LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA

LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA

Chúa Nhật II Phục Sinh – Năm B

Phanxicô Xaviê

Chuyện “Nghìn lẻ một đêm” của người Ba Tư có kể lại một phiên tòa như sau :

Có hai người anh em ruột nọ bắt trói được thủ phạm giết cha mình. Họ lôi kéo tên sát nhân đến trước quan tòa và yêu cầu xử theo luật mắt đền mắt răng thế răng. Kẻ sát nhân dùng đá để ném chết cha của họ, thì hắn cũng phải bị ném đá theo như luật đã qui định… Trước mặt quan tòa, tên sát nhân đã thú nhận tất cả tội lỗi của mình. Nhưng trước khi bị đem ra xử, hắn chỉ xin một ân huệ, đó là được trở về nhà trong vòng ba ngày để giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến một người cháu được ký thác cho hắn trông coi từ nhỏ. Sau thời hạn đó, hắn sẽ trở lại để chịu xử tử… Quan tòa xem chừng như không tin ở lời cam kết của tên tử tội. Giữa lúc quan tòa đang do dự, thì từ trong đám đông những người tham dự phiên tòa, có một người giơ tay cam kết :”Tôi xin đứng ra bảo đảm cho lời cam kết của tử tội. Nếu sau ba ngày, hắn không trở lại, tôi sẽ chết thế cho hắn”.

Tên tử tội được tự do trong ba ngày để giải quyết việc gia đình. Sau đúng kỳ hạn ba ngày, giữa lúc mọi người đang chờ đợi để chứng kiến cuộc hành quyết, hắn hiên ngang tiến ra giữa pháp trường và dõng dạc tuyên bố :”Tôi đã giải quyết mọi việc trong gia đình. Giờ đây, đúng theo lời cam kết, tôi xin trở lại để chịu tội. Tôi muốn trung thành với lời cam kết của tôi để người ta sẽ không nói : chữ tín không còn trên mặt đất này nữa”.

Sau lời phát biểu của kẻ tử tội, người đàn ông đã đứng ra bảo lãnh cho hắn cũng ra giữa đám đông và tuyên bố :”Phần tôi, sở dĩ tôi đứng ra bảo lãnh cho người này, vì tôi không muốn để cho người ta nói : lòng quảng đại không còn trên mặt đất này nữa”.

Sau hai lời tuyên bố trên, đám đông bỗng trở nên thinh lặng. Dường như ai cũng cảm thấy được mời gọi để thể hiện những gì cao quí nhất trong lòng người. Từ giữa đám đông, hai người thanh niên bỗng tiến ra và nói với quan tòa :”Thưa ngài, chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi, để người ta sẽ không nói : lòng tha thứ không còn hiện hữu trên mặt đất này nữa”.

Giữa sa mạc cằn cỗi, một cụm cỏ hay một cánh hoa dại là cả một bầu trời hy vọng cho những người lạc lõng. Giữa sa mạc nắng cháy, một tiếng suối róc rách là cả một nguồn hy vọng tràn trề cho những ai đang đói khát… Giữa một xã hội khô cằn tình người, một xã hội mà những giá trị tinh thần bị bóp nghẹt và đạo đức thì suy đồi, chứng từ của người Kitô hữu cần thiết hơn bao giờ hết. Giữa biển khơi mù mờ, có biết bao kẻ chơi vơi đang cần một chiếc phao của chữ tín, của lòng thành, của lòng quảng đại, của sự tha thứ… Người Kitô hữu phải sống thế nào để người ta có thể nói : Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người và con người vẫn có thể yêu thương nhau. Cả ba bài đọc Thánh kinh cùng với đáp ca của Chúa nhật XXIV thường niên như đan quyện vào nhau, sẽ dẫn dắt chúng ta đi vào cung lòng yêu thương từ đời đời của Thiên Chúa đã sớm dành cho nhân loại.

Thiên Chúa đã xót thương Israel tội lỗi và tha thứ cho họ. Người đã đoái thương Phaolô khi biến đổi một con người hung hăng lùng bắt các tín hữu trở nên vị Tông đồ nhiệt tâm của Tin mừng cứu độ. Và Đức Giêsu trong bài Tin mừng không những cho chúng ta thấy Người đã xuống thế để đi tìm các chiên lạc là loài người tội lỗi, mà còn khẳng định điều đó biểu lộ lòng thương xót của chính Thiên Chúa.

Khởi đầu, bài Xuất hành (32,7-11.13-14) thuật lại một câu truyện thời Môsê : Bấy giờ ông đã ở trên núi Sinai lâu ngày với Thiên Chúa. Dân chúng ở dưới sốt ruột. Họ xin Aharôn đúc cho họ một tượng thần là con bò vàng, để họ có một tôn giáo như mọi dân tộc khác. Tâm lý của loài người ở cách chúng ta trên dưới ba ngàn năm, khó giữ vững được tinh thần trong một tôn giáo không có hình tượng nào cả. Mọi dân chung quanh đều có thần tượng của họ. Vì sao con cái Israel lại không có tượng để thờ ? Do đó, việc xin Aharôn đúc cho họ một tượng, chẳng qua cũng vì yếu đuối… nhưng vẫn là một xúc phạm tới Thiên Chúa và là một bội phản Giao ước. Thiên Chúa đã buộc họ không được đồng hóa, hình dung Người dưới bất cứ biểu tượng nào, vì Người là Đấng Thánh, tức là Đấng khác hẳn mọi sự hữu hình. Việc này làm Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ và muốn giáng phạt dân nổi loạn. Nhưng nhờ lời van xin của Môsê, Người đã quên tội lỗi của dân và không giáng phạt nữa. Thiên Chúa đã tha thứ cho họ.

Thiên Chúa luôn yêu thương muốn cứu độ tất cả mọi người, Chúa Giêsu qua các dụ ngôn trong bài Tin mừng Lc 15,1-32 đã nêu bật lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài yêu thương cứu độ từng người, chủ động tìm kiếm và vui mừng khi một người tội lỗi quay trở về. Các dụ ngôn đều nhấn mạnh đến lòng quảng đại của Thiên Chúa : người mục tử đi tìm con chiên lạc, người đàn bà tìm kiếm đồng tiền bị mất và người cha nhân hậu chờ đón, vui mừng tha thứ cho người con hoang đàng quay trở về. Thiên Chúa là người cha nhân hậu, là người mục tử nhân lành luôn yêu thương chăm sóc cho từng con người. Mỗi người trước mặt Chúa cho dù có tội lỗi đến đâu đi nữa vẫn luôn được hưởng trọn tình yêu của Ngài. Tình yêu ấy được thể hiện qua việc Chúa Cha đã sai Chúa Con đến tìm kiếm và cứu vớt tất cả nhân loại tội lỗi. Lòng thương xót được thể hiện khi không trách phạt mà lại yêu thương cứu độ những con người luôn quay lưng phản bội Ngài.

Kết thúc của các dụ ngôn là kết thúc vui mừng. Người mục tử vui vẻ vác con chiên lạc trên vai khi tìm thấy, người đàn bà vui mừng khi tìm được đồng bạc bị mất và người cha nhân hậu tràn đầy sung sướng khi người con hoang đàng trở về. Thiên Chúa vui mừng khi người tội lỗi ăn năn trở lại. Thánh Phaolô qua cuộc đời của mình đã minh chứng điều ấy. Nếu Thiên Chúa không thương xót ông, thì suốt đời Phaolô sẽ là Saul, một kẻ thông thái nhưng chẳng hiểu biết Chúa và do đó cũng chẳng hiểu biết anh em, nên đã lùng bắt sát hại đồng bào của mình. Saul đã xử sự như vậy vì không biết. Ông không biết Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, mà cứ nghĩ là đấng hay thưởng phạt. Nhưng Saul cũng đã nhận được lòng thương xót của Chúa. Thiên Chúa không chỉ yêu thương tha thứ cho Phaolô mà còn trao phó cho ông sứ mạng công bố lòng thương xót của Thiên Chúa cho muôn dân.

Lời Chúa hôm nay mời gọi Kitô hữu nhìn lại thái độ của mình khi đối xử với những người tội lỗi, những người xúc phạm đến mình. Lòng thương xót của Thiên Chúa không chỉ dừng lại ở việc tha thứ, mà còn phải chủ động tìm kiếm và vui mừng thực sự khi một người anh em trở về.

TIN VÀ YÊU

TIN VÀ YÊU

Niềm tin vừa là hồng ân nhưng cũng vừa là sự dấn thân của bản thân.  Niềm tin có điểm xuất phát từ tình yêu và cũng từ niềm tin để dấn thân trong tình yêu.  Hai khía cạnh tin và yêu cùng hòa nhịp với nhau để mỗi ngày thêm xác tín hơn.

Trong cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu Phục Sinh và Toma, chính Toma đã xác tín niềm tin của mình bằng một tình yêu mãnh liệt: “Lạy Chúa của con, Lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20, 28).

 

Tin là một sự dấn thân.

Cuộc đời người môn đệ từ ba năm trước, khi Chúa Giêsu ra đi rao giảng công khai.  Chúa đã gọi các ông từ nơi đang làm việc, họ bỏ mọi sự để đi theo Người.  Điểm hẹn đầu tiên của người môn đệ với Thầy luôn là một nơi ghi dấu ấn tượng đầu đời của dấn thân.  Như đôi bạn đầu tiên gặp nhau một nơi điểm hẹn, rồi lần lượt thời gian nhắc lại điểm hẹn đầu tiên ấy, sống lại kỷ niệm của thưở đầu quen nhau, yêu nhau.  Ký ức ấy sống động cùng tình yêu.  Chúa Giêsu cũng hẹn các môn đệ nơi gặp gỡ sau Phục Sinh ở nơi điểm hẹn đầu tiên của ba năm về trước ở Galilê.  Từ điểm hẹn đầu tiên, người ta có thể trắc nghiệm về lòng tin vào nhau.  Người ấy có đúng hẹn không, người ấy có biết và nhớ sở thích của mình không?  Những quan tâm đầu tiên đến nhau đủ mạnh để xây dựng niềm tin không?  Tất cả những điều ấy sẽ dẫn tới một quyết định, dấn thân, sống cùng nhau, chia sẻ cuộc đời với nhau.  Đó là một tình yêu đủ mạnh để tin vào người mình yêu để dấn thân vào chặng đường mới.

Chân thành về khiếm khuyết.

Tin là một tín thác, chân thành nói về khiếm khuyết cũng như thiếu sót của mình.  Toma không ngần ngại nói về sự thiếu lòng tin của mình: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi không tin” (Ga 20, 25).  Là một tình yêu thật sự, điều thiếu sót của bạn sẽ được lắng nghe chân tình, và còn được chia sẻ lại về những vấp váp của người kia.  Tình yêu là thật thà, là sẻ chia những vui buồn, những vấp ngã và cả những thành công để thêm niềm tin vào nhau.

Gặp gỡ và đối thoại.

Gặp gỡ nhau thường xuyên là một điều nói lên tình yêu hướng về nhau.  Tình yêu có thể làm mờ đi tiếng nói của lý trí; thế nên, lý trí đòi hỏi trong tình yêu luôn luôn cần có một sự thức tỉnh qua đối thoại.  Đời sống tin yêu của các môn đệ cũng qua chặng đường ấy.  Sự kiện hai môn đệ trên đường Emmau, họ nghe và thuật lại câu chuyện về Chúa Giêsu, chết, an táng, rồi sống lại, một cách nghi ngờ.  Chúa Giêsu giải thích cho họ về Kinh Thánh, rồi bẻ bánh là một trong những điều Chúa Giêsu làm trườc khi tử nạn.  Họ nhận ra Người.

Tình yêu đủ lớn nhưng khối óc cũng cần đủ lớn để hiểu biết lẫn nhau, nhận ra nhau từ trái tim chân thành và lý trí lành mạnh.  Tin không bị lừa, yêu không gặp dối.

Tin yêu là một dấn thân liên tục.

Niềm tin không đủ lớn một lần cho tất cả và yêu cũng không đủ một lần cho trọn vẹn.  Tin luôn luôn là một đòi hỏi thực hiện lời hứa một cách trung tín.  Cam kết đi trong tình yêu để xây dựng niềm tin, đó là một tình yêu đã đi đến kết ước vĩnh viễn.  Niềm tin trao cho nhau để không phải là nắm giữ tim nhau, nhưng là để sống trong niềm vui của nhau.  Đi bên nhau mà không nghi kỵ nhau, sống bên nhau mà không kiểm soát lẫn nhau, nói với nhau mà không giả dối nhau…

Với các môn đệ một khi đã tin vào Chúa là dám sống chết cho điều mình tin, trở nên nhân chứng cho điều mình tin.

Tin yêu là một đòi hỏi không ngừng dấn thân.  Xin cho chúng con luôn biết cầu nguyện: Yêu mến Chúa hơn để trọn niềm tin vào Chúa hơn, thêm niềm tin vào Chúa hơn để yêu mến Chúa hơn qua những năm tháng đời sống, chúng con nên chứng nhân Phục Sinh của Người.

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

****************************** ********* 

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh

Lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.

Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.

Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.

Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.

Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên chúng con.  Amen!

From Langthangchieutim

Ba giá trị làm nên nước Mỹ

                                       Ba giá trị làm nên nước Mỹ

Mỗi quốc gia trên thế giới đều đặc biệt ở khía cạnh nào đó, có thể là về văn hoá, lịch sử, ngôn ngữ hay địa lý. Nhưng điều làm nên sự thành công độc đáo của nước Mỹ mà cả thế giới ngưỡng mộ là hệ thống giá trị của họ.

Nếu sống ở Mỹ bạn có lẽ quen thuộc với các đồng xu kim loại. Nhưng một điều có lẽ khiến bạn ngạc nhiên rằng hệ thống 3 giá trị xây dựng lên một xã hội Hoa Kỳ tự do, cởi mở và giàu có nhất thế giới đều được in trọn trên những đồng xu nhỏ bé này.

3 giá trị làm nên nước Mỹ là:

  • E Pluribus Unum (từ rất nhiều, một)
  • In God we trust (Chúng ta tin vào Chúa)
  • Liberty (Tự do)

E Pluribus Unum: từ rất nhiều, mộtcó nghĩa là người Mỹ không quan tâm đến việc bạn đến từ đâu, không quan tâm đến dòng máu đang chảy trong người bạn là gì, nguồn gốc sắc tộc, tôn giáo của bạn của bạn như thế nào. Miễn là bạn tới Mỹ (một cách hợp pháp) và sẵn sàng làm việc để làm cho cuộc  sống của bạn và những người xung quanh trở nên tốt đẹp hơn thì bạn được coi là người Mỹ, là một thành viên chính thức và trọn vẹn trong xã hội.

Nước Mỹ là một quốc gia trẻ hình thành bởi dân nhập cư, và bây giờ vẫn vậy. Một điểm khác biệt so với các quốc gia Châu Âu, Á và Úc là người nhập cư vào Mỹ hoà nhập rất nhanh vào các cộng đồng dân cư ở Mỹ và sự kỳ thị đối với những người mới đến là rất ít nếu so với các quốc gia khác. Chẳng hạn nếu bạn là người Thổ Nhĩ Kỳ và tới Đức nhập quốc tịch, bạn sẽ được coi là người Thổ sống ở Đức trong rất nhiều thế hệ, còn nếu bạn tới Mỹ mà sẵn sàng hoà nhập vào cộng đồng, chỉ trong vài tuần không ai sẽ có cái nhìn khác biệt về bạn. Đó chính là sự độc đáo của nước Mỹ, một quốc gia nhập cư.

Chúng ta tin vào Chúa nghĩa là nước Mỹ thành lập trên niềm tin rằng Chúa là nguồn gốc của mọi giá trị trên đời. Đó chính là lý do tại sao trong Tuyên ngôn độc lập, các vị Quốc phụ công thần tuyên bố “chúng ta có quyền không ai có thể tước đoạt được”. Tại sao không ai có thể tước đoạt được? Vì những quyền này không đến từ con người, chúng được trao cho con người từ Chúa trời, do đó không thể bị con người tước đoạt. Chúa đã, đang là trung tâm của xã hội Mỹ.

Thứ 3, là Tự do . Tất nhiên sẽ có người nói: “Trong cuộc Cách mạng Pháp, họ cũng tuyên ngôn Tự do, Bình đẳng, Bác ái, thì sao? Người Mỹ đâu phải là quốc gia duy nhất tôn trọng Tự do. Đúng là như vậy, còn rất nhiều xã hội phương Tây và phương Đông tiến bộ hiện cũng rất tôn trọng quyền Tự

 do, nhưng Mỹ là xã hội duy nhất đặt Tự Do cùng với ‘Chúng ta tin vào Chúa’ và E Pluribis Unum. Tự do ở Mỹ khác với Tự do mà người Pháp hiểu trong  cuộc cách mạng – họ nhấn mạnh vào Công bằng. Công bằng không phải là một giá trị của người Mỹ, nó là giá trị của Châu Âu. Vì nếu đặt công bằng lên  trước tự do, thì chắc chắn tự do cá nhân sẽ bị nhỏ lại. Người Mỹ yêu thích tự do đến mức bị ám ảnh bởi việc tự quyết định vận mạng của mình.

Vậy ở Mỹ không có công bằng sao? Không phải vậy, công bằng ở điểm khởi đầu là giá trị ở Mỹ, nhưng đòi hỏi công bằng ở kết quả là giá trị Châu Âu. Ở Mỹ, bạn có thể học bất cứ thứ gì bạn thích, khởi nghiệp kinh doanh hay làm chính trị, nhưng kết quả cuối cùng là do nỗ lực, tài năng và may mắn của bạn. 

Ở một số nước Châu Âu, chẳng hạn Đức, đến cả việc bạn mở cửa hàng sớm hơn cửa hàng đối diện một chút cũng không được, vì như thế sẽ không công bằng với ông chủ cửa hàng kia. Người Châu Âu bị ám ảnh bởi công bằng đến như vậy.

Cố Tổng thống Hoa Kỳ Calvin Coolidge vào những năm 1920 đã nói “Công việc của nước Mỹ là làm ăn kinh doanh”. Tự do ở Mỹ cho phép bạn đạt được mọi thứ mà bạn xứng đáng có được với công sức, tài năng và cả may mắn nữa. Người Mỹ không tin vào công bằng như người Châu Âu, bởi vì tự do và  công bằng là có mâu thuẫn. Nếu bạn cưỡng ép công bằng lên người khác thì chính là đã tước đoạt tự do khỏi họ.

Chính vì vậy, E Pluribus Unum (từ rất nhiều, một), In God we trust (Chúng ta tin vào Chúa) và Liberty (Tự do) là 3 giá trị khiến nước Mỹ khác biệt, giúp Mỹ trở thành một xã hội tự do, cởi mở, giàu có và nhiều cơ hội nhất trong lịch sử hiện đại của nhân loại.

Trọng Đức

XÉT XỬ HỘI ANH EM DÂN CHỦ

 
 

XÉT XỬ HỘI ANH EM DÂN CHỦ

Hôm nay ngày 5-4-2018 toà án HN đưa 6 người trong Hội Anh Em Dân Chủ ra xét xử.

1- LS Nguyễn Văn Đài
2- Ký giả Trương Minh Đức
3- Nhà hđ Nguyễn Bắc Truyển
4- Mục sư Nguyễn Trung Tôn
5- Kỹ sư Phạm Văn Trội
6- Thư ký Lê Thu Hà

Được biết các đại sứ và truyền thông quốc tế xin được tham dự phiên toà “công khai” này đều bị từ chối tham dự hoặc không được ngồi trực tiếp tại toà vì lý do an ninh.

Một số nhà hoạt động tham dự phiên toà bên ngoài bị bắt khá đông. 5 bà vợ và một người mẹ cuối cùng đã được cho vô toà nghe xử chồng và con mình.
Các luật sư bào chữa gồm: Nguyễn Văn Miềng, Lê Văn Luân, Đoàn Duyên Hải, Ngô Anh Tuấn and Trịnh Vĩnh Phúc.

Các nhà hoạt động tại Sài Gòn và một số nơi bị an ninh đến canh tại gia từ hôm qua.

Tuy nhiên TTXVN có bài về phiên toà này không im lặng như các phiên toà chính trị khác trước giờ, đã có những tấm hình về phiên toà này. Nhưng luận điệu vẫn là “ chống phá nhà nước” với những chứng cứ mơ hồ suy đoán. Trong khi những người này chỉ làm những việc mà Hiến Pháp Việt Nam điều 25 ghi rõ: Mọi công dân đều có quyền tự do ngôn luận và thông tin.

* Do cải cách tư pháp, bắt đầu từ năm 2018 các bị cáo không đứng sau vành móng ngựa. Bắt đầu từ vụ án Đinh La Thăng đã áp dụng.

Sương Quỳnh

Image may contain: 5 people, people standing
Image may contain: one or more people, people standing, people sitting and indoor
Image may contain: 5 people, text
Image may contain: 5 people, people standing
Image may contain: 6 people, people standing
+2

Một tấm hình không thể đẹp hơn về thần thái của anh Đài, Trội, Tôn.

 
Tai Do and Hangnga Lê shared Lê Văn Sơn‘s post.
Image may contain: 6 people
Lê Văn Sơn is with Chú Tễu.

 

Một tấm hình không thể đẹp hơn về thần thái của anh Đài, Trội, Tôn.

Khuôn mặt của các anh tự tại, đanh thép, hiên ngang và bất khuất. Hai vị thiếu tá công an tỏ vẻ mệt mỏi, suy nghĩ, chán trường.

Tấm hình là sự phản chiếu rõ nét giữa cái thiện và cái ác, giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa công lý và tội ác. Những người bị xét xử là những người đang nắm giữ chính nghĩa, công lý và sự thiện, những kẻ nhân danh Pháp luật để xét xử người yêu nước lại là kẻ thuộc về cái ác, bất nghĩa.

Yêu mến các anh chị trong HAEDC, hôm nay là ngày các anh chịu nạn để phục hồi sức sống cho cả dân tộc Việt Nam.

CHO GIẶC MƯỢN ĐƯỜNG

 
 
Hung Ta

CHO GIẶC MƯỢN ĐƯỜNG

— by Đỗ Ngà

Năm 1127, người Kim đánh Tống, Tống thua nên phải bỏ phía bắc Trung Hoa và lùi về co cụm phía nam sông Dương Tử. Nhà tống mất nửa phía bắc nên người ta hay gọi triều đại này là nam Tống. Đến năm 1234 quân Mông Cổ tiêu diệt nhà Kim chiếm bắc Trung Hoa. Đến năm 1253, quân Mông Cổ lại muốn đánh luôn nam Tống để thâu tóm toàn bộ Trung Hoa. Đại Hãn Mông Cổ lúc đó là Mông Kha đã lên kế hoạch, rằng phải chiếm lấy nước Đại Lý phía tây, tiếp theo chiếm Đại Việt phía nam. Khi thôn tính xong Lý – Việt thì xem như nhà Tống lọt vào thế bao vây của quân Mông Cổ. Cuối cùng là tiêu diệt nam Tống để chiếm hoàn toàn Trung Hoa rộng lớn và làm cỏ luôn 2 nước nhỏ Lý- Việt.

Năm 1254 với lý do mượn đường diệt Tống. Mông Kha đã tiêu diệt Đại Lý phía tây. Sau khi diệt Đại Lý xong, Mông Kha nhiều lần phái sứ giả sang yêu cầu vua Trần “cho mượn đường” để quân Mông đi vòng lên đánh nam Tống. Tất nhiên vua Trần cự tuyệt vì biết chắc cho quân Mông mượn đường sẽ mất nước. Và kết quả, năm 1258 quân Nguyên tiến đánh Đại Việt lần thứ nhất. Nhà Trần phải chiến đấu với bao hy sinh mất mát mới đẩy lùi được quân Mông Cổ hung hãn. Sau đó quân Mông 2 lần nữa tiến đánh Đại Việt nhưng đều bị nhà Trần đẩy lùi. Và nước Đại Việt được cứu thoát khỏi họa diệt vong.

Không biết khi đó vua của nước Đại Lý có cho Mông Kha mượn đường hay không? Có thể họ cho quân Mông mượn đường rồi mất nước mà cũng có thể Đại Lý đã chiến bại. Nhưng nếu nhà Trần cho quân Mông mượn đường thì chắc chắn đất nước Việt Nam đã bị xóa sổ như Đại Lý rồi. Đấy là sự sáng suốt của cha ông ta đã bảo vệ được đất nước. Lịch sử đã dạy, Không cho giặc mượn đường dù bất cứ lí do gì. Nếu năm đó vua Trần gật đầu thì nay chúng ta đã không hiện diện trên đời này.

Xa xưa, vào thế kỷ thứ 7 trước CN, thời Xuân Thu, nước Ngu cho nước Tấn mượn đường để diệt nước Quắc. Kết quả, sau khi diệt Quắc xong, Tấn diệt luôn Ngu. Gian kế này được Tôn Tử đưa vào làm 1 trong 36 kế của cuốn Binh Pháp nổi tiếng của ông. Và như ta biết, cuốn binh pháp này được người Tàu, đặc biệt là những trùm quyền lực ở Bắc Kinh sử dụng đầy biến hoá. Bài học nước Ngu và Đại Lý còn đó. Trước đây nhà Trần đã hành động đúng, nhưng ngày nay CS đang làm ngược lại. Rất nguy hiểm.

Hôm nay, tại Quảng Ninh, lửa thiêu cháy nhà máy sợi Texhong Ngân Long. Nhiều xe PCCC của TP Đông Hưng (Trung Quốc) được huy động tới KCN Hải Yên chữa cháy. Thế là hàng đoàn xe đặc chủng từ bên kia biên giới kéo vào nước ta như chốn không người. Thế là một bằng chứng rõ nét rằng, đường biên giới đã được mở toang. Đoàn xe cứu hoả sẽ là một tiền trạm cho thử nghiệm cho xe đặc chủng khác thì sao? Tại sao mở cửa cho xe đặc chủng Trung Cộng vào tự do? Tại sao “nhờ” phía Trung Cộng chữa lửa? Vậy chữa lửa Việt Nam đâu? Chả nhẽ từ xưa đến giờ các tỉnh biên giới không có vụ cháy lớn nào à? Mà nếu lúc trước có cháy lớn thì sao PCCC Việt Nam chữa, nhưng hôm nay tại sao để xe Trung Cộng vào đây? Nếu mai kia xe cứu hoả chứa súng đạn và quân lính trong đó thì sao? Chẳng phải “tàu đánh cá” Trung Cộng cũng trang bị đủ thứ vũ khí trên biển Đông đấy sao? Và rất nhiều cái “tại sao” nữa cần phải có câu trả lời thỏa đáng.

Nhìn lại khắp lãnh thổ Việt Nam xem? Người Trung Quốc tràn ngập. Tại Nha Trang và Đà Nẵng là nơi người Tàu dày đặc. Tại Quảng Ninh và Lào Cai đoàn xe của Tàu tấp nập nhập cảnh vào không cần visa. Khắp nơi hình thành các khu dân cư của Tàu nổi lên như những vết đốm trên da con báo. Thêm nữa, bên này biên giới và bên kia biên giới, quân đội và công an 2 nước được mặt chung một bộ đồng phục. Sự giống nhau ở quân phục là có ý gì? 2 đội bóng trên sân không thể mặc chung một màu áo. Và quân đội 2 nước cũng không thể mặc chung bộ đồng phục được. Quân phục giống hệt nhau để làm gì? Là để đánh lừa nhân dân Việt Nam hay để chuẩn bị cho kế hoạch sáp nhập? Thế đấy! Những hiện tượng rất bất thường và mức độ ngày một đáng ngại.

Cả sử ta và sử Tàu đã được dọn lên mâm cho chúng ta chọn. Một món tồn tại và món diệt vong, nhưng CS đang chọn món diệt vong của vua Ngu. Tất cả quan chức CS đều có chỗ ở xứ “tư bản giãy chết” nếu có biến cố. Còn chúng ta? Chạy đi đâu? Nếu cứ mãi ù lì né tránh chính trị thì số phận nước Việt sẽ bị khai tử, đó là con đường rất rõ ràng khó tránh khỏi.

No automatic alt text available.

AN NINH CỘNG SẢN TĂNG CƯỜNG BẮT BỚ TRƯỚC PHIÊN XỬ 06 THÀNH VIÊN HỘI ANH EM DÂN CHỦ

Hung Tran shared Amy Truc Tran‘s post.

 

Image may contain: 1 person, text

Amy Truc TranFollow

(Tin từ Hội Anh Em Dân Chủ)

AN NINH CỘNG SẢN TĂNG CƯỜNG BẮT BỚ TRƯỚC PHIÊN XỬ 06 THÀNH VIÊN HỘI ANH EM DÂN CHỦ

Theo tin mà chúng tôi mới nhận được, hiện nay nhà riêng của một thành viên Hội Anh Em Dân Chủ là cựu tù nhân chính trị, nhà thơ Trần Đức Thạch tại huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An đang bị rất đông an ninh, công an sắc phục lẫn thường phục bao vây và phá phách.

Lực lượng an ninh hành xử rất hung hãn khi quấy phá và liên tục tìm cách đột nhập vào nhà riêng của ông Trần Đức Thạch.

Hiện tình hình đang trở nên xấu đi, rất có thể lực lượng an ninh sẽ tiến hành bắt bớ nhà thơ Trần Đức Thạch để dằn mặt những người muốn tham gia phiên toà xét xử 06 thành viên Hội Anh Em Dân Chủ vào ngày mai 05/04/2018.

Nhà thơ Trần Đức Thạch từng tham gia quân đội Bắc Việt và chứng kiến nhiều sự thật “khủng khiếp” theo lời ông tường thuật lại. Một trong những sự thật về tội ác của quân đội Bắc Việt trong cuộc chiến tranh Nam – Bắc được ông kể lại bằng tác phẩm của mình là “Hố chôn người ám ảnh” đã gây nên một cơn sốc cho công luận cũng như đối với nhà cầm quyền khi nó vừa được công bố.

Sau khi giải ngũ, ông từng lên tiếng phản đối một số chính sách của Nhà nước mà ông cho rằng vô nhân đạo và cần thay đổi. Khi ở VN, khái niệm “nhân quyền” còn ít người biết tới ông đã tự thiêu để đòi quyền con người. Một hành động rất quả cảm, đơn độc, quyết đoán pha chút liều lĩnh của một người cầm bút.

Vì những hoạt động ôn hoà đòi nhân quyền, dân chủ, năm 2008, nhà thơ Trần Đức Thạch từng bị bắt và kết án 3 năm tù giam, 3 năm quản chế với cáo buộc vi phạm điều 88 “tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN VN”. Trong tù, ông từng bị điều tra viên đánh đập, tra tấn hòng bẻ gãy ý chí của ông. Nhưng ông vẫn giữ khí phách của một người yêu lẽ phải.

Sau khi ra tù, ông liên tục bị nhà cầm quyền địa phương sách nhiễu, khủng bố, bắt bớ, câu lưu vì ông không chịu từ bỏ lý tưởng tự do, cũng như những việc làm ôn hoà đấu tranh cho nhân quyền, dân chủ của mình.

Mong bạn bè, công luận quan tâm, theo dõi thông tin về nhà thơ, người tù lương tâm Trần Đức Thạch.
#HAEDC
#danchukhongphailatoi

VỀ CÁI GỌI LÀ UỶ BAN ĐOÀN KẾT CÔNG GIÁO:

 Tin Mừng Cho Người Nghèo‘s post.
Image may contain: 4 people, people smiling, eyeglasses and closeup
Image may contain: 1 person, smiling, closeup
Image may contain: 1 person
Image may contain: 1 person, text and closeup
+4

Tin Mừng Cho Người Nghèo added 7 new photos.

 VỀ CÁI GỌI LÀ UỶ BAN ĐOÀN KẾT CÔNG GIÁO:

Đã có nhiều bài viết, tư liệu và chứng cứ đã vạch rõ Ủy ban này ra đời, được nuôi nấng với nhiệm vụ tiêu diệt bằng được Giáo hội Công giáo qua hình thức tinh vi là thiết lập một Giáo hội Công giáo tự trị – tam tự – kiểu Trung Quốc.

Nhiều tác giả, nhân chứng đã nói lên bản chất của cái gọi là Ủy ban này, hoàn toàn nhằm chống lại Công giáo, như lời Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt đã xác nhận: “Đó là công giáo nhãn hiệu”. Tiếc thay, đến hiện nay nhiều Giáo phận, nhiều nơi vẫn còn dung túng cho các linh mục, giáo sĩ, giáo dân tham gia tổ chức này.

Đây là loạt bài của Linh mục Chân Tín DCCT, Nhà Thờ Kỳ Đồng, P9, Q3, một linh mục nay đã qua đời, một con người đã từng đứng vững, hiên ngang trước mọi thế lực đe dọa, sẵn sàng lấy cả mạng sống mình chứng minh cho sự thật, nay được đăng lại để cho giới trẻ Việt Nam đang được tiếp cận thông tin trên mạng được biết, hiểu, để trau dồi kiến thức mà có những nhận định đúng đắn về xã hội và Giáo Hội Việt Nam.
—————————-

UỶ BAN ĐOÀN KẾT CÔNG GIÁO: Tập đoàn của âm mưu và tội ác

Phần 1:

A. Các lãnh tụ tương lai của Ủy ban Đoàn kết: Hô hào trục xuất Đức Khâm sứ Tòa thánh và Đức cha Thuận

Ít ngày sau 30/4/1975, các lãnh tụ tương lai của Ủy ban Đoàn kết, gồm có linh mục Trương Bá Cần, Huỳnh Công Minh, Vương Đình Bích, Phan Khắc Từ đã hô hào trục xuất Đức Khâm sứ Tòa thánh Henri Lemaitre và phản đối việc Tòa thánh bổ nhiệm Đức cha Nguyễn Văn Thuận làm Tổng giám mục phó Tổng giáo phận Sài Gòn.

Các linh mục Huỳnh Công Minh, Trương Bá Cần, Phan Khắc Từ, Vương Đình Bích – Những kẻ đã hô hào trục xuất Đức Khâm sứ Tòa thánh Henri Lemaitre. (Lm Trương Bá Cần đã về chầu…?)
Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, TGM Phó TGP Sài Gòn bị bắt bỏ tù CS

Nguyễn Antôn (Công giáo Miền nam sau 1975) đã viết về các vị ấy: “Nhảy qua tường, đột nhập vào Tòa Khâm sứ, dùng búa đập phá ổ khóa ngoài cổng, trèo lên mái nhà căng biểu ngữ và hạ lá cờ Tòa thánh. Bọn chúng hò hét: Đả đảo! Đả đả! Henri Lemaitre về nước, cút cút đi, cút đi. Họ xô đẩy đức Khâm sứ, linh mục phụ tá người Balan và linh mục Bí thư người Việt từ trong khuôn viên Tòa Khâm sứ ra đường Hai Bà Trưng, rồi đóng sập cửa lại” (trang 219). Các vị ấy tấn công Tòa Khâm sứ Tòa thánh vào ngày 14/5/1975 – tức là chỉ hai tuần sau khi cộng sản cướp chính quyền.

Cũng chính các vị lãnh tụ tương lai của Ủy ban Đoàn kết này đã hô hào loại trừ Đức cha Fx. Nguyễn Văn Thuận, Tổng Giám mục phó Tổng Giáo phận Sài Gòn. Ngày 25/4/1975, 5 ngày trước khi tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, Đức cha Fx. Nguyễn Văn Thuận – Giám mục Nha Trang, được Đức Giáo hoàng Phaolo VI bổ nhiệm làm Tổng Giám mục phó Tổng Giáo phận Sài Gòn với quyền kế vị. Ngày 12/5/1975, Đức Tổng giám mục Phaolo Nguyễn Văn Bình cho phổ biến thông cáo về việc bổ nhiệm trên. Nhóm các linh mục lãnh tụ tương lai của Ủy ban Đoàn kết đã bao vây Đức Tổng Giám mục Phaolo Nguyễn Văn Bình và Đức cha Fx. Nguyễn Văn Thuận. Họ yêu cầu Đức cha Thuận rút lui khỏi chức vụ.

Trong vấn đề này, Đức cha Phaolo Nguyễn Văn Bình đã tỏ ra khá cứng rắn. Ngày 7/6/1975, Đức cha Nguyễn Văn Bình đã viết một lá thơ xác nhận: “Việc Tòa thánh bổ nhiệm Đức cha Fx. Nguyễn Văn Thuận làm Giám mục phó Tổng Giáo phận Sài Gòn với quyền kế vị là một việc hợp với nhu cầu mục vụ của địa phận Sài Gòn. Đây không phải là một việc áp đặt như một số người đã hiểu lầm. Nhiều Giám mục đã được tham khảo ý kiến, dĩ nhiên trong đó có tôi. Chính tôi đã đồng ý hoàn toàn việc bổ niệm này. Kêu gọi quý cha, quý tu sĩ nam nữ và giáo dân sẵn sàng tuân phục hoàn toàn quyết định của Tòa thánh La mã“.

Qua ngày 8/6/1975, đức cha Nguyễn Văn Bình còn gửi cho chính quyền Cộng sản một kháng thư: “Mấy tổ chức mệnh danh Công giáo chỉ là một thiểu số không đáng kể trong hàng ngũ Công giáo, không thể nào đại diện cho đông đảo giáo dân Công giáo. Những tội danh gán buộc cho Đức Khâm sứ Henri Lemaitre và Đức tổng Giám mục Fx. Nguyễn Văn Thuận hoàn toàn thất thiệt”.

Tiếp đó, Đức Tổng Phaolo Nguyễn Văn Bình, “khẩn thiết yêu cầu” chính phủ cách mạng cho nghiêm lệnh:

Đức Cố Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình
1. Triệt để thi hành Sắc lệnh Tự do Tín ngưỡng mà Chủ tịch HCM đã ban bố tại Hà Nội ngày 14/5/1955 cũng như chính sách 10 điểm mà Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền nam Việt Nam đã tuyên bố ngày 1/4/1954, hầu gây tin tưởng và phấn khởi của toàn dân đối với Chính phủ.
2. Chấm dứt các chiến dịch tuyên truyền, bôi nhọ các chức sắc Giáo hội Công giáo Việt Nam.
3. Chặn đứng ngay chiến dịch vận động phi pháp, đòi trục xuất Đức Tổng Giám mục Nguyễn Văn Thuận, vì việc trục xuất phi pháp này vi phạm trầm trọng Sắc lệnh Tự do Tín ngưỡng và chính sách 10 điểm của Chính phủ, sẽ gây nguy hại cực kỳ lớn lao không lường được về đối nội cũng như đối ngoại cho quốc gia và dân tộc.

Ta thấy Đức Tổng giám mục Phaolo Nguyễn Văn Bình lúc này rất cứng cáp và can đảm, nhưng kể từ khi có 4 ông cố vấn của Ủy ban Đoàn kết, ngài đã yếu đi, không cứng rắn và can đảm như trước. Vào cuối đời, Đức cha Nguyễn Văn Bình đã tâm sự: “Ngài sợ” và khi gần chết vẫn còn sợ cộng sản.

Hai tháng sau, ngày 15/8/1975, bất chấp kháng thư của Đức cha Bình, cộng sản đã bắt Đức cha Nguyễn Văn Thuận, câu lưu ngài tại Cây Vông, thuộc tỉnh Khánh Hòa và sau cùng đày ngài ra Bắc cầm tù 13 năm, trong đó có 9 năm biệt giam.

Các linh mục kia đã lập công, nên đã được chọn làm lãnh tụ cho Ủy ban Đoàn kết, tay sai của Đảng cộng sản Việt Nam.

B. Ủy ban Đoàn kết xuyên tạc Thư chung 1980 của HĐGM Việt 
Nam

Ngày 1/5/1980, Hội đồng Giám mục Việt Nam có gửi một Thư chung cho toàn thể linh mục, tu sĩ và giáo dân Việt Nam.

Đây là Đại hội đầu tiên của toàn thể các Giám mục Việt Nam thống nhất. Sau khi Hội đồng Giám mục Việt Nam cho dân Chúa biết về một tuần làm việc của Hội đồng Giám mục tại Hà Nội, ý nghĩa của việc viếng mộ hai thánh Tông đồ ở Roma và việc tham dự Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã đưa ra một đường hướng mục vụ với chủ đề: “Giáo hội đồng hành với Dân tộc”, và kêu gọi người Công giáo: “Sống Phúc âm giữa lòng Dân tộc”. Dân tộc mà Hội đồng Giám mục và toàn thể nhân dân Việt Nam đang bị đảng Cộng sản đầy đọa, áp bức, bóc lột, mất hết tự do. Người Công giáo phải đồng hành với nhân dân Việt Nam, chia sẻ nỗi đau khổ, mất mát về tinh thần cũng như vật chất, quyết đấu tranh cho con người, chống lại một chế độ vô nhân đạo, chống lại thiểu số đảng viên cộng sản phè phỡn sống trên xương máu của người dân.

Về giá trị của Thư chung năm 1980, cha Nguyễn Ngọc Tỉnh, OFM, viết: “Chỉ cần nhìn các trích dẫn, chúng ta dễ dàng nhận ra nền tảng của Văn kiện, đó là Lời Chúa, là Giáo huấn của Công đồng Vaticano II, Giáo huấn của hai vị Giáo hoàng Phaolo VI và Gioan Phaolo II. Điều cần lưu ý là Văn kiện đã được sự đóng góp của nhiều chuyên viên trong các lãnh vực: Thần học, Kinh thánh, Xã hội…Nhưng điều hiển nhiên hơn cả, là khi đọc thư mục vụ 1980, ta có cảm tưởng đang hít thở không khí trong lành, lạc quan như của Hiến chế “Vui mừng và Hy vọng” của Công đồng Vatican II. Thư chung 1980 của Hội đồng Giám mục Việt Nam chính là cẩm nang, là văn kiện định hướng cho các tín hữu Công giáo Việt Nam đầu thập niêm 80 của thế kỷ trước. Và như đã nói trên, chính vì Văn kiện dựa trên Lời Chúa cũng như Giáo huấn của Công đồng Vaticano II và các Giáo hoàng, nên không có lý do gì để hoài nghi về nội dung. Và cũng chính vì vậy, mà ta cũng có thể nói: Thư chung 1980 không chỉ có giá trị vào thời điểm được viết ra và công bố, nhưng còn có giá trị cho bất cứ giai đoạn nào, bất cứ hoàn cảnh nào” (Nguyễn Ngọc Tỉnh, Thắp một Ngọn nến cho Thái Hà, 2010, trg. 146-147).
Lm Võ Thành Trinh đã chết, song người đời còn nhắc mãi đến ông vì những gì ông đã làm

Thế nhưng, Ủy ban Đoàn kết đã xuyên tạc ý nghĩa tốt đẹp của Thư chung 1980 của hàng Giáo phẩm Việt Nam. Linh mục Võ Thành Trinh, chủ tịch Ủy ban Đoàn kết và các linh mục khác của Ủy ban, mà dân chúng gọi là “quốc doanh” đã lợi dụng lời kêu gọi đó để vận động, tuyên truyền cho nhà nước cộng sản.

Linh mục Võ Thành Trinh nói: “Yêu nước phải gắn liền với Chủ nghĩa Xã hội” Ông còn kêu gọi Ủy ban Đoàn kết phải cấp bách hoạt động cho Chủ nghĩa Xã hội, Chủ nghĩa cộng sản: “Chúng ta càng ngày càng làm cho đông đảo đồng bào Công giáo thấy rõ: yêu nước là vinh quang, yêu nước bây giờ là xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, không còn con đường nào khác”.

Kể từ đó, Thư chung 1980 bị Ủy ban Đoàn kết khai thác theo hướng tuyên truyền có lợi cho cộng sản.

Trong bài Báo cáo Tổng kết của Ủy ban Đoàn kết tại Đại hội “những người Công giáo Việt Nam yêu Tổ quốc yêu đồng bào” năm 2003, linh mục Phan Khắc Từ đã nói: “Đường hướng sống phúc âm giữa lòng dân tộc được Hội đồng Giám mục Việt Nam đề ra từ năm 1980, đã tác động thức đẩy phong trào yêu nước trong đồng bào công giáo phát triển mạnh mẽ. Lời dạy của các vị chủ chăn Công giáo Việt Nam cũng chính là sự nhìn nhận những hoạt động thường xuyên của phong trào và Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam”.

Cùng với Ủy ban Đoàn kết, đảng cộng sản cũng khai thác Thư chung 1980. Ông Phạm Thế Duyệt, Chủ tịch UBMT Tổ quốc Việt Nam, trong bài phát biểu tại đại hội nói trên, sau khi ca ngợi hàng loạt “thánh tích” của Ủy ban Đoàn kết, đã nói: “Thành tích đó khẳng định tính đúng đắn của đường hướng mà Hội đồng Giám mục Việt Nam đã lựa chọn, thể hiện trong Thư chung 1980 là sống Phúc âm giữa lòng dân tộc”.

Thành tích của Ủy ban Đoàn kết trong việc xuyên tạc ý nghĩa của Thư chung 1980 đã có những kết quả bi đát. Cha Nguyễn Ngọc Tỉnh đã từng đặt vấn đề về câu khẩu hiệu này và ngài cũng đã trả lời: “Trong suốt năm 2007, khi phong trào dân oan đi đòi công lý rộ lên từ Bắc chí Nam, từ nông thôn tới thành thị, Giáo hội Công giáo làm thinh. Khi nổi lên vụ khai thác boxit, các nhà trí thức công khai bày tỏ ý kiến, yêu cầu nhà nước ngưng triển khai dự án, Giáo hội Công giáo làm thinh. Khi những người mạnh dạn tố cáo tham nhũng, khi các nhà đấu tranh cho tự do dân chủ lần lượt theo nhau vào tù, Giáo hội Công giáo làm thinh. Khi người dân bày tỏ lòng yêu nước cùng xuống đường tuần hành biểu tình chống Trung quốc chiếm hai đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhiều học sinh, sinh viên và dân thường bị bắt, bị bỏ tù, Giáo hội Công giáo làm thinh. Thế thì câu hỏi đặt ra là, trong những hoàn cảnh bức thiết đến như vậy, trong khi những cá nhân bất chấp bao phiền toái cho bản thân, bất chấp hiểm nguy cho tính mạng, dám can đảm đi đòi công lý, dám hiên ngang tỏ bày lập trường, mạnh mẽ nói lên lòng yêu nước, một niềm gắn bó với tiền đồ dân tộc, thì những người Công giáo, bắt đầu từ những vị lãnh đạo xem như chẳng có chi liên quan tới mình, để mình pahir bận tâm. Trong hoàn cảnh đó, làm sao có thể chứng minh cho mọi người rằng Giáo hội Công giáo Việt Nam chúng ta đang sống Phúc âm giữa lòng dân tộc, đang đồng hành với dân tộc hôm nay? “(Id trg. 152-153)

Tình trạng bi đát này là thành tích của Ủy ban Đoàn kết đáng được đảng ca ngợi.

Phần 2

A. Ủy ban Đoàn kết: nô lệ Đảng Cộng sản 10 năm

Ngày 25/4/1985, Ủy ban Đoàn kết mừng 10 năm phục vụ đảng cộng sản trong tư cách nô bộc. Một bản báo cáo đã được đọc trong Đại hội năm đó.

Trước hết, Ủy ban Đoàn kết đã hết lời ca ngợi đảng “đã làm mọi cách, tạo mọi điều kiện có thể trong 10 năm qua, để người Công giáo thành phố HCM được chan hòa vào đời sống chung của đồng bào”.

Có thật vậy không? Chúng ta biết rằng, chỉ mới ba năm sau khi cướp chính quyền ở Miền Nam, chính quyền cộng sản đã ngay lập tức triển khai chính sách triệt hạ Giáo hội Công giáo, bằng cách tàn phá các Trung tâm Đào tạo Tu sĩ và Linh mục. Đêm 25/1/1978, cộng sản đã ra quân tấn công hàng loạt các tu viện của các Hội dòng tại Thủ Đức: Học viện Dòng Chúa Cứu Thế, Dòng Đaminh, Dòng Don Bosco, Dòng Xito, Dòng Lasalle. Cộng sản tịch thu nhà cửa, tài sản, đuổi các tu sĩ ra khỏi tu viện của họ, qui chụp các tội danh một cách vô căn cứ: nào là có khí giới chống cách mạng (Vụ cha Tiến Lộc, Dòng Chúa Cứu Thế, để trên tủ một súng lục cong nòng mà các em để tử nhặt được ngoài ruộng, bị gán cho tội tàng trữ vũ khí chống cách mạng, sau đó bị kết án 6 năm tù), nào là có giấy tuyên truyền chống cách mạng…

Ủy ban Đoàn kết lại còn khoe công của mình trong việc tuyên truyền Chủ nghĩa Xã hội. Bản báo cáo viết: “Có người nói tôi yêu nước, nhưng tôi không yêu Chủ nghĩa Xã hội. Đó là nói theo sự tự do chủ quan của cá nhân. Còn nói yêu nước theo nghĩa thực tâm đi với dân tộc, tiến lên với đất nước theo qui luật tiến hóa của lịch sử loài người và của riêng dân tộc Việt Nam trong thời đại ngày nay, thì không có con đường nào khác để yêu nước đúng nghĩa và có hiệu quả thiết thực, ngoài con đường xây dựng Chủ nghĩa Xã hội như chúng ta đang được đảng lãnh đạo, tiến hành làm với cả nhân dân”.

Ủy ban Đoàn kết nói về Chủ nghĩa Xã hội mà không ngượng miệng. Trong thực tế, Chủ nghĩa Xã hội đã bần cùng hóa nhân dân, nô lệ hóa nhân dân, bóc lột nhân dân,, cướp phá đất đai, tài sản nhân dân, nhân dân mất hết tự do,, bị bịt mồm bịt miệng, bị bỏ tù đày đọa. Nhân dân chịu hết nổi nên chấp nhận vượt biên với bao nguy hiểm để trốn chế độ cộng sản. Họ chấp nhân bỏ lại tài sản, bất chấp tù đày nếu bị bắt, bất chấp nguy hiểm đến tính mạng. Trong chế độ cộng sản, quyền lợi tối thượng là quyền lợi của đảng và đảng viên. Mục tiêu tối thượng của cộng sản Việt Nam là giữ vị thế độc tôn của đảng viên với bất cứ giá nào, không có vấn đề ích quốc lợi dân, nhưng là quyền và lợi của đảng và đảng viên. Chế độ cộng sản là chế độ thối nát, bất công, tàn ác. Đạo đức xã hội ngày càng băng hoại với việc phá thai nằm trong chính sách, hàng trăm ngàn cô gái bị bán đi làm ddiems hay vợ hờ, khai thác sức lao động của giới trẻ qua các văn phòng dịch vụ lao động nước ngoài, đất đai của đất nước bị đảng cắt dâng cho Trung quốc ..vv..vv..

Bản báo cáo của Ủy ban Đoàn kết tiếp tục ca ngợi đảng: “Nhờ có giải phóng, đất nước được độc lập, thống nhất, nhân dân ta mới xóa bỏ được thể chế một xã hội bất công, thối nát, thiết lập ra những thể chế xã hội mới, một phương thức sản xuất mới qua đó người lao động xây dựng phẩm chất đích thực co cuộc sống của mình, có tình nghĩa, lẽ phải. Dân tộc đã nhân lên hàng trục triệu lần những giá trị làm người như thế yêu nước là yêu Chủ nghĩa Xã hội theo cách hiểu và thực hiện của Đảng lãnh đạo. Không thể nào khác được. Hiểu Chủ nghĩa Xã hội cách khác hoặc yêu nước cách khác là chưa thực tâm đi với dân tộc. Đó là con đường duy nhất cho phép xây dựng phẩm chất đích thực cho cuộc sống và phát triển cơ sở đó, người Công giáo mới có điều kiện sống theo đòi hỏi của Tin mừng Đức Kito.”

Năm 1985, tức 10 năm sau biến cố 30/4/1975, lập trường chính thức của Ủy ban Đoàn kết là như thế.

Nhìn vào thực tại, mọi sự đều trái ngược với những gì Ủy ban Đoàn kết vừa trình bày. Xã hội cộng sản là xã hội hết sức bất công, thối nát hơn hàng triệu lần sự bất công và thối nát của các chế độ khác trước kia trên đất nước. Thể chế mới mà đảng và Ủy ban Đoàn kết tuyên truyền về cộng sản, thực chất là thể chế bóc lột người dân, người lao động cách dã man, nên làm gì có xây dựng phẩm chất đích thực, làm gì dân tộc nhân lên hàng triệu lần những giá trị làm người. Ủy ban Đoàn kết dối dân không biết ngượng.

B. Ủy ban Đoàn kết: chống phong Thánh các tử đạo Việt Nam

Trong vụ phong Thánh, Tòa Thánh đã thực hiện một cách hết sức nghiêm túc các qui trình đã được Bộ phong Thánh qui định, chứ không phải là một sáng kiến mới của Tòa Thánh nhằm chống lại chế độ cộng sản Việt Nam như ông Nguyễn Quang Huy, Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ thời đó, đã nói trong một Văn thư gửi Hội đồng Giám mục Việt Nam:

1. Trước hết, Thánh bộ phong Thánh của Giáo hội đã chấp nhận các Thỉnh Nguyện thư xin phong Thánh cho 117 Thánh tử đạo Việt Nam: Thỉnh Nguyện thư của Hội đồng Giám mục Việt Nam(16/11/1985), của Dòng Đaminh (28/12/1985), của Hội Thừa sai Paris (2/2/1986), của Hội đồng Giám mục Phi (13/5/1986) và của Hội đồng Giám mục Tây Ban Nha (19/6/1986).

2. Ngày 22/5/1987, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolo II đã chủ tọa Cơ Mật Viện để hỏi các thành viên bỏ phiếu chấp thuận việc phong Thánh cho 117 Thánh tử đạo Việt Nam. Ngày 29/5/1987, Tòa Thánh đã có văn bản quyết định phong Thánh cho các Thánh Tử đạo Việt Nam vào ngày 26/6/1988.

3. Trước quyết định phong Thánh của Giáo hội, đảng Cộng sản coi quyết định này như một hành động chống chế độ cộng sản, nên đã phản ứng cách mạnh mẽ và tìm mọi cách ngăn chặn vụ phong Thánh này với sự cộng tác đắc lực của Ủy ban Đoàn kết.

Ngày 18/9/1987, Ban Tôn giáo Chính phủ đã triệu tập Ban Thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam để phê phán vụ phong Thánh và bàn biện pháp xử lý tình hình phức tạp.

Trước áp lực của Nhà nước, Hội đồng Giám mục Việt Nam, qua Ban Thường vụ, gửi thư và điện văn yêu cầu duy trì việc kính các Chân phúc Tử đạo Việt Nam như cũ không làm gì mới khác (19/9/1987). Tiếp đó, Ban Tôn giáo Chính phủ gửi Văn thư số 01 – TGCP, ngày 12/10/1987 cho UBND, Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố, đặc khu, yêu cầu theo dõi việc thi hành quyết định của Hội đồng Giám mục – thực ra là quyết định của chính phủ.

4. Tuân lệnh đảng, Ủy ban Đoàn kết đã nỗ lực khắp nơi, quyết ngăn cho bằng được việc phong Thánh các Thánh tử đạo Việt Nam.

Tại thành phố Sài Gòn, Mặt trận Tổ quốc, với sự hỗ trợ của Ủy ban Đoàn kết, đã tổ chức những buổi tập hợp các linh mục, tu sĩ, giáo dân trong các quận, huyện và thành phố để phổ biến đường lối của đảng và để chống phá Giáo hội.

Tại quận 3 – nơi tôi ở, Mặt trận Tổ quốc đã tổ chức một buổi họp gồm các linh mục, tu sĩ, giáo dân trong quận vào chiều ngày 18/1/1988, để nghe Ủy ban Đoàn kết trình bày về đường lối của Nhà nước chống lại việc phong Thánh. Một vị linh mục của Ủy ban Đoàn kết đã đọc một Thỉnh nguyện thư có tên là “Thỉnh nguyện thư Việt Nam” để xin chữ ký của cử tọa. Thỉnh nguyện thư này gồm hai đề nghị: Đề nghị thứ nhất là xin hoãn việc phong Thánh và đề nghị thứ hai là xin tách các vị tử đạo thừa sai ngoại quốc ra khỏi danh sách được phong Thánh.

Trong cuộc họp này, chính tôi đã đứng lên phản đối cách làm của các vị lãnh đạo Giáo hội Việt Nam, nhất là việc chính quyền đã ngang nhiên sử dụng Ủy ban Đoàn kết làm cái bung xung phá rối Giáo Hội.

Trước tiên, về việc hoãn phong Thánh, tôi đã nói: “Việc không tham dự vào việc phong Thánh gây bất mãn, có hại đến việc người Công giáo Việt Nam tham gia xây dựng đất nước và cô lập Việt Nam trên chính trường quốc tế, thì đề nghị các Giám mục xin hoãn phong Thánh còn tệ hại hơn. Người ta nghĩ rằng Nhà nước làm áp lực bắt các Giám mục Việt Nam xin hoãn, vì trước kia chính các Giám mục đã phấn khỏi xin phong Thánh. Nếu có đưa ra “Thỉnh nguyện thư” của Ủy ban Đoàn kết thì đó thực chất là mệnh lệnh của Nhà nước, hầu tạo ra một mầu sắc nhân dân, nên dù có thu được hàng triệu chữ ký thì cũng thế thôi”.

Về đề nghị thứ hai là tách các vị tử đạo thừa sai ngoại quốc, tôi có nói: “Đây là thứ đề nghi của những người “Công giáo” mà người Công giáo chân chính gọi là “ăn cháo đá bát”. Các thừa sai ngoại quốc, vì đức tin đã bỏ cuộc sống ổn định, thoải mái ở quê nhà, đi vào một nước lạc hậu để rao giảng Tin mừng cứu độ của Chúa Giêsu. Họ đã bị bắt, bị tra tấn, bị xử tử do các vua chúa thời phong kiến. Họ đã hy sinh mạng sống cho việc rao giảng Tin mừng, tức là họ đã chết vì đạo Chúa để đem Tin mừng cho người Việt Nam. Vì thế, người Công giáo Việt Nam đòi tách riêng người có công đem đức tin Kitô giáo đến cho cha ông họ là “ăn cháo đá bát”, là vô ơn, tạo chia rẽ trong giới Công giáo”.

Tại cuộc họp hôm đó, tôi cũng đã đưa ra hai kiến nghị, một với Giáo hội, một với Nhà nước.

Đối với Nhà nước: “Tôi mong Nhà nước để cho Giáo hội Việt Nam dự cuộc phong Thánh, vì làm như vậy ích lợi cho đất nước hơn là tẩy chay việc phong Thánh mà Giáo hội toàn cầu sẽ cử hành tại Roma”.

Đối với Giáo hội: “Tôi mong Hội đồng Giám mục Việt Nam đừng làm trò cười cho giáo dân cũng như cho thế giới bên ngoài, mà xin Tòa Thánh hoãn việc phong Thánh và xin tách các vị tử đạo thừa sai ngoại quốc. Thật là môt trò trẻ con, không thể chấp nhận được với dư luận quốc nội cũng như quốc tế khi Hội đồng Giám mục đã từng phấn khởi xin phong Thánh, nay lại xin hoãn, xin tách. Hội đồng Giám mục Việt Nam sẽ mất hết uy tín đối với giáo dân Việt Nam cũng như với giáo hữu toàn cầu. Trong tình trạng đó, các giám mục không còn mấy ảnh hưởng để thúc đẩy giáo dân Việt Nam vừa hăng say xây dựng đất nước vừa trung thành giữ vững đức tin”. (Chân tín, Nói cho Con người, trang 46-52).

Sau sự can thiệp của tôi, Ủy ban Đoàn kết đã không dám xin chữ ký ủng hộ Thỉnh nguyện thư của họ và sau đó, như Đức cha Nguyễn Quang Tuyến – giám mục giáo phận Bắc Ninh cho biết, các giám mục đã nhất trí xin tiếp tục xin Tòa Thánh phong Thánh cho 117 Thánh tử đạo Việt Nam.

Vụ việc phong Thánh sau đó dù vẫn bị chính quyền, với sự tiếp tay của Ủy ban Đoàn kết, đã tìm hết mọi cách ngăn cản, nhưng với sự kiên quyết của Tòa Thánh trong lời tha thiết cầu nguyện của cộng đồng Dân Chúa, các Chân phúc Tử đạo việt Nam đã được tuyên phong hiển Thánh đúng như ý Chúa muốn.

Nói lại những điều này hôm nay để thấy rõ bộ mặt của Ủy ban Đoàn kết đích thực là gì? Nói như linh mục Phan Khắc Từ, trong cuộc trả lời phỏng vấn của anh J.B Nguyễn Hữu Vinh – giáo dân Tổng giáo phận Hà Nội, thì Ủy ban Đoàn kết “Không phải của Giáo hội mà là của Mặt trận, đương nhiên là của Đảng.” Đảng thành lập, đảng nuôi dưỡng, đảng vạch đường chỉ lối. Tóm lại, Ủy ban Đoàn kết chỉ là cái bung xung của đảng nhằm ngăn chặn và làm tha hóa Giáo hội, biến Giáo hội thành một tôn giáo quốc doanh phục vụ cho nguyện vọng và ý chí của đảng.

Nói lại những điều này hôm nay, cũng là để thấy rằng “Ủy ban Đoàn kết Công giáo” chỉ là một tổ chức giả danh Công giáo, dù nấp bóng dưới hình thức và tên gọi nào, thì bản chất của nó vẫn là thế.

Tiếc rằng, hiện nay, theo con số không chính thức, vẫn còn có khoảng 103 linh mục trong cả nước tham gia vào cái gọi là Ủy ban Đoàn kết với nhiều lý do khác nhau: muốn được dễ dãi, tham gia cho vui, sợ, hay vì một lý do nào khác. Dù với bất cứ lý do gì, thì đã tới lúc các vị cần can đảm quay trở lại, để không còn phải nghe ai nói: “Theo Chúa nửa vời, một đời uổng công”, nhất là để chung tay đưa cái gọi là “Ủy ban Đoàn kết’ xuống mồ như ý chí và nguyện vọng của mọi thành phần Dân Chúa Việt Nam.

Lm. Chân Tín
DCCT, Nhà Thờ Kỳ Đồng, P9, Q3   

Diễn biến ngoài phiên toà xử các nhà hoạt động XHDS thuộc HAEDC

 
 

Diễn biến ngoài phiên toà xử các nhà hoạt động XHDS thuộc HAEDC sáng 5-4-2018 tại HN.

Nhiều người đi đến dự toà có mang khẩu hiệu DÂN CHỦ KHÔNG PHẢI LÀ TỘI.

FB Trịnh Bá Phương : phóng viên AFP vừa cho biết mẹ tôi ( Bà Cấn Thị Thêu) và nhiều người đã bị bắt.
Trước đó họ đã bắt Nguyễn Thuý Nguyễn Thúy Hạnh

( Tin ảnh FB )

Image may contain: 2 people, people sitting and text
Image may contain: 4 people, people standing
Image may contain: 1 person, text
 

Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ

httpv://www.youtube.com/watch?v=VZ8YsBpE-bs

Viet Nam Que Huong Ngao Nghe (Nguyen Duc Quang) BHXNK

Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ

Nhạc sĩ : Nguyễn Đức Quang
Ban Hợp xướng Ngàn Khơi
Video Full HD.

Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ 
Tác Giả: Nguyễn Đức Quang 
———————————————————- 
Ta như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn 
Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang 
Lê sau bàn chân gông xiềng một thời xa xăm 
Đôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loàng xoàng

Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người 
Nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi 
Nụ cười xa vời nụ cười của lòng hờn sôi 
Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian

Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại 
Xương da thịt này cha ông ta miệt mài 
Từng ngày qua 
Cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi 
Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang 
Trên bàn chông hát cười đùa vang vang 
Còn Việt Nam 
Triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng

Ta như giống dân đi tràn trên lò lửa hồng 
Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm 
Da chân mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân trời 
Ôm vết thương rĩ máu ta cười dưới ánh mặt trời 
Ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người 
Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam 
Làm người ngang tàng điểm mặt mày của trần gian 
Hỡi những ai gục xuống ngoi dậy hùng cường đi lên

*
Video Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ 
Ban Hợp xướng Ngàn Khơi