Từ Bạc Liêu đến NASA

Thuong Phan shared Martin Nguyen‘s post.

 

 
 
 
Image may contain: 1 person
No automatic alt text available.

Martin Nguyen added 2 new photos.

 

 

Từ Bạc Liêu đến NASA

Xuất thân từ một vùng thôn quê, tại Bạc Liêu- miền Nam Việt Nam, cậu học sinh năm nào, người từng vượt biên năm 1979 để chạy trốn chủ nghĩa cộng sản man rợ, giờ đây, đã có thể hãnh diện tự tin ngồi đối thoại, thuyết trình cùng những nhà khoa học Mỹ về các đề án cải tiến kỹ thuật cho việc thám hiểm mặt trăng của Cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ (NASA).

Trịnh Hữu Phước lấy bằng đại học về kỹ sư công nghệ vũ trụ tại Đại học Missouri-Rolla vào năm 1985; bằng cao học năm 1987; bằng tiến sĩ về kỹ sư cơ khí tại Đại học Alabama vào năm 2004. Vợ chồng ông có 3 con gái. Ở tuổi 48, ông là người không ngừng nỗ lực để góp phần biến giấc mơ chinh phục không gian của con người trở thành sự thật. Sau khi rời Việt Nam vào năm 1979, thanh niên 16 tuổi gốc Bạc Liêu, đã trải qua nhiều khó khăn nơi xứ lạ nhưng vẫn quyết tâm theo đuổi chuyên ngành kỹ sư công nghệ vũ trụ tại Đại học Missouri-Rolla.

Thời điểm nhận bằng cao học cũng là lúc ông bắt đầu làm việc tại NASA với vai trò chuyên gia phân tích thành phần động cơ tên lửa đẩy. Kinh nghiệm tích lũy trong nhiều năm ở vị trí này đã cung cấp nền tảng vững chắc cho tiến sĩ Trịnh Hữu Phước có được vị trí chủ chốt tại NASA.

Kể từ lần thám hiểm mặt trăng cuối cùng vào năm 1972, gần đây, NASA mới bắt tay nghiên cứu chế tạo những thiết bị mới để phục vụ cho hành trình trở lại “thăm” chị Hằng. Trọng tâm của những nghiên cứu trên là phát triển các thế hệ robot mới có thể thay thế con người đổ bộ lên mặt trăng, kế đến là sao Hỏa và thậm chí cả tiểu hành tinh.

Với mục tiêu nhanh chóng quay lại mặt trăng và thực hiện những cuộc khảo sát chi tiết trên bề mặt thiên thể này, NASA đã chọn đề án phát triển RLL, và điều đáng lưu ý là một nhà khoa học gốc Việt, tiến sĩ Trịnh Hữu Phước, đã được chọn làm trưởng nhóm nghiên cứu và chế tạo 2 động cơ tên lửa đẩy nhằm hỗ trợ RLL đáp. Trong đó, một loại dùng nhiên liệu lỏng để điều khiển phi thuyền trong lúc bay và đáp xuống mặt trăng, một loại dùng nhiên liệu đặc để tạo phản lực làm giảm tốc độ của phi thuyền trước khi đáp.

Chương trình thử nghiệm 2 động cơ tên lửa đẩy do nhóm của tiến sĩ Trịnh Hữu Phước chế tạo đã thỏa mãn những mục tiêu đề ra ban đầu. Ban thẩm định đã đánh giá sự ổn định khoang đốt, hiệu quả và khả năng của động cơ đẩy cũng như việc nhiên liệu được đốt cháy đều đặn trong suốt thời gian dài khi hoạt động hết công suất. Bản thân tiến sĩ Phước tự nhận xét: “Những nghiên cứu trên cho thấy khả năng đốt cháy ổn định trong mọi hoàn cảnh của động cơ”. Thành công này sẽ cho phép dự án chế tạo robot đổ bộ được chuyển sang giai đoạn thiết kế phi thuyền sử dụng công nghệ động cơ đẩy tiên tiến.

Tiến sĩ Phước hiện là kỹ sư phi hành không gian, phụ trách phát triển động cơ hoả tiễn cho phi thuyền bay đi từ mặt trăng. Tiến sĩ Diệp là kỹ sư vật liệu cấu trúc, sáng chế và thử nghiệm vật liệu dùng cho động cơ hoả tiễn nhiên liệu đặc của phi thuyền con thoi. Cả hai vợ chồng đang làm việc cho Trung tâm Không gian NASA, chi nhánh Marshall ở thành phố Huntsville, tiểu bang Alabama.

Nhiều người đang lãng phí cuộc đời chỉ vì 1 chữ!

Nhiều người đang lãng phí cuộc đời chỉ vì 1 chữ!

Nhiều người đang lãng phí cuộc đời mà không mấy ai để tâm, vì tưởng chừng một chữ đó rất đỗi bình thường trong cuộc sống hiện thực, nhưng nó lại lấy đi không biết bao nhiêu thời gian quý báu trong đời sống chỉ vì chữ đợi.

Đợi – cả một cuộc đời, con người ta phải đợi quá nhiều: Đợi tương lai, đợi đến khi hết bận, đợi đến lần sau, đợi đến khi có thời gian, đợi đến khi có điều kiện, đợi đến khi có tiền…

Nhưng rồi về sau, đợi hoài đợi mãi, đợi đến khi chẳng còn duyên phận, đợi đến khi chẳng còn thanh xuân, đợi đến cuối cùng không còn sức khỏe, không còn cơ hội, không còn lựa chọn, những thứ nhận được chỉ là sự hối tiếc và hối hận.

Điển hình trong số này có lẽ là ông bà, bố mẹ chúng ta. Họ:

Đợi đến khi con biết đi mới yên tâm.

Đợi đến khi con đi học mới yên tâm.

Đợi đến khi con đỗ đại học mới yên tâm.

Đợi đến khi con tìm được công việc mới yên tâm.

Đợi đến khi con có người yêu mới yên tâm.

Đợi đến khi con kết hôn mới yên tâm.

Đợi đến khi con có cháu mới yên tâm.

Đợi đến khi cháu biết đi mới yên tâm.

Đợi đến khi cháu đi học mới yên tâm.

Đợi đến khi cháu đỗ đại học mới yên tâm.

 

Thời gian vội vã lao đi; Cơ hội nảy sinh rồi tan biến… Vậy mà bạn vẫn chờ đợi và không dám thử – Con chim có đôi cánh mà không dám bay lên.

Nhưng đáng tiếc là cuối cùng, họ có thể chẳng kịp hưởng thụ cuộc sống, tận hưởng cuộc đời đã ra đi!

Vì thế cho nên, chúng ta hãy dừng ngay việc lãng phí cuộc đời vào chữ “đợi”, đừng để nó có cơ hội tái hiện trong cuộc sống của chúng ta thêm nữa.

Trong cuộc đời mỗi con người, có 6 thứ không thể đợi

Sức khỏe không thể đợi, vì một khi sức khỏe sa sút, tất cả mọi thứ trên đời đều biến mất.

Bi ai lớn nhất đời người là dùng sinh mệnh để đổi lấy phiền não và lãng phí lớn nhất đời người là dùng tính mạng để giải quyết rắc rối do bản thân mình tạo ra!

Sức khỏe là vốn liếng cơ bản và quan trọng nhất của cuộc đời mỗi con người, chớ dại dột hay xem nhẹ mà đợi đến khi có bệnh đầy người mới hối không kịp.

Khi còn trẻ, con người ta có thể mang bán sức lấy tiền mà ít ai nhận thức rõ rằng, khi về già, có mang bao nhiêu tiền ra cũng khó có thể đổi được sức khỏe và mạng sống.

Hiếu kính không thể đợi, bởi bố mẹ đi rồi, chúng ta có muốn bày tỏ lòng hiếu thảo cũng chẳng còn cơ hội;

Cây muốn lặng nhưng gió chẳng đừng, không biết đã có bao nhiêu người con muốn chăm sóc bù đắp cho bố mẹ nhưng song thân không thể đợi được đến lúc đó.

Chúng ta khôn lớn thành người cũng là lúc cha mẹ già đi từng ngày, vì thế, kính hiếu với cha mẹ là việc phải đặt lên đầu, càng sớm càng tốt. Ơn dưỡng dục nặng tựa núi, nếu không thể báo đáp, cả đời người làm con sẽ phải sống trong hối tiếc.
 

   

Giáo dục không thể đợi, bởi vì từ khi còn là mầm cây đã ngả nghiêng, khi trưởng thành khó mà có thể chỉnh cho thẳng;

Nghèo khó không thể đợi, phải tìm cách “thoát nghèo” càng sớm càng tốt bởi vì thời gian lâu dần, bạn sẽ trở nên ì ạch, kém nhạy bén;

Tình bạn không thể đợi, bởi vì không có bạn, muốn thoát khỏi trạng thái cô đơn có lẽ chẳng hề dễ dàng.

Thanh xuân không thể đợi, bởi lẽ thời gian đã trôi qua rồi, có bỏ ra bao nhiêu tiền cũng chẳng mua lại được.

Một cuộc sống quá vội vã hối hả sẽ mang đến cho bạn nhiều thứ, trong đó là không ít những tiếc nuối. Thế nên, hãy tận dụng thời gian trước mắt thật tốt, đó mới là việc quan trọng nhất với mỗi người.

Trân trọng duyên phận, trân trọng thời gian chúng ta được ở bên nhau chính là cách mà chúng ta trân trọng sinh mệnh của bản thân.

Tu-Phung gởi

MA QUỶ TẤN CÔNG

MA QUỶ TẤN CÔNG

Trầm Thiên Thu

   Mùa Chay lại về, Mùa Chay là thời gian thuận tiện để chúng ta kiểm điểm cuộc đời mình và rà soát mọi ngõ ngách của linh hồn, và cố gắng chấn chỉnh để phần nào đền bù tội lỗi của chính mình.

    Chúng ta đang sống trong “vùng chiến tranh” nghiêm trọng, và khó tìm thấy hòa bình trong khoảng đó.  Điều mà nhiều người khó nhận ra, đó là cuộc chiến đấu xảy ra hằng ngày trong cuộc sống của chúng ta ở ngay trong đầu chúng ta.  Kinh Thánh cho biết:“Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ.  Tảng đá ấy chính là Đức Kitô.  Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc” (1 Cr 10:3-5).

   Có những đồn lũy nào đó của ma quỷ vây hãm chúng ta hằng ngày mà chúng ta phải nhận biết.  Cuộc chiến đang xảy ra trong tư tưởng của chúng ta và ma quỷ lợi dụng chính các nhược điểm đó để tấn công chúng ta.  Hãy lưu ý 6 điểm dưới đây.  Đừng coi ma quỷ là đồng minh, bởi vì nó xảo trá và quỷ quyệt, nó sẽ lừa dối bạn để bạn lọt vào tròng của chúng.

 

  1. KHI BẠN BỊ TỔN THƯƠNG

    Ma quỷ sẽ tấn công bạn khi bạn yếu đuối, cả thể lý lẫn tinh thần.  Chúa Giêsu bị ma quỷ tấn công sau khi Ngài đã ăn chay suốt 40 ngày.  Kinh Thánh cho biết:“Người ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói.  Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi!” (Mt 4:2-3).  Ma quỷ đã từng tấn công Chúa Giêsu vào một trong những lúc Ngài suy nhược nhất về thể lý.  Có những người “chăm chút” sự yếu đuối của mình và giữ lấy nó.  Nếu bạn là người như vậy, bạn sẽ không bao giờ tự do.  Ma quỷ “bắt cóc” bạn và cầm giữ bạn.

 

  1. KHI BẠN MỆT MỎI

    Bạn có thường uể oải hoặc mệt mỏi?  Thiếu nghị lực và thiếu sinh khí thường là hậu quả của một cuộc tấn công “mở rộng”.  Thật vậy, các vấn đề này có thể xảy ra từ các vấn đề khác, kể cả việc mất ngủ và thiếu sức khỏe.  Tuy nhiên, một trong các dấu hiệu quan trọng nhất mà bạn bị tấn công tinh thần là lúc bạn cảm thấy mệt mỏi, chính sự mệt mỏi khiến bạn chán nản và ngăn cản bạn làm những điều Thiên Chúa bảo bạn làm.  Ngôn sứ Isaia cho biết: “Thanh niên thì mệt mỏi, nhọc nhằn, trai tráng cũng ngả nghiêng, lảo đảo” (Is 40:30), nhưng chờ đợi Chúa bồi bổ sức mạnh và thể hiện sự khôn ngoan để có thể chờ đợi, nghỉ ngơi và cậy nhờ vào Thiên Chúa chứ đừng ỷ vào sức mình.

 

  1. KHI BẠN BẮT ĐẦU MỘT HÀNH TRÌNH TÂM LINH MỚI

   Ma quỷ sẽ tấn công bạn khi bạn bắt đầu một quyết tâm mới về tâm linh.  Không có gì nó ghét hơn là bạn quyết định thiết lập mối quan hệ với Thiên Chúa và phát triển đức tin.  Ngay sau khi Chúa Giêsu bị ma quỷ cám dỗ, Ngài khởi đầu sứ vụ công khai.  Kinh Thánh cho biết: “Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói rằng: Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4:17).  Nhận biết Chúa Giêsu sẽ bắt đầu sứ vụ, ma quỷ đã ráo riết tấn công Ngài, nhưng Ngài không thoái chí.  Khi bạn bắt đầu bất cứ một hành trình tâm linh nào, ma quỷ sẽ tấn công để phá hoại và làm cho bạn chia trí khi cố gắng sống thân mật với Thiên Chúa và mở rộng sứ vụ của Đức Kitô.  Đừng để ma quỷ chiến thắng bạn!

 

  1. KHI BẠN BỐI RỐI

     Ma quỷ sẽ tấn công bạn khi bạn thất vọng ê chề.  Trong cuộc tấn công tinh thần, ma quỷ dùng nhiều mưu kế để đè nén tâm trí bạn và làm cho bạn cảm thấy thất vọng.  Khi bạn ở trong vòng vây của nó, có thể bạn cảm thấy mình gặp nguy hiểm, lo lắng hoặc bối rối.  Những lúc đó, cuộc đối thoại đơn giản với người khác (cha mẹ, vợ chồng, bạn bè,…) có thể chuyển thành xung đột, và ý tưởng đơn giản trong đầu của bạn có thể biến thành cảm xúc tiêu cực.  Bạn cũng có thể cảm thấy không còn là mình như trước.  Điều này không chỉ ở trong đầu của bạn.  Trong những lúc như vậy, điều quan trọng là bạn phải cố gắng tập trung vào Thiên Chúa.

 

  1. KHI BẠN ĐAU KHỔ

   Ma quỷ sẽ tìm cách quyến rũ bạn mau chóng chữa trị khi bạn đau đớn và đau khổ.  Nó muốn bạn tin nó có mọi cách thức, chứ không phải Thiên Chúa.  Nếu bạn gặp rắc rối trong các mối quan hệ, nó sẽ cho bạn các lời lẽ và tư tưởng tồi tệ về người kia để làm cho mối quan hệ rạn vỡ nhiều hơn.  Nếu bạn đang chiến đấu với bệnh tật, nó sẽ cố gắng làm cho bạn tin rằngThiên Chúa không hiện diện và chẳng quyết tâm những gì bạn đang chịu đựng.  Nếu bạn tìm kiếm Thiên Chúa trong những lúc đó, ma quỷ sẽ làm cho bạn nghi ngờ rằng không biết Thiên Chúa thực sự có tốt lành hay không.

 

  1. KHI BẠN MỘT MÌNH

    Ma quỷ sẽ tấn công bạn khi bạn có một mình vì nó biết rằng bạn rất yếu đuối khi không có mặt người khác.  Nó cũng cho rằng đó là lúc bạn dễ sa ngã nhất.  Kinh Thánh cho biết: “Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa để chịu quỷ cám dỗ” (Mt 4:1).  Ma quỷ biết Chúa Giêsu ở một mình nên nó cám dỗ Ngài.  Ma quỷ có thể phát hiện khi nào bạn cảm thấy cô đơn.  Những lúc đó, nó muốn bạn tin rằng bạn hoàn toàn đơn độc.  Thỉnh thoảng bạn cảm thy như ma quỷ không bỏ mặc bạn một mình, rất cần phải nhớ rằng Thiên Chúa luôn ở bên bạn!

 

  1. HÃY NHÌN LÊN THIÊN CHÚA

    Nếu bạn là chi thể trong Nhiệm Thể của Đức Kitô, hãy chắc chắn rằng ma quỷ luôn cố gắng hủy hoại bạn.  Khi mọi thứ không thể đổ lỗi cho ma quỷ, có nhiều điều chứng tỏ hậu quả công việc của nó và phải nhận biết khi nào ma quỷ hoạt động trong cuộc sống của bạn.  Nếu bạn không cảnh giác, nó có thể hủy diệt bạn và tách rời chúng ta ra khỏi Chúa Cha.  Không có gì để ma quỷ yêu thương, nhưng khi bạn được bảo vệ và được canh giữ, bạn có sức mạnh để đẩy lui mọi cuộc tấn công của ma quỷ.

Lesli White

Trầm Thiên Thu

  chuyển ngữ từ Beliefnet.com

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chịu đau khổ và bị cám dỗ.  Chúa là Đấng quyền năng đã đến để cứu giúp những người đang bị xiềng xích bởi ma qủy, vì Chúa luôn nâng đỡ những kẻ đi theo Ngài.

Lạy Chúa, xin gìn giữ những kẻ tin vào danh thánh Chúa trong cánh tay Ngài.  Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, mà ban niềm hoan lạc bất diệt.  Amen!

 St. Gregory of Khandzta (759-861)

 From: KittyThiênKim & Nguyễn Kim Bằng

Việt Nam đã bị đưa vô danh sách bị kiểm soát đặc biệt

 JpLe Thanh Luan‘s post.
 
 
 
Image may contain: 1 person, standing

JpLe Thanh LuanFollow

 

Nhờ ơn đảng và nhà nước XHCN Việt Nam mà ngày nay chúng ta được trong danh sách rất đặc biệt ở các nước láng giềng.

💁‍♂️ Việt Nam đã bị đưa vô danh sách bị kiểm soát đặc biệt, chung với các nước khủng bố, hải tặc Somali và man rợ Phi Châu. Đây là quốc nhục, dân tộc VN bị coi ngang hàng với hải tặc, khủng bố.

💁‍♂️ Hải quan nước ngoài sẽ có quyền tra hỏi, khám xét người VN xuất cảnh. Còn cái nào nhục nhã, xấu hổ hơn nữa không mọi người, chúng ta bị người ta coi như các dân tộc khốn kiếp nhất thế giới như Bắc Hàn, hải tặc Somali, Hồi giáo khủng bố. Nguyên nhân là do Đảng Cộng Sản VN làm nghèo quốc gia, và làm ngu dân, nên người dân VN bị khinh thường khi ra nước ngoài.

💁‍♂️ 90 triệu dân VN phải thức tỉnh để thấy được thực trạng VN lúc này là quá tệ hại rồi, dân tộc chúng ta đã bị khinh thường hơn chó rồi.

Có nhục nào nhục hơn !!??

GẠC MA – 2

 Tân Thái Bá‘s post.

 

 
No automatic alt text available.

Tân Thái BáFollow

GẠC MA – 2

Ai đó đã phản bội,
Bắt các chiến sĩ ta
Không được phép bắn trả
Khi giặc chiếm Gạc Ma.

Và giặc đã giết họ
Bằng súng ba bảy ly.
Thằng nào ra lệnh ấy
Cần phải bị tru di.

Những người may sống sót
Bị bắt đưa về Tàu.
Không được ai giải cứu.
Mãi hơn nửa tháng sau

Ai đó mới dè dặt
Gửi một bức công hàm
Đề nghị “bạn” Trung Quốc
Thả “thủy thủ” Việt Nam.

Cứ như thể Trung Quốc
Không hề làm điều gì.
Không cướp đảo, bắn giết
Bằng súng ba bảy ly.

Tận cùng của nhục nhã.
Tận cùng của đớn hèn.
Đó là sự xúc phạm
Đất nước và tổ tiên.

Xúc phạm cả ta nữa,
Những người dân bình thường.
Những người sẵn sàng chết
Để bảo vệ quê hương.

PS
Không thể không xấu hổ
Vì lãnh đạo của ta.
Sự thật là thế đấy.
Sự thật về Gạc Ma.  

Ngoại Trưởng Rex Tillerson mất chức

 

 Ngoại Trưởng Rex Tillerson mất chức

Ông Rex Tillerson, ngoại trưởng Hoa Kỳ, vừa bị thay thế. (Hình: AP Photo/Azeez Akunleyen)

WASHINGTON, DC (NV) – Tổng Thống Donald Trump vừa quyết định đề cử ông Mike Pompeo, giám đốc CIA, thay thế Ngoại Trưởng Rex Tillerson, theo nhật báo The Washington Post sáng Thứ Ba.

Sau đó, ông Trump tweet ra như sau: “Ông Mike Pompeo, giám đốc CIA, sẽ là tân ngoại trưởng của chúng ta. Ông ấy sẽ làm một công việc tuyệt vời! Cảm ơn ông Rex Tillerson! Bà Gina Haspel sẽ là tân giám đốc CIA, và là phụ nữ đầu tiên được chọn làm việc này. Chúc mừng tất cả!”

Cả hai đề cử mới này của tổng thống sẽ phải được Thượng Viện chuẩn thuận.

Hiện nay, bà Haspel là phó giám đốc CIA.

Theo các giới chức tại Bộ Ngoại Giao, ông Tillerson không được nói chuyện với tổng thống và cũng không hiểu vì sao ông bị sa thải.

Quyết định này của tổng thống chấm dứt thời gian làm việc đầy sóng gió của ông Tillerson, người thường có những mâu thuẫn với ông Trump, hoặc bị Tòa Bạch Ốc “gạt ra rìa.”

Hôm Thứ Năm tuần trước, ông Tillerson nói còn quá sớm để nói là Tổng Thống Trump sẽ gặp Chủ Tịch Kim Jong Un của Bắc Hàn.

Ngay sau đó, ông Trump nói sẽ gặp nhà độc tài vào Tháng Năm để thảo luận việc chấm dứt chương trình nguyên tử ở bán đảo Triều Tiên. (Đ.D.)

Di chúc của cha không bằng tờ giấy lộn

Di chúc của cha không bằng tờ giấy lộn

Trần Gia Huấn

Tác giả gửi tới Dân Luận

Kim Jong Nam là anh cùng cha khác mẹ với Kim Jong Un, đương kim lãnh tụ Bắc Hàn. Jong Nam vừa bị ám sát bởi một nhóm khoảng mười người, tại phi trường Kuala Lumpur, Mã Lai, vào sáng 13/2/2017. Dựa vào những nguồn tin đã được kiểm chứng, tôi tóm tắt lại đôi dòng về thân nhân của Jong Nam để bạn đọc có thêm thông tin.

Mẹ – Song Hye Rim

Kim Jong Nam là con trai đầu lòng của cố Lãnh tụ Bắc Hàn Kim Chính Nhất và mẹ Song Hye Rim.

Bà Song Hye Rim sinh tại Nam Hàn. Cha bà là đảng viên Đảng Cộng sản Triều Tiên, nên quyết định đi “tập kết” đưa cả gia đình đến miền Bắc sinh sống.
Là diễn viên điện ảnh xinh đẹp, tài năng, và nổi tiếng, bà Song Hye Rim đã kết hôn với tiểu thuyết gia kiêm dịch giả lừng danh Yi Ki Yong. Vợ chồng bà có con gái sinh năm 1956.

Kim Chính Nhất bấy giờ là con trai duy nhất của bậc khai quốc công thần Lãnh tụ Kim Nhất Thành. Vào khoảng 1967, Chính Nhất lãnh đạo ngành văn hoá và nghệ thuật Bắc Hàn thì gặp cô đào màn bạc Hye Rim. Dục vọng và ái tình đã làm cho vị hoàng tử trẻ 25 tuổi lao vào mê lộ.

Bạn gái thân của bà Song kể lại: Hình như Chính Nhất mất mẹ sớm nên ông thích phụ nữ lớn tuổi. Hơn nữa, Song Hye Rim có nhan sắc vừa mặn mà vừa quyến rũ, thông minh, nói năng duyên dáng, nhạy cảm, và rất khôi hài.

Bà Song sinh năm 1937, đã có chồng, có con. Kim Chính Nhất sinh năm 1941, độc thân. Bà Song dáng người khá cao. Chính Nhất thấp hơn. Bất chấp, Chính Nhất ép bà phải ly dị và bí mật sống với ông như vợ chồng. Kết quả, Kim Jong Nam là bông trái của mối tình đầy sóng gió này.

Xã hội Bắc Hàn khi đó mang đậm màu sắc phong kiến, không ai có thể chấp nhận vị hoàng tử trẻ độc thân, lãnh tụ tương lai của đất nước, lại có thể kết hôn với một phụ nữ hơn tuổi, đã có chồng, có con riêng, và đến từ miền Nam thù địch. Mối tình bị khai tử. Tuy vậy, bà Song vẫn nhận được mọi ân sủng, được thăm và nuôi con.

Năm 1974, bà mắc chứng trầm cảm, đi điều trị ở Moscow, Liên Xô, rồi ở lại luôn. Mỗi lần về lại Bắc Hàn, bà đều được Kim Chính Nhất mời ăn tối, và tiếp đón chu đáo. Ông dành cho bà tình cảm đặc biệt.

Sau khi chia tay với Kim Chính Nhất lúc 37 tuổi, bà Song không thấy có mối quan hệ với người đàn ông nào nữa. Bà qua đời năm 2002, ở tuổi 65, mai táng tại Moscow.

Cha – Kim Chính Nhất

Kim Chính Nhất được cha truyền ngôi, lãnh đạo đất nước 17 năm từ 1994 cho đến khi qua đời năm 2011. Có ít nhất năm người đàn bà đã bước qua cuộc đời tình dục đầy phóng túng của ông.

Người thứ nhất – Hong Il Chon, sinh năm 1942, là bạn cùng Đại học với Chính Nhất. Hai người sống với nhau từ 1966 tới 1969 có một con gái sinh năm 1968.
Người thứ hai – Song Hye Rim, sinh năm 1937, là diễn viên điện ảnh, mẹ của Kim Jong Nam vừa bị ám sát.

Người thứ ba – Kim Yong Suk, sinh năm 1947, được coi là vợ chính thức của Kim Chính Nhất, bởi vì bà được cha chồng Kim Nhật Thành chọn. Lễ cưới tổ chức vào tháng 10/1973. Họ có hai con gái Kim Sul-Song sinh 1974 và Kim Chun-Song sinh 1976. Bà và Chính Nhất chia tay vào khoảng những năm đầu thập kỷ 1980s.
Người thứ tư – Kim Yong Hui, sinh năm 1953 tại Osaka, Nhật Bản. Tổ tiên của gia đình bà gốc Bắc Hàn di cư tới Nhật đã lâu, nên cha bà đã đưa gia đình trở lại cố hương vào khoảng giữa năm 1960s. Bà là diễn viên múa trẻ và rất xinh đẹp trong đoàn nghệ thuật quốc gia. Hình ảnh bà phủ kín trên các trang bìa của truyền thông Bắc Hàn thời đó. Bà lọt vào mắt hoàng tử Chính Nhất, rồi trở thành người tình từ năm 1975.

Bà sinh con trai Kim Jong Chol vào năm 1981, Kim Jong Un (đương kim Lãnh tụ Tối cao Bắc Hàn) 1983, và cô gái út 1987. Tuy không phải vợ chính thức, không có hôn thú, nhưng bà thường tháp tùng Kim Chính Nhất, giữ vai trò của một Đệ nhất Phu nhân. Bà qua đời vào năm 2004, mới 50 tuổi, do ung thư vú.
Người thứ năm – Kim Ok, sinh năm 1964, là nghệ sỹ biểu diễn dương cầm tài năng trong đội nhạc công phục vụ cán bộ cao cấp. Bà đã lọt vào tầm ngắm, được Kim Chính Nhất tuyển dụng làm thư ký riêng.

Khi người tình thứ tư (mẹ của Kim Jong Un) chết thì Kim Ok xuất hiện như một Đệ nhất Phu nhân. Bà tháp tùng Kim Chính Nhất trong dịp lễ hội, thăm viếng các nước, đón tiếp nguyên thủ. Bà là người duy nhất được tham dự vào công việc hệ trọng, hội họp, hoạch định chính sách, hay ra những quyết định. Bà cũng được coi là người đàn bà sống bên cạnh vị Lãnh tụ Kính yêu lâu nhất, chăm sóc ông chu đáo liên tục 31 năm, từ 1980 đến 2011.

Bà cộng tác rất đắc lực với Jang Song Thaek (chú dượng của Kim Chính Ân) người chủ trương mở cửa, cải cách kinh tế đi theo đường lối của Trung Quốc.

Kim Chính Nhật chết. Kim Jong Un lên thay. Bà Kim Ok bị tước hết quyền hành, tịch thu tài sản, và cả gia đình bà (bố mẹ và anh chị em) bị đày đi cải tạo lao động. Hiện bà 53 tuổi, không có con với Kim Chính Nhất, đang sống trong một trại lao khổ ở Bắc Hàn.

Tóm lại, Kim Chính Nhất có tổng số bảy người con (ba trai bốn gái) với một vợ và bốn người tình. Trong đó, bà Song Hye Rim, người tình hơn tuổi, mẹ của Kim Jong Nam được mô tả là ông sủng ái nhất, với con trai Kim Jong Nam cũng được ông yêu thương nhất .

Dì: Song Hye Ring

Kim Jong Nam sinh 10/5/1971, tại Bình Nhưỡng. Thời gian đầu đời, Jong Nam sống với mẹ, bà ngoại và dì. Năm 1974, khi mẹ qua Moscow chữa bệnh, cha ông mời người dì ruột của Jong Nam, bà Song Hye Ring, em gái của người tình cũ, về kèm học cho Jong Nam mỗi ngày.

Dì Hye Ring, cũng là một minh tinh màn bạc đẹp và nổi tiếng, vừa ly dị chồng, có con nhỏ cùng lứa với Jong Nam. Hàng ngày, dì mang con mình và Jong Nam tới căn phòng bí mật gần nơi làm việc của Kim Chính Nhất để nuôi dạy. Bí mật bởi Chính Nhất không dám để cha biết mối quan hệ của ông.

Đến năm 1979, dì Hye Ring tháp tùng Jong Nam đi học tại trường Quốc Tế Geneva, Thụy Sỹ. Kim Chính Nhất sợ bà mang Jong Nam trốn sang phương Tây, nên lệnh cho hai dì cháu phải học ở Moscow, Liên Xô. Cả tuổi thơ của Jong Nam sống ở Moscow hoặc Geneva.

Jong Nam về lại Bắc Hàn với cha năm 1988. Dì Hye Ring đào thoát. Bà đang sống ẩn danh tại một nước châu Âu. Trong cuốn hồi ký của bà có đoạn viết về tình cha con giữa Kim Chính Nhất và Jong Nam: “Không có từ ngữ nào có thể mô tả nổi tình yêu thương của Kim Chính Nhất dành cho con trai. Vị hoàng tử trẻ tuổi lúc nào cũng ẵm đứa con trai trong giấc ngủ. Khi nó khóc, ông ẵm, ông đưa, ông ru cho đến khi nó nín. Cách ông vỗ về an ủi con chẳng thua kém gì những người mẹ giỏi.”

Sự kiện Disneyland ở Tokyo

Tròn 18 tuổi về lại Bắc Hàn, Jong Nam chứng kiến những đổi thay lớn trong đại gia đình họ Kim. Cha ông đã có vợ mới với những con trai, con gái trong đó có Kim Jong Un.

Jong Nam càng bị giấu kín hơn. Ông không bao giờ được báo chí đề cập tới như những người con khác. Mãi cho đến buổi sáng định mệnh 13/2/2017 khi bị ám sát tại Kuala Lumpur, cũng chỉ vài người Bắc Hàn biết tới ông.

Trong thời gian sống ở Bắc Hàn, Jong Nam không được phép ra khỏi Bình Nhưỡng. Những dịp lễ tết, họp mặt đại gia đình họ Kim, Jong Nam cũng không có mặt. Thảng hoặc, ông được phép đến nhà nghỉ của cha nằm trên bờ biển thuộc thành phố cảng Wonsan. Dì Hye Ring kể lại rằng “Bãi biển mêng mông thinh lặng, chỉ có hai đứa trẻ và người lái xe.”

Jong Nam theo học ngành Khoa học Chính trị, rồi chuyển sang Computer Science tại Thụy Sỹ. Ông được mô tả là người thân thiện, khiêm tốn, hòa đồng, nói tiếng Anh, Pháp và Nga lưu loát. Jong Nam rất gần gũi với những nhân vật chủ trương mở cửa, đặc biệt là người cô ruột (em gái của cha), bà Kim Kyong Hui và chồng bà là Jang Song Thaek. Jong Nam lúc ấy được Kim Chính Nhất chọn làm người kế vị.

Bất hạnh thay, trong lần đi du lịch tới Nhật, Jong Nam đã dùng hộ chiếu giả, bị bắt tại phi trường Narita, Tokyo. Jong Nam khai với cảnh sát Nhật rằng ông dùng hộ chiếu giả với mục đích muốn thăm khu du lịch Disneyland, Tokyo.

Sự cố này đã làm Kim Chính Nhất mất mặt. Ông bỏ Jong Nam, và quyết định đưa Jong Un lên nối ngôi. Sau khi cha mất, Jong Nam chính thức bước vào cuộc đời lưu vong.

Di chúc của cha

Jong Un tự phong mình là “Lãnh tụ Tối cao”. Tối cao nên muốn giết ai thì giết.

Un cho tử hình chú Jang Song Thaek, Đại tướng, Phó Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng Quốc gia, người đồng chí thân cận nhất của cha, và cũng là chồng của cô. Ông Jang bị lột trần truồng rồi thả cho bầy chó săn cắn xé cho đến khi tắt thở.

Jong Un đầu độc cô ruột Kim Kyong Hui, người em gái thân thiết của cha, vì cô dám đứng lên bảo vệ chồng. (Có tin nói bà bị đầu độc, đã chết. Có tin nói bà bị đầu độc hôn mê, chưa chết, đang sống đời sống thực vật)

Jong Un tử hình Tướng bốn sao, Bộ trưởng Quốc phòng Hyon Yong-Chol, bằng đại bác, tại một trường sỹ quan, trước mặt toàn bộ học viên.

Jong Un cho thiêu sống Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Giáo dục Kim Jong Jin chỉ vì ngủ gật, ngồi không ngay ngắn khi Lãnh tụ Tối cao đang phát biểu.

Jong Un đày ải mẹ kế Kim Ok, người cận kề an ủi, giúp đỡ cha trong những năm cuối đời sức tàn lực kiệt.

Năm năm lãnh đạo, Un tử hình 340 cán bộ cao cấp tương đương hàm bộ, thứ trưởng, bằng những hình thức dã man.

Trở lại năm 2009, cha Kim Chính Nhất đang nắm quyền lãnh đạo đất nước. Con trai Jong Un bấy giờ 25 tuổi, toàn quyền ngành an ninh và tình báo quốc gia. Jong Un cho khám nhà, và bắt Jong Nam cùng nhiều người khác.

Hình như thấy trước được những tai ương, Kim Chính Nhất trước khi chết khoảng một tháng, đã di chúc rõ ràng rằng: Kim Jong Un là người tiếp quyền ông lãnh đạo đất nước. Kim Jong Nam phải được sống một cuộc đời yên ổn. Tất cả mọi người, kể cả chính quyền, không được phép sách nhiễu, gây phiền toái, hay hãm hại Jong Nam. (Thời gian và nội dung của bản di chúc được cơ quan tình báo Nam Hàn thu thập từ những cán bộ cao cấp đào thoát qua miền Nam).

Thôi, cũng xong một kiếp người. Kể ra, Jong Nam còn may mắn và rất có hậu. Có lẽ người mẹ xinh đẹp tài năng, cùng bao oan hồn khác, sống khôn chết thiêng đã phù hộ cho Jong Nam, để ông được chết giữa thanh thiên bạch nhật, giữa phi trường quốc tế, tại một quốc gia không bưng bít thông tin. Công luận bây giờ đã biết tới Kim Jong Nam. Công lý sẽ tới với ông. Truyền thông thế giới khai thác, mổ xẻ, phân tích từng chi tiết. Hình ảnh Kim Jong Nam quỵ ngã khi trúng độc được chiếu nhiều lần trên nhiều kênh truyền hình quốc gia. Độc tố giết ông được xét nghiệm. Được bào chế ở đâu? Ai bào chế nó? Ai vận chuyển nó vào Malaysia? Các nghi phạm được phơi bày. Thi thể ông được bảo vệ và tôn trọng.

Còn bao nhiêu nạn nhân Bắc Hàn, chết âm thầm, chết tức tưởi, chết đớn đau, chết oan nghiệt, chết trần truồng, chết đói khát, chết cô đơn, chết không được toàn thây, không ai biết tới, không quan tài, không hương khói, không điếu văn, không kèn trống, không cả một nấm mồ.

Kim Jong Un (còn ai khác?) đã lệnh giết Kim Jong Nam, người anh cùng cha khác mẹ, người đã van xin có cuộc đời ẩn dật, lưu vong, người con trai cả yêu mến của cha, người đầu tiên trong dòng họ nhà Kim bị mưu sát.

Di chúc của cha, nhưng Kim Jong Un coi không bằng tờ giấy lộn.

Tu-Phung gởi

ÔNG THÔNG GIA – VŨ THƯ HIÊN

  ÔNG THÔNG GIA –  VŨ THƯ HIÊN
1-Tôi sung sướng đằm mình trong nước mát. Trên đầu tôi, quanh tôi, nắng chói loà. Tôi bập bềnh trôi. Có tiếng sáo diều văng vẳng. Đang say sưa ngụp lặn, bỗng có một cái gì va vào tôi làm tôi vùng vẫy, sặc̣ sụa.

– Cậu ngủ say quá thể! – nghe tiếng người, tôi nhận ra tiếng cô Lương – Dậy đi, cậu.

Cô Lương lột tấm chăn tôi trùm kín đầu. Tôi giằng lại, nhưng không được. Thế là tỉnh hẳn.

– Có việc gì mà cô đến sớm thế? – tôi tung chăn ngồi dạy, càu nhàu.

Tôi tiếc giấc mơ. Tiếc lắm. Không dễ gì gặp được một giấc mơ như thế. Với tôi, dòng sông quê hương mà tôi vừa được thoải mái trầm mình trong đó giờ đây xa lơ xa lắc. Tưởng chừng nó đã mất hẳn trong trí nhớ. Giấc mơ như một món quà bất ngờ. Món quà tan biến chỉ vì cái nhà cô Lương thổ tả kia.

Tôi nghe tiếng dép lẹp kẹp đi về phía bếp, tiếng nước đổ vào ấm, tiếng bật công tắc.

– Sớm gì mà sớm. – tiếng cô Lương nói – Trưa rồi.

Tôi vẫn còn chưa hết bực mình. Mở mắt thấy kim đồng hồ trên bàn chập nhau ở con số 12. Trưa thật rồi.

Cô Lương chậm rãi pha trà. Giữa chúng tôi, hơi trà ngào ngạt và ấm áp bốc trên miệng chén. Ở khoảng cách gần, tôi thấy cô già sọm – hai mắt lõm sâu, má hóp, da mặt đã có màu bao xi măng. Mấy chiếc răng cửa hơi đưa ra, vốn là cái duyên của cô, giờ xuống màu, với những khe rộng hơn trước. Giọng cô không còn trong, không còn cao, nó mệt mỏi, khàn khàn. Từ nốt ruồi ở hàm bên phải chui ra một sợi râu bạc.

– Cửa cũng không thèm đóng. – cô chép miệng – Em chỉ việc đẩy vào. Có ngày trộm vét sạch. Thật đấy. Cậu biết hôm nay ngày gì không?

– Ngày gì?

– Ngày Ông Táo lên chầu giời rồi đấy.

– Ờ…

Lại một năm trôi qua. Cô Lương là cuốn lịch sống của tôi. Không có cô nhắc, tôi sẽ không biết mình đang ở đâu trong dòng chảy vô hình ấy. Đã nhiều năm, mỗi khi phải lấy áo ấm ra mặc, thấy tuyết rơi, tôi biết là mùa đông đến; phải lôi cái quạt máy trong đống đồ xếp xó ra cho nó chạy, tôi biết đã vào hè.

– Em mang ít đồ cúng sang cho cậu.

Nhìn lên nóc tủ tôi thấy có mâm ngũ quả, xôi lạc, gà luộc. Và nén nhang mới bén.

– Cảm ơn cô.

Cô cười không tươi.

– Đàng nào em chả cúng. Cậu thì cái gì cũng phiên phiến, phiên phiến. Tết nhất phải có chút gì gọi là hương khói để nhớ đến tổ tiên, ông bà. Tết này cậu sang em, ăn Tết bên em nhá?

– Ờ…

– Hôm nay em sang đây – cô nói, giọng ngập ngừng – là có việc phiền cậu

Tôi đặt chén trà xuống, nhìn cô, chờ đợi. Ở đây, chỉ tôi là người thường nhờ vả cô. Chứ cô chẳng bao giờ nhờ vả tôi.

– Việc gì vậy?

Cô ngần ngừ.

– Em muốn phiền cậu đi Berlin với em một chuyến.

Tôi ngạc nhiên. Từ khi dọn về đây ở gần cô, tôi chưa thấy cô đi đâu.

– Đi Berlin? Làm gì chứ?

Cô nhoẻn cười, ngượng ngập:

– Hỏi vợ cho cháu Hiếu

2- Tôi và cô Lương có một tình bạn dài nửa thế kỷ.

Tình bạn của chúng tôi bắt đầu bằng một món ăn. Cô Lương không phải người bình thường. Ở đất thủ đô, cô là người nổi tiếng. Cô nổi tiếng không phải vì cái gì to tát, mà nhờ một món ăn – món bún mọc. Tôi sẽ không tả bún mọc của cô ngon như thế nào. Không ai có thể tả được cái sự ngon. Chuyện ấy là của riêng cái lưỡi. Cứ phải ăn mới biết. Chỉ có thể nói gọn một câu: bún mọc là món độc quyền của cô Lương trong toàn thành phố. Về món này không ai tranh hơn được với cô. Quanh gánh bún cô Lương, khách ngồi chật vỉa hè đợi đến lượt. Đông thế mà cô tài nhớ lắm: ai đến trước, ai đến sau, cô không bao giờ lẫn. Cô tươi nở múc cho từng người suất bún nóng hổi, thơm phức, nước dùng ngọt lịm, húp bỏng miệng. Những viên mọc của cô, được chế tạo cách nào không biết, nêm nếm thế nào không biết, mềm và đàn hồi, cắn ngập chân răng, như thể chúng không phải được nặn bằng thịt lợn tầm thường của trần thế.

Đến đây tôi phải nói ngay rằng giữa hai chúng tôi không hề có chuyện ong bướm. Đơn giản vì cô Lương không phải là một cô. Cô không phải đàn bà.

Trở thành khách quen của gánh bún mọc, tôi gọi anh chàng Lương này bằng cô, như cách mọi người gọi. Có người còn gọi là cô đồng Lương. Gọi thế không đúng – Lương không phải cô đồng. Không hầu đồng, không am miếu, không hương khói, đàn địch, không con công (con nhang?) đệ tử, sao gọi thế được. Các nhà khoa học viết khá nhiều về hiện tượng ái nam ái nữ, tôi có đọc, nhưng không hài lòng. Thế giới “ái” rất đa dạng, rất phức tạp, theo tôi quan sát. Nó không dễ giải thích. Đơn giản hoá nó, sơ lược hoá nó, trong cái nhìn bất biến, đinh ninh, miêu tả qua lăng kính duy vật cho ra vẻ khoa học là không được. Lấy cô Lương làm ví dụ. Đực rựa, có vợ có con hẳn hoi. Chị vợ, tôi đã gặp, xinh gái, đàn bà trăm phần trăm, mẹ của hai đứa con giống bố như đúc. Một gia đình như mọi gia đình. Cái khác là trong gia đình này anh chồng từ tấm bé đã thích trang điểm theo cách nữ – ở nhà không biết thế nào, chứ ra đường là phải thoa một chút phấn hồng lên má, quệt một đường son nhẹ lên môi. Lại còn đeo nịt vú nữa chứ (nó hiện rõ qua lần áo phin nõn), ai cũng thấy. Nói ỏn ẻn, đi nhún nhẩy, hai tay phẩy phẩy bên hông, không khác đàn bà. Thế mới thành cô Lương. Nhưng “cô” không có một nhân tình đàn ông nào, tuyệt không. Chưa ai bắt gặp “cô” cặp kè với một người phái nam. Vì thế, nói rằng trong con người cô Lương có thứ tình dục đồng giới, bệnh hoạn, theo cách nhìn của thế hệ tôi, là nói bậy.

Tôi là người không háo lên án ai, lên án cái gì. Tôi chỉ háo ăn ngon. Qua một lần nếm thử đã đủ để tôi trở thành khách quen của gánh bún mọc cô Lương. Thấy tôi, khi nào cô cũng đon đả:

– Kìa, anh giai! – múc bát mọc cho tôi xong, cô vui vẻ hỏi – Anh giai thêm hành trần nhá? Ớt tươi chứ? Em biết tính ông anh mà, sành lắm, ăn mọc chẳng chịu tra tương ớt đâu. Ngần này đủ chưa ạ?

Rồi lại sợ mất lòng một ông khách nào đó nghiện tương ớt, cô bả lả:

– Nói vậy chứ bách nhân bách tính, có người thiếu tương ớt là nhạt mồm nhạt miệng, ăn mất ngon, có phải không các bác?

Hoặc:

– Anh giai nom có vẻ mệt, em nhúng hai trứng nhá? Anh giai bổ dưỡng đi cho chị em vui.

Tôi đỏ mặt vì những lời chớt nhả ấy. Khách tủm tỉm nhận xét: múc cho tôi, trong muôi của cô bao giờ cũng có nhiều mọc hơn cho người khác, một chút thôi, nhưng hơn. Họ đùa cợt bảo: là do tôi đẹp trai. Tôi soi gương chẳng thấy mình đẹp trai tẹo nào, có lẽ tại hai chúng tôi có duyên tiền kiếp.

Đùng một cái, không thấy cô Lương dọn hàng. Không ai biết cô biến đi đâu.

Khách hàng nghiện bún mọc buổi sáng nhìn cái vỉa hè quen thuộc từ lâu đông nghịt giờ đây trống trơn, chưng hửng dắt xe đi. Hỏi người chủ ngôi nhà trước gánh bún mọc của cô Lương, một ông già cao lêu đêu, ông ta lắc đầu: không biết. Cô Lương đến xin đặt nhờ gánh bún thì ông cho, ông không khoảnh. Ông cho cô ngồi nhờ ở hàng hiên nhà ông vô điều kiện. Để cảm ơn ông, sáng nào cô cũng làm một bát mọc tú hụ bưng vào cho ông. Khi khách quá đông, ngồi chật cả lối ra vào, ông chưa kịp trách thì cô Lương đã bẽn lẽn xin gửi ông ít tiền hàng tháng, coi như thuê chỗ.

– Cô ấy cứ giúi vào tay, bắt tôi phải nhận. Chứ tôi không đòi. – ông nói như phân bua – Thời buổi này giúp nhau được chút gì thì giúp, là cái nghĩa đồng bào. Vỉa hè nào phải của tôi. Nhưng cô ấy là người biết điều. Thấy làm phiền người nhà đi ra đi vào, cô ấy ngại. Tôi không biết cô ấy dọn đi đâu, thật vậy.

Hoá ra trong những ngày ấy cô Lương ở tù. Với người Việt ta, ở tù không phải sự lạ. Thiên hạ gặp nhau thấy ngờ ngợ thì không hỏi quê quán, họ hàng mà hỏi: mình gặp nhau ở trại nào nhỉ?

3- Tôi gặp lại cô Lương ở một nơi mà cả hai đều không ngờ: trại tị nạn Hồng Kong.

– Giời ạ, cậu?! – trông thấy tôi, cô Lương túm lấy, mừng quýnh. Rồi trợn mắt lên, thì thào – Cậu, sao lại ở đây?

– Thì có gì lạ?

– Cậu là cán bộ kia mà.

Cô Lương thay đổi đến khó nhận ra: son phấn không, áo quần luộm thuộm, nhếch nhác, trên mép là một hàng ria nham nhở. Bây giờ tôi không còn là khách hàng nữa, cô gọi tôi bằng “cậu”. Tiếng “cậu” của ta có nhiều nghĩa, là cách bạn bè thân mật gọi nhau, cách con gọi cha, vợ gọi chồng, cháu gọi em ruột của mẹ. Còn khi dùng với người ngoài không gần gụi, nó lại là cách xưng hô tỏ sự tôn trọng đối với người có vai vế hơn mình.

– Cán bộ thì đã sao? – tôi ôm chầm lấy cô – Đến đây lâu chưa?

– Hai năm rồi. Còn cậu?

– Mới.

– Em tưởng chỉ có dân chúng em khổ quá mới phải đi thôi – cô Lương cụp mắt nhìn xuống bàn chân đầy bụi di di trên mặt đất – Ai tự dưng bỏ nhà bỏ cửa, bỏ quê hương bản quán? Báu lắm đấy, cái đồng đất xứ người… Mà tại sao cậu cũng đi?

– Chuyện dài – tôi đáp – Lúc nào rảnh, tôi kể. Còn cô, đang đắt khách sao lại dẹp hàng, rồi ở đây?

– Cũng là chuyện dài, cậu ơi.

Chuyện dài ấy là thế này:

Trước, hai mẹ con cô Lương là xã viên hợp tác xã thu mua đồ phế thải, nôm na là hợp tác xã đồng nát. Dân ta vốn thích oai, gọi vống lên cho sướng, chứ xã viên của cái hợp tác xã này vẫn là những bà đồng nát ngày trước. Đòn gánh trên vai, hai đầu hai thúng, họ lang thang khắp phố phường mua đủ thứ đồ vứt đi: sắt vụn, nồi thủng, mâm bẹp, giấy lộn, tóc rối…, đem bán lại cho các vựa. Để được phép làm việc ấy, tháng tháng họ phải đóng một khoản tiền cho hợp tác xã, coi như mua sự hợp pháp. Mẹ cô Lương là con gái Ước Lễ. Làng này nổi danh cả nước về nghề giò chả. Chồng chết sớm, bà mở hàng ăn kiếm sống, nuôi con. Có nghiệp tổ, miễn chăm làm thì không giàu được cũng đủ sống. Mở hàng mới được ít lâu thì đùng một cái, nhà nước ra lệnh cấm tiệt mọi nghề dính dáng tới lương thực, tức là tuốt tuột mọi thứ – gạo, ngô, khoai, sắn và bất cứ thứ gì có chứa tinh bột. Vốn liếng thế là tong. Cũng có vài hàng phở, hàng cháo lòng đánh liều, bán chui trong nhà. Bà không có cái gan ấy. Để được bán chui phải chạy vạy, phải đi đêm với đủ loại quan nha, chức sắc: cán bộ phòng thuế, cán bộ quản lý thị trường, công an khu vực… mới yên. Suy đi tính lại, chỉ có cái nghề mạt hạng, bị khinh khi, là nghề đồng nát, người ta mới không nhòm đến.

Cuộc sống vất vả làm sức khoẻ bà suy sụp, rồi mất. Cô Lương còn lại một mình. Cô bỏ gánh giấy vụn, đi làm thuê cho một quán phở chui. Cho đến khi ông nhà nước thấy cuộc sống sa sút quá, kinh tế xuống dốc quá, thành phố tiêu điều quá, mới rộng lượng ngoảnh mặt đi cho những người buôn thúng bán bưng muốn làm gì thì làm, cô Lương nhớ nghề tổ mới dám nghĩ tới việc vay mượn họ hàng sắm sanh gánh bún mọc cho mình. Rồi lấy vợ, đẻ con.

Ai ngờ một gánh bún mà làm nên cơ đồ.

Cô Lương trở nên giàu có. Nói giàu là nói trong khái niệm tương đối. Giàu ở đây là có nhiều tiền hơn người quanh mình thôi, chứ chẳng phải thiên ức vạn tải gì. Có đồng ra đồng vào, cô cũng chẳng sung sướng. Thời bấy giờ, giàu cũng là cái tội cái nợ. Sắm sửa thì hàng xóm biết, gửi tiết kiệm nhiều tiền thì nhà nước biết. Phải tìm mọi cách giấu cho kín cái giàu, không được hở cho bất cứ ai. Đã trở thành thói tục: người này theo dõi người kia, nhà này nhòm ngó nhà khác, không trừ cả thân thuộc. Thành thử cô Lương phải hết sức giấu giếm cái sự giàu của cô. Nhưng chẳng lẽ cứ tích tiền để đấy trong lúc nó mất giá hàng ngày?

Nhờ ông anh họ mách nước, cô trở thành người “chơi” đồ cổ. Ông này rất sành sỏi trong lĩnh vực gốm sứ, nghe nói vậy. Đến Viện bảo tàng Lịch sử cũng phải mời ông ấy cố vấn mỗi khi phải xác định niên đại một hiện vật mà nhận định của các chuyên gia không thống nhất. Người như thế lẽ ra phải ở trong biên chế, nhưng ông không thể có cái đó vì lý lịch – cha ông có thời làm thông phán trong phủ Toàn quyền. 

Ông khuyên cô:

– Chú cứ nghe tôi: để tiền vào đồ cổ là an toàn nhất hạng. Nó là thứ không thiu không thối, càng để lâu càng có giá. Chú quen nghề đồng nát, biết nhiều nhà, cứ lân la dò hỏi, biết đâu đấy, có khi vớ được của quý cũng nên. Gặp đồ cổ chú cứ gọi tôi, tôi biết cái gì quý, cái gì không quý, trả bao nhiêu là vừa. Nhà nước mua lại đồ cổ của dân bằng giá rẻ mạt, chẳng ai muốn bán. Dân đào được đồ cổ cũng bị thu mua, chỉ được tí tiền gọi là bồi dưỡng. Mình trả cao hơn nhà nước là người ta bán liền. Quen rồi, người nọ mách người kia, mình sẽ mua được khối thứ quý. Mua rồi cứ để đấy.

Cô hỏi ông anh:

– Mua để đấy phỏng có ích gì?

– Xì, chú không biết nhìn xa.

– Là thế nào ạ?

Ông nói chắc nịch:

– Thể nào rồi cũng có một ngày khác bây giờ. Cứ thế này mãi có mà chết. Lúc ấy chú cứ gọi là ngồi trên đống của.

Cô Lương nghe lời ông anh. Cô làm quen với giới buôn đồ cổ “chui”. Cô dò hỏi, cô lùng sục, gặp đồ nào ông anh bảo là đồ quý, cô mua. Dần dà, cái việc không quen trở thành quen, thành đam mê. Nhờ sự dạy dỗ của ông anh, riết rồi cô cũng trở thành một chuyên gia đáng nể. Cầm cái bát, cái đĩa hay lọ độc bình lên, ước lượng nặng nhẹ để biết xương, xem men, xem dáng, cô có thể nói ngay niên đại của món đồ, thuộc đời nào Tống, Đường, Minh, Thanh hay Lý, Trần. Lê mạt. Còn hơn chuyên gia, cô sở hữu một số đồ độc nhất vô nhị.

Các cụ nói: cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, đồ cổ thì thứ nào cũng lớn hơn cái kim hết. Thế rồi một ngày kia có người chào cô mấy cái đĩa men ngọc đời Lý, lại là men rạn, cực hiếm. Cô mua ngay. Cuộc mua bán vừa xong tay là công an ập vào. Họ nói được báo có những hiện vật bảo tàng vừa bị mất trộm, chính là mấy cái đĩa ấy. Để “làm rõ” lý lịch những đồ cổ khác, người ta thu tất tần tật các thứ cô Lương tích cóp được. Cô Lương bị tống giam vì tội “tiêu thụ của gian”. Cô ở tù gần một năm, không xét xử, gọi là giam cứu.

– Rồi họ xác minh cô vô tội?

– Làm gì có chuyện ấy?! – cô cười gằn – Họ bảo em nhận tội đi rồi họ tha, không nhận thì cứ ở đấy.

– Rồi cô nhận?

– Chứ sao.

Ra tù, cô trắng tay. Với tấm giấy tạm tha trong túi. Cô vợ xinh gái đi theo một tay cán bộ phòng thuế. Có thể gây dựng lại cuộc đời bằng gánh bún mọc, như trước kia, nhưng cô không còn sức, nói cho đúng, sau khi ở tù ra cô chán mọi sự đời, không còn ý chí, không còn ham muốn. Nghe người ta mách, cô dắt hai con xuống Hải Phòng tìm đường đi xứ khác. Cũng lại do ông anh họ chuyên gia đồ cổ:

– Chú đi đi, chú đã bị bỏ tù một lần, coi như có tì vết, không tiền án cũng tiền sự, ở đây khó sống lắm. Giờ người ta đi ầm ầm. Tôi xin lỗi chú. – ông quệt nước mắt, sụt sùi – Cũng là tại cái thằng tôi, chú mới sa vòng tù tội…

Chuyện vượt biên xưa như trái đất, khỏi kể. Sóng gió, đói khát, cạn nhiên liệu, chìm tàu… vân vân. Tất cả những cái đó xảy ra với bất kỳ ai.

4- Tôi bằng lòng đi Berlin với cô Lương. Cô nói không có tôi đi cùng, cô sẽ lúng túng, không biết ứng xử thế nào với nhà gái cho phải phép.

Ở nhà cô, một chàng trai cao, to, để ria mép, trân trân nhìn tôi.

– Cháu Hiếu đấy – cô Lương nói, vẻ tự hào pha ngượng nghịu.

– Chào cháu – tôi chào nó, biết rằng nó sẽ không chào tôi trước – Bác không nhận ra cháu đấy.
– Nhìn tôi, nó nói – Bác khoẻ.

Cô Lương liếc tôi, cái nhìn biết lỗi.

– Khi chúng mình gặp lại nhau, cháu mới bằng ngần này. – tôi cười xoà với cô Lượng, rồi giơ bàn tay úp sấp làm hiệu chỉ chiều cao của nó hồi ấy – Từng ấy năm, cháu làm sao nhớ được tôi là ai. 

Nghe cô kể thì thằng Hiếu sáng dạ, học trung cấp cơ khí, bây giờ đã là trưởng ca hay trưởng kíp gì đó trong một nhà máy, công việc tốt, lương cao. 

– Ba, con ra tiệm Một lát – nó bước ra cửa – Con đi Máy của con vừa bị đao -Ba với bác chuẩn bị sẵn sàng nhé!

Tôi nhớ lúc còn nhỏ, hai đứa con cô Lương không gọi cô bằng “ba”. “Ba” hiện đại hơn, sang hơn “bố”.

Đi ngang tôi, thằng Hiếu vẫy tay

Thì ra cái Audi đen bóng đậu ngoài phố, lối vào nhà, là của nó.

– Bọn trẻ giờ thế cả. Không biết lễ phép là gì – cô Lương thở dài – Sang đây chúng nó thành Tây hết. Nó vừa nói cái gì vậy, cậu?

Tôi giải thích. Cô Lương không biết computer là cái gì.

– Cậu đừng chấp – cô Lương bảo tôi – Thế là toi cái Tết. Mình lên đấy rồi về chắc gì kịp ăn Tết. Em mời cậu Tết này ăn Tết với em, mời thật tình, mà hoá ra mời rơi. Cậu vào đây mà xem: em đã lo sẵn hết cả: măng lưỡi lợn nhá, chân giò nhá, lá giong gói bánh nhá, thịt xay làm mọc nhá… tất tần tật. Em nghĩ lại rồi, em đi một mình cũng được, bắt tội cậu đi với em những ngày này, em ái ngại quá.

– Vẽ, đi là đi. Tôi nói rồi, với tôi ngày Tết chẳng có gì quan trọng. Cô đừng nghĩ ngợi.

– Thằng Hiếu lấy Tây hay ta đấy?

– Ta, cậu ạ. May thế!

Cô chị thằng Hiếu lấy Tây. Bố vợ với con rể chỉ gút tần tác, gút tần nác[6] với chuýt là hết chuyện. Cô Lương rầu lắm. Cô còn rầu hơn nữa là đến bẹo má thằng cháu ngoại một cái cũng không được, sờ cái giống của nó cũng bị cấm – Tây nó không thích. Nó sợ cô làm bẩn con nó.

Cô phân trần:

– Nhà gái đòi phải có chạm ngõ, ăn hỏi, rồi mới cho cưới. Lôi thôi quá, cậu ơi. Lần trước gọi điện về, thằng Hiếu đã giục. Em bảo: để thư thư, Tết ra đi cũng được. Đùng một cái, ông bố vợ nó bị đâm xe.

– Nặng không?

– Nặng, mới khổ. Bà mẹ vợ bảo thằng Hiếu phải tức tốc về đón em lên để chính thức có nhời với người ta. Nếu chẳng may ông ấy có mệnh hệ nào họ còn cho cưới chạy tang.

– Hiểu rồi. Cô biết nhà gái chứ?

– Thằng Hiếu có nói gì trước với em đâu.

Mặt cô Lương chảy dài. Khi cô buồn, hay là có điều suy nghĩ, cô bước những bước chậm chạp, cái lưng gù xuống.

5- Làng, nơi chúng tôi ở, thuộc miền Nam Đức. Nhỏ nhưng sạch sẽ, ngăn nắp, an bình. Nói chung, làng quê ở vùng này đều thế: gọn gàng, tiện lợi, bé tí, mà cái gì cũng có – bưu điện, cửa hàng dược phẩm, bệnh viện, trạm xăng, siêu thị. Thằng Hiếu vui vì tôi nhận lời đi cùng bố nó, nhà trai như thế là đủ hoành tráng. Nhưng nó chê ỏng chê eo nơi ở của chúng tôi:

– Cháu đã bảo ba cháu dọn lên Berlin, ông ấy không chịu, kêu ở thành phố lớn ồn. Ra đến nước ngoài mà còn chui rúc xó xỉnh. Ở cái chốn nhà quê thế này, bác tính, vui thú nỗi gì cơ chứ? – nó nói với tôi trên con đường làng hẹp – Sorry[7] bác, mấy ông khốt[8] giống nhau như đúc, sợ thay đổi như sợ cọp…

Cô Lương im lặng. Tôi ậm ừ. Tôi cảm thấy mếch lòng. Cứ như thể bố nó không chịu đi là do tôi, ông ấy thích ở đây là vì ở đây có tôi.

– Được cái ông bố vợ cháu khá. – thằng Hiếu hồn nhiên tiếp tục – Khác hẳn bố cháu. Nhanh nhẹn lắm, cứ như thanh niên í. Hồi mới sang, ông í đứng đường bán thuốc lá lậu, rồi cầm đầu hẳn một băng, kiếm khẳm. Tậu được nhà. Nhà hẳn hoi, chứ không phải căn hộ. Thay xe như thay áo. Mẹ vợ cháu cũng đảm, làm chủ một resto[9] trên năm chục bàn. Ba cháu mà như người ta thì đâu đến nỗi như bây giờ. Mèng ra cũng có một cái  imbiss[10]. – Tội nghiệp, không biết liệu ông bố vợ cháu có tai qua nạn khỏi không? 

Không giống nhiều thanh niên khác, Hiếu vẫn nói thạo tiếng mẹ đẻ, chỉ thỉnh thoảng nó mới chêm vào vài tiếng Đức quen miệng, vài tiếng Anh thời thượng. Trên xe, nó nói với tôi nhiều hơn nói với bố. 

– Này, anh Hiếu, thế ông ấy đã làm… hừm, gọi là cái gì nhỉ, à, cái di chúc chưa đấy? – giữa câu chuyện, cô Lương đang lim dim ở ghế sau, nhổm lên nói. 

– Ông ấy khoẻ như vâm, – thằng Hiếu nhún vai – nghĩ gì đến di chúc.

– Vạn nhất ông ấy không qua khỏi mà không có di chúc để lại thì, hì hì…, vợ chồng anh dễ bị thiệt lắm.

Trong câu nói của cô Lương có âm sắc mai mỉa. Nhưng con trai cô không nhận thấy.

– Ông ấy có gì để lại? Khôn như rận, ba ơi, cái gì cũng tên vợ hết. Ông ấy sợ. Bọn Đức khiếp lắm, trốn thuế cả chục năm rồi chúng vẫn moi ra đấy.

Chúng tôi đến Berlin vào buổi tối.

Bà thông gia phốp pháp, son phấn tưng bừng ngay cả khi đang điều khiển nhà hàng. Nhác trông cũng thấy được sự không môn đăng hộ đối giữa nhà trai với nhà gái. 

– Chúng em không oẻ hoẹ tương tàu đâu, thưa hai bác – bà nói, giọng ngọt lịm – Nhưng mà, thưa hai bác, gì thì gì mình vẫn cứ phải giữ lề thói cha ông. Con nhà gia giáo chữ lễ phải coi trọng, phải là nhất, có đúng thế không ạ? Em dễ tính, cứ phiên phiến, thế nào cũng xong, chứ ông nhà em cổ lắm, nhất nhất phải theo phép xưa mới chịu. Phật tử đấy ạ, chăm đi chùa lắm. Mà chùa thì xa, có gần đâu. Tối nào cũng ngồi thiền, tụng kinh niệm Phật.

– Ông bà nghĩ thế là chí phải. – cô Lương chắp tay lễ phép – Chúng tôi nhất nhất xin theo. Ngặt vì mình nay ở xứ người, có nhiều cái không thể được như ở nhà, chúng tôi có điều gì thất thố, xin ông bà bỏ quá cho.

Cô Lương nói kiểu lịch sự trơn tru, làm tôi ngạc nhiên. Thường ngày không khi nào cô có cái giọng ấy, có khác một chút cũng chất phác, mộc mạc. 

– Con Thuỷ đâu rồi? – bà cao giọng gọi vào trong bếp – Ra đây.

Một cô gái trẻ, vận quần áo đúng mốt, có hở một chút rốn, nhanh nhẹn chạy ra. Mắt thằng Hiếu sáng lên. Hai đứa nhìn nhau lúng liếng. Con bé này rồi cũng đảm chẳng kém mẹ, tôi nhận xét.

– Con chào hai bác đi. Bây giờ thế đấy, hai đứa chúng nó quen nhau từ lúc nào em đâu biết, chúng nó đâu có báo cáo báo cầy gì với bố mẹ. Thôi thì không bằng lòng cũng phải bằng lòng, bác không kén dâu, chúng em cũng chẳng kén rể…

– Dạ.

– Mà có kén cũng chẳng được, thưa hai bác, thời bây giờ chúng nó tự kén nhau, chẳng nhòm nhõi gì đến ta, chẳng cần lề thói, phép tắc như xưa, có phải không ạ? Thôi thì cũng là cái duyên cái số. Nhà trai đến, có nhời với chúng em là chúng em vui rồi. – bà rơm rớm nước mắt – Vui đến, buồn cũng đến, năm nay nhà em gặp hạn. Ông nhà em lái xe cẩn thận lắm, thế mà vẫn bị. Tổ cha cái thằng Đức lợn, nó phóng bạt mạng, mới ra nông nỗi. Thổi bong bóng thằng ấy thấy có hơi rượu, nhưng cảnh sát bảo còn dưới mức cho phép. Chúng nó bênh nhau ấy mà, ai chả biết. May, nhà em đã mua bảo hiểm toàn phần…

Cô Lương đến lúc ấy mới dám lí nhí hỏi câu cô muốn hỏi.

– Thưa, bệnh tình ông nhà… thế nào rồi?

Bà thông gia vui vẻ:

– May, tưởng nặng, hoá không phải. Không mổ xẻ gì hết, chỉ mấy mũi khâu, băng bó xong nằm tĩnh dưỡng ít hôm là về. Nhà em hiếu khách lắm, ông ấy mà gặp hai bác thì chuyện dứt không ra. Mấy hôm nữa, khoẻ lại rồi, nhà em sẽ đưa hai bác đi thăm danh lam thắng cảnh ở đây. Còn bây giờ thì em xin mời hai bác dùng bữa rồi về nghỉ ở nhà em. Nhà không đến nỗi chật, em đã chuẩn bị, hai bác mỗi người mỗi phòng ạ.

– Cảm ơn bà, bà chu đáo quá. Bác cháu đây (cô Lương chỉ tôi) trước cũng ở Berlin, bác cháu đã gọi điện đặt phòng ở một khách sạn quen rồi – cô nói dối ráo hoảnh, làm tôi một lần nữa ngạc nhiên – Chúng tôi nhận phòng xong rồi mới lại yết kiến bác đấy ạ…

6- Đến bệnh viện, chúng tôi không khó khăn tìm được phòng của bố vợ thằng Hiếu. Nhác thấy người bệnh qua cánh cửa khép hờ, cô Lương như bị điện giật, nắm chặt tay tôi.

– Ông sao vậy? – tôi ghé sát vào tai cô Lương, thì thào.

Cô Lương xua xua tay, nói khẽ:

– Không, không sao.

Mắt không rời khe cửa, mặt cô Lương đờ ra, xám ngoét. Rồi lôi tôi khỏi chỗ ấy.

– Thằng Hiếu đâu rồi?

– Tôi không biết. Nó vừa đây mà.

Thì ra thằng Hiếu dừng lại ở ngoài cổng hút thuốc. Cô Lương lật đật chạy đến, túm lấy nó, tôi hối hả theo sau.

Đứng trước mặt con, cô dằn giọng:

– Hiếu, bố vợ mày tên là gì?

Nó trố mắt:

– Sao, có chuyện gì mà ba hỏi thế? Sao mặt ba tái đi thế?

– Tao hỏi: bố vợ mày tên gì?

Thằng Hiếu ngớ ra.

– Ông ấy tên là Khởi, ông Khởi. Có chuyện gì thế, ba?

– Đúng, đúng là nó.

Cô Lương lẩm bẩm rồi cúi gập xuống như một thân cây bị đốn. Tôi vội đỡ cô. Thằng Hiếu lại càng hốt hoảng:

– Ba, ba sao vậy? Bác có biết ba cháu bị sao không?

Tôi lắc đầu. Cô Lương phẩy phẩy tay:

– Đi về. Đi về.

– Sao đến đây rồi lại đi về, ba?

– Đi về là đi về.

Tôi đoán là có chuyện nghiêm trọng, liên quan tới người bệnh đang nằm trong kia.

Tôi kéo cô vào quán nước gần nhất. Dọc đường cô như người mất hồn, mặc tôi muốn đưa cô đi đâu thì đi.

Đặt cô ngồi xuống ghế, tôi gọi mấy ly bia. Cô run run cầm cái ly lên, lẳng lặng uống cạn. Đợi cô uống xong, rồi ghé sát vào tai cô thì thào:

– Ông biết ông ta?

Cô Lương nhìn chằm chằm vào khoảng không, môi mím chặt:

– Chính là nó. Chính là nó đấy, ông ạ. Khi có người thứ ba, chúng tôi không xưng hô với nhau như thường ngày nữa, mà “ông, tôi”. Cái đó đã trở thành quy ước, nó gắn chặt thêm tình thân giữa chúng tôi, như giữa hai kẻ đồng mưu.

– Mà nó là ai kia chứ? – tôi gặng.

Cô hít vào một hơi rồi thở ra hộc ra, như muốn trút hết không khí khỏi lồng ngực:

– Là thằng làm đời tôi tan nát ấy. Nó. Chính là nó. Có đến chết tôi cũng không quên mặt nó, cái thẳng khốn nạn ấy. Chính là cái thằng giả dạng đem bán cho tôi mấy cái đĩa cổ, rồi làm hiệu cho đồng bọn ùa vào khám nhà để tống tôi vào tù đấy.

Một giọt nước mắt xúc động lăn trên gò má, cô lấy mu bàn tay quệt đi. Rồi ngẩng lên, nhìn vào mặt con:

– Thằng Hiếu nghe đây!

Thằng Hiếu ngẩn ngơ trước thái độ không bình thường của bố. Bình thường bố gọi nó bằng anh, một điều anh Hiếu, hai điều anh Hiếu, với giọng trịnh trọng của ông bố đã có tuổi nói với đứa con đã thành nhân, không bao giờ bố gọi nó bằng thằng. Trước mặt nó giờ đây không phải là ông bố hiền lành, ông bố đụt, mà nó đã quen thấy, mà nó hằng coi thường. Trước mặt nó là một người đàn ông dữ dằn đang nổi cơn điên. 

Nó bất giác khoanh hai tay lại, cử chỉ từ lâu nó không làm.

– Dạ.

– Nghe tao nói đây: mày sẽ không lấy cái con nhà ấy, hiểu không? – cô nhìn thẳng vào mắt nó, dằn từng tiếng, như bắt nó phải khắc trong trí – Con ấy có là tiên cũng không lấy nữa, không được. Thằng Khởi là kẻ thù của gia đình ta. Chính nó đã làm cho gia đình ta điêu đứng. Hôm nay có súng trong tay thì tao đã bắn chết nó…

Thằng Hiếu im lặng ngồi phịch xuống ghế. Hai tay ôm đầu, nó ảo não nhìn bố.

Vẫn giọng chắc nịch, cô Lương không nói, mà tuyên bố:

– Thà chết, chứ tao không thông gia với cái giống ấy.

Tôi ôm lấy vai cô:

– Việc gì thì cũng phải bình tĩnh, từ từ suy nghĩ, trước hết là phải bình tĩnh, không nên nóng nảy. Giờ ta về khách sạn. Rồi tính tiếp .

7- Ngày hôm đó kẻ vất vả nhất, khốn khổ nhất, là thằng Hiếu. Nó lái xe chạy cuồng giữa ba đỉnh của một hình tam giác – khách sạn, nhà thương, nhà hàng. Nghe lời tôi, nó nói dối bố mẹ vợ rằng lễ vấn danh theo kế hoạch như thế là phải hoãn – bố nó bất thình lình trúng gió, nằm liệt, không đi lại được. Ông bố không nói gì, nhưng bà mẹ và cô con gái cuống lên, nằng nặc đòi đến thăm. Nó phải ra sức cản, viện lẽ chừng nào bố nó chưa được định bệnh thì không thể và không nên đến, biết đâu đấy, chưa chừng bố nó nhiễm chứng cúm châu Á ngay trước khi lên đường đi Berlin cũng nên, bệnh ấy vừa xuất hiện, người bệnh cần được cách ly. Lời nói dối có hiệu quả – ở Đức người ta sợ cúm châu Á còn hơn sợ dịch tả. Người Việt ở Đức cũng sợ lây.

Tôi không nói với cô Lương đó là kế hoãn binh của tôi. Tôi nói ra, cô sẽ nổi khùng. Cả ngày, cô chẳng nói chẳng rằng, chỉ nằm ngửa nhìn lên trần. 

Đêm đến, thấy cô có vẻ đã nguôi ngoai, tôi mới lựa lời khuyên nhủ:

– Cô nóng quá. Sự đời rắc rối, nó đã xoay ra thế rồi, sức mình không cải được, thì đành chịu vậy thôi, chứ biết làm sao?

Cô Lương trợn mắt:

– Cậu nói thế là ý thế nào? Là em phải quên đi, phải chịu làm thông gia với thằng khốn kiếp ấy? Cậu muốn em muối mặt đến gặp nó để xin con bé cho thằng Hiếu? – cô Lương tung chăn ngồi phắt dậy – Không, cậu ơi, không, em không thể nhìn mặt nó. Em không thể làm thông gia với nó. Không là không.

– Thì tôi có bảo cô phải đến gặp nó đâu. Tôi chỉ muốn nói là hai trẻ đã trót yêu nhau rồi, thì mình phải nghĩ cách sao cho vẹn mọi đường…

– Cách gì?

– Thì phải nghĩ đã chứ, tôi nói rồi mà. Sao cho chúng nó không đau khổ.

– Chúng nó đau khổ thì mặc chúng nó.

Cô Lương quay đi, chấm dứt câu chuyện.

Tôi vắt óc chẳng nghĩ ra cách nào hay ho. Khuyên được nạn nhân hoà giải với kẻ thù là chuyện vá trời.

Gần sáng, tỉnh dậy, thấy cô Lương vẫn thức, tôi pha trà, rồi bảo:

– Thế này: tôi đưa cô ra ga đi tàu về trước, tôi ở lại. Mình sẽ nói rằng cô đã được chuyển về bệnh viện địa phương tiếp tục điều trị.

Cô lắc đầu:

– Việc gì phải nói dối? Như thế cầm bằng em sợ nó, em không dám giáp mặt nó. Em không sợ nó. Em căm thù nó.

Tôi thở dài:

– Từ từ đã nào. Tôi đâu có nói cô sợ nó. Tôi hỏi cô: có phải cô nhờ tôi đi cùng để chu tất việc hỏi vợ cho thằng Hiếu không nào? Thế thì tôi phải lo mọi việc cùng cô. Trông thằng Hiếu mà thương. Nó sợ cô đến nỗi không dám vào đây, mỗi lần tôi mở cửa lại thấy nó lấp ló ở đấy.

Cô Lương ngước mắt lên, hỏi:

– Cậu nghĩ sao? Nó sợ hay nó ghét mặt bố nó?

Tôi quả quyết:

– Nó sợ đấy. Lúc cô thiếp đi, tôi ra ngoài thì gặp nó. Tôi đã kể cho nó nghe hết sự tình, tức là tất cả mọi chuyện mà tôi biết. Nó khóc. Nó thương bố lắm.

Mặt cô Lương dãn ra ra khi nghe tôi nói thế. Mà tôi nói điều này là thật, gặp nó tôi tưởng ngữ này coi bố như rác, hoá ra thấy bố phát khùng thì nó run. 

– Nhưng mà em dù sao thì cũng không thể thông gia với cái giống chó má ấy được, cậu ơi. – cô lại ôm đầu – Không đời nào.

– Tôi nghĩ rồi. Cô không đứng ra là phải. Thì tôi đứng ra. Cứ không phải cô là được. Cô tưởng tôi chịu được khi thấy cô phải muối mặt gặp thằng ấy à? Coi như tôi là bố nuôi thằng Hiếu, cô không đến thì tôi thay mặt nhà trai đến chạm ngõ. Còn sau này ra sao, hạ hồi phân giải.

Nghe đến đấy cô Lương quay mặt vào tường, im lặng.

8- Nằm trên giường bệnh là một người khoẻ mạnh. Nụ cười hồ hởi nở trên gương mặt phương phi, ông ta đưa tay cho tôi bắt. Nước da ngăm ngăm đen làm tôi hình dung ra ông trong bộ cảnh phục và câu nói cửa miệng của dân Hà Nội chỉ đám công an: “chân chì, da thiết bì, mũ bình thiên”.

Thằng Hiếu cho biết: khi tai nạn xảy ra, ông bố vợ nó có bị thương, có chảy nhiều máu thật, nhưng hoàn toàn tỉnh táo. Mới lấy máu bôi lem nhem khắp mặt mũi, rồi giả bộ ngất. Tưởng thế là đủ để cảnh sát làm một biên bản thuận lợi cho sự bắt đền, nào ngờ thấy máu me bê bết, họ vội gọi xe cấp cứu chở phắt đi bệnh viện. Mà ở bệnh viện thì tình trạng thương tật của ông thế nào người ta biết ngay. Sở dĩ ông còn được nằm nán lại mấy ngày là vì ông vờ bị choáng, thỉnh thoảng lại ngất đi, tính kiếm thêm ít điểm cho sự bồi thường được đậm thêm.

Nó dẫn tôi đến, rồi đứng ngoài, để hai người lớn nói chuyện.

– Tôi trông ông quen quen. – ông ta vui vẻ nói.

– Tôi cũng vậy. Tôi cũng có cảm giác chúng ta từng gặp nhau, nhưng ở đâu thì không nhớ ra. – tôi vỗ trán, làm ra vẻ cố nhớ.

– Già rồi là hay quên lắm, tôi cũng thế, không nhớ ra.

Mào đầu thế là đủ, tôi lấy giọng trịnh trọng:

– Chắc cháu Hiếu đã thưa với ông: tôi là cha nuôi của cháu. Bố cháu ngã bệnh thời khí nhất thời không đến được, nên tôi mạn phép được thay mặt nhà trai, trước hết để vấn an ông, sau là có lời xin ông bà cho cháu Thuỷ làm dâu…

Ông bố vợ tương lai cười hì hì:

– Biết rồi, biết rồi. Lại bà nhà tôi đây, bà ấy chúa hay vẽ chuyện. Cũng là phú quý sinh lễ nghĩa thôi. – rồi hạ giọng, thân mật – Chứ hồi tôi với bà ấy lấy nhau ấy mà, lễ nghĩa quái gì đâu, chẳng chạm mặt, cũng chẳng ăn hỏi. A lê hấp, cưới. Mà cưới tập thể cơ đấy, ông ạ. Nhoáng nhoàng, nhoáng nhoàng, buồn cười lắm: chủ toạ buổi lễ chưa nói dứt câu thì cả đám cô dâu chú rể đã xông vào xơi kẹo bánh ào ào như tằm ăn rỗi, rồi ào ào kéo nhau đi tuốt…

Giọng nói của ông ta gợi nhớ đến một cái gì quen quen. Cả gương mặt nữa. Tôi đã thấy nó ở đâu nhỉ?

– Tôi là người hiện đại. – ông ta tiếp tục câu chuyện vui vẻ – Lễ nghĩa là cái quái gì cơ chứ? Che mắt thế gian thôi. Cưới là cái tục thôi. Là để lên giường có giấy phép, hì hì, có sự thừa nhận chính thức của nhà nước, để không bị ghép vào tội hủ hoá, có đúng thế không nào? Ông trạc tuổi tôi, ông còn nhớ người ta trị cái tội ấy nghiêm khắc thế nào. Kinh lắm. Lũ trẻ bây giờ chúng nó măng phú hết, chúng nó đếch cần lễ nghĩa gì ráo…

– Quả có thế.

– Ở bên Tây này khỏi nói, dưng mà ở trong nước cũng thế, mới lạ. Gọi là sống thử, chưa cưới cũng ở chung, vui ra phết…

– Dù sao thì…

– Ông muốn nói: cứ phải theo thủ tục của ông bà để lại mới tốt chứ gì? Ờ, thì cũng tốt, cũng tốt thôi, tôi không chống. Thừa còn hơn thiếu, ít nhất thì để cho bà nhà tôi sướng, làm như thế, tức là đủ thủ tục thì bà ấy sướng lắm đấy…

– Dạ.

– Ông thấy cần làm gì cứ làm, tôi không phản đối. Mà này…

– Ông bảo sao?

Ông ta suồng sã nháy mắt với tôi:

– Có cái hủ tục ấy anh em mình mới có dịp gặp lại nhau chứ.

Thế là thế nào?

Trong một thoáng tôi sực nhớ: phải rồi, trước mặt tôi, người đang nằm trên giường kia chính là tên công an đã hành tôi nhiều đêm trong một cuộc hỏi cung kéo dài bất tận. 

Chuyện là thế này. Tôi có bà cô ruột ở Sài Gòn. Qua họ hàng vào thăm bà biết tôi từng bị bắt đi cải tạo, bà thương tôi, khi sửa soạn vượt biên bà muốn đưa tôi cùng. Trước đó tôi còn không biết mặt bà. Cô cháu tôi không gặp may. Tên chủ tàu phản thùng. Nó thu vàng rồi báo công an. Cả tàu bị bắt. Tên Khởi này không phải là người hỏi cung chính, hồi ấy hắn mới là phụ tá.

– Tôi nhớ ra rồi. Ông là… Điều tôi không ngờ là chúng ta lại gặp nhau ở đây. – tôi cười chua chát – Ông nhận ra tôi?

– Chứ sao! – hắn cười to – Trái đất tròn mà. Trí nhớ công an mà. Chúng tôi không quên cái gì. Chúng tôi được huấn luyện để không quên.

– Tài thật. Bằng ấy năm rồi mà ông vẫn nhận ra ngay.

– Còn hơn thế nữa kia. Tôi còn biết tại sao lại là ông, chứ không phải bố thằng Hiếu, đến gặp tôi.

– ???

Hắn nói chậm, rõ từng tiếng:

– Ông đến là vì cô đồng Lương không muốn giáp mặt tôi.

Tôi ngạc nhiên. Phải nói là sửng sốt mới đúng. Chúng tôi chỉ thập thò ở cửa phòng bệnh của hắn chưa đến một phút.

– Quỷ quái, ông đã nhìn thấy? Ông nhận ra ông ấy?

Vẻ đắc thắng, hắn hơi nhổm người lên, cười vào mặt tôi:

– Sao không? Chỉ thoáng thấy ông ấy ở ngoài cửa là tôi nhận ra liền. Tôi biết: ông ấy còn căm tôi lắm. Ông khác, ông quên rồi.

Tôi lắc đầu, cố giữ vẻ bình thản:

– Không, tôi không quên.

– Ông quên. Bằng chứng là ông không nhận ra tôi khi bước vào đây. Ngay cả khi ngồi trước mặt tôi, ông cũng không nhận ra. Ông chỉ nhận ra khi tôi nhắc.

– Tôi vốn không có tài nhớ mặt người. – tôi lạnh lùng – Nhưng sự việc thì nhớ. Có nhiều sự việc con người không thể quên.

– Thế là tốt. Nhớ nhiều quá chẳng hay gì.

Khởi cười khẩy, cái cười khẩy đểu cáng, làm tôi nhớ thêm một chi tiết trong cuộc hỏi cung. Đêm ấy hắn cũng cười như thế khi hỏi tôi: “Bà cô cậu bảo nếu tớ thả hai cô cháu cậu ra, bà ấy xin chết bốn cây. Liệu hai cô cháu cậu có định cho tớ leo cây không đấy?”

Tôi nhìn vào mặt hắn:

– Tôi có điều không hiểu: tại sao ông lại ở đây?

– Dớ dẩn. Ông đặt một câu hỏi thừa, một câu hỏi không nên đặt ra tí nào. Câu trả lời rất đơn giản: cũng như các ông thôi.

– Chúng tôi khác, ông khác. Ông ở trong đám người có quyền đè đầu cưỡi cổ kẻ khác. Ông đi làm gì?

Khởi vẫn không mất vẻ tươi cười:

– Tội nghiệp, ông âm lịch quá. Con người ta sinh ra đã biết lựa chọn rồi, đã biết so sánh rồi, so sánh là để lựa chọn cho đúng. Cái tốt hơn đặt bên cái tốt kém, thì cái tốt kém là cái xấu. Tôi chọn cái tốt hơn. Nếu không thể chọn cái tốt nhất. Ở trong nước cũng thế, ở đây cũng thế.

Tôi khen hắn, thật lòng:

– Ông thật tinh quái.

– Chúng tôi được dạy dỗ để trở thành tinh quái mà. – hắn cười, vừa độ lượng, vừa thoả mãn – Ông cứ xem các nhà lãnh đạo quốc gia của chúng ta bây giờ xem – có ông nào không giàu đâu. Tôi không làm được như họ, bởi vì tôi không có cái thế của họ. Hoặc tôi không tốt số như họ. Thì tôi phải đi tìm chỗ khác. Có thế thôi. Người như tôi nhiều. Người như ông với cô Lương hiếm. Ông không nên tự hào về sự hiếm ấy. Với tôi, đó là sự lạc hậu. 

Tôi mím môi, thở dài qua mũi.

Hắn nắm tay tôi:

– Quên, tôi chưa hỏi ông: cô Lương, à ông Lương, sang đây không làm ăn gì à? Không mở cái quán nào?

– Không. Ông ấy đi làm nhà máy. Rồi về hưu.

Hắn cũng thở dài:

– Dại. Dại quá. Có tài nấu nướng như ông ấy, mở một cái imbiss[11] cũng khẳm tiền. Có tiền là có điều kiện cho con ăn học đến nơi đến chốn. 

– Hai cháu cũng được học hành tử tế đấy chứ, cũng nên người đấy chứ. Tôi không thấy có gì đáng phàn nàn.

Hắn đặt bàn tay béo tốt, gần như mũm mĩm, lên tay tôi, một lần nữa:

– Thế này nhé! Chuyện thằng Hiếu với con Thuỷ coi như xong. Ông Lương không đến cũng được. Kể cả ông nữa. Cứ coi ông là người đại diện nhà giai đi. Không sao. Không phải chúng ta là người quyết định. Làm gì còn có sự gả bán nữa. Thời này không phải thời của chúng ta nữa rồi.

– Dù sao thì chúng tôi cũng phải có lời xin cháu về làm dâu đàng chúng tôi. Mình cứ là phải giữ cho đủ lễ.

Hắn nhếch mép cười buồn. Rồi bảo:

– Con người ta tham lắm, ông ạ. Nói thật với ông, không muốn có một thằng rể chỉ tốt nghiệp trung cấp. Tôi muốn một thằng rể bét ra cũng phải kỹ sư, tiến sĩ. Hoặc một ông chủ công ty lớn. Hai đứa chúng nó đặt tôi vào thế kẹt. Biết làm thế nào? Thôi thì đành chịu vậy.

Khi tôi kiếu từ, hắn còn nói theo:

– Ông yên trí, tôi sẽ nhào nặn lại thằng Hiếu. Nó chịu khó, chăm làm, cũng có chút chí tiến thủ, không như bố nó. Cái nó thiếu mà tôi không thể cho nó được là nó không có cao vọng. 

9- Câu chuyện này đến đấy là kết thúc. Nó là chuyện tầm phào, không đáng để kể ra. Nhưng, cũng như mọi chuyện tầm phào khác, nếu ta nhìn bằng cái nhìn chăm chú thì thể nào ta cũng tìm thấy trong đó một cái gì đáng để suy ngẫm, cho dù sau đó chẳng đi đến một kết luận rõ ràng.

Tôi không tường thuật cho cô Lương nghe cuộc đối thoại giữa tôi với thằng Khởi. Nó không chỉ là kẻ thù của riêng cô Lương. Nó còn là kẻ thù của tôi nữa. Điều này tôi giấu, không nói ra. Nếu tôi nói, có thể cô Lương sẽ cảm thấy lòng căm thù của cô được san sẻ. Nhưng, khốn nạn thay, không phải vì được san sẻ mà hận thù nơi cô nhẹ đi. Có khi nó còn nặng thêm, vì cô thấy nó có lý hơn.

Chỉ có thời gian mới có khả năng xoá đi hận thù. Mà thời gian đủ để xoá là bao lâu thì không ai biết, không ai có thể chỉ ra.

Ba năm liền, hai ông thông gia không giáp mặt nhau, không gửi cho nhau một lời hỏi thăm.

Năm thứ tư, tôi bắt gặp hai kẻ thù một thời đi cùng nhau ở quảng trường Brandenburg. Họ đi bên nhau, mỗi người nhìn về một phía, mặt lạnh tanh. Giữa hai người là đứa cháu mới chập chững biết đi. 

Nó cười toe toét, tin cậy giao hai bàn tay bé tí cho hai ông nó dắt.

VŨ THƯ HIÊN 

 
[6] Chào, buổi tối (tiếng Đức)
[7] Xin lỗi (tiếng Anh)
[8] Ông già dở hơi (tiếng lóng, lấy từ phim Liên Xô “Ông già Khốt Ta Bít”)
[9] Nhà hàng
[10] Quán ăn nhanh
[11] Quán ăn nhanh (tiếng Đức).

NHÌN LÊN THẬP GIÁ

NHÌN LÊN THẬP GIÁ

Bất cứ ai đã đọc sách Xuất Hành trong Cựu Ước, kể lại cuộc hành trình về đất hứa của dân Do thái, đều nhớ câu truyện con rắn đồng.  Đó là khi gần đến đất hứa, dân Do thái lại kêu trách Chúa và trách ông Mô-sê.  Chúa liền cho rắn bò ra khắp nơi cắn chết nhiều người.  Thấy vậy, dân chúng lại ăn năn hối hận, chạy đến kêu ông Mô-sê cứu giúp.  Ông Mô-sê cầu xin Chúa.  Chúa bảo ông hãy làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để hễ ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên rắn đồng thì được khỏi.  Rắn đồng đó, như bài Tin Mừng kể lại, Chúa Giêsu dùng làm hình ảnh để chỉ về Ngài: cũng như xưa, rắn đồng bị treo lên, Ngài cũng phải bị treo lên như vậy.  Và cũng thế, rắn đồng chữa cho bất cứ ai nhìn lên nó, thì Chúa cũng chữa bất cứ ai tin cậy ở Ngài.  Vì thế, sau khi dùng hình ảnh để so sánh, Chúa quả quyết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời.”

Quả thật, thập giá của Chúa đem lại sự sống đích thực, sự sống đời đời cho những ai tin tưởng, cậy trông vào Chúa.  Bằng chứng cụ thể để bảo đảm điều này là người trộm lành trong Tin Mừng: khi Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá trên núi Sọ, thì có hai phạm nhân khác là hai tên trộm cướp, cũng bị đóng đinh như thế ở hai bên Chúa: Đít-ma bên phải và Ghét-ta bên trái.  Khi ba thập giá được dựng lên, treo ba thân xác chơ vơ giữa nền trời, người ta nghe tiếng tên trộm Ghét-ta chửi bới, nguyền rủa, nói những lời xúc phạm và đòi xuống khỏi thập giá.  Trái lại, tên trộm Đít-ma, như được ánh sáng từ thập giá ở giữa chiếu soi, anh buồn rầu, hối hận tội lỗi tầy trời của mình và quay sang Chúa Giêsu, anh tha thiết thưa: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của Ông, xin nhớ đến tôi.”  Trước lời khẩn nài đầy tin tưởng ấy, Chúa nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng.”

Trước khi thưa với Chúa Giêsu như trên, người trộm này đã nhìn nhận tội lỗi của mình khi anh đối chất với người bạn tù cùng bị đóng đinh với anh.  Anh nói: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ!  Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm.”  Như vậy, dầu sao trong tâm hồn người đạo chích này cũng đã dậy lên những tâm tình thống hối nồng nàn.  Dĩ vãng của anh thật tồi tệ, có lẽ tệ hơn cả Ba-ra-ba, vì Ba-ra-ba thì được tha, còn anh lại bị đóng đinh.  Đời anh xấu xa quá.  Anh biết và thành thật cảm nhận điều đó; đồng thời anh cũng tin nhận Đấng cùng chịu án với anh thật vô tội và qua cung cách của Ngài, anh tin phải là Đấng Thánh.  Nên chỉ một tia sáng từ thập giá Chúa chiếu ra đã làm rực sáng đức tin của anh.  Anh đã thấy thập giá, anh đã tin vào giá trị của thập giá, và biết Đấng bị đóng đinh là ai, nên anh mới xin Ngài nhớ đến anh khi Ngài về nơi vương quốc của Ngài.

Như vậy, trên núi Sọ, đám đông dân chúng đòi Chúa xuống khỏi thập giá, thì người trộm lại đòi được đưa lên.  Quần chúng cầu mong Chúa thuyết giảng một thứ tôn giáo không thập giá, còn người trộm lại tìm được niềm tin khi bị treo trên thập giá.  Phải chăng sự hối cải của người trộm là chìa khóa, là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta ngày nay?

Kể từ khi thập hình của người Rô ma được áp đặt cho Chúa Giêsu, thì thập giá đã trở thành Thánh giá, và bóng Thánh giá của Ngài đã bao trùm cả trái đất.  Không ai có thể đứng ngoài bóng mát của Thánh giá.  Không ai có thể ở ngoài vòng lôi kéo của Chúa Giêsu.  Không bao giờ con người có thể loại bỏ Chúa ra khỏi lịch sử của mình nữa.

Thánh giá không chỉ được dựng lên trên nóc nhà thờ, trong cung thánh hay trong nhà của người tín hữu mà còn phải được tôn vinh giữa phố chợ, ở khắp mọi nơi.  Chúa Giêsu đã không bị đóng đinh trong một thánh đường, giữa hai hàng nến cháy, nhưng trên thập giá giữa hai người trộm cướp.  Ngài đã bị treo lên giữa ngã ba đường để cho mọi người qua lại đều nhìn thấy.  Ngài đã chết trước sự chứng kiến của mọi người.  Ngài đã chết cho mọi người.  Ngài đã chết cho từng người trong nhân loại.  Ngài đã chết nhân danh chúng ta để chúng ta được qui tụ vào gia đình con cái của Thiên Chúa.

Khi chiêm ngắm thập giá của Đấng Phục Sinh, chúng ta không ngừng nghe vang dội từ thập giá ấy lời nhắc nhở về một tình yêu thương cao cả dành cho tất cả chúng ta, cũng như nhắc nhở về những tội lỗi chúng ta đã phạm để thúc giục chúng ta ăn năn sám hối. Do đó, sự hối cải của người trộm lành là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta.

Đúng thế, ở trần gian chỉ có một điều xấu xa hơn tội lỗi, đó là không nhìn nhận tình trạng tội lỗi của mình.  Không có bệnh, chẳng ai tìm đến bác sĩ.  Cũng vậy, không nhận mình tội lỗi, chẳng ai đi tìm Chúa Cứu Thế.  Chỉ khi nào cho mình là dại dột hay chỉ khi nào bắt đầu công nhận mình là người tội lỗi, đó là lúc khởi sự bước vào con đường của người trộm lành đưa đến hối cải.  Biết mình tội lỗi, đó là điều kiện để hối cải, cũng như biết mình bệnh hoạn là điều kiện để chữa trị.

Trong Mùa Chay này, chúng ta hãy đến với Chúa và hạ mình xuống như người trộm lành, nhìn nhận mình là người tội lỗi và tin tưởng vào lòng khoan dung của Chúa, thì kể cả trong tình trạng xấu xa nhất, chúng ta vẫn được Chúa thương yêu tha thứ.

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP

Ký giả Dan Southerland: “Thảm sát trong biến cố Mậu Thân là tội ác chiến tranh”

Ký giả Dan Southerland: “Thảm sát trong biến cố Mậu Thân là tội ác chiến tranh”

Hòa Ái, phóng viên RFA
2018-03-12

Hai cựu phóng viên của UPI, Ký giả Dan Southerland và Ký giả Bob Kaylor tại văn phòng Đài RFA tháng 01/2018.

Hai cựu phóng viên của UPI, Ký giả Dan Southerland và Ký giả Bob Kaylor tại văn phòng Đài RFA tháng 01/2018.

RFA
 

Cách nay tròn đúng 50 năm, vào thời điểm Tết Nguyên Đán Mậu Thân, Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ký thỏa thuận ngừng bắn 36 giờ đồng hồ để cho dân chúng đón tết cổ truyền. Thế nhưng Quân đội Bắc Việt, dưới danh nghĩa Mặt trận Giải phóng miền Nam đã đồng loạt tấn công vào 41 tỉnh, thành phố, thị trấn và hàng trăm thị xã miền Nam Việt Nam. Thời điểm cuộc tấn công diễn ra vào lúc giao thừa và hàng ngàn người dân bị thiệt mạng, trong đó cuộc thảm sát ở Huế vẫn là vết thương chưa lành.

Cựu Tổng Biên tập Đài RFA, Ký giả Dan Southerland và Ký giả Bob Kaylor, cả hai vị đều là cựu phóng viên của hãng thông tấn UPI, chia sẻ nhân dịp đánh dấu 50 năm biến cố lịch thảm sát Mậu Thân.

Vi phạm thỏa thuận ngừng bắn

Hòa Ái: Xin chào hai Ký giả Dan Southerland và Bob Kaylor. Tôi được biết hai vị đã có mặt ở Việt Nam trong thời điểm biến cố Tết Mậu Thân xảy ra hồi năm 1968. Bây giờ đã 50 năm trôi qua, khi nhắc đến biến cố này, điều gì khiến cho hai vị nhớ nhất?

Ký giả Bob Kaylor: Tôi đã ở Nha Trang trong lúc xảy ra cuộc tấn công, một đêm trước khi bắt đầu ở Sài Gòn. Quân đội Bắc Việt và Việt Cộng tấn công 5 đồn cảnh sát khác nhau trong thành phố và vanh đai của Nha Trang. Đây là một vụ lớn. Nhưng ngay lúc đó tôi không lường được vụ tấn công này lớn đến mức độ nào, bởi vì nó diễn ra ở Nha Trang và vào đêm sau đó, diễn ra ở Sài Gòn và nhiều nơi khác ở Việt Nam. Cho nên mọi thứ thật sự bị quá sức vì quá nhiều người tấn công vào nhiều nơi. Đối với giới báo chí, chúng tôi cho là có thể dẫn đến một trận đánh lớn cần phải quan tâm.

Hòa Ái: Thưa Ký giả Dan Southerland, qua chia sẻ của ông với khán thính giả RFA nhân dịp 40 năm cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc, tôi nhớ ông đã ở Sài Gòn khi biến cố Tết Mậu Thân xảy ra. Những hình ảnh nào của biến cố này đọng lại trong hồi ức của ông?

Có những câu chuyện được kể lại quân đội Cộng sản vào trong thành phố, đi đến từng nhà ghi tên từng người và bắt họ đi, rồi họ bị mất tích luôn vào thời điểm đó. Không ai biết việc gì đã xảy ra với những người này. Sau cuộc tấn công nhiều tuần lễ, những hố chôn tập thể được khám phá và các cuộc thảm sát ghê rợn mới được phơi bày. – Ký giả Bob Kaylor

Ký giả Dan Southerland: Tôi thức dậy vào sáng ngày 30 tháng Giêng, tôi nghe như là tiếng pháo nổ, người ta đốt để đón Tết. Khi tôi nhận ra tôi tiếng súng liên thanh nổ, thì tôi thật cẩn thận trên đường đến văn phòng để đưa tin về cuộc tấn công. Tôi vừa kết hôn nên tôi chọn công tác ở Sài Gòn vì tôi cho rằng đây là một nơi an toàn. Nhưng ngay lúc đó, tôi nhanh chóng nhận ra Sài Gòn không còn an toàn nữa.

Hòa Ái: Tôi được biết Ký giả Dan Southerland lúc đó còn rất trẻ, vừa tốt nghiệp đại học ngành báo chí được vài năm. Những gì ông chứng kiến trong biến cố Tết Mậu Thân tác động đến nghề nghiệp cũng như trong cuộc sống của ông như thế nào?

Ký giả Dan Southerland: Tôi nhận thấy đây chính là công việc mà tôi muốn làm, cuộc tấn công này là một dịp để tôi thực hiện nghề nghiệp làm báo của mình. Và, tôi cũng nhận ra tôi không thể chỉ ngồi đợi ở Sài Gòn để chờ xem chuyện gì xảy ra, nên tôi tình nguyện đi ra khỏi thành phố Sài Gòn và tôi đã chứng những tổn thất của cuộc tấn công Tết Mậu Thân. Tôi đã học được nhiều bài học từ biến cố này.

Hòa Ái: Thưa Ký giả Bob Kaylor, ông có còn nhớ phản ứng của chính giới và dân chúng Hoa Kỳ ra sao khi UPI và các cơ quan báo chí nước ngoài khác, đặt tại Việt Nam loan tin về biến cố tết Mậu Thân, đặc biệt về các cuộc thảm sát tại Huế, thưa ông?

Thảm sát Mậu Thân

Ký giả Bob Kaylor: Tôi là người đang có mặt tại hiện trường và là một trong những người tích cực đưa nhiều tin tức về cuộc tấn công, nên tôi không có chú ý đến thế giới và nước Mỹ phản ứng như thế nào. Nhưng tôi tập trung đưa tin về những trận đánh và tôi còn nhớ những bản tin liên quan đến các cuộc hành quyết mà mãi mấy tuần sau mới biết được. Có những câu chuyện được kể lại quân đội Cộng sản vào trong thành phố, đi đến từng nhà ghi tên từng người và bắt họ đi, rồi họ bị mất tích luôn vào thời điểm đó. Không ai biết việc gì đã xảy ra với những người này. Sau cuộc tấn công nhiều tuần lễ, những hố chôn tập thể được khám phá và các cuộc thảm sát ghê rợn mới được phơi bày.

Hòa Ái: 50 năm biến cố Mậu Thân đã trôi qua, báo chí Việt Nam đưa tin về một sự kiện các cựu chiến binh giao lưu với học sinh ở một trường trung học cơ sở, tại phường Đa Kao, Sài Gòn hồi hạ tuần tháng 12 năm 2017. Tại cuộc gặp gỡ đó, một cựu chiến binh đã nói với học sinh rằng “giết kẻ địch trong chiến tranh không phải là tội ác”, nhưng người cựu chiến binh này cũng nhấn mạnh việc giết người vô tội như Pol Pot đã làm ở Campuchia là tội ác chiến tranh. Thưa ký giả Dan Southerland, những người dân thường ở Huế bị giết hại trong biến cố Mậu Thân lên đến con số hàng ngàn người, mà lịch sử ghi chép do quân đội Bắc Việt gây ra, trong đó đa số là phụ nữ và trẻ em, ông có cho rằng các cuộc thảm sát này là tội ác chiến tranh hay không?

Ký giả Dan Southerland: Vâng. Tôi nghĩ có thể xem đây là tội ác chiến tranh. Các cuộc thảm sát đó thực sự là khủng khiếp. Chúng ta không thể biết được con số thật sự bao nhiêu người đã biệt giết. Các ngôi mồ tập thể chứa khoảng từ 2800 đến 3000 nạn nhân. Như Ký giả Bob Kaylor đã kể thì không ai có thể biết con số cụ thể bao nhiêu người bị mất tích, nên số liệu người bị sát hại có thể cao hơn. Rất nhiều người bị mất tích.

Hòa Ái: Cũng vào cuối tháng 12 năm 2017, truyền thông Việt Nam đăng bài viết của Chủ tịch nước Trần Đại Quang nhân 50 năm tổng tiến công Mậu Thân 1968, khẳng định cuộc tổng tiến công có ý nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng, dẫn đến đàm phán tại Hội nghị Paris để chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Thưa Ký giả Bob Kaylor, là nhân chứng lịch sử và là một nhà báo, ông ghi nhận một cách tổng quát cuộc tổng tiến công Mậu Thân của quân đội Bắc Việt như thế nào?

Ký giả Bob Kaylor: Chúng tôi đã không biết được tầm ảnh hưởng của cuộc tấn công Mậu Thân cho đến một thời gian sau khi nó xảy ra. Thật sự các cuộc tấn công xảy ra ở Việt Nam đều do quân đội Cộng sản thực hiện và chiến thắng thuộc về họ. Nhưng trong các trận đánh, lực lượng quân đội Việt Nam Cộng Hòa và đồng minh Hoa Kỳ cho thấy quân đội Cộng sản bị tổn thất nặng nề. Theo cách nói của quân đội thì đó không phải chiến thắng vang dội. Nhiều năm sau nữa, tôi được gặp một ông Đại tá của Mỹ, người có liên hệ trong cuộc đàm phán đình chiến và ông đã kể lại cho tôi nghe những gì ông bàn thảo với đối tác, là một Đại tá của quân đội Bắc Việt. Trong ngày hai ông đại tá gặp nhau, Ông Đại tá Mỹ đã nói rằng “Các anh không bao giờ thắng chúng tôi trên trận chiến được”. Ông Đại tá của quân đội Bắc Việt nhìn vào mắt của ông Đại tá Mỹ và nói “Điều đó không liên quan gì cả”. Ông Đại tá Mỹ nói với tôi là sau đó ông nhận ra lời của ông Đại tá Bắc Việt nói đúng vì quân số của quân đội Bắc Việt bị tổn thất, nhưng trong thời gian dài họ thắng về mặt tâm lý và đã dẫn đến thế giới thay đổi quan điểm về cuộc chiến tranh Việt Nam.

Hòa Ái: Chúng tôi cũng được dịp trao đổi với một số gia đình có thân nhân là nạn nhân bị giết hại trong biến cố Mậu Thân. Nỗi sợ hãi và ám ảnh vẫn còn nguyên vẹn dù đã 50 năm trôi qua. Hai vị nghĩ rằng Nhà nước Việt Nam nên làm gì đối với những gia đình này để nỗi đau mất mát phần nào được xoa dịu?

Ký giả Dan Southerland: Tôi nghĩ đó là ý tưởng hay. Nhưng tôi không nghĩ Chính phủ Việt Nam sẽ thực hiện điều đó. Họ không phải là những người tốt đang điều hành quốc gia. Tôi nghi ngại họ sẽ không làm như vậy. Bởi vì, nếu họ làm thì sẽ rất tuyệt vời. Đã quá trễ để làm việc này đối với những người có liên quan trong biến cố Mậu Thân, cách đây 50 năm.

Tôi nghĩ có thể xem đây là tội ác chiến tranh. Các cuộc thảm sát đó thực sự là khủng khiếp. Chúng ta không thể biết được con số thật sự bao nhiêu người đã biệt giết. Các ngôi mồ tập thể chứa khoảng từ 2800 đến 3000 nạn nhân. Như Ký giả Bob Kaylor đã kể thì không ai có thể biết con số cụ thể bao nhiêu người bị mất tích, nên số liệu người bị sát hại có thể cao hơn. Rất nhiều người bị mất tích – Ký giả Dan Southerland

Tôi muốn thêm vào nhận định của Ký giả Bob Kaylor về biến cố Mậu Thân. Tôi nghĩ một trong những thất bại lớn nhất của biến cố này là quân đội Bắc Việt chú trọng vào việc kích động hoặc làm cho lớn chuyện lên. Họ nghĩ rằng sẽ được dân chúng hỗ trợ khi vào đến các thành phố, trị trấn, làng ấp, nhưng họ đã thất bại vì thực tế không phải như vậy. Đây là một khía cạnh quan trọng.

Điều thứ hai quan trọng nữa là họ muốn hủy diệt lực lượng quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Các quân nhân của quân lực Việt Nam Cộng Hòa được về nhà đón Tết trong thời gian ngưng bắn, nhưng quân đội Bắc Việt đã vi phạm thỏa hiệp ngưng bắn đó. Tôi đã đến Bến Tre, một nơi bị tàn phá nặng nề sau cuộc tấn công Mậu Thân. Tôi thẩn thờ trước cái chết của hàng ngàn thường dân, đã bị giết trong thời gian ngưng bắn. Quân số của quân lực Việt Nam Cộng Hòa vào thời gian nghỉ Tết Mậu Thân có lẽ chỉ còn 1/6, và họ đã chiến đấu để chống trả lực lượng tấn công của đối phương.

Tướng Westmoreland, Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam báo cáo đã thắng trận Mậu Thân. Tuy nhiên, Tổng thống Johnson lúc bấy giờ bị sốc khi xem được hình ảnh Việt Cộng tấn công vào tòa Đại sứ Mỹ. Truyền thông Hoa Kỳ đưa tin cuộc chiến ở Việt Nam bị sa lầy và phong trào kêu gọi rút quân. Tổng thống Johnson đã ra lệnh ngưng bỏ bom ở miền Bắc và kêu gọi Bắc Việt ngồi vào bàn Hội nghị Paris.

Ký giả Bob Kaylor: Như Ký giả Dan Southerland đã trình bày, thì người dân Mỹ đã quá mệt mỏi với các thông tin về người thân chiến đấu và bị mất mạng ở Việt Nam. Họ không thấy được lối thoát cho cuộc chiến này. Họ không muốn các chính trị gia tiếp tục hỗ trợ cho cuộc chiến tranh Việt Nam nữa và những lời kêu gọi của họ cuối cùng đã dẫn đến quyết định chấm dứt chiến tranh.

Hòa Ái: Xin được cảm ơn Ký giả Dan Southerland và Ký giả Bob Kaylor dành thời gian cho cuộc phỏng vấn với RFA nhân dịp 50 năm biến cố Mậu Thân.

Giáo viên “chi tiền để được dạy”, huyện khẳng định chưa phát hiện tiêu cực

Giáo viên “chi tiền để được dạy”, huyện khẳng định chưa phát hiện tiêu cực

Liên quan đến vụ việc hơn 500 giáo viên ở huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk bị thôi việc vì bị tuyển dư trong nhiều năm qua, một số giáo viên nói mình phải chi tiền để được nhận vào dạy, sau đó là vào biên chế nhà nước; thế nhưng bà Ngô Thị Minh Trinh, Phó chủ tịch UBND huyện Krông Pắk nói huyện chưa phát hiện tiêu cực.

“Đến nay, huyện chưa nhận được bất cứ phản ánh hay đơn thư tố cáo tiêu cực trong vụ việc này. Nếu phát hiện có tiêu cực, chúng tôi sẽ đề nghị các cơ quan chức năng điều tra xử lý những cá nhân tập thể vi phạm”, báo Zing dẫn lời bà Trinh cho biết.

Video liên quan: “Ai trả thanh xuân cho chúng tôi?” http://bit.ly/2FJvuXZ

Image may contain: 1 person