httpv://www.youtube.com/watch?v=DGa1zIU6Ads
Sức khỏe tâm lý gia đình – điều phụ huynh Việt cần quan tâm

Thiện Lê/Người Việt
HUNTINGTON BEACH, California (NV) – Nhiều phụ huynh và một số thanh thiếu niên đã đến phòng sinh hoạt sinh viên của đại học cộng đồng Golden West College để tham dự hội thảo an toàn gia đình người Việt vào hôm Thứ Bảy, 28 Tháng Tư.
Diễn giả chính của hội thảo là ông Paul Hoàng, một bác sĩ tâm lý ở Westminster, đã mặc bộ trang phục người “homeless” với mục đích thông điệp của ông sẽ được truyền đạt mạnh mẽ hơn. Ông cho biết trẻ em gốc Việt sinh ra và lớn lên ở Mỹ thường hay bị lẫn lộn văn hóa, rồi nhiều khi còn bị đè nén dẫn đến nhiều bệnh tâm lý.

Ông Paul chia sẻ câu chuyện về cuộc đời mình. Ông cho biết từ lúc ông học lớp 6 cho đến hết trung học, ông từng bị trầm cảm nặng và đã ba lần định tự tử nhưng không thành.
Theo lời ông kể, lần đầu định tự tử, ông biết người chú làm bảo vệ có khẩu súng. Ông lấy súng nhét vào miệng. Nhưng lúc định bóp cò, thì ông nghe có một tiếng kêu ông “dừng lại” khiến ông không dám bóp cò.
Lần thứ hai ông định tự tử nhưng cũng không dám làm, nên ông quyết định mình sẽ không ra tay mà sẽ nhờ người khác giết mình.
Ở lần định tự tử thứ ba, ông kể: “Tôi chạy ra một con đường đông xe vào ban đêm, mặc đồ đen để người ta không thấy rồi nằm ra đường cho xe cán nhưng đợi mãi ba tiếng đồng hồ, không có một chiếc xe nào chạy qua. Đây là một con đường thường có xe chạy nhiều mà không hiểu tại sao không có xe vào đêm đó. Đợi mãi mà tự sát không thành, nên tôi quyết định về nhà ngủ.”
Theo ông, tự sát là một cách chạy trốn, để thoát khỏi những sự khó khăn của cuộc đời. Những người tự sát muốn trách người khác vì sự điên cuồng và “độc hại” của thế giới nên mới tìm cách “giải thoát”. Còn có những người bị bắt nạt, rồi trong lòng mang thù hận, đi giết người khác để trả thù. Giết người để chấm dứt những mối đau thương trong đời.
Câu chuyện của ông Hoàng là mục đích của buổi hội thảo, để cho các gia đình người Việt thấy sự quan trọng của sức khỏe tâm lý. Ông cho rằng mọi người đừng nên gọi các bệnh liên quan đến tâm lý là bệnh tâm thần vì những người bị bệnh này còn được gọi là những người điên. Theo ông, nên gọi bệnh liên quan đến tâm lý của các em là “tâm bệnh” thôi vì đó chỉ là những rối loạn trong tâm lý chứ không phải là bị điên.
Ông khuyên các phụ huynh nên tạo ra một không gian và điều kiện để con cái chia sẻ và trò chuyện với cha mẹ để tránh cảnh các em bị đè nén rồi dẫn đến trầm cảm và nhiều chuyện nguy hiểm hơn.

Ngoài ông Hoàng ra, cũng có một bác sĩ tâm lý khác phát biểu là bà Suzie Xuyến Đông-Matsuda. Bà cũng cho rằng sức khỏe tâm lý rất quan trọng và 95% những trường hợp các thanh thiếu niên bị “tâm bệnh” hoàn toàn có thể đề phòng và ngăn chặn được. Bà khuyên mọi người nên áp dụng kiến thức nghe được hôm nay vì kiến thức mà không dùng thì không được gì hết. Sau bà Suzie là một số phụ huynh và thanh thiếu niên chia sẻ kinh nghiệm của bản thân. Câu chuyện của ai cũng có mục đích cho biết nếu cha mẹ kỳ vọng và bắt ép con cái quá nhiều thì sẽ rất nguy hiểm vì dẫn đến trầm cảm và nhiều “tâm bệnh” khác.
Theo lời của các diễn giả, phụ huynh và các thanh thiếu niên có mặt tại hội thảo, sức khỏe tâm lý trong gia đình là một vấn đề là mà nhiều người Việt ở Hoa Kỳ cần phải biết và cảnh giác các dấu hiệu “tâm bệnh” của con cái trong gia đình. (Thiện Lê)
Có câu chuyện ngụ ngôn về cái lưỡi như thế này…

Có câu chuyện ngụ ngôn về cái lưỡi như thế này…
1. Ngày xưa, có một ông vua nước Ai Cập gửi cho nhà hiền triết Bias một con vật vừa quí vừa hiếm để tế lễ các thần của mình. Tuy nhiên, ông vua này muốn chơi khăm nhà hiền triết nên nói:“Sau khi cúng xong, ngươi phải trả lại cho ta cái gì vừa tốt nhất vừa xấu nhất nơi con vật quí hiếm ấy”.
Nhà hiền triết liền xẻo ngay cái lưỡi mà trao cho ông vua. Cử chỉ đó gián tiếp xác định điều này:“Cái lưỡi là phần tốt nhất nếu biết sử dụng, nhưng đồng thời cũng là phần xấu nhất nếu không biết sử dụng”. Thật thâm thúy!
2. Lão Tử là người thông minh, tài giỏi. Một hôm, nghe tin thầy giáo là Thương Dung bị bệnh nặng, Lão Tử đến thăm và mời thầy ăn chút gì để chống lại bệnh hiểm nghèo. Nhân lúc thầy giáo tỉnh, Lão Tử xin thầy cho ý kiến dạy bảo thêm. Thương Dung thấy Lão Tử không những thông minh mà còn khôn ngoan, ham học, có suy nghĩ sâu sắc. Thầy Thương Dung mở rộng miệng cho Lão Tử xem và hỏi:
– Lưỡi của ta còn không?
– Thưa thầy, lưỡi của thầy còn ạ!
– Thế răng của ta còn không?
– Thưa thầy không còn ạ!
– Anh có biết ta hỏi anh vấn đề này có thâm ý gì không?
Lão Tử trả lời:
– Dạ, thầy sống rất thọ. Sở dĩ cái lưỡi còn vì nó mềm, răng rụng hết vì nó cứng. Thưa thầy, phải thế không ạ?
Thương Dung nghe Lão Tử trả lời vậy vui vẻ nói:
– Đúng lắm! Cách lý giải của anh hoàn toàn chính xác. Lưỡi vì mềm mà còn được lâu, răng vì cứng nên rụng hết. Đạo lý này không chỉ đúng với răng và lưỡi, mà đối với mọi việc trong thiên hạ cũng đều như thế cả!
Trung dung là cách sống khôn ngoan. Sống thật khó, giữ mồm giữ miệng chẳng dễ, vì con người có “máu” tự ái và giả hình, muốn nói cho hả giận! Hãy nghe tác giả Thánh Vịnh thẩm vấn: “Hỡi kẻ gian hùng, khoe chi tội ác? Suốt ngày ngươi tính kế hại người! Này hỡi tên chuyên nghề lừa đảo, lưỡi ngươi khác nào dao sắc bén” (Tv 52:3-4).
Đối với những người khéo khua môi múa mép – nói cho ra vẻ “êm tai” thì gọi là “người khéo nói”, tác giả Thánh Vịnh so sánh thế này: “Chiều đến, chúng trở lại TRU LÊN NHƯ CHÓ và CHẠY RÔNG khắp thành. Này chúng BA HOA SÙI BỌT MÉP, LƯỠI KIẾM Ở ĐẦU MÔI(Tv 59:7-8). Cách ví von “nặng nề” lắm đấy!
ÍT NÓI không có nghĩa là NÓI ÍT, mà là KHÔNG NÓI ĐIỀU VÔ ÍCH. Đôi khi người ta phải nói, thậm chí là nói nhiều. Dù nói ít hay nhiều thì phải làm sao chúng ta có thể tự hào như tác giả Thánh Vịnh mà chia sẻ điều này: “Lòng trào dâng những lời cẩm tú, miệng ngâm thơ mừng chúc thánh quân, lưỡi tôi ví tựa tay người phóng bút” (Tv 45:2). Ngôn ngữ có hai dạng: Nói và Viết. NÓI là dạng ngôn ngữ vô tự (không có chữ viết), còn VIẾT là dạng ngôn ngữ vô ngôn (không có tiếng nói).
Ngôn hành phải song song. Nói hoặc viết đều phải thể hiện bằng hành động. Tác giả Thánh Vịnh đặt vấn đề và đưa ra đáp án: “Ai là người thiết tha được sống, ước ao hưởng chuỗi ngày hạnh phúc chứa chan? Phải GIỮ MỒM GIỮ MIỆNG, đừng nói lời gian ác điêu ngoa; hãy LÀM LÀNH LÁNH DỮ, tìm kiếm bình an, ăn ở thuận hoà” (Tv 34:13-15).
Thiên Chúa và Kinh Thánh luôn đề cao các mỹ từ và mỹ ngôn. Người đời cũng quý trọng các lời nói tốt đẹp. Thật vậy, ngạn ngữ Anh có câu: “Lời nói đẹp là chi phí thấp nhất để thu lợi cao nhất”. Còn Publilius Syrus (sinh năm 85 trước CN, mất năm 43 trước CN), văn sĩ Latin, chia sẻ kinh nghiệm: “Tôi thường hối tiếc vì những gì mình nói, chứ không bao giờ hối tiếc vì sự im lặng của mình”.
Tài năng được tỏa sáng nhờ sự im lặng, còn sự kém cỏi thường tự lan tỏa bằng âm thanh – ngụ ý “lời nói”. Nói nhiều chính là “bức bình phong” để che giấu sự trống rỗng của tâm hồn vậy!
Đức Mẹ không nói nhiều, chỉ “ghi nhớ mọi kỷ niệm và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2:19). Còn Đức Thánh Giuse hoàn toàn im lặng, cả bộ Kinh Thánh và các tài liệu đều không nhắc gì tới di ngôn nào của Con Người Công Chính này. Sự im lặng rất cần. Đó là “miền sa mạc” cần thiết để có thể gặp gỡ Thiên Chúa. Im lặng để suy niệm. Im lặng để suy tư. Suy tư để biết mình, biết người, biết xử thế.
Con người đa dạng, lắm kiểu nhiêu khê, tổng quát và ngắn gọn là chia làm hai loại chính – Tốt và Xấu. Chắc chắn Thiên Chúa rất ghét loại người xấu, vì Ngài là Đấng chí thánh và chí nhân. Tuy nhiên, Ngài cũng chẳng ưa loại người “lửng lơ con cá vàng”, như Kinh Thánh đã xác định: “Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3:15-16). Ngài cũng đang nói như vậy với mỗi chúng ta ngay bây giờ đấy. Ngay cả phàm nhân – vốn dĩ là những người xấu xa (x. Lc 11:13) và đầy tội lỗi – cũng chẳng ai ưa loại người “dở hơi” như vậy!
Phụ nữ đầu tiên, Bà Tổ Êva đã bị “lưỡi rắn” mà phun “mật ngọt” vào Ông Tổ Ađam, khiến Ông Tổ mù quáng rồi suy sụp hoàn toàn vì bị “nọc độc” làm tê liệt cả thể lý lẫn tinh thần. Nhưng rồi Đức Maria, Thánh Mẫu Thiên Chúa, đã đạp nát đầu con-rắn-ma-quỷ thâm độc đó và dẫn đưa nhân loại đến với Thiên Chúa hằng sinh.
Nói về phụ nữ, không phải là do định kiến hoặc nhìn họ với cặp mắt kính râm hoặc đen thui, mà để cân nhắc và đề phòng. Thực tế vẫn có những phụ nữ tuyệt vời. Đức Maria là điển hình. Chúa Giêsu luôn quý mến và đánh giá cao nữ giới. Thật vậy, Ngài thường ghé thăm chị em Mácta và Maria ở Bêtania, Ngài đã hiện ra đầu tiên với bà Maria Mácđala (Mađalêna) sau khi Ngài phục sinh. Các phụ nữ đã theo Chúa Giêsu suốt đường lên Đồi Sọ, và cũng chỉ còn các phụ nữ đứng bên Thánh Giá. Phụ nữ can đảm thế đấy, còn nam giới chỉ mạnh miệng và lẻo mép, rồi bỏ chạy hết trơn.
Rồi thời Giáo hội sơ khai, các phụ nữ giúp đỡ các tông đồ rất nhiều công việc. Ngày nay cũng vậy, các nữ tu và quý bà vẫn là các trợ thủ đắc lực trong việc truyền giáo. Ai dám chê họ là liễu yếu đào tơ? Đôi khi họ “lắm chuyện” một chút thôi, chứ họ tác dụng hiệu quả lắm đấy!
Xã hội cũng vậy, đã và đang có nhiều phụ nữ giỏi giang và xuất chúng trong các lĩnh vực mà trước đây chỉ có nam giới. Cứ động viên và cứ để họ làm, công việc có khi còn tốt hơn nhiều. Nam giới đừng vội ảo tưởng hoặc “chảnh” đấy nhá!
Tóm lại, phàm nhân quá yếu đuối – với đầy đủ thất tình (hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục) và “tam độc” Tham-Sân-Si. Vì thế, con người luôn cần Thiên Chúa phù trợ. Như vậy, chúng ta phải luôn chân thành van nài Đấng-giàu-lòng-thương-xót: “Xin canh giữ MIỆNG con, lạy Chúa, và trông chừng LƯỠI con. Xin đừng để lòng con nghiêng về sự dữ, đừng để con làm điều ác với bọn gian tà ” (Tv 141:3-4).
TRẦM THIÊN THU
Tại sao 43 năm vẫn xa mặt cách lòng?
Tại sao 43 năm vẫn xa mặt cách lòng?
Phạm Trần (Danlambao) – Lần kỷ niệm thứ 43 ngày “30 tháng 4” năm 2018 ở Việt Nam không còn được người dân quan tâm bằng những cuộc vui chơi, tắm biển và giải trí, nhưng hận thù dân tộc lại được phe Tuyên giáo và Quân đội khơi lên gay gắt hơn bao giờ hết.
Ở Trung ương, đảng và nhà nước đã thay việc tổ chức các lễ kỷ niệm hào nhoáng và tốn phí bằng những buổi ca nhạc để phô trương thành tích đã mờ nhạt và phản cảm gọi là “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”. Các buổi lễ ở địa phương cũng chỉ bày ra để cho các viên chức lãnh đạo xếp hàng chụp ảnh để báo cáo nhưng rất ít có dân tham dự.
Trong khi ấy thì hàng triệu người dân đã lợi dụng 4 ngày nghỉ lễ dịp 30-04 và Lao động 01/05 (từ 28/04 – 01/05/2018) để trốn khỏi cảnh sống chật hẹp và oi bức ngộp hơi ở thành phố đến những nơi có biển tắm mát và nghỉ ngơi thoải mái.
Tuy nhiên, có nhiều người ra đi mà không bao giờ trở lại. Theo báo cáo của Bộ Công an thì: “Trong bốn ngày nghỉ lễ, từ 28-4 đến 1-5, cả nước xảy ra 113 vụ tai nạn giao thông, làm chết 79 người, bị thương 79 người. Riêng ngày cuối cùng kỳ nghỉ lễ 1-5 có 27 người chết, 33 người bị thương.”
So với bốn ngày nghỉ lễ năm 2017 (29-4 đến 2-5-2017), tai nạn giao thông (TNGT) năm nay, giảm 12 vụ (9,6%); giảm 19 người chết (19,4%), giảm 11 người bị thương (12,2%).
Đó là những chuyện bề nổi của ngày đã được cơ quan tuyên truyền của đảng tô son vẽ phấn gọi là “Đại thắng mùa Xuân 1975”, một bi hài kịch tự kiêu Công sản.
Nhưng khác với các năm trước, lần đầu tiên trong 43 năm kỷ niệm ngày Quân đội Cộng sản vào Sài Gòn ngày 30/04/1975, Ban Tuyên giáo và Tổng cục Chính trị Quân đội đã phải tập hợp một số người viết bài đề cao ý nghĩa của “Đại thắng mùa Xuân”. Mục đích là để bác bỏ những quan điểm cho rằng, dù phải vừa chiến đấu và xây dựng, nhưng “chế độ Việt Nam Cộng hòa” ở miền Nam trước 1975, vẫn có nhiều lĩnh vực thành công và đáng trân trọng hơn Chính phủ Cộng sản của thời bình.
Báo quân đội nhân dân
Báo Quân đội Nhân dân viết: “Chiến tranh đã lùi xa, Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam mong muốn khép lại quá khứ để nhìn về tương lai hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Đại thắng mùa xuân năm 1975 thực sự là động lực để chúng ta vượt qua mọi gian nan, thử thách, vững bước tiến lên vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho hôm nay và muôn đời sau.
Thế nhưng đến nay vẫn có những kẻ cố lừa phỉnh dư luận qua việc ngợi ca chế độ dân chủ, tự do và kinh tế phát triển dưới thời chính quyền Sài Gòn, phủ nhận giá trị của chiến thắng trong thời kỳ mới. Những luận điệu ấy lan truyền trên internet dưới nhiều hình thức, như bài viết, clip hòng đánh lừa những người ít thông tin, thiếu hiểu biết, đặc biệt là nhắm vào thế hệ trẻ.” (QĐND, ngày 01/05/2018)
Ăn nói như thế là tự lừa dối mình, bởi vì, dù có xuyên tạc đến đâu thì cũng không thế phủ nhận:
- Việt Nam Cộng hòa, từ 1954 đến 1975, không hề có chủ trương “đảng cử dân bầu”. Dù bị chiến tranh tàn phá và đe dọa, khủng bố, chế độ ứng cử và tranh cử ở miền Nam hoàn toàn tự do. Ở miền Bắc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong giai đoạn này không có ứng cử và bầu cử dự do. Chỉ có một đảng Cộng sản cầm quyền toàn trị.
Ngay đến bây giờ, sau 43 năm thống nhất đất nước, cả nước Việt Nam vẫn chỉ có một đảng cầm quyền và chỉ có đảng viên Cộng sản hay những cảm tình viên Cộng sản mới được bầu vào các chức vụ đại diện dân ở Quốc hội và trong các Hội đồng Nhân dân. Đảng tiếp tục không chấp nhận đa nguyên, đa đảng.
- Nền kinh tế ở miền Nam là “kinh tế thị trường, tự do kinh doanh và phát triển”. Và mặc dù phải lệ thuộc vào viện trợ kinh tế của Mỹ để tồn tại và phát triển trong khi cùng lúc phải chiến đấu chống Cộng sản miền Bắc xâm lược, người dân miền Nam cũng chưa bao giờ phải xếp hàng trước các cửa hàng quốc doanh hay hợp tác xã để mua từng lon gạo, lạng thịt, cân đường, bó rau hay sợi chỉ cây kim bằng tem phiếu như người dân miền Bắc.
Tiến Sỹ Bùi Kiến Thành
Riêng trong lĩnh vực kinh tế, bài viết của QĐND đã trích lời chuyên gia kinh tế Việt kiều Mỹ, ông Bùi Kiến Thành để cố ý hạ thấp giá trị chính sách kinh tế thời VNCH.
QĐND nói trong cuộc phỏng vấn của BBC tiếng Việt, ông Thành đã: “Từng đánh giá, kinh tế dưới chế độ Sài Gòn là “nền kinh tế phát triển ảo”, “không vững chắc”, “không dựa vào cơ sở kinh tế mà chỉ dựa vào chiến tranh là chính”. Ông Bùi Kiến Thành nhận định đây là nền kinh tế “chưa trong sáng”, cụm từ chỉ tình trạng tham nhũng tràn lan của chính quyền Sài Gòn.”
Trích dẫn mà chắp vá và cắt xén như thế là “không có đạo đức” và suy diễn thiếu nghiêm chỉnh. Sự thật thì Tiến sỹ Bùi Kiến Thành đã nói nguyên văn ý của ông trong vế “chưa trong sáng” như thế này: “Trong những năm dưới Đệ nhị Cộng hòa thì có khó khăn do cơ chế quản lý nhà nước vẫn chưa có những kinh nghiệm trong vận hành kinh tế thị trường, quản lý nhà nước vẫn chưa hoàn toàn trong sáng.”(BBC Tiếng Việt, phát thanh ngày 25/4/2015)
Như vậy thì những chữ “cụm từ chỉ tình trạng tham nhũng tràn lan của chính quyền Sài Gòn”, được ráp vào sau 3 chữ “chưa trong sáng” là của báo QĐND tự chế ra để nhét vào miệng Tiến sỹ Bùi Kiến Thành, con Bác sỹ nổi tiếng Bùi Kiến Tín, bạn thân của cố Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm, chủ hãng dầu Khuynh Diệp, với chủ ý xuyên tạc Chính phủ thời VNCH.
Đáng chú ý là báo QĐND đã bỏ qua mấy câu nói khác của ông Thành như: “Việt Nam ngày nay nên học chế độ Việt Nam Cộng Hòa trong cách nhìn về kinh tế thị trường cũng như cách đào tạo, trọng dụng nhân tài.”
BBC viết tiếp: “Ông Thành cũng cho rằng “dư âm của nền kinh tế tập trung” đang hạn chế sự phát triển của Việt Nam trong thời điểm hiện tại, cũng như trong tương lai.”
BBC hỏi: Ông có thể cho biết một số đặc trưng của nền kinh tế miền Nam trước năm 1975?
Ông Bùi Kiến Thành: “Trước 1975 thì kinh tế miền Nam, dù có những khó khăn do chiến tranh, nhưng vẫn là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường.
Vì trong bối cảnh chiến tranh nên chính sách thời đó là mở rộng tất cả những gì có thể. Nông nghiệp thì gặp khó khăn về chiến tranh, thương mại cũng chỉ trao đổi hàng hóa, chứ việc phát triển công nghiệp thì chưa được bao nhiêu.
Nhưng nó vẫn là nền kinh tế cho phép nhân dân tự do tham gia, để những người có ý chí muốn làm kinh tế được tạo điều kiện tốt.”
Ông Thành, hiện đang làm việc ở Việt Nam bảo thẳng: “Nói chung nền kinh tế Việt Nam Cộng Hòa là một nền kinh tế thị trường có nhiều tiềm năng, nếu được phát triển trong hòa bình thì sẽ có nhiều khả năng phát triển tốt hơn là chính sách phát triển tập trung sau 30/4/1975.
Nếu Việt Nam có hòa bình thì những chính sách phát triển kinh tế bắt đầu từ nền Đệ nhất Cộng hòa vẫn được duy trì, như khu công nghiệp Biên Hòa, các trung tâm phát triển công nghiệp. Khi đó chúng ta học dần dần thì bắt đầu tích lũy kinh nghiệm và bắt đầu đi lên.
Tuy nhiên, sau 30/4 thì tất cả những kinh nghiệm đó bị chặn đứng, áp dụng kế hoạch tập trung của miền Bắc vào miền Nam, bao nhiêu doanh nghiệp bị quốc hữu hóa, doanh nhân thì vào trại cải tạo hoặc bỏ xứ ra đi.
Nền kinh tế tan vỡ ra hết và nền kinh tế tập trung không phát triển được, việc ngăn sông cấm chợ khiến nền kinh tế đi vào ngõ cụt.
Đến khi đó nhà nước cộng sản mới áp dụng chinh sách Đổi Mới. Nhưng Đổi Mới không phải là kinh tế thị trường mà là nền kinh tế ‘nhiều thành phần vận hành theo kinh tế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước”.
Cho đến nay định nghĩa của nền kinh tế Việt Nam sau Đổi Mới vẫn chưa có gì mới hơn là định nghĩa năm 1986, là kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước.
Vì vậy nên đến 2015, chúng ta vẫn bị sự chi phối nặng nề của các doanh nghiệp nhà nước, không thoát ra được tư duy kế hoạch tập trung của một số lãnh đạo, và không thoát ra khỏi sự vận hành của kinh tế nhà nước, trì trệ và không có hiệu quả.
Từ năm 1985 đến giờ ta không bắt kịp các nền kinh tế khác vì tư duy không rõ ràng, không ai biết kinh tế xã hội chủ nghĩa là cái gì.
Một mặt thì nói là kinh tế thị trường, một mặt thì nói là có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta đã mất hết 30 năm mà vẫn còn loay hoay trong những việc làm không rõ ràng.”
Giáo dục – văn hoá
- Bước sang lĩnh vực Giáo dục và Văn hóa thì dù một hay trăm thợ viết thuê của Ban Tuyến Giáo hay Tổng cục Chính trị Quân đội cũng không thể đổi trắng thay đen để xóa đi những thành tựu sáng chói và tính nhân văn của nền giáo dục và nhân bản của văn hóa dân tộc thời VNCH trước 1975.
Trước hết, hãy nghe Tiến sỹ Bùi Kiến Thành phát biểu trên BBC ngày 25/04/2015: “Ở miền Nam trước 75 thì là một nền giáo dục rất mở, người sinh viên và các thầy giáo được quyền tiếp cận các nền giáo dục tư tưởng, dù là tư bản hay cộng sản, không hạn chế.”
Bỏ qua những chương trình giáo dục học vẹt, vừa hồng vừa chuyên, chỉ biết thầy đọc trò viết cho đầy tập, chạy điểm, mua bằng thật và bằng giả và những tệ trạng “muốn lên lớp, được điểm cao” thì phải “ngủ với Thầy” v.v… đã và đang diễn ra ở Việt Nam mà hãy nhìn vào khả năng lao động của công nhân Việt Nam để thấy tương lai đang đi về đâu.
Theo bà Saranya Skontanarak, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Thái Lan (TBA) thì năng suất lao động của người Việt Nam khá thấp so với các quốc gia xung quanh. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy năng suất lao động của một người Singapore cao gấp 20 lần năng suất lao động của một người Việt Nam.
Ngay người Thái Lan cũng có năng suất lao động gấp 3 lần người Việt Nam.
Bà Saranya Skontanarak đã đưa ra nhận xét tại cuộc gặp gỡ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ngày 21/4/2018.
Và tại cuộc Hội thảo chuyên đề “Cải thiện năng suất trong bối cảnh công nghiệp hóa”, ông Ngô Văn Tuấn, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, cho biết: “Năng suất lao động của Việt Nam chỉ bằng 7% năng suất lao động của Singapore; 17,6% của Malaysia và đặc biệt chỉ tương đương với 87,4% của Lào.”(theo VNNET ngày 13/01/2018)
Trong khi ấy thì Hiệp hội Bia – rượu – nước giải khát Việt Nam, báo cáo năm 2017 lượng bia các loại tiêu thụ trên cả nước đạt hơn 4 tỉ lít, tăng 6% so với năm 2016.
Con số này chưa xấu hổ cho bằng đánh giá trong sáng trong kinh doanh của Thế giới đã đặt Việt Nam xếp hạng 141/180 với 53,1 điểm, mức tổng điểm thấp hơn điểm bình quân khu vực và thế giới. Trong 43 nền kinh tế khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Việt Nam đứng hạng 35, thua Lào (53,6 điểm, hạng 34), Myanmar (53,9 điểm, hạng 33) và Campuchia (58,7, điểm hạng 22).
Về số thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam năm 2017, theo lời Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng thì rất thấp, tương đương 2.385 USD. Ông nói với báo Tuổi Trẻ: “Trong khối ASEAN, con số này thua Lào, chỉ hơn Campuchia và Myanmar.” (Miến Điện)
Như vậy thì vinh hạnh gì, nếu so với thời Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam trước năm 1975?
Văn hoá đồi truỵ?
- Trong lĩnh vực Văn hóa, hãy tạm gác sang hành động “gục mặt bước dồn” của những nhóm cán bộ lãnh đạo thiếu học, vô văn hóa, kém văn minh khi họ ra lệnh đốt sách, bắt giam các Văn nghệ sỹ miền Nam sau ngày vào Sài Gòn 1975, mà hãy nói đến phong trào “hát nhạc vàng”, hay dòng nhạc Bolero của miền Nam đang lên cơn sốt ở khắp miền đất nước, sau 43 năm mấy anh Bộ đội mũ tai mèo, dép râu bước vào Sài Gòn hoa lệ.
Những cán bộ Tuyên giáo, Dân vận hãy tự hỏi mình xem tại sao bây giờ nhân dân lại say mê những dòng nhạc của Đoàn Chuẩn và Từ Linh, Văn Cao một thời bị cấm? Hay vì sao mà nhạc Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Anh Bằng, Minh Kỳ, Lê Dinh, Ngô Thụy Miên, Duy Khánh, Nhật Trường Trần Thiện Thanh v.v… của miền Nam đã được ưa chuộng hơn nhiều Nhạc sỹ miền Bắc, kể cả Phạm Tuyên, con Nhà văn hóa Phạm Quỳnh?
Luôn tiện những người còn mê ngủ của Tuyên giáo cũng nên tự vấn lương tâm xem do đâu mà Mầu Tím Hoa Sim của Nhà Thơ Hữu Loan, người đã can đảm bỏ đảng và công khai mạt sát đám “cai thầu văn nghệ” làm tay sai cho đảng thời Nhân văn Giai phẩm, đã đi vào lịch sử văn học và được hàng triệu người yêu mến gấp triệu lần hơn những vần Thơ thờ nhà độc tài Cộng sản (Joseph Vissarionovich) Stalin, hay chứa đầy dao găm mã tấu thời Cải cách Ruộng đất của Tố Hữu và Xuân Diệu?
Ôn lại những chuyện cũ để thấy sự so sánh thành công và thất bại ở miền Nam thời Việt Nam Cộng hòa, trước vào sau ngày gọi là “Đại thắng mùa Xuân 1975”, không phải là không có lý.
Bởi vì, sau 43 năm của cái gọi là “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” ấy, nhân dân miền Nam đã hoàn toàn mất hết các quyền: Tự do ngôn luận và Tự do báo chí; Tự do Lập hội và Biểu tình; Tự do Ứng cử và Bầu cử. Và trong nhiều trường hợp, quyền tự do Tín ngưỡng và Tôn giáo đã bị quản chế khe khắt.
Thời VNCH, khi ra đường người dân không sợ bị cướp giật và xâm phạm an ninh cá nhân như thời Cộng sản. Họ cũng không phải đem theo tiền để hối lộ dọc đường hay mánh mung chạy chức chạy quyền, lo đút lót để cho con được điểm cao hay tốt nghiệp ra trường, và có việc làm ổn định.
Cũng dưới thời VNCH ở miền Nam, làm gì có chuyện truyền thống “tôn sư trọng đạo” trong giáo dục đã bị bị xúc phạm trắng trợn như vụ Cô giáo phải qùy xin lỗi phụ huynh tại Long An tháng 2/2018. Rồi sau đó vào tháng 3/2018 cô giáo mang thai Phan Thị Hiên, tập sự tại trường mầm non Việt-Lào ở Nghệ An, cũng đã phải qùy gối van xin tha đánh bởi một phụ huynh, chỉ vì trước đó cô giáo đã xử phạt kỷ luật con người này.
Chỉ kể sơ ra đây ít chuyện làm quà để thấy thời Việt Nam Cộng hòa, tuy chưa có dân chủ như nhiều nước khác vì có chiến tranh, cũng đáng sống hơn thời tham nhũng ngập đầu và xã hội có nhiều trộm cắp và giết người như ngóe mất an ninh ở Việt Nam thời Xã hội Chủ nghĩa.
Gay gắt hù doạ
Thế mà cán bộ Tuyên giáo vẫn có thể bô bô nói rằng: “Chiến tranh đã lùi xa, Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam mong muốn khép lại quá khứ để nhìn về tương lai hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Đại thắng mùa xuân năm 1975 thực sự là động lực để chúng ta vượt qua mọi gian nan, thử thách, vững bước tiến lên vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho hôm nay và muôn đời sau.
Thế nhưng đến nay vẫn có những kẻ cố lừa phỉnh dư luận qua việc ngợi ca chế độ dân chủ, tự do và kinh tế phát triển dưới thời chính quyền Sài Gòn, phủ nhận giá trị của chiến thắng trong thời kỳ mới. Những luận điệu ấy lan truyền trên internet dưới nhiều hình thức, như bài viết, clip hòng đánh lừa những người ít thông tin, thiếu hiểu biết, đặc biệt là nhắm vào thế hệ trẻ.” (Quân đội Nhân dân, 01/05/2018)
Phân bua như thế xong, báo này quay sang hù họa: “Đảng, Nhà nước ta đã chủ động đề ra và thực hiện phương châm “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”, “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”, nhưng trong bối cảnh mới, hoàn cảnh mới, mỗi người dân của “con Lạc cháu Hồng” dù ở trong nước hay đang định cư, học tập, công tác ở nước ngoài, không bao giờ được lãng quên lịch sử hào hùng chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam; càng không được vào hùa với các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội, bất mãn để bóp méo, bôi nhọ, xuyên tạc, đòi đánh giá lại lịch sử, phủ nhận tầm vóc vĩ đại của Đại thắng mùa xuân năm 1975 nhằm phục vụ cho những mưu đồ đen tối.” (báo Quân đội Nhân dân, 30/04/2018)
Cũng tát nước theo mưa là bài viết trên Tạp chi Quốc phòng Toàn dân (QPTD) của Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hưởng, cũng đưa ra luận điểm bảo vệ cho cái gọi là “chiến thắng” mùa Xuân 1975.
Ông Hưởng cảnh giác hiện vẫn có “những ý kiến lạc lõng xuyên tạc về ý nghĩa lịch sử của Chiến thắng đó, cần phải cảnh giác, kiên quyết đấu tranh, bác bỏ.”
Ông viết: “Suốt hơn bốn thập kỷ qua, những luận điệu xuyên tạc bản chất, tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhân dân ta; những mưu đồ bóp méo, hạ thấp, phủ định ý nghĩa và giá trị của Đại thắng mùa Xuân 1975 liên tiếp được các thế lực chống đối, thù địch tung lên trên mọi phương tiện thông tin với nhiều hình thức, cả ở trong nước và nước ngoài. Họ thường “thảng thốt” rằng, chiến thắng lịch sử của nhân dân ta ngày 30-4-1975 đối với họ là “tháng 4 đen”; “ngày quốc hận”. Đồng thời, xuyên tạc bản chất, tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, rằng đó là cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn” giữa hai miền Nam – Bắc.” (theo QPTD, ngày 26/04/2018)
Viết như thế, nhưng liệu ông Hưởng có sờ lên gáy xem những dư luận không đồng tình với mấy chữ “Đại thắng mùa Xuân 1975” có phản ảnh sự thật trong đời sống nhân dân như mọi người chưa được “no cơm ấm áo” và đất nước chưa thật sự “có độc lập tự do” , hay những thứ này mới chỉ dành cho một thiểu số có chức, có quyền và những tay sai của đảng cầm quyền?
Hay xa hơn, vẫn đang có những kẻ nội thù và tay sai ngoại bang muốn phân hóa dân tộc?
Đó là lý do tại sao sau 4 năm mà “kẻ thắng” và “người thua” vẫn còn xa mặt cách lòng bởi những con người “kêu ngạo Cộng sản” tiếp tục giáo điều, lạc hậu và chỉ biết đặt quyền lợi cá nhân và phe nhóm trên quyền lợi tối cao của dân tộc. -/-
(05/018)
Mất bản đồ, Mất mặt, Mất ghế và Mất tích ..!!
Hoa Kim Ngo shared a post.
Mất bản đồ, Mất mặt, Mất ghế và Mất tích ..!!
————————-
Một tấm bản đồ quy hoạch khu đô thị Thủ Thiêm, mất tích bản gốc dù đã được ráo riết truy tìm nhiều Bộ ban ngành, đã là chuyện lạ trong công tác lưu trữ.
Cách đây không lâu, hồ sơ về quy trình bổ nhiệm Trịnh Xuân Thanh cũng đã không cánh mà bay, nhưng chúng ta đều tin rằng, đó không phải là vấn đề lưu trữ.
Nhưng việc rất nhiều người đang sống, bỗng dưng mất tích hoàn toàn trong danh sách đi du lịch nước ngoài, của Tổng cty Nông Nghiệp Sài Gòn, lại còn lạ hơn nữa.
Ông Lê Tấn Hùng, TGĐ cty này, năm 2016 đã ký 10 hợp đồng tham quan, học tập kinh nghiệm ở nước ngoài có tổng giá trị tới hơn 13,3 tỉ đồng với du lịch.
Tuy nhiên, kết quả thanh tra cho thấy có đến 22 người không tham gia chuyến đi.
Kì dị hơn xác minh tại Phòng quản lý xuất nhập cảnh Công an TP: trong số 70 người tham gia chuyến đi nước ngoài có 40 người không có trong danh sách, 30 người không có thông tin trên hệ thống của phòng quản lý xuất nhập cảnh.!!
Thực tế những người này không biến mất. Họ vẫn sống và làm việc vui vẻ, nhưng khoản tiền tỉ khổng lồ kia thì chắc chắn đã biến mất vào túi ai đó.
Những sự kỳ lạ nêu trên, chưa thấm vào đâu so với việc tàng hình tôi muốn nói đến dưới đây.
Một con voi khổng lồ điềm nhiên đi qua lỗ kim trước mắt thiên hạ, chui lọt bao nhiêu quy chế, nhưng chỉ được khám phá bởi dư luận, mới là điều lạ nhất.
Con voi ấy có tên Phước Kiển với 30ha đất bị bán rẻ đến kinh ngạc mà không hề được báo cáo cho tập thể Thường trực và Ban Thường vụ Thành ủy TP.HCM theo Quy chế quản lý tài sản.

Nghi vấn về cái chết của Cục phó C50
Cái kết của những tên theo đảng cướp mafia HCM… Làm theo lệnh cũng chết, cũng bị thủ tiêu khi phe nhóm thanh toán nhau!!!
***************
Nghi vấn về cái chết của Cục phó C50
Đại tá Võ Tuấn Dũng, Cục phó Cục Cảnh Sát Phòng Chống Tội Phạm Sử Dụng Công Nghệ Cao (C50) đột tử hay tự tử trong phòng làm việc là nghi vấn được truyền thông trong nước đồng loạt loan tải ngày 04/05.
Tin cho biết ông Võ Tuấn Dũng đến cơ quan tại trụ sở Bộ Công an, 47 Phạm Văn Đồng, Hà Nội, lúc 6 giờ sáng và được phát hiện chết trong phòng làm việc vào khoảng 7 giờ cùng ngày.
Báo Pháp luật Thành Phố Hồ Chí Minh dẫn nguồn tin có thẩm quyền thuộc cơ quan tố tụng tỉnh Phú Thọ cho biết, việc đại tá Dũng tử vong sẽ ảnh hưởng đến quá trình điều tra đối với vụ án đánh bạc ngàn tỉ do hai nghi can Phan Sào Nam và Nguyễn Văn Dương cầm đầu.
Mạng báo Một thế giới cho biết trước đó, công an tỉnh Phú Thọ và Viện Kiểm sát Nhân Dân (VKSND) tỉnh Phú Thọ đã nhiều lần làm việc với ông Võ Tuấn Dũng tại trụ sở của C50 tại Hà Nội, riêng VKSND tỉnh Phú Thọ đã 3 lần làm việc với ông này và buổi làm việc gần đây nhất mới diễn ra vào chiều 03/05 liên quan đến đường dây đánh bạc nghìn tỷ nói trên. Báo này cũng cho biết ông Dũng đã bị đình chỉ công tác, phục vụ việc xác minh và làm rõ các sai phạm trong vụ án nói trên. Liên quan đến quyết định đình chỉ công tác, Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm đã ký quyết định số 4019/QĐ-BCA-X11 ngày 7.11.2017 trong đó yêu cầu trong thời gian bị đình chỉ, đại tá Võ Tuấn Dũng phải có mặt tại đơn vị khi được yêu cầu và Bộ Công an giao Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát có trách nhiệm quản lý đối với ông Dũng trong thời gian này.
Mạng báo Tuổi trẻ cũng dẫn nguồn tin từ cơ quan tố tụng tỉnh Phú Thọ thông tin rằng trong nhưng lần làm việc này, ông Dũng đều hợp tác, tinh thần hoàn toàn bình thường và không có biểu hiện gì bất ổn. Việc làm việc với ông Dũng của cơ quan chức năng cũng là hoàn toàn bình thường vì lãnh đạo của C50 có liên quan đến đường dây đánh bạc nghìn tỷ. Báo Tuổi trẻ cũng dẫn lời lãnh đạo của VKSND tỉnh Phú Thọ cho biết hiện công an vẫn chưa có kết luận gì về vai trò, trách nhiệm của ông Dũng.
Về đường dây đánh bạc ngàn tỉ có sự bảo kê của tướng công an, hiện Công an tỉnh Phú Thọ đã khởi tố gần 90 người trong đó có 2 cấp trên của ông Dũng là ông Phan Văn Vĩnh, cựu trung tướng – tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát và ông Nguyễn Thanh Hoá, cựu cục trưởng C50..
Đại tá Võ Tuấn Dũng sinh năm 1963 và công tác tại Cục C50 từ khi cục này được thành lập, giữ chức trưởng phòng tham mưu và mới được bổ nhiệm giữ chức phó Cục trưởng C50 khoảng 2 năm trở lại đây.

Khi vợ chồng mâu thuẫn… Ai sẽ là người tổn thương nhất?
Giận quá mất khôn. Khi vợ chồng cãi nhau, nếu hai người đều hiếu thắng, cố tranh cãi bằng được có thể sẽ nói những lời tổn thương nhau và làm hại chính cuộc hôn nhân của mình. Không ít gia đình chỉ vì thế mà rạn nứt, vợ chồng mâu thuẫn, sống ly thân, ly hôn, thiếu quan tâm và bỏ mặc con cái. Khi đó, người chịu tổn thương nhiều nhất chắc chắn sẽ không phải vợ hoặc chồng.
Câu chuyện nhẹ nhàng nhưng cũng giúp người xem nhận ra điều gì là quan trọng và quý giá hơn cả, là cái tôi quá lớn của chúng ta hay là đứa con bé bỏng mà chúng ta yêu thương.
Đứa trẻ bán vé số với cái bụng đói cồn cào đã lẻn vào nhà họ định lấy chút đồ ăn khi thấy cửa không đóng, nhưng không ngờ lại vô tình chứng kiến cuộc cãi vã của cặp vợ chồng.
Khi nghe hai vợ chồng tranh giành ai sẽ là người nuôi con, đứa trẻ bất hạnh này đã bật khóc nức nở cầu xin hai vợ chồng đừng ly hôn vì hơn ai hết, em là người biết rõ nhất ai sẽ đau khổ và tổn thương nhiều nhất.
Trước đây, em cũng có một gia đình hạnh phúc, được ba mẹ yêu thương chăm sóc nhưng rồi trong một lần cãi vã, ba mẹ em vì cái tôi quá lớn của mỗi người mà chia tay nhau.
Rồi bố mẹ cũng có gia đình riêng, không còn quan tâm đến em và bỏ mặc em ở cùng bà. Không may bà em qua đời, em trở thành đứa trẻ lang thang, phải bán vé số kiếm sống qua ngày, bị người ta bắt nạt, ăn hiếp.
Nghe câu chuyện của đứa trẻ và câu nói ” Cô chú có muốn con cô chú giống con không?” mà hai vợ chồng không khỏi xót xa và chợt nhận ra bản thân đã suýt đánh mất hạnh phúc gia đình.
Khi bố mẹ có mâu thuẫn hay ly hôn, con cái chính là người chịu nhiều tổn thương nhất. Vì chuyện bất đồng quan điểm là hết sức bình thường, còn lời nói thực sự mà nói thì không phải là ‘gió bay’, nó có thể gây ra bão tố hay làm mát lành tâm hồn và trái tim ai đó. Hãy vì đứa con mà bạn vô cùng thương yêu mà “Nhẫn” khi hai vợ chồng căng thẳng, cái quan trọng nhất chính là cách giải quyết mâu thuẫn như thế nào. Chẳng thế mà từng có câu nói: “Chồng giận thì vợ bớt lời, Cơm sôi bớt lửa chẳng đời nào khê” hay ” Vợ là để yêu thương”.
Minh Khuê
TÌM HIỂU GỐC TÍCH THÁNG HOA ĐỨC MẸ
TÌM HIỂU GỐC TÍCH THÁNG HOA ĐỨC MẸ
Là người Công giáo Việt Nam, nhất là những người đã lớn lên trong một xứ đạo miền Bắc, Trung hoặc Nam, có lẽ không ai lạ gì sinh hoạt tôn giáo trong tháng Năm, tháng Hoa Đức Mẹ. Khi ngàn hoa xanh, đỏ, trắng, tím, vàng nở rộ trong cánh đồng, thì con cái Mẹ cũng chuẩn bị cho những đội dâng hoa, những cuộc rước kiệu, để tôn vinh Mẹ trên trời. Những điệu ca quen thuộc trìu mến bỗng nổi dậy trong tâm hồn cách thân thương, nhất là bài “Đây Tháng Hoa” của nhạc sĩ Duy Tân với điệu 2/4 nhịp nhàng:
“Đây tháng hoa, chúng con trung thành thật thà. Dâng tiến hoa lòng mến dâng lời cung chúc. Hương sắc bay tỏa ngát nhan Mẹ diễm phúc. Muôn tháng qua lòng mến yêu Mẹ không nhòa.
– Đây muôn hoa đẹp còn tươi thắm xinh vô ngần. Đây muôn tâm hồn bay theo lời ca tiến dâng. Ôi Maria, Mẹ tung xuống muôn hoa trời. Để đời chúng con đẹp vui, nhớ quê xa vời.
– Muôn dân trên trần mừng vui đón tháng hoa về. Vang ca tưng bừng ngợi khen tạ ơn khắp nơi. Ánh hồng sắc hương càng tô thắm xinh nhan Mẹ. Sóng nhạc reo vang tràn lan đến muôn muôn đời”.
Nếu có ai tự hỏi: Tháng Hoa có từ đời nào? Do ai khởi xướng? thì câu trả lời cũng không khó khăn gì.
Gốc tích như thế này:
Vào những thế kỉ đầu, hàng năm, khi tháng Năm về, người Rôma tôn kính sự thức giấc sau mùa đông dài của thiên nhiên bằng những cuộc tổ chức gọi là những ngày lễ tôn kính Hoa là Nữ thần mùa Xuân. Các tín hữu Công giáo trong các xứ đạo đã thánh hóa tập tục trên. Họ tổ chức những cuộc rước kiệu hoa và cầu nguyện cho mùa màng phong phú.
Có nơi người ta tổ chức các cuộc “Rước xanh.” Người ta đi cắt các cành cây xanh tươi đang nở hoa, đưa về trang hoàng trong các nhà thờ và đặc biệt các bàn thờ dâng kính Đức Mẹ. Các thi sĩ cũng như các thánh đua nhau sáng tác những bài hát, bài giảng ca tụng những ngày lễ đó cũng như ca tụng Đức Mẹ.
Đến thế kỷ 14, linh mục Henri Suzo dòng Đaminh, vào ngày đầu tháng 5, đã dâng lên Đức Mẹ những việc tôn kính đặc biệt và lấy hoa trang hoàng tượng Đức Mẹ.
Thánh Philipe đệ Nêri, cũng vào ngày 1 tháng 5, thích tập họp các trẻ em lại chung quanh bàn thờ Đức Mẹ, để cùng các bông hoa mùa xuân, Ngài dâng cho Đức Mẹ các nhân đức còn ẩn náu trong tâm hồn non trẻ của chúng.
Đầu thế kỷ 17, tại Napoli, nước Ý, trong thánh đường kính thánh Clara của các nữ tu Dòng Phanxicô, tháng Đức Mẹ được cử hành công cộng: Mỗi chiều đều có hát kính Đức Mẹ, ban phép lành Mình Thánh. Từ ngày đó, tháng Đức Mẹ nhanh chóng lan rộng khắp các xứ đạo.
Năm 1654, cha Nadasi, dòng Tên, xuất bản tập sách nhỏ khuyên mời giáo hữu dành riêng mỗi năm một tháng để tôn kính Đức Mẹ Chúa Trời.
Đầu thế kỷ 19, hết mọi xứ trong Giáo hội đều long trọng kính tháng Đức Mẹ. Các nhà thờ chính có linh mục giảng thuyết, và gần như lấy thời gian sau mùa Chay là thời gian chính thức để tôn kính Đức Mẹ. Trong việc này linh mục Chardon đã có nhiều công. Không những ngài làm cho lòng sốt sắng trong tháng Đức Mẹ được phổ biến trong nước Pháp mà còn ở mọi nước Công giáo khác nữa.
– Đức Giáo hoàng Piô 12, trong Thông điệp “Đấng Trung gian Thiên Chúa”, cho “việc tôn kính Đức Mẹ trong tháng Năm là việc đạo đức được thêm vào nghi thức Phụng vụ, được Giáo hội công nhận và cổ võ”.
– Đức giáo hoàng Phaolô 6, trong Thông điệp Tháng Năm, số 1 viết: “Tháng Năm là Tháng mà lòng đạo đức của giáo dân đã kính dâng cách riêng cho Đức Mẹ. Đó là dịp để ” bày tỏ niềm tin và lòng kính mến mà người Công giáo khắp nơi trên thế giới có đối với Đức Mẹ Nữ Vương Thiên đàng.
Trong tháng này, các Kitô hữu, cả ở trong thánh đường cũng như nơi tư gia, dâng lên Mẹ từ các tấm lòng của họ những lời cầu nguyện và tôn kính sốt sắng và mến yêu cách đặc biệt. Trong tháng này, những ơn phúc của Thiên Chúa nhân từ cũng đổ tràn trên chúng ta từ ngai tòa rất dồi dào của Đức Mẹ” (Dictionary of Mary, Catholic book Pub. 1985, p. 236)
Một câu truyện cũ đáng ta suy nghĩ:
Ở thành Nancêniô trong nước Pháp, có một gia đình trung lưu. Vợ đạo đức, chồng hiền lành nhưng khô khan. Vợ luôn cầu xin Chúa mở lòng cho chồng sửa mình, nhưng chồng cứng lòng mãi. Năm ấy đầu tháng Hoa Đức Mẹ, bà sửa sang bàn thờ để mẹ con làm việc tháng Đức Mẹ. Chồng bà bận việc làm ăn, ít khi ở nhà, và dù ông ở nhà cũng không bao giờ cầu nguyện chung với mẹ con. Ngày lễ nghỉ không bận việc làm thì cũng đi chơi cả ngày, nhưng ông có điều tốt là khi về nhà, bao giờ cũng kiếm mấy bông hoa dâng Đức Mẹ.
Ngày 15 tháng Sáu năm ấy, ông chết bất thình lình, không kịp gặp linh mục. Bà vợ thấy chồng chết không kịp lãnh các phép đạo, bà buồn lắm, nên sinh bệnh nặng, phải đi điều trị ở nơi xa. Khi qua làng Ars, bà vào nhà xứ trình bày tâm sự cùng cha xứ là cha Gioan Vianey.
Cha Vianey là người đạo đức nổi tiếng, được mọi người tặng là vị thánh sống. Bà vừa tới nơi chưa kịp nói điều gì, cha Gioan liền bảo:
– Đừng lo cho linh hồn chồng bà. Chắc bà còn nhớ những bông hoa ông vẫn đem về cho mẹ con bà dâng cho Đức Mẹ trong tháng Hoa vừa rồi chứ?
Nghe cha nói, bà hết sức kinh ngạc, vì bà chưa hề nói với ai về những bông hoa ấy, nếu Chúa không soi cho cha, lẽ nào người biết được?
– Cha sở nói thêm: Nhờ lời bà cầu nguyện và những việc lành ông ấy đã làm để tôn kính Đức Mẹ, Chúa đã thương cho ông ấy được ăn năn tội cách trọn trong giờ chết. Ông ấy đã thoát khỏi hỏa ngục, nhưng còn bị giam trong luyện ngục, xin bà dâng lễ, cầu nguyện, làm việc lành thêm cầu cho ông chóng ra khỏi nơi đền tội nóng nảy mà lên Thiên đàng.
Nghe xong lời cha Gioan, bà hết sức vui mừng tạ ơn Đức Mẹ. (Sách Tháng Đức Bà, Hiện Tại xuất bản, 1969, trang 10).
Nếu chỉ vì mấy bông hoa mọn dâng kính Đức Mẹ cũng được Đức Mẹ ban ơn cứu rỗi lớn lao như vậy, thử hỏi, những ai trong tháng Năm này tham dự dâng Hoa, rước kiệu, đọc kinh Mân côi, hơn nữa, họ dâng lên Mẹ những hoa tin, cậy, mến, hi sinh, đau khổ, bệnh nạn… chắc sẽ còn được Đức Mẹ ban muôn ơn trọng hơn nữa vì Mẹ thích những bông hoa Xanh của lòng Cậy, hoa Đỏ của Lòng mến, hoa Trắng của lòng trong sạch, hoa Tím của hãm mình, hoa vàng của niềm tin, hoa Hồng của kinh Kính mừng lắm lắm.
Thánh Anphongsô Ligori quả quyết rằng: “Nếu tôi thật lòng yêu mến Mẹ, thì tôi chắc chắn được lên thiên đàng”.
Thánh Bênado diễn tả văn vẻ hơn: “Được Mẹ dẫn dắt, bạn sẽ không ngã. Được Mẹ che chở, bạn sẽ không sợ. Được Mẹ hướng dẫn, bạn sẽ an lòng. Được Mẹ ban ơn, bạn sẽ đạt đích mong chờ.“
Lm. ĐoànQuang, CMC
From Langthangchieutim
Cái Tôi Và Sự Hiểu Biết
Cái Tôi Và Sự Hiểu Biết
Khi bàn về cái tôi, người ta thường nói hóm hỉnh rằng: trong cuộc sống, cái tôi mà nặng thì thành tội; cái tôi huyền thì thành tồi; và cái tôi sắc thì thành tối. Mà sống trong tội lỗi, tồi tàn và tăm tối đều là sống trong sự thiếu hiểu biết. Vậy phải chăng sự hiểu biết và cái tôi có sự đối lập như Albert Einstein đã từng nói: “Cái tôi và sự hiểu biết tỷ lệ nghịch với nhau. Hiểu biết càng nhiều thì cái tôi càng nhỏ. Hiểu biết càng ít thì cái tôi càng lớn.”
Phát biểu của Albert Einstein đưa ra một vấn đề cần được xem xét và chứng minh. Vấn đề đó là mối liên hệ tỷ lệ nghịch giữa sự hiểu biết và cái tôi. Để có thể thấy được mối liên hệ tỷ lệ nghịch này, chúng ta cần xem xét một số vấn đề như định nghĩa về “cái tôi”, đặc điểm của “cái tôi” và phân tích “cái tôi” trong mối quan hệ với sự hiểu biết”
Một cụ ông hỏi một cụ bà về định nghĩa của tình yêu. Cụ bà lắc đầu, không thể đưa ra một khái niệm chắc chắn về tình yêu bởi “yêu” là một khái niệm trừu tượng. Cũng như thế, rất khó để có thể đưa ra một định nghĩa hoàn hảo về khái niệm “cái tôi”. Bởi chúng ta không thể chỉ vào một vật nào đó và nói rằng đây là “cái tôi” hay kia là “cái tôi”. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận biết và gọi danh cái tôi thông qua những biểu hiện của nó. Cái tôi của một người có thể được xem là thái độ nhận định của người đó về chính mình, thái độ đó có xu hướng đề cao bản thân, xem bản thân hơn người khác. Vậy câu nói của Albert Einstein có ý cho mọi người thấy rằng: người càng hiểu biết sâu rộng thì càng tự hạ mình, tôn trọng và chấp nhận người khác. Còn người càng ít hiểu biết thì lại càng cho là mình hơn người khác, đặt bản thân lên trên người khác. Nói đến đây, chúng ta cũng đã có thể phần nào hiểu được về cái tôi. Tuy nhiên, chúng ta cần phải bàn thêm nhiều hơn để có thể thấy rõ những đặc điểm của cái tôi trong mối liên hệ với sự hiểu biết.
Cái tôi đi liền với việc cá nhân luôn cho mình là đúng là hơn người. Người có cái tôi lớn tự tin một cách thái quá vào khả năng của bản thân, nên họ cho rằng suy luận, ý kiến của họ là đúng, là tốt nhất. Và khi nghĩ như vậy thì họ không chịu chấp nhận những ý kiến trái chiều hay những lời phê bình và chỉ trích. Họ sẵn sàng phồng mang trợn má, dùng mọi nỗ lực để bảo vệ cho “cái tôi” to lớn kia. Khi nhìn vào các cây liễu và cây dầu trong cơn bão, cây liễu mềm dẻo, uốn mình thừa nhận sự yếu đuối của nó trước những cơn gió mạnh bạo. Trong khi đó, cây dầu lại đứng hiên ngang, giương tất cả các cành to khỏe nhất, cứng cáp nhất để thể hiện sức mạnh của mình, để khẳng định “cái tôi” của nó. Kết quả là cây dầu đã bị quật đổ, cành cây xơ xác, còn cây liễu thì mỗi ngày mỗi lớn hơn dẫu cho biết bao nhiêu cơn bão đã qua đi. Người có cái tôi càng lớn thì họ lại càng không sẵn sàng tiếp thu những đóng góp của người khác nên chẳng thể thu tích được những tư tưởng hay những điều hay điều mới lạ. Dần dần, cái tôi của họ trở nên lớn hớn và sự hiểu biết thì đâm ra hạn hẹp. Còn đối với những người có cái tôi càng nhỏ, họ sẵn sàng rộng mở, đón nhận những yếu đuối của bản thân từ đó mà khắc phục và hoàn thiện hơn, hiểu biết nhiều hơn.
Thêm một đặc điểm nữa khi nói về cái tôi, người có cái tôi lớn là người có xu hướng che giấu, giữ lấy cái xấu, cái dở và cả cái ngu của họ mà không thèm đến cái hay cái tốt nơi người khác. Lý do khiến họ muốn che giấu là vì cái tôi to lớn của họ không muốn người khác biết được yếu điểm của họ, vì như thế thì sẽ rất dễ bị thua người khác. Khi che giấu cái dốt của bản thân, họ đã vô tình đóng lại cánh cửa duy nhất của sự hiểu biết. Họ chặn không cho mình tiếp thu những bài học mới mà cứ giữ lấy những quan điểm, những định kiến cũ rít của mình. Một cái ao tù muốn đem lại sức sống mới thì không còn cách nào khác ngoài việc bỏ đi những khối nước tù đọng và nghèo nàn, thay vào đó là những dòng nước mới và giàu phù sa. Chúng ta không thể tiếp thu một điều mới mẻ và cấp tiến nếu cứ giữ lấy những tư tưởng bảo thủ. Giống như chúng ta không thể nào cầm lấy những quyển sách mà trên tay chúng ta lại ôm lấy cả một đống giấy vụn. Cách duy nhất là chúng ta hãy bỏ đống giấy đó xuống và đưa tay đón lấy những quyển sách. Hãy đặt cái tôi của chúng ta xuống và đón lấy những điều mới mẻ.
Khi xem xét sự hiểu biết trong mối quan hệ với cái tôi, chúng ta có thể thấy rằng người có cái tôi lớn là người hiểu biết rất ít về chính họ. Còn người có cái tôi nhỏ hóa ra lại là người biết rất nhiều về bản thân. Dựa trên đặc điểm của cái tôi, chúng ta dễ nhận ra rằng, người có cái tôi càng lớn thì càng hành động theo cảm xúc. Có thể chỉ cần một lời nói tựa như một giọt nước lạnh đụng chạm đến cái tôi to lớn của họ, chê bai hay chỉ trích chẳng hạn, thì họ tưởng chừng như đang bị dội cả một gáo nước lạnh hay cả một xô nước lạnh lên đầu, thế là họ có thể đã bực tức, cau có phản ứng dữ dội và để cảm xúc lấn áp lý trí. Những người như thế thật thiếu hiểu biết về chính mình. Ngược lại, người có hiểu biết sâu rộng sẽ tìm để biết mình và hành động dựa trên lý trí, thay vì tình cảm. Người càng hiểu biết thì càng bình tĩnh và điềm đạm, họ suy xét kỹ lưỡng và sẽ nhận ra được những khiếm khuyết của bản thân. Từ đó, người càng hiểu biết thì càng hiểu bản thân hơn. Khi đã nhận ra yếu đuối của bản thân, thì cái tôi của họ sẽ càng ngày càng nhỏ lại. Dù có bị dội cả xô nước thì họ vẫn cảm thấy mát lạnh, sảng khoái, và thậm chí là họ còn cảm ơn người đã giúp họ rửa sạch những nhơ bẩn nơi họ.
Sau khi phân tích mối quan hệ giữa cái tôi và sự hiểu biết, chúng ta có thể khẳng định rằng Albert Einstein đã đúng khi cho rằng “Hiểu biết càng nhiều, cái tôi càng bé. Hiểu biết càng ít, cái tôi càng lớn”. Cái tôi là một khái niệm thật khó để diễn tả hết. Cái tôi nằm trong ngay chính mỗi người, nhưng không phải ai trong chúng ta cũng đủ hiểu biết để nhận thức và làm cho nó nhỏ lại. Không ai trong chúng ta muốn bị người khác gán cho cái mác là “cái tôi lớn” và cũng không ai muốn trở thành một kẻ ngu si, thiếu hiểu biết, nên mỗi chúng ta cần nhận biết và kiểm soát cái tôi của mình. Chúng ta cần làm cho mình trở nên hiểu biết hơn và làm cho cái tôi bé hơn mỗi ngày.
Micae Thân Trọng Hưng, MF
From Do Tan Hung & Kim Bang Nguyen
Lạnh lùng chăng, gió tha hương?
Suy Tư Tin Mừng Chúa nhật thứ 6 Phục Sinh năm B 06/5/2018
Tin Mừng (Ga 15: 9-17)
Khi ấy Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người. Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.
Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy.15 Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.
Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.”
& & &
“Lạnh lùng chăng, gió tha hương?”
“Em về bên ấy, ai thương em cùng?”
(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)
Mai Tá lược dịch
Văn thơ ngoài đời, người người vẫn hỏi: “Em về bên ấy, ai thương em cùng?” Thi ca Đạo, Chúa lại quả quyết: “Anh em là bạn của Thầy. Nếu anh em thực hiện điều Thầy dạy, Thầy sẽ không gọi anh em là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm” (Ga 15: 16). Đó là ý chính trình thuật Chúa đã tỏ bày, hôm nay.
Trình thuật, nay thánh Gioan lại đã ghi về một khẳng định Chúa từng bày tỏ: tất cả mọi người là bạn hữu chứ không phải bày tôi của Chúa. Kinh bổn khi xưa lại vẫn nhồi sọ bầy trẻ rằng: loài người có mặt trên trái đất là để phục vụ Chúa. Trong khi đó, Tin Mừng lại quả quyết: chúng ta là bè bạn và là anh em với nhau chứ không là bầy tôi, của ai hết. Điểm khác biệt, giữa bè bạn và bầy tôi là ở điểm: bầy tôi chỉ biết tuân lệnh của chủ một cách máy móc, chứ không nắm rõ ý định thâm sâu nơi lệnh truyền. Bởi lẽ, bầy tôi là người tôi tớ sống ngoài cục diện, cũng như tâm tư mà người chủ vẫn đan kết. Còn bạn bè, lại hiểu rõ lý do khiến bạn mình hành xử, là như thế. Có hiểu rõ, nên mới cảm thông, yêu thương, mật thiết.
Trình thuật, nay được phụng vụ Hội thánh chọn để nhấn mạnh, thêm một lần nữa, lời Chúa tâm sự với đồ đệ trước lúc Ngài giã từ mọi người, để cất bước ra đi chấp nhận khổ đau/sầu buồn đến nỗi chết. Tâm sự, là tâm tình tự sự của Chúa vào phút cuối, trong đó Chúa đã đưa ra lệnh truyền mới yêu cầu mọi người “Hãy thương yêu nhau!” Lệnh truyền, là lệnh yêu thương không theo nghĩa chung/thường tình nhưng là mang ý lực đặc biệt, như Chúa từng nhấn mạnh: “Như Thầy vẫn yêu anh em”.(Ga 15: 12) Đó là điểm chính yếu rất mới. Mới, là lời lẽ thâm sâu cứu độ, khiến Chúa nhập cuộc với con người. Lời và lẽ, của Tình Thương Yêu Ngài tỏ lộ vào ngày cuối, ở thế trần.
Vào ngày cuối, Đức Gêsu biết rõ giới chức cầm quyền ở Giêrusalem muốn trừ khử Ngài khỏi hiện trường cuộc sống với xã hội, nên họ mới tìm bằng cớ bắt giữ Ngài. Ngài lui về vùng đất phía bên kia Gio-đan, tức rời xa tầm tay với và quyền kiểm soát của giới chức đầy quyền thế, là Philatô, Hêrôđê. Nếu chỉ muốn cam phận chọn sống âm thầm ở nơi đó, hẳn là Chúa cũng không bị giới chức ấy đe doạ tính mạng Ngài. Nhưng ngay lúc đó, Ngài được tin người bạn thân thiết của Ngài là Lazarô ốm nặng, chắc khó sống.
Lazarô lâu nay vẫn sống ở thôn làng Bêtania, tức cửa ngõ dẫn vào thành thánh Giêrusalem. Còn Chúa, Ngài lại tạm trú ở Giuđêa, vùng đất nguy cho tánh mạng của các đấng như Ngài. Thành thử, Chúa đành chờ thêm hai ngày nữa để xem nếu như Ngài liều thăm Lazarô, thì sự việc có tồi tệ không? Mạng sống Ngài và của đồ đệ có an toàn không? Đức Giêsu biết rõ tình hình lúc ấy quả là nguy hiểm, nếu Ngài đến thăm Lazarô, có thể Ngài sẽ bị giới chức cầm quyền gài bẫy bắt Ngài rồi lên án chết.
Tuy nhiên, Ngài không sờn lòng, vẫn ra đi thăm bạn hiền đang sắp chết. Ra đi, khi đã đắn đo, chọn lựa. Ra đi, quyết chấp nhận mọi rủi ro, vì tình bạn. Tình bạn phải như thế. Dù có thể, khi đến nơi, Lazarô bạn hiền không còn đó, đã ra đi về miền vĩnh cửu không kịp giã từ Ngài. Và, quyết định của Ngài đã được thánh Tôma, cũng là bạn của Chúa, nhanh chóng hỗ trợ và cùng đi. Hoặc, nếu cần, sẽ cùng chết với Ngài vì tình bạn.
Đó là lúc Ngài thổ lộ: “Không có tình mến thương nào lớn hơn là thí mạng sống mình vì bạn hữu.”(Ga 15: 13) Và, đó là lúc Ngài thêm lời nhủ khuyên đồ đệ: “Hãy yêu mến nhau, như Thầy vẫn mến yêu anh em.” Tức bảo rằng: “Hãy yêu mến nhau, như Thầy đã mến thương (Lazarô) thế này đây!”
Chấp nhận mọi hiểm nguy mang đến cho cuộc sống vì bè bạn, không là ý niệm trừu tượng. Cũng không là châm ngôn về đạo đức. Nhưng, Ngài đi Bêtania là để chữa lành/vực dậy thi hài của bạn hiền, Chúa muốn triển khai nhanh tiến trình chọn cái chết cho Ngài. Tin Mừng thánh Gioan còn ghi rõ: chỉ sau đó, công nghị Giêrusalem mới chính thức lên án Chúa. Án đây là án chết, do Ngài liên tiếp chối từ mọi nhượng bộ làm theo ý họ. Và, họ tìm dịp để thực hiện quyết định đã đưa ra. Xem thế thì, chuyến đi thăm Lazarô ngoài việc chứng tỏ tình bạn là cao cả, còn là cơ hội đã thúc bách động tác có quyết tâm trên Ngài.
Đức Giêsu không là loại người tìm đến cái chết để chứng tỏ điều gì, dù cao cả. Quyết định của Ngài không phải là hành động tự kết liễu cuộc đời. Ngài không là vị anh hùng“kamikaze” cuồng tín. Ngài cũng không tìm đến khoái lạc trong khổ dâm, hoặc chết chóc. Không, hoàn toàn không phải thế. Trái lại, nơi Ngài lại có sự cao cả cùng nét đẹp về bản chất rất chân chất. Bản chất ấy, là dám hy sinh tính mạng mình vì bè bạn. Là, cho đi con người mình vì lòng mến thương rất độ lượng.
Với Chúa, có nhiều thứ nơi cuộc sống hơn là chỉ đơn giản sống sót với đời mình. Tình bạn chẳng khi nào là rẻ mạt hết.
Chúa cũng nói: “Thày đã không gọi anh em là tôi tớ, mà là bạn.” (Ga 15: 15). Bảo rằng: anh em là bạn hữu của Thày, thì anh em có chịu làm điều này với Thày mình không? Nếu anh em là bạn hữu của nhau, thì anh em cũng sẽ làm cho nhau như thế chứ? Bởi lẽ, lòng mến thương -nhất là lòng thương và mến vì bạn hữu- có thể sẽ làm cho anh em dễ bị tổn thương. Tình bạn còn khiến anh em biết lo lắng cho nhau đến độ dám liều mạng sống của mình vì người ấy. Tình bằng hữu có lòng mến cao cả và niềm vui, lẫn niềm đau nỗi khổ nữa. Hai việc này vẫn đi đôi với nhau. Anh em không thể muốn điều này mà lại không chấp nhận điều kia.
Lòng mến thương tựa như lửa ngọn. Lửa này vừa nung ấm tình người, vừa thắp sáng rọi chiếu khắp nơi. Đổi thay hết mọi sự rồi sẽ đưa vào sự sáng. Ở nơi đó, có một thứ lý lẽ rất hợp lẽ đạo nhưng không dựa trên lý trí, không tính toán. Như Chúa nói: Kẻ thù của Ngài chẳng có quyền hành gì trên Ngài hết. Ngài phú ban sự sống của Ngài chỉ vì Ngài muốn thế. Không ai có thể lấy đi khỏi nơi Ngài, tức ra khỏi lòng muốn của Ngài. Làm thế, Ngài đã chứng tỏ cho ta thấy Thiên Chúa là Đấng nào. Là Thiên Chúa, Ngài cũng làm như thế, thôi.
Thiên Chúa đối xử với ta như người “Bạn”, rất hiền. Tình Ngài thương mến ta không do định luật nào, vẫn đề ra. Tình Ngài thương ta, không do bộ óc con người suy diễn để định ước, hoặc ràng buộc. Tình Ngài đem đến cho ta nhiều nghị lực. Và, khi Thiên Chúa can thiệp mọi chuyện vì ta, điều đó không có nghĩa là Ngài đến từ bên ngoài vũ trụ, rồi Ngài thổi vào lớp vỏ bọc ngoài của trời trăng, cùng sông nước.
Nhưng, Ngài đến để chứng tỏ rằng: Ngài muốn thiết lập tình bè bạn rất đích thực. Và, để lưu lại mãi mãi nơi ta. Thiên Chúa tự cho đi chính Mình Ngài. Và, Đức Giêsu cũng mặc lấy nơi Ngài tình thương yêu ấy. Và, Chúa gọi đó là Tình Bạn. Ngài thực thi Tình này cũng một kiểu như người nghệ sĩ, để ta thấy được, nghe được và cảm nhận được.
Điều này, không diễn tiến theo kiểu tôn giáo nào đó đã lý luận, bảo rằng: Thiên Chúa Cha vẫn muốn Con Một Ngài phải chết đi hầu làm lắng dịu nỗi uất ức/giận hờn, nơi con người. Thiên Chúa là Cha, Ngài chẳng bao giờ thiết tha đến những chuyện như thế. Và, Đức Giêsu cũng chẳng ủng hộ những chuyện như thế. Ngài vẫn muốn sống. Vẫn muốn sự sống của Ngài, và còn hơn nữa, sự sống của bè bạn nữa.
Đó là ý nghĩa câu Ngài nói: “Chính do tình mến thương anh em dành cho nhau như bè bạn, mọi người sẽ biết anh em là môn đệ của Thày.”
Và, chúng ta được dạy: Hãy thương mến nhau bằng tất cả sự hăng say, thương mến.Tất cả mọi người chúng ta có quyền lựa cho đi chính mình cho bè bạn như Đức Giêsu từng làm. Như Thiên Chúa là Cha từng làm và sẽ còn làm mãi mãi, không nguôi. Và, nếu mọi người chúng ta muốn trở thành người của Chúa rất đích thực, đó không là chọn lựa. Nhưng là lệnh truyền gửi đến với nhau, và cho nhau.
Hiểu thế rồi, tưởng cũng nên ngâm thêm lời thơ còn đó, đang chờ ta ngâm tiếp:
“Trời hồng chắc má em xinh,
Nước trong, chắc miệng em cười thêm xinh.”
(Đinh Hùng – Bài Hát Mùa Thu)
Mùa thu hát mãi trời hồng. Có má em xinh. Có miệng em cười. Cười xinh trong trời hồng, con dân của Chúa vẫn coi nhau như bạn hiền. Vẫn gọi nhau là anh em, suốt đời. Vẫn cứ mong, mọi người sẽ gọi nhau như thế mãi. Bởi, chính Chúa đã khẳng định và gọi mời mọi người làm như thế. Hết mọi thời.
Lm Kevin O’Shea DCCT biên-soạn
Mai Tá lược dịch
Như một lời cuối, tôi cám, tôi cám ơn đời,
Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ 6 mùa Phục Sinh năm B 06-5-2018
“Như một lời cuối, tôi cám, tôi cám ơn đời,”
như giòng suối mật bao ngọt ngào,
đời cho tôi nuốt …
Ôi ngọt ngào …
Làm sao trút hết nồi lòng của tôi.”
(Hoàng Thi Thơ – Lời Hát Tạ Ơn)
(2Corinthô 5: 17)
Trần Ngọc Mười Hai
Lời cuối hay lời đầu, cũng vẫn là lời và lời, mà thôi. Lời đây, lại là lời hát những chữ “tạ ơn”, hoặc “cám ơn”. “Tạ ơn người”, “cám ơn đời, nào người có hay”. “Tạ ơn Tình”,“hạnh phúc mênh mông” vẫn “bềnh bồng, trong gió trên mây.” tức nghĩa là: người được “cám ơn” vẫn thấy “mênh mông” một phúc hạnh rất “bềnh bồng”. Cám ơn đời/tạ ơn người vừa nằm xuống là cha giáo Úc cả một đời truy tìm tư-tưởng mới để rồi chia sẻ với mọi người, ở chân trời Sydney hôm nay.
Chân trời Sydney hôm ấy, lại thấy đấng bậc Dòng mình cứ “cám ơn đời, cám ơn người”, rất hết mình qua bài điếu văn nói lên các đặc trưng/đặc thù của cha giáo Kevin O’Shea, quyết nói đến đặc trưng “truy tầm tư tưởng mới” của thày mình.
Được biết, hôm ấy Linh mục Giám tỉnh Ed Nixon có cho biết: mỗi ngày, cha giáo Kevin đều lên tàu sắt đi từ nhà phụ thuộc vùng New Castle, Sydney về nhà chính Kogarahmiệt mài “truy tìm tư tưởng mới” suốt 6 tiếng đồng hồ qua sách vở, rồi mới về.
“Truy tìm tư tưởng mới”, là động-thái lạ kỳ nhưng thiết-thực của nhiều bậc vĩ-nhân hôm nay. Kể ra tên tuổi các vĩ-nhân này quả là không hết. Có cố-gắng cho lắm, cũng chỉ hao tổn công sức và thì giờ, mà thôi. Thế nên, hôm nay, nhân cơ hội này, bần đạo xin mời độc-giả cùng bạn và tôi, ta kinh qua một số chuyện để rút tỉa kinh-nghiệm hầu sống cho thoải-mái, phúc hạnh.
Về việc “truy tìm tư tưởng mới”, bần đạo đây bèn nhớ lại câu nói đầy quyết tâm của một bạn đồng học từng nhắn nhủ, rằng: “Này bạn mình, sống mà không có tư tưởng nào mới cả, thà chết sớm còn sướng hơn, nhỉ?” Câu nhắn này, nghe qua cũng hơi mang tính “ngạo mạn” đấy! Thế nhưng, xét cho cùng thì có bảo thế cũng không sai.
Vừa qua, trong “truy tìm nguồn tư-tưởng mới”, bần đạo đây lại đã chộp được giòng chảy nhỏ của nhân-sĩ nọ có viết về “cuộc sống đầy dục tính” của loài người nói chung, xin tạm dịch một đoạn khá vui như sau:
“Có những sự việc lạ kỳ đang xảy đến trên thế-giới của chúng ta. Phía phụ nữ thì: sau khi phá vỡ các mẫu rập khuôn tuổi tác, đang đi vào địa-hạt phát-triển mọi nỗ-lực của con người. Các nước như Ấn Độ, Israel, Phillíppin, Na-Uy, Anh Quốc và nhiều nước khác đã và đang trở-thành thủ-lĩnh do dân bầu để cai-trị đất nước mình…”
Thế đó, là một trong những cái mới nơi giòng chảy tư-tưởng của thời-đại. Thế còn, địa-hạt thần-học thì sao?
Về thần-học, ta có thể nói mà không sợ sai lầm, rằng: ngay đến ông Phaolô của cộng-đoàn tín-hữu thời tiên-khởi cũng là người lâu nay và mãi mãi chủ-trương “truy-tìm nguồn tư-tưởng mới “. Chứng-cớ đành rành thấy rõ là qua khẳng-định đầy tâm-huyết của ông qua câu viết trong bức thư thứ hai gửi giáo-đoàn Corinthô ở đoạn 5 câu 17, vẫn cứ bảo:
“Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới.
Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi.”
Cái mới-mẻ trong giòng chảy tư-tưởng, còn rải rác ở đây đó, chí ít là các bài viết hoặc sách/vở, ngày hôm nay. Dễ thấy nhất, là bài viết ta gặp được ở đoạn văn sau đây:
“Thiên Chúa vẫn thương-yêu ta, dù ta có ra thế nào đi nữa. Với Ngài, mọi người chúng ta đều là những con người phàm-tục đáng quí-trọng. Truyện kể hàng tư tế, còn nói lên một điều nữa, là: suy-tư của ta về các lỗi/tội hoặc sai sót/bất-toàn, không có chỗ đứng trong mối quan-hệ mật-thiết giữa ta và Thiên-Chúa. Điều này, còn có nghĩa: đã có khởi đầu mới, nên ta không cần ở mãi trong thân-phận tôi đòi, hoặc làm thân nô-lệ do gánh nặng của quá-khứ tạo cho ta.
Một số người có vấn-đề về tội lỗi hoặc mang tâm-trạng tiêu-cực, lại cứ nghĩ: mình không xứng-đáng được Chúa cứu-vớt, nên càng phải xem xét cho thật kỹ thông-điệp này, hơn.” (X. Gs Marcus J. Borg, Gặp Gỡ Đức Giêsu Như Lần Đầu Từng Gặp”, Chương 6, nxb Hồng Đức 2018)
Nói cho cùng, thì: người và ta cũng như ta và người, chỉ gặp được những gì là “mới mẻ” ở tư-tưởng thần-học, ngang qua và nhờ vào Thần Khí, mà thôi. Cố Gs Kevin O’Shea, CSsR cũng đã nhận ra được điều này, khi ông suy và niệm trình-thuật Tin Mừng do tác giả Gioan diễn và tả mọi sự việc xảy đến với cộng-đoàn tín-hữu thời tiên-khởi, mà bảo rằng:
“Trình thuật thánh Gioan, nay diễn tả là diễn và tả về Đấng tràn đầy Thần Khí, tức Đức Giêsu Kitô. Ngài là Chúa, rất thật như lịch sử cho thấy, mà không cần chứng minh. Tuy nhiên thời tiên khởi, nhiều người lại coi đây như danh xưng lờ mờ, chưa chứng tỏ. Có lẽ vì thế, cũng nên suy về thiên tính của Ngài để khám phá thêm về Đức Chúa.
Thời xa xưa, khi nói Thiên Chúa là nói đến Giavê. Nếu có ai hỏi về những người sống cùng thời với Đức Giêsu xem Ngài có là Giavê Thiên Chúa không, thì câu trả lời khi ấy sẽ rất nhanh là tiếng “không”. Và, nếu có hỏi chính Đức Giêsu cũng bấy nhiêu từ, thì chắc hẳn Ngài cũng nói tiếng “không” hệt như thế.
Bởi, người sống gần gũi Đức Giêsu lúc ấy, vẫn không nghĩ Ngài là Giavê Thiên Chúa, hoặc Đức Chúa của ai, mà Ngài chỉ là ngôn sứ do Giavê gửi đến, thôi. Thế nên, người sống ở thời của Chúa ít khi thắc mắc về “thiên tính” của Đức Giêsu, cũng dễ hiểu.
Ngay thánh Phaolô cũng ít khi tự vấn mình bằng câu hỏi Đức Giêsu có là Thiên Chúa không? Tất cả các thánh thuộc Giáo hội thời ban đầu đều có ý nghĩ: Đức Giêsu có tràn đầy thiên tính nên Ngài mới kết hợp mật thiết với Thiên Chúa đến độ ngoài Ngài ra, không ai có được cảm nghiệm nào như thế.
Kết cục là, Thiên Chúa vẫn hiện hữu và nổi lên cách đương nhiên ở bên trong và chung quanh Đức Giêsu, vì con người. Đức Giêsu sẻ san mọi điều Thiên Chúa đã và đang làm với Chúa và trong Chúa. Và, Thiên Chúa cũng thực hiện công trình của Ngài với Đức Giêsu và trong Đức Giêsu. Thiên Chúa và Đức Giêsu ở gần nhau đến độ không ngôn ngữ nào nói lên được sự gần gũi ấy.
Tín hữu thời giáo hội tiên khởi phải mất một thời gian dài mới tìm ra ngôn ngữ chính xác để nói lên tương quan giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa cũng như giữa Thiên Chúa và Ngài. Tương quan ấy, dựa trên niềm tin rất chính xác rất mới về tính “có một không hai” của Đức Giêsu. Tín điều này, nảy sinh và lớn mạnh cũng chậm, nhất là với thế giới Hy Lạp.
Ngay đến Tin Mừng của các thánh cũng viết theo văn phong cốt cách nhằm lôi cuốn sự chú ý phấn khởi của mọi người để biết rõ Đức Giêsu là Đấng nào. Tin Mừng các thánh viết ra không là văn bản lịch sử và cũng không là định nghĩa chính thức về Ngài. Tân Ước chỉ để ra đôi đoạn rời rạc về chuyện này và xem ra cũng không mang tính nhất quán. Có Tin Mừng nói rất rõ về thiên tính của Chúa, trong khi đó, có bản lại nói ngược hẳn.
Chừng như nhận thức công khai và rộng rãi về thiên tính của Đức Giêsu chỉ có được vào những năm cuối thế kỷ đầu, thôi. Nhiều người lại cứ nghĩ: mặc khải về thiên tính của Đức Giêsu, là điều cốt yếu của niềm tin, và được củng cố theo khuôn thước của Công đồng Hy-Lạp bằng cung cách dễ tiếp cận. Sự thật tuy còn đó, nhưng ngôn ngữ con người vẫn luôn nghi ngờ hết mọi sự.
Thật ra, người thời ấy vẫn thấy khó mà nắm được ý nghĩa ngôn ngữ mà họ sử dụng hằng ngày. Giống như tiếng Hy Lạp vẫn là thứ ngôn ngữ rất lạ, đối với người thường. Lạ đến độ, có người vẫn tự hỏi lòng mình xem có cách nào khác để khám phá ra thiên tính đích thực của Chúa không? Cung cách mới chứ không phải ngôn ngữ cổ của thời xưa.” (X. Lm Kevin O’Shea CSsR, Lời Chúa Sẻ San năm B, 2018 tr. 114-115)
“Cung cách mới chứ không phải ngôn-ngữ cổ thời xưa”, vẫn là những thứ và những sự làm bận tâm cộng-đoàn Hội-thánh suốt nhiều thời. Thời nay, nhiều người nắm bắt được điều mới mẻ ấy, vẫn nói những lời đầy cảm-kích như những ca-từ còn hát mãi, ở bên dưới:
“Như một lời cuối, tôi cám, tôi cám ơn người,
Nào người có hay,
nhưng tràng pháo tay là những phút giây,
làm tiếng hát thêm say, làm tiếng hát cao bay
đời ta bảy bờ
Như một lời cuối, tôi cám, tôi cám ơn Tình,
Tình đến như mộng, với cuộc tình hồng,
với cuộc tình nồng cho tôi hớp cạn bao phút thiên đàng,
hạnh phúc mênh mông.
Rồi mai đây nếu tôi không còn trên đời này,
thì lời này còn nồng nàn như hớp rượu say
Rồi mai đây nếu tôi không còn
thì lời này còn bềnh bồng,
bềnh bồng trong gió, trên mây
(Hoàng Thi Thơ – bđd)
Hát những lời “bềnh bồng trong gió, trên mây”, còn để mọi người trong đó có tôi và bạn, những con người đang suy-tư cảm-kích thứ “tình người” và “tình đời” vẫn mênh mông, rộng khắp chốn bằng đủ mọi hình-thức thân quen, mới cứng rất trân trọng ở đời người. Những tình-tự như thế, còn được trân-trọng bằng giòng truyện kể rất dễ nể như bên dưới:
“Có tên cướp đi vào ngôi làng nọ. Hắn ta ẩn vào nhà vị bác sĩ duy nhất trong làng, tức: người mà hắn tin rằng rất giàu, nên dự tính đến khuya sẽ nắm đầu ông bác sĩ và bắt ông nói chỗ cất giấu của cải quý giá của mình, rồi giết ông đi để bảo mật.
Đêm hôm ấy, đột nhiên có điện thoại từ người thân của đứa trẻ làng bên cạnh đang bị bệnh rất nặng cầu cứu bác sĩ. Lúc ấy, vào mùa đông, trời đổ tuyết lớn, mưa gió bão bùng, thôn làng của đứa trẻ bị bệnh lại cách xa một quả núi, đi đến đó sẽ gặp nhiều nguy hiểm trên đường, mà trời lại quá khuya, trong khi ông đã trải qua một ngày trời quá mệt mỏi.
Gác điện thoại, ông bác sĩ thở dài dự định lên giường để nghỉ. Nhưng rồi ông lẩm bẩm tự nhủ: mình không đi bây giờ lỡ ra đứa trẻ ấy chết đi thì sao. Nghĩ thế xong, ông lấy lại tinh thần bèn mặc thêm áo ấm, cầm theo cây đèn bão rồi mở cửa, ra đi. Dáng ông liêu xiêu trong gió tuyết. Sáng hôm sau khi ông bác sĩ trở về, tên cướp đón ông ngay trước cửa nhà, sụp xuống dưới chân ông:
-Ông có biết tôi chờ ông suốt từ đêm qua tới giờ không?
-Xin ông vào nhà để tôi khám bệnh cho ông, Bác sĩ đáp lại.
Tên cướp nói:
-Không phải thế. Tôi là một tên ăn trộm. Đêm qua, tôi đã ẩn nấp trong nhà ông. Tôi muốn bắt ông khai chỗ giấu của cải và rồi quyết-định sẽ giết ông. Nhưng hôm qua, giữa trời mưa gió bão bùng, tuyết rơi khắp chốn, ông lại bất chấp nguy hiểm đi chữa bệnh cho người ta. Tôi cảm thấy rất xấu hổ vì định làm hại một người có lòng tốt như ông. Khi ông ra đi trong đêm tối, ông không chỉ cứu đứa trẻ ở làng bên kia mà thôi, nhưng còn cứu chính bản thân ông. Và ông biết không, ông còn cứu cả tôi nữa”.
Thật may cho ông bác sĩ và ông Thượng vì cả tên cướp trong câu chuyện trên và anh thanh niên được kể trong đề bài đều “không thể đối xử với tình thương bằng lòng tham của mình”. Sự may mắn ấy của một con người không phải đến một cách tình cờ mà nó được tích lũy bởi lòng chân thành và tình thương của họ. Tình yêu thương của con người vẫn có thể lay động cả đất trời.
Bởi thế nên, có thể nói rằng: chúng ta bất kể giàu/nghèo, sang/hèn đều gắn kết với nhau được đó là nhờ việc “cho đi”. Cho đi, giống như hành-động của một Bill Gates, hay Warren Buffet là những vĩ-nhân có thể thay đổi cả thế giới. Chúng ta cũng có thể không hoặc chưa làm được những điều lớn lao như các vị này, nhưng chúng ta vẫn có thể cho đi bằng những hành-động bé nhỏ hằng ngày.
Đó có thể đơn giản chỉ là một nụ cười dịu nhẹ tỏ ra với người bán hàng, hoặc lời cám ơn chân thành gửi đến người lao công ở trên phố, hoặc biết chia sẻ công việc nhà với bà con, hoặc biết xếp hàng ở phố/chợ, biết bỏ cọng rác vào thùng, biết xách hộ cái giỏ nặng cho phụ nữ mang bầu, biết nhường ghế cho cụ già vất vả trên xe buýt…
Vào những lúc có thể, ta cũng nên làm những việc nhỏ bé, chỉ vậy thôi. Nếu tất cả mọi người đều biết cách sống mà “cho đi”, ắt hẳn tất cả mọi người lại sẽ nhận ra thiên đường, ở thế gian này.
Có người lại sẽ bảo: tôi còn nhỏ tuổi và đời tôi đâu phải màu hồng mà phải làm thế. Riêng tôi thì nghĩ khác. Bút màu cầm trong tay, ai cũng có quyền tô vẽ màu sắc cho đời mình được hết. Để kết thúc những giòng chảy này, nay xin kể thêm câu truyện kể về hai cái hồ ở đất nước Palestine thuộc miền Trung Đông binh biến.
“Nhiều người vẫn bảo: Palestine có hai biển hồ. Biển thứ nhất là Biển Chết. Đúng như tên gọi, không có sự sống nào ở bên trong hoặc xung quanh biển hồ này. Nước trong hồ, không loại cá nào lại sống nổi mà người uống cũng bị bệnh. Không ai muốn sống ở gần đó. Biển hồ thứ hai là Hồ Galilê. Đây là biển hồ thu hút khách du lịch nhiều nhất. Nước ở biển hồ lúc nào cũng trong xanh mát rượi, con người có thể uống được mà cá cũng có thể sống được. Nhà cửa được xây cất rất nhiều ở đây. Vườn tược ở đây tốt tươi là nhờ nguồn nước này…
Nhưng, có điều lạ kỳ là: cả hai biển hồ này đều đón nhận nguồn nước từ sông Jordan. Nước sông Jordan chảy vào biển Chết. Biển chết đón nhận và giữ lại cho riêng mình mà không chia sẻ cho nơi nào khác, nên nước ở Biển Chết trở nên mặn chat, với mặn chằng. Biển hồ Galilê lại cũng nhận nguồn nước từ sông Jordan rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông lạch khác, nhờ vậy nước ở hồ này luôn sạch trong và mang lại sự sống cho cây cối, muôn thú và cả con người nữa.
Ánh lửa sẻ chia là ánh lửa lan đi khắp chốn. Môi người, có hé mở mới thu nhận được nụ cười. Bàn tay có mở rộng và trao ban mọi thứ, tâm hồn mới ngập tràn niềm vui bất tận.
Thật bất hạnh cho những ai suốt cả cuộc đời chỉ biết giữ riêng cho mình đủ mọi thứ. Sự sống ở trong họ, rồi cũng sẽ chết dần chết mòn như nguồn nước trong biển chết”. (Truyện kể do St sưu tầm và chuyển tải để mọi người biết).
Nói cho cùng, có cho đi thật nhiều rồi cũng sẽ thấy cuộc đời mình vui biết chừng nào. Hãy cám ơn đời/cám ơn người cho thật nhiều dù không nhận được bao nhiêu, từ người khác. Bởi, tất cả là ân-huệ; thế nên, sẽ có lúc người và ta cũng như ta và người tha hồ mà nhận lĩnh, mãi không thôi.
Thế đó, là ý-nghĩa của đời người. Một đời vẫn cứ cho đi nhiều hơn là nhận-lĩnh suốt có đính kèm một “cám ơn đời”, “cám ơn người” về mọi sự.
Trần Ngọc Mười Hai
và những quyết-định nhỏ
có thêm lời cảm tạ bậc thày
là cha giáo Kevin O’Shea, DCCT
vừa quá vãng cũng mới đây.
Nhức Nhối Con Tim – Tràm Cà Mau
Nhức Nhối Con Tim – Tràm Cà Mau
Nhiều người tưởng rằng, đau tim là bệnh của ai khác, chứ không phải họ. Lầm to, ai cũng có thể chết bất thần vì đau tim, mà không có một triệu chứng nào báo trước cả. Đau tim, một trong những bệnh giết chết nhiều người nhất tại nước Mỹ. Nhờ khoa học tiến bộ, biết đích danh chết vì bệnh tim. Chứ bên Việt Nam mình thì cứ gọi là “trúng gió”, trúng gió mà chết, nhiều lắm. Bị trúng gió, thì cạo gió, và xoa bóp huyệt đạo lung tung, cũng cứu được rất nhiều người. Đó cũng là một cách kích động cho trái tim đập lại, cho máu lưu thông, mà thoát chết. Cái gì cũng là “trúng gió” cả.
Câu chuyện “trúng gió” tại Mỹ cũng rất nhiều. Trong sở tôi, có một ông chưa được 60 tuổi, buổi trưa gục đầu trên bàn và chết mà không ai biết. Ông bạn ngồi bên cạnh đến lay nhẹ và nói: “Dậy, dậy, trong giờ làm việc mà ngủ, người ta thấy kỳ lắm”. Ông nầy chết trong khi đang làm việc. Đâu phải công việc khó khăn, mệt nhọc và căng thẳng thần kinh lắm cho cam. Công việc cũng nhàn nhã, thong dong, không ai thúc hối, thế mà vẫn chết.
Một ông khác, tuổi trên 50, còn độc thân, đi ăn trưa về, vừa buớc vào thang máy, thì quỵ xuống. Bạn đồng nghiệp kêu xe cấp cứu, đến bệnh viện thì đã chết rồi. Nhiều người ngạc nhiên, vì ông nầy trông trẻ trung, dáng vóc khỏe mạnh, lanh lẹ và độc thân, không có ai mè nheo, cằn nhằn đến độ bực mình mà chết.
Một ông bạn, suốt đời không có triệu chứng gì về đau tim cả. Chỉ có bà vợ hay la mắng rầy rà làm ông buồn mà thôi. Một hôm ông ngồi đọc báo chờ vợ trước siêu thị. Bà vợ đẩy xe ra cửa, và nạt ông chồng: “Còn ngồi đó nữa sao? Không phụ tôi đẩy xe ư? Đàn ông gì mà lười biếng quá”. Ông vội vã đến đẩy xe cho vợ, mới đi được mấy bước thì quỵ xuống. Bà vợ nạt: “Già rồi mà đi đứng còn hấp tấp, không ý tứ gì cả. Sao không đứng dậy, mà còn định nằm vạ đến bao giờ?” Thấy chồng nằm vạ lâu, bà cúi xuống kéo áo ông, thấy hai con ngươi đứng tròng. Bà hốt hoảng la lên. Nhưng không kịp nữa. Ông đã bị đứng tim chết rồi. Chính bà kể lại và khóc lóc.
Báo đăng, có ba ông bác sĩ gây mê, chưa đến 50 tuồi, đều chết vì bịnh tim. Cả ba ông đều không có triệu chứng gì về đau tim. Một ông vừa lái xe về nhà. Bà vợ ở phòng trên nghe tiếng ga-ra mở cửa. Chờ mãi không thấy chồng, chạy xuống ga-ra, thì thấy ông gục đầu trên tay lái mà chết. Ông đã bị đứng tim. Một ông khác, vừa chuyển thuốc mê vào cho bệnh nhân sắp mổ, thì gục xuống, và đi luôn. Một ông khác, cũng chết đột ngột tương tự. Đau tim mà chết. Không biết nghề bác sĩ gây mê nầy có lo lắng lắm không, mà giết chết nhiều người tuổi còn khá trẻ.
*************
Ngày nay, 50 tuổi được xem là còn trẻ, chứ ngày xưa, vua Khải Định đã ăn mừng “tứ tuần thượng thọ” rồi đó. Thời nầy, 40 tuổi thì xem như còn xuân xanh lắm, nhiều anh chưa chịu lấy vợ, nhiều chị chưa chịu lấy chồng, vì còn trẻ mà, vội chi? Bạn tôi, đi làm việc về, đút chìa vào ổ khóa cửa mãi mà không được, cứ trật ra ngoài hoài. Rồi bỗng nhiên quỵ xuống trước cửa nhà. Trong phút nguy cấp đó, anh biết không phải bị “trúng gió”, vội vã mò điện thoại cầm tay, kêu số cấp cứu 911. Anh được chở kịp vào bệnh viện, và đêm đó, bác sĩ đè ra mổ tim ngay. Cứu anh sống. Nhưng không làm việc được, tay yếu không lái xe, trí óc không còn sáng suốt. Vẫn sống bình thường. Hai năm sau, trong khi đang tắm, qụy xuống, và chết vì tim. Có người phỏng đoán, anh chết vì tắm nước quá mát. Máu dồn ra ngoài da để bảo vệ thân thể, tim không còn máu, nên “đi” luôn.
Ông bạn ngồi cạnh tôi, người Mỹ, tuổi chưa được 50, dáng người gầy, thon thả, mỗi chiều sau khi tan sở, chạy bộ ven bờ sông. Một hôm nọ, vợ ông không thấy ông về, điện thoại hỏi thăm khắp nơi. Hôm sau điện thoại vào sở xem ông có đi làm không. Đi tìm mãi, cảnh sát báo cho bà biết, tìm ra xác ông bên bờ sông. Ông chết vì bị đứng tim.
Một ông bác sĩ mổ tim, tập thể dục mỗi ngày. Cũng không có triệu chứng gì trước về căn bệnh tim. Hôm đó ra sân quần vợt. Vừa đưa vợt lên, thì té qụy xuống, và chết luôn. Không cứu kịp. Một ông khác, trưa nào cũng lái xe đến sở của cô con gái, để cha con cùng đi ăn, và chuyện trò cho vui. Một hôm, trên đường đi, ông thấy đau trong ngực, và biết cần cấp cứu ngay. Ông rán hết sức, lái xe đến thẳng phòng cấp cứu của bệnh viện và khai là đau tim. Nhân viên bệnh viện thấy ông còn lái xe được, và để ông chờ. Chờ lâu quá, ông chết ngay trong phòng làm hồ sơ tiếp nhận cấp cứu. Đáng ra, ông phải dừng lại, và kêu xe cấp cứu ngay. Bởi lái xe, nguy hiểm cho người khác nếu ngất xỉu trên tay lái. Hơn nữa, nếu đi xe cấp cứu, bệnh viện sẽ cứu ông ngay khi mới vào.
Nhiều người rất sợ vào nằm chờ trong phòng cấp cứu của bệnh viện. Vì trên đường thì xe hú còi ầm ỉ, gấp gáp lắm, nhưng khi đến bệnh viện, thì để cho người bệnh nằm chờ dài cổ ra, chờ cho chán chê, mà chẳng ai dòm ngó đến. Rồi chán nản quá, họ đứng dậy, ra về mà không cần báo cho bệnh viện biết.
Bạn tôi, buổi tối ngồi xem truyền hình với đứa con trai. Khi hết phim, cháu đến thức bố dậy đi ngủ: “Bố ơi, hết phim rồi, vào đi ngủ.” Lay hoài không thấy bố dậy. Cháu bé khóc: “Bố đừng làm con sợ.” Và bạn tôi đã chết tự bao giờ mà không biết. Chỉ có hai bố con sống với nhau. Tội nghiệp thằng bé, không biết phải làm gì trong tình thế đó. Nhiều trường hợp khác nữa, thấy tận mắt, nghe tận tai, nhiều quá không kể hết được. Thế mà, tôi cũng như mọi người khác, cứ tưởng bệnh tim là bệnh của ai, chứ không phải của mình.
Y hệt chuyện chết chóc, ai đó chết, chứ mình thì không, như sống mãi muôn đời.
Nhiều năm trước, khi đi ra ngoài trời lạnh, tôi cảm thấy nhói nhói trong tim. (Nói theo bạn tôi, là cảm thấy đau nhè nhẹ như khi bị phụ tình). Tôi cũng không cần báo cho bác sĩ biết. Một hôm đi khám bệnh, trong lúc nói chuyện đùa cho vui, tôi tiết lộ cái “nhói nhói như bị phụ tình” đó. Ông bác sĩ nầy tử tế, đưa tôi đi đo tâm động đồ. Không biết sao hôm đó, tâm động đồ của tôi bất thường, lặng đi hai nhịp. Nhiều người cho biết, bình thường thì cảm thấy tim đau, nhưng khi đo nhịp tim, thì tim đập bình thường, nên không có dấu hiệu nào cả, bác sĩ cho là tim đập bình thường. Sau đó, tôi được đưa đi thử nghiệm nhiều cách khác nữa. Làm luôn cả thử nghiệm “phóng xạ” (nuclear scanning), bơm chất cản quang vào máu, và soi xem các cơ tim hoạt động ra sao. Tôi được nằm và chuồi vào một cái máy, như sắp phóng tôi vào trong không gian, ở các phim giả tưởng. Sau đó, được xét nghiệm bằng siêu âm xem các van tim hoạt động có bình thường không. Bác sĩ gia đình nói cho tôi biết, có một mạch máu rất nhỏ dưới đáy nhọn của tim bị nghẹt nhẹ.
**************
Về sau, tôi nói điều nầy với ông bác sĩ chuyên môn bệnh tim, ông cười và mĩa mai tôi. Vì các thử nghiệm đó, không thể kết luận nghẹt mạch máu tim. Chỉ khi nào làm thử nghiệm soi mạch máu (angiography) mời biết rõ có nghẹt hay không. Bác sĩ gia đình cho tôi uống thuốc trừ mỡ trong máu (cholesterol), uống mỗi ngày, uống đều đều. Một hôm tôi đọc được tài liệu cho biết, uống thuốc trị mỡ lâu ngày, có thể đưa đến bệnh gan trầm trọng. Bạn tôi cũng dọa tôi về bệnh gan, đưa cho tôi nhiều thống kê đáng sợ về những người bị hư gan vì uống thuốc đau tim. Có lẽ tôi thiên vị, thương lá gan hơn thương trái tim, cho nên tôi ngưng uống thuốc trừ mỡ.
Sau đó, tôi thường nghĩ, đâu cần uống thuốc trừ mỡ, không uống, tôi vẫn sống nhăn răng ra đây, có can gì đâu. Cho đến một hôm, tôi thấy cánh tay trái mỏi trong bắp thịt, hơi tê tê, nhói nhói. Tôi tưởng vì cắt tỉa mấy cây hường mà ra. Nếu đau tay vì tỉa hoa, thì phải đau tay mặt mới đúng, nhưng tôi cố giải thích sao cho tự yên tâm mình. Nghĩ rằng, rồi bắp thịt sẽ hết đau. Nhưng sau đó, nhiều hôm đang tập thể dục nữa chừng, thì mệt dữ dội, phải ngưng tập năm bảy phút mới tập lại được. Sau đó, mỗi lần xách cái gì nặng, cũng mau mệt khủng khiếp. Những lúc đi ra ngoài trời lạnh, thì mệt ngất, đi không được, phải quay về. Thêm vào các triệu chứng đó, là thỉnh thoảng nghe nhói trong tim, ở ngực, nhưng không xác định được chắc chắn đau chỗ nào. Có đêm đang ngủ, nghe nhói tim thức giấc dậy. Những lúc nầy, là tim đau, nếu được “thăng” ngay, thì khỏe khoắn và nhẹ nhàng lắm. Không đau dớn chi nhiều cả.
Với những lời khai bệnh như trên, ông bác sĩ gia đình vẫn cười, cho rằng chưa đáng chuyển qua bác sĩ chuyên môn, và chỉ cho uống thuốc. Dù ông nầy rất tử tế, rất tốt. Khi tôi khai có ngày bị đau nhói trong ngực và mệt đến hai ba lần, ông mới chuyển qua bác sĩ chuyên môn về tim. Qua lời khai, ông bác sĩ nầy biết ngay là tôi bị nghẽn mạch máu tim. Ông giải thích, và cho tôi biết có 3 cách chữa trị.
Thứ nhất là uống thuốc để cầm cự. Thuốc không chữa được bệnh, mà chỉ làm mạch máu giản to ra, cho máu dễ lưu thông hơn, khi nào không uống thuốc, thì mạch máu không gỉản, và lúc đó có cơ nguy.
Cách thứ hai là đút vào chỗ nghẽn một cái ống kim loại như cái lò xò lưới, rồi cho ống phình ra, ép chất mỡ vào thành mạch máu, để máu có thể lưu thông qua “ống cống” đó.
Cách thứ ba, là lấy ống tĩnh mạch ở chân, rồi nối bắc cầu băng qua chổ nghẽn, cho máu lưu thông theo đường mới.
Cả ba cách, chất mỡ vẫn còn nằm đó, nguồn bệnh vẫn còn đó, nhưng máu huyết được lưu thông, thì bớt đau, hoặc bớt nguy hiểm cho tính mạng. Ông hẹn ngày, và nói sẽ đút cái “ống cống” vào mạch máu cho tôi, dễ lắm, chưa đầy nữa tiếng thì xong. Chỉ nằm bệnh viện một hôm rồi về nhà. Tôi yên chí lớn. Sá gì một hai cái ống kim loại nằm trong thân thể. Đúng ngày hẹn, ông bác sĩ cho đè tôi ra, cắt mạch máu ở háng, đút cái ống thông lên tận tim. Thật lạ, tôi không thấy đau đớn chi cả. Chỉ khi ông bơm thuốc nhuộm vào mạch máu qua cái ống, thì cảm thấy nóng nóng, ấm ấm. Tôi nhìn vào màn truyền hình, thấy màu đen tỏa ra nhiều nhánh như hệ thống thượng nguồn của sông rạch. Ông bác sĩ chỉ cho tôi chỗ mạch máu bị nghẹt. Ông nói, mạch nầy đã nghẹt 100% nếu không thì sẽ thấy máu đi vòng qua bên kia. Ông cho biết hai mạch bị nghẹt nặng, một mạch khác bị nghẹt 60%. Không thể đặt “ống cống” thông (sten) được. Ông cắt cử bác sĩ giải phẩu cho tôi, và định luôn ngày mổ banh ngực. Tôi cũng hơi ngạc nhiên, và không ngờ tình trạng trái tim của mình tệ đến thế. Rồi tôi làm đủ các thủ tục. Được dặn dò điều gì phài làm trước ngày lên bàn mỗ. Cho tài liệu đọc, để biết sơ sơ về mổ cái gì, mổ ra làm sao, và làm cái gì trong lúc mổ.
Để biết lý lịch và kinh nghiệm của ông bác sĩ sắp giải phẩu cho tôi, tôi mở internet ra, vào Google, rồi đánh máy tên ông bác sĩ vào. Mở cái web có tên ông ấy ra, tôi sẽ biết rỏ năm sanh, học trung học ở đâu, đại học ở đâu, tốt nghiệp năm nào, làm ở nhà thưong nào bao nhiêu năm, làm gì, đưọc huy chưong, tưởng thưởng nào. Tôi không ngờ, ông bác sĩ sẽ mổ cho tôi, là trưởng khoa tim ở bệnh viện tôi sắp nằm, và ông nầy có rất nhiều kinh nghiệm trong việc mổ tim.
*************
Tôi về nhà, lục internet xem về mổ tim. Qua mạng lưới Google, tôi tìm mục mổ tim (open heart surgery), tìm ra được rất nhiều bài viết, phim chiếu rất rõ ràng, hay. Có nhiều mục chiếu video cuộc mổ tim. Chiếu từ khi rạch ngực, cưa đôi cái xương sụn nối với các xương lồng ngực, banh lồng ngực ra, và khâu vá, mổ, đóng lại. Xem thì hơi ớn, vì thấy ghê quá, banh toác bộ xương sườn ra, mà mằn mò, khâu vá như một ông thợ may vụng về tập may, trong khi trái tim vẫn đập thoi thóp co bóp. Nếu không “cóc cần” mọi sự, thì e cũng lo lắm. Ai sắp mổ ngực, nếu sợ chết, thì đừng xem các video nầy mà sợ. Không thấy, không biết, thì yên tâm hơn. Đỡ sợ.
Trước khi mổ tim mấy ngày, bệnh viện dặn dò tôi làm phải giữ gìn sức khỏe kỹ lưỡng, đừng để bị ho hen, cảm cúm, Vì nếu bị bệnh khác, thì cuộc mổ sẽ hoãn lại, hoặc bị nhiểm trùng trong khi mổ, rất khó bình phục và nguy hiểm. Họ phát cho tôi khá nhiều tài liệu để đọc, nhiều giấy tờ dặn dò làm việc gì trước, việc gì sau, phải ghi xuống giấy để nhớ theo thứ tự. Cái bàn của tôi, vung vải giấy tờ lộn xộn. Biết là có thể “đi đong” cái mạng già trong cuộc giải phẩu, tôi làm một bảng liệt kê nhắc nhở và dặn dò bà xã phài làm gì, làm gì, nếu tôi không còn nữa. Điều cần nhất là đừng có khóc lóc, buồn bả, vì chết cũng là một tiến trình của đời sống. Đừng có làm đám tang um sùm, đừng tụng kinh gõ mõ cầu siêu, cũng đừng cáo phó, đừng vòng hoa, đừng hòm tốt. Giản dị đem thiêu, rồi lấy tro. Sau đó, làm gì với mớ tro đó cũng được.
Trước khi mổ mấy hôm, tôi giữ gìn vệ sinh kỹ lắm. Mặc thật ấm áp, ăn uống điều độ, ăn chất hiền lành, ngủ nghê đầy đủ. Ít dám đi ra ngoài, tránh đám đông. Thế mà trước khi mổ hai hôm, gia đình đứa cháu kêu điện thoại, nói là còn chừng bốn mươi lăm phút nữa thì sẽ ghé thăm. Họ đi xa bốn trăm dặm để thăm tôi, lẽ nào từ chối được. Họ nói là nghe cậu sắp đi mổ, đến thăm và chúc may mắn. Tôi và vợ vôi vã dọn dẹp lại căn phòng khách bừa bãi, lộn xộn, quét nhà, lau chùi, đang bệnh mệt, lại mệt thêm, giữa mùa đông mà mồ hôi vã ra. Mấy lần vợ chồng mệt quá, gắt nhau. Cả gia đình đưá cháu gồm năm người, vừa ho hen, vừa hít mũi sụt sịt. Họ ngồi trong phòng khách mà nhảy mũi lia lịa, làm bà xã tôi sợ hải, tái mặt. Tôi cũng ngại mình bị nhiễm bệnh, chỉ cười mà không dám nói ra. Họ ngồi chơi chừng một tiếng đồng hồ. Tôi cũng mệt lắm, nhưng không dám đi nằm. Sau khi gia đình đứa cháu đi rồi, chúng tôi vội vàng bày lại giấy tờ cần thiết ra bàn lại, và nhất định không bốc điện thoại. Ai kêu cũng không bắt. Bệnh viện có gì khẩn cấp thì nhắn lại trong máy. Bây giờ, tôi mới có cái kinh nghiệm là đừng đi thăm ai trước khi họ sắp lên bàn mổ, và đừng thăm họ sau khi họ mổ xong về nhà. Vì thời gian nầy, sức khoẻ của họ rất mong manh, rất dễ bị nhiễm trùng từ người khác. Vã lại, họ đang mệt, đừng làm họ mệt thêm, mình thì vì thương mến họ, đến thăm viếng, nâng đỡ tinh thần, và nếu không thăm, thì sợ bị trách là vô tình. Nhưng nếu chờ họ bình phục rồi đến thăm thì tốt hơn, vui hơn.
Bệnh viện hẹn tôi 5 gờ sáng. Tôi phải dậy lúc 3 sáng giờ sửa soạn, 4 giờ thì anh bạn hàng xóm lái xe đưa tôi đi. Đến nơi, bệnh viện còn đóng cửa. May nhà tôi không xa bệnh viện, có nhiều bệnh nhân phải ngủ tại khách sạn đêm trước đó, để kịp giờ hẹn. Những y tá, nhân viên làm thủ tục giấy tờ trước khi lên bàn mổ rất dịu dàng, vồn vã, tử tế. Cũng làm cho tôi cảm thấy vui trước khi lên bàn mỗ. Nhắc tôi rằng, đời còn có nhiều người dễ thương lắm. Một ông y-tá già, cầm cái dao cạo điện, hỏi han tôi ngọt ngào, và ông bắt đầu cạo lông lá cho tôi, cạo từ dưới háng cạo lên bụng, ngực. Trơn tru, sạch sẽ. Ông vừa cạo vừa mĩm cười. Sau đó, tôi được đẩy vào phòng mỗ. Trên đường vào phòng mỗ, tôi nghĩ rằng, mình đã về hưu được đúng hai năm, đã được nghỉ ngơi, thong dong, đi chơi, vui thú, làm biếng, không lo lắng, không bận rộn, nhàn nhã, thảnh thơi. Thế thì hôm nay, nếu cuộc giải phẩu thất bại, cái thân nầy được chở xuống nhà xác, thì cũng khỏe, không có gì để tiếc nuối cả. Nghĩ thế, tôi sướng quá, và cười thành tiếng. Ông y-tá đẩy xe ngạc nhiên, chắc chưa thấy một “thằng điên” nào vui vẻ cười tươi như vậy trước khi được mổ tim, nguy hiểm đến tính mạng. Ông hỏi tôi cười cái gì, giờ nầy mà còn cười được, không lo lắng hay sao. Tôi cho ông biết lý do tại sao tôi cười sung sướng, ông vỗ vào chân cái bộp, và khen tôi chí lý.
Thực tâm mà nói, thì sống chết đối với tôi, cũng không quan trọng lắm. Không chết trẻ, thì chết gìa. Không chết bây giờ, thì sau nầy cũng chết. Con người phải già, phải chết, để cho các thế hệ trẻ lớn lên thay thế, thế giới sung sức hơn. Cứ thử giả dụ như, con người không chết, thì bây giờ, cả thế giới đầy cả người già lụ khụ, già chiếm chín phần, trẻ chỉ một phần. Thế giới nây toàn ông bà già mấy trăm tuổi, chống gậy lê từng bước, xe lăn đầy phố phường, đường xá. Thế thì lấy ai mà sản xuất, nuôi nấng nhân loại. Bởi vậy, tôi bình tỉnh, và nghĩ rằng được sống cũng vui, mà được chết, cũng vui không kém.
Vào phòng mỗ, từng y tá tự đến giới thiệu tên tuổi, và cho tôi biết phần hành của họ. Tôi cũng vui vẻ chào, nói vài lời xả giao bình thường. Khi bác sĩ gây mê đến, xưng danh, và nói cho tôi biết, ông sẽ chuyền thuốc mê cho tôi. Tôi chỉ kịp chào xã giao, và sau đó, mê man ngay, không còn biết trời trăng chi nữa cả. Giá như, có chết khi đó, thì cũng được nhẹ nhàng, êm thấm, mau và tiện lắm. Tôi hoàn toàn không biết việc gì đã xẫy ra.
Chừng mười giờ sau, tôi mơ màng tỉnh dậy trong phòng “hồi sinh”. Nghe tiếng bà y tá kêu lớn, và vặn nhạc lớn, kêu tôi mở mắt ra, đừng nhắm mắt lại. Tôi cố gắng hết sức, mà hai mí mắt cứ kéo trì xuống, cứ he hé chút xíu, lại bị nhắm lại. Tôi cũng nhớ là mình đang qua cuộc giải phẩu tim. Nghe tiếng bà xã tôi phụ kêu với bà y tá, tôi cố gắng mĩm cười cho vợ yên lòng. Nhưng không biết miệng có cười được hay không. Khi tôi mở mắt đưọc, tôi thấy bà y tá, bà chị tôi và bà xã đang đứng bên giường lo lắng. Tôi đếm được hai mươi mấy cái ống nối vào ngực, vào họng, vào tay, vào mũi, và có tiếng xì xèo của cái máy bơm nào đó, mà tôi tưởng đâu bên cạnh giường có cái hồ nuôi cá, máy bơm nước đang chạy. Tôi thầm nghĩ, thế là cũng chưa “đi đong” cái mạng già được. Thuốc mê làm tôi hơi buồn nôn và chóng mặt.
Suốt đêm hôm đó, một bà y tá da den, mập ú, thức và chăm sóc tôi. Chừng mươi phút, mười lăm phút, bà vào châm thêm thuốc vào bình dang treo, châm thêm máu, xem lại biểu đồ nhịp tim, ghi chú vào sổ. Công việc liên miên, không biết thủ tục bắt buộc, hay bà là người có lương tâm, nên làm việc hết lòng. Rồi rút máu tôi, tiêm thêm thuốc, nhiều lần kê lại gối nằm sau lưng tôi, hỏi han tôi rất tử tế, dịu dàng. Cổ tôi khô như đốt. Bà cho tôi cục nước đá nhỏ như viên kim cương, ngậm trong miệng cho đỡ khát. Khi đó, đúng là quý viên kim cưong ngậm trong miệng. Không được uống nước. Tôi khôi hài, tự ví bà y tá là Đức Bà Quan Âm đang ban giọt cam lồ (cục nước đá) cho người khổ nạn. Suốt một đêm, bà không ngủ, loay hoay quanh giường tôi. Tôi thật tình cảm động. Có những người vì nghề nghiệp, chỉ làm cho xong bổn phận, làm vừa phài thôi. Bà y tá nầy, làm với cả tấm lòng, tưởng như tôi là thân nhân ruột thịt trong gia đình.
Vừa mổ xong chiều hôm qua, mà sáng nay, lúc 5 giờ sáng, y tá đã bắt tôi ngồi dậy trên ghế, dây nhợ lòng thòng hơn hai chục sợi dính từ mũi, miệng, ngực, bụng, chim. Tôi không thể tưởng tượng được, có là muốn hành hạ bệnh nhân chắc. Mệt và chóng mặt lắm. Bà y tá bảo tôi phải ngồi như vậy trong một giờ đống hố. Ngồi được chừng 25 phút, hết sức chịu đựng, tôi xin bà cho nằm, vì mệt quá.
Nằm phòng hồi sinh được hai đêm, sáng hôm sau họ đẩy tôi xuống phòng bệnh thường, và bắt tôi tập đi bộ mỗi ngày và tắm. Khiếp, vết thương dài hơn hai tấc, còn rỉ máu còn tươi , và nhiều cái lỗ trên ngực, có ống lớn bằng ngón tay nối từ trong tim, trong phổi lòng thòng ra ngoài, dính với cái máy, cái bình. Thế mà bắt tôi tắm vòi sen, tắm xong y tá dùng khăn chậm khô ngực, không dám lau. Trước khi đi mổ, bà xã tôi ép ăn, để có đủ sức khỏe mà qua cuộc giải phẩu. Tôi ăn cho vợ vui. Nhưng sau khi mổ xong, bị bón. Cái ruột già căng cứng như muốn nổ ra. Ba bốn ngày không đi tiêu được. Không được rặn, vì sợ các mối chỉ may tại nơi mổ bung ra. Hai y tá cho tôi uống nước trái mân đen, cũng không hiệu quả. Tôi phải dùng đến thủ thuật đề cho phân ra, mà cũng vô hiệu. Cái bụng cứng ngắt, rất đau đớn, khó chịu. Y tá cũng không giúp tôi được gì. Đêm nằm trên giường, tôi nghĩ thầm, chắc mình không chết vì bệnh tim, mà chết vỉ vỡ ruột già. Cứ lăn lộn mãi, có khi thiếp đi chừng năm phút. Tôi gần như mê sảng.
Trong thời gian đau ốm, bịnh hoạn, khi nào tôi cũng giữ được tinh thần khôi hài, ngạo nghễ, xem thường, thế mà hôm nầy, tinh thần tôi xuống lắm. Khi nữa đêm, tôi hé mắt ra, trong bóng mờ, thấy một bà y tá da đen. Lúc nầy là đổi phiên trực gác của các y tá chăm sóc con bệnh. Ngọn đèn phiá sau người y tá làm thành một vòng hào quang trên đầu bà. Tôi vốn không tin theo một tôn giáo nào, và cũng chẳng tin vào thần thánh, nhưng buột miệng thều thào hỏi: “Có phải bà là thiên thần mà Thượng Đế gởi xuống để giúp tôi không?” Bà cười, nhẹ nhàng đặt tay lên trán tôi, và hỏi, bà có thể làm gì để giúp tôi không. Tôi nói với bà, là tôi có cảm tưởng cái ruột già của tôi sắp nổ tung vì bón mấy hôm nay. Bà mau mắn cho tôi thuốc nhét hậu môn. Không kết quả. Bà bảo tôi nằm nghiêng, co chân, và trải nhiếu khăn ra giường, quấn nhiều khăn làm vòng đai bao quanh vùng khăn trải. Rồi bà đưa ngón tay vào hậu môn, mà móc phân ra từ từ, từng chút một. Cẩn thận, nhẹ nhàng. Khi phần cứng của phân moi ra hết, thì phần bên trong chạy phọt ra. Tôi thấy người nhẹ như đang bay bổng lên không trung. Như trên vai mọc cánh, đang bay lượn giữa trời. Khỏe hẵn. Bà y tá dọn giường, và cho tôi viên thuốc ngủ. Tôi cám ơn bà. Nụ cười trên môi bà hiền từ làm tôi liên tưởng đến những bức tượng Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi nắm lấy tay bà mà cám ơn. Dù đã được uống viên thuốc ngủ, nhưng khi bà đi rồi, tôi vẫn cảm động thao thức mãi. Nằm không yên, tôi lấy giấy bút, trong cơn xúc động vì lòng tử tế, vì tình người lai láng, tôi viết một bài thơ, nhan đề là “Belinda”, tên của bà y tá. Có lẽ cũng là loại thơ con cóc. E rằng, lời lẽ cũng ngô nghê như một ông ngoại quốc làm thơ bằng tiếng Việt. Viết xong bài thơ, tôi yên tâm ngủ một giấc dến sáng.
Đêm hôm sau, tôi đưa cho bà. Đọc xong, bà cảm động, ôm tôi mà khóc. Bà nói riêng cho tôi biết, bà là nữ Mục Sư đang điều hành một nhà thờ tin lành trong thành phố nầy. Đúng là bà có trái tim của một nữ Thánh. Có lẽ, trước khi đi mổ lớn, chỉ nên ăn thức ăn lỏng, đừng ăn chất đặc, chất xơ, vì thế nào cũng bị bón. Ông bác sĩ giải phẩu cho tôi cũng rất tử tế. Nhiều hôm sau ca mổ, đã 9 giờ đêm, ông còn ghé thăm tôi, hỏi han kỹ lưỡng, dịu dàng. Cái lưng ông còng xuống, có lẽ do cứ cúi xuống lâu trên bàn mổ mải thành còng lưng. Tôi nghĩ, đa số những người làm việc trong bệnh viện nầy, ngoài mục đích mưu sinh, còn cả một say mê nghề nghiệp, và cả tấm lòng nhân từ.
Sau khi mổ, vết cắt lớn, mà tôi không thấy đau đớn, nhức nhối gì cả. Hồi phục rất mau, vết thương kéo da cũng nhanh, làm các y tá và bác sĩ ngạc nhiên. Cũng nhờ một ông bà con có kinh nghiệm dặn, khi nào cảm thấy đau nhức sơ sơ, thì xin thuốc giảm đau ngay, đừng để cho đau quá, vì phải có thời gian, thuốc mới hiệu nghiệm. Trong thời gian dưỡng bệnh, tôi ráo riết ôn lại tiếng Pháp để chuẩn bị đi chơi Âu Châu, nên cũng không có thì giờ nghĩ đến bệnh, đến đau đớn.
*************
Dẫm lên chân bác sĩ, tôi viết sơ về các bệnh dau tim, như múa một đường quyền hoang dại. Sách viết rằng, bệnh liên quan đến tim, rất nhiều khi là “những bước chân âm thầm”, không báo trước. Bệnh tim có nhiều loại khác nhau. Thông thường nhất là suy tim, nghĩa là tim không chuyển vận máu đủ cho nhu cầu. Cứ 100 ngưòi Mỹ, thì có 1 người bị bệnh nầy. Nước Mỹ có hơn 2 triệu người suy tim. Tốn phí bệnh viện rất lớn. Trong một năm, những người bị suy tim chết đến 15%, Kế dến đau tim bẩm sinh, sinh ra đã bị đau tim rồi, vì cấu tạo tim mạch không được bỉnh thường. Cứ 1000 em bé sinh ra, có đến 6 đến 8 em bị đau tim bẩm sinh. Bệnh nầy chữa được, bác sĩ sẽ mổ và điều chỉnh lại. Sau nữa là nghẽn mạch máu tim và động tim. Một năm có hơn 1.5 triệu người Mỹ bị bệnh nầy. Sẽ có hơn 500 ngàn ngưòi chết, và khoảng 300 ngàn người đưọc mổ tim. Kế đến là bệnh tim đập sai nhịp và bất tỉnh. Sau đến là van tim bị hư hỏng, rồi đến bệnh mạch máu bị thương tật, bị phình, teo. Cuối cùng là màng bao tim bị bệnh.
Ai muốn biết rõ hơn, xin vào thư viện mượn cuốn “Mayo Clinic Heart Book” mà đọc, rất hay, viết cho người thường đọc. Kinh nghiệm của những người đau tim cho biết, khi có ít hay nhiều triệu chứng sau đây, thì đừng nên coi thường: đau ngực, thở gấp, hay mệt, sưng, bất tỉnh, nhức đầu lâm râm, nhịp đập tim bất thường, tê tay hay chân, màu da không bình thường, té xỉu, thay dổi bất chợt về thị giác, nói năng, và cảm xúc.
Khi nào thì nên đi bác sĩ? Khi triệu chứng đau tim mới có, triệu chứng càng lúc càng nặng, triệu chứng trở nên trầm trọng, triệu chứng làm thành lo lắng, triệu chứng tái diễn. Những người yêu nhiều thì thường bị nhói tim, không biết có chuyển qua bệnh đau tim không. Nhưng những người ăn nhiều chất béo bổ, chắc chắn sẽ đau tim, cho nên có rất nhiều người sợ các chất béo, ngọt, mặn, như sợ thuốc độc. Lo lắng, bị áp lực, muộn phiền nhiều cũng sinh ra đau tim. Bởi vậy, có ông Mỹ đau tim nằm chung bệnh viện với tôi, nói đùa rằng: “Bà nào muốn làm goá phụ sớm, thì cứ cằn nhằn ông chống cho nhiều vào, rồi thế nào cũng được mãn nguyện sớm.” Mấy bà nghe, háy nguýt ông sắc như dao chém./.




