bỏ hoàn toàn để được thay thế bởi một hệ thống đa tiền tệ trong đó đồng đô la Mỹ chiếm ưu thế. Trong một thời gian ngắn, các xung lực kinh tế mang tính hủy hoại của ông Mugabe đã bị kiềm chế bởi một thỏa thuận chia sẻ quyền lực với phe đối lập. Nhưng kể từ khi khôi phục quyền kiểm soát hoàn toàn vào năm 2013, ông đã trở lại với những thói quen cũ của mình.

Tuần cuối tháng 2/2017 vừa rồi, ông Mugabe đã tổ chức tiệc sinh nhật lần thứ 93 của mình. Ông nói rằng ông muốn giữ thêm một nhiệm kỳ năm năm khác trên cương vị tổng thống vào năm 2018. Ông cũng nói rằng “chỉ có Chúa biết” liệu có điều gì có thể ngăn cản ông. Trong khi Chúa chưa can thiệp, cuộc đấu tranh để mang lại thành công cho ông đã được nghiêm túc bắt đầu trong bí mật. Người vợ thứ hai của Mugabe, Grace – thư ký cũ và nhân tình – và phó tổng thống của ông, Emmerson Mnangagwa, được coi là những đối thủ hàng đầu. Thiếu vắng một người kế nhiệm được định trước, sự ra đi của Mugabe sẽ tạo ra một khoảng trống vốn thực sự có thể gây thêm những tai ương cho đất nước này. Dưới thời Mugabe, sự hỗn loạn kinh tế đã trở thành một đặc điểm thường trực của cuộc sống ở Zimbabwe. Nhưng cái chết của một vị bạo chúa sẽ vẫn không đủ để xóa bỏ di sản của ông.

NHỮNG TÙ NHÂN THẦM LẶNG

Thuong Phan and Hoang Le Thanh shared Trương Duy Nhất‘s post.
Image may contain: 15 people, people smiling
Trương Duy NhấtFollow

 

NHỮNG TÙ NHÂN THẦM LẶNG

Khác với những đời Tổng thống trước, Donald Trump đã không màng chi chuyện nhân quyền trong chuyến thăm Việt Nam. Con đường của chúng ta, chúng ta phải tự đi thôi. Mọi đổi thay, muốn có phải từ chính chúng ta.
Nhớ những bạn tù còn trong lao ngục. Bài “Những tù nhân thầm lặng”, tôi viết ngày này năm trước, khi nhắc nhớ đến Mẹ Nấm, Nguyễn Ngọc Già, Hồ Hải…
Một năm qua, thêm Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Văn Đài, Trần Thị Nga, Cấn Thị Thêu, Trần Anh Kim, Phan Kim Khánh, Nguyễn Trung Tôn, Nguyễn Bắc Truyển, Phạm Văn Trội, Lê Thu Hà, Trương Minh Đức, Nguyễn Trung Trực… Không thể biết, họ ra sao trong chốn lao tù bịt bùng thăm thẳm ấy?
Đăng lại một lần nữa bài viết này để nhớ các bạn tù bất khuất của tôi.
_________________________________

NHỮNG TÙ NHÂN THẦM LẶNG 
(Viết tặng những bạn tù bất khuất của tôi)

Có thể, họ chọn cách thầm lặng. Có thể, con đường và phương cách họ chọn khác chúng ta. Nhưng vì mục tiêu và đích đến chung, không ai trong chúng ta được phép im lặng. Đặc biệt, khi họ đã rơi vào chốn ngục tù cô độc ấy.
Mọi nguồn tin về Hồ Hải, đến nay vẫn quá ít ỏi. Không gì hơn ngoài mấy dòng “thông báo bắt” trên website Công an TP HCM. Sự lên tiếng ủng hộ anh, cũng là quá ít ỏi và trầm lắng, so với Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh và các trường hợp trước.
Nguyễn Ngọc Già cũng vậy. Sau những dòng tin ít ỏi về phiên toà, dường như không biết gì hơn.
Không thấy sóng, không biểu ngữ băng rôn, không thấy ai xuống đường, không nghe những cuộc bão giông mang tên Hồ Hải, Nguyễn Ngọc Già.
Luật sư Lê Công Định gọi đó là “những người tù cô đơn”. Chữ “cô đơn” nghe đau quá. Vâng, đành rằng cô đơn. Nhưng tôi muốn gọi sự “cô đơn” ấy là thầm lặng- những tù nhân thầm lặng. Nghe nó nhẹ nhàng và – bớt đau hơn.
Có thể, vì Nguyễn Ngọc Già chọn cách náu mình. Hoặc một Hồ Hải hay đụng chạm, “gây thù chuốc oán” quá nhiều, với chính giới tranh đấu. Nhưng suy cùng, dù phương cách nào, lặng im náu mình như Nguyễn Ngọc Già hay sùng bái cuồng dại thờ tôn cả “thằng X” khốn kiếp như Hồ Hải, thì mục tiêu, cái đích các anh vươn tới cũng cùng với lựa chọn của chúng ta.
Cũng như đốn ngã gốc cây, cần những nhát dao từ nhiều phía.
Có thể, chính họ đã chọn cách “thầm lặng” cho mình. Nhưng chúng ta không được phép lặng im. Cũng như Lê Công Định, tôi hiểu và thấu cay sự cô độc trong tù. Nhất là thời đoạn biệt giam, một mình trần trũi trên bệ xi măng với 4 bức tường bịt bùng xám xịt. Bạn để chơi, để trò chuyện không gì ngoài mấy con thạch sùng, cùng đám kiến.
Thông tin, may mắn cũng chỉ đoán định bằng cách đọc báo Nhân Dân, dăm hôm vài bữa quản giáo nó nhét cho một tờ, xem rồi suy ngược. Trang 8, mục “bình luận – phê phán”, thấy báo Nhân Dân chửi đánh cái gì thì cứ suy ngược lại để đoán tình hình thế sự bên ngoài.
Không gì hơn. Tù lâu như Hải Điếu Cày, phải nhờ đến khi tôi vào Trại 6 truyền lại mới biết “đồng chí X” là ai, “một bầy sâu” là lũ nào và “Bên thắng cuộc” viết cái gì, ai viết, tác giả Osin là ai…
Cũng may, Hải Điếu Cày và tôi là những trường hợp biết làm thông tin, dù đã trong tù. Còn không, coi như bịt bùng, cô độc.
Nói vậy, để hiểu và thấm hơn cái khao khát tiếp nhận, dù chỉ là một nguồn tin nhỏ nhoi từ bên ngoài. Nhớ khi còn biệt giam ở trại B14, có cậu Khánh (người Hải Phòng) buồng sát bên. Nó kể, mỗi sáng thứ Bảy, dịp trại cho người nhà tiếp tế thức ăn, cứ áp tai vào tường nghe tiếng những bước chân vọng bên ngoài rồi đoán mong tiếng chân mẹ mình. Hơn năm trời, không người thăm gặp, không quà không tin (chẳng hiểu vì sao). Có hôm, mưa bão quá, nghe nó đọc thơ vầy:
“Lá rơi thôi cũng ngờ tiếng chân mẹ
Mưa bão thế này chắc mẹ chẳng đến đâu…”
Đại khái thế, tôi không nhớ nhiều.
Một sự ngóng chờ, như không gì có thể cô độc hơn.
Nhớ hôm nghe tôi nhận thư con gái, nó gõ tường gọi bảo “anh đọc cho em nghe với, em thèm nghe ai đó đọc thư, dù không phải thư của mình”. Hình như, tôi đọc mà run cả môi. Nó áp tai vào tường nghe, rồi nhẩm đến thuộc lòng. Buồn cười, nó bảo “con gái anh viết như thơ, em phổ nhạc nhé”. Rồi nó xịch xình tính tang hát như nhạc thật. Hình như nó vui lây. Mấy dòng giản đơn của đứa con gái viết cho mình cũng khiến nó như thêm… sức mạnh. Chả là mấy hôm trước, nó bảo sốt, cảm ho nằm lì suốt tuần.
Vâng. Những sợi dây gắn kết ấy, không chỉ làm chức phận truyền tin, cho những tù nhân như chúng tôi ít nhiều đoán định được thế cuộc bên ngoài, mà hơn cả – nó cho chúng tôi thêm sức mạnh, thêm niềm tin.
Dấn thân là chấp nhận. Cái giá cô độc ấy, đâu phải không lường đoán được. Nhưng họ vẫn lựa chọn và chấp nhận cho mình.
Ngoài Nguyễn Ngọc Già, Hồ Hải, còn thêm những ai?
Tôi, Lê Công Định, Hải Điếu Cày, và nhiều, rất nhiều những bạn tù khác… có được cái may mắn không đến nỗi cô độc thế. Nhưng sự cô độc ấy, không phải là chúng tôi không ngấm. Ngược lại, càng vậy, nhìn số phận và tấm gương những tù nhân thầm lặng càng khiến mình đau.
Có thể, họ chọn cách thầm lặng. Có thể, con đường và phương cách họ chọn khác chúng ta. Cứ giả vậy đi. Nhưng vì mục tiêu và đích đến chung, không ai trong chúng ta được phép im lặng. Đặc biệt, khi họ đã rơi vào chốn ngục tù cô độc ấy.
Sự lên tiếng của chúng ta nhiều khi cũng chẳng thay chuyển được gì, không cứu được các anh, các chị. Nhưng nó cho các anh, các chị, cho thân nhân của họ, và cho cả những người đang tranh đấu đang dấn thân hiểu rằng: Họ không cô đơn. 
Đó là sức mạnh, cho họ, và cho chính chúng ta.
____________________ 
– http://truongduynhat.org/nhung-tu-nhan-tham-lang