Hòa Hợp Hòa Giải?

Hòa Hợp Hòa Giải?

Bạn nghĩ rằng chính phủ Hà Nội có thể tới một lúc sẽ chìa tay ra để hòa hợp hòa giải với mọi thành phần dân chúng để củng cố sức mạnh trong khi quân Trung Quốc tăng áp lực? Hình như  chuyện đó là nằm mơ…

Bởi vì, ngay tự nội bộ của họ, hòa hợp hòa giải đã là một cái gì rất khó xảy ra.

Mới đây, một người  bạn gửi một bản tin của Báo Tiền Phong cho biết họ đã xử oan một trường hợp nội bộ, nhưng rồi cứ lờ đi. Đây không phải chuyện dân oan hay đất oan. Đây là chuyện công an xông vào tòa nhà Quốc hội CSVN ở Hà Nội vào năm 1980, bắt và áp giải một “đaị biểu quôc hội”…  Người bị bắt nổi tiếng ở Huế nhiều thập niên trước 1975, là tình báo VC, toàn gia hoạt động cho VC… và bây giờ vân lặng thinh.

Ông cụ oan ức là Nguyễn Thúc Tuân, 101 tuổi vào năm 2016. Tòa án Huế đã cho xóa án, nhưng ông cụ vẫn chưa được minh oan…

Hồ sơ được báo Tiền Phong viết qua bản tin ngày 24/03/2016 nhan đề “’Vụ án gián điệp’ 35 năm trước: Cụ già 101 tuổi kêu oan…”

“Ông Nguyễn Thúc Tuân (sinh năm 1914, hiện sống ở thành phố Huế) đã kêu oan suốt mấy mươi năm nhưng hầu như vô vọng. Tội danh “gián điệp” CIA của Mỹ “chui sâu, leo cao” nặng như đá núi đeo đẳng ông Tuân cùng với cả gia đình qua bao nhiêu năm tháng.

Ngày 11/12/1980, tại hội trường Ba Đình, trong phiên họp toàn thể của Quốc hội, các đại biểu được nghe báo cáo về một vụ án gián điệp gây rúng động cả nước, mà tội phạm là một đại biểu Quốc hội, một đảng viên, cán bộ cách mạng lâu năm, Trưởng ty Thể dục Thể thao tỉnh Bình Trị Thiên.

Người đó tên là Nguyễn Thúc Tuân, “can tội gián điệp, đã bị tòa án nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên kết án 18 năm tù.

Vì vậy, đương nhiên Nguyễn Thúc Tuân mất tư cách đại biểu Quốc hội” (theo biên bản ngày 11/12/1980, tài liệu lưu trữ của Quốc hội khóa 6, kỳ họp thứ VII).

Từ đó đến nay đã hơn 35 năm, ông Nguyễn Thúc Tuân vẫn nhất mực kêu oan.

Bức thư ông Tư Minh, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên-Huế , cấp trên ông Tuân, đề nghị minh oan cho ông Tuân.

Theo bản án ngày 22/1/1980 về vụ án “Nguyễn Thúc can tội gián điệp” của phiên tòa sơ thẩm TAND tỉnh Bình Trị Thiên: Bị cáo sinh năm 1914, quê quán thôn Thanh Lương, xã Hương Xuân, huyện Hương Điền, tỉnh Bình Trị Thiên, trú quán TP Huế.

Nguyễn Thúc Tuân vốn là cán bộ Việt Minh trong kháng chiến chống Pháp, sau 1954 tiếp tục hoạt động bí mật trong vùng hậu địch ở địa bàn Thừa Thiên-Huế.

Năm 1958 chế độ Ngô Đình Diệm mở đợt bắt bớ nhằm ngăn chặn phong trào cách mạng, trong đó có những người kháng chiến cũ từng tham gia Việt Minh trước 1954. Nguyễn Thúc Tuân bị cảnh sát chế độ Ngô Đình Diệm bắt giam.

Bản án nói rằng dù chưa bị tra tấn nhưng Nguyễn Thúc Tuân đã khai báo và hợp tác với địch trở thành nội gián trong hàng ngũ cách mạng, làm điệp viên nhị trùng, chui sâu leo cao, đánh phá cách mạng.

Bản án còn nói thêm: “Ngoài việc khai cho địch những bí mật của cách mạng, bị cáo Tuân đã giúp cho chúng tìm cách đối phó, y còn thường xuyên theo dõi, thu thập, cung cấp nhiều tin tức tình báo về những hoạt động chính trị của những cá nhân, tổ chức xã hội đối lập với Mỹ-ngụy như học sinh, sinh viên, hướng đạo sinh, Phật giáo v.v… đã cho chúng tìm cách đàn áp phong trào đấu tranh của quần chúng yêu nước…

Trong quá trình khai báo cũng như tại phiên tòa hôm nay, Nguyễn Thúc Tuân có những điểm nhìn biện bạch cho mình.

Y thừa nhận có đầu hàng, khai báo, nhận một số nhiệm vụ do địch giao giai đoạn đầu, còn về sau thì không liên hệ với chúng nữa và đã thực sự trở về với đội ngũ cách mạng… và nói chung y tự cho mình là người có công nhiều hơn có tội”.

Phiên tòa không hề có nhân chứng các bên, không có những người từng là cấp trên hoặc đồng chí đồng đội của ông Tuân (đã được cơ quan chức năng liên hệ làm việc để làm rõ nội dung liên quan đến vụ án này).

Ông Tuân cũng không có luật sư bào chữa.

“Mẹ tôi kiên cường sống qua những năm tháng khổ đau, tồi tệ nhất. Còn chúng tôi thì không kể hết những cay đắng cuộc đời khi ba tôi lâm vào vòng lao lý”. Bà Nguyễn Thị Tầm Dương, con gái ông Tuân nói.

Kết thúc, phiên tòa sơ thẩm tuyên Nguyễn Thúc Tuân phạm tội “gián điệp” và phạt 18 năm tù giam. Sáu năm sau, ngày 16/11/1986, ông Tuân được ra khỏi trại cải tạo.

Đến ngày 29/11/2001, Chánh án TAND Thừa Thiên-Huế ra quyết định (số 02/QĐ/XA) “xóa án” cho ông Nguyễn Thúc Tuân. Đây là hình thức xóa án tích của tòa án, căn cứ Điều 63, 65 Bộ luật hình sự (1999), và Điều 240 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đến nhà ông Nguyễn Thúc Tuân những ngày này, sẽ thấy một ông lão nhỏ nhắn đã ngoài trăm tuổi, người bị buộc tội làm gián điệp CIA, phản bội cách mạng.

Ông còn khá minh mẫn, nói trong đau xót: “Tôi bị oan, hãy giúp tôi minh oan”. Vợ ông, bà Nguyễn Thị Thuyền, một cơ sở cách mạng trung kiên, cựu tù chính trị Côn Đảo đang dưỡng bệnh.

Trên bàn thờ, di ảnh con trai ông, liệt sĩ Nguyễn Thúc Lư như đang nhìn xuống những người đang sống.

Chưa kể em ruột, cháu ruột, cháu dâu của ông đều tham gia cách mạng, có người là liệt sĩ. Bà Nguyễn Thị Tầm Dương, con gái ông Tuân nói trong tiếng thở dài: “Mẹ tôi kiên cường sống qua những năm tháng khổ đau, tồi tệ nhất.

Còn chúng tôi thì không kể hết những cay đắng cuộc đời khi ba tôi lâm vào vòng lao lý”.

Vợ ông Tuân, bà Nguyễn Thị Thuyền – cựu tù chính trị Côn Đảo, dù bệnh tật vẫn gắng chờ ngày chồng được giải tiếng oan.

Tường trình với cơ quan điều tra, ông Nguyễn Thúc Tuân khẳng định việc ông viết cam kết làm việc cho địch chỉ là một thủ tục để sớm thoát ra khỏi nhà tù của địch mà thôi.

Sau khi ra tù, ông đã trở lại hoạt động cách mạng và được tổ chức móc nối với phong trào đô thị Huế, vào năm 1965. Ông làm nhiệm vụ giao liên đưa đón cán bộ lãnh đạo ra vào hoạt động nội thành, tham gia khuôn hội Phật giáo…

Lãnh đạo trực tiếp của ông Tuân giai đoạn này là ông Nguyễn Hữu Hường (thường gọi là Hường Thọ), cán bộ Thành ủy Huế. Ông Tuân cam đoan chưa hề làm điều gì có hại cho cách mạng và nhân dân.

Trong đơn kêu oan, ông nói rằng có thể kiểm chứng điều này từ những người từng là cấp trên hoặc đồng chí, đồng đội biết rõ ông như ông Lê Minh, ông Hường Thọ, ông Lê Phương Thảo, ông Nguyễn Đắc Xuân…

Những điều này ông cũng đã nói rõ trước tòa.

Ông Lê Minh (còn có tên Lê Tư Minh), người lãnh đạo trực tiếp của ông Tuân trong nhiều năm, nguyên là Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên thời kỳ 1945-1950, Bí thư Thành ủy Huế 1954-1973; sau ngày thống nhất, ông là Phó trưởng ban Nông nghiệp trung ương cho đến khi nghỉ hưu 1978.

Ông Minh đã viết tờ xác nhận ông Tuân là cơ sở cách mạng, không phải là nội gián của địch.

Trong lá thư ngày 19/10/1988 gửi cho ông Tuân, ông Tư Minh cũng nói rõ: “Tôi đã nhận được thư anh do anh Hường chuyển, nói về việc kêu oan về vụ án của anh.

Theo tôi thấy thì anh nên viết tờ trình kiện lên Tỉnh ủy, Quốc hội và Viện kiểm sát tỉnh, gởi cho tất cả những nơi cần gởi. Tôi hứa với anh là một trong những người làm chứng anh không phải là người của địch mà là của ta.

Chú ý trong tờ trình anh viết, có thể viết cả tên tôi và anh Hường Thọ là người biết sự việc. Mọi công việc anh làm trong tờ trình phải nói rất thật, kể cả việc anh đã hứa với địch mà không làm cho nó, mục đích chỉ để thoát khỏi nhà lao”….”

Thế đấy, toàn gia tộc đều hoạt động, vào tù ra khám, con liệt sĩ, tòa bảo xóa án… nhưng bản thân vẫn bị Đảng CSVN dìm hàng, cho lơ lửng.

Kêu oan cách mấy cũng thế… Bản tin năm 2016 nói ông cụ 101 tuổi, năm nay như thế là 103 tuổi rồi, vẫn bị Đảng CSVN làm ngơ chuyện kêu oan.

Nội bộ còn trù dập như thế, làm sao tin được CSVN sẽ hòa hợp hòa giải với người bên kia chiến tuyến Sài Gòn?

Vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh: Bộ trưởng Công an Tô Lâm đã đích thân bay sang Slovakia để dàn xếp đưa Trịnh Xuân Thanh về nước?

 Thanh Hieu Bui shared a link.
THOIBAO.DE
 
3 ngày sau khi Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc Bộ trưởng Công an Tô Lâm và Trung tướng Đường Minh Hưng có mặt tại Bratislava thủ đô Slovakia để gặp mặt nói chuyện với ông Robert Kalinak, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Slovakia. Các nhà điều tra Đức cho rằng có khả năng là trong thời điểm đó Trịnh Xuân Thanh vẫn còn ở châu Âu. Vì vậy, tại sao có cuộc họp, mà cùng lúc nhiều nghi phạm chính đến tham dự? Việt Nam và Slovakia có thảo luận cách đưa ông Trịnh ra khỏi châu Âu không? Trong tình huống như thế thì Slovakia có thể giúp đỡ không?

Cựu nhà báo thời chiến: “Tôi không nghĩ chiến tranh VN là chống Mỹ cứu nước”

Cựu nhà báo thời chiến: “Tôi không nghĩ chiến tranh VN là chống Mỹ cứu nước”

2018-04-26

Ông Nguyễn Mạnh Tiến, cựu nhà báo RFA với bút danh Nam Nguyên, trò chuyện cùng RFA nhân sự kiện 30/4.

Ông Nguyễn Mạnh Tiến, cựu nhà báo RFA với bút danh Nam Nguyên, trò chuyện cùng RFA nhân sự kiện 30/4.

 RFA
 Thưa quý vị, như vậy chỉ còn ít ngày nữa là đến ngày 30/4, ngày kỷ niệm chiến tranh Việt Nam chính thức kết thúc. Sự kiện này được nhắc đến với rất nhiều tên gọi khác nhau, tuy nhiên theo nhận định của ông Võ Văn Kiệt, nguyên Thủ tướng chính phủ Hà Nội thì đây là ngày triệu người vui nhưng cũng triệu người buồn.

Mời quý vị cùng theo dõi buổi trò chuyện giữa RFA và ông Nguyễn Mạnh Tiến, cựu nhà báo của RFA với bút danh Nam Nguyên, đồng thời ông cũng là một trong những phóng viên thời chiến tranh Việt Nam.

Xin chào nhà báo Nguyễn Mạnh Tiến, ông có thể chia sẻ những kỷ niệm đáng nhớ trước ngày 30 tháng 4 năm 1975?

Nhà báo Nam Nguyên: Trong tuần lễ cuối cùng, những sự kiện quan trọng gồm có Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, rồi phó Tổng thống Trần Văn Hương lên thay nhưng cũng chỉ được 5 ngày thì trao nhiệm cho Đại tướng Dương Văn Minh với hy vọng Đại tướng Minh có thể hòa giải với phía bên kia để ngăn tình trạng sụp đổ của miền Nam và có thể là thành lập một chính phủ liên hiệp chẳng hạn.

Ngày 28/4/1975, tôi làm truyền thanh trực tiếp (live) từ dinh Độc Lập lễ trao nhiệm cho Đại tướng Dương Văn Minh để lãnh nhiệm vụ Tổng thống. Các bạn chắc cũng lấy làm lạ lùng vì sao có thể trao nhiệm tại vì thường nếu Tổng thống xuống thì Phó Tổng thống lên, Phó Tổng thống xuống nữa thì người Phó của ông này sẽ lên, không có người đó thì Chủ tịch Thượng viện phải lên. Nhưng đây lại là trao nhiệm, có nghĩa là Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa rất minh bạch, rành rọt nhưng nó đã không được thi hành kể từ ngày 28/4.

Khoảng 5 giờ chiều hôm đó diễn ra lễ trao nhiệm, có vẻ như chính phủ của Đại tướng Dương Văn Minh coi chuyện này là nghiêm túc, không phải nhận công việc này để đầu hàng. Có thể Đại tướng Dương Văn Minh là một nhà quân sự nên ông ấy biết tình hình như thế nào. Phòng tuyến Xuân Lịch mất rồi, sư đoàn 18 vỡ, ông tướng Lê Minh Đảo đã giữ được 10 ngày rồi mà ông ấy rất anh hùng, báo chí thế giới cũng ca tụng ông ấy.

Cái nghề báo là không được xúc động. Phải nói là tôi đã rất cố gắng để dặn mình không được xúc động nhưng cuối cùng trong khi tường thuật live tôi đã bình luận một câu. Nhưng câu đó thành ra lại được nhiều người biết đến. Họ nhắc lại câu tôi nói: “Vào lúc này trời âm u đổ mưa, cũng giống như tình hình của đất nước vậy!”

Khi tôi về đến đài sau buổi chiều hôm đó là đã thấy lộn xộn lắm rồi. Máy bay đã bay vô oanh kích ở Tân Sơn Nhất. Ngay ở đài tôi nhìn ra, có những máy bay đi ngang đó thì ở dưới người ta bắn lên. Có thể bắn cả những máy bay tôi thấy không phải của bên kia. Tình hình lúc đó rất khó khăn.

Đó là dấu ấn ngày 28/4. Ông Tổng thống Dương Văn Minh thực tế chỉ tại chức 36 tiếng đồng hồ.

Tới ngày 30/4, trong đài tôi được ông Tổng trưởng Thông tin mới gọi điện yêu cầu cử người qua để thu thanh một bản hiệu triệu của Tổng thống Dương Văn Minh. Thu xong phải phát vào lúc 10 giờ, nếu không phát đúng giờ thì Sài Gòn sẽ biến thành một biển máu. Hôm đó tôi không ở trong đài, nhưng sau này tôi hỏi thì họ nói là ông Lê Phú Bổn, phóng viên trẻ tốt nghiệp trường báo chí Vạn Hạnh là người được cử đi thu thanh. Và người kỹ thuật viên đi cùng là ông Hồ Ổn. Hai người đi qua Phủ Thủ tướng ở đầu đường Thống Nhất thu và mang về phát. Những ngôn từ rất chững chạc, cũng với nội dung đầu hàng thôi, Đại tướng Dương Văn Minh nói rằng mọi người buông súng, quân đội ở đâu thì giữ nguyên ở đó để chờ người đại diện phía bên kia đến và bàn giao trong trật tự. Tôi thấy cách ông ấy đầu hàng như vậy cũng rất hợp lý. Khi bản thu thanh loan ra được một thời gian ngắn thì quân đội Bắc Việt mới tiến vào dinh Độc Lập. Câu chuyện đến đoạn này thì có nhiều điểm không rõ trong lịch sử, mỗi người nói một kiểu. Ông Bùi Tín thì nói rằng lúc đó vào trong dinh chỉ có cấp cao nhất là đại úy xe tăng, còn lại là nhỏ hơn, chưa có ông Chính ủy của đoàn đó. Bây giờ báo chí người ta cũng nói ông Chính ủy này có thể đến lúc kéo cờ lên rồi ông ấy mới tới.

Họ nói không chấp nhận lời đầu hàng ban đầu, đòi rằng bây giờ ông phải nói ông đầu hàng vô điều kiện bởi vì chính quyền của ông tan rã rồi, không có gì để bàn giao. Tôi thấy điều này cũng hơi cay đắng, bởi vì không nhất thiết phải như vậy vì người ta đã chấp nhận đầu hàng rồi, bây giờ làm mọi việc có thể để tránh đổ máu thôi. Những người cán binh Cộng sản lúc đó đã rút súng và nói ông phải đọc lại bản mới và đi thu. Thế rồi họ chở ông ấy tới đài phát thanh để thu bản đầu hàng mới.

Trước khi ông Minh tới đài thì ông Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh đã tới rồi. Người hoàng viên (tên gọi người thu thanh lúc bây giờ) là một phụ nữ, đã quá sợ hãi, có lẽ vì lần đầu tiên trông thấy bộ đội nón cối, súng ống, trong khi ông Tổng thống gần như bị áp đảo. Cô ấy sợ hãi quá, chân tay run lẩy bẩy không thu được. Có một nhà báo ngoại quốc ở đó, đã dùng cát-sét để thu. Một lúc sau ở phòng thu phụ người ta trấn tĩnh lại và thu được bằng băng lớn.

Đó là lời đầu hàng vô điều kiện và có lời chấp nhận lời đầu hàng đó của phía bên kia. Sở dĩ tôi phải kể dài dòng như vậy là vì có hai bản tuyên bố đầu hàng. Lần thứ nhất do ông Dương Văn Minh soạn thảo và đi thu. Lần thứ hai ông ấy bị áp giải đi thu. Nhiều người thắc mắc tại sao phải kể những chi tiết đó làm gì, nhưng tôi nghĩ rằng đối với lịch sử, sự thật quan trọng hơn sự kiện. Trong cuốn sách “Đại Thắng Mùa Xuân” của ông Văn Tiến Dũng, ông ấy nói đài Sài Gòn bỏ trống không còn một ai nữa. Quân ta (tức là quân Bắc Việt) đã vô thoải mái. Nhưng điều đó không đúng! Chính phủ không phải đã tan rã. Quân đội có thể mất phòng tuyến này hay phòng tuyến kia, nhưng đài tiếng nói quốc gia lúc đó vẫn còn.

Trong tháng 4 tôi còn có một kỷ niệm nữa không quên được. Khi Đà Nẵng mất, chắc khoảng 28/3, hôm đó tôi đang trực sở thời sự, thì ở dưới phòng kỳ thuật họ nói tôi xuống nói chuyện với đài Đà Nẵng. Ông quản đốc của đài Đà Nẵng, anh Huỳnh Quy, có vẻ mất bình tĩnh và giọng xúc động lắm.  Anh ấy hỏi “Tiến ơi mày có thể cứu được tao và các nhân viên của tao không?” Tôi cũng biết mình không thể giúp được gì, nên chỉ trấn an anh ấy thôi. Anh ấy bảo đang bị kẹt ở trong đài không thể ra được. Chúng tôi đang tìm cách giúp anh ấy, thì khoảng 15 phút sau anh ấy gọi lại bảo rằng “Tiến ơi không còn hi vọng gì nữa rồi, đã trông thấy họ ở ngoài hàng rồi.” Anh ấy chào vĩnh biệt, rồi về sau tôi không biết anh ấy như thế nào nữa. Đó là câu chuyện ám ảnh tôi hoài.

Họ muốn mở rộng chủ nghĩa Cộng sản ra toàn thế giới, đâu phải đánh Mỹ để cứu nước hay giải phóng miền Nam. 
– Nhà báo Nam Nguyên

RFA: Qua những cảnh tượng ông được chứng kiến khi làm những phóng sự chiến trường, ông suy nghĩ như thế nào về cuộc chiến tranh Việt Nam?

Nhà báo Nam Nguyên: Đây là một câu hỏi lớn, tôi chỉ nêu ra suy nghĩ của một người phóng viên đã trải qua cuộc chiến thôi.

Tôi thấy rằng giá không có cuộc chiến này thì tốt hơn. Khi kết thúc cuộc chiến vào ngày 30/4, đã có tổng cộng khoảng 2 triệu người miền Bắc và miền Nam chết, hàng trăm ngàn người bị thương, không đếm xuể những người còn sống nhưng cụt tay, cụt chân của cả hai bên. Và cuộc chiến tranh đó mục đích là gì, giữa cùng là người Việt Nam với nhau? Bản thân tôi cũng có một phần gia đình ở miền Bắc. Tôi cũng sinh ra ở Hà Nội.

Nói không có thì tốt hơn là vì giả dụ ngay cả khi chưa có Điện Biên Phủ, cứ để nguyên thì chậm nhất đến thập niên 60, tất cả những nước có thuộc địa đều phải trả lại cho người ta hết, bang giao tốt đẹp, buôn bán làm ăn với nhau mà không bị chết người.

Trận chiến Điện Biên Phủ dành độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh coi như đã thành công, đưa đến Hiệp định Geneva chia hai miền đất nước. Giá mà dừng ở đó thì vẫn còn tạm ổn. Nhưng đằng này, chỉ vài năm sau, miền Bắc bắt đầu mang quân gây chiến, rồi chuyển vũ khí vào trong miền Nam với lý do Tổng tuyển cử đã không diễn ra như Hiệp định Geneva nên phải đánh. Miền Bắc đã chuẩn bị chiến tranh ngay từ lúc đó rồi.

Trên chiến trường khốc liệt quá! Những gì tôi được chứng kiến, nhận xét về quân sự cả hai bên, binh sĩ binh lính của cả hai bên rất can trường, anh hùng và sẵn sàng chết để phục tùng lệnh từ trên. Khi tôi và đồng nghiệp vào mặt trận An Lộc bằng máy bay, chưa kịp nhảy xuống thì khói đã bốc lên trên máy bay rồi. Trông thấy bãi đáp Khánh Ly rồi mà bị đánh bom phải lượn ra luôn. Tôi thấy bay được có một khúc là may bay bị rớt rồi, và ngay lập tức họ bắn hủy máy bay đó. Thế là chúng tôi vẫn chưa vào được An Lộc. Nhưng cuối cùng kiên trì tôi và một người phóng viên tên Dương Phục cũng đã vào được.

Đi đến đó thì thấy thành phố An Lộc không còn một căn nhà nào nguyên vẹn hết. Toàn bộ là gạch vụ và một vài bức tường. Chúng tôi đến bộ chỉ huy của ông tướng Lê Văn Hưng, là vị tướng tử thủ ở đó để phỏng vấn, và coi như thành công.

Khi về lại không về được, cứ đi ra bãi đáp, máy bay cứ đáp xuống là phía bên kia họ pháo kích máy bay không xuống được. Chúng tôi không có cách gì để lên được, cứ đi ra đi vô mấy lần rồi lại phải quay lại. May mắn cuối cùng đài truyền hình họ đi trực thăng vào quay. Ông sĩ quan báo chí của ông Lê Văn Hưng, là ông đại úy Qúy, nói ông ấy sẽ đưa bọn tôi ra ngay khi máy bay truyền hình tới, chờ sẵn ở đó, máy bay hạ cánh là nhảy lên liền. Tôi cũng làm như vậy, và đội truyền hình đã cứu mạng tôi. Nếu không, tôi sẽ phải ở lại trong đó không biết đến bao giờ.

Đến ngày 6/7 tôi được lệnh chuẩn bị kỹ càng để đi công tác đặc biệt, nhưng không nói đi đâu. Đến ngày hôm sau họ chở tôi vào dinh Độc Lập, và chỉ tôi lên một chiếc máy bay. Trên đó chỉ có tôi, một người bên truyền hình, còn lại toàn các ông lớn. Tôi nghĩ chắc phải đi đâu ghê gớm lắm. Có một chiếc máy bay có ông Tổng thống và cả ông Hoàng Đức Nhã. Máy bay bên bọn tôi có ông đại tướng Cao Văn Viên là Tổng tham mưu trưởng. Tới nơi, tôi thấy rừng cao su và đất đỏ, tôi linh cảm là vào An Lộc. Tôi nghĩ ông Tổng thống này gan thiệt, vì An Lộc tới lúc này chưa có giải phóng. Đằng xa mình nhìn thấy bom đạn nổ dữ lắm, phi cơ oanh tạc các vùng cao điểm để hộ tống máy bay này. Câu chuyện này cũng để lại nhiều dấu ấn, và ông Tổng thống Thiệu cũng thành công trong việc thực hiện chuyến đi này.

RFA: Với nhiều người trẻ sinh sau năm 1975, thậm chí sau đến 20 năm, đã được mái trường Xã hội Chủ nghĩa dạy là cuộc chiến tranh Việt Nam này là để chống Mỹ cứu nước. Không biết nhà báo suy nghĩ như thế nào về quan điểm này của Chính phủ Việt Nam?

Nhà báo Nam Nguyên: Tôi nghĩ là trong lúc học các bạn tin vào những câu chuyện như vậy. Tôi không nghĩ là chống Mỹ cứu nước, Việt Nam Cộng Hòa khi đó được thành lập và được viện trợ từ Hoa Kỳ để xây dựng lại đất nước. Khi chưa có chiến tranh, miền Nam trù phú, sung túc lắm, xuất cảng rất là khá, đời sống rất cao, được ví là hòn ngọc Viễn Đông. Đến ông Lý Quang Diệu cũng từng nói thời đó chúng tôi cũng chỉ mong được như miền Nam Việt Nam thôi. Đời sống rất sung túc mà không hề có quân Mỹ ở đó. Sở dĩ người ta giúp Việt Nam Cộng Hòa là vì theo chủ thuyết Domino, nếu cứ để Cộng sản tràn dần thì sẽ mất hết, tất cả sẽ là Cộng sản hết nên họ muốn chặn lại theo ý nghĩa Việt Nam Cộng Hòa sẽ là tiền đồ của thế giới tự do. Chiến tranh bên kia quá lớn thì người Mỹ mới đem quân vào vì họ sợ mất.

Bên kia từ thời trước đã tuyên truyền nhiều, đặc biệt những năm xưa không phải giống như giới trẻ được biệt về miền Bắc sau này, thời trước miền Bắc khép kín không khác gì Bắc Hàn bây giờ. Người trong Nam chúng tôi không bao giờ được biết ngoài Bắc có cái gì, cũng không có hình ảnh luôn vì họ không cho người ngoài vào thăm, chỉ số ít những người thân chế độ mới được vào. Hình ảnh mà tôi biết được là khi ông Phạm Huấn ra Hà Nội công tác một ngày với một số phóng viên, họ có chụp một số hình ảnh và viết bài Một ngày tại Hà Nội. Hình ảnh rất nhiều và tôi cũng được xem. Khi xem, cảm giác Hà Nội y nguyên như hồi gia đình tôi di cư năm 1954. Không có thay đổi, không cất nhà thêm, trông nghèo nàn lắm. Ngoài đường phố ô tô không có, toàn xe đạp không à, và rất nghèo khổ rách rưới. Tôi hiểu miền Bắc họ dồn hết viện trợ vào chiến tranh và đời sống của người dân với họ không quan trọng. Một bên quan trọng đời sống của người dân, một bên làm sao thắng chiến tranh và tất cả dồn cho chiến tranh. Giáo dục từ nhi đồng, đều là tinh thần yêu tổ quốc, chiến đấu theo gương Bác Hồ vĩ đại. Đối với những người miền Nam nghe rất sáo rỗng và buồn cười, nhưng tôi hiểu người miền Bắc lúc đó tinh thần họ như một và họ tin cái đó. Và nhờ những cái dối trá đó đã đưa đến chiến thắng. Mục đích của họ là muốn đánh chiếm miền Nam thì tiền vào súng đạn hết. Dân đói, ăn độn, dùng tem phiếu một tháng được mua mấy lạng thịt hay một năm được mua mấy mét vải. Trong khi miền Nam là một thế giới khác. Bây giờ lại nói đi giải phóng miền Nam, cả những gia đình không phải Cộng sản và Cộng sản, đều có lấn cấn trong đầu bởi vì trong Nam họ sống quá sung sướng, đời sống cao. Phương tiện có rất nhiều, tất cả những tân tiến đã có rất sớm ngay trong thập niên 60.

Nói chống Mỹ cứu nước thì họ phải nói vậy vì họ rất nhất quán. Nghe mới đầu có thể không tin còn ngờ vực nhưng nghe hoài rồi cũng tin. Ông Hồ Chí Minh còn nói đại khái là nếu đánh thắng sẽ giàu mạnh gấp 10 lần năm xưa nên họ càng muốn đi đánh. Nhưng tôi không thể tin được họ có thể nói ra những điều như đi giải phóng miền Nam vì 20 năm người dân miền Nam sống dưới ách nô lệ của thực dân mới Hoa Kỳ, rồi chế độ ngụy,…mà toàn dân vẫn tin. Nên tôi phải bái phục người Cộng sản họ có những lý thuyết như vậy, nhưng trình độ người dân lúc đó không thoát ra được vì họ phải sống khép kín.

Nói đánh Mỹ cứu nước, nhưng ông Hồ Chí Minh là Cộng sản quốc tế từ thời ông qua bên Nga, bên Pháp. Và ông Lê Duẩn thì nói chúng ta đánh Mỹ là đánh luôn cho cả Trung Quốc và Liên Xô. Tức là họ muốn mở rộng chủ nghĩa Cộng sản ra toàn thế giới, đâu phải đánh Mỹ để cứu nước hay giải phóng miền Nam.

RFA: Sau năm 1975, có một khoảng thời gian nhà báo vẫn sống ở Sài Gòn dưới sự điều hành của Chính phủ Hà Nội. Vậy ông nhận thấy điểm khác biệt gì nổi bật ở thời kỳ đó so với trước năm 1975?

Nhà báo Nam Nguyên: Chúng tôi thấy mình ở dưới địa ngục. Những người giàu, kha khá thì ở tầng đầu địa ngục, còn những người nghèo thì ở tầng giữa, hay tầng đáy. Tôi khổ lắm. Khi giải phóng là tôi mất hết nghề nghiệp, rồi bị bóc lột lấy luôn tiền bạc bằng các trận đổi tiền giới hạn số tiền đổi. Nhiều người mất nhà mất cửa, và nền kinh tế suy sụp hoàn toàn vì áp dụng chính sách xã hội chủ nghĩa. Lúc đó ông Đỗ Mười bảo rằng kinh tế quốc doanh theo đúng xã hội chủ nghĩa là tốt nhất, ngăn sống cấm chợ. Lý thuyết của ông ấy là quốc doanh hết, tỉnh này xài không hết thì trung ương sẽ lấy mang đi tỉnh khác chia. Đại khái là kinh tế không có sự lưu thông. Thành ra miền Nam trong 10 năm đầu tiên tan hoang luôn. Nếu họ áp dụng kinh tế thị trường của miền Nam có kiểm soát ngay từ đầu, và đừng có đánh tư sản hay cướp giật của người ta để giải phóng, thì có lẽ không đến nỗi tệ. Về sau ông Võ Văn Kiệt nói rằng có sự tự kiêu của Cộng sản và đã bỏ phí những cơ hội mà để cho mãi đến khi đổi mới 1986 nhưng thực tế phải đến 1990 thì đời sống mới khá lên. Nhưng nó sẽ đến một ngưỡng nào đó thôi, bởi vì vẫn còn là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì nó nửa nạc nửa mỡ giống như độc tài chuyên chế nhưng do tổ chức của Đảng Cộng sản làm.

Những câu chuyện này xảy ra sau giải phóng thật đáng tiếc. Tôi muốn nêu thêm một ví dụ nữa, ở miền Nam năm 1965 dưới thời ông Nguyễn Cao Kỳ, lúc đó là Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương, tức là Thủ tướng. Ông ấy có Chính phủ vì người nghèo, ông ấy đã làm một điều mà tôi thấy đến bây giờ Nhà nước Cộng sản vẫn chưa làm được. Ông ấy đã mở Tổng cục Tiếp tế và ở đó bán những thứ mà những người công chức quân đội có thể đến mua với giá rẻ, không có quota hay tem phiếu gì hết. Đặc biệt nữa là hữu sản hóa xe lam cho những người chạy xe lam, bán trả góp. Ông ấy đã thành công điều đó. Đối với cá nhân gia đình quân đội hay công chức, họ được mua trả góp hoặc trả hết. Chính phủ bây giờ còn chưa làm được điều đó cho quân đội hay công chức của mình. Và hữu sản hóa những cái như xe lam tôi thấy lại càng khó. Bây giờ thì họ đã thay đổi, nhưng lại nhiều vấn nạn sinh ra theo kiểu tư bản hoang dã, như lợi ích nhóm,…Cho nên tôi vẫn còn thương người Việt Nam mình lắm!

RFA: Xin chân thành cám ơn những chia sẻ của nhà báo!

HÃY LẦN CHUỖI CẦU NGUYỆN CHO BÀ ẤY !

No automatic alt text available.

Loc Teresa

Có 1 linh mục già rất tốt, được mọi người yêu mến và không mất lòng ai. Ngày kia, ngài có việc phải đi xa.

Vừa mới lên xe khởi hành thì có 1 bà hàng xóm, sống cạnh nhà xứ hay có tính chê trách người này người nọ, hỏi xem có thể đi cùng xe với cha không, cha đồng ý. Đi được 1 lát, bà gợi chuyện:

– Thưa cha, con kể cho cha biết về 1 người đàn bà xấu nết, đó là người hàng xóm của con.

– Bà ấy xấu nết lắm sao? 
– Dạ vâng. Xấu lắm ạ.

– Vậy chúng ta hãy lần chuỗi Mân Côi cầu nguyện cho bà ấy để bà có thể bỏ được nết xấu.

Thế rồi, cha xướng kinh:
Nhân danh Cha…. Và bà phải thưa suốt 50 Kinh Mân Côi. Vừa đọc xong 50 kinh, bà lại tiếp tục phàn nàn:

– Cha ạ. Con đã phải chịu đựng bà ta quá nhiều. Con không thể kiên nhẫn hơn được nữa.

– Con nói đúng. Với 1 người như thế, phải kiên nhẫn lắm mới có thể chịu đựng được. Vậy chúng ta hãy lần thêm 50 Kinh Mân Côi nữa cho con. Xin Chúa ban thêm ơn kiên nhẫn cho con. Và rồi cha đọc tiếp: Nhân danh Cha…. Và thế là họ cùng đọc thêm 50 kinh nữa. Khi kinh cuối cùng vừa dứt, bà chớp lấy cơ hội nói luôn:

– Thưa cha, bà ấy sống rất tệ với chồng. Ông ấy khổ lắm cha ạ.

– Thật tội nghiệp cho ông chồng ấy lấy phải người vợ không ra gì. Vậy chúng ta hãy lần thêm 1 chuỗi nữa để cầu cho ông ấy. Và rồi cha lại xướng lên: Nhân danh Cha…

Khi đã xong 50 kinh lần thứ 3, mãi không thấy bà nói gì, cha hỏi lại:

– Thế còn ai khổ vì bà ấy nữa không con, để cha con mình đọc tiếp?

– Dạ, thưa cha… thưa cha… hết người khổ rồi ạ.

Tíctop CRM – Kỷ niệm 100 Đức Mẹ hiện ra tại Fatima 1917 – 2017

Lạy Thầy Giêsu, khi Thầy rửa chân cho các môn đệ

 

Lạy Thầy Giêsu,

khi Thầy rửa chân cho các môn đệ
chúng con hiểu rằng Thầy đã làm một cuộc cách mạng lớn.
Thày dạy chúng con một bài học rất ấn tượng
khi Thầy bưng chậu nước, bất ngờ đến với các môn đệ trong bữa ăn,
khi Thầy cúi xuống, dùng bàn tay của mình để rửa chân rồi lau chân cho họ.
Chắc Thầy đã nhìn thật sâu vào mắt của từng môn đệ và gọi tên từng người.
Giây phút được rửa chân là giây phút ngỡ ngàng và linh thánh.

Lạy Thầy Giêsu,
thế giới chúng con đang sống rất thấm bài học của Thầy.
Chúng con vẫn xâu xé nhau chỉ vì chức tước và những đặc quyền, đặc lợi.
Ai cũng sợ phải xóa mình, quên mình.
Ai cũng muốn vun vén cho cái tôi bất chấp lương tri và lẽ phải.
Khi nhìn Thầy rửa chân, chúng con hiểu mình phải thay đổi cách cư xử.
Không phải là ban bố như một ân nhân, nhưng khiêm hạ như một tôi tớ.
Từ khi Thầy cúi xuống rửa chân cho anh Giuđa, kẻ sắp nộp Thầy,
chúng con thấy chẳng ai là không xứng đáng cho chúng con phục vụ.
Lạy Thầy Giêsu,
Thầy để lại cho chúng con một di chúc bằng hành động.
Thầy đã nêu gương cho chúng con noi theo,
để rửa chân chẳng còn là chuyện nhục nhã, nhưng là mối phúc.
Xin cho chúng con thấy Thầy vẫn cúi xuống trên đời từng người chúng con,
để nhờ đó chúng con có thể cúi xuống trên đời những ai khổ đau bất hạnh.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

BBC CHẠY BÀI VỀ SINH MỆNH CTN VIỆT NAM GẦN ÁP NGÀY 30.04

 
 
 
Image may contain: 1 person, text
Hoang Le Thanh is with Phan Thị Hồng.

BBC CHẠY BÀI VỀ SINH MỆNH CTN VIỆT NAM GẦN ÁP NGÀY 30.04

Một nhà quan sát bình luận với BBC rằng Chủ tịch Trần Đại Quang lâu nay “có vấn đề về sức khỏe” và “có thể Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ kiêm thêm chức quyền chủ tịch nước.”

Theo tiến sĩ Lê Hồng Hiệp, nhà nghiên cứu chính trị thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS) ở Singapore:

– “Một vấn đề quan trọng sẽ được quyết định là việc tìm người thay thế Chủ tịch Trần Đại Quang. Ông Nguyễn Thiện Nhân, hiện là ủy viên Bộ Chính trị và Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh, được cho là người nhiều có khả năng nhất sẽ đảm nhiệm vị trí này. Nếu ông Nhân được thăng chức, ông Võ Văn Thưởng, người từng là Phó Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh, có thể rời vị trí Trưởng Ban Tuyên Giáo hiện tại của mình để thay ông Nhân làm Bí thư TP Hồ Chí Minh.”

Theo nhiều nguồn tin khác:

– “Có thể Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sẽ kiêm thêm chức quyền chủ tịch nước.”

Nguồn: http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-43875862

GIÀNH LẠI SỰ SỐNG CHO CON BỆNH

Đỗ Ngà

Vâng lời là mặc định kẻ lớn hơn luôn đúng. Đây là suy nghĩ ấu trĩ làm cho con người trở nên dễ dàng thỏa hiệp với bất công. Sẽ không có sự tiến bộ nào trong một cộng đồng được tôi luyện thành những kẻ vâng lời.

Trong văn hóa Việt Nam, các bậc cha mẹ vẫn thường hay tự hào rằng con mình là đứa “ngoan hiền dễ bảo”. Mà chính bậc cha mẹ quan niệm thế nên trong môi trường gia đình cũng giáo dục con cái mình như vậy. Kế tiếp, khi con trẻ rời môi trường gia đình để bước vào sân trường thì cũng được nhà trường giáo dục theo mục tiêu như thế. Mọi sự chất vấn với người thầy được cho là “hỗn láo” nên đã dập tắt tư suy độc lập của bọn trẻ. Đối với học sinh thì chỉ có 2 môi trường chính làm nên nhân cách cho nó, đó là nhà trường và gia đình. Khi cả 2 môi trường này mặc định kẻ lớn luôn đúng thì làm sao học sinh không thành cừu?

Tố chất mạnh mẽ dám phản kháng tới cùng những bất công đối với mình là một nhân tố tốt cho xã hội. Những đứa trẻ như thế này được gọi là những đứa cá tính. Cha mẹ có đứa con như vậy thì phải mừng, tuy vất vả trong vấn đề dạy bảo nhưng những đứa như vậy mới là những con người mà xã hội cần. Nếu cha mẹ bị lối mòn giáo dục cũ che mắt mà triệt tiêu tố chất đó của con là một tội rất lớn.

Sự mặc định kẻ lớn luôn đúng là nguồn gốc của độc tài tồn tại. Nó xuất phát từ quan điểm “quân xử thần tử thần bất tử bất trung” hay “phụ xử tử vong tử bất vong bất hiếu”. Nguồn gốc dân bạc nhược, chính quyền hung bạo được sinh ra từ đó. Dân là nơi sản sinh ra những mầm cải cách cho xã hội, mà dân nhu nhược thì lấy đâu ra mầm tốt cho đất nước? Chính quyền độc tài là một cản trở vô cùng lớn cho bất kì mầm mống tiến bộ nào. Nếu không cho nó tiêu vong thì tìm đâu ra điều kiện để tiến bộ? Như vậy kiểu độc tài toàn trị là giống phong kiến tập quyền phương Đông đến 90%, cần phải loại nó thì đất nước mới hồi sinh được. Độc tài toàn trị là virus gây bệnh, sự khiếp nhược nhân dân là căn bệnh do nó gây ra.

Hôm nay, nhờ có internet mà rửa đi sự vâng lời vô điều kiện tồn tại trong người dân. Nhưng Internet vào Việt Nam đã 27 năm và Facebook xuất hiện đã 12 năm mà vẫn chưa rửa được chất độc đó trong lòng dân tộc này. Lối giáo dục thuần hóa con người thành một động vật vâng lời là một cách giết chết dân tộc. 73 năm đã làm cho dân tộc này nhiễm độc quá nặng, khó mà chữa khỏi trong thời gian ngắn. Giống như bệnh nhân thập tử nhất sinh, ánh sáng tiến bộ là một loại thuốc đặc trị, loại thuốc này đang được truyền liên tục vào con bệnh qua Facebook, với mong ước rằng dân tộc này có chút chuyển biến. Thế nhưng sự chuyển biến quá nhỏ nhoi, bằng chứng vụ vâng lời Mobiphone và Viettel nói lên tất cả.

Hơn bao giờ hết, bây giờ xã hội cần nhiều người nữa lên tiếng lật mặt nạ kẻ đầu độc dân tộc. Như con bệnh đang giữa lằn ranh sống-chết, nếu không ra tay giành lại sự sống thì nó sẽ chết. Vậy nên, cần lắm những ngòi bút sắc sảo tham gia. Chính họ mà nản thì số phận con bệnh thật là hẩm hiu. Đã giành lại sự sống thì ai mong người bệnh khoẻ re như con ngựa kéo xe ngay lập tức được? Nên nghĩ, còn sức còn làm mà đừng kỳ vọng hiệu quả, nghĩ thế sẽ nản mà thôi.

Tự do báo chí tại Việt Nam bị đàn áp rất nghiêm trọng, Việt Nam đứng hạng 175 trên 180.

 
Hoang Le Thanh is with Phan Thị Hồng.

RSF: 21 nước đàn áp báo chí nghiêm trọng

Tú Anh RFI 25-04-2018

Tự do báo chí tiếp tục bị tấn công trên khắp thế giới. Tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới RSF, trong bản báo cáo tình hình 2017, cho biết có 21 nước đang ở trong tình trạng « rất nghiêm trọng », một kỷ lục mới. Việt Nam đứng hạng 175 trên 180.

Bản đồ thế giới do RSF công bố dựa theo bản xếp hạng toàn cầu về quyền tự do báo chí năm 2017 là một bức tranh ảm đạm : 21 nước đứng trong danh sách bị xem là tệ hại nhất. Trong danh sách này, năm nay có thêm Irak 160, cùng đứng chung với các chế độ có thành tích trấn áp báo chí như Ai Cập 161, Cuba 172 Việt Nam 175,Trung Quốc 176, hay Bắc Triều Tiên, hạng 180, cuối bảng.

Với hạng 175, Việt Nam được mô tả là một nước mà toàn thế các cơ quan truyền thông báo chí « phải theo lệnh của đảng Cộng sản ». Nguồn tin độc lập duy nhất là « blogger và người dân làm báo ». Nhưng các phóng viên độc lập thường xuyên bị công an trấn áp bằng bạo lực . Bị cáo buộc « hoạt động tuyên truyền chống nhà nước nhằm lật đổ chính quyền », nhiều blogger lãnh án tù rất nặng nề.

Ảnh minh họa : Tự do báo chí trên thế giới bị siết chặt hơn vào 2017. Bản quyền hình ảnh: Paul Bradbury/Getty Images

Nguồn: http://vi.rfi.fr/…/20180425-dan-ap-bao-chi-21-nuoc-trong-ti…

No automatic alt text available.
Image may contain: 1 person
 

Tổ chức Phóng viên không biên giới: Việt Nam tiếp tục không có tự do báo chí

Tổ chức Phóng viên không biên giới: Việt Nam tiếp tục không có tự do báo chí

2018-04-25
 

Bà Margaux Ewen (áo đen) tại buổi công bố về Chỉ số tự do báo chí toàn cầu của tổ chức Phóng viên không biên giới năm 2018

Bà Margaux Ewen (áo đen) tại buổi công bố về Chỉ số tự do báo chí toàn cầu của tổ chức Phóng viên không biên giới năm 2018

 RFA
 

Báo cáo của tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF) cho biết tại Việt Nam hiện nay, mọi cơ quan báo chí đều hoạt động dưới sự chỉ đạo và kiểm soát chặt chẽ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguồn tin độc lập duy nhất mà hiện nay người dân có thể tiếp cận chính là từ các blogger và nhà báo tự do. Tuy nhiên, chính quyền cộng sản đang tìm cách đàn áp và xách nhiễu nhiều blogger thông qua việc sử công an thường phục. Bên cạnh đó, đã có nhiều blogger và nhà báo tự do bị bỏ tù bởi các tội danh “tuyên truyền chống nhà nước”, “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, “lạm dụng quyền tự do dân chủ” theo các điều luật 88, 79 và 258 trong Bộ luật Hình sự Việt Nam.

Nhận xét về điều này, bà Margaux Ewen, giám đốc điều hành của Tổ chức RSF tại Washington D.C cho biết:

Truyền thông Việt Nam hoàn toàn bị kiểm duyệt và những blogger và nhà báo độc lập luôn bị chính quyền đe doạ hay xách nhiễu. Nếu trước đây hình phạt cho những blogger này thường là 2 năm thì hiện nay họ có thể đối mặt với những bản án lên tới 15 năm tù giam. Ngoài ra chính phủ luôn tìm cách kiểm soát việc biểu đạt cảm xúc và truyền đạt thông tin qua internet, đồng thời ngăn cản các blogger cung cấp thông tin trung thực đến cho người đọc.”

Bà Ewen cũng nhấn mạnh, kể từ năm 2017, đã có rất nhiều nhà báo độc lập bị tuyên phạt những bản án nặng nề vì những bài viết liên quan đến tình trạng tham nhũng hay đưa tin về thảm hoạ môi trường. Cụ thể là trường hợp blogger mẹ Nấm – Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, blogger Trần Thị Nga hay nhà báo Nguyễn Văn Hoá đã bị chính quyền Việt Nam tuyên phạt từ 7 cho đến 10 năm tù giam vì những bài viết liên quan đến thảm hoạ môi trường Formosa.

Theo thống kê của Ủy ban Bảo vệ các Nhà báo CPJ, Việt Nam đã giam giữ ít nhất 10 nhà báo năm 2017, và nằm trong danh sách sáu nước giam giữ nhiều nhà báo nhất trên thế giới. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Human Rights Watch năm 2018 cũng cho biết có hơn 100 nhà hoạt động, blogger đang bị cầm tù ở Việt Nam. Trước đó đã có 36 vụ những kẻ lạ mặt mặc thường phục đánh đập những người vận động nhân quyền và blogger, nhiều trường hợp gây thương tích nặng, trong khoảng thời gian từ tháng Giêng năm 2015 đến tháng Tư năm 2017. Ngoài ra, các nhà nhà báo độc lập, các bloggers còn nói rằng gần đây chính quyền tăng cường phối hợp với Facebook để gỡ bỏ những bài viết của họ, thậm chí là khóa cả trang Facebook cá nhân – một phương tiện chính giúp lan tỏa tiếng nói của họ. Chính phủ Việt Nam cũng thông báo đã gỡ bỏ hàng ngàn bài viết, video mà họ cho là “độc hại” trong thời gian qua. Đặc biệt, mặc dù hiện nay Việt Nam có khoảng 800 cơ quan báo chí nhưng tất cả các cơ quan báo chí này đều được chỉ đạo và kiểm soát thông tin bởi Ban Tuyên giáo Trung ương. Chính vì vậy, blogger và các nhà báo tự do là kênh thông tin quan trọng đối với nhiều người dân trong việc tiếp cận những thông tin đa chiều và trung thực nhất.

Trước thực trạng này, bà Ewen kêu gọi các blogger tiếp tục đưa tin trung thực đến với người dân, bất chấp những đe doạ và bắt bớ từ phía chính quyền nhà nước:

Những blogger và nhà báo độc lập ở Việt Nam quả thật là những người vô cùng dũng cảm và tôi hy vọng họ có thể tiếp tục giữ được tinh thân đó để đấu tranh nhằm cải thiện tình trạng phi tự do báo chí như hiện nay ở Việt Nam. Tuy nhiên, tôi cũng kêu gọi các quốc gia, cụ thể là Hoa Kỳ và tổ chức báo chí cùng gây áp lực để yêu cầu chính quyền Việt Nam thả tự do cho các blogger đồng thời từ bỏ kiểm soát mạng xã hội để người dân có thể tự do biểu đạt cảm xúc và chia sẻ thông tin trên internet”

Báo cáo thường niên về Chỉ số tự do báo chí toàn cầu là sáng kiến được Tổ chức Phóng viên không biên giới đưa ra từ năm 2002, thu thập ý kiến đánh giá từ các chuyên gia do RSF lựa chọn. Câu hỏi được đưa ra dựa trên những tiêu chí về tính đa nguyên đa đảng, sự độc lập của ngành truyền thông, chất lượng khung pháp lý cũng như sự an toàn của những nhà báo khi tác nghiệp tại 180 quốc gia trên toàn cầu.

Trong báo cáo năm nay, Bắc Hàn tiếp tục là nước đứng cuối bảng về tự do báo chí trong khi Na Uy được xếp vào đầu bảng trong lĩnh vực này.

Việt Nam năm nay đứng trên một bậc so với Trung Quốc, quốc gia bị RSF chỉ trích đã tăng cường các biện pháp kiểm duyệt báo chí, bằng cách sử dụng nhiều các công nghệ mới và đã gây ảnh hưởng về mô hình kiểm soát thông tin đối với một số các quốc gia trong khu vực, đặc biệt là Vietnam và Campuchia.

THÁI ĐỘ CỦA HÒA THƯỢNG THÍCH TUỆ SỸ ĐỐI VỚI TỔ CHỨC PHẬT GIÁO QUỐC DOANH (GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM).

uỳnh Phi Long and Tho Nguyen shared a post.
Image may contain: one or more people and text

Việt Tân

THÁI ĐỘ CỦA HÒA THƯỢNG THÍCH TUỆ SỸ ĐỐI VỚI TỔ CHỨC PHẬT GIÁO QUỐC DOANH (GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM).

Vấn đề Giáo hội Phật giáo nằm trong Mặt trận tổ quốc, tôi không chấp nhận. Còn vấn đề liên hiệp giữa hai giáo hội (Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và Phật Giáo Quốc Doanh). Tôi nói lập trường của chúng tôi là không có vấn đề liên hiệp. Phật Giáo Quốc Doanh (Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam) là thành viên của mặt trận tổ quốc Việt Nam, một tổ chức chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Đó là một tổ chức chính trị; chúng tôi không làm chính trị, không liên hiệp với bất cứ tổ chức chính trị nào.

Rồi người ta có nói rằng trong qui chế, trong hiến pháp mình thì đảng cộng sản lãnh đạo tất cả. Tôi nói tôi biết điểm đó. Tôi còn biết Lenin đã nói “đảng phải thông qua tôn giáo để tập họp quần chúng”. Lenin nói, cán bộ cộng sản nào mà đàn áp tôn giáo là phản động. Lenin không chấp nhận chuyện đàn áp tôn giáo; trong cộng sản không có chuyện đàn áp tôn giáo, đó là Lenin đã chỉ thị. “đảng phải thông qua tôn giáo để tập họp quần chúng” có nghĩa là tôn giáo là một công cụ chính trị của đảng. Vì đảng không đủ khả năng tập họp, phải mượn tay tôn giáo tập họp dùm. Mà tôi không bao giờ để cho Phật giáo làm công cụ cho bất cứ đảng phái chính trị nào.

Như Liên xô, một đảng phái chính trị, 70 năm thì sụp. Cứ cho là đảng cộng sản Việt Nam tồn tại 1000 năm nữa đi, tôi cũng không bao giờ đem 2500 năm lịch sử truyền thừa Phật giáo ra làm công cụ cho bất cứ đảng phái nào. Tôi còn nói: “nếu mà lời nói này của tôi là tự đào hố chôn mình, tôi vẫn sẵn sàng tự chôn mình, chứ không thể chấp nhận chuyện đó.

Còn nếu nói là luật pháp, đúng, tôi tôn trọng luật pháp, nhưng luật pháp mà xâm phạm lý tưởng của tôi, tôi không chấp nhận cái luật pháp đó, chứ đừng có dùng chữ luật pháp với tôi”.

Đúng là ở trong đất nước nào thì phải tôn trọng luật pháp đó, nhưng nếu tự mình đặt ra luật pháp để dùng luật pháp đó xâm phạm tới giá trị, xâm phạm lý tuởng của người khác thì tôi không chấp nhận luật pháp đó, tôi sẵn sàng chịu chết. Tôi đã từng đứng trước bản án tử hình rồi, tôi không sợ, tôi chấp nhận nó. Đây không phải tôi thách thức, mà là vấn đề lý tưởng của mình…”

NAM MÔ ĐẠI CƯỜNG TINH TẤN DŨNG MÃNH PHẬT.

Trích bài “Định hướng tương lai với thế hệ Tăng sỹ trẻ” của Thượng Tọa Thích Tuệ Sỹ, nói với Tăng Sinh Thừa Thiên Huế.
————
Nguồn: Duyên Giác Ngộ
https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=848810485322783&id=461201424083693

Thầy Thích Tuệ Sĩ đã từng bị nhà nước CSVN kết án tử hình về tôi “Âm mưu lật độ chính quyền”

Vào ngày 1-4-1984, Thượng Tọa Tuệ Sỹ bị nhà cầm quyền Hà Nội bắt giữ cùng giáo sư Trí Siêu Lê Mạnh Thát và 19 Tăng ni, sĩ quan cũ của QLVNCH, bị kết án mưu võ trang lật đổ chính quyền và trong phiên tòa kéo dài nhiều ngày cuối tháng 9 1980, ngày 30 ông bị kết án tử hình cùng giáo sư Lê Mạnh Thát.

Những lời tuyên bố của người tù lương tâm Tuệ Sỹ, tại Tòa Án, cũng như khí phách kiên cường lúc trong tù, là gương sáng chói lọi, và niềm tự hào của Phật giáo và của dân tộc: “Lập trường của chúng tôi là lập trường của Phật giáo, là lập trường của toàn khối dân tộc”. Năm 1998, Hà nội thả Thượng Tọa, cùng với một số người khác. Trước đó, ông đã tuyệt thực trong tù. Trước khi thả, họ muốn Tuệ Sỹ ký vào lá đơn Xin Khoan Hồng để gửi lên ông Chủ Tịch Nhà Nước Trần Ðức Lương, Tuệ Sỹ trả lời: ‘Không ai có quyền xét xử tôi, không ai có quyền ân xá tôi”. Họ nói không viết đơn thì không thả. Tuệ Sỹ không viết, và tuyệt thực. Họ phải thả ông, sau 10 ngày tuyệt thực. Hôm đó là ngày 1.9.1998.

http://www.gdpt.net/tailieu/tuesy/tuesy.htm