Sài Gòn: Cướp hơn 170 ha đất Thủ Thiêm cho ‘thế lực đen tối’

Sài Gòn: Cướp hơn 170 ha đất Thủ Thiêm cho ‘thế lực đen tối’

Người dân Thủ Thiêm bất bình với chủ tịch quận 2. (Hình: Tuổi Trẻ)

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Nghi vấn “những thế lực đen tối” cùng với nhà cầm quyền thành phố Sài Gòn và quận 2, nhân danh “quy hoạch khu đô thị mới Thủ Thiêm” để trục lợi đất của người dân và được che giấu suốt 20 năm qua ngày càng lộ rõ.

Báo Người Tiêu Dùng, ngày 10 Tháng Năm, khẳng định hiện có khá đủ cơ sở để nghi ngờ điều này.

Trước đó, tờ trình xin chính phủ phê duyệt quy hoạch Thủ Thiêm của “Ủy ban thành phố Sài Gòn” cũng ghi rõ như trên. Công văn số 190/CP-NN ngày 22 Tháng Hai, 2002, của chính phủ vẫn tái khẳng định như vậy.

Từ những văn bản trên, ba tháng sau, “Ủy ban thành phố Sài Gòn” ra Quyết Định 1997 thu hồi 621 ha đất, thuộc các phường An Khánh, Bình An, Bình Khánh, An Lợi Đông và Thủ Thiêm để xây dựng khu trung tâm đô thị Thủ Thiêm.

Quyết Định 6566 của “Ủy ban thành phố Sài Gòn” ra ngày 27 Tháng Chạp, 2005, cũng nêu rõ trung tâm khu đô thị (KĐT) Thủ Thiêm có tổng diện tích 657 ha.

Căn cứ vào hai quyết định trên, Quận 2 và Hội Đồng Bồi Thường giải tỏa mặt bằng quận này đã tiến hành bồi thường, giải tỏa trắng 3 phường An Khánh, An Lợi Đông và Thủ Thiêm để thu hồi đất.

Tuy nhiên, theo bản đồ hành chính quận 2, và Nghị Định 03/CP thì ba phường bị giải tỏa trắng đã lên tới 689 ha, thừa hơn 30 ha so với quyết định thu hồi đất 1997 hay Quyết Định 6566 của “Ủy ban thành phố Sài Gòn.”

Song, người dân không hiểu vì lý do gì mà nhà cầm quyền thành phố lại thu hồi giải tỏa thêm hơn 99 ha ở phường Bình Khánh và thêm 15 ha nữa ở phường Bình An, tổng cộng lố thêm 114 ha đất. Như vậy, nếu so sánh các văn bản “nhân danh” giải tỏa, thu hồi đất để xây khu trung tâm khu đô thị Thủ Thiêm lên tới hơn 803 ha, “lố” ít nhất 173 ha.

Hàng trăm héc ta đất không nằm trong quy hoạch của người dân Thủ Thiêm bị chính quyền cưỡng chế giao cho doanh nghiệp phân lô bán nền. (Hình: Tuổi Trẻ)

Cho đến nay, số đất này “biến mất” hay có sự nhầm lẫn nào đó vẫn trong vòng bí ẩn, chưa có được giải đáp rõ ràng, minh bạch dù người dân bị cưỡng chế lấy đất ở quận 2 và người dân Sài Gòn nhiều lần đòi làm sáng tỏ.

“Trong khi đó, các dự án phân lô bán nền tại chính khu đô thị Thủ Thiêm được ngang nhiên giao đất sau khi có quyết định 367 của thủ tướng, một vi phạm rõ ràng từ hàng chục năm nay lại chìm trong im lặng.”

Cũng theo báo Người Tiêu Dùng, kết quả thanh tra năm 2008 từ chính thanh tra thành phố Sài Gòn công bố đã điểm mặt hàng chục dự án với tổng diện tích lên đến 169 ha “ăn theo” dự án khu đô thị Thủ Thiêm.

Theo đó, trên 3 phường Bình An, Bình Khánh, An Lợi Đông có 64 dự án khu dân cư, khu du lịch, văn phòng làm việc… với tổng diện tích 169 ha được chính quyền giao cho các nhà đầu tư. Đặc biệt có đến 42 dự án có quyết định giao đất của “Ủy ban thành phố Sài Gòn” sau khi có Quyết Định 367 của thủ tướng.

Trong số những doanh nghiệp được giao đất mang danh nghĩa “chỉnh trang đô thị” nhưng thực chất là phân lô bán nền gồm các công ty địa ốc như: Khởi Thành, Him Lam, Trường Thịnh, Bình Minh, Tân Hoàng Uy, công ty Phát Triển Nhà Thủ Đức, công ty Cơ Khí 78 và công ty Sài Gòn 5,…

Đáng chú ý, trong số các doanh nghiệp trên có nhiều công ty vi phạm lấn chiếm, san lấp sông Sài Gòn, hay kênh rạch, mương thoát nước để bán nền, xây dựng công trình riêng với hàng chục ngàn mét vuông, nhưng hầu hết không bị xử phạt. Thậm chí, họ được giao cả vào phần đất vốn được quy hoạch là công viên cây xanh, khu công cộng.

Nhiều chuyên gia cho rằng, đây là nguyên nhân chính “cắt” diện tích đất của dự án Thủ Thiêm bị thu hẹp lại, không đủ diện tích ban đầu như phê duyệt của thủ tướng. Đó còn là lý do khiến các khu tái định cư bị dạt ra những nơi “xấu nhất” của quận 2.

Thậm chí, có lúc cán bộ thành phố còn định đưa dân ở đây về quận 12 tái định cư như thừa nhận của ông Võ Viết Thanh, cựu chủ tịch Sài Gòn. “Khi nghe có không ít người dân Thủ Thiêm, quận 2 được đưa về tái định cư ở quận 12, tôi liền nói với lãnh đạo thành phố là dứt khoát không thể chấp nhận. Nếu là tôi, tôi cũng chống các anh,” ông Thanh nói.

Trong khi đó hàng ngàn người dân Thủ Thiêm bị cưỡng chế thu hồi đất không đúng luật, cơ sở pháp lý không rõ ràng, rất nhiều người khiếu kiện triền miên hàng chục năm ròng, chịu bao thống khổ nhưng vẫn không được giải quyết thỏa đáng vì lý do hết sức nực cười “thất lạc bản đồ quy hoạch 1/5000.”

Từ thực trạng trên, dư luận khắp nơi đang nghi ngờ về động cơ của việc thu hồi “lố” và giao đất Thủ Thiêm trái thẩm quyền của “Ủy ban thành phố Sài Gòn” mà sự thật bị che giấu suốt 20 năm qua. (Tr.N)

MỘT SỐ NGỤY BIỆN VỀ QUAN HỆ VỚI TRUNG QUỐC

MỘT SỐ NGỤY BIỆN VỀ QUAN HỆ VỚI TRUNG QUỐC

Vừa qua Câu lạc bộ đọc sách báo của chúng tôi mời được một diễn giả nói chuyện về tình hình thời sự. Ông MĐ là Tổng biên tập một tờ báo lớn, đại biểu HĐND thành phố, ứng cử và được bầu tại Phường chúng tôi. Việc ông dành thời gian gần 2 giờ để nói chuyện, đối với CLB là một vinh dự ít có. Ông nói về một số vấn đề thời sự trong nước và thế giới, trong đó điều làm tôi quan tâm nhất là quan hệ của VN với TQ. Theo ông MĐ, tuy rằng có một vài sự kiện ở biển Đông, nhưng quan hệ VN và TQ đang rất tốt đẹp, đặc biệt sau chuyến thăm TQ của TT Phúc. Ông cho rằng đường lối hòa bình mềm dẻo và tôn trọng Luật pháp quốc tế của Đàng ta là sáng suốt, phù hợp với tình hình quốc tế và truyền thống dân tộc. Ông viện dẫn các sự kiện lịch sử các đời vua của VN vẫn thần phục và triều cống Hoàng đế Tàu, mà sự kiện đáng chú ý là Quang Trung, sau khi đánh tan 20 vạn quân Thanh phải sang Bắc kinh xin thần phục vua Khang Hy ( ! ) nhà Thanh, cho đó là tấm gương cần noi theo.

Đã lâu tôi không được nghe các buổi nói chuyện của các cán bộ tuyên giáo. Trước đây, mỗi lần được nghe như thế tôi chỉ tiếp thu một chiều, làm tôi phấn khởi, được biết thêm nhiều chuyện, được sáng mắt sáng lòng. Nay thì khác, tôi nghe để biết quan điểm của diễn giả và xem “sự ngụy biện” đến đâu.

Kết thúc trong tiếng vỗ tay hoan hô, ông MĐ tỏ ra thỏa mãn, nán lại gặp gỡ và trao đổi thêm với một vài người. Tôi cũng ở lại một chốc, được ông chào và hỏi : “ Bác thấy tôi trình bày thế nào”. Tôi trả lời : “Anh nói hay, cung cấp được một số thông tin có giá trị, đa số bà con tham dự xem ra là thỏa mãn, riêng tôi thấy có vài chỗ anh chỉ mới đề cập đến một phần của sự thật bên ngoài, bỏ mất phần khác quan trọng hơn, riêng các lập luận, có hình thức chặt chẽ nhưng để ý ra thì thấy khoảng một phần ba là sai vì phạm vào lỗi ngụy biện, đặc biệt phần nói về quan hệ Việt Trung, về vua Quang Trung”. Đó là một nhận xét có tính phản biện mà diễn giả không mong đợi. Tôi chờ một câu trả lời đại khái như : “ Xin cám ơn bác, xin bác chỉ cho biết những chỗ mà bác cho là phần quan trọng hơn, là sai vì ngụy biện”. Nhưng không !. Ông ta phản ứng bằng cách chống chế. Tôi biết không thể tiếp tục trao đổi nên xin rút lui để ông đàm đạo với những người khác đang chờ đợi những ý kiến quý báu của ông.

Về quan hệ với TQ, xin vạch ra một số ngụy biện mà Tuyên huấn của Đảng vẫn dùng để lừa nhân dân, mà tiếc thay, một số người vẫn vui vẻ nghe theo ( như tôi trước đây).

1-Nước ta bị thế kẹt là ở sát TQ, bị nó khống chế nhiều bề.
Giáp với TQ không phải chỉ có VN mà còn 13 nước khác như Mông Cổ, Bhutan, Nêpan, Takjikistan, Kazakstan, Nga, Myanmar, Ấn độ v.v. Trừ Nga và Ấn độ, các nước khác đều bé, thế mà họ có chịu khuất phục TQ như VN đâu. Đặc biệt như Bhutan, có biên giới khá dài với TQ mà không có quan hệ ngoại giao. Sự chịu khuất phục do nguyên nhân địa lý chỉ là một phần rất rất nhỏ. Nguyên nhân chính là do đường lối lãnh đạo. Nếu đổ cho nguyên nhân địa lý thì giải thích thế nào về các nước như Bhutan, Nêpan,Takjilistan…đều bé, TQ tuy có phá phách ít nhiều nhưng cơ bản không làm họ khuất phục. Ta giáp với TQ từ khi lập quốc đến giờ mà các đời vua phong kiến trước đây có chịu lép vế một bề như dưới thời CS hay không.

2-Nước ta và TQ cùng ý thức hệ cộng sản, cùng chung lý tưởng XHCN
Đây là lập luận ngụy biện xảo trá. Việc cùng ý thức hệ có phải là tiền định, là Trời bắt phải thế đâu. Đó là do con người lựa chọn. Từng đảng viên cộng sản khi vào Đảng thì có thề trung thành với Đảng nhưng dân tộc này có bao giờ thề lệ thuộc vào TQ đâu. Ừ, mà cùng ý thức hệ tốt đẹp thì cũng tạm được , nhưng ý thức hệ đó đã lạc hậu, đã thối rửa mất rồi thì đeo bám làm gì. Trước đây chúng ta theo Liên xô vì ý thức hệ, thế mà Liên xô sụp đổ rồi, trong lúc TQ cố dựa vào ý thức hệ để thôn tính VN thì vin vào nó mà làm gì ngoài sự lừa bịp những người nhẹ dạ cả tin. Mà hỏi xem, ngoài một số rất ít còn dựa vào ý thức hệ để trục lợi thì đại đa số dân VN có còn tin gì vào nó nữa đâu. Hơn nữa ĐCS TQ chỉ giữ lại cái tên và tổ chức chứ ý thức hệ CS cũng đã bị vứt bỏ từ lâu, chúng nó chỉ dùng để lừa bịp những người khờ dại trong và ngoài nước. Cũng vì ý thức hệ mà lãnh đạo ĐCS VN đã ký kết mật ước Thành Đô. Nhiều dư luận yêu cầu công khai minh bạch cho toàn dân biết nội dung, thế mà đến nay lãnh đạo ĐCS vẫn giấu kín.

3-Truyền thống tổ tiên vẫn thần phục Tàu.
Đây là lối ngụy biện dùng một phần sự thật để che dấu bản chất. Tổ tiên chúng ta bên ngoài tỏ ra thần phục Tàu chứ chưa bao giờ chịu khuất phục ( trừ bọn Ích Tăc, Chiêu Thống…). Như Nguyễn Trải đã viết : “ Như Đại Việt ta, vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Núi sông bờ cõi đã riêng, phong tục Bắc Nam cũng khác. Trải mấy triều Đinh, Lê, Lý , Trần dựng nền độc lập. Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên hùng cứ một phương…” . Xét trong lịch sử, trừ thời nhà Hồ bị nhà Minh cướp nước ( Gần đây vì họ Hồ chính sách nặng phiền, khiến trong nước lòng người oán giận. Quân Minh cuồng bạo thừa dịp hại dân. Đảng nịnh mưu gian rắp tâm bán nước….Tát cạn nước Đông hải khôn rửa sạch tanh hôi. Chẻ hết trúc Nam sơn không đủ ghi tội ác…), thì chưa thấy có triều đại nào chịu khuất phục TQ về mọi mặt một cách nhục nhã như bây giờ. Ngay như Quang Trung, ông cho người đóng thế mình sang bái phục Càn Long ( không phải Khang Hy ) chỉ là cái mẹo sau khi đã đánh tan 20 vạn quân của Tôn Sĩ Nghị. Đánh thắng rồi mới cầu hòa chứ không phải cúi đầu xin chỉ thị về mọi việc lúc chưa xẩy ra.
Việc nhất nhất thần phục Tàu Cộng đã được cài sẵn vào gène, vào máu của CSVN từ khi mới thành lập năm 1930 trên đất Tàu. Chẳng thế mà Trần Huy Liệu ( người thay mặt Hồ Chí Minh vào Huế nhận sự thoái vị của Bảo Đại ), vào khoảng năm 1949 có nói một câu nhận xét không tốt về Tàu ( coi chừng kẻ thù truyền kiếp của dân tộc) thì bị thất sủng ngay. Năm 1954, Phạm Văn Đồng sau khi ký Hiệp định Genève đã khóc vì bị Chu Ân Lai ép buộc chia cắt đất nước đến vĩ tuyến 17. Năm 1958, được tin TQ muốn độc chiếm các đảo Hoàng Sa và Trường Sa thì Phạm Văn Đồng ký Công hàm công nhận ngay ( ngoài ông Đồng ra hình như không có ai ủng hộ TQ nữa). năm 1974 Hà nội giữ hoàn toàn im lăng để cho Trung cộng đánh chiếm Hoàng sa do VNCH quản lý. Năm 1988 Lê Đức Anh ( bộ trưởng quốc phòng) ra lệnh cho các chiến sĩ đảo Gạc Ma không được chống cự lính Trung cộng, để toàn bộ 64 chiến sĩ bị sát hại, xác bị quăng xuống biển. Năm 1991 Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười sang Thành Đô (TQ không cho đến Bắc Kinh ) cầu xin sự che chở và ký mật ước, cố xin gặp Đặng Tiểu Bình nhưng hắn không cho gặp. Năm 2000 Lê Khả Phiêu ký cho Tàu một số đất ở Thác Bản Giốc và Hữu nghị quan. Những chuyện như vậy liệu có bao giờ xấy ra trong lịch sử của tổ tiên. Thế mà ĐCS cứ đưa tổ tiên ra làm bình phong để che đậy.

4-Luận điệu gìn giữ hòa bình, tôn trọng luật pháp Quốc tế.
Cứ mỗi lần TQ có hành động ngang ngược ở biển Đông thì phát ngôn của Bộ Ngoại giao VN lại tuyên bố :” Phản đối, đòi tôn trọng chủ quyền, chủ trương giải quyết tranh chấp bằng hòa bình, thương lượng, tôn trọng luật pháp quốc tế, không liên kết với nước khác để chống nước thứ ba…”. Nghe quá hóa nhàm. Có những việc lớn, quan trọng mà sao chỉ có đại diện Bộ Ngoại giao, hoặc quá lắm là một cá nhân cấp cao nào đó phát biểu một cách dè dặt, Chính phủ, Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước lặng im. Và dân quá bức xúc biểu tình phản đối thì bị đàn áp. Ừ thì tôn trọng hòa bình, ta không chủ động gây chiến, nhưng ai cấm những phát biểu mạnh mẽ phản đối của Chính phủ, sao lại cấm dân biểu tình, sao không dám kiện ra Tòa án quốc tế như Philippin. Luận điệu “ mềm dẻo, hòa bình, tránh xung đột” chẳng qua để che giấu một tâm trạng hèn yếu, không dám tin vào dân, chỉ muốn thần phục để vinh thân phì gia.

5- Luận điểm : Về kinh tế ta phụ thuộc vào Tàu quá nhiều, nếu ta có những đấu tranh mạnh mẽ để bảo vệ chủ quyền mà bị Tàu nổi giận cắt đứt mọi giao dịch thương mại thì ta lâm vào khủng hoảng lớn. 
Tôi gọi đây là luận điểm chứ không phải luận điệu vì xét ra có phần đúng. Nhưng có phải vì giao lưu hàng hóa mà để cho Tàu vào chiếm cứ các vị trí xung yếu của đất nước, để người Tàu tràn ngập các vùng quan trọng, để họ phá nát môi trường. Những nước như Mỹ, Đức, Nhật, Úc … họ có làm như thế đối với các nước khác đâu. Việc để kinh tế, thương mại, xây dựng của VN quá lệ thuuộc vào Tàu , để cho Tàu thực hiện các dự án lớn làm hủy hoại môi trường là tội của những người lãnh đạo tham và ngu. Bây giờ đã lỡ ra rồi thì không phải cứ cố trượt dài trên con đường sai lầm mà phải tìm cách khắc phục. Tuy vậy việc ngừng giao lưu kinh tế với Tàu khi chúng ta có những đấu tranh mạnh mẽ để bào vệ chủ quyền cũng chỉ mới là suy đoán. Việc giao lưu là có lợi cho cả hai bên. Việc giao lưu với Tàu nếu bị giảm sút , trước mắt kinh tế Việt sẽ gặp khó khăn, đời sống của đân bị ảnh hưởng. Nhưng thử hỏi dân xem họ có vui lòng chấp nhận khó khăn trong thời gian ngắn để loại bỏ mọi xấu xa do Tàu mang đến. Tôi nghĩ rằng được giải thích đa số dân sẽ vui lòng. Hơn nữa dân ta có câu : “ Trong cái khó ló cái khôn”. Trước đây vì nhầm lẫn mà ta ưu tiên thị trường TQ, nhưng nếu vì bảo vệ chủ quyền mà nó bị co lại thì các nhà doanh nghiệp Việt có đủ trí khôn để mở ra các nước khác, chứ làm sao chịu bó tay.

6-Nhận định 
Tôi cho rằng những ngụy biện trên đây chỉ nhằm để duy trì chế độ độc tài đảng trị theo đường lối CS, đem nước ta phụ thuộc vào Tàu cộng. Muốn thoát khỏi sự lệ thuộc này trước hết phải thoát ra khỏi ý thức hệ CS, phải cải cách thể chế theo con đường dân chủ chân chính. Một ngày mà ĐCS VN còn kiên trì đường lối hiện hành thì dân Việt còn chịu cảnh lầm than và đất nước dần dần bị thôn tính.

Để kết thúc xin kể câu chuyện : Ngày xưa bên Tàu, nước Triệu ( Thời U Mục Vương), nhờ có Lý Mục và Tư Mã Thượng là những người tài giỏi, yêu nước mà ngăn chặn được sự xâm lược của nước Tần. Thế nhưng vua Triệu tin dùng tên quan đứng đầu triều đình là Quách Khai, một kẻ tham lam. Gián điệp nước Tần đem biếu Quách khai một số lớn vàng bạc với yêu cầu vu cáo Lý Mục và Tư Mã thượng là bọn phản bội, chống lại nhà vua, để họ bị loại bỏ. Quách Khai nhận vàng bạc, thực hiện âm mưu, xui dục vua giết chết Lý Mục, đuổi được Tư Mã Thưọng. Kết quả quân Tần xâm chiếm nước Triệu một cách dễ dàng. Sau vụ này vua Tần nói : Ta chỉ bỏ ra ít vàng bạc mua được Quách Khai, dùng Khai để chiếm được Triệu, quá rẻ. Quách Khai hý hửng cho rằng đã lập công với Tần nhưng bị Tần đuổi đi, không dùng kẻ phản phúc. Quách Khai về quê, chở theo mấy xe vàng bạc. Giữa đường bị những người nghĩa khí giết hết cả nhà, lấy hết của cải.

Bình luận – Việc này đáng cho nhiều người Việt suy ngẫm. Nhưng những kẻ rắp tâm bán nước nghĩ rằng họ khôn hơn Quách Khai vì đã tuồn nhiều của cải và cho con cháu ra nước ngoài. Không đâu, chúng mày khôn, sẽ có người khôn hơn và trên hết, chúng mày đã gây ra nghiệp chướng, thế nào cũng chịu nghiệp báo. Hãy luôn nhớ rằng của cải do sức lao động và tài năng làm ra mới bền chặt, còn của phi nghĩa do gian lận, tham nhũng, tước đoạt thì chỉ làm giàu tạm thời, không đời chúng mày thì đời con, đời cháu cũng tiêu thành mây khói và chưa biết còn những thảm họa nào nữa.

Hành trình đi đêm của một bản án phúc thẩm vô nhân đạo chống lại trẻ em

Hành trình đi đêm của một bản án phúc thẩm vô nhân đạo chống lại trẻ em

Nguyễn Khắc Thủy, thủ phạm hiếp dâm nhiều bé gái ở Vũng Tàu, chỉ nhận án tù treo vì là đảng viên lâu năm. Ảnh: Internet

Hết bao nhiêu tiền để một đám người quỷ quyệt mưu kế một bản án phúc thẩm bất công chống lại 9 bé gái Lakeside Vũng Tàu? Không ai dám chắc là bao nhiêu, nhưng bất cứ ai sở hữu một bộ não của con người cũng đều phải hình dung tới những đồng tiền nhơ bẩn được sử dụng để mua 18 tháng tù treo cho một kẻ đồi bại bất nhân.

18 tháng tù treo chỉ là một biện pháp xảo ngôn để hóa giải mọi hình phạt dành cho tên tội phạm Nguyễn Khắc Thủy. Tại sao tôi lại sử dụng cụm từ “đi đêm” cho bản án này. Bởi vì cách thức mà người ta ưu ái dành cho hắn một phiên tòa mà đáng lẽ ra sáng nay chỉ có một mình hắn và mấy tên luật sư cãi cùn tham dự đã nói lên tất cả.

Hãy lắng nghe tôi chia sẻ: Chiều ngày 9 vừa qua, bỗng dưng trong người có cảm giác bất an, tôi gác lại công việc rồi tới văn phòng Viện Kiểm Sát TP Vũng Tàu. Tại đây, tôi hỏi cơ quan này về dự kiến thời gian phiên phúc thẩm vể đơn kháng cáo của tên Nguyễn Khắc Thủy, ngay lúc này tôi nhận được thông tin là ngày 11 tháng 5 năm 2019 (ngày hầu hết học sinh phải tham gia kỳ thi cuối cấp). Chỉ còn vài chục tiếng không kịp trở tay, chỉ đăng vội dòng status để mong nhận được sự đồng cảm và ủng hộ từ cộng đồng.

Ngay chiều hôm đó nhà báo Đinh Thu Hiền hủy chuyến bay công tác ra Hà Nội để sáng hôm sau xuống Vũng Tàu tác nghiệp.

Chỉ còn chưa đầy 24 tiếng để xử lý thông tin phiên tòa mà sau bao nhiêu ngày tháng, vật đổi sao rời, tôi đi xa mà không cập nhật được. Chúng tôi bắt đầu lần tìm từng địa chỉ của những người liên quan tới vụ án. Liên lạc được với họ thì câu trả lời đều có nội dung “không biết gì, không nhận được giấy gì từ Tòa án liên quan tới phiên xử cả”. Vì thế mà chị Đinh Thu Hiền đã trực tiếp gọi cho ông thẩm phán Huỳnh Ngọc Thiện để xác nhận có hay không phiên tòa phúc thẩm sáng nay.

Tới 5h giờ chiều, chúng tôi có mặt tại nhà của một nhân chứng để thảo luận với gia đình tình hình trên, thì bất ngờ nửa tiếng sau một người đàn ông cầm một phong thư vội vã gửi cho người làm công của gia đình rồi lên xe đi mất mà không nói bất cứ điều gì. Khi mở ra mới biết đó là giấy triệu tập nhân chứng. Vậy là họ chỉ cho nhân chứng một đêm chuẩn bị, trong khi sáng nay cháu còn phải đi thi hết năm học. Ngoài một thư triệu tập này ra, không còn bất cứ ai nhận được gì.

Sáng nay phiên tòa bắt đầu lúc 8h, tên Nguyễn Khắc Thủy bước xuống từ một chiếc xe hơi sang trọng, trắng muốt, trang bị thêm gậy chống mới tinh và căn bệnh Parkinson. Còn tôi lúc đó vẫn đứng trước cổng trường đợi cho cháu thi xong. 10h sáng, phiên xử giữa chừng nhân chứng mới có mặt tại Tòa.

Bởi vì có chúng tôi hay không, chắc là không còn quan trọng với họ. Nếu không tình cờ biết được phiên xử, chắc chắn hôm nay chỉ có đám người kia đi nhận cái án như không trong im lặng, thế thì phải dễ dàng biết mấy.

Cách đây 2 năm, tôi từng nói rằng, dù có hay không công lý trong vụ án này, tôi vẫn theo đuổi để thực hiện trọn vẹn trách nhiệm làm mẹ, và trách nhiệm với những nạn nhân khác. Hôm nay công lý đã bị cướp mất rồi, tôi không khóc được nhưng trong lòng vỡ vụn. Phải đi tiếp thôi, cho dù phải gặp bao nhiêu bọn bất nhân, rác rưởi thì cũng phải nhổ vào mặt mà cho chúng biết bản chất thật của chúng thế nào. Chứ nhất định không để chúng dựa vào vài cái danh phận chỗ này, chỗ kia mà cho mình là hơn người. Trong khi bọn chúng chỉ là những con quỷ kiếm ăn trên linh hồn và danh dự của những bé gái.

Gian nan phía trước!

BÀ QUYẾT TÂM NÊN TỪ CHỨC SỚM!

BÀ QUYẾT TÂM NÊN TỪ CHỨC SỚM!

20 năm dân Thủ Thiêm khiếu kiện khắp nơi, không đâu giải quyết…
20 năm dân Thủ Thiêm mới được tiếp xúc Đại biểu QH đúng nghĩa!
20 năm, nay bà CTHĐND TP Quyết Tâm mới “biết dân Thủ Thiêm bức xúc”! Cách đây không lâu bà vẫn bảo: “Làm gì có chuyện dân chửi Đảng”! Vô cảm, quan liêu, bao che cho nhau đến thế là cùng!

Tất Thành Cang có gần chục căn biệt thự rải khắp Sài Gòn

Tất Thành Cang có gần chục căn biệt thự rải khắp Sài Gòn

FB Ngọc Bảo Châu

Một trong các căn biệt thự của ông Tất Thành Cang. Ảnh: FB Ngọc Bảo Châu

Ngọc Bảo Châu rất nể anh 6 Tan Thành Cất vì anh thuộc thế hệ 7x nhưng tài sản của anh rất lớn, gần chục căn biệt thự rải khắp Sài Gòn.

Căn biệt thự xây theo kiểu kiến trúc Tây âu có cái chòi canh gác ở bên dưới, hàng ngày anh sinh sống ở đấy.

Nó là căn VIP nhất ở khu đô thị City Land quận 7, cạnh Phú Mỹ Hưng.

Còn ba căn biệt thự liền kề nhau ở khu đô thị Himlam, cũng quận 7, anh thường khoe với bạn bè, chiến hữu là của má anh và má vợ anh.

Anh em chiến hữu ở các sở, ngành rỉ tai nhau, hễ đến dịp lễ, tết hay rằm, ba mươi mồng một, hễ ai đem chuối tới thắp nhang cúng, anh 6 thường bảo đem về chỗ nhà má anh.

Anh em chiến hữu kháo nhau, có 2 lý do để anh 6 bảo thế. Một là anh 6 không muốn chòm xóm để ý vì đông quá, dập dìu mang chuối đến cúng nhiều người nhìn vô cũng kỳ.

Lý do thứ 2 là anh 6 muốn có những nải chuối anh 6 để dành riêng, không muốn vợ biết.

Căn nhà phố mặt tiền CMT8 gần CLB Lan Anh thì anh 6 cho osin thuê. Những căn khác từ từ hé lộ sau nha.

Anh 6 được nhiều chiến hữu thương ghê. Lần nào anh 6 đi họp HN, thể nào cũng có một đám cận thần bay ra công tác. Hàng phải từ phó giám đốc sở trở lên, các chủ đầu tư, đơn vị thi công hạ tầng, những người muốn được anh 6 nâng đỡ.

Hôm qua thấy có cậu đệ tử ruột anh 6 là Tề Trí Dũng, giám đốc Công ty THNHH MTV phát triển công nghiệp Tân Thuận IPC (cũng tên Tân Thuận nhưng là DNNN trực thuộc Ban tài chính UBND TP) đi HN công tác.

Cty Tân Thuận này là đơn vị quản lý phần vốn nhà nước ở các liên doanh như Phú Mỹ Hưng, KCX Tân Thuận, KCN Hiệp Phước, Long Hậu…

Hàng năm, không làm gì công ty cũng thu về gần 800 tỷ đồng được chia cổ tức. Quản lý một khối lượng tiền nhà nước khổng lồ như thế, anh Tề Trí Dũng rất có quyền lưc, muốn quyết gì là quyết, không cần quy định gì đâu.

Cận thần thì hầu anh 6 còn anh 6 thì không hầu cận thần.

Trước khi lên chức bây giờ, anh 6 đi HN có mang theo chai rượu 40.000 USD, không biết vỏ chai đấy giờ nằm phương trời nào.

Chuyện này Ngọc Bảo Châu kể sau. Ai hóng thì hóng nha, không ép.

Quan Trọng Là Biết Rõ Chính Mình

Quan Trọng Là Biết Rõ Chính Mình 

Ngôi chùa nọ trên núi có nuôi một con lừa, mỗi ngày nó đều ở trong phòng xay thóc lúa  vất vả cực nhọc kéo cối xay, thời gian lâu dần, lừa ta bắt đầu chán ghét cuộc sống vô vị này. Mỗi ngày nó đều trầm tư, “nếu như có thể ra ngoài ngắm xem thế giới bên ngoài, không cần kéo cối xay nữa, như thế thật là tốt biết mấy!” 

Không lâu sau, cơ hội cuối cùng đã đến, một vị tăng trong chùa muốn dẫn lừa ta xuống núi để thồ hàng, lòng nó hứng khởi mãi không thôi. Đến dưới chân núi, vị t ăng đem món hàng đặt lên lưng nó, sau đó trở về ngôi chùa. Thật không ngờ, khi những người đi đường trông thấy lừa ta, ai nấy cũng đều quỳ mọp ở hai bên đường cung kính bái lạy.

 Lúc bắt đầu, lừa ta không hiểu gì cả, không biết tại sao mọi người lại muốn dập đầu bái lạy nó, liền hoảng sợ tránh né. Tuy nhiên, suốt dọc đường đều như vậy cả, lừa ta  bất giác hiu hiu tự đắc hẳn lên, lòng thầm nghĩ thì ra mọi người sùng bái ta đến thế. 

 Mỗi khi nhìn thấy có người qua đường thì con lừa lập tức sẽ nghênh ngang kiêu ngạo  đứng ngay giữa đường phố, yên dạ yên lòng nhận sự bái lạy của mọi người. Về đến chùa, lừa ta cho rằng bản thân mình thân phận cao quý, dứt khoát không chịu kéo cối xay nữa. 

Vị tăng hết cách, đành phải thả nó xuống núi.

 Lừa ta vừa mới xuống núi, xa xa đã nhìn thấy một nhóm người đánh trống khua chiêng đang đi về phía mình, lòng nghĩ, nhất định mọi người đến để nghênh đón mình đây mà, thế là nghênh ngang đứng ngay giữa đường lộ. Thực ra, đó là đoàn người rước dâu, đang đi lại bị một con lừa khư khư chắn ngang đường, người nào người nấy đều rất tức giận, gậy gộc tới tâp… Lừa ta vội vàng hoảng hốt chạy về chùa, khi về đến nơi thì cũng chỉ còn lại chút hơi tàn. Trước khi chết, nó căm phẫn nói với vị tăng rằng:

 “Thì ra lòng người hiểm ác đến thế, lần đầu khi xuống núi, mọi người đều đảnh lễ bái lạy ta, nhưng hôm nay họ lại ra tay tàn độc với ta đến thế”, nói xong liền tắt thở. 

 Vị tăng thở dài một tiếng: “Con thật đúng là một con lừa dại dột! 

Hôm đó, thứ mà mọi người bái lạy chính là bức tượng Phật được ngươi

 cõng trên lưng mà thôi”.

 * Suy Nghiệm:

 Điều bất hạnh lớn nhất trong đời người, chính là cả một đời mà không nhận thức được bản thân mình. Đôi khi chúng ta là chính mình, nhưng cũng có những lúc ta đánh mất bản thân, có những lúc để nhận thức được bản thân còn khó hơn cả việc nhận thức được thế giới chung quanh. Mỗi ngày chúng ta đều soi gương, nhưng khi soi gương, có ai từng hói bản thân mình một câu rằng: 

“Bạn đã nhận thức được chính mình chưa?”

 – Nếu như bạn có tiền tài, điều người ta sùng bái chẳng qua là tiền tài của bạn, chứ không phải chính bản thân bạn, nhưng bạn lại ôm ảo vọng rằng họ đang sùng bái mình.

 – Nếu như bạn có danh vọng, điều người ta tôn kính chẳng qua là danh vọng của bạn, chứ không phải chính bạn, nhưng bạn lại lầm tưởng rằng người khác đang tôn kính mình.

 – Nếu như bạn có dung mạo đẹp đẽ, điều người ta mến mộ chẳng qua chỉ là ”cái vỏ dung mạo” đẹp đẽ mà tạm thời bạn đang có, chứ không phải chính bạn,  nhưng bạn lại hoang đường cho rằng người khác đang ngưỡng mộ chính bản thân mình.

 Khi tiền tài, danh lợi, vẻ đẹp của bạn không còn nữa, thì cũng là lúc bạn bị vứt bỏ…… có bao giờ bạn nghĩ đến điều ấy? Điều mà người khác tôn sùng chẳng qua chỉ là  những ước muốn trong tâm của họ, chứ không phải là chính bạn.

 – Giá trị một con người xuất phát từ nội tâm đức hạnh và trí tuệ chứ không phải  những thứ bề ngoài, lao tâm khổ sở vì nó thật là điều bất hạnh nhất trên đời.

 Ta nên nhìn rõ chính mình là điều vô cùng quan trọng và cần thiết vậy!

From: Kristie Phan & KimBang Nguyen

TÂM SỰ CỦA NGƯỜI CHA ĐẠO ĐỨC CÓ ĐỨA CON GÁI DUY NHẤT GIA NHẬP DÒNG KÍN

TÂM SỰ CỦA NGƯỜI CHA ĐẠO ĐỨC CÓ ĐỨA CON GÁI DUY NHẤT GIA NHẬP DÒNG KÍN

Ông Matthew Wenke là một tín hữu Công giáo đạo đức.  Ông thường cầu nguyện cho ơn gọi tu trì, nhưng ông không nghĩ chính Nora, người con gái duy nhất dễ thương của ông lại theo ơn gọi này.  Nora gia nhập đan viện thánh Giuse của các nữ tu Passionist ở Kentucky và tháng 8 năm 2015, cô đã được lãnh tu phục và bây giờ được gọi là sơ Frances Marie.  Ông Wenke  đã trải qua những giờ phút đau lòng từ khi con gái cưng bày tỏ quyết định đi tu.  Ông đã phấn đấu và cầu nguyện rất nhiều để can đảm dâng con lại cho Chúa và cuối cùng ông đã có được niềm vui khi nhìn thấy con mình hạnh phúc trong ơn gọi đời thánh hiến.  Ông đã chia sẻ những suy nghĩ của mình về câu chuyện này.  Ông bắt đầu:

“Nếu con gái của những người khác thích đi tu, tôi sẽ không đặt câu hỏi gì cả.  Tôi sẽ tôn trọng quyết định của họ và thật lòng vui mừng cho họ.  “Đó là một ơn gọi cao trọng và đẹp đẽ!”, “Thật là một cuộc sống có ý nghĩa với mục đích thánh thiện!”, tôi không nghi ngờ chút nào về điều này.  Nhưng khi tôi nghe biết ý định vào dòng kín của con gái tôi, ngay lập tức tôi nghĩ: “Trời ơi, ba hy vọng con có ơn gọi … làm sao con có thể về thăm nhà thường xuyên?”  Suy nghĩ đầu tiên của tôi không phải là về việc hoàn thành ơn gọi và đời sống thiêng liêng của Nora.  Ý nghĩ đầu tiên của tôi là tôi có thể sẽ thiếu vắng sự hiện diện của con gái tôi trong nhà của mình, và sự đồng hành dịu dàng và vui tươi của nó.  Tôi nghĩ những điều này vì tôi biết về đời sống đan tu khi tôi đọc cuốn “Nhật ký một tâm hồn của thánh Têrêsa,” trong đó chị thánh kể khi vào đan viện, chị phải nói lời tạm biệt với người cha đang đau đớn và chị Celine.  Tạm biệt luôn là thời khắc khó khăn đối với tôi. 

Tôi quan sát sự tự tin và an bình thiêng liêng của Nora trong chọn lựa ơn gọi của nó, khi Nora lần đầu thăm các nữ tu dòng Passionist trong tuần phân định “Đến và xem” trong tháng 11 đến 12 năm 2013, rồi 3 tháng như thỉnh sinh từ tháng 2 đến 5 năm 2014.  Tôi đã lo sợ rằng phải tạm biệt với đứa con gái duy nhất của tôi.  Trong khi chờ đợi và cầu nguyện trong thời gian này, tôi tự hỏi: Tôi có nên thử giữ nó ở lại nhà?  Tôi có nên làm cho nó thấy có lỗi với sự đau đớn và buồn sầu của tôi?…  Tôi nghĩ ngợi về sự ích kỷ đó, sự kiểm soát và làm dụng quyền lực của tôi.  Tôi nghĩ về tội lỗi mà tôi cảm thấy nếu tôi nhìn vào con gái của tôi, bị gài bẫy bởi sự ích kỷ của tôi.  Ý tưởng này làm tôi hoảng sợ!  Tôi cảm giác thế nào nếu ai đó đã gài bẫy tôi bằng tình cảm, không cho tôi tự do chọn ơn gọi và cách sống của tôi?  Tôi biết là tôi có thể tức giận với người đó và cảm thấy đau đớn vì không đáp lại tiếng gọi yêu thương thu hút của Chúa.  Tôi nhìn vào con gái tôi: một linh hồn trong trắng.  Một phụ nữ có đời sống thiêng liêng sâu sắc, muốn phân định tiếng Chúa gọi một cách tự do.  Nó ao ước hòa mình với ý muốn của Chúa mà tôi đã cầu nguyện, cho mọi con cái của tôi … trở thành những môn đệ đích thực, chúng tôi phải mở lòng với mọi chọn lựa, không chỉ cho chúng tôi, nhưng cho tất cả những người chúng tôi yêu quý.

Khi Nora trở về nhà sau 3 tháng thỉnh sinh ở Kentucky, nó không bao giờ trở về hoàn toàn.  Thân xác nó ở nhà nhưng lòng nó thuộc về đan viện ở Kentucky.  Nó yêu chúng tôi như trước và cố gắng để ở nhà.  Tuy vậy, sau một hay hai ngày, nó nói với tôi, đây không còn là cuộc sống của nó nữa.  Nó nói: “Con không có cuộc sống ở đây nữa; con cần đến với công việc mà Chúa dành cho con và nó không phải là ở đây nữa.  Tôi bị sốc và phần nào mềm lòng bởi những lời của nó.  Nhưng tận đáy sâu, tôi biết sự thật về chúng.  Tôi bắt đầu chuẩn bị cho lần ra đi cuối cùng của nó vào cuối tháng 7, khi mà Nora sẽ bắt đầu năm đệ tử.  Vào cuối thời gian này, nếu nó vẫn cảm thấy được gọi vào tu đan viện, nó sẽ không bao giờ trở về nhà ở Olean, New York nữa.

Những lời của Nora nhắc tôi nhớ đến lời Chúa Giêsu nói với Mẹ Maria và thánh Giuse: “Cha mẹ không biết là con phải lo chuyện của cha con sao?”  Chắc chắn những lời này làm họ đau đớn một ít, nhưng ho biết sự thật thiêng liêng sâu sắc.  Giống Chúa Giêsu, Nora vâng lời theo kế hoạch ở với chúng tôi cho đến cuối tháng 7.  Từ tháng 5 cho đến 26 tháng 7, khi chúng tôi trở lại Kentucky, tôi đã cầu xin sự can đảm, đức tin và tình yêu để cho con gái tôi đi, để dâng lại cho Chúa đứa con gái mà Ngài cho tôi mượn gần 19 năm nay.  Đứa con gái duy nhất của tôi.  Thiên Chúa đã trao con của Người cho tôi.  Tôi có thể trao lại Nora xinh đẹp của tôi vào cánh tay Người không?

Tôi không dối các bạn là tôi đã khóc, đã khóc, không biết bao nhiêu lần, khi tôi nhìn vào đứa con gái đáng yêu của tôi đang lần hạt Mân Côi bên cạnh tôi mỗi tối.  Nước mắt tôi trào ra khi tôi nhìn nó trong giờ Kinh sáng hay kinh Truyền tin vào ban trưa.  Tôi nhớ tiếng nói và thật sự tập trung vào sự thật là nó đang ngủ vào ban đêm, an toàn trong phòng của nó, dưới mái nhà tôi.  Không có ngày nào trong hai tháng này mà tôi không tranh thủ có sự hiện diện của nó.  Tôi trân trọng thời gian với con gái tôi. 

Tôi đã suy tư nhiều về cuộc sống chiêm niệm.  Trong khi tôi vẫn lo sợ nói lời chia tay với Nora, tôi có thể hiểu hứng thú và niềm vui của nó, và cả ghen tị với nó trong những lúc ồn ào hỗn loạn ở nhà hay khi làm việc.  Tôi nghĩ là một phần đời sống tinh thần của tôi sẽ liên kết với Nora khi nó đến ngôi nhà mới, và lời cầu nguyện của nó ở đan viện sẽ liên kết với lời cầu nguyện của chúng tôi ở nhà hay trong Thánh lễ.  Tôi cầu nguyện: “Chúa yêu quý, xin cho con can đảm, niềm an ủi và tình yêu sâu sa để chúng con thực hiện điều này.”

 Ngày 27 tháng 7 đã đến.  Tin mừng hôm đó thực thích hợp  – mọi người tìm kiếm những viên ngọc quý và mua thửa ruộng để sở hữu gia tài.  Nora đã tìm thấy tình yêu dành cho Chúa và ao ước cho Người tất cả và được Người sở hữu hoàn toàn!  Con gái tôi là kho tàng ít có… viên ngọc này sẽ được kết vào chuỗi của những viên ngọc quý.  Mỗi viên ngọc là duy nhất; không có viên nào đẹp hơn viên khác.  Tất cả làm thành sự hoàn hảo của chuỗi ngọc.  Tôi suy gẫm bài sách thánh này và quan sát nó với niềm vui, sự ngạc nhiên, niềm vui tỏa sáng của Nora khi trở lại đan viện.  Không có điều xấu nào có thể mang đến niềm vui, bình an và sự xuất thần rõ ràng mà Nora dường như đang cảm nghiệm.  Tôi cầu xin để cũng có thêm nhiều sự can đảm và niềm vui trong tôi.  Chúa đã ban cho tôi những điều này.  Tôi bị sốc vào buổi sáng Nora vào đan viện; niềm vui và tình yêu của nó lan truyền.  Tôi không thể nghĩ về chính tôi.  Tôi chỉ có thể nghĩ về niềm vui, sự vô vị lợi của con gái tôi và dâng nó cho  Chúa.  Không có điều gì buồn cả.  Nora vào nhà dòng với nụ cười và chúc lành của tôi và tôi vinh danh Chúa vì Người gọi con gái yêu quý của tôi.  Nó thuộc về Người.  Tôi và bạn cũng thế! (Aleteia  06/11/2016)

Hồng Thủy (VietVatican)

From: suyniemhangngay1 & Lucie 1937

NHỮNG CON SỐ … LỊCH SỬ.

   NHỮNG CON SỐ … LỊCH SỬ.

  Giao Chỉ, San Jose

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 , tất cả quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa đều trở thành đối tượng của “chế độ lao động cải tạo”, một chính sách do cộng sản Việt Nam du nhập từ Trung cộng và được tôi luyện từ miền Tây Bá Lợi Á của thiên đường Sô viết.

Tài liệu của Viện Bảo TàngViệt Nam tại San Jose ghi nhận số lượng tù cải tạo như sau:

– Năm 1975 QLVNCH có 980.000 quân nhân gồm 1/10 cấp Tá và cấp Tướng tổng cộng 9.600, cấp úy là 80.000, còn lại là hạ sỹ quan và binh sĩ.
– Cấp Tướng tại ngũ đến 30 tháng 4 năm 75 là 112; bị tù cải tạo: 32 vị, 80 tướng lãnh di tản và 1 số nhỏ không bị bắt giam.
– Ðại tá có 600, bị tù 366.
– Trung tá có 2.500, bị tù 1.700.
– Thiếu tá có 6.500, bị tù 5.500.
– Cấp úy có 80.000, bị tù 72.000. Trong số này bao gồm cả nữ quân nhân cũng như thành viên đảng phái và các cấp chính quyền.

Ðây là con số ghi nhận được từ phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa, không có tài liệu của các trại giam phía cộng sản để đối chiếu; và không có con số chính xác tù cải tạo bị chết trong khi giam cầm.

Ghi chú: Tất cả danh từ “cải tạo” thực sự đều là tù chính trị.

NHỮNG NGƯỜI TÙ KHÔNG ÁN

Không kể thành phần bị bắt trước 1975 nhưng không được trao trả tù binh sau 1973, thì thời gian tù “cải tạo” kéo dài từ 1 năm đến 17 năm. Từ 1975 đến 1992.

Năm 1988 gần như là năm cuối cùng, hầu hết tù được trả tự do.

Suốt 4 năm tiếp theo chỉ còn lại 120 tù bị giam tại Z30D gọi là Trại Thủ Ðức tại Hàm tân. Trong số này có 9 vị tướng lãnh. Ðại tá Phạm Duy Khang khóa 6 Võ bị, làm thư ký Trại còn nhớ tên từng người. 4 Thiếu tướng: Lê Minh Ðảo, Ðỗ kế Giai, Trần Bá Di, Nguyễn Ngọc Sang, và 5 Chuẩn Tướng: Lê Văn Thân, Hoàng Lạc, Mạch Văn Trường, Trần Quang Khôi, Phạm Duy Tất.
Cấp Ðại tá có 22 người, 20 thiếu tá và các thành viên cảnh sát, đảng phái.

Thiếu tướng Ðỗ Kế Giai tả lại quang cảnh khi tất cả mọi người được thả hết chỉ còn mấy ông Tướng. Trại Hàm Tân hoàn toàn vắng lặng. Cộng sản cho xe chở 5 ông tướng về chuyến cuối cùng. Vì đường đi thuận tiện, xe về Saigon đến nhà các vị Tướng khác hết 1 vòng, Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai là người về sau cùng. Ông bước xuống xe, tâm trạng thực băn khoăn khó tả. Tù vừa tròn 17 năm. Những ông tướng khác vềtrước ông chừng nửa giờ nên tướng Giai là người sau cùng, theo ý nghĩa tiêu biểu của lịch sử.
Hỏi chuyện ngục tù, ông Giai nhắc lại câu danh ngôn của người xưa: “Bại binh chi tướng, bất khả ngôn dũng“ (Tướng quân thua trận, không thể nói mạnh).
Lại hỏi rằng, suốt thời kỳ 17 năm có thấy cộng sản hay thế giới tự do vào quay phim hay chụp hình để bây giờ có thể đi tìm dấu tích của những năm dài “cải tạo”; vị chỉ huy trưởng binh chủng Biệt động quân cho biết, dường như chẳng thấy gì.

NHỮNG NĂM THÁNG KHÔNG QUÊN:

1975 : Hàng trăm ngàn quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa bị cộng sản tập trung “cải tạo”.
1980 : Sau 5 năm tranh đấu, dư luận Mỹ và thế giới áp lực Hà Nội phải thả tù .
1982 : Tại Pháp, Phạm văn Ðồng, Thủ  tướng Hà Nội thách thức sẽ trả tự do nếu Mỹ nhận hết tù cải tạo.
1982 : Ngoại trưỡng Mỹ điều trần tại Quốc hội cho biết sẽ nhận 10.000 tù chính trị Việt Nam và gia đình.
1985 : Lần đầu tiên, cơ quan IRCC, Inc. tại San Jose nhận được 1 video tape do phóng viên tự do Hoa Kỳ quay tại Việt Nam. Trong đó có ba đoạn hết sức đặc biệt:
1) Phi công Việt Nam Cộng Hòa, vừa được tự do
2) Vợ con tù thăm nuôi tại Hàm tân;
3) Ban văn nghệ của Trại Hàm Tân;
4) Phỏng vấn 1 người tù cụt chân cấp Thiếu tá.
1985 : Hoa Kỳ và Việt Nam gặp nhau tại New York bàn về việc thả tù cải tạo.
1987 : Lần đầu tiên nhà báo Thụy Ðiển được vào làm phóng sự tại Trại Nam Hà, tiếp theo Hà Nội bắt đầu chuyển thêm tù cải tạo vào Nam và trả tự do từng đợt .
Tháng 7 năm 1988 : Phái đoàn Funseth đi Hà nội họp về việc nhận tù cải tạo.
Tháng 8 năm 1988 : Hà Nội đơn phương loan báo đình chỉ việc thảo luận.
Tháng 1 năm 1989 : Lần đầu tiên Hồng thập tự Hoa Kỳ được phép gửi quà cho tù “cải tạo”.
Một chiến dịch gửi quà được phát động tại hải ngoại .
Tháng 4 năm1989 : Phái đoàn Quốc hội Cali về Việt Nam thảo luận về đề tài xã hội và tù “cải tạo”. Có các thành phần tỵ nạn Việt Nam cùng đi. Ðại diện IRCC trách nhiệm tiểu ban tù chính trị. Phái đoàn yêu cầu trả tự do cho Võ Ðại Tôn. Phỏng vấn thu thanh Phan Nhật Nam vừa được tự do tại Saigon.
Tháng 6 tháng 1989 : Thượng viện Mỹ tuyên bố yêu cầu Hà Nội trả tự do cho tù “cải tạo” và Hoa Kỳ sẽ đón nhận .
Tháng 7 năm 1989 : Phái đoàn Hoa kỳ về Việt Nam ký thỏa ước nhận định cư tù “cải tạo”
Tháng 8 tháng 1989 : Báo San Jose Mercury News gửi phóng viên về Saigon làm một loạt bài phỏng vấn “tù cải tạo” sắp ra đi có gia đình chờ đợi tại San Jose.
Tháng 1 tháng 1990 : 15 gia đình H.01 đi chuyến đầu tiên đến phi trường San Francisco, có 4 gia đình về Bắc Cali. 11 gia đình chuyển tiếp đến các tiểu bang khác và Quận Cam
Tháng 8 năm1993: Ðại tá Phạm Duy Khang, sau 17 năm tù đã trở về đợt sau cùng với 120 người. Ông đến San Jose và dự lễ thượng kỳ ngày 8/8/1993 .
Sau đó các đợt HO bổ túc và chương trình đoàn tụ gia đình HO lần lượt tiếp diễn suốt 15 năm từ 1994 đến 2009. Cho đến tháng 4 năm 2009 vẫn còn gia đình thuộc diện “tù cải tạo” đến Hoa Kỳ.

NHỮNG THIÊN ANH HÙNG CA
Trước năm 75, Miền Nam xây dựng hai nền cộng hòa đã tồn tại hết sức hào hùng qua hai chiến dịch tấn công của địch. Chúng ta đã đứng vững trong trận Mậu Thân 68 và vượt qua trận mùa hè 72.

Sau 1975 miền Nam thất thủ nhưng vẫn còn ghi thêm hai thiên anh hùng ca bất tử.
Người chiến sĩ sống còn sau trận “cải tạo” và toàn dân miền Nam thành công với những chuyến đi của thuyền nhân tỵ nạn.
Chúng tôi đã có bài viết về thuyền nhân và riêng bài này xin dành cho câu chuyện tù “cải tạo”. Lần lượt đã kể ra những con số lịch sử, những người tù không án, những ngày tháng không quên, những dữ kiện tuy khô khan cằn cỗi nhưng chính là máu xương của một đạo quân, của một thể chế dân chủ không còn nữa.
Từ những con số này chúng ta hãy đi tìm nhân chứng và thu hồi di sản dành cho trang sử gửi thế hệ tương lai.

ÐI TÌM NHÂN CHỨNG

Trong số muôn vàn lãnh vực, xin đưa ra một vài thí dụ để chứng minh về câu chuyện tù “cải tạo.” Trong hơn 10 năm tù đày, người tù Miền Nam đã sáng tạo biết bao di vật để dùng và để làm quà kỷ niệm gởi cho mẹ, cho vợ, cho con. Chúng tôi cần những di vật đó. Chúng tôi đã có, nhưng chưa đủ.
Thư từ là những liều thuốc thần diệu đểngười tù nhờ đó mà sống trong hy vọng. Chúng tôi cần giử lại những lá thư của tình yêu, bằng hữu và gia đình. Chúng tôi đã có, nhưng chưa đủ.

Chúng tôi thường nghe nói khi người cha đi tù, thì mẹ đi bán thuốc lá bên lề đường. Khi cha về phải đi đạp cyclo. Trong suốt 20 năm, chúng tôi đi tìm những tấm hình như thế nhưng không có. Cho đến năm 2008 mới tình cờ có được các hình ảnh quý giá. Nhưng vẫn còn đón chờ thêm các tài liệu tương tự.http://www.take2tango.com/MyFiles/image/News/05-2009/Tuan%2010/NhanChung-04.jpg

Chúng tôi được biết có nhiều gia đình cả hai vợ chồng đều đi tù cải tạo. Cả cha con đều bị tù và nhiều anh em một nhà cùng chung số phận. Chúng tồi còn cần thêm những sử liệu như thế.

CAN TRƯỜNG TRONG CHIẾN BẠI

Vị tướng hải quân vùng một, phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại có xuất bản một tác phẩm hồi ký. Ông lấy câu chuyện đứt phim 1975 để đặt tựa cho cuốn sách. Tình cờ chúng tôi có được tấm hình chụp hai chiến binh của sư đoàn 3 bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa bị bắt làm tù binh tại Quảng Trị khi Cộng quân tấn công 1972. Hình này nằm trong bộ sưu tầm độc đáo của một phóng viên Anh quốc.

A wounded ARVN in pain beside another prisoner at fire base QuangTri overrun by NVN, March 1972 (Another VietNam, Tim Page Colection).   http://www.take2tango.com/MyFiles/image/News/05-2009/Tuan%2010/NhanChung-05.jpg

Hai chiến binh Cộng Hòa bị địch quân giải về khu tập trung tù binh bên kia biên giới và một phóng viên của cộng sản Hà Nội đã chụp được tấm hình chân dung bất hủ xứng đáng gọi là “Can trường trong chiến bại”. Khuôn mặt người lính số 2 dựa vào người chiến binh số 1., Anh số 1 có thể là sĩ quan. Anh sỹ quan trẻ này bị thương ở tay còn băng bó, mặt còn mang dấu của các mảnh trái pháo, ánh mắt buồn bã nhưng vẫn đầy vẻ bất khuất.
Suốt đời tôi, chưa bao giờ nhìn thấy một gương mặt đầy ẩn dụ như vậy.
Bài viết sẽ đăng kèm tấm hình độc đáo này. Giờ này anh ở đâu?

Trên tài liệu DVD do IRCC, Dân Sinh và Viện Bảo Tàng San Jose sẽ phát hành ngày quân lực 2009, chúng tôi phổ biến rộng rãi để nhắn tin đến bốn phương trời ngõ hầu tìm cho được người lính chiến bại có nét mặt can trường của sư đoàn 3 bộbinh.

THIẾU TÁ ÐỘC CƯỚC LÊ HỮU CƯƠNG

Câu chuyện sau cùng xin nói vềngười tù cải tạo Lê Hữu Cương, khóa 16 võ bị Ðà Lạt, quận trưởng Củ Chi. Số là ngay từ đầu năm 1985 tình cờ chúng tôi gặp được một anh phóng viên Hoa Kỳ tặng cho video tape quay phóng sự Saigon từ 1984, trong đó có những đoạn hết sức đặc biệt. Câu chuyện một phi công cựu tù, mới được tự do có mở tiệm bán đồ nhậu tại Saigon. Ðối thoại bằng Anh ngữ. Xin hãy tưởng tượng lúc đó là năm 1985, chúng tôi coi phim mà lòng dạ nôn nao. Xúc động dâng lên khóe mắt. Anh em cùng ngồi xem mà mặt mũi ai nấy hết sức căng thẳng. Cho đến nay chúng tôi vẫn không biết anh phi công này là ai.

Một đoạn khác, quay tại trại tù Z30D tại Hàm Tân. Trại tù khang trang sạch sẽ  và rất ít người. Ai mà chẳng biết là cộng sản đã cho dọn dẹp và lùa tù đi làm, chỉ còn lại cả trại trống vắng. Phóng viên quay phim và anh chàng làm phóng sự đi cùng một thông dịch viên. Ban văn nghệ của trại được giới thiệu hát một bài. Khán giả duy nhất là anh phóng viên Mỹ. Nhạc trưởng là ca sĩ chính nét mặt hết sức đau khổ và cam chịu. Ông trả lời cấp bậc là thiếu tá, đã ở trại này nhiều năm. Dường như cũng từ Nam Hà chuyển về.

Một đoạn khác là cảnh tù “cải tạo” được vợ con lên thăm. Xin lưu ý đây là thời điểm của năm 1984 ở trại tù Miền Nam và cảnh này được trình diễn cho báo Mỹ quay phim. Tuy nhiên nếu lưu ý vẫn nhìn ra được những nỗi đoạn trường.

Sau cùng, chúng tôi được xem đoạn phim đặc biệt. Một tù cải tạo cụt chân ngồi cầm cặp mắt kiếng. Mắt anh rất sáng và dáng ngồi bình thản.
Gần như bất chợt, anh phóng viên hỏi bằng anh ngữ và người tù trả lời trực tiếp cũng bằng anh ngữ. Anh cấp bậc gì? -Thiếu tá. Anh có đủ ăn không? -Có được ăn, nhưng biết thế nào là đủ. Người tù hỏi ngược lại? Phóng viên Mỹ nói: Có phải người công an này đứng đây nên anh không trả lời? (Ðến đây phóng viên ra hiệu yêu cầu quản giáo đi ra). Không đủ ăn phải không? Not enough? Trả lời, – Yes, not enough. Anh có điều gì nhắn gởi với tổng thống Reagan không? – Tôi muốn được tự do. Tôi muốn rằng thế giới tự do cứu chúng tôi. Cho chúng tôi được tự do càng sớm càng tốt.
Máy quay phim chiếu xuống bàn tay cầm mắt kiếng. Rồi chiếu lên khuôn mặt người tù với ánh mắt ngời sáng như ánh thép trong ngục tù.
Chúng tôi bị ánh mắt này theo đuổi trong nhiều năm. Suốt 20 năm, từ 1985 đến 2005 đã có ý hỏi thăm về người thiếu tá cụt chân này là ai, còn sống hay đã chết.

Năm 2005 Asia quay video tại Hoa Thịnh Ðốn kỷ niệm 30 năm biệt xứ, chúng tôi có cơ hội giới thiệu dự án viện Bảo Tàng và đồng thời có chiếu đoạn phim này trong phần tài liệu.
Tiếc thay, dù đã có hàng chục ngàn khán giả nhưng vẫn không ai nhận ra người tù bất khuất.

Mãi đến năm 2007 vừa qua, chúng tôi tìm được tin tức thì nhân chứng không còn nữa. Người đó là thiếu tá Lê Hữu Cương, khóa 16 võ bị, mới ra trường đã bị thương với cấp bậc trung úy. Anh bị cưa một chân nhưng tiếp tục tại ngũ. Tốt nghiệp chỉ huy tham mưu và học xong lớp quân chánh thì về làm quận trưởng Củ Chi. Ông là một trong số rất hiếm hoi các sỹ quan cấp tá, mất một chân mà vẫn còn làm chi khu trưởng tại vùng đất dữ nhất của miền Ðông Nam phần.
Sau 1975 ông đã bị tù, giải ra Bắc, rồi đưa về miền Nam và tình cờ gặp phóng viên Mỹ tại Hàm Tân. Thiếu tá Cương H0 đến Hoa Kỳ đúng ngày 4/7/1991 và cư ngụ tại Orange County. Trong suốt thời gian dài trên 10 năm sống tại miền Nam Cali, Lê Hữu Cương đã sinh hoạt với giới văn nghệ, báo chí, nhưng chính ông và anh em cũng chẳng ai được xem đoạn phim quay trong tù mà ông đóng vai chính.
Năm 2000, Lê Hữu Cương viết hồi ký về cuộc đời có kể lại đoạn được hỏi chuyện trong tù bởi phái đoàn Mỹ. Trong cuốn tự chuyện này, chúng tôi mới được đọc qua đã thấy được hai điều phải ghi lại, Lê Hữu Cương sinh trưởng tại Huế và đã gặp thảm kịch đau thương khi mẹ và ba em gái của ông bị cộng sản giết trong kỳ Mậu Thân.
Câu chuyện thứ hai cần phải ghi lại là tinh thần tương trợ hết sức hào hùng của các cựu sinh viên sỹ quan Ðà Lạt khóa 16 thể hiện trong tù đã giúp cho Lê Hữu Cương, dù chỉ có một chân đã sống còn.
Nhưng tiếc thay khi bộ phim Asia phổ biến năm 2005 thì sau đó chúng tôi cũng đã được tin Lê Hữu Cương đã qua đời tại Miền Nam California.
Nhân chứng của một trang sử H0 không còn nữa.

Major Le, Huu Cuong 1970 SaiGon and 1984 Ham Tan, VietNam (Photo from Video).   http://www.take2tango.com/MyFiles/image/News/05-2009/Tuan%2010/NhanChung-06.jpg 

Ðó là lý do chúng tôi viết bài này phổ biến trên báo, đọc bài này trên các chương trình phát thanh và ghi lại các hình ảnh có được trên DVD phát hành ngày quân lực tháng 6 năm 2009.

Xin hãy đọc báo, xin hãy xem hình, xin hãy nghe radio, xin hãy đón coi DVD để thấy rằng lịch sử đã được gom lại như thế nào? Phải được thu hồi như thế nào? Cần được tập trung như thế nào? Trước khi di sản mai một và nhân chứng không còn nữa.

Xin hãy liên lạc về IRCC, Inc. số 1445 Koll Circle, suite 110, San Jose, CA 95112. Tel: 408-392 9923 để có được đoạn phim đối thoại hào hùng duy nhất trong tù của thiếu tá độc cước Lê Hữu Cương, người nhân chứng không còn nữa. Bộ DVD “Chân dung người lính VNCH” của viện Bảo tàng Việt Nam còn có hình ảnh người phi công ngồi hát bản tình ca trên hè phố Sài Gòn ngay từ 1984. Người vợ thăm chồng “cải tạo”, ông nhạc trưởng của ban văn nghệ Hàm Tân ca vang bản nhạc vui với bộ mặt sầu thảm như dao cắt trong lòng. Và sau cùng là hình ảnh người lính vô danh của sư đoàn 3 bộ binh tiêu biểu cho danh hiệu “Can trường trong chiến bại”.

Xin hãy cùng chúng tôi lên đường đi tìm nhân chứng cho thiên anh hùng ca của QLVNCH sau tháng tư 1975.

Giao Chỉ, San Jose

From: anh TRUONG LE gởi

NGƯỜI BÁN SÁCH TRÊN BÃI BIỂN NHA TRANG!!! – Phạm Tín An Ninh.

 
 
 
Image may contain: ocean, sky, outdoor, nature and water
Image may contain: sky, outdoor and nature

Van Pham is with Nguyễn Lai.

TRUYỆN NGẮN – Phạm Tín An Ninh.

NGƯỜI BÁN SÁCH TRÊN BÃI BIỂN NHA TRANG!!!

Tôi trở về thăm quê hương sau hơn mười lăm năm, kể từ ngày vượt biển ra đi. Tôi quyết định điều này qua bao nhiêu đêm ưu tư trằn trọc. Tôi chẳng còn ai thân quen bên ấy để về thăm. Mẹ tôi mất hồi tôi mới lên năm. Cha tôi chết cuối năm 1977 trong trại tù cải tạo Đá Bàn, khi tôi đang ở một trại tù khác tận núi rừng Việt Bắc và mãi năm năm sau tôi mới nhận được tin buồn. Đứa em gái mà tôi thương quí nhất, mang hình ảnh của người mẹ mà tôi chỉ còn mơ hồ trong ký ức, cũng đã kết liễu cuộc đời ở cái tuổi tưởng chừng lúc nào cũng có cả một bầu trời xanh bao la trước mặt. Còn bạn bè tôi, thằng chết, đứa ra đi, gởi thân khắp bốn phương trời.

Biết là lần trở về này, rồi cũng chẳng khác gì cái ngày cách đây mười sáu năm, từ một trại tù miền Bắc trở về, tôi bơ vơ lạc lõng trên chính nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Tôi cũng không có ý định về đây để tìm lại những kỷ niệm ngày xưa. Những “hang động tuổi thơ” chắc cũng đã biến mất trước bao nhiêu giông tố năm nào bất ngờ ụp xuống. Bây giờ chỉ còn sót lại chút ít trong lòng những người tha phương lưu lạc. Bản thân tôi có quá nhiều đớn đau và mất mát ngay trên chính cái thành phố một thời xinh đẹp này. Tôi sợ phải nhìn lại cái quá khứ hãi hùng và tang thương đó. Tôi về chỉ để làm một điều, mà nếu không làm được, lòng tôi sẽ ray rứt khôn nguôi. Có lẽ đến khi chết tôi vẫn không làm sao nhắm mắt.

Tôi về để tìm lại phần mộ của cha và em tôi, cải táng đem về an táng bên cạnh phần mộ của mẹ tôi trong nghĩa trang gia tộc ở quê tôi ngoài Vạn Giã. Điều ước mơ của cha tôi, mỗi lần ông kể cho tôi nghe về mẹ tôi và chuyện tình khá lãng mạn nhưng cũng nhiều cay đắng của ông bà. Cha tôi được chôn cất sơ sài trên núi Đá Bàn, bên ngoài một trại tù cải tạo lúc xưa. Còn em gái tôi, được gia đình một cô bạn thân chôn cất tại một nghĩa trang ngoài Đồng Đế. Khó khăn và may mắn lắm tôi mới tìm được tin tức về mộ phần của cha và em tôi sau hơn hai mươi năm. Nhờ một người bạn cùng tù với cha tôi, chính tay ông đã đào huyệt cho cha tôi; và gia đình cô bạn thân của em gái tôi, vượt biên từ năm 1978, hiện định cư tận bên Hòa Lan, cung cấp chi tiết và vẻ cả bản đồ hướng dẫn cho tôi.

Ngồi trên máy bay, tôi lo lắng đủ điều. Mộ em tôi nằm trong một nghĩa trang, dù chưa được xây, nhưng có tấm bia đúc bằng xi-măng nên có lẽ dễ tìm; nhưng phần mộ của cha tôi, nằm trong núi và cái trại cải tạo ngày xưa bây giờ đã biến thành một khu kinh tế mới. Gần ba mươi năm rồi, có biết bao sự đổi thay.

Cuối cùng thì tâm nguyện của tôi cũng hoàn thành được một nửa. Trái ngược với những lo lắng ban đầu, tôi dễ dàng tìm ra phần mộ của cha tôi. Mặc dù bối cảnh chung quanh thay đổi, nhưng bà con ở vùng kinh tế mới này đa số là dân thành phố bị cưởng bách “tự nguyện” lên đây, một số ngày xưa là lính và công chức. Biết đây là mộ của những người tù cải tạo, nên họ thương mà rào lại và giữ gìn. Những dịp cuối năm họ đều thắp hương, tảo mộ và kẻ lại tên trên những tấm bia bằng gỗ, dù đã rong rêu qua bao nhiêu mùa mưa nắng. Riêng phần mộ của em tôi, mò mẫm suốt cả hai tuần tôi vẫn tìm không ra. Cả khu nghĩa trang bây giờ thay đổi. Người chết nhiều quá. Nhiều ngôi mộ mới xây, nhưng cũng có một số đã được cải táng, dời đi nơi khác. Nhà cửa cất san sát bên nghĩa địa. Người sống bây giờ ở chung với người chết. Tôi bắt chước người xưa khấn vái, xin hồn thiêng em tôi về chỉ cho tôi ngôi mộ của em nằm. Nhưng lời vái của tôi vẫn không thiêng.
Tôi thuê người cải táng phần mộ của cha tôi. Đi từng nhà trong khu kinh tế mới cám ơn lòng tốt của mọi người. Đưa hài cốt của cha tôi về an táng bên cạnh mẹ tôi, trong nghĩa trang gia tộc, thuê thợ xây lại tất cả những ngôi mộ đã bao nhiêu năm không có ai chăm sóc.

Còn một ngày nữa là hết hạn visa. Tôi muốn đi một vòng, tìm lại chút gì của Nha-Trang xưa. Mùa hè Nha-Trang bây giờ dường như nóng bức hơn ngày xưa. Tôi thuê một chiếc xích lô chạy dọc theo con đường Duy-Tân cũ. Vừa để cho mát, vừa muốn tìm lại những lùm cây dương ngày trước, thuở chúng tôi và bạn bè hẹn hò sau những lúc tan trường. Một số lùm dương vẫn còn đó, nhưng trơ trọi, điêu tàn. Tôi bảo anh phu xe cho tôi xuống trường Võ-Tánh. Anh phu xe còn trẻ, thắng xe lại, ngạc nhiên. Tôi hiểu, nên tôi bảo tôi sẽ chỉ đường, anh cứ theo tôi. Ngôi trường cũ, nơi tôi có biết bao kỷ niệm của ba năm theo học, bây giờ không những cái tên trường, mà tất cả đều trở thành xa lạ. Những hàng cây phía trước không còn. Ngôi trường đứng chơ vơ, chẳng còn sót lại chút gì thơ mộng, gây trong tôi một cảm xúc bẽ bàng hơn là thương tiếc. Bất giác tôi nhớ đến em tôi. Đứa em gái xinh đẹp dễ thương, đã cho tôi cái ấm áp của cả một gia đình, trong những ngày chúng tôi lớn lên không có mẹ. Em học bên trường Nữ Trung Học, nhưng thường đến đây chờ tôi để hai anh em cùng ra biển. Em tôi thích tắm biển, nhưng ngại đến đó một mình nên thường rũ tôi đi theo hộ tống. Tôi tha hồ làm tình làm tội mấy anh chàng muốn đến làm quen, tán tỉnh em tôi. Tôi đi bộ dọc theo bãi biển, tìm đến khu có nhiều cây dừa trước trường Bá-Ninh lúc trước, nơi ngày xưa em tôi thường ngồi ở đó.

Tôi đưa mắt nhìn một vòng từ xa. Nơi bậc xi măng tiếp giáp bãi cát, một người tàn tật đang khó nhọc dùng cánh tay duy nhất còn lại giữ thăng bằng trườn xuống. Trông anh ta giống như một con cóc. Len lỏi trong đám người đi tắm, anh hướng về phía tôi ngồi. Lưng anh mang túi vải chứa đầy sách, và kéo lê trên cát một cái túi vải nữa, cũng toàn là sách. Anh lê lết từng quãng, từng quãng ngắn. Bất ngờ anh ta ngước lên. Thấy tôi gật đầu chào, anh ta nhìn tôi cười rạng rỡ, để lộ hàm răng trắng. Khuôn mặt tuấn tú, râu quai hàm, vầng trán cao với mấy sợi tóc vắt ngang rất nghệ sĩ. Anh dùng bàn tay duy nhất lôi một cuốn sách trong túi vải đang nằm trên mặt cát và từ từ mở ra. Tôi liếc qua. Cuốn sách có cái tựa viết bằng tiếng Anh, nói về chuyện chuyến tàu Titanic. Tôi nhớ đến cuốn phim cùng tên, mới quảng cáo rầm rộ trên truyền hình Nauy mà tôi chưa kịp đi xem. Bỗng tôi tròn mắt ngạc nhiên khi nghe anh mở lời chào và giới thiệu cuốn sách bằng tiếng Anh mà anh phát âm rất lưu loát, không thua kém gì những người Việt đã sinh sống lâu năm ở nước ngoài. Anh lầm tưởng tôi là người Nhật hay Đại Hàn gì đó. Tôi thán phục anh vô cùng và bảo với anh tôi là người Việt, định cư ở Nauy, nên trình độ tiếng Anh của tôi chỉ vừa đủ nói dăm ba câu xã giao, chứ làm gì có thể thưởng thức được văn chương. Tôi cám ơn anh và móc ví ra định biếu anh một chút tiền, nhưng anh vội đưa tay ngăn lại

– Cám ơn anh, nhưng xin anh để dành tiền cho những người còn nghèo khổ hơn tôi.

Anh nhỏ nhẹ bằng một giọng thân thiện và lễ độ.

Câu nói và thái độ của anh làm tôi rất đỗi ngạc nhiên. Vì từ khi trình giấy thông hành vào nước, trước những người mang lon, đội mão đại diện cho cả môt quốc gia mà cũng không có được phong thái thanh tao như anh; và chẳng lẽ ở trong cái thành phố ”mũi nhọn du lịch” này lại còn nhiều người khốn khổ hơn anh ?

Tôi đành mua một cuốn sách để anh vui lòng nhận tiền, nhưng rồi thấy anh cứ loay hoay moi hết túi nọ đến túi kia, để tìm đủ tiền thối lại cho tôi.

Tôi muốn hỏi thăm anh vài câu, nhưng anh đã nhoẻn miệng cười và gật đầu chào tôi rồi vội vàng lết sang mấy người khách nước ngoài đang nằm phơi nắng trên hàng ghế phía trước.

Từ hôm ấy, hình ảnh người tàn tật bán sách trên bãi biển Nha-Trang cứ lẩn quẩn trong đầu và theo tôi về tới Nauy; để rồi nếu có ai đó lỡ lời nói điều gì không mấy tốt về những người nghèo khổ ở Việt nam, tôi có cảm tưởng như đang xúc phạm đến anh, người bán sách khả kính mà tôi bất ngờ được gặp.

Năm sau, tôi lấy một tháng hè về lại Việt Nam. Lần này tôi mua vé và nhờ cha cô bạn của em tôi, từ Hòa Lan, cùng về với tôi. Ông là người đã giúp chôn cất em tôi ngày trước. Tôi không ngờ là mình phải về lại Việt nam lần thứ hai. Một điều mà trước đây tôi không hề nghĩ tới.. Nhưng tôi phải làm tròn bổn phận của người anh với cô em gái, mà nếu trước kia tôi lo lắng cho nó chu đáo hơn, biết đâu bây giờ nó còn sống để cho tôi khỏi cảnh côi cút một mình.

Sau một chuyến bay dài, tôi mệt đừ người. Tôi trở về từ vùng Bắc Âu lạnh lẽo, bây giờ lại gặp cái nắng oi nồng của vùng nhiệt đới. Sau khi thuê khách sạn xong, tôi chạy ngay ra biển tắm. Nằm dài trên bãi cát, tôi bỗng nhớ tới người bán sách năm xưa. Tôi thả bộ theo bờ biển về hướng mấy cái lều có bóng dáng nhiều người ngoại quốc đang từ khách sạn kéo ra, bỗng mắt tôi sáng lên khi nhìn thấy người tàn tật đang lê lết theo sau. Cũng hai cái túi vải đựng sách. Đúng là anh tàn tật bán sách năm trước chứ còn ai. Tôi mừng thầm như sắp sửa được gặp lại con người mà bấy lâu nay tôi thường nghĩ tới với lòng mến mộ. Tôi suy nghĩ làm cách nào để anh ta vui lòng nhận sự giúp đỡ của mình. Nhưng người tàn tật lúc nào cũng bám sát vào những người nước ngoài. Tôi để ý thấy người ta cũng không mua sách và chỉ cho anh tiền. Tôi ngạc nhiên khi thấy anh ta cười, hớn hở nhận tiền rất điệu nghệ, không nghe anh nói cái câu thật tử tế mà một năm trước anh đã lễ phép nói với tôi “Cám ơn anh, nhưng xin anh để dành cho những người còn nghèo khổ hơn tôi”. Một cái gì đó thật đẹp vừa bị sụp đổ trong lòng. Tôi cảm thấy người nóng hừng hực. Không biết là sức nóng giữa ban trưa hay vì máu nóng bốc lên đầu. Tôi cắm đầu chạy lao vào những đợt sóng cuồng nộ đang từ ngoài khơi đổ vào bờ.

Nước biển trong xanh, sóng biển như những cánh tay ôm tôi vào lòng vuốt ve, dỗ dành. Mặt nước mênh mông, trãi rộng đến những dãy núi mờ xanh tận cuối chân trời. Tôi nghe văng vẳng trong không gian như có ai đang dạo đàn bản Nha Trang Ngày Về. Thiên nhiên phần nào giúp tâm hồn con người rộng mở và dễ cảm thông hơn.

Sau một hồi quần với sóng biển, tôi cũng tạm quên người tàn tật bán sách đã làm tôi hụt hẫng. Nhưng khi vừa bước lên bờ cát thì tôi lại trông thấy anh ta đang o bế mấy người nước ngoài và đưa tay xin cả thức ăn thừa. Tôi nghi ngờ, có thể là người tàn tật này không phải là người tàn tật năm xưa. Tôi đến gần hỏi thăm. Nhưng chưa hỏi hết câu hắn đã “Đ.m. cái khứa đói rã họng ra mà còn làm cao ấy hả. Chết mẹ nó rồi..”
Chỉ nghe cái giọng lỗ mãng của hắn, tôi đủ biết chắc hắn ta không phải là anh – người tàn tật bán sách mà năm trước tôi đã gặp -. Tôi theo người bán sách này với ý định hỏi thăm thêm về anh cho ra lẽ, nhưng thấy hắn ta chẳng mấy tha thiết. Hắn di chuyển chậm, nhưng mắt hắn lại quan sát thật nhanh về những đám người đang xuống bãi ở quãng xa. Và khi đi ngang qua chỗ ngồi của người đàn bà bán cua luột, hắn hất hàm bảo: ” Đó, vợ khứa đó!”

Tôi liền chụp ngay cơ hội, hy vọng tìm ra manh mối. Nhưng khi tôi lân la lại gần, thấy chị bán cua luột này có vẻ nghiêm trang khác với những người bán hàng rong bình thường, tôi không biết phải bắt đầu làm sao. Tôi mua hết con cua này tới con cua khác mà chẳng ăn con nào. Và cứ mỗi lần chị định quảy gánh đi chỗ khác, tôi gọi giật lại mua thêm một con nữa để giữ chân chị. Vừa lúc chị nhận ra người khách mua cua này cũng có gì khác thường, tôi buột miệng : “Chị là vợ của người tàn tật bán sách trên bãi biển này mấy năm trước ?”. Chị ngớ người ra, im lặng nhìn tôi. Có lẽ thấy tôi là một người xa lạ sao lại tò mò vào một chuyện riêng tư. Tôi kể cho chị nghe cái cảm tình đặc biệt mà tôi đã dành cho anh ấy. Tôi muốn tìm cách giúp anh một phần nào nỗi thống khổ tật nguyền. Tôi tha thiết muốn biết về anh. Dường như những lời chân thật của tôi làm cho chị xúc động. Chị nhìn tôi, đôi mắt thật buồn:

– Em không phải là vợ của anh ấy. Tụi em cùng cảnh khổ nên đùm bọc lấy nhau mà sống. Một số người đùa, gán ghép tụi em rồi quen gọi thế thôi, anh ạ. Anh ấy đã chết cách nay hơn tám tháng. Em đã lo chôn cất anh ấy.

Lòng tôi thắt lại, một phần vì cảm thương anh trong cảnh khốn cùng, một phần ân hận là giá năm trước mình tìm cách giúp đỡ anh, biết đâu đã cứu được anh. Tôi có ý muốn nhờ chị đưa tôi ra mộ để thắp cho anh nén hương. Chị ngại ngùng nhưng cuối cùng gật đầu hẹn bốn giờ chiều chờ tôi trước khách sạn tôi ở.

Tôi thuê chiếc taxi, và xin phép cùng ngồi với chị ở băng ghế sau để dễ dàng trò chuyện. Trên đường ra nghĩa trang, chị say sưa tâm tình cùng tôi, như từ lâu lắm chị không có dịp nói ra những điều bao năm dấu kín trong lòng. Chị tên Trang. Cha chị trước kia là một trung sĩ địa phương quân, bị thương năm 1968, trong trận tết Mậu Thân, nên được giải ngũ. Mẹ chị mất từ khi chị còn bé lắm. Cha chị không chịu tục huyền mà ở vậy nuôi đứa con độc nhất của mình. Nhờ số tiền trợ cấp ban đầu, ông mua được một căn nhà tôn trong khu dành cho thương phế binh, nằm phía sau ga xe lửa. Ông xin được cái chân bán vé cho hãng xe đò Phi Long ở bến xe Xóm Mới. Lương ba cọc ba đồng cộng với tiền hưu bỗng hàng tháng, ông dành dụm cố lo lắng cho cô con gái học hành. Năm 1974, xong lớp 12, chị thi đậu vào trường sư phạm. Sau ngày Nha-Trang “giải phóng”, chị bị loại ra bởi lý lịch “ngụy quân” của cha. Lúc này, gia đình trở nên bi đát. Cha chị, tất nhiên, không còn được lãnh tiền hưu bỗng ngày trước, chị không tìm ra bất cứ việc gì làm. Cuối cùng cha chị đành phải bán một nửa căn nhà vốn đã chật chội để mua một chiếc xích lô làm phương tiện sinh nhai. Còn chị thì đi bán hàng rong từ dạo ấy.

– Đến bây giờ ông cụ vẫn còn đạp xích lô? Tôi tò mò hỏi.
– Ông mất lâu rồi anh ạ. Tội nghiệp, ông thương anh Bá lắm, xem anh ấy như con.

Tôi ngạc nhiên:
– Anh Bá nào?
– Người tàn tật bán sách đó.

Đến bây giờ tôi mới biết tên của anh.

Chị cho biết anh Bá ngày xưa là trung úy phi công. Máy bay của anh bị bắn rơi vào những ngày Sài gòn nguy khốn, khi yểm trơ cho mặt trận Long Khánh của Sư Đoàn Tướng Đảo.
Anh được anh em bộ binh tiếp cứu, nhưng anh bị thương rất nặng, phải đưa về tổng y viện Cộng Hòa. Sau cuộc giải phẫu khá dài, anh tỉnh lại. Nhưng khi biết được mình bị mất hai chân và một cánh tay, anh ngất xỉu và hôn mê suốt cả một tuần. Ngay sau khi Sài gòn vừa “giải phóng”, anh bị đuổi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa khi vết thương chưa lành. Gần hai tháng sau cha em gặp anh ấy trên bến xe Xóm Mới. Biết được phần nào hoàn cảnh thương tâm, cha em lấy xích lô chở anh về nhà chăm sóc vết thương và anh sống với cha con em từ dạo ấy.

– Anh ấy không có thân nhân. Tôi hỏi
– Anh có một cô em gái ở đây, nhưng mà chết lâu rồi. Ban đầu không nghe anh nói điều này. Mãi sau này thấy trên đầu giường của anh có thờ tấm ảnh của một cô con gái và có nhiều đêm rất khuya anh ngồi bất động trước tấm ảnh, cha em hỏi mấy lần, anh mới bảo đó là cô em gái duy nhất của anh.
– Anh không còn bạn bè?
– Nghe nói anh đang học một khóa phi hành ở đâu bên Mỹ, rồi nhờ có trình độ anh ngữ khá, anh được lưu lại Mỹ làm sĩ quan liên lạc không quân. Nghe tin miền Nam nguy khốn, anh tình nguyện xin về chiến đấu. Vừa về nước, anh ra chiến trường ngay và bị nạn khi đang bay phi vụ thứ hai. Có lẽ vì vậy mà không nghe anh nhắc tới bạn bè.

Xe dừng lại, tôi bước xuống trả tiền và bảo anh tài xế chờ tôi hoặc có thể quay lại sau 30 phút. Tôi bước vào nghĩa trang khi lòng còn vương vấn một câu chuyện buồn. Tiếng chuông nhà thờ từ đâu vọng lại càng làm cho lòng tôi chùn xuống. Đi quanh co một lúc, chị Trang bảo tôi dừng lại và chỉ cho tôi ngôi mộ của anh Bá, nằm bên cạnh ngôi mộ của cô em gái. Cả hai ngôi mộ được xây bằng đá đơn giản, trên tấm bia có cả tấm ảnh

Tôi ngạc nhiên khi thấy trên mộ bia anh Bá có hình một thập tự giá, vì đây là nghĩa trang Phật giáo. Tôi đến trước mộ anh, thắp ba nén hương thâm khấn vái cho anh được sống an bình trong một thế giới chẳng còn thù hận, và nói lên lòng cảm mến của một người đồng đội cũ. Tôi nhìn kỹ tấm ảnh của anh trên mộ bia, tấm ảnh chụp lúc anh còn là sinh viên sĩ quan không quân, phong độ, hào hùng. Trông khuôn mặt quen quen. Có lẽ do bộ quân phục làm tôi nhớ tới khuôn mặt của những bạn bè ngày trước.

Tôi bước sang mộ cô em gái, thắp ba nén hương cho một người không hề quen biết. Tôi tò mò bước lên xem tấm ảnh trên mộ bia. Bỗng đầu óc tôi choáng váng, mắt tôi mờ đi như chẳng còn trông thấy những gì trước mặt. Trời ơi, có điều gì lầm lẫn hay không? Người trong tấm ảnh chính là An Bình, cô em gái yêu dấu của tôi.

Tôi cố gắng lấy lại bình tĩnh, mở đôi mắt thật to để nhìn kỷ lại tấm ảnh. Không thể lầm lẫn được. Chính tấm ảnh của em tôi mà tôi vẫn treo trên bàn thờ cùng với ảnh của cha và mẹ của tôi. Tôi vẫn thường đứng hằng giờ trước những tấm ảnh này mỗi khi thấy mình quá đỗi cô đơn trên xứ lạ quê người. Làm sao tôi có thể nhầm lẫn được. Bỗng dưng tôi khóc sụt sùi.
Trang nhìn tôi ngạc nhiên:

– Anh có quen biết em gái anh Bá?

Tôi im lặng không trả lời, bảo chị cùng đi với tôi. Chiếc taxi vẫn còn đợi tôi tự nãy giờ. Tôi móc bóp tìm địa chỉ của cha cô bạn thân của em tôi, đã từ Hòa Lan về đây trước tôi hai ngày, và chúng tôi hẹn gặp nhau ngày mai. Bác trọ ở nhà một người em trong khu cầu Xóm Bóng. Tôi đưa địa chỉ cho anh tài xế. Chỉ hơn năm phút sau là anh ta đã tìm được. May mắn là bác có ở nhà. Tôi xin lỗi bác là đã đến tìm bác sớm hơn ngày hẹn. Báo cho bác là tôi đã bất ngờ tìm được mộ của em tôi. Xin bác cùng đi với tôi ra nghĩa trang để xác nhận lại vị trí ngôi mộ của em tôi mà ngày trước bác đã có lòng chôn cất hộ.

Trở lại nghĩa trang, tôi đề nghị bác dẫn đường, như muốn để xác minh chắc chắn là bác biết rõ ngôi mộ ấy. Bác mò mẫm gần 30 phút mới tìm được ngôi mộ của em tôi. Bác ngạc nhiên là ngày ấy bác chỉ kịp dựng một tấm bia, chứ không có xây mộ đá như bây giờ, và trên bia cũng chỉ có tên chứ không có hình ảnh của em tôi.

Tự nãy giờ Trang vẫn còn ngạc nhiên, không biết rõ việc gì. Tại sao cô gái này là em gái duy nhất của anh Bá mà cùng là em gái của tôi ? Tôi xin lỗi vì xúc động quá, tôi sẽ kể cho Trang nghe trên đuòng về nhà.

Tôi đưa cha cô bạn của em tôi về lại nhà trọ, cám ơn bác và hẹn gặp lại bác vài hôm sau. Trên đường về, tôi kể lại cho Trang nghe về hoàn cảnh của gia đình tôi. Tôi đi lính xa nhà, mỗi năm chỉ về phép một đôi lần.

An Bình, đứa em gái duy nhất của tôi ở Nha-Trang với cha tôi. Ông là một thầy giáo, ngày xưa dạy ở trường Pháp-Việt lúc tôi mới lên ba. Sau ngày về hưu ông được bà con mời làm chủ tịch hội đồng xã. Ông bị bắt vào trại cải tạo Đá Bàn sau ngày Nha-Trang ”giải phóng”, rồi vì tuổi già sức yếu, không chịu nổi sự tra tấn, ông đã chết gần một năm sau đó. Em gái tôi nối nghiệp cha, sau khi tốt nghiệp ở trường sư phạm Qui Nhơn, vì hoàn cảnh gia đình, được về dạy ở Nha trang. Có lần tôi về phép, em kể cho tôi nghe về mối tình của em với một chàng sinh viên sĩ quan không quân. Em có đưa cả tấm ảnh cho tôi xem và hẹn sẽ giới thiệu với tôi khi chàng ta ở Mỹ trở về. Em lo lắng vì anh là người Bắc di cư, công giáo, không hiểu có khó khăn gì cho cuộc hôn nhân. Tôi bảo nó yên tâm, ba tôi theo tây học, nên ông quan niệm về tôn giáo rộng rãi lắm.

Sau khi cha tôi vào trại cải tạo, căn nhà của chúng tôi bị chính quyền mới tịch thu để làm hợp tác xã mua bán. Em tôi không được tiếp tục dạy học nữa nên ra Xóm Bóng ở chung với cô bạn học nối khố tự ngày xưa, chắt chiu số tiền còn dành dụm được để thăm nuôi cha tôi. Ngay sau ngày Sài-gòn mất, em có vào tìm thăm tôi và người yêu của cô. Hơn hai tuần đi thăm hỏi khắp nơi, em tôi về nằm khóc cả mấy ngày liền, nói với tôi là người yêu của nó đã chết mất xác ở chiến trường Long-Khánh. Tôi an ủi em tôi, bảo nó về Nha-Trang cố gắng thay tôi lo lắng cho cha, chờ ngày cha và tôi trở về sum họp. Tôi vào tù hơn sáu tháng, hai lần được phép gởi thư về nhà, vẫn không thấy em gái hồi âm. Cho mãi trước khi được chuyển ra Bắc, tôi mới nhận được thư của cô bạn thân của nó, báo tin là nó không kiếm được việc gì làm, túng quẫn, buồn chán, nên đã uống nguyên một ống thuốc ngủ. Gia đình cô chở vào bệnh viện, nhưng không cứu được, vì không tìm ra thuốc giải.

Chị Trang suy nghĩ miên man và như chợt nhớ ra được điều gì. Chị bảo khi còn sống, anh Bá không đi làm vào ngày chủ nhật. Anh đi lễ nhà thờ rồi ra mộ suốt cả ngày. Chính anh đã dành dùm tiền bạc thuê người xây lại ngôi mộ và mua phần đất dành cho mình. Khi chôn cất anh xong, chị tìm thấy một tập nhật ký dấu kỹ dưới đầu giường. Chị vẫn còn để trên bàn thờ, chờ ngày giáp năm thì đốt luôn. Chị bảo tôi cùng về nhà với chị, để chị trao lại cuốn nhật ký, kỷ vật duy nhất của một người cùng sống chung trong cảnh khốn cùng với cha con chị trong gần ba mươi năm, và bây giờ mới biết đó là người yêu của cô em gái thương quí của tôi.

Chị bảo taxi dừng lại trước một ngõ tắt phía sau ga xe lửa. Tôi trả tiền, theo chị băng qua hai con đường sắt, đi quanh co theo mấy con hẻm thì đến nhà. Tôi xin phép thắp hương trước bàn thờ của ba chị và Bá, trên một cái kệ nhỏ bằng gổ treo trên vách. Tôi khẩn khoản xin chị nhận một số tiền để chăm sóc ngôi mộ của ông cụ, em gái tôi và Bá, một ít làm vốn buôn bán để đỡ vất vả hơn xưa. Tôi xin nhận Trang là cô em kết nghĩa và từ nay Trang là ngưỡi thân quen duy nhất của tôi còn lại ở Nha-Trang. Chia tay, tôi đi bộ về khách sạn, cầm theo cuốn nhật ký trên tay, mà cứ tưởng như mình vừa nhận một món quà quí giá của người thân gởi về từ một cõi nào đó thật xa xăm.

Ngày 2/5
Vết thương còn đau đớn và máu còn thấm đỏ qua mấy lớp băng, vậy mà mình bị người ta đuổi ra khỏi Tổng Y Viện Cộng Hòa, trong hoàn cảnh tứ cố vô thân. May mắn nhờ một ân nhân nghèo nhưng lại giàu lòng bác ái, đùm bọc, nuôi nấng và chăm sóc vết thương.
Nhiều lần, trong vực sâu tuyệt vọng, mình không muốn sống thêm một ngày nào nữa, nhưng lòng mình lúc nào cũng hướng về chúa Kitô, và xin phó thác tất cả ở nơi Ngài.

Ngày 20.6
Cuối cùng, thì mình quyết định trở về Nha-trang, bởi lẽ mình không còn có một chỗ nào khác để trở về. Mình về đây để tìm lại những kỷ niệm đẹp đẽ nhất của đời mình, của những ngày mình còn có An-Bình. Từ ngày gặp An-Bình, mình nghĩ là mình đã thuộc về Nha-Trang, miền thùy dương rạt rào thơ mộng này. Đau đớn thay, hôm nay mình chẳng phải là mình ngày trước, mà chỉ là một kẻ tật nguyền thê thảm. Mình sẽ không bao giờ gặp lại An-Bình, mà chỉ mong về đây để được sống với hình ảnh của nàng

Ngày 08/7
Ngày hôm nay có lẽ là ngày đau đớn nhất trong đời mình. Đau đớn hơn cả cái ngày mình tỉnh dậy trong quân y viện và biết mình trở thành một người tàn phế. Mình lê lết khắp nơi hỏi thăm tin tức An-Bình, được biết là em đã quyên sinh. An-Bình ơi, xin em hãy tha thứ cho anh. Trong vận cùng của một đất nước mà anh chỉ là một thằng lính hèn mọn nhỏ nhoi, làm sao có thể giữ được bầu trời Nha-Trang này cho em, và cho những kỷ niệm của chúng mình..

Một hồi chuông nhà thờ làm tôi giật mình. Ngẫng đầu lên mới biết mình đang đừng trước nhà thờ đá. Tôi thẩn thờ bước lên những bậc “tam cấp”, đến trước tượng Đức Mẹ. Tôi là người ngoại đạo, không biết phải cầu nguyện như thế nào. Tôi chấp hai tay trước ngực, kính cẩn xin Thiên Chúa Từ Bi và Đức Mẹ Maria cứu vớt linh hồn của hai người hoạn nạn và xin cho họ được cùng phục sinh với Chúa để tình yêu của họ mãi mãi vĩnh hằng trong một thế giới bình an, không còn có hận thù.
Tôi không còn ý định dời ngôi mộ em tôi về bên cạnh cha mẹ tôi. Tôi về quê, quỳ trước mộ cha mẹ tôi để xin phép được xây lại hai ngôi mộ của em tôi và Bá chung trong một vòng thành. Không ai có quyền chia rẽ họ thêm một lần nữa, dù bây giờ chỉ còn là một thế giới vô hình.

Cũng như lần trước, ngày cuối cùng, tôi thuê xích lô đi một vòng dọc theo con đường Duy Tân cũ. Con đường đẹp nhất của Nha-Trang. Những cơ sở công quyền, những dinh thự của cán bộ bây giờ đựơc dựng lên nguy nga đồ sộ. Nhìn lá cờ màu đỏ trên mấy nóc nhà, bỗng dưng tôi lạnh toát cả người. Chẳng lẽ những thay đổi “to lớn”ấy mà phải xây trên máu xương, trên những đớn đau, chia lìa thảm khốc của bao nhiêu thế hệ đã từng một thời góp sức tạo nên cái thành phố hiền hòa thơ mộng này. Bỗng chốc, tôi không còn nhìn thấy thành phố Nha-Trang đâu nữa. Trước mắt tôi bây giờ chỉ còn là một bãi tha ma, dài ra, vô tận. Tôi nghe trong gió văng vẳng tiếng đàn dạo bài Nha-Trang, mà ngày xưa đài phát thanh Nha-Trang dùng làm nhạc hiệu mở đầu. Tôi nhớ tới cái chết thảm khốc của nhạc sĩ Minh-Kỳ, tác giả bản nhạc quen thuộc một thời này, ông cũng đã bị giết vào tháng 8/75, khi cùng bị nhốt chung với tôi trong trại tù cải tạo An Dưỡng, Biên Hòa.

Nhạc phẩm Nha Trang – Minh Kỳ
https://www.youtube.com/watch?v=o110Z1SAD94