Hai anh em nhà Wright

Ky Nguyen

 Hai anh em nhà Wright

Hai anh em nhà Wright, Orville và Wilbur Wright, là những người đầu tiên thử nghiệm thành công làm cho máy bay bay được. Chuyến bay đấu tiên trong lịch sử nhân loại được thực hiện vào ngày 17/12/1903 tại đồi Kill Devil, Kitty Hawk, bang Bắc Carolina, Mỹ. Mỗi anh em thực hiện hai chuyến bay vào ngày hôm đó. Lần bay đầu tiên, do Orville thực hiện kéo dài 12 giây và bay được khoảng 36.5mét (120 ft).

Lần bay cuối cùng, do Wilbur thực hiện kéo dài 59 giây và đi được 296 mét. Chiếc máy bay lúc đó được gọi là Flyer I. Nó có sải cánh khoảng 12 mét và nặng khoảng hơn 300kg, với động cơ xăng 12 mã lực. Hiện nay nó đang được đặt tại Viện bảo tàng Hàng không và Không gian Quốc gia Hoa Kỳ tại Washington, D. C..

Điều đặc biệt là cả hai người đều chưa từng học qua trường đào tạo kỹ sư hay nhận được bất cứ bằng cấp chuyên môn nào. Thành công của họ đến từ niềm đam mê khoa học kỹ thuật cộng với nỗ lực tìm tòi học hỏi không ngừng. Thiên tài của hai anh em nhà Wright đã biến giấc mơ từ ngàn xưa của loài người thành sự thật.

NHÀ BÁO PHẠM ĐOAN TRANG BỊ AN NINH “MỜI ĐI” VÌ “CHÍNH TRỊ BÌNH DÂN”

NHÀ BÁO PHẠM ĐOAN TRANG BỊ AN NINH “MỜI ĐI” VÌ “CHÍNH TRỊ BÌNH DÂN”

Khoảng hai giờ chiều hôm nay, ngày 24 tháng 2 năm 2018, hai an ninh Bộ công an đã đến nhà riêng của nhà báo Phạm Đoan Trang lừa mẹ chị mở cửa cho vào trong nhà và đưa chị đi mất. Từ lúc đó đến nay mẹ chị không còn liên lạc được với con gái.

Họ đi xe hơi đến trước chung cư Lê Đức Thọ, hai an ninh, một nam, một nữ lên nhà đưa Trang đi, những người khác ở dưới đứng chờ. Hai an ninh này chính là nhưng người đã bắt giữ tuỳ tiện, ép Trang làm việc sau khi nhà báo tiếp xúc với phái đoàn EU mấy tháng trước.

Không văn bản, giấy tờ, họ yêu cầu Đoan Trang đi theo bằng miệng. Lý do đưa ra là để làm rõ về quyển sách Chính Trị Bình Dân mà chị viết.

Tác giả của cuốn Chính Trị Bình Dân mới đây vừa được tổ chức nhân quyền quốc tế People in Need trao giải thưởng Homo Homini. Đây là một giải thưởng vinh dự, không có hiện vật nhằm vinh danh những cá nhân “có cống hiến cho sự phát triển về nhân quyền, dân chủ, và giải pháp phi bạo lực cho xung đột chính trị”.

Về cuốn sách Chính Trị Bình Dân, đó là một quyển sách chính trị vô cùng hữu ích cho người Việt. Quyển sách với những giá trị học thuật cao được trình bày một cách dễ hiểu cho người đọc; mong muốn của tác giả là những người dân bình thường nhất qua ngòi bút của chị cũng có thể hiểu rõ về chính sách, chính trị và xã hội…

Sách dày khoảng 500 trang và hiện đang được bán rộng khắp trên Amazon. Theo như chị cho biết thì quyển sách vừa được chỉnh sửa và tái bản lại lần hai với một số thay đổi.

Việc in ấn sách vô cùng khó khăn và liên tiếp gặp phải sự cản phá từ phía an ninh. Khi chị ở nhà riêng thì thường xuyên bị phá bằng cách cắt điện, cắt nước và cắt mạng Internet. Để tránh tình trạng bị giam lỏng tại nhà và sự phá rối đang làm ảnh hưởng đến sinh hoạt của mẹ già, cũng như thuận tiện cho việc xuất bản sách nhà hoạt động phải rời khỏi nhà, ở nhờ nhiều nơi khác nhau.

Tết Nguyên Đán đến, không đành lòng để mẹ đón Tết một mình, Đoan Trang quyết định về nhà để ăn Tết với mẹ thì trưa mồng 9 Tết, chị lại bị an ninh đến đưa đi trước mặt mẹ mình.

( Tin Copy FB Trịnh Kim Tiến )

No automatic alt text available.

Thảm cảnh giáo dục Việt Nam thời nay

Tiếc nuối vô cùng nền giáo dục nhân bản, khoa học và khai phóng của Việt Nam Cộng Hoà trước năm 1975, đã đào tạo biết bao nhân tài.

Thảm cảnh giáo dục Việt Nam thời nay (báo trong nước)

 Thứ sáu, 24/02/2017

(Cư dân mạng) – Có lẽ chưa bao giờ vấn đề chất lượng giáo dục lại được đem ra bàn luận nhiều như thời điểm hiện tại. Khi chưa đầy một tháng lại liên tiếp xảy ra hàng loạt vụ việc gây búc xúc cho toàn xã hội. Dư luận có quyền đặt ra câu hỏi: Liệu nền giáo dục Việt Nam sẽ ra sao? Đạo đức học đường có đang bị tha hóa? Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ sẽ chịu trách nhiệm thế nào trước những vụ việc thương tâm này?

 Chất lượng giáo dục ngày càng “xuống cấp” trầm trọng

Theo thống kê cả nước có 1.088 nghìn người trong độ tuổi lao động thất nghiệp. Trong đó, có 418.200 người có chuyên môn kỹ thuật bị thất nghiệp, chiếm tới 40%, 191.300 người có trình độ từ đại học trở lên, 94.800 người có trình độ cao đẳng chuyên nghiệp và 59.100 người có trình độ trung cấp chuyên nghiệp. Hiện cả nước ta có khoảng 6.600 giáo sư, nhưng khi xét về năng lực trình độ thì chỉ có khoảng 15 – 20% tương xứng. Tại sao câu chuyện bằng cấp một đằng năng lực một nẻo lại diễn ra công khai như thế? Vì sao lại có nghịch lý “học càng cao thất nghiệp càng cao” như vậy? Phải chăng việc “mua bằng chạy chức” vẫn còn tồn tại, và ngày càng diễn biến phức tạp?

Sinh viên ra trường và nỗi lo thất nghiệp

Chúng ta đã từng nghe câu chuyện của em sinh viên đã qua 12 năm đèn sách, tốt nghiệp đại học mà không viết nổi một đơn xin việc. Hay vụ em Lâm Sơn Vũ học sinh trường tiểu học Lý Đạo Thành, trong thời gian học từ lớp 1 đến lớp 6 em Vũ không biết đọc, chỉ viết mỗi cái tên của mình nhưng vẫn ung dung lên lớp. Không chỉ có trường hợp của em Vũ, mà còn nhiều trường hợp học sinh được lên lớp 2 không biết đọc, viết tại trường Tiểu học thị trấn Lịch Hội Thượng A (tỉnh Sóc Trăng). Vấn đề là tại sao các em học sinh không biết đọc, biết viết nhưng nhà trường vẫn cho các em lên lớp? Chẳng lẽ vì chạy theo “thành tích” mà ngành giáo dục sẵn sàng cho ra những “sản phẩm lỗi” như thế chăng? 

Đạo đức nghề giáo ngày càng tha hóa

Đã có quá nhiều vụ việc đau lòng trong ngành giáo dục liên tiếp diễn ra. Hai cô giáo trường Mầm non Sen Vàng Hà Nội cầm dép đập vào mặt, dùng đầu gối thúc vào bụng trẻ chỉ vì trẻ tè ra quần. Hay vụ hiệu trưởng có 10 năm kinh nghiệm tại trường Mầm non Apollo quận Bình Thạnh, TP.HCM dốc ngược đầu trẻ và doạ ném ra cửa sổ, chỉ vì trẻ không chịu ăn. Cô giáo trường Tiểu học huyện Tân Trụ tỉnh Long An, đánh 20 roi vào lòng bàn tay học sinh vì không thuộc bài. Bé nào không chịu được mức phạt rút tay lại, thì bị cô tăng mức phạt lên gấp đôi. Còn vụ thầy giáo dạy toán và nữ sinh lớp 10 ở Trường PTTH Tầm Vu, Hậu Giang đánh nhau túi bụi giữa lớp học, trước sự chứng kiến của hàng chục học sinh, chỉ vì lời thách đố.

Hình ảnh cô giáo trường mầm non Sen Vàng dùng dép tổ ong đánh vào đầu trẻ gây bức xúc dư luận.

Mới đây, vụ hiệu trưởng trường Tiểu học Nam Trung Yên (Hà Nội) bà Tạ Thị Bích Ngọc, ung dung ngồi trong taxi đi vào trường học. Khi chiếc xe gây tai nạn khiến học sinh Trần Chí Kiên bị gãy xương đùi, chỉ bằng trò phát phiếu khảo sát với kết quả không có chiếc xe nào đi vào trường học, hiệu trưởng đã biến có thành không, đổi đen thành trắng. Được biết bà Ngọc từng chỉ đạo thủ kho lập “quỹ đen”, bớt khẩu phần ăn hằng ngày của hơn 400 học sinh và đã bị lôi ra ánh sáng. Tuy vụ việc được phanh phui nhưng bà Ngọc không bị xử lý mà còn được “chuyển công tác” đến ngôi trường khang trang hơn. Câu chuyện của bà Ngọc hôm nay, chính là hệ quả của cách xử lý “bao che” bà Ngọc hôm xưa mà thành.

Cháu Trần Chí Kiên bị gãy rời xương chân và trò khảo sát của bà hiệu trưởng.

Một câu chuyện khác gây chấn động dư luận trong một thời gian dài đó là UBND thị xã Hồng Lĩnh (Hà Tĩnh) điều động 21 nữ giáo viên công tác tại các trường mầm non, tiểu học, THCS trên địa bàn đi “tiếp khách” rót rượu hát karaoke cho quan khách tại Hà Tĩnh. Khi vụ việc được nhắc tới trong phiên chất vấn quốc hội, thì đích thân Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cho rằng đây chỉ là vui vẻ thôi”.

Quá nhiều vụ việc ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục, nhân cách đạo đức, văn hóa ứng xử trong ngành giáo dục. Liệu ngành giáo dục có còn gánh nổi trọng trách đào tạo nhân tài cho đất nước nữa hay không?

 Ông là người đứng đầu ngành giáo dục, một nghề vốn được xem là cao quý, mang trọng trách giáo dục đạo đức, đào tạo nhân tài cho đất nước mà lại trả lời như thế? Chẳng những không lấy gì làm lạ, mà Bộ trưởng còn xem đó là bình thường và gọi đây chỉ là “chuyện vui vẻ”. Đạo đức của nghề nhà giáo ở đâu? Liệu Bộ trưởng có đang tự hạ thấp danh dự, nhân phẩm của những người làm giáo dục hay không?

 

 

 

 

 

 

 

 

Điều giáo viên đi “tiếp khách”, lần sau đến lượt nữ sinh?

Mặc dù nền giáo dục Việt Nam đã nhiều lần cải cách, tuy đã đổi cách giảng dạy, soạn lại sách giáo khoa, tiêu tốn bao nhiêu ngân sách, nhưng chất lượng vẫn còn bị “bỏ ngỏ”? Đạo đức nghề giáo là cốt lõi nhưng ngày càng tha hóa. Dư luận có quyền đặt ra câu hỏi: Người làm nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân tài cho đất nước mà đạo đức như thế thì họ sẽ nhào nặn được những gì cho đất nước? Liệu tương lai đất nước có tương sáng hay bị hủy hoại bởi nền giáo dục hiện tại? Đừng trách ai cả mà phải trách chính những người đứng đầu ngành.

Căn nguyên thói hư tật xấu của người Việt

Ky Nguyen
Căn nguyên thói hư tật xấu của người Việt đã có từ trước qua nhận định của các bậc trí thức. Xin nêu vài nét điển hình: 

– Không lo xa, dễ thoả mãn 
– Ăn xổi ở thì, chưa lo làm đã lo phá 
– Dùng nhiều thủ thuật gian lận 
– Ăn xén bòn rút của công 
– Thói vô trách nhiệm
– Thói cơ hội chủ nghĩa, thủ lợi về mình
– Không có can đảm nhận sự sai lầm
– Thiếu tinh thần cầu tiến
– Tham lam ích kỷ cạnh tranh nhỏ nhặt
– Không tôn trọng chuẩn mực đạo lý nhân bản
– Giả dối, lừa lọc, kiêu ngạo, háo danh
– Ý thức quốc gia thức tỉnh quá chậm
– Làm ra vẻ yêu nước để mưu lợi riêng
– Vì lợi nhuận bất chấp sự tàn ác
– Dân trí thấp kém

Tướng LÊ ĐỨC ANH đã chết.

nguồn:  Hoang Le Thanh added 3 new photos — with Phan Thị Hồng.

Tướng LÊ ĐỨC ANH đã chết.

Đúng 9 giờ 41 phút ngày 23/2/2018, tướng Lê Đức Anh nguyên Chủ tịch nước, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã chết.

Thành tích nổi bật của tướng Lê Đức Anh là người trên cương vị Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Lê Đức Anh đã ra lệnh cấm các chiến sĩ Hải quân Nhân dân VN bảo vệ lãnh thổ bắn trả khi bị quân Trung cộng tấn công xâm lược.

Do đó, 64 chiến sĩ Hải quân NDVN trên đảo Gạc ma đã bị quân Trung cộng thảm sát và đảo Gạc ma đã bị Tàu cộng chiếm đóng từ ngày 14/3/1988.

Tướng Lê Đức Anh đã không có biện pháp phản công, tự nguyện để một phần lãnh thổ máu mủ của Tổ Quốc Việt Nam rơi vào tay giặc Tàu xâm lược.

Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh đã kết tội tướng Lê Đức Anh là tên PHẢN QUỐC (xin xem hình 3).

*

Nhắc lại bài viết trước đây của ́ nhà báo Huy Đức.

Bài viết của nhà báo Huy Đức có đoạn vạch tội cha con nhà Lê Đức Anh được ăn chia nhiều đất đai tài sản, như bao nhiêu tên tướng lĩnh quân đội khác.

Huy Đức đã chỉ trích và phanh phui những việc làm nhơ nhớp của cha con nhà Lê Đức Anh như được chia chiến lợi phẩm không ít, điều này cho ta thấy đám tướng lĩnh quân đội giải phóng miền Nam đã cướp bao nhiêu đất đai, biệt thự chia cho nhau mà nhà báo Huy Đức đã dũng cảm mỉa mai với từ ” chiến lợi phẩm ” trong ngoặc kép.

Chứng mình cho việc giải phóng miền Nam chỉ là một cuộc ăn cướp của quân đội Bắc Việt không hơn, không kém.

Chẳng phải hào hùng hay công trạng gì như lũ chúng thường rêu rao bao nhiêu năm nay.

Tên cai đồn điền cao su đã chết trong ô danh, nhục nhã.

*
Chi tiết nguồn: Bài viết của Nhà báo Huy Đức đã bị ẩn, xin vui lòng xem chi tiết nguồn của Blogger Người Buôn Gió tại: 
https://www.google.com.vn/…/dong-den-le-duc-anh-nguyen…/amp/

Image may contain: 1 person
Image may contain: 6 people, people smiling, people standing
Image may contain: 1 person, text
 

Dư luận xôn xao về bệnh tình của nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải

Dư luận xôn xao về bệnh tình của nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải

2018-02-23
 

Nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải phát biểu tại Quốc hội ở Hà Nội hôm 16/6/2006.

Nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải phát biểu tại Quốc hội ở Hà Nội hôm 16/6/2006.

 AFP
 

Báo chí trong nước hôm 21/2 loan tin nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải, bị bệnh nặng và phải đưa sang Singapore rồi sau đó chuyển về bệnh viện  Chợ Rẫy, thành phố Hồ Chí Minh để các bác sĩ theo dõi, điều trị. Tuy nhiên không có bất cứ thông tin nào về bệnh tình cụ thể của ông Phan Văn Khải.

Ông Phan Văn Khải, năm nay 85 tuổi, là người giữ chức Thủ tướng Việt Nam giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2006.

Theo Vietnamet, sức khỏe của ông Phan Văn Khải đã chuyển biến xấu từ hồi trước Tết Mậu Tuất. Ông được đưa sang Singapore để điều trị nhưng sau đó được chuyển về bệnh viện Chợ Rẫy vào ngày 21/2.

Nhiều lãnh đạo và cựu lãnh đạo cao cấp của Việt Nam khi lâm bệnh nặng thường được điều trị ở nước ngoài như Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore, Hoa Kỳ. Ví dụ điển hình như cựu Bí thư Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh được điều trị ở Mỹ một thời gian rồi sau đó được chuyển về nước trước khi qua đời hồi năm 2015.

Đồng thời với tin về sức khỏe của Thủ tướng Phan Văn Khải, nhiều báo trong nước cũng đồng loạt đăng tiểu sử của ông, điều thường được làm khi một lãnh đạo nào đó đã qua đời.

Một số nhà báo, những người đã từng biết ông Khải đã đưa tin về tình hình sức khỏe của ông Khải trên mạng xã hội  nhưng cũng không đưa chi tiết ông bị bệnh gì.

Nhà báo Huy Đức viết trên trang facebook cá nhân hôm 22/2, cho biết ông đã vào thăm ông Khải ở bệnh viện và chứng kiến ông nằm trong phòng săn sóc đặc biệt với nhiều phương tiện hỗ trợ.

Nhà báo Huy Đức cũng ca ngợi Thủ tướng Phan Văn Khải là người đã thực hiện tốt các ý tưởng cải cách, biến chúng thành chính sách trong môi trường chính trị Việt nam.

Những thiên tài không bằng cấp

 Những thiên tài không bằng cấp

Họ là những nhà khoa học, nhà văn, nhà chính trị lỗi lạc trong lịch sử nhân loại. Dù không có điều kiện để theo học bất cứ chương trình đào tạo chính quy nào, nhưng bằng niềm đam mê, sự ham học, và ý chí nỗ lực không mệt mỏi của bản thân, họ đã vươn lên và toả sáng như những vì tinh tú trên bầu trời lịch sử của nhân loại… 

(hãy đọc kỹ bài này để càng thêm “tâm phục, khẩu phục” những thiên tài đảng ta trong 70 năm qua đã không hề tốt nghiệp một trường nào dù là bậc tiểu học, họ quả thật “xứng đáng” là thiên TAI  của dân tộc VN)

Huyền thoại “thiên tài không bằng cấp”

  1. Frederick Douglass

Một trong những tấm gương tự học nổi tiếng trong lịch sử là Frederick Douglass. Ông sinh năm 1818 trong một gia đình nô lệ ở Maryland. Khi còn là một đứa trẻ ông đã tự mày mò học chữ khi gia đình ông đang sống ở Baltimore, kể từ đó ông luôn tự tìm cơ hội trau dồi thêm kiến thức bằng cách đọc thật nhiều.

Vào năm 20 tuổi, ông thoát khỏi chế độ nô lệ và định cư ở Massachusetts. Tại đây ông vẫn tiếp tục con đường tự học, tự đào tạo và sau đó ông trở thành một trong những nhà văn, một người theo chủ nghĩa bãi nô có tầm ảnh hưởng quan trọng nhất trong lịch sử nước Mỹ.

  1. Ando Tada

Ando Tada là một kiến trúc sư nổi tiếng người Nhật dù ông chưa hề qua một trường lớp đào tạo về kiến trúc nào. Ông đã từng kiếm sống bằng nghề tài xế, làm một võ sĩ quyền Anh, và là một thợ mộc trước khi tự học để trở thành một kiến trúc sư. Ông đã từng một mình thực hiện một chuyến đi từ Đông sang Tây để tự quan sát và học hỏi về nghệ thuật kiến trúc bằng cách đến thăm những công trình nổi bật trên thế giới. Năm 1969, ông thành lập hãng kiến trúc Ando Tadao.

Công trình nhà lô ở Sumiyoshi (Azuma House), hoàn thành năm 1972 là công trình đầu tiên bộc lộ những đặc điểm kiến trúc của ông. Năm 1995, Ando được nhận giải thưởng Pritzker và 100.000 đô la Mỹ. Ông đã tặng số tiền đó cho những trẻ em mồ côi trong cuộc động đất Hanshin.

  1. Janes Goodall

Tiến sĩ Janes Goodall, một trong những nhà hoạt động bảo vệ môi trường nổi tiếng thế giới, đồng thời là sứ giả hoà bình của Liên hiệp quốc, là một nhà nghiên cứu nổi tiếng người Anh trong lĩnh vực bảo vệ động vật hoang dã. Năm 1960, khi ngoài 20 tuổi, bà đã đến Kenya, châu Phi để nghiên cứu về tập tính và đời sống của loài tinh tinh. Bà đã có 40 năm sống và làm việc ở châu Phi và những nghiên cứu của bà được nhiều người đánh giá là “đã ảnh hưởng đến toàn thế giới nói chung và thế giới động vật nói riêng”. Điều thú vị về bà là phần lớn những công trình nghiên cứu khoa học quan trọng của bà được thực hiện khi bà chưa qua một trường lớp đào tạo nào.

TS Janes Goodall đã được trao tặng nhiều danh hiệu cao quý và giải thưởng về bảo tồn động vật hoang dã; Đại sứ hoà bình của Liên hợp quốc năm 2002; Huy chương Benjamin Franklin vì sự nghiệp khoa học năm 2003. Bà còn được biết đến với tên gọi “người phụ nữ của tinh tinh”.

  1. Michael Faraday

Michael Faraday là một nhà Hóa Học và Vật Lý người Anh đã có công đóng góp cho lĩnh vực Điện từ học và Điện hóa. Là con thứ ba trong một gia đình nghèo có bốn người con, cậu bé Faraday chỉ có được những kiến thức cơ bản nhất từ nhà trường, nhưng bù lại cậu là một đứa trẻ ham học và đã nổ lực tự học không mệt mỏi.

Năm 14 tuổi Faraday học việc ở một cửa hiệu sách, và trong suốt 7 năm học việc, ông đã đọc được rất nhiều sách, trong đó có sách của Isaac Watts, quyển mở mang trí tuệ, ông say mê tiến hành các nguyên lý và quan điểm trong quyển sách. Từ đó ông đã biểu lộ niềm đam mê khoa học, nhất là trong lĩnh vực điện năng.

Mặc dù Faraday được đào tạo ở trường rất ít và biết ít về toán cao cấp, nhưng ông là một trong những nhà khoa học có uy tín trong lịch sử khoa học. Ông là vị giáo sư hóa học đầu tiên và lỗi lạc nhất của Viện Hoàng Gia Anh Quốc, và đã giữ vị trí này trong suốt cuộc đời.

  1. Hai anh em nhà Wright

Hai anh em nhà Wright, Orville  Wilbur Wright, là những người đầu tiên thử nghiệm thành công làm cho máy bay bay được. Chuyến bay đấu tiên trong lịch sử nhân loại được thực hiện vào ngày 17/12/1903 tại đồi Kill Devil, Kitty Hawk, bang Bắc Carolina, Mỹ. Mỗi anh em thực hiện hai chuyến bay vào ngày hôm đó. Lần bay đầu tiên, do Orville thực hiện kéo dài 12 giây và bay được khoảng 36.5mét (120 ft).

Lần bay cuối cùng, do Wilbur thực hiện kéo dài 59 giây và đi được 296 mét. Chiếc máy bay lúc đó được gọi là Flyer I. Nó có sải cánh khoảng 12 mét và nặng khoảng hơn 300kg, với động cơ xăng 12 mã lực. Hiện nay nó đang được đặt tại Viện bảo tàng Hàng không và Không gian Quốc gia Hoa Kỳ tại Washington, D. C..

Điều đặc biệt là cả hai người đều chưa từng học qua trường đào tạo kỹ sư hay nhận được bất cứ bằng cấp chuyên môn nào. Thành công của họ đến từ niềm đam mê khoa học kỹ thuật cộng với nỗ lực tìm tòi học hỏi không ngừng. Thiên tài của hai anh em nhà Wright đã biến giấc mơ từ ngàn xưa của loài người thành sự thật.

  1. Srinivasa Ramanujan

Srinivasa Ramanujan là nhà toán học huyền thoại người Ấn Độ, nổi tiếng là người dù không được đào tạo bài bản về toán học lý thuyết nhưng đã có nhiều đóng góp quan trọng cho nhiều ngành toán học như giải tích, lý thuyết số, dãy vô hạn. Ông sinh ra và lớn lên tại Erode, Tamil Nadu, Ấn Độ và làm quen với toán học từ năm lên 10 tuổi.

Ông bộc lộ năng khiếu đặc biệt về toán khi được tặng một quyển sách lượng giác cao cấp của S L Loney. Năm 13 tuổi ông đã thành thục quyển sách này và bắt đầu tìm cách tự phát minh ra các định lý toán học. Năm 17 tuổi ông tự nghiên cứu về số Bernoulli và hằng số Euler-Mascheroni.

Trong quãng đời ngắn ngủi của mình (1887-1920), Ramanujan đã độc lập công bố gần 3..900 kết quả nghiên cứu phần lớn thuộc lĩnh vực phương trình và đồng nhất thức, mà ngày nay hầu hết đã được công nhận là chính xác. Tạp chí Ramanujan ra đời để công bố các nghiên cứu toán học có ảnh hưởng từ các công trình của ông.

  1. Mark Twain

Mark Twain, một tên tuổi lớn trong nền văn học Mỹ, tên thật là Samuel Langhorne Clemens. Gia cảnh của ông khá chật vật và túng thiếu; năm 12 tuổi, sau khi cha qua đời vì căn bệnh viêm phổi, Mark Twain phải kiếm sống bằng nghề sắp chữ. Có thời gian ông phải bỏ học, theo nghề lái tàu để kiếm sống.

Sau đó, ông tiếp tục tự học ở các thư viện công cộng tại những thành phố mà ông sinh sống và bắt đầu dấn thân vào công việc của một nhà báo. Những cuộc hành trình lênh đênh trên miền sông nước trước đó đã trở thành cảm hứng thôi thúc ông viết nên những kiệt tác như Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer, Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn, Cuộc sống trên sông Mississippi…

  1. Steven Paul Jobs

Steven Paul Jobs là một tỷ phú, là ông trùm kinh doanh và sáng chế người Mỹ. Ông là đồng sáng lập viên, chủ tịch, và cựu tổng giám đốc điều hành của hãng máy tính Apple; ông cũng từng là tổng giám đốc điều hành của xưởng phim hoạt hình Pixar (hãng sở hữu nhiều giải oscar cho phim hoạt hình hay nhất như Đi tìm Nemo, Gia đình siêu nhân, Chú chuột đầu bếp, WALL-E, Up và Câu chuyện đồ chơi 3; sau đó ông trở thành thành viên trong ban giám đốc của công ty Walt Disney sau khi Disney mua lại Pixar.

Jobs sinh ra tại thành phố San Francisco, bang California, là con nuôi của Paul và Clara Jobs. Ông theo học trường trung học Cupertino và Homestead tại thành phố Cupertino, bang California. Năm 1972, Jobs tốt nghiệp trung học và đăng kí vào học tại cao đẳng Reed College ở Portland, bang Oregon, nhưng bị đuổi chỉ sau 1 học kỳ.

Mặc dù vậy ông vẫn tiếp tục dự thính các lớp học tại Reed, trong đó có một lớp học viết chữ đẹp. Trong thời gian “học ké” đó, ông phải ngủ dưới sàn nhà của những người bạn, đổi lon nước ngọt để lấy tiền ăn và nhận các suất ăn miễn phí mỗi tuần tại đền Hare Krishna. Sau này Jobs bày tỏ rằng: “Nếu tôi chưa từng tham dự những khoá học lẻ đó tại trường, Mac sẽ không bao giờ có có nhiều kiểu chữ hay phông chữ cách nhau tỉ lệ cân xứng như vậy”.

  1. A braham Lincoln

Là vị Tổng thống thứ 16 trong lịch sử Hoa Kỳ. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, cha mẹ ông là những nông dân mù chữ. Ông không có điều kiện đi học chính thức. Thời gian theo học thực sự của ông có lẽ chỉ kéo dài 18 tháng do các giáo viên không chuyên nghiệp dạy. Kiến thức của ông chủ yếu có được từ việc tự học qua việc đọc mọi cuốn sách có thể mượn được, từ Kinh Thánh, đến các sách tiếu sử, và sách văn chương.

Ông thông thạo Kinh thánh, các tác phẩm của William Shakespeare, lịch sử Anh và lịch sử Mỹ, ngoài ra ông còn học được phong cách trình bày giản dị trước thính giả. Ông dành nhiều thời gian đọc sách đến nỗi những người hàng xóm cho rằng ông cố tình làm vậy để khỏi phải làm những công việc chân tay nặng nhọc.

Lincoln nổi tiếng nhất với vai trò gìn giữ Hợp chủng quốc và chấm dứt chế độ nô lệ tại Hoa Kỳ với bản Tuyên ngôn Giải phóng và Sửa đổi thứ mười ba của Hiến pháp Hoa Kỳ về việc bác bỏ̉ chế độ nô lệ.

  1. Henry Ford

Nếu con bạn luôn tìm cách đối phó với việc học mà thay vào đó là ngồi lỳ lau chùi chiếc xe máy thì đừng vội buồn. Biết đâu bé sẽ có thể trở thành Henry Ford của Việt Nam.

Henry Ford ngày nhỏ cũng lười học và say mê sửa chữa đồ cũ, hỏng. Máy móc có sức quyến rũ với ông một cách kỳ dị. Năm ông mười hai tuổi, ông đã bắt chước chế tạo được một máy nhỏ chạy bằng hơi nước. Năm hai mươi tám tuổi, khi là một công nhân điện ông quyết tâm theo đuổi chinh phục phát minh máy nổ của người Đức.

Thành công đã tới với người kiên trì bền bỉ, 5 năm sau chiếc xe hơi đầu tiên của thế giới chào đời. Tuy nó cao lồng cồng, không mui, không thắng và chạy dật lùi được, tốc độ tối đa 30 km/giờ.

Vài năm sau ông thành lập Công ty xe hơi Detroit rồi Công ty xe hơi Cadillac. Tuy không được học hành bài bản nhưng Henrry có đầu óc lãnh đạo tuyệt vời. Bên cạnh việc những mẫu xe hơi liên tục được cải tiến nâng cao chất lượng và mẫu mã với nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng, Henrry có chiến lược phát triển hoàn hảo.

Năm 1906 ông sản xuất được 8.400 chiếc xe; bốn năm sau, con số đó tăng lên 34.000; một năm sau nữa, nó tăng lên 78.000; và tới năm 1927 thì mỗi ngày ông sản xuất được 7.000 chiếc xe, tính ra cứ 7 giây đồng hồ, có một chiếc xe hơi ở trong xưởng ông từ từ chạy ra để được gửi đi khắp thế giới.

  1. Soichiro Honda

Năm 1980, Soichiro Honda đã được tạp chí uy tín “People” vinh danh là “người đặc biệt nhất của năm”, còn thế hệ nay coi ông như một “huyền thoại Henry Ford của Nhật Bản”.

Từ tuổi thơ khốn khó đến địa vị Chủ tịch tập đoàn Honda hùng mạnh, chuyện nghề, chuyện đời của Soichiro Honda đã trở thành huyền thoại “thiên tài không bằng cấp”.

Khi mới 2 tuổi, cậu bé Soichiro đã bị thu hút và thích mày mò chiếc cối xay gió. Lớn thêm chút nữa, cậu tự “chế tạo” chiếc máy bay đồ chơi bằng tre có gắn “động cơ” làm bằng dây cao su. Cậu suốt ngày lấm lem mặt mũi do hay giúp đỡ cha mình trong xưởng đến mức bạn bè đặt cho cậu biệt danh “chú chồn nhọ mũi”.

Chú chồn nhọ mũi” không ham thích học hành, chỉ quan tâm đến những môn kỹ thuật và bảng điểm của cậu dở tệ. Năm 15 tuổi, Soichiro Honda bỏ học để lên Tokyo học nghề tại xưởng cơ khí ôtô Shokai, thắp lửa niềm đam mê cùng tốc độ mãi cho tới sau này.

Bốn năm sau, Honda đã mở xưởng sản xuất của riêng mình. Chỉ sau một thời gian ngắn, xưởng sản xuất “doanh nghiệp một thành viên” cho ra đời xe đạp gắn động cơ. Ngay lập tức, Sản phẩm len lỏi khắp các ngõ ngách ở Nhật Bản.

Từ đây, Honda Technical Research Institute của ông đã thành công và không ngừng phát triển. Đến năm 1948, Công ty Honda Motor Co. Ltd được thành lập và trở thành một tập đoàn số 1 thế giới về sản xuất xe máy, top 10 sản xuất ô tô.

  1. Bill Gates

Tại khuôn viên trường Harvard mang tên “Harvard Crimson” có một tấm biển ghi“Bill Gates là người bỏ học thành công nhất của Harvard”, trong khi phần còn lại của thế giới vẫn gọi ông là “người đàn ông giàu nhất thế giới” trong hơn một thập kỷ qua. Bây giờ, mặc dù không giữ vị trí dẫn đầu, ông vẫn còn trong danh sách những người giàu có của thế giới…

Gates nhập học tại Harvard vào mùa thu năm 1973. Hai năm sau, ông ta đã bỏ học để thành lập công ty Microsoft với người bạn Paul Allen. Sau khi thành danh, Bill Gate mới quay trở lại trường để tiếp tục sự nghiệp học hành… Và trong năm 2007, cuối cùng ông cũng nhận được học vị Tiến sĩ danh dự từ trường cũ của mình.

Khi được mời phát biểu tại buổi lễ phát bằng tốt nghiệp cho sinh viên Havard, Bill Gates nói: “Tôi là một ví dụ xấu. Đó là lý do tại sao tôi được mời tới đây để nói chuyện tốt nghiệp của bạn.. Nếu gặp tôi trước khi nhập học, có thể số lượng sinh viên chuẩn bị tốt nghiệp có mặt ở đây sẽ ít hơn nhiều.”

  1. Frank Lloyd Wright

Theo kiến trúc sư nổi tiếng nhất của Mỹ, Wright đã dành nhiều thời gian hơn vào việc thiết kế các trường cao đẳng, đại học hơn là tham dự các lớp học trong đó. Sau khi dành một năm học tại Đại học Wisconsin-Madison, ông bỏ học để đến Chicago và trở thành một người học việc của Louis Sullivan, “cha đẻ của chủ nghĩa hiện đại”.

Trong sự nghiệp thiết kế và sáng tạo không ngừng nghỉ của mình, Wright đã tạo ra hơn 500 công trình kiến trúc kỳ vĩ, nổi tiếng nhất trong số đó là Fallingwater và New York City của Solomon R. Guggenheim Museum.

  1. Buckminster Fuller

Bị trục xuất khỏi Harvard hai lần, kiến trúc sư đồng thời là nhà phát minh vĩ đại người Mỹ Buckminster Fuller đã phải trải qua rất nhiều thăng trầm, biến cố. Một số ý tưởng kinh doanh ban đầu thất bại và trải qua nỗi đau đớn của việc mất đi cô con gái đầu lòng, ông tưởng chừng như không thể gượng dậy.

Tuy nhiên, ở tuổi 32, cuộc sống của Fuller bắt đầu thay đổi. Những ý tưởng sáng tạo của ông như các thiết bị ghép năng động áp dụng cho nhà ở và cả xe ôtô nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình từ công chúng. Đặc biệt là kết cấu xây vòm hình tượng của ông đã đưa tên tuổi của ông lên tầm cao mới và được quốc tế công nhận.

  1. Mark Zuckerberg

Bỏ học ở Harvard, Mark Zuckerberg phát triển Facebook trong ký túc xá trường mình. Bây giờ Facebook đã trở thành một trong những trang web phổ biến nhất trên thế giới mạng xã hội. Theo sự bùng phát của Facebook, Zuckerberg đã bỏ học để di chuyển địa điểm công ty của anh đến California..

Mark Zuckerberg đã chứng minh rằng quyết định của anh là sáng suốt. Theo Forbes, Zuckerberg là tỷ phú trẻ nhất thế giới, với trị giá tài sản năm 2010 là 4 tỷ USD. Tuy nhiên, mới đây Ông chủ Facebook nhận bằng tốt nghiệp Harvard sau 12 năm bỏ học.

Thầy Phó Tế Nguyễn Định gởi

CÁM ƠN BS Lê Nhàn

CÁM ƠN BS Lê Nhàn 

đã trả lời CHÂN THẬT, càng đọc, càng thắm thía 

BS Lê Nhàn

“Tính không trả lời câu hỏi này vì không có thời gian, bởi tuần này đổi thời khóa biểu nên suốt từ 7g tối qua đến 12g trưa nay tôi làm việc liên tục. Về nhà ngủ được một giấc rồi lại phải đi làm, đến giờ mới vừa ăn cơm xong.

Nhưng thôi, trả lời cho thỏa lòng người hỏi.

Nếu như có người hỏi là “Tại sao Nhàn Lê sinh ra lớn lên, học hành ở miền Bắc nhưng bây giờ lại nói người Bắc chúng tôi làm hỏng hết, rồi lại thích miền Nam, lại thích luôn cái chế độ miền Nam trước 1975 nữa… Nhàn Lê đã ăn cháo, đá bát”… nói chung là phụ bạc nơi nuôi mình khôn lớn.

– Vậy Nhàn Lê trả lời sao ?

Thưa các anh chị!

Thưa các bạn và các em!

Chính vì tôi đã nhìn quá rõ, tôi hiểu quá thấu nên tôi biết nó hỏng, và tôi nói ra sự thật là nó hỏng.

  1. Tại sao tôi làm bác sĩ?

Mẹ tôi nói “Con ạ, bây giờ đi bệnh viện mà không có tiền thì họ không chữa cho mình đâu”.

Tôi đã nói “Mẹ cố gắng mẹ nhé, lớn lên con sẽ làm bác sĩ, con chữa bệnh cho mẹ khi ấy mẹ sẽ không phải mất tiền nữa, còn bây giờ mẹ phải tìm moi cách để giữ lấy mạng sống của mình”.

Vì lời hứa của đứa trẻ 8 tuổi khi ấy đã thôi thúc tôi vượt qua rất nhiều khó khăn mà không thể kể hết của một đứa con nhà nghèo, đến ăn còn không đủ no, ăn 2 bữa cơm độn khoai cho no đã là quá sức của cha mẹ nó, bữa sáng là một điều xa xỉ.

Tôi hỏi ngược lại, nếu một xã hội tốt đẹp thì một đứa bé 8 tuổi nó có phải nghĩ tới vấn đề nhức nhối đó không? Hay nó được lớn lên với một tuổi thơ trong sáng, êm đềm và mơ mộng?

Cha mẹ tôi đã phải bán mặt cho đất, bán lưng cho trời để có được hạt gạo mà nuôi chị em tôi trong khốn khó, vậy TÔI PHẢI BIẾT ƠN AI?

– Vì đất nước phải bước vào thời kỳ quá độ để đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội, cho nên đảng và chính phủ đã tập trung xây dựng nên những con người mới XHCN.

Ở nông thôn, ông bà cha mẹ chúng tôi bị ép buộc vào hợp tác xã, nhưng hậu quả của nó như thế nào thì ai cũng thấy rõ, một ngày lao động (một công) được tính bằng 800 g thóc, toàn dân đói rã họng nhưng không ai được đi ngược lại chủ trương của đảng và nhà nước.

Không ai được trồng thêm củ sắn, củ khoai để cứu đói cho đàn con đang tuổi ăn, tuổi lớn của mình.

Chị em chúng tôi phải đi vớt bèo dưới cái lạnh cắt da, cắt thịt để nuôi lợn, con lợn ấy lớn lên phải bán nghĩa vụ cho hợp tác xã, nhìn họ cướp đi công sức của mình mà nước mắt lưng tròng, chúng tôi thèm nhỏ dãi miếng thịt nhưng không có ăn, đến tết thì hợp tác mới chia cho được mấy lạng… Để hậu quả kéo dài cho tới tận bây giờ cứ có mùi nhang là tôi lại thèm ăn thịt luộc (bởi hồi đó Tết thắp nhang cúng ông bà thì mới có thịt ăn một bữa liếm mép).

Ai đã nuôi tôi khôn lớn? Cha mẹ tôi hay đảng và chính phủ?

Ai đã cướp con lợn, ai đã cướp miếng thịt của chị em chúng tôi để giờ đây nói tôi đái bát?

Dưới cái lạnh cắt da cắt thịt của mùa đông, chúng tôi sống hoang dã như những đứa trẻ mà Giáo Sư Ngô Bảo Châu đã nhìn thấy và mô tả. Có ai cho tôi manh áo ấm không? Chúng tôi đi chân trần trên băng giá, có ai cho tôi đôi dép không hay chỉ biết đến cướp đi thành quả lao động của chúng tôi?

Và nếu hồi đó không có cái chủ trương vào hợp tác xã chết tiệt ấy thì chiều cao của tôi có lẽ hơn bây giờ ít nhất là 5 cm, khi đi ra quốc tế tôi có thể nhìn ngang chứ không phải như bây giờ là phải ngước lên và tự hỏi rằng “cao như thế có mát hơn không”.

Thời ấy muốn thịt con gà cũng phải giấu giếm đừng để nó kêu, bởi ăn thịt là có tội, mình nuôi nó lớn nhưng không được phép ăn mà phải bán cho nhà nước … để làm gì?

“Mỗi người làm việc bằng hai để cho cán bộ mua đài mua xe.

Mỗi người làm việc bằng ba để cho cán bộ xây nhà xây sân”

Như vậy phải hỏi tôi có hận hay không chứ? Tại sao tôi phải biết ơn, ơn ai? Ơn cái đứa chết tiệt nào nó đẻ ra cái chính sách vận hành ngu xuẩn và dốt nát thể? Để một thế hệ người Việt thấp còi và đần độn vì thiếu dinh dưỡng?

Ai nuôi tôi lớn kiểu điên rồ như thế để bắt tôi phải biết ơn?

  1. Tại sao tôi yêu miền Nam?

Khi tôi nửa ăn, nửa nhịn để cố gắng lê lết cho hết 6 năm đại học, có những hôm đi phụ mổ bị té xỉu … nói lời hay ý đẹp là kiệt sức, nhưng thực ra là ĐÓI ĂN.

Tôi đói ăn suốt 6 năm đại học, chất dinh dưỡng nào để cho tuổi này cạnh tranh tầm vóc với thế giới? Có ai cho tôi xu nào để tôi ăn cho đỡ đói không hay chính mẹ tôi, đến cái bánh cũng không dám ăn mà phải để dành tiền cho tôi, cho dù chỉ là 500 đồng?

Và sau khi ra trường, tôi long đong lận đận đến 3 năm, cầm tấm bằng mà bao nhiêu lần bật khóc.

Bố tôi đã nói:

“Con ạ, mình không có chức, không có quyền cũng không có tiền nên xin việc khó lắm, có lẽ bố mẹ đã bất lực, con hãy tự tìm đường đi cho mình. Xã hội này không có chỗ nào công bằng để đấu sức bằng trí tuệ của mình đâu con.

Tất cả đều được đo đếm bằng tiền cho dù tiền đó là tiền tham nhũng, cho dù tiền đó là tiền hối lộ. Cho dù đó là tiền tham ô mồ hôi và nước mắt của người dân để họ đút vào túi riêng, cái túi tham vô độ làm cho cuộc sống của người dân trở nên khốn cùng.

Cha mẹ nuôi 6 năm ăn học đã kiệt sức lắm rồi con”.

Nhắc lại lần thứ ba là đã có lúc tôi tính đến việc đi vận chuyển ma túy thuê để có tiền xin việc, nhưng may thay chợt nhớ tới câu của nhà Phật rằng “Phàm làm việc gì cũng phải nghĩ đến hậu quả của nó” và tôi đã giật mình tỉnh thức. Nếu không thì có lẽ thân xác này đã trở về với cát bụi hoặc giờ này tôi đang cải tạo với cái án chung thân  trong một nhà tù nào đó.

Có ai và có bao giờ rơi vào tình cảnh tuyệt vọng như thế không?

Chỉ vì không có tiền xin việc, cho nên tôi hỏi lại đứa nào ăn cháo, đứa nào đái vào bát?

Nếu không có mảnh đất Sài Gòn cho tôi lưu lạc thì giờ này có tôi đang ngồi gõ phím không?

Nếu không có con người Miền nam hiền hòa thì tôi có sống được?

Nếu họ lưu manh lừa lọc khi tôi mới chân ướt chân ráo đến đây thì cuộc đời tôi sẽ khốn nạn ra sao?

Vì sao họ lại hiền hòa như vậy?

Đó là vì cha ông của họ sống có nhân, có nghĩa và chính lớp người đi trước đã dạy con cháu họ như vậy, chứ không phải cái thứ lưu manh, lừa đảo.

Và tôi biết qua những người bạn thì Sài Gòn cũng không còn được như xưa nữa, vì sao?

Ai đã làm nó trở nên hoang tàn như thế? Ai đã làm cho nó mất tình người như thế?

“HÃY TRẢ LỜI TÔI ĐI. HÃY TRẢ LỜI TÔI ĐI!”

Lê Nhàn

From: Xuân Nguyễn gởi

Con người là động vật có tính tôn giáo (Tâm linh)!

 Trần Bang‘s post.
 
 
Image may contain: 3 people
Image may contain: 1 person
Trần Bang added 2 new photos.

 

Con người là động vật có tính tôn giáo (Tâm linh)!

Nhưng tại sao chương trình giáo dục phổ thông 12 năm không có một tiết nào dạy về Tôn giáo?

Dẫn đến nhiều người lớn tuổi cũng vẫn bị mù tôn giáo (mù Tâm linh ). Họ không phân biệt được thế nào là Tín ngưỡng chân chính, thế nào là mê tín dị đoan. 

Vì thiếu kiến thức về Tâm linh, Tôn giáo chân chính đã làm nhiều người dễ bị lừa bởi những kẻ buôn thần, bán thánh đội lốt tôn giáo, hoặc tìm mọi cách đút lót hối lộ thánh thần, nhất là vào dịp Lễ, Tết,…, hoặc đẩy họ đến thái độ cực đoan xúc phạm Tôn giáo Tín ngưỡng của người khác.

ĐỨC GIÊSU – BẢO CHỨNG TÌNH YÊU

ĐỨC GIÊSU – BẢO CHỨNG TÌNH YÊU

 Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Có nhiều tôn giáo tin nhận Thiên Chúa hiện hữu, nhưng Kitô giáo là tôn giáo đặc biệt nhận ra Thiên Chúa là Đấng yêu thương.  Chính khi nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, đến độ dám cho Con Yêu Dấu của Ngài nhập thể làm người ở giữa con người. 

  1. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa 

Đức Giêsu đã cùng với ba môn đệ lên núi.  Ngài đã biến hình, áo Ngài trở nên trắng như tuyết.  Tin Mừng Mác-cô không nói gương mặt Đức Giêsu biến đổi như thế nào, chỉ dùng chữ “biến hình;” tuy nhiên, người ta nghĩ rằng nếu áo của Ngài như vậy, thì gương mặt và thân xác của Ngài cũng phải “ra khác” một cách rất đặc biệt.  Cựu Ước cũng đề cập đến gương mặt của Môsê trở nên sáng láng sau khi ông gặp gỡ Thiên Chúa, nên ông phải che mặt khi gặp gỡ dân Do Thái (Xh.34, 29-35).  Thánh Phaolô đã giải thích gương mặt của Môsê được biến đổi vì phản ánh vinh quang Thiên Chúa.  Vậy khi Đức Giêsu biến hình, hàm chứa Ngài là người phản ánh Thiên Chúa một cách rất đặc biệt.

 Tiếng từ trong đám mây nói với ba môn đệ: “Đây là Con Ta, Đấng rất được yêu.  Hãy nghe Ngài.”  Như vậy, Thiên Chúa nhận Đức Giêsu là Con của Ngài, và là Đấng được yêu đặc biệt.  Thực ra, tước vị “con Thiên Chúa” cũng được dùng để chỉ nhiều người (G.38,7), dân Israel (Hos.11, 1), vị vua thiên sai (Tv.2, 7).  Với Đức Giêsu, Ngài được Thiên Chúa gọi là người Con, được yêu đặc biệt; tuy nhiên, ngay lúc trên núi này, chắc ba môn đệ chưa thể nào nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa như các ngài đã nhận ra sau khi Đức Giêsu phục sinh và hiện ra cho các ông, tuy nhiên lúc này Đức Giêsu vẫn là một người rất đặc biệt.

 Đức Giêsu nhận mình là Con Người.  Đức Giêsu thật sự là người như tất cả mọi người.  Một người cảm thấy gì thì Đức Giêsu cũng cảm thấy như vậy.  Ngài cũng bị cám dỗ như bao người, dù là cám dỗ về miếng ăn, về danh vọng và về quyền hành (Mt.4, 1-11); và không chỉ vậy, Ngài còn bị cám dỗ về đức tin nữa: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc.15, 34).  Đức Giêsu, nếu có điều gì khác chúng ta, thì đó là Ngài không phạm tội (Dt.4, 15).  Ngài đã dùng tự do để vâng phục Thiên Chúa, còn chúng ta lại dùng tự do Thiên Chúa ban để phản lại Ngài. 

  1. Abraham đã sẵn sàng hiến tế con mình cho Thiên Chúa 

Abram, tổ phụ dân Do Thái, là một con người rất đặc biệt.  Thiên Chúa đã mời gọi ông bỏ quê cha đất tổ để đi đến đất Ngài chỉ cho.  Thiên Chúa hứa sẽ ban cho ông có con cháu nối dòng, có đất làm cơ nghiệp, và trở thành một mối chúc lành cho nhiều người.  Abram đã tin và đã đi theo lời mời của Thiên Chúa.  Đặt mình vào hoàn cảnh của người thời đó, ta nhận ra Abram đã tin vào Thiên Chúa một cách rất đặc biệt.  Thời đó người ta chưa có luật lệ như hiện tại, người ta phải dựa vào gia đình họ hàng để bảo vệ mình, và tài sản khỏi bị người khác đánh cướp.  Thế mà Abram dám rời bỏ gia đình, ra đi với tài sản và vợ là Saray.  Nếu không tin tưởng và phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, thì không ai dám làm điều đó vì rất nguy hiểm, người ta không chỉ mất tài sản nhưng còn mất cả mạng sống mình.  Abram đã dám làm. 

Thiên Chúa đã đổi tên Abram thành Abraham, Saray thành Sara; và đã cho ông bà có một người con tên là Isaac.  Thiên Chúa cũng nói với Abraham rằng dòng giống ông sẽ nhờ Isaac mà có; thế mà giờ đây Thiên Chúa lại bảo ông đem người con duy nhất của mình đi hiến tế làm của lễ dâng Thiên Chúa.  Tại sao Thiên Chúa lại “đổi ý” như vậy?  Tại sao Thiên Chúa không “nhất quán” với chính Ngài: đã hứa cho dòng dõi của ông nhờ Isaac mà có, mà bây giờ lại đòi ông phải hiến tế Isaac?  Làm sao có thể vâng lời Thiên Chúa được? 

Một lần nữa, Abraham đã tin và phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa.  Thiên Chúa muốn sao Abraham cũng làm, vì ông tin rằng Thiên Chúa quyền năng, Ngài có thể làm tất cả, ngay cả phục sinh Isaac.  Chắc chắn Abraham đã có những suy nghĩ cám dỗ bất tuân, nhưng ông đã chiến thắng chính mình bằng niềm tin phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa.  Qua hành vi này, ông trở thành cha tất cả những người tin (Rm.4, 18tt).  Cả cuộc đời của Abrahm là một chuỗi những hành vi tin.  Ngay cả khi vợ ông là bà Sara chết, ông vẫn chưa có đất để chôn (St.23), tuy vậy ông vẫn tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho ông điều Ngài đã hứa. 

III. Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Ngài 

Khi Đức Giêsu còn tại thế, chẳng ai biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể, kể cả các tông đồ.  Chỉ sau khi Ngài sống lại, và với ơn Thánh Thần soi sáng, các tông đồ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói và đã làm, nên mới nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa theo một nghĩa thật đặc biệt.  Một khi nhận ra Đức Giêsu là Đấng thật đặc biệt, là Con Thiên Chúa, thì Kitô hữu lại hiểu biết về Thiên Chúa và về con người một cách thâm sâu hơn. 

Con người là ai mà được Thiên Chúa yêu thương đến như vậy!  Sao Thiên Chúa lại trao phó Con của Ngài cho con người như thể “trao trứng cho ác” như vậy?  Một người ít hiểu biết nhất cũng nhận ra con người gian ác sẽ giết Con của Ngài, như vậy tại sao Ngài vẫn trao gởi Người Con của Ngài cho con người?  Tại sao Thiên Chúa tin con người đến độ như vậy?  Cho đến cùng, Kitô hữu nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng: Thiên Chúa tin vào con người dù thật sự không thể tin được. 

“Thiên Chúa không dung tha chính Con Ngài nhưng phó thác Con của Ngài vì tất cả chúng ta.”  Nhìn Đức Giêsu chết trần trụi ô nhục thê thảm trên thập giá, người ta có cảm tưởng như thể Thiên Chúa yêu thương con người hơn cả Đức Giêsu.  Thật ra không phải Thiên Chúa yêu thương con người hơn Con của Ngài; nhưng điều đó lại cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng.  Theo thánh Phaolô, một khi Thiên Chúa đã ban Đức Giêsu cho ta, thì Ngài không còn tiếc gì với ta nữa.  Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta tất cả.  Đức Giêsu là bảo chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng! 

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

From Langthangchieutim gởi