BÀN VỀ SỰ “HÒA NHẬP” CỦA CÁO GIÀ CS

Đỗ Ngà

Phải nói chủ nghĩa Marx Lenin từ đầu nó đã xem lối trá là phần cốt lõi của sinh mạng chế độ. Đã là loài trâu bò thì ăn cỏ, mà hổ báo thì ăn thịt không thể khác, vì trong bộ máy sinh học mỗi loài nó định thế. Đã là dân chủ thì phải minh bạch và trung thực, còn CS thì phải dối trá và che đậy.

Nhìn vào cấu tạo bộ máy chính quyền và bộ máy Đảng thì ắt biết. Trong chính phủ có bộ TT-TT và trong bộ máy Đảng có Ban Tuyên Giáo. 2 cơ quan này chuyên làm dối trá với nhân dân để bảo vệ sự sống cho chế độ. Trong nước, chính quyền CS cho phối hợp 2 cơ quan dối trá kia với Bộ công an để thực hiện công cuộc tàn phá trí lực dân tộc. Ban Tuyên giáo và Bộ TT-TT vừa cấm sự thật vừa cấy dối trá, nếu kẻ nào lọt sổ vì cứng đầu không chịu tin lời nói dối, thì đến lượt Bộ Công an ra tay trấn át những kẻ đó bằng bạo lực. 2 tầng như thế thì trí lực dân tộc không nát thì cũng nhừ.

Với cấu tạo đặc thù như thế, giống như trâu bò gặm cỏ, nếu không còn cỏ nó sẽ chết đói. Cho nên không có dối trá CS sẽ vong.Vì vậy mà để làm CS suy yếu và sụp đổ thì không thể thiếu vải trò của việc truyền bá sự thật. Khi nào người dân còn từ chối sự thật khi đó CS còn đất sống.

Ngày nay có một nghịch lý mà ai cũng thấy. Đó là sự thật về một đất nước tan nát vì đạo đức xuống cấp, sự nghèo khó của nhân dân, sự hèn yếu của chính quyền vv… thì ai cũng biết, nhưng nhắt tới những sự thật quá khứ thì rất nhiều người không thể dung nạp được. Đến nay ai nói động tới sự thật về Hồ Chí Minh thì lập tức vô số kể phản ứng mãnh liệt, trong đó có cả những người được cho là có nhận thức tiến bộ.

Nếu bạn phân tích con người Hồ Chí Minh dựa vào những bài báo bịa đặt của ông ta dưới bút danh C.B thì chắc chắn bạn sẽ nhận vô số gạch đá. Nhưng nếu viết bài phân tích về sự dối trá của VTC về sự bịa đặt câu chuyện “giọt sữa cuối cùng” thì sẽ có nhiều sự đồng tình hơn. Nhìn thế chúng ta mới thấy, rất nhiều con người Việt Nam dù không hài lòng chế độ nhưng họ vẫn còn nhiễm dối trá rât nặng. Đấy là đất sống cho chính quyền CS.

Như đã nói từ đầu, dối trá là nguồn sống của CS. Bộ máy chính quyền nó được lập ra là để cấy sự dối trá, và tất nhiên dối trá là thứ thần dược của ĐCS. Trên thế giới còn 4 chính quyền sống bằng dối trá như thế và bọn chúng không thể nào lập thành khối chơi chung được. Trong 1 đám 4 thằng, CSVN chơi được 2 trong 3 thằng CS còn lại, một thằng là chủ nó và một thằng là bạn nó. Sân chơi CS trên toàn cầu xem như đã khai tử.

Có người nói đùa rằng “qua 32 năm người ta cho ngồi chung mâm cỗ với giới thượng lưu, nhưng anh CS Hà Nội vẫn chưa rửa sạch được phèn nơi gót chân”. Trong ao nhà Việt Nam, CS là vua, hắn giữa độc quyền cai trị. Hắn vẫy vùng với mớ nước phèn dối trá bịp bợm, gian xảo, lợi dụng vv… mà chẳng gặp trở lực gì. CS Hà Nội chỉ có thế, hành trang của hắn chả có gì khác nên hắn mang những hắn có ra chơi với thế giới văn minh.

Sân chơi toàn cầu bây giờ là sự minh bạch và trung thực của thế giới tự do. Nó có luật chơi chung hẳn hoi, một trong qui tắc đó là anh phải tôn trọng luật pháp chủ nhà khi anh đến đất nước người ta. Thói vừa côn đồ vừa gian xảo cần phải vứt bỏ. Ai cũng chơi theo luật đàng hoàng, chỉ mình anh làm trò khỉ phá rối sự quy củ của một tổ chức văn minh thì ai dung nạp được anh?

Thế nên sự tùy tiện bắt người, và dùng sự dối trá che đậy là một thói quen của chính quyền CS. Cách hành xử với dân như vậy được không có nghĩa là làm thế với EU được. Đức đang tiến từng bước chậm mà chắc để xử lí vụ bắt cóc người ngay trên nước họ, một quốc gia luật pháp hả hoi bị người của quốc gia khác bắt người ngay trên lãnh thổ họ. Hiện nay Slovakia tự dưng lại bị dính rắc rối với Đức vụ này, vì sự hiếu khách Slovakia đã phải chuốc lấy phiền phức. Lòng hiếu khách của một quốc gia đã bị lợi dụng. Chắc Slovakia họ sẽ tởn tới già với thằng láu cá VC.

Không biết vụ này sẽ ra sao, nhưng chắc chắn 1 điều, Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị EU trừng phạt vì bản năng hoang dã của CS. CS sẽ mãi mãi không thể hòa nhập vì bản chất của nó khác hoàn toàn với số số còn lại trong sân chơi. Vì dối trá, lật lọng, côn đồ, lợi dụng là bản chất sống còn của nó, nó chỉ đứng ké mà chưa bao giờ hành xử như những thành viên biết chơi theo luật. Mãi mãi nó là kẻ lạc lõng.

Tòa nhà lịch sử 130 tuổi ở Sài Gòn có nguy cơ bị phá bỏ

 Tòa nhà lịch sử 130 tuổi ở Sài Gòn có nguy cơ bị phá bỏ

Mặt chính của tòa nhà Dinh Thượng Thơ hiện là trụ sở của Sở Thông Tin Truyền Thông và Công Thương Sài Gòn. (Hình: VNExpress)

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Nha Giám Đốc Nội Vụ, còn gọi là Dinh Thượng Thơ, đường Gia Long, quận 1, nay đang là trụ sở của Sở Thông Tin-Truyền Thông và Sở Công Thương, có nguy cơ bị phá bỏ để “nâng cấp tòa nhà ủy ban Sài Gòn.”

Báo VNExpress cho hay, theo phương án thiết kế, nâng cấp trụ sở hội đồng và ủy ban thành phố Sài Gòn “đang được lấy ý kiến người dân và chuyên gia,” các tòa nhà phía sau đang là trụ sở Sở Giao Thông-Vận Tải, Tài Nguyên-Môi Trường, Thông Tin-Truyền Thông… quay mặt ra đường Gia Long, nay là Lý Tự Trọng, quận 1, sẽ được xây mới cao hơn, kết nối với tòa nhà ủy ban hiện hữu để trở thành trung tâm hành chính mới.

Tin cho biết, tính từ lúc được nâng cấp lần cuối năm 1890 đến nay đã gần 130 năm, nhưng nếu tính về lịch sử khi mới được xây dựng lần đầu thì công trình này đã gần 160 tuổi. Song, bên trong tòa nhà hình chữ U này vẫn còn nguyên bốn cầu thang gỗ nằm gần cổng ra vào và hai góc của tòa nhà dẫn lên tầng trên, cùng hai chiếc cổng sắt được thiết kế tinh xảo và lối vào lát đá xanh khá nguyên vẹn.

Trước việc Sở Quy Hoạch Kiến Trúc Sài Gòn cho rằng, tòa nhà trên không thuộc “công trình bảo tồn” nên phương án thiết kế không giữ lại nhiều phần, giới kiến trúc sư không đồng tình.

Bởi giá trị bảo tồn công trình cổ nằm ở chỗ giữ nguyên vẹn cả kiến trúc lẫn không gian đô thị xung quanh. Trong vòng bán kính 500-1,000 mét tính từ vị trí xây khu hành chính mới được xem là vùng lõi, đang có nhiều công trình kiến trúc đều trên 100 năm, trở thành biểu tượng của Sài Gòn như: Nhà Thờ Đức Bà, Dinh Thống Nhất, Nhà Hát Thành Phố, Bưu Điện Thành Phố, chợ Bến Thành…

Tòa nhà hồi đầu thế kỷ 20. (Hình: VNExpress)

“Phương án tốt nhất là không phá bỏ các công trình cũ, nhất là Dinh Thượng Thơ và cả trụ sở Sở Giao Thông-Vận Tải, vốn là trụ sở Bộ Quốc Phòng thời VNCH. Những công trình này đã tạo ra một điểm vàng về kiến trúc tương đối ổn định,” ông Võ Kim Cương, nguyên phó kiến trúc sư trưởng Sài Gòn nói.

Còn ông Ngô Viết Nam Sơn, tiến sĩ, kiến trúc sư cũng cho rằng, nếu thành phố phá bỏ Dinh Thượng thơ sẽ là điều “vô cùng đáng tiếc.”

“Thành phố phải làm gương trong việc bảo tồn di sản, nếu không đừng mong nhà đầu tư sẽ bảo tồn. Giá trị của tòa nhà này thì không cần phải bàn cãi nữa, bởi nó là công trình lịch sử lâu đời của thành phố, hoàn toàn có thể bảo tồn và bố trí chức năng phù hợp,” ông Sơn nói.

Trong khi đó, bà Nguyễn Thị Hậu, tiến sĩ khảo cổ học, phản bác các ý kiến đánh giá công trình này không có gì đặc sắc để bảo tồn, hoặc quan niệm “công trình cổ phải nhường chỗ cho phát triển.” Theo bà Hậu, những quan điểm trên là sự báo trước một ngày không xa thành phố sẽ không còn dấu vết lịch sử, văn hóa của Sài Gòn mấy trăm năm.

Không chỉ các chuyên gia mong muốn bảo tồn tòa nhà di sản của Sài Gòn, hồi Tháng Mười, 2015, khi đó ông Lê Thái Hỷ, giám đốc Sở Thông Tin-Truyền Thông cũng từng có văn bản gửi ủy ban thành phố khẳng định “công năng sử dụng của tòa nhà vẫn còn tốt, kiến nghị bảo tồn nguyên trạng kiến trúc và vị trí tòa nhà.”

Ông Hỷ đề xuất sau khi bảo tồn có thể bố trí sử dụng làm trụ sở tiếp khách quốc tế hoặc tiếp dân ở Sài Gòn. Ông Hỷ cũng lo ngại nếu dời cả tòa nhà đi vị trí khác thì giá trị bảo tồn sẽ không bảo đảm. (Tr.N)

Vụ lật xe lửa ở Bàu Cá năm 1982: Nghĩa trang của sự quên lãng

 
 
 
Image may contain: people standing and outdoor
Image may contain: one or more people, tree, plant, outdoor and nature
Image may contain: one or more people, outdoor and nature
Image may contain: plant, grass, tree, outdoor and nature
Image may contain: one or more people and people standing
+2

Van Pham

*************

Vụ lật xe lửa ở Bàu Cá năm 1982: Nghĩa trang của sự quên lãng. (tiếp theo và hết…)

Người Việt Online– Những ngày vừa qua, không chỉ nhật báo Người Việt, mà báo chí trong nước cũng bắt đầu khơi lại một vụ tai nạn xe lửa được xem là thảm khốc nhất trong lịch sử ngành đường sắt Việt Nam xảy ra tại ga Bàu Cá, tỉnh Đồng Nai, vào ngày 17 Tháng Ba năm 1982 khiến hơn 200 người thiệt mạng.

Lý do sự kiện này được khơi lại bắt nguồn từ năm 2014, khi chị Trần Thị Cẩm, 59 tuổi, hiện sống ở Phú Nhuận, Sài Gòn, quyết tâm đi tìm tung tích anh trai và chị dâu mình, người mà chị cho rằng đã thiệt mạng trong tai nạn xảy ra từ 36 năm trước, nhưng vì hoàn cảnh kinh tế quá khó khăn nên chị và gia đình đã không thực hiện được tìm kiếm sớm hơn.

Trong quá trình tìm kiếm này, nhiều sự thật, nhiều câu chuyện đã lần lần được mở ra. Trong đó, chuyện về một nghĩa trang hiện còn hơn 100 ngôi mộ của những người qua đời trong tai nạn đó bị lãng quên khiến nhiều người kinh ngạc, cũng như chuyện làm sao tìm cho ra bản sơ đồ chôn cất những nạn nhân “vô danh” ngày ấy để thân nhân biết mà đến đưa hài cốt về là chuyện được quan tâm nhiều nhất.

Đào 200 lỗ huyệt, chôn hơn 100 hòm trong đêm

Trong kỳ 1 của loạt phóng sự này, chúng tôi có nhắc đến giấc mơ kỳ lạ của chị Trần Thị Cẩm về hình ảnh của một nghĩa trang chìm khuất trong cỏ dại hoang vu mà người anh trai chị “báo mộng” cho biết “Cẩm ơi, anh nằm chết ở đây!”
Ông Nguyễn Kim Hoạt, một trong những người đào huyệt chôn nạn nhân lật tàu ở ga Bàu Cá ngày 17 Tháng 3, 1982, và vẫn đang tiếp tục chăm sóc nghĩa trang này (Hình: Trần Cẩm cung cấp)

Theo lời chị Cẩm, “Lần đầu tiên tôi nhìn thấy nghĩa trang là một cảnh tượng rất đau lòng, cây cỏ bụi bờ hoang vu, có nghĩa là mấy mươi năm rồi hình như không ai đặt chân tới.”

Và cũng trong lần đầu tiên tìm đến nơi này, chị Cẩm đã gặp một ông cụ ngoài 80 tuổi ngồi lặt điều trong vườn điều cách nghĩa trang không xa. Đó chính là ông Nguyễn Kim Hoạt, một trong số những người đã đào huyệt chôn cất nạn nhân thiệt mạng trong chuyến tàu định mệnh mang số hiệu 183 từ mấy mươi năm trước.

Nói chuyện với phóng viên Người Việt qua điện thoại, ông Hoạt kể, “Tôi nhớ trưa hôm đó nghe báo có tai nạn lật tàu, tôi cùng với nhiều người dân trong ấp ra giúp chính quyền đào mộ. Họ nhờ chúng tôi đào 200 lỗ huyệt. Đào đến tối thì xong, lúc đó có xe tải chở hòm vô và chúng tôi chôn họ trong đêm.”

Theo lời ông Hoạt, “Bên trong hòm là đàn ông hay đàn bà, là xác nguyên vẹn hay bị gì chúng tôi không biết, chỉ biết là một người có trách nhiệm chỉ hòm nào đưa xuống huyệt nào thì chúng tôi cứ theo vậy mà mang hòm bỏ xuống và lấp đất lại thành mộ đất đàng hoàng. Còn việc họ có đánh dấu mộ đó là của ai không thì tôi không hề biết.”

Cũng theo ông Hoạt, “Lúc đầu chính quyền nhờ đào 200 huyệt, nhưng chôn không hết, chỉ có 117 hòm, nên những huyệt dư được lấp lại.”

“Ngay lúc đó thì không có mộ nào có bia hết. Tuy nhiên, sau đó có một vài mộ có bia bằng xi-măng, nhưng mà ít lâu sau thì những ngôi mộ đó cũng đều đã được bốc đi. Tôi nghĩ có lẽ đó là mộ của những người có giấy tờ, thân nhân biết tìm đến. Còn lại tất cả đều không có bia,” ông Hoạt nói thêm.

Tìm thân nhân trong nghĩa trang nhờ có sơ đồ, hình ảnh

Trong bài viết trước chúng tôi có nhắc đến trường hợp của anh Lý Thoại Phương, hiện ở Gò Vấp, Sài Gòn, là người không đi trong chuyến tàu định mệnh mang số hiệu 183, nhưng lại “may mắn” nhận được xác mẹ mình ngay tại hiện trường tai nạn, dù khi đó xác bà đã được gói vào bao nilong chuẩn bị đưa đi chôn.

Tuy nhiên, số người biết tin để chạy đến tìm người thân như anh Phương khi đó không nhiều. Thế nên những người hay tin sau đó phải đi nhận thân nhân mình trong một nghĩa trang cách nơi xảy ra tai nạn khoảng 3-4 cây số.

Trong số này có ông Tâm Trần, hiện đang ở Garden Grove, California, người có vợ và hai người con gái thiệt mạng trong tai nạn thảm khốc nói trên.

Ông Tâm kể, “Lúc đó tôi ở Nha Trang, mới ra tù cải tạo, còn bị giữ ở địa phương vì không có giấy tờ gì hết. Tai nạn xảy ra, có người biết tin báo về cho hay. Người nhà tôi mới lên đồn công an trình bày và bảo lãnh tôi ra để đi tìm vợ con.”

“Tôi đón xe đò đi vào đến nơi thì cũng đã hai ngày sau tai nạn. Hình ảnh tôi nhìn thấy rất hãi hùng. Các toa tàu bị lật, nát ra, đổ vỡ, rồi hàng hóa, hàng lý của khách đi tàu văng tung tóe, nhìn thấy sợ lắm. Nhưng xác người thì đã đưa đi hết rồi,” ông Tâm nhớ lại.

Ông nói tiếp, “Thực ra lúc đó mình cũng đâu biết là vợ con sống chết thế nào, chỉ biết là có đi trên chuyến tàu đó. Tôi đến cơ quan chính quyền địa phương hỏi thăm. Ai chết thì họ có danh sách, có hình ảnh để mình nhận dạng. Còn mình không tìm thấy tên, thấy hình ở đó tức là không chết ở đó mà đã đưa đi bệnh viện.”

Ông Tâm cho rằng do vợ ông có mang giấy tờ, các con ông cũng có nên khi “mình nói tên thì họ xem trong danh sách rồi chỉ mình ra nghĩa trang tìm.”

“Khi tôi đến thấy cũng có nhiều người đến đi tìm thân nhân. Vợ và hai con tôi không phải chôn cạnh nhau mà chôn lung tung hết, mình phải đi tìm một hồi mới ra,” ông Tâm kể.

Ông nói, “Do lúc đó xác mới chôn, lại thêm điều kiện quá khó khăn, tôi lại vừa mới ra tù nên tôi không bốc xác mang về liền mà để lại đó đến hơn một năm sau mới quay trở lại hốt cốt đem về.”

Ông Tâm cũng cho biết ông có được nhận số tiền 3 ngàn đồng gọi là tiền “bồi thường” hay “bảo hiểm” cho cái chết của vợ và hai con ông.

Cũng như anh Lý Thoạt Phương, ông Tâm cũng xác nhận một điều, rằng: khi đó có một sơ đồ đánh dấu vị trí chôn các nạn nhân. Nạn nhân có giấy tờ thì họ ghi lại tên tuổi vào quyển sổ. Nạn nhân không có giấy tờ thì họ chụp hình lại, hình đen trắng và ghi vị trí ngôi mộ phía sau mỗi tấm hình.
Ngôi mộ đôi trong Nghĩa Trang Đ.S 17-03-1982 (Hình: Trần Cẩm cung cấp)

Điều này cũng trùng khớp với sự xác nhận của gia đình bà Phan Thị Tư hiện ở Nha Trang, người có mẹ mất trong vụ lật tàu 183.

Chị Cẩm kể, “Sau khi nghĩa trang được phát quang, thì ngoài một vài tấm bia có tên nạn nhân còn sót lại nhưng hài cốt đã được bốc đi, thì nơi đây chỉ có một ngôi mộ đôi được xây cất cẩn thận, và trên tấm bia có một ghi chú khá đặc biệt cùng với số điện thoại liên lạc.”

Theo số điện thoại đó, chị Cẩm gọi thì được biết đó là ngôi mộ của mẹ bà Phan Thị Tư. Ngày ấy, khi thấy người mẹ đi lâu không về, gia đình bà Tư đã đi nhiều nơi tìm kiếm và có đến cơ quan đường sắt ở đường Hàm Nghi, Sài Gòn để hỏi. Tại đây, gia đình bà Tư được đưa cho một số hình ảnh và sơ đồ nghĩa trang để xác minh người thân. Nhờ hình ảnh và sơ đồ đó mà bà Tư xác định ngôi mộ mang số B17 là mộ của mẹ mình.

“Bà Tư cùng người nhà tìm đến nghĩa trang, tìm đúng vị trí ngôi mộ và lấy đá sỏi viền xung quanh phần mộ đó như một kiểu làm dấu trong khi họ chưa có điều kiện làm bia hay bốc cốt mang về,” chị Cẩm kể lại những gì nghe được từ bà Tư.

Nhiều năm sau, gia đình bà Tư quay trở lại để xây mộ đá cho mẹ chứ không bốc cốt về quê do “vấn đề tâm linh,” thì lại phát hiện ra là có tới hai phần mộ viền đá sỏi và họ không thể nào xác định được cái nào là mộ của mẹ mình.

Chính vì vậy mà gia đình bà Tư quyết định xây chung một mộ đá cho cả hai phần mộ đó, và trên tấm bia ghi rõ dòng chữ “Trong hai ngôi mộ này có phần mộ mẹ chúng tôi. Phần mộ còn lại nếu có thân nhân xin liên hệ cùng chúng tôi để tìm hiểu. Liên lạc số điện thoại…”

Tuy nhiên, chị Cẩm nói, “Bao năm rồi vẫn không có một ai liên lạc với họ.”

Nhọc nhằn một cái tên, gian nan một bản sơ đồ

Ngày nay, sau 4 năm chị Cẩm thực hiện hành trình tìm kiếm tung tích anh trai và chị dâu mình, thì nhiều người nghe nhắc đến “Nghĩa trang Đ.S 17-03-1892.” Tuy nhiên, để có được tấm bảng tên cho nghĩa trang này cũng là một câu chuyện khá lạ lùng.

Chị Cẩm cho biết, “Từ năm 1982 sau khi chôn cất nạn nhân xong, người ta có xây tường rào cao 70cm xung quanh và nghĩa trang cũng có cái cổng nhưng không ghi dòng chữ nào.”

Ông Hoạt kể, “Ngày trước, thỉnh thoảng cũng có người tìm đến nghĩa trang này, nhưng sau đó thì không ai chăm sóc nên cỏ dại mọc um tùm, che kín hết. Cho đến năm 2014, khi bà Cẩm tìm đến đây, bà ấy nhiệt tình quá, cứ lên thắp hương hoài, nên tôi mới nói với bà con trong ấp là người ta đã đến tìm như vậy thì thôi mình phát quang nghĩa trang cho sạch sẽ.”

“Đây là một nghĩa cử mà tôi không bao giờ quên. Sau đó thấy cổng đã xỉn màu đen như than, bà con lại bàn nhau sơn màu trắng cho bớt âm u, lại còn góp tiền định khắc hàng chữ nổi ‘Nghĩa Trang Tai Nạn Đường Sắt 17/3/1982’ để đánh dấu sự kiện tai nạn, đồng thời cho mọi người biết đó là nơi chôn người, vì thực tế khi phát quang rồi thì nhìn vào chỉ thấy đó bãi đất trống với trên 10 cái lỗ huyệt bốc rồi, không còn dấu tích gì của những ngôi mộ đất ngày trước. Ba mươi mấy năm, tất cả đều bị san bằng là điều tất nhiên thôi,” chị Cẩm cho hay.

Cũng theo lời kể của chị, “Khi đắp chữ lên cổng, bà con nhận thấy là nếu ghi đầy đủ như dự tính lúc đầu thì chữ quá nhỏ nên bà con ghi tắt là ‘Nghĩa Trang ĐS 17-03-1982.’”

“Không dừng lại ở đó, người dân địa phương còn đóng góp tiền thuê đúc 100 bia ghi ‘Mộ VD’ (vô danh) cắm tạm 4 hàng theo dấu mấy mộ đã bốc. Việc khắc tên cổng và cắm bia nhằm mục đích bảo vệ sự tồn tại của nghĩa trang này,” chị Cẩm nói thêm.

Tuy nhiên, nói với phóng viên Người Việt, ông Hoạt cho biết thực tế chỉ có 80 bảng “Mộ VD” được cắm lên.

Giải thích lý do vì sao chỉ có 80 bảng, ông Hoạt nói, “Tôi đoán là trên 100 nhưng có một số lỗ họ đào rồi thì tôi nhắm còn lại chừng đó thì tôi làm 80 cái chứ thực ra các ngôi mộ không còn chia rõ ràng nữa.”

Kể từ sau ngày tìm được nghĩa trang này cũng như liên lạc được với thân nhân có người lâm nạn năm xưa, chị Cẩm đã liên tục đi nhiều nơi để kêu gọi sự giúp đỡ làm sao có được sơ đồ chôn cất năm xưa để những người như chị còn có thể biết đâu chính là nơi thân nhân mình đang yên nghỉ.

Chị nói, “Tôi đi đến ga Sài Gòn ở đường Hàm Nghi, rồi đến công an tỉnh Đồng Nai, là nơi xảy ra tai nạn, qua đến nơi lưu trữ hồ sơ có liên quan đến tai nạn đường sắt của tỉnh Đồng Nai, đến cả phòng kỹ thuật hình sự của tỉnh để hỏi, nhưng câu trả lời chung là: những người đang làm việc hiện tại đều là người mới, họ không biết gì đến tai nạn ngày đó, mà thậm chí có người biết loáng thoáng thì cũng không còn giữ lại bất kỳ hồ sơ gì liên quan đến những người thiệt mạng.”

Dù vậy, trước hành trình kiên trì của người phụ nữ này, cuối năm 2015, cơ quan đường sắt đã cho chỉnh trang lại tường rào và cổng vào nghĩa trang cho khang trang hơn. Nhưng họ lại gỡ bỏ hai chữ “Đ.S.”

“Người dân ‘bức xúc,’ tự cho sơn lại màu đỏ trên dấu chữ cũ cho đến hôm nay,” chị Cẩm kể. Đó là lý do hiện nay ai nhìn vào cũng sẽ thấy chữ “Đ.S” không phải là chữ nổi như những chữ còn lại.

Chị Cẩm cho biết, hiện mỗi năm 4 lần, vào các ngày 20 Tháng 11 (ngày đạo Công giáo tổ chức Lễ các linh hồn), Mùng 2 Tết, ngày 17 Tháng Ba (ngày xảy ra tai nạn) và Rằm Tháng Bảy (ngày xá tội vong nhân của đạo Phật), ông Hoạt cùng những người dân địa phương đến nhổ cỏ, dọn nghĩa trang và thắp hương những người đã khuất.

“Sở dĩ chọn 4 ngày này là để người theo đạo Phật và Công giáo đều dự được,” ông Hoạt giải thích thêm.

Ước nguyện của người ở lại

Chị Cẩm nói, “Vào Tháng Mười, 2015, sau khi một vài tờ báo trong nước lên tiếng, ông Trần Ngọc Thành, nguyên là Chủ Tịch Hội đồng quản trị Đường Sắt Việt Nam đã ‘âm thầm về thăm nghĩa trang.’ Được tin này, tôi cùng bác Hoạt chạy đến và đề đạt bốn nguyện vọng.”

Các nguyện vọng đó là:

– Xin chỉnh trang lại hàng rào đã sụp đổ để bảo vệ dấu vết nghĩa trang.

– Xin cho tìm lại hình ảnh nạn nhân tử nạn và sơ đồ chôn cất 113 nạn nhân giúp thân nhân có căn cứ xác định mộ người thân.

– Khu đất chôn mộ đắp đất năm xưa giờ đây không còn dấu vết. Xin cho khai quật để xác định rõ số người nằm dưới (cho giám định lưu trữ mẫu ADN nếu có thể).

– Xây cho mỗi người một ngôi mộ nhỏ hoặc chỉ ô vuông gạch để không dẫm đạp lên.

Tuy nhiên, kết quả mà chị Cẩm đạt được đến giờ chỉ là hàng rào đã được chỉnh trang.

Còn những đề nghị khác rơi vào im lặng.

Anh Liêm Thanh Đoàn, hiện sống ở Orange County, một trong những người “nhảy tàu” liên tục từ năm 1978 đến năm 1990, cũng là người chứng kiến tai nạn lật tàu 183, nói với phóng viên Người Việt, “Tôi là người đi tàu suốt từ Nam ra Bắc, chứng kiến không biết bao nhiêu tai nạn xe lửa, nhưng tai nạn tàu 183 ngày đó là tai nạn để lại ấn tượng kinh hoàng nhất trong đời tôi.”

“Kể từ ngày đó, mỗi lần tàu qua đoạn đường này, dù xuôi hay ngược, họ đều kéo một hồi còi tàu dài, rất dài. Riêng với những người từng buôn chuyến mà biết chuyện, thì mỗi lần qua đây, họ đều lặng lẽ lấy chuối bày lên và thắp nhang,” người đàn ông gần 60 trầm giọng kể, cố đè lại tiếng khóc…

Đến bao giờ, những danh tánh, hình ảnh của người còn nằm lại nơi “Nghĩa trang Đ.S 17-03-1982” mới được công bố ra cho mọi người cùng biết, để, nói như anh Liêm, “là câu trả lời cho nhiều người biết lý do vì sao ngày đó có những người con, người mẹ, người chị, người anh, người bà của mình đã ra đi và mãi mãi không về…”
***************

HÌNH:

– Nghĩa trang Đ.S 17-03-1982, nơi yên nghỉ của nhiều thân phận bị lãng quên sau tai nạn lật tàu 183 tại Bàu Cá cách nay 36 năm (Hình: Trần Cẩm cung cấp)
– Chị Trần Thị Cẩm, người đầu tiên “lật lại” hồ sơ tai nạn lật tàu khiến hơn 200 người chết vào ngày 17 Tháng 3, 1982 tại ga Bàu Cá (Hình: Trần Cẩm cung cấp)
– Người dân tự sơn lại chữ “Đ.S” sau khi chính quyền đục bỏ tại Nghĩa Trang Đ.S 17-03-1982 (Hình: Trần Cẩm cung cấp)
– Cổng nghĩa trang chôn cất nạn nhân vụ lật tàu ngày 17 Tháng 3 năm 1982 lúc ban sơ (Hình: Trần Cẩm cung cấp)    

Tà đạo

Image may contain: one or more people
Tinh Hoa

Tà đạo:

🍀Những năm thập kỷ 60, không hiểu ở Trung Quốc có cái đạo gì mà xúi dục dân chúng cả nước ra sức đập phá không biết bao nhiêu là chùa triền, phá hủy biết bao nhiêu là tượng Phật, các công trình tâm linh, văn hóa, truyền thống đều bị đập phá, đốt phá không thương tiếc. Những thành tựu văn minh phải mất hàng nghìn năm mới hình thành được mà chỉ qua vài năm ngắn ngủi đã bị cái đạo đó xúi người ta phá hủy tan tàn, phá từ vật chất tới tinh thần, từ thể xác tới linh hồn.

🍀Nghe đâu còn lôi cả họ hàng thân thích ra đấu tố, con đấu tố cha mẹ, anh em đấu tố lẫn nhau, hàng xóm láng giếng đấu tố nhau, trò đấu tố thầy, mọi quan hệ, luân thường đạo lý đều bị xúi dục để tạo thành mâu thuẫn, cả xã hội lao vào cuộc đấu, đập, phá, giết. Biết bao nhiêu người bị đem ra xử tử, tạo nên nỗi kinh khiếp cho những kẻ còn sống xót.

🍀Nếu chính đạo dạy con người sống lương thiện, từ bi, chân thật, xả bỏ tham sân si hỷ nộ ái ố thì tà vạy đạo sẽ dạy những thứ ngược lại. Than ôi, thời đại biến đối ngày nay, người ta cho Thiện là Ác, cho tốt là xấu, coi Tà là chính, coi giả dối là chân thực nên chẳng còn biết đâu là chuẩn mực để đo lường tốt xấu, chỉ hùa theo đám đông khi nhìn nhận vấn đề và hành xử cũng theo đám đông bày đàn.

BÔNG HỒNG MÙA XUÂN 

 BÔNG HỒNG MÙA XUÂN

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

“Bán cho tôi một bông hồng đi, cô bé! 
Đoá nào tươi còn búp nụ mịn màng.” 
Tôi ngước lên: “Xin ông chờ tôi lựa. 
Một bông hồng vừa ý nghĩa, vừa sang!” 

Khách mỉm cười: “Cô thật tài quảng cáo! 
Thế…. hoa hồng mang ý nghĩa sao, cô?” 
Tôi bối rối: “Hình như người ta bảo 
Nó tượng trưng tình nồng thắm vô bờ.” 

“Cám ơn cô! Giá bao nhiêu đấy nhỉ?” 
Tôi lắc đầu: “Thôi, xin biếu không ông, 
Một đoá hoa không đáng bao nhiêu cả
Rất mong ông làm người đẹp vừa lòng.” 

Khách bỗng nhìn tôi, mắt như xoáy lốc. 
“Cô bé lầm! Tôi không tặng người yêu. 
Thằng bạn thân chiều qua vào nghĩa địa 
Một bông hồng cho nó bớt quạnh hiu. 

Nhưng cô bé phải nhận tiền tôi chứ! 
Hoa cho không, rồi mẹ mắng làm sao?” 
Tôi cúi mặt: “Xin gửi người xấu số, 
Chuyện của ông làm tôi bỗng nghẹn ngào!” 

Khách quay đi, áo hoa rừng đã bạc, 
Dáng cao gầy khuất hẳn bóng chiều nghiêng. 
Tôi bất chợt đưa tay làm dấu thánh 
Mẹ giữ gìn cho người ấy bình yên! 

Trời đầu xuân còn vương vương sắc lạnh, 
Nắng vàng mơ, má con gái thêm hồng. 
Tôi bâng khuâng nhớ đến người khách lạ. 
Mình nhớ Người, Người có nhớ mình không?

Chiều hai chín phố phường sao tấp nập 
Người ta vui từng cặp đẹp bên nhau. 
Mắt tôi lạc… rồi bỗng dưng bừng sáng
“Phải anh không? Người khách của hôm nào?” 

Tim đập mạnh sau áo hàng lụa mỏng, 
Anh đến gần, lời nói cũng reo vui: 
“…Sao cô bé… hàng hôm nay đắt chứ? 
Còn nhớ tôi… hay cô đã quên rồi! 

Hành quân xong, tôi vừa về hậu cứ, 
Ghé ngang đây xin cô một bông hồng 
Và mong cô cho tôi xin lời chúc: 
“Rất mong ông làm người đẹp vừa lòng.” 

Tôi bỗng nghe như tim mình thắt lại, 
Gượng tìm hoa, rồi trao tặng tay Người. 
Khách nhìn tôi, mắt bỗng dưng dịu xuống, 
Đầy đăm chiêu và nghiêm lại nụ cười: 

“- Xin lỗi cô, nếu lời tôi đường đột, 
Nhưng thật tình tôi không thể nào quên 
Người con gái trong một lần gặp gỡ, 
Nhớ thật nhiều… dù chưa được biết tên 

Một bông hồng – như hôm nào cô nói: 
Là tượng trưng tình nồng thắm vô bờ.” 
Tôi run tay, nhận hoa hồng Người tặng 
Sự thật rồi…. mà cứ ngỡ đang mơ.

Lý Thuỵ Ý
Đăng trong Tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong Saigon 1968

From: Do Tan Hung & Kim Bang Nguyen

Thống Nhất và nỗi đau ly tán của dân tộc

Thống Nhất và nỗi đau ly tán của dân tộc

TẠP GHI HUY PHƯƠNG

  

 

 

 

 

 

 

 

… Các mảnh vỡ từ hai bên cố ráp vào vẫn rời ra, xộc lệch không tài nào ăn khớp.
(Trăm Năm Ly Hợp- Lê Khắc Hoan)

Cảnh sum họp của những người con có Cha tập kết ra Bắc trở về Nam sau ngày 30 tháng 4-1975, tưởng chừng vui tươi cảm động đầy nước mắt trong một màn tái ngộ, đã trở thành một cảnh ngỡ ngàng xót xa.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Lưu Quý Kỳ, Vụ Trưởng Báo Chí Ban Tuyên Huấn Trung Ương và TTK Hội Nhà Báo Bắc Việt, năm 1954, đã cùng vợ ra đi tập kết, để lại miền Nam hai đứa con, một trai mới lên một tuổi và một gái mới lên ba, cho bà Ngoại nuôi. Người con trai bị bỏ lại miền Nam khi mới một tuổi nay là Thiếu uý Lưu Đình Triều thuộc Sư Đoàn 7BB, chờ đợi cái ngày hội ngộ với Cha Mẹ sau thời gian ly tán 30 năm, đã thấy rõ ràng mình vẫn là kẻ thù của cha mẹ và những đứa em sinh ra ở miền Bắc, khi chúng đã hát trước mặt anh câu “xô lên xác thù hung bạo!” Kẻ thù đó là đứa con bị bỏ lại 30 năm về trước, đang bị kết án là dắt lính hành quân đi bắt heo, bắt gà của dân!

Lưu Quý Kỳ, hay thân phụ nhà văn Phan Nhật Nam, cũng như biết bao nhiêu người Cha đi tập kết trở về, rút cuộc chỉ có một câu động viên con đang ở trong nhà tù tập trung không có bản án: “Ráng học tập, lao động tốt cho mau về với gia đình!” (theo Bên Thắng Cuộc. T.1)

Trong thời gian chúng tôi đi tù ở huyệnTân Kỳ thì nhà ông anh rể tôi ở huyện Đức Thọ cùng trong một tỉnh, thư không có, mà thăm cũng không. Nghe gia đình ở Huế kể lại ông anh rể tôi viết thư lên án gia đình bên vợ là “đã gây nhiều tội ác” trong khi  nhà chỉ có mình tôi bị động viên vào lính, còn lại là bốn người làm nghề dạy học.

Lê khắc Nghi, Chú họ người viết bài này có vợ là một hoa khôi làng Văn Xá, “cưới nhau xong là đi!” Ở miền Nam đứa con trai duy nhất lớn lên, “được” VC xã dụ dỗ tham gia du kích vì có Cha đi tập kết, trong một cuộc hành quân bị nghĩa quân miền Nam bắn chết. Ba mươi năm sau, ông Chú trở về theo một bà vợ răng đen do đảng “cơ cấu” và mấy đứa con rặt Bắc, “cháu bác Hồ.” Ngày trùng phùng hoá ra là ngày khởi đầu cho một giai đoạn ngỡ ngàng cay đắng. Sum họp như thế thà chia lìa còn hơn! Họ không còn giống nhau từ sự hiểu biết, giọng nói, lối sống và tư tưởng. Vợ chồng mà đó, anh em ruột thịt mà đó, cha con mà đó, nhưng xa cách nghìn trùng, càng dùng ngôn ngữ để tiến lại gần nhau, càng thấy xa nhau.

Trong Đèn Cù, Trần Đĩnh kể chuyện một ông cụ thổi kèn Tây trong ban nhạc của triều đình Huế thời Bảo Đại, tập kết ra Bắc, sau ngày “chiến thắng” chỉ còn độc một đôi dép râu, không có cả…bít tất. Ông cụ nói như lời trăng trối: “- Cảm ơn ông, đoàn với ai, tụ với ai? Vợ con chưa biết hiện ở đâu, đi theo nhà khác mất rồi có khi. Họ hàng thì chết trong Tết Mậu Thân… Tôi về đó vẫn lại trơ làm thằng tập kết đợt hai trơ trọi một mình… Ra đi để thống nhất đất nước, bây giờ ai thống nhất với thân già tôi?”

   Trần Đĩnh cũng như triệu triệu người miền Bắc ngây ngô, mơ màng thằng dân trong này bị bóc lột tận xương tuỷ, không có nổi cái chén mà ăn cơm, trong hành lý vào Nam của Trần Đĩnh có năm bảy thứ cứu đói được mang vào, trong đó có cả một cái thùng nhựa đựng nước kẻo sợ trong Nam không có được cái miểng sành chăng?  Người ngoài Bắc nô nức đi Nam xem chúng nó bị bóc lột đến cỡ nào, không ngờ “trong kia dân nó ối chà giàu ơi là giàu. Vàng chỉ năm chục đồng Cụ một cây. Tủ lạnh vài chục đồng một chiếc. Lạnh cứ là liên lu liền lù suốt năm. Bảo cho tay vào lâu là hoá ra đá!” hay “buồng nào cũng máy lạnh. Xin lỗi anh, tôi thấy sướng nhất là đi toa lét!”

Dân miền Nam quả là không đợi không chờ ai  vào giải phóng. Câu chuyện của Minh Trường, nguyên phóng viên nhiếp ảnh TTX Bắc Việt, kể lại cái hí hửng của kẻ “giải phóng” khi vào Sài Gòn đã bị một thau nước lạnh dội vào mặt. Bà mẹ  ra mở cửa, thấy mặt anh thì vội vàng chấp tay lạy:

– “Anh còn sống thì tôi mừng nhưng anh về thì tất cả các đứa con bao lâu nay sống với tôi, chăm sóc phụng dưỡng tôi đều đã bị các anh lôi đi tù hết mất rồi. Anh về thì nhà này tan nát, thì tôi trơ trọi. Thôi, tôi xin anh, anh đi với đồng chí của anh đi cho mẹ con tôi yên!”

Lê Khắc Hoan, một ký giả, nhà văn cũng là nhà giáo “bên thắng cuộc,” đã viết cuốn “Trăm Năm Ly Hợp” nói về chuyện đoàn tụ và ly cách của dòng họ Lê Khắc từ một ngôi làng nhỏ của miền Trung sỏi đá: Văn Xá, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Sau 30 năm tập kết, cán bộ Bắc Việt Lê Khắc Hoan trở về, hí hửng tưởng bà con dòng họ này ai cũng chờ đợi, hân hoan đón tiếp.. Nhưng sự thật hoàn toàn khác những điều ông đã suy nghĩ! Ông về, vẫn mang theo loại chữ nghĩa nghịch với lỗ tai người miền Nam, có đoạn ca tụng “bác Hồ”, dùng chữ “ngụy quyền Saigon,” kêu gọi bà con “về đầu tư, xây dựng đất nước”, ca tụng làng Văn Xá Anh Hùng chống Mỹ (!), thiết nghĩ không có sức thuyết phục để anh em trong dòng tộc ngồi lại với nhau, mà chỉ gây thêm chia rẽ.

Nhưng khi tác giả trở về Nam, một số thân tộc đã bỏ nước ra đi, một số phải chịu cảnh tù đày, một số khác thất vọng, cay đắng, trừ những người ít bị thương tổn, không ai muốn liên lạc hay hợp tác, nhận họ với phía “giải phóng”. Ông tác giả này đã thú nhận gặp phải những sự lạnh lùng, ngỡ ngàng cay đắng, đã gửi đi hằng trăm e-mail, lời nhắn cho bà con, nhưng không hề được hồi âm, và ngay đối với người viết bài này, đứa em họ ở miền Nam, cũng ngần ngại không muốn cho tác giả biết địa chỉ, dù là địa chỉ e-mail. Ðiều này chứng tỏ, “miền Bắc nhận hàng” đã xong, nhưng miền Nam vẫn còn miễn cưỡng, chưa muốn “nhận họ”.

Cuối cùng, trong một sự thật cay đắng, người đi tập kết trở về đã phải thốt lên: “ … Các mảnh vỡ từ hai bên cố ráp vào vẫn rời ra, xộc lệch không tài nào ăn khớp!”

Sau 30 năm, khi con tàu xuyên Việt có thể nhả khói, kéo những hồi còi, chạy suốt, nối Hà Nội-Huế với Sài Gòn, nhân gian, bao nhiêu dòng họ tưởng là đoàn tụ, nhưng đây là lúc chia cách lớn nhất, không còn là vì khoảng cách của sông núi, mà bởi lòng người ly tán, tưởng chừng, rồi đây cả trăm năm sau, cũng chưa thể hàn gắn được

Để kết luận bài này tôi xin mượn lời của Lê Khắc Hoan, một nhà văn tập kết trở về sau ngày “thống nhất:” Hai phần ba thế kỷ trong vòng xoáy đối đầu tàn khốc, rốt cuộc, không một người nào ở phía nào được hạnh phúc vẹn tròn. Cho dù công danh hiển đạt. Cho dù vợ đẹp con khôn. Cho dù tiếng tăm lừng lẫy, chính trực nhân từ, tài ba uyên bác cũng nổi chìm quăng quật trong cuộc chiến đa diện, đa phương…”

Chúng tôi nghĩ khác, hạnh phúc sẽ được vẹn toàn, nếu từ nửa thế kỷ trước, nếu đất nước này không bất hạnh có nhân vật Hồ Chí Minh, mang chủ nghĩa Cộng Sản từ Liên Xô về để đày đọa dân tộc Việt Nam trong bao nhiêu năm. Chắc chắn chúng ta sẽ có “hạnh phúc vẹn toàn,” đó là ngày chế độ Cộng Sản tàn lụi trên quê hương Việt Nam.

(4- 2018)

Maria Mẹ Tháng Hoa

Maria Mẹ Tháng Hoa

Tuyết Mai

 Tháng 5 về chúng con trên khắp cùng thế giới hớn hở mừng vui vì từ nhà cho đến nhà thờ nơi đâu cũng chưng hoa thơm ngát và đủ sắc mầu hoa. Ngay cả chị em ngoài chợ là những người lương giáo cũng biết tìm hoa mua để bán. Tự dưng tháng 5, tháng hoa dâng Đức Mẹ mà ở khắp mọi nơi đều có chung một niềm vui như ngày hội vậy. Vui nhất và đẹp nhất phải kể là ở tất cả các giáo xứ luôn luôn đông đảo người từ trẻ tới già ai ai cũng có việc để làm. Tiếng cười tiếng nói rộn rịp trong không khí tươi vui vì trẻ nít thì chúng được tập múa dâng hoa. Người lớn thì đến phụ làm đẹp cho các bé, người thì cắm hoa. Các ông thì lăng xăng lo kiệu rước Mẹ, v.v… Nên chúng con cũng muốn đóng góp chút khả năng nhỏ bé, khiêm nhường mà dâng lên Mẹ bài hát tuy đơn sơ nhưng chứa đựng tấm chân tình của con cái yêu mến Mẹ của mình.

**********************

Maria Mẹ Tháng Hoa

Tuyết Mai (13) 5-10-2003

Mẹ ơi! Đây tháng hoa về Dâng Kính Mẹ.

Muôn mầu hoa cùng nhau khoe sắc thắm tươi.

Hương ngát thơm bay tận Tòa Mẹ Thiên Chúa.

Cùng các Triều Thần Ca Tụng Mẹ Trinh Vương.

Ma-ri-a! Nữ Vương Trinh Khiết Diễm Kiều.

Đòan con xin kết Hoa Thiêng Dâng Mẹ,

Là yêu mến Mẹ qua chuỗi ngày Mân Côi.

 

Mẹ ơi! Đây tháng hoa về Yêu Kính Mẹ.

Bao ngày qua Mẹ hằng an ủi chở che.

Bao khó khăn cuộc đời Mẹ luôn sát cánh.

Cả lúc đêm về nghe lòng buồn miên man.

Ma-ri-a! Nữ Vương Thiên Quốc vẹn tòan.

Đòan con xin kết Hoa Thiêng Dâng Mẹ,

Là yêu mến Mẹ bao tháng ngày Mân Côi.

ĐK:

Ma-ri-a! xin Mẹ cầu cùng Thiên Chúa.

Giúp sức chúng con qua mọi cơn cám dỗ.

Để mãi trọn lành trong Tình Yêu Chúa Cha.

Ma-ri-a! xin Mẹ nguyện cầu cùng Chúa.

Thế giới ấm no qua mọi cơn nguy biến.

Dân Chúa an bình luôn phụng thờ Cha Chí Tôn.

Mẹ ơi! Đây tháng hoa về Cung Kính Mẹ.

Nơi trần gian Mẹ thường khuyên nhủ đàn con.

Bao khó nguy con tìm Tràng Hạt Mân Côi.

Tìm đến với Mẹ sẽ được niềm yên vui.

Ma-ri-a! chúng con tha thiết nguyện cầu.

Cùng Mẹ Dấu Ái siêng năng kinh nguyện.

Cầu con cái Mẹ nơi thế trần Khang An.

*** Để cảm tạ, ngợi khen, và tôn vinh Thiên Chúa là Cha chung của tất cả chúng ta, tôi chân thành mời anh chị em hãy dùng những bài hát của tôi đem đến những phương trời xa để làm Sáng Danh Thiên Chúa.

https://www.youtube.com/watch?v=9W3NK9Sbfoc&t=16s

Hãy tính xem bạn có thể sống bao lâu?

Hãy tính xem bạn có thể sống bao lâu?

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Diana S Woodruff – Pak tiết lộ ‘Công thức vàng’ để tính tuổi thọ

Làm thế nào để biết chúng ta có thể sống được bao lâu? Theo nghiên cứu của tiến sĩ Mỹ, có 6 yếu tố quyết định phần lớn tuổi thọ của bạn. Hãy thử xem công thức để biết tuổi của bạn.

Theo chuyên gia Tâm lý, tiến sĩ Diana S Woodruff – Pak, khoa Thần kinh, Đại học Temple ở Philadelphia, sau hàng chục năm nghiên cứu về người già và tuổi thọ đã tổng hợp ra công thức tính tuổi thọ của mỗi người dựa trên những thói quen và đặc điểm của họ.

Bài trắc nghiệm này giống như một chiếc máy tính có công thức, bạn muốn thử tính tuổi thọ của mình thì nên dùng giấy bút ghi chép cẩn thận theo hướng dẫn chi tiết sau đây.

Xin lưu ý rằng khi mỗi câu hỏi được trả lời, số điểm sẽ được cộng hoặc trừ đi cho phù hợp và kết quả cuối cùng chính là câu trả lời. Đừng quên sử dụng số tuổi ban đầu của bạn để tính, nếu mục nào không liên quan, thì bỏ qua.

Hãy bắt đầu với bước thứ nhất:

Hãy bỏ ra 5 giây để tìm ra “tuổi thọ cơ bản” của bạn (tuổi thọ này là cơ bản, chưa bao gồm các yếu tố thói quen sinh hoạt cũng như chất lượng chăm sóc sức khỏe cao hay thấp của bạn).

 

 

 

 

 

Bước thứ hai:

Sau khi bạn xem bảng tính tuổi thọ trung bình cơ bản ở trên, lấy ra con số tuổi thọ của mình làm chuẩn. Ví dụ bạn là nam giới, bạn đang trong độ tuổi 30-39, thì số tuổi chuẩn của bạn là 74.

Tiếp theo, bạn bắt đầu tính tuổi của mình dựa trên thói quen và đặc điểm riêng của cá nhân theo các câu hỏi ở 6 hạng mục dưới đây, bao gồm: Thói quen sinh hoạt, trạng thái tâm lý tinh thần, tình trạng hôn nhân, tình hình công việc, điều kiện môi trường sống và yếu tố di truyền.

Hãy tính thật chuẩn dựa trên việc trả lời câu hỏi một cách thành thật.

  1. Thói quen sinh hoạt

Tập thể dục 3 lần một tuần: Cộng 3 tuổi

Thích ăn trái cây và rau của quả thường xuyên: Cộng 2 tuổi

Nuôi thú cưng, con vật trong nhà: Cộng 1 tuổi

Hút thuốc nhiều hơn 2 gói/ngày: Trừ 12 tuổi

Hút thuốc 1 ~ 2 gói/ngày: Trừ 7 tuổi

Hút thuốc 20 điếu hoặc ít hơn mỗi ngày: Trừ 2 tuổi

Ngủ quá 10 tiếng hoặc ít hơn 5 tiếng/ngày: Trừ 2 tuổi

Béo phì: Trừ 2 tuổi

Tư thế đứng/ngồi sai cách: Trừ 2 tuổi

Đã có bệnh mãn tính hoặc thường xuyên mắc các bệnh nhẹ: Trừ 5 tuổi.

Tập thể dục 3 lần một tuần: Cộng 3 tuổi

  1. Trạng thái tinh thần, tâm lý

Hầu hết thời gian đều cảm thấy hạnh phúc và hài lòng: Cộng 2 tuổi

Lạc quan: Cộng 1 đến 3 tuổi

Có những người bạn để chia sẻ khó khăn, vui buồn: Cộng 1 tuổi

Theo đuổi tín ngưỡng một cách kiên định: Cộng 7 tuổi

Tự ti: Trừ 4 tuổi

Cố chấp: Trừ 2 tuổi

Ưa mạo hiểm (chẳng hạn như đi xe phân khối lớn): Trừ 2 tuổi

Trầm cảm: Trừ 1-3 tuổi

Hầu hết thời gian đều cảm thấy hạnh phúc và hài lòng: Cộng 2 tuổi (Ảnh minh họa)

  1. Tình trạng hôn nhân

 

 

 

 

 

Đã kết hôn: Cộng 1 tuổi

Nam giới đã ly hôn và sống một mình: Trừ 9 tuổi

Phụ nữ đã ly hôn và sống một mình: Trừ 5 tuổi

Phụ nữ không sinh con hoặc không có con sau tuổi 40: Trừ 0,5 tuổi.

  1. Tình trạng nghề nghiệp

 

 

 

 

 

 

 

 

Nhà nghiên cứu chuyên nghiệp: Cộng 1,5 tuổi

60 tuổi vẫn đang làm việc: Cộng 2 tuổi

65 tuổi vẫn đang làm việc: Cộng 3 tuổi

Làm việc ở thành phố lớn (hoặc dành phần lớn thời gian sống của cuộc đời sống ở thành phố lớn): Trừ 1 tuổi

Làm việc ở các thị trấn ngoại thành, nông thôn (hoặc dành phần lớn thời gian sống ở đây): Cộng 1 tuổi

  1. Môi trường, điều kiện sống

Sống ở khu vực thoáng đãng, có tầm nhìn rộng mở, không khí trong lành: Cộng 2 tuổi

Sống ở nơi ồn ào trong thời gian dài: Trừ 1 tuổi

  1. Yếu tố di truyền

Mẹ đẻ sống thọ 80 tuổi trở lên: Cộng 4 tuổi

Cha đẻ sống thọ 80 tuổi trở lên: Cộng 2 tuổi

Ông bà nội ngoại sống thọ 80 tuổi trở lên: Cộng 1 tuổi

Có thành viên trong gia đình chết vì bệnh tim trước 50 tuổi: Trừ 3 tuổi

Có thành viên trong gia đình chết vì bệnh ung thư dạ dày: Trừ 2 tuổi

Có thành viên trong gia đình chết vì bệnh ung thư vú: Trừ 2 tuổi

Có thành viên trong gia đình chết trước 60 tuổi vì tự tử hoặc có bệnh bất kỳ: Trừ 1 tuổi

Đã xong, bạn đã tính được sơ bộ tuổi thọ của mình hay chưa?

 

 

 

 

 

 

Mặc dù công thức này không thể sử dụng làm cơ sở duy nhất để tính chính xác tuổi thọ của từng cá nhân, nhưng nó vẫn rất có giá trị. Hãy tham khảo những thông tin trong câu hỏi, câu nào được cộng điểm, bạn nên áp dụng, câu nào bị trừ điểm, bạn nên loại bỏ hoặc hạn chế hay phòng tránh.

Đó là những gợi ý tuyệt vời để bạn biết cách chăm sóc sức khỏe của mình một cách cụ thể hơn.

Hãy bắt đầu quan tâm đến sức khỏe của bạn ngay bây giờ.

From chị  Xuân Nguyễn gởi

30-4: Kẻ ăn mừng, kẻ làm lễ quốc hận – Biết bao giờ hòa giải hòa hợp?

30-4: Kẻ ăn mừng, kẻ làm lễ quốc hận – Biết bao giờ hòa giải hòa hợp?

Hai người lính ở hai chiến tuyến chụp năm 1973 và sau này Ảnh: internet

Năm nào cũng như năm nào, chờ đến 30.4, cứ phe bên này giăng cờ đỏ làm lễ ăn mừng chiến thắng là phe bên kia giăng cờ vàng làm lễ quốc hận.

Và hiển nhiên, trong những buổi lễ ấy, hai phe tố cáo lẫn nhau về tội ác đã gieo rắc trong suốt thời chiến tranh.

Phe ăn mừng có lý của họ, bởi nhờ chiến thắng mà chấm dứt chiến tranh, nhờ chiến thắng mà họ có được tất cả: địa vị, đất đai, nhà cửa…

Phe làm lễ quốc hận cũng có lý do chính đáng, rằng sự thất bại ấy đã làm sụp đổ một nền cộng hòa; sâu xa hơn, họ mất tất cả và phải lưu vong nơi đất khách quê người, thậm chí nhiều người bị tù đày, nhiều người thân bỏ mạng nơi biển khơi nghìn trùng.

Tóm lại, cả hai phe luôn khác biệt. Khác biệt về tư tưởng hệ, khác biệt về lợi ích, kể cả khác biệt về thân phận. Họ chỉ có một điểm chung, đó là sự thù hận gần như muôn đời muôn kiếp không tan.

Cứ cái đà ấy, hố sâu hận thù càng khơi sâu thăm thẳm và có ngày nội chiến sẽ tiếp tục diễn ra. Thời phong kiến, người ta từng chơi trò nhổ cỏ tận gốc mà còn chưa diệt hết mầm hận thù oan oan tương báo, huống hồ là thời đại thế giới mở ra mênh mông, các triều đại thịnh suy trong chóng vánh?

Trong khi những người ngoài cuộc không có lợi ích nào trong cuộc tranh chấp này vẫn lắng nghe từ miệng của cả hai phe: tinh thần hòa giải, hòa hợp dân tộc.

Theo tôi, đã thốt lên được cái câu “hòa giải, hòa hợp dân tộc” mà hàng triệu người dân đang khao khát thì sao không tháo gỡ cái gút mắc chung trên kia: sự thù hận?

Hòa giải, hòa hợp chỉ có thể xuất phát từ thiện tâm của cả hai phe chứ không ở đầu môi chót lưỡi. Muốn thế hãy gột rửa hận thù.

Không cách nào khác. Chính phe chiến thắng tự giác, tự nguyện làm trước: xóa bỏ ranh giới tư tưởng hệ, chấp nhận tự do dân chủ, dân trí và khai phóng.

Lịch sử vẫn là lịch sử, không xóa được. Nhưng hàng năm đến ngày 30.4, cả hai cùng tổ chức ngày lễ mang tên mới “ngày hòa hợp hòa giải dân tộc” có hơn không? Sau ngày lễ ấy cả hai hãy buông xả hận thù. Kẻ chiến thắng không hả hê kiêu ngạo với chiến thắng, thậm chí trút bỏ những quyền lợi bị nhầm tưởng là “chiến lợi phẩm”. Kẻ thất bại không nuôi mối hận để báo thù, xem chiến tranh ắt có kẻ thắng người thua và chấp nhận sự thực để làm lại từ đầu.

Sự thực, cả thắng lẫn thua trong cuộc chiến này đều phải trả cái giá rất đắt: chết chóc tang thương và vận mệnh dân tộc ngày một suy tàn. Kẻ chiến thắng mải mê với chiến thắng mà quên hàng triệu người ngã xuống, quên cả tương lai của hàng chục triệu người đang sống. Kẻ thất bại ôm mối hận cho riêng mình mà quên con cháu mình đang cần niềm vui cuộc sống mới, quên cả đất nước đang cần được hồi sinh.

Tệ hại nhất là kẻ chiến thắng vô tình hay hữu ý luôn giữ giọng điệu hạ nhục kẻ thất bại, làm cho kẻ thất bại luôn bị tổn thương, mặc cảm và không nguôi niềm uất hận. (Sự thực là những kẻ thừa hưởng chiến thắng chứ nhiều kẻ đã tham gia chiến tranh hồi nào mà tự xưng kẻ chiến thắng?)

Biết hòa hợp, hòa giải là khó khi những đầu óc cực đoan khư khư không chịu buông xả những định kiến của mình. Nhưng tôi tin sẽ có cái ngày ấy, cái ngày người Việt không còn u mê với chiến thắng lẫn thất bại mà mình đã gây ra…

Các dân tộc khác làm được. Sao ta lại không? Nhiều gia đình Việt có người ở cả hai phe, nhưng họ đã làm được, tại sao ở cấp quốc gia lại khó khăn đến thế?

43 năm đánh gục ý chí và tiêu diệt ý thức Dân tộc!

 43 năm đánh gục ý chí và tiêu diệt ý thức Dân tộc!

BNS Tự do Ngôn luận số 290

Ban Biên Tập

“Nhà cầm quyền Cộng sản VN đang rầm rộ kỷ niệm cái gọi là ’43 năm thống nhất Đất nước, giải phóng miền Nam, xây dựng cuộc sống độc lập, tự do, hạnh phúc, kiến tạo xã hội công bằng, văn minh, dân chủ’!?! Nhưng quốc dân, quốc tế và lịch sử đều thấy đó là cuộc thống nhất đất nước bằng xương máu và súng đạn, cuộc xâm chiếm một quốc gia độc lập và có chủ quyền; đó là việc làm cho Tổ quốc ngày càng lệ thuộc Trung Cộng, đời sống nhân dân mất hết mọi tự do cơ bản, ngày càng khổ sở điêu đứng; đó là việc tạo ra một xã hội đầy dẫy bất công bóc lột, ngập tràn bạo lực dối trá, hoành hành độc tài đảng trị. Hiện tình Việt Nam ngày càng hà khắc về chính trị, thụt lùi về kinh tế, chồng chất về thuế má, hỗn loạn về xã hội, ô nhiễm về môi trường, sa sút về văn hóa, suy đồi về đạo đức, thu hẹp về đất đai và nhất là bấp bênh về an ninh quốc phòng…” Bản Lên Tiếng của hơn 40 tổ chức và nhiều cá nhân người Việt hôm 30-04-2018 đã nói như thế.

Tất cả những tệ nạn và thảm trạng vừa nêu có thể nói là hậu quả của việc đánh gục ý chí chung của Dân tộc và hủy diệt ý thức của mọi thành phần trong xã hội, một âm mưu mà đảng đã cố công thực hiện 43 năm qua và trước đó nữa tại miền Bắc, để an toàn thống trị nhân dân và tùy ý sử dụng đất nước, kể cả việc bán Tổ quốc cho ngoại bang, ngõ hầu giữ được quyền lực và quyền lợi. Đúng như một nhà văn Nga từng nói: “CS thực chất là một sự ác tinh thần” (Spiritual evil).

1- Tiêu diệt ý thức đại diện quốc dân nơi thành viên Quốc hội. Được ngồi vào cơ quan quyền lực cao nhất nước với danh nghĩa này do đảng tuyển chọn, các thành viên ấy qua 14 khóa đã chỉ làm một công việc là “nhất trí cao, phấn khởi lớn, giơ tay đồng thuận” trước ý muốn của đảng, của Bộ chính trị (Hiến pháp đứng sau Cương lĩnh đảng, như Nguyễn Phú Trọng từng nói mà!). Những cuộc gặp gỡ, hỏi ý cử tri địa phương chỉ là trò mỵ dân; những cuộc chất vấn thành viên chính phủ thuần là màn trình diễn! Từ công hàm Phạm Văn Đồng năm 1958, hiệp ước Thành Đô năm 1991, hiệp định lãnh thổ năm 1999, hiệp định lãnh hải năm 2000 ký với Tàu, đến thỏa ước cho Tàu khai thác bauxite ở Tây Nguyên năm 2008, xây dựng Formosa Vũng Áng rồi đầu độc biển năm 2016, chưa kể vô vàn vụ việc vi phạm nhân quyền khác, Quốc hội chẳng hề đứng về phía quốc dân để tìm hiểu, chất vấn, phản biện và hành động, một để cho Bộ Chính trị mặc sức tung hoành.

2- Tiêu diệt ý thức phục vụ công chúng nơi viên chức chính quyền. Là những kẻ đã được đảng bộ trung ương hay địa phương đặt để, chẳng được nhân dân bầu chọn (bao cuộc bầu cử hội đồng nhân dân các cấp chỉ là trò hề), những viên chức chính quyền ấy hầu hết ứng xử như những ông trời con, hung thần thổ địa, hống hách khinh người, chỉ lo tích lũy của cải hơn là phục vụ quần chúng. Kiểu cách “hành là chính” để móc túi người dân làm giấy tờ; những màn “cướp cơm chim” của kẻ nghèo khổ và nạn nhân bão lụt; các cuộc cướp đất của nông dân và thị dân dưới chiêu bài phát triển kinh tế quy hoạch sản xuất; việc cấu kết với các nhóm lợi ích (công ty, tập đoàn) để xẻ thịt tài nguyên quốc gia, đem tài sản công phục vụ tầng lớp tư bản; chuyện cho Tàu Cộng thuê rừng quốc phòng, rừng phòng hộ, yếu địa quốc gia, mua hàng loạt khu vực rộng lớn, thiết lập những nhà máy gây ô nhiễm, trúng thầu xây dựng những công trình kém chất lượng với chút “tiền lại quả “… đều là những chuyện sờ sờ xảy ra trên cả nước.

3- Tiêu diệt ý thức tôn trọng và bảo vệ nhân dân nơi công an cảnh sát. Bị nhồi nhét tư tưởng “còn đảng còn mình, làm lá chắn bảo vệ đảng, được đảng gầy dựng, lãnh đạo và trả lương”, giới này đã hoàn toàn trở thành công cụ đàn áp nhân dân: từ những đám dân oan bị cướp đất đứng lên đòi tài sản, những nhóm công dân cất tiếng đòi dân chủ, đến những nhóm tín đồ tập hợp đòi tự do hành đạo, những tốp thợ thuyền đình công đòi lương bổng xứng đáng. Lực lượng “bảo vệ luật pháp” này cũng đang là kẻ hỗ trợ cho công tố viên trong các phiên tòa chính trị, nỗi kinh hoàng cho những ai bị bắt về đồn công an với bất cứ lý do “vi phạm” lớn nhỏ, là người thuê mướn và khen thưởng bọn côn đồ theo dõi, ngăn chận và đánh đập các chiến sĩ dân chủ. Rồi lợi dụng quyền lực được đảng dung túng cho, tướng tá công an hết buôn ma túy đến bảo kê cờ bạc, mua rẻ công sản đến mua chuộc quan chức, lập công ty để bí mật kinh doanh cho ngành mình hay cho sếp mình.

4- Tiêu diệt ý thức bảo vệ Tổ quốc nơi hàng ngũ quân đội: Ghi tâm lời thề “trung với đảng” (thay vì trung với nước), “phấn đấu thực hiện một nước VN xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng…” (trích 10 lời thề của QĐND), coi việc “chính trị hóa/đảng hóa quân đội” là chuyện bình thường, rồi được cho tự do làm kinh tế, quân đội nhân dân nay thực sự trở thành công cụ của đảng, chỉ lo làm giàu (nhất là hàng lãnh đạo, vốn nắm vô số tổ chức kinh tài lớn nhỏ như Ngân hàng Quân đội, công ty Viettel), khi cần thì tước đoạt công sản lẫn tư sản (như phi trường Tân Sơn Nhất, đất ruộng thôn Hoành…), quên lãng bổn phận bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt trên lãnh hải, bỏ mặc ngư dân cho sự sách nhiễu, cướp bóc, tàn sát của Tàu Cộng. Hải quân, cảnh sát biển, lực lượng tuần duyên trang bị đủ thứ khí tài hiện đại nhưng chỉ bám bờ và xua dân bám biển. Các chiến hữu của mình đã tử trận trong chiến tranh biên giới, ở ngoài đảo Trường Sa, nhưng bị cấm tưởng niệm, thế mà lực lượng quân đội cũng chẳng dám lên tiếng phản đối.

5- Tiêu diệt ý thức bảo vệ luật pháp và công lý nơi viên chức tòa án. Dưới sự cầm trịch của CS, ngành tư pháp nói chung và giới viên chức tòa án nói riêng bị biến thành công cụ của đảng, theo cơ chế tam quyền phân công. Đặc biệt trong các vụ án chính trị, công an thẩm vấn, kiểm sát công tố và quan tòa xét xử hầu như luôn toa rập ăn ý với nhau, từ kết luận điều tra đến cáo trạng tội phạm và hình phạt tuyên xử. Tại những phiên tòa loại này, công tố chẳng cần xem xét bằng chứng, đối chất với luật sư biện hộ, thẩm phán thì ngắt lời bị cáo, xét xử chóng vánh cách kỳ lạ, có những “bản án bỏ túi” do trên ấn định sẵn mà thời gian gần đây hết sức bất công và nặng nề. Việc chạy án, việc hối lộ ba thành phần nói trên đều được coi như chuyện bình thường, nhất là trong các vụ án và phiên tòa hình sự. Ngoài những luật gia hay luật sư có tinh thần dân chủ (nay xuất hiện ngày càng nhiều và cũng bị đàn áp không ít), vô số luật sư vẫn sẵn sàng loại trừ các đồng nghiệp “có vấn đề” với đảng, sẵn sàng bênh vực hay ngậm miệng trước nhiều bộ luật chỉ có lợi cho đảng.

6- Tiêu diệt ý thức thương xót bệnh nhân nơi các y bác sĩ: Nền y tế VN từ lâu vẫn nổi tiếng thế giới với những bệnh viện quá tải, y sĩ thiếu khả năng, y phí tăng cao mãi, trang bị lỗi thời, vệ sinh tồi tệ; với cảnh bỏ mặc những ca cấp cứu chưa nộp tiền, đòi buộc bệnh nhân lót tay mới săn sóc chu đáo, cung cấp thuốc quá hạn hay thuốc dổm giả (vụ Công ty VN Pharma nhập 200 ngàn hộp thuốc trị ung thư); với cảnh ăn hoa hồng quá độ khiến giá dược phẩm bị đẩy lên tận trời, ưu tiên săn sóc cho đảng viên cán bộ, coi rẻ những ai dùng thẻ bảo hiểm y tế, đòi hối lộ kể cả khi chuyển viện hay đem xác về nhà, và dân nghèo vào bệnh viện chỉ có nước tử vong… Chữ “nhà thương” nay hoàn toàn vô nghĩa, vì ở đó chỉ có sự khai thác khổ đau của con người.

7- Tiêu diệt ý thức làm chứng cho sự thật và lẽ phải nơi giới tu hành: CS từng phỉ báng tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ nhân dân, nhưng nay lại muốn tôn giáo trở thành thuốc phiện thực sự. Và nó đang làm được điều đó với những chức sắc chỉ còn biết ý nghĩa cuộc sống và hoạt động tu hành của mình là xây dựng điện thờ nguy nga, tổ chức lễ hội rầm rộ, xuất ngoại kiếm bạc xin tiền, mà hoàn toàn dửng dưng trước cảnh sự thật bị xuyên tạc, công lý bị xem thường, đồng bào, thậm chí đồng đạo bị đàn áp, xã hội bị băng hoại, tổ quốc bị lâm nguy… Những vị này còn lý luận mình không muốn “làm chính trị” -do dị ứng với từ này- chỉ lên tiếng về các nguyên tắc luân lý chung chung (an toàn hơn) chứ không can thiệp vào những trường hợp cụ thể (dễ gặp nguy hiểm). Họ sẵn sàng đặt tượng tên tội đồ dân tộc, từng bách hại tôn giáo bên cạnh Đức Phật trên điện thờ, hay lấy tên của y làm danh hiệu cho giáo phận… Thậm chí có vị thỏa hiệp hay làm tay sai cho chế độ.

8- Tiêu diệt ý thức lương sư hưng quốc nơi các cô thầy: Nền giáo dục CS mang tính chính trị, không nhắm đào tạo những công dân tự do cho nước nhưng là nhào nặn những thần dân nô lệ cho đảng. Chính vì thế, đảng đã quyết tâm quản lý chặt chẽ giới giáo chức, huấn luyện ra những thầy cô “hồng hơn chuyên”, buộc hiệu trưởng mọi loại trường (trừ một số trường mẫu giáo của các giáo hội) phải là đảng viên để nắm chắc đường lối chủ trương của đảng, để theo dõi tư tưởng lập trường của giáo viên và học sinh. Thành ra nền giáo dục VN ngày càng sa sút với vô số giáo viên mua bằng cấp, thiếu tư cách, thiếu khả năng, với vô vàn vụ việc thầy bạo hành trò, đổi tình lấy điểm, bắt nữ sinh làm điếm, để công an hành hạ học trò, cấm sinh viên lên tiếng đòi dân chủ hay biểu tình chống xâm lược… Từ đó, sự ngây thơ, tính trong sáng, đức chân thật, lòng yêu nước nơi học sinh cũng tiêu tùng. Tệ nạn học đường ngày càng gia tăng với vụ giáo viên bị bắt quỳ, học sinh đánh lộn nhau, hành hung thầy dạy, học hành kiểu gian dối hay kiểu đối phó, mua điểm…

9- Tiêu diệt ý thức tôn trọng sự thật nơi giới truyền thông. Vì chủ trương dùng bạo lực và gian dối để cai trị, CS quản lý toàn bộ nền truyền thông, với Luật báo chí kiểm soát chặt chẽ từ nhân sự đủ cấp đến phương tiện đủ loại, với Ban tuyên giáo trung ương nắm đầu mọi tổng biên tập và biên tập, với những đội quân chiến đấu trên mạng hàng chục ngàn người thuộc bộ Công an và bộ Quốc phòng, với đám lính đánh thuê mang tên dư luận viên lên tới cả trăm ngàn đứa… Tất cả cố gắng đem nguyên tắc “nghe theo đảng, nói theo đài” vào trong quần chúng, xã hội, sẵn sàng dối trá vì tiền, chà đạp tiếng lương tâm vì lợi, để tô hồng cho đảng, để đổ tội cho dân, để vu khống thóa mạ những ai cổ vũ cho công lý và sự thật.

Việc tiêu diệt ý thức của mọi thành phần có ảnh hưởng xã hội nói trên đều chỉ nhắm mục tiêu: đánh gục ý chí dân tộc, để không người Việt nào còn đủ sự sáng suốt của lý trí, sự vững mạnh của khí phách, sự nhiệt thành của trái tim ngõ hầu liên kết với nhau mà chống lại bạo lực và gian trá của CS, mà khôi phục nhân quyền và dân chủ cho Đồng bào, mà bảo vệ tự do và độc lập cho Đất nước. “Mọi lợi quyền phải qua tay mình”, đó là câu nhật tụng, lẽ sống còn của người CS, dù phải bảo toàn lợi lộc và quyền lực đó bằng việc tàn phá đất nước và dâng nộp tổ quốc cho kẻ thù truyền kiếp của Dân tộc, đang ngày đêm nuôi mộng Hán hóa Việt Nam.

Vậy đã rõ rồi nhé.

 
 
Thuong Phan shared a post.
 
Image may contain: sky and outdoor

Bảo Nhi Lê is feeling crazy with Trần Bang and 48 others.

Sau tất cả các màn bịa đặt bẩn thỉu về HT ĐCT, dùng clip cũ của trung quốc, clip giả do cờ đỏ giàn cảnh, những luận điệu vu khống bẩn thỉu với sự tập trung cao độ của 600 tờ báo nhà nước cùng lên đồng tập thể, nhà cầm quyền cộng sản muốn che giấu mưu đồ cướp không tu viện Dòng Mến Thánh giá Thủ Thiêm và cả nhà thờ Thủ Thiêm…. Đây là miếng đất vàng tới 10 ngàn met vuông mà quan chức thèm nhỏ cả nước giải, âm mưu lấy từ lâu mà bị phản đối quá mạnh.

Sau những chiêu truyền thông bẩn, chúng nghĩ rằng dân mất cảm tình với tất cả đạo nào thờ Thiên Chúa. Sau những chiêu trò bỉ ổi tận cùng, chúng nó phần nào thành công trong việc chia rẻ các đạo giáo trong nước. Và chúng ra tay, chuẩn bị đập phá cả nhà thờ và Tu viện.

Sau khi dắt mũi dư luận, khởi động được màn auto chửi của của dân chúng, chúng nó nghĩ rằng chẳng ai còn đủ sức quan tâm tới chuyện chúng nó sắp sửa đập phá tu viện, nhà thờ. Dù tu viện và nhà thờ đó có lịch sử 177 năm.

Người Công giáo luôn tỉnh táo với sự soi sáng của Chúa. Và chúng ta nhận ra rằng : Chúng nó đang mở màn bách hại đạo Công giáo lần nữa.

Xin chia sẻ giúp cả nhà ơi.

THIỆN NHÂN, ÔNG SẼ CÓ SỐ PHẬN Y NHƯ TÊN CHÓ MÁ ĐINH LA THĂNG NẾU ÔNG ĐẬP PHÁ TU VIỆN NHÀ THỜ.

12 tướng tá bao gồm cả bộ trưởng công an VC có thể bị Đức phát lệnh truy nã toàn thế giới – VietBF

Tony Ton and Thanh Tran shared a link.
VIETBF.COM
 
  
Old Germany Flag Resize 12 tướng tá bao gồm cả bộ trưởng công an VC có thể bị Đức phát lệnh truy nã toàn thế giới
Click image for larger version Name: bat12tuongtavc.jpg Views: 0 Size: 64.0 KB ID: 1211587

Có tới 12 tương tá cao cấp, bao gồm cả bộ trưởng công an dính líu tới vụ án bắt cóc người tại Đức. Đối với Đức việc bắt cóc người trên lãnh thổ Đức không khác gì sỉ nhục vào hệ thống an ninh nước này.

Việc phát lệnh truy bắt tổ chức bắt cóc ông Trinh Xuân Thanh, bất kể tổ chức này là bộ công an Việt Cộng, cũng sẽ nằm trong sự trừng phạt để răn đe những đối tượng và tổ chức khác phải ngừng việc coi thường tự tôn của Đức.


1.Thượng tướng Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an
2.Trung tướng Đường Minh Hưng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh, Bộ Công an.
3.Trung tướng Lê Mạnh Cường hiện giữ chức vụ Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Tình báo (Tổng cục V),
4.Phạm Văn Hiếu
5.Lưu Trung Việt
6.Vũ Quang Dũng
7.Vũ Hồng Minh
8.Phạm Minh Tiến
9.Đào Công Duy
10.Vũ Trung Kiên
11.Đặng Tuấn Anh
12.Nguyễn Thế Đôn