“Biểu tình cho nhân quyền Việt Nam không phải là phản động”

“Biểu tình cho nhân quyền Việt Nam không phải là phản động”

2018-05-12
 

Cộng đồng người Việt tị nạn biểu tình trước tòa đại sứ Việt Nam tại thủ đô Washington, DC hôm 12/5/2018.

Cộng đồng người Việt tị nạn biểu tình trước tòa đại sứ Việt Nam tại thủ đô Washington, DC hôm 12/5/2018.

 RFA
 

Hôm nay, ngày 12/5/2018, nhân kỷ niệm 24 năm ngày Nhân quyền cho Việt Nam, cộng đồng người Việt từ Canada và nhiều tiểu bang ở Hoa Kỳ đã tề tựu về trước tòa đại sứ Việt Nam tại thủ đô Washington DC để biểu tình phản đối nhà cầm quyền Việt Nam vi phạm nhân quyền.

Tất cả mọi người có mặt tại công viên Sheridan với cờ vàng ba sọc và cờ Mỹ cùng nhiều băng rôn phản đối chính quyền Việt Nam đàn áp nhân quyền, cũng như kêu gọi chính quyền Hà Nội trả tự do ngay lập tức cho các thành viên Hội Anh Em dân Chủ đang bị cầm tù và giam giữ tại Việt Nam. Trong cái nắng nóng gay gắt giữa trưa hè, nhưng tất cả mọi người đều đồng lòng chung sức đấu tranh cho nhân quyền của người dân trong nước.

Ông Đinh Hùng Cường, Chủ tịch cộng đồng Việt Nam vùng Washignton D.C, Maryland và Virginia cho chúng tôi biết thành quả đạt được của cộng đồng người Việt trong những năm qua:

“Những thành quả chúng ta đạt được là đã biến những hành động giết người vô cớ của nhà cầm quyền đã bị dư luận lên tiếng và họ phải dè dặt với những hành động tàn ác đó. Việc chúng ta tranh đấu cho nhân quyền hôm nay thì kết quả chưa thể nhìn thấy rõ nhưng chính quyền đã phải thay đổi bằng cách thả bớt tù nhân lương tâm, chẳng hạn như Việt Khang. Và một điều quan trọng là người dân trong nước họ biết mình được hỗ trợ nên họ đứng lên đấu tranh không sợ hãi.”

Không chỉ những người Việt tị nạn ở Hoa Kỳ tham gia biểu tình, mà ông Chương, một cư dân Canada đã không ngại đường xa cũng có mặt tại đây hôm nay bởi nhân quyền trong nước ngày càng tồi tệ. Ông cho biết điều ông quan ngại nhất hiện nay:

“Nhân quyền trong nước bây giờ rất tệ. Người dân biểu tình chống Tàu thì bị khủng bố, bị đánh đập, bị bắt. Nếu ở đây mình không lên tiếng thì ở bên đó không có con đường sống. Bởi vậy cuộc biểu tình nào tôi cũng có mặt hết. Họ dùng côn đồ đánh đập dân để dập tắt mọi tiếng nói chống đối trong nước. Nhưng càng đàn áp thì dân càng đứng lên vì họ không có sự lựa chọn. Chúng ta ở đây phải hậu thuẫn cho họ bằng mọi cách, từ vật chất đến tinh thần.

Một phụ nữ trẻ tên Mai, đến từ North Carolina cùng với một đứa con nhỏ với chiếc áo đen trong đoàn Hậu Duệ Việt Nam Cộng Hòa cho chúng tôi biết lý do chị có mặt ở đây hôm nay:

“Đây là lần đầu tiên tôi tới đây để đấu tranh cho tự do của những người đang bị tù đày ở Việt Nam. Chỉ vì đứng lên đấu tranh mà họ bị tù mười mấy năm. Tôi muốn đất nước Việt Nam thay đổi thể chế chính trị để một ngày gần đây chúng ta có thể quay về một đất nước tự do.

Anh Thái Hoàng đến từ New Jersey cùng vợ là chị Thanh Hằng cho rằng họ là những người trẻ nên cần phải có tiếng nói của mình thay cho những người quá bận rộn với mưu sinh mà không có điều kiện tham gia, cũng như những bạn trẻ cùng thế hệ trong nước không thể lên tiếng. Anh nói:

“Mình cùng tất cả các cô chú thế hệ trước đến đây để cùng nêu cao tinh thần yêu quê hương đất nước và cũng là dịp cho thế giới biết là cộng đồng Việt Nam cần thế giới chú ý đến nhân quyền Việt Nam cho các thế hệ sau nữa.”

Cộng đồng Việt Nam kiên trì đấu tranh phản đối sự đàn áp nhân quyền trong nước bằng nhiều cách. Ông Lê Minh đến từ miền Nam California cho biết ông đeo logo Đức Trần Hưng đạo lên ngực áo để nhắc nhở ông về lòng yêu nước của Đức Trần Hưng Đạo đã giúp dân tộc thoát khỏi giặc phương Bắc. Ông nói thêm:

“Vì thế tôi kêu gọi đồng bào của chúng ta trên toàn thế giới hãy đoàn kết. Tôi đặc biệt kêu gọi chính quyền cộng sản Hà Nội đừng vì cái tôi của mình, đừng vì cái chủ nghĩa đã lỗi thời đã tiêu diệt gần 200 triệu con người. Mong chế độ cộng sản hãy học gương của cựu Hoàng Bảo Đại. Phải từ bỏ để làm người Việt Nam độc lập. Vì thế tôi có mặt tại đây để giong lên tiếng nói cùng với đồng bào kêu gọi người lãnh đạo ở Việt Nam hãy vì dân tộc mà trả lại họ quyền tự quyết.”

Chính quyền Việt Nam thường bác bỏ đánh giá của các tổ chức nhân quyền quốc tế về tình trạng nhân quyền ở Việt Nam ngày càng thụt lùi. Vậy cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại cần làm gì để thay đổi thực trạng nhân quyền ở VN hiện nay, ông Tùng, một cư dân Virginia đã tham gia biểu tình đủ 24 năm cho rằng không thể im lặng, bởi “Nếu chúng ta im lặng thì cộng sản sẽ tàn sát những người đấu tranh dân chủ tại Việt Nam.Tiếng nói của chúng ta rất quan trọng. Biểu tình hôm nay không phải cho chúng ta ở đây mà là cho những người đang ở Việt Nam. Một lời nhắn nhủ rằng đây không phải là quá khích, không phải là phản động. Đây là nghĩa vụ và bổn phận của chúng ta. Tôi không tranh cử cho một chức vụ nào hết.”

Ngày 11/5/1990, bác sĩ Nguyễn Đan Quế, người sáng lập Cao trào Nhân Bản và cũng là nhân vật bất đồng chính kiến nổi tiếng của Việt Nam, đưa ra lời kêu gọi yêu cầu chính quyền Hà Nội tôn trọng nhân quyền căn bản của người dân, chấp nhận chính trị đa nguyên, và trả lại cho người dân quyền lựa chọn một thể chế chính trị qua các cuộc bầu cử tự do công bằng, dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc.

Bốn năm sau đó, năm 1994, Lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ thông qua nghị quyết số SJ 168 ấn định ngày 11 tháng Năm thường niên là Ngày Nhân quyền cho Việt Nam. Nghị quyết này được Tổng thống Bill Clinton chuẩn y và ban hành thành sắc luật số 103-258.

 Lên Thiên đàng…hay hưởng Thiên đàng

 Lên Thiên đàng…hay hưởng Thiên đàng

Trầm Tư Bên Suối

Trích Tin Mừng Mac-cô 16 : 20

Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.

Hình ảnh này giống như cảnh Ngọc hoàng thượng đế trong Tây Du Ký quá đi !!! Nơi đó có 2 ngai vàng dành cho Chúa Cha và Chúa Con, các quan đại thần là các thánh tông đồ, tiên tri, tử đạo, đồng trinh….. quỳ gối tung hô hàng ngàn năm rồi…và vẫn còn tôn vinh mãi mãi….

Còn bọn thảo dân chúng tôi thường đùa với nhau..

Miễn sao được lên thiên đàng, dù đứng cuối cũng được…

Hoặc bám đong đưa vào cánh cổng vàng cũng mãn nguyện rồi…còn hơn là khóc lóc than van nơi luyện ngục tối tăm sầu thảm…

Chúng tôi được dạy rằng:

Dương gian này là chốn lưu đày, đoàn con như khách lữ hành…

Xa xa kìa là nước Thiên đàng, đoàn con mong ước trở về…

Xa xa kìa có nghĩa là xa tít đời sau…

Còn đời này đừng có mơ !!! vì đoàn con như khách lữ hành…

Cứ tiếp tục lê gót trên đường dài …còn lâu mới tới.

Kể cả sau khi chết, chưa chắc đã được lên thiên đàng ngay đâu… còn bị giam cầm nơi luyện ngục chán chê…!!!!

Vì thế chuyện lên Thiên đàng quả thực là quá phiêu du…

Trong khi nghiên cứu Kinh Thánh tôi cũng thao thức về vấn đề này.

Tôi tự đặt cho mình câu hỏi: Thiên đàng ở đâu?

Chính Thầy Giêsu trả lời : Người ta sẽ không nói : ‘Ở đây này !’ hay ‘Ở kia kìa !’,

vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông (Lc 17:21)

Triều đại Thiên Chúa còn được gọi là Nước Chúa,  Thiên đàng…đang ở giữa các ông.

Nếu Thiên đàng ở giữa có nghĩa là vừa ở giữa, vừa ở trong mỗi người chúng ta..

Nói thì dễ lắm …Nhưng làm sao nhận ra Thiên đàng ở trong mình thì khó lắm.

Phải đi tìm thôi.

Theo kinh nghiệm thực tế, tôi đi tìm Chính Chúa trước.

Trước kia, tôi vẫn ngầm tin rằng Chúa ngự trên trời…

gần hơn chút nữa: Chúa ở trong nhà Tạm.

Vì vậy tôi đã từng nhiều lần một mình đứng ngay trước nhà tạm trong những đêm thanh vắng. Rất ấm áp, rất  tuyệt vời…

Nhưng rồi hoàn cảnh xa nhà thờ…lòng nguội lạnh dần…Chúa cũng dần dần xa xa

Rồi sau những ngày nghiền ngẫm Kinh Thánh…

Tôi rất tâm đắc lời Chúa này

Chính anh em ở lại trong Chúa Con và Chúa Cha. (1Ga 2:24)

Niềm xác tín này cuốn tình mến vào tận đáy tâm hồn.

Tập sống trong tâm tình này một năm… tôi dần dần cảm nhận Chúa nhưmột con tim tình yêu khổng lồ bao bọc thân tâm tôi.

Tôi như chú cả nhỏ tung tăng bơi lội trong đại dương tình yêu của Chúa.

Nhỏ bé thôi, nhỏ bé thôi, trái tim con trong trái tim Ngài,

Nhỏ bé thôi, nhỏ bé thôi, là tình con trong khối tình Ngài..

Quá bình an… quá hạnh phúc…tôi CHẲNG CÒN MONG lên Thiên đàng nữa…

Chỉ vì tôi đang hưởng Thiên đàng bình an và hoan lạc trong tình yêu của Ngài.

Kết luận:  không cần mơ lên Thiên đàng… hay vào Thiên đàng..mai sau

Mà tự nhiên được  vui hưởng Thiên đàng  ngay tại chốn hồng trần này

CÁM ƠN MẸ

CÁM ƠN MẸ

Người ta nói rằng trẻ em là tặng phẩm quý giá nhất.  Tôi tin rằng những người mẹ cũng là tặng phẩm cao quý nhất.  Những người mẹ là tặng phẩm yêu thương, hạnh phúc, niềm vui, lòng can đảm, chăm sóc và nâng đỡ.  Chúng ta không thể tự chọn mẹ hoặc gia đình để chúng ta sinh ra, nhưng mẹ của chúng ta chọn cách quan tâm chăm sóc chúng ta.  Tôi may mắn có được người mẹ là mọi thứ mà đứa con có thể hy vọng. 

Mẹ sinh tôi khi bà còn đang là sinh viên năm hai tại một trường đại học ở Nashville, Tennessee.  Bà có thể bỏ học để về nhà ở thành phố New York, nhưng bà không thể làm như vậy.  Có lần bà kể với tôi rằng tôi là nguồn cảm hứng và động lực thúc đẩy bà hoàn tất những gì bà đã khởi đầu.  Mẹ tôi vừa đi học vừa đi làm thêm để lo cho tương lai của tôi, và bà cũng muốn có tấm bằng đại học.  Khi tôi còn nhỏ, bà thường đem tôi theo đến lớp học cho tới lúc tôi lớn hơn để có thể vào nhà trẻ.  Tôi biết ơn mẹ vì mẹ đã quyết định làm gương cho tôi noi theo. 

Hàng ngày tôi vẫn thắc mắc rằng nếu không có mẹ thì không biết đời tôi sẽ ra sao.  Đời tôi sẽ khốn khổ chăng?  Chắc hẳn vậy.  Và câu hỏi đó đã được trả lời vào một ngày hè.  Đó là ngày mẹ tôi đi làm khi đang mang thai em tôi.  Hôm đó tôi rất phấn khởi!  Thế nhưng mẹ bị sảy thai và em tôi chết.  Hôm đó tôi cũng có thể mất luôn mẹ, nhưng thật may là mẹ còn sống.  Điều này khiến tôi suy nghĩ nhiều và nhận biết mẹ thực sự có ý nghĩa thế nào đối với tôi. 

Sau đó không lâu, cha mẹ tôi chia tay.  Đây là cú “sốc” đối với tôi.  Dù tôi mới 4 tuổi, nhưng tôi vẫn nhớ mãi ngày hôm đó, y như mới xảy ra hôm qua vậy.  Cảnh gia đình ly tan là cú “sốc” nặng đối với tôi, và tôi nguyền rủa em tôi, vì tôi cho rằng cái chết của em tôi đã khiến cha mẹ chia tay.  Giá mà nó còn sống, chúng tôi sẽ là một đại gia đình hạnh phúc! 

Dù cha mẹ tôi chia tay, nhưng hai người vẫn cùng nhau nuôi dưỡng tôi.  Mẹ tôi trực tiếp và đích thân lo cho tôi mọi thứ.  Vì tôi mà mẹ tôi vẫn giữ mối quan hệ tốt với cha tôi.  Điều này khuyến khích tôi không coi mẹ là điều dĩ nhiên phải có.  Đó là lý do tôi biết ơn mẹ tôi.  

Mẹ ơi, qua bao gian nan khốn khó, mẹ vẫn như một người bạn tốt nhất của con.  Mẹ động viên con theo đuổi ước mơ của mẹ, và mẹ dạy con những bài học sống qua các hành động của mẹ.  Mẹ ơi, con cảm ơn mẹ là nguồn cảm hứng để con đi theo con đường đúng trong cuộc sống, mẹ cũng đã giúp con có những cách chọn lựa đúng, và để con va chạm với những thử thách xem chừng như mạo hiểm vậy.

Mẹ ơi, con chưa bao giờ hiểu được mẹ có ý nghĩa thế nào đối với con cho tới lúc con ngồi viết những dòng này.  Con muốn mẹ biết rằng con mãi mãi kính yêu mẹ.  Con hy vọng rằng khi con trưởng thành, con có thể là người mẹ tốt đối với con của con như mẹ đã là người mẹ tốt đối với con vậy. 

Trầm Thiên Thu 

(chuyển ngữ từ Thank You Mom)

Langthangchieutim gởi

Thiên chúa giáo mới đích thực là nguồn tạo nên sức mạnh khủng khiếp của Hoa Kỳ

 Thiên chúa giáo mới đích thực là nguồn tạo nên sức mạnh khủng khiếp của Hoa Kỳ

Thiên chúa giáo mới đích thực là nguồn tạo nên sức mạnh khủng khiếp của Hoa Kỳ. Trên thế giới, Mỹ thuộc top các quốc gia trẻ, lịch sử khá mỏng nhưng nước này đã nhanh chóng vươn lên trở thành một cường quốc trên thế giới, lý do gì tạo nên sự phát triển vượt bậc như vậy?

– Xếp thứ nhất về sản lượng kinh tế, còn gọi là tổng sản phẩm quốc nội (GDP), đạt 13,13 nghìn tỷ đô-la Mỹ trong năm 2006. Với ít hơn 5% dân số thế giới, khoảng 302 triệu người, nước Mỹ chiếm 20 đến 30% tổng GDP của toàn thế giới. Riêng GDP của một bang – bang California – đạt 1,5 nghìn tỷ trong năm 2006, đã vượt quá GDP của tất cả các nước, chỉ trừ 8 nước, vào năm đó.

– Là địa điểm thu hút nhiều đầu tư trực tiếp nước ngoài nhất – trong lĩnh vực kinh doanh và bất động sản – đạt khoảng 177,3 tỷ đô-la trong năm 2006. Đứng đầu về địa điểm rót vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của 100 tập đoàn đa quốc gia lớn nhất thế giới, bao gồm cả các tập đoàn từ những nước đang phát triển.

– Đứng thứ năm về tài sản dự trữ trong năm 2005 với 188,3 tỷ đô-la, chiếm 4% thị phần thế giới, sau Nhật và Trung Quốc (mỗi quốc gia này chiếm 18%), Đài Loan và Hàn Quốc, và đứng ngay trước Liên bang Nga. Đứng thứ 15 về dự trữ ngoại hối và vàng, đạt khoảng 69 tỷ đô-la vào giữa năm 2006.

– Đứng thứ 3 về môi trường kinh doanh thông thoáng trong năm 2007, sau Singapore và New Zealand.

Và cuối cùng, cho tới nay không một quốc gia nào có thể “lật đổ” được “sự thống trị” của người Mỹ tại giải thưởng danh giá nhất hành tinh – giải Nobel. Mỹ không chỉ giành ngôi vị quán quân tuyệt đối trên bảng thành tích với 350 nhà khoa học được tôn vinh, mà còn bỏ xa nước Anh ở vị trí á quân với 117 người đoạt giải.

“Mỹ là quốc gia của những người tin Chúa”

Liệu có nghịch lý không khi một quốc gia dẫn đầu thế giới về các phát minh khoa học và sở hữu công nghệ tối tân, lại gửi gắm hoàn toàn niềm tin vào Thiên Chúa? Kết quả điều tra của Gallup cho thấy 95% người Mỹ đặt niềm tin vào Thiên Chúa, nghĩa là cứ 10 người Mỹ thì có tới hơn 9 người tin vào sự chở che của Ngài. Kết quả thăm dò của Gallup dựa trên các cuộc phỏng vấn điện thoại được tiến hành ngẫu nhiên với những người từ 18 tuổi trở lên tại 50 bang và đặc khu Columbia.

Trong suy nghĩ của người Mỹ, Chúa đã tạo ra họ và họ thuộc về Chúa. Chúa ban cho họ sức mạnh và ý chí vì họ cho rằng năng lực của con người là vô cùng giới hạn. Chỉ có ở Mỹ, bạn mới biết câu nói mà từ dân thường cho đến giới tinh hoa sử dụng nhiều nhất, đó chính là “God bless you” (Cầu Chúa phù hộ cho bạn).

Trong Ngày Cầu Nguyện Quốc gia (2018), Tổng thống Donald Trump nói rằng: “Những gì tôi hay nghe nhất ở đất nước chúng ta là 6 từ chưa bao giờ, chưa lần nào mà không chạm đến trái tim tôi – “Cầu Chúa phù hộ cho bạn”.

Sức mạnh có được từ Đức tin

Tuy là đất nước có nền khoa học công nghệ hiện đại bậc nhất, nhưng người Mỹ chẳng ngại ngần khi thể hiện niềm tin vào Đấng Sáng Thế.

Bill Gates là một người vô cùng kín tiếng trong cuộc sống cá nhân, nhưng trong cuộc phỏng vấn với tạp chí Rolling Stone, khi được hỏi: “Là một nhà công nghệ, nhưng rất nhiều việc ông đang làm hiện nay gắn liền với nền tảng có thiên hướng đạo đức. Phải chăng suy nghĩ của ông về giá trị của tôn giáo đã thay đổi qua nhiều năm?”. Bill Gates hé lộ: “Tôi nghĩ rằng các hệ thống đạo đức tôn giáo là cực kỳ quan trọng. Chúng tôi nuôi dạy con cái theo phương pháp của tôn giáo; các con tôi tới nhà thờ Công giáo nơi Melinda và tôi cũng tham gia. Tôi đã rất may mắn, và do đó tôi hàm ơn sự may mắn đó bằng cách cố gắng giảm thiểu sự bất công trên thế giới. Đó chỉ là một chút đức tin tôn giáo. Tôi muốn nói, ít nhất đó là một niềm tin đạo đức”.

Trong cuộc trả lời phỏng vấn của CNN, Francis Collins cho biết: “Tôi là một nhà khoa học và cũng là một người tin Chúa, và tôi thấy không có sự mâu thuẫn giữa những quan điểm đó về thế giới”.

Francis Collins nổi tiếng do những khám phá nổi bật về các loại gene bệnh cũng như khả năng lãnh đạo của ông trong Dự án bản đồ gene người (HGP). Ông thú nhận rằng: “Khoa học, ngành mà tôi rất yêu thích đã bất lực không thể trả lời những câu hỏi của tôi như “Ý nghĩa của cuộc sống là gì?”, “Tại sao tôi có mặt ở đây?”,… “Nếu vũ trụ có một sự khởi đầu, vậy ai là người tạo ra nó?”. Ông nói: Đức tin là cần thiết với tất cả chúng ta.

Ông là tác giả cuốn bestseller Ngôn ngữ của Chúa: Một nhà khoa học trình bày chứng cứ cho đức tin, trong đó ông bày tỏ lập trường ủng hộ thuyết tiến hóa hữu thần. Ông nhấn mạnh vào Luật Đạo đức: “Đối với tôi, Luật Đạo đức nổi bật như tấm biển chỉ đường tỏ tường nhất của Chúa”.

Tổng thống Trump cũng nhắc về các mối đe dọa đối với tự do tôn giáo:

“Tự do tôn giáo là một quyền thiêng liêng, nhưng nó cũng là một quyền bị đe dọa ở khắp xung quanh chúng ta, và thế giới đang ở dưới những đe dọa rất nghiêm trọng theo nhiều cách khác nhau. Và tôi chưa bao giờ nhìn thấy điều đó phổ biến và công khai như khi tôi bắt đầu làm Tổng thống. Thế giới đang gặp nhiều vấn nạn, nhưng chúng ta sẽ sửa chữa và phục hồi. Đó là những gì tôi sẽ làm. Sửa chữa và phục hồi. Chúng ta sẽ cùng làm điều đó”.

Hạnh Lê

Lời nói dối của cô giáo lớp 5

Image may contain: 1 person, smiling, standing and shoes

Mỗi Ngày Một Câu Nói “”

Lời nói dối của cô giáo lớp 5
( Nguồn fb Hà Ngô Tử)

Ngày đầu tiên của năm học mới, cô giáo Trương đứng trước tất cả các bạn học sinh lớp 5, nhìn khắp một lượt và nói rằng: Cô sẽ yêu và đối xử bình đẳng với từng bạn trong lớp mình.

Nhưng, đó là một lời nói dối. Điều cô vừa nói là không thể.

Cô có ấn tượng không tốt với cậu học sinh ngồi ngay dãy bàn đầu tiên, cậu bé tên là Lý Đức Huệ.

Cô Trương phát hiện Lý không thể cùng chơi với các bạn khác. Quần áo của cậu bé rách nát, người bẩn thỉu và thật khó để ai đó có thể yêu quý cậu bé cho được. Ngay cả bản thân cũng rất thích dùng bút đỏ gạch một dấu X to đùng trên vở của cậu bé.

Cho đến vài hôm sau, nhà trường yêu cầu giáo viên kiểm tra học bạ của các em học sinh, cô Trương đã cố tình để hồ sơ của Lý xuống dưới cùng. Vậy nhưng khi xem đến hồ sơ của cậu bé, cô giáo đã vô cùng ngạc nhiên.

Giáo viên năm lớp 1 của Lý viết rằng: “Tiểu Lý là một cậu bé thông minh, nét mặt lúc nào cũng rạng rỡ với nụ cười luôn thường trực trên miệng, viết chữ rất ngay ngắn và sạch sẽ, ngoan ngoãn lễ phép, mang đến niềm vui cho những người xung quanh.”

Giáo viên năm lớp 2 thì viết: “Tiểu Lý là một học sinh ưu tú, rất được các bạn quý mến nhưng cậu bé rất buồn, vì bệnh của mẹ em đã ở giai đoạn cuối, cuộc sống gia đình rất khó khăn.”

Giáo viên năm lớp 3 viết: “Mẹ qua đời đã gây ra một cú sốc lớn đối với Tiểu Lý, cậu bé đã nỗ lực hết sức nhưng bố em là người sống thiếu trách nhiệm. Nếu không có giải pháp cải thiện, gia đình sẽ gây ảnh hưởng rất tiêu cực đến Tiểu Lý.”

Giáo viên năm lớp 4 viết: “Tiểu Lý tính cách dị biệt, không thích học, không có bạn, nhiều khi còn ngủ trong giờ học.”

Lúc này, cô Trương mới ý thức được những vấn đề đang tồn tại với cậu học trò nhỏ. Cô cũng cảm thấy xấu hổ vì hành vi của mình.

Nhưng tuyệt nhiên, cậu bé Lý Đức Huệ không biết về việc này.

Vì lần nói dối trước cả lớp, cô giáo không ngờ sau đó thỉnh thoảng lại nhận được 1 lá thư

Đến ngày lễ của các nhà giáo, khi các em học sinh đem quà tặng cho mình, cô Trương càng cảm thấy day dứt hơn. Các bạn nhỏ tặng quà cho cô đều bọc giấy màu đẹp đẽ, bên trên còn dán dây ruy băng, chỉ có mình Tiểu Lý là ngoại lệ.

Cậu bé dùng mảnh giấy màu da bò dày bì bì, có lẽ được xé ra từ một cái túi đựng đồ tạp nham để bọc quà.

Món quà là một chiếc vòng tay được xâu chuỗi bởi các hạt thủy tinh, có hạt đã bị mất và một lọ nước hoa chỉ còn ¼. Các học sinh khác cười ồ lên.

Cô giáo phải ra hiệu cho các bạn im lặng không được trêu chọc bạn trước khi khen chiếc vòng thật đẹp rồi nhanh chóng đeo nó lên tay.

Cô cũng xịt một chút nước hoa lên cổ tay trước mặt các em học sinh.

Sau buổi học hôm đó, Lý nói với cô giáo một câu rồi mới về: “Cô Trương, hôm nay trên người cô có mùi rất giống mẹ em trước đây.”

Khi các bạn nhỏ đã về hết, cô Trương ngồi lại lớp hồi lâu. Cô đã khóc mất hơn một tiếng.

Sự thay đổi tích cực

Từ hôm đó, cô không còn nghiên cứu về việc làm sao để dạy bọn trẻ đọc, viết hay làm toán mà nghiên cứu về việc làm thế nào để giáo dục các em học sinh.

Cô Trương bắt đầu chú ý đến Tiểu Lý. Khi học cùng cô, cậu bé ngày càng cho thấy mình là một đứa trẻ năng động là linh hoạt. Càng được cổ vũ, phản ứng của cậu bé càng trở nên nhanh nhẹn.

Cuối năm đó, Tiểu Lý trở thành đứa trẻ thông minh nhất lớp. Mặc dù cô giáo nói sẽ yêu thương và đối xử bình đẳng với tất cả các bạn trong lớp nhưng Tiểu Lý đã trở thành “con cưng” trong mắt cô.

Một năm sau đó, cô Trương phát hiện một mảnh giấy nhỏ trong khe cửa. Là của Tiểu Lý. Cậu bé nói với cô, rằng cô là cô giáo tuyệt vời nhất mà cậu gặp trong đời.

6 năm nữa trôi qua, cô Trương lại nhận được một mảnh giấy khác của cậu học trò nhỏ. Tiểu Lý viết rằng cậu bé đã tốt nghiệp trung học phổ thông, đứng thứ ba trong lớp về thành tích học tập và cô vẫn là giáo viên tuyệt vời nhất cậu gặp trong đời.

Nhiều năm sau nữa, cô Trương tiếp tục nhận được một là thư. Lần này Tiểu Lý viết, khi nhận tấm bằng cử nhân loại xuất sắc, cậu đã quyết định sẽ ở lại trường tiếp tục học lên và cô Trương vẫn là giáo viên tuyệt vời nhất mình được gặp trong đời.

Tuy nhiên lần này, phần ký tên có sự thay đổi và dài hơn một chút: Tiến sỹ y khoa Lý Đức Huệ.

Mùa xuân năm đó, Lý lại gửi cho cô Trương một lá thư, nói là mình sắp kết hôn, không biết cô có muốn tham gia hôn lễ của cậu hay không và cô sẽ ngồi vào vị trí của mẹ chú rể.

Tất nhiên là cô Trương đã đồng ý. Hôm đó, cô đã đeo chiếc vòng mà cậu bé Lý tặng năm nào, xịt một chút nước hoa mà mẹ cậu bé đã từng dùng trước đây.

Gặp lại nhau, hai cô trò ôm nhau thật chặt. Lý Đức Huệ thì thầm vào tai cô: Cảm ơn cô, cô Trương, con vô cùng cảm ơn cô đã cho con biết mình có thể làm được nhiều việc mà trước đây con không nghĩ tới.

Còn cô Trương lúc này cũng không ngăn được nước mắt, nghẹn ngào nói: Tiểu Lý, con nhầm rồi, là con đã dạy cho cô nhiều điều. Cho đến khi gặp được con, cô mới biết làm giáo viên là phải như thế nào!

Lời bình

Hy vọng rằng câu chuyện này có thể lan tỏa đến tất cả những người đang làm giáo viên, những người đang làm công tác giáo dục.

Trong câu chuyện này, chúng ta đã nhìn thấy một phương pháp giáo dục hiệu quả mà một phần trong đó đến từ những lời nhận xét chi tiết, đầy quan tâm mà giáo viên ghi lại trong sổ học bạ của học sinh cuối mỗi năm học.

Chúng ta cũng đã nhìn thấy trách nhiệm của một giáo viên ưu tú, cô đã suy nghĩ nghiêm túc về công việc của mình trước đây và bắt tay vào thay đổi. Cô đã nghiêm túc hoàn thành công việc trồng người của chính mình và ở một mức độ nào đó, cô đã thành công.

Vị giáo viên ấy đã giữ cho mình một trái tim nhân ái, tình nguyện vì học sinh mà thay đổi, dùng hành động thực tế của mình để trao cho học sinh sự cổ vũ mạnh mẽ nhất.

Với một đứa trẻ, cô giáo quan trọng biết nhường nào, các em rất cần tình yêu của các thầy cô giáo.
ST

Một hội đồng cúi đầu nhục nhã, còn kẻ có tội thì vênh váo diễu oai

 
 
Nguyễn Chính Duy shared a post.
 
Image may contain: one or more people, people sitting and indoor

Nhà Báo Lại Văn Sâm

Bức ảnh đắt giá quá.

Hài mà không cười nổi.

Những đồng tiền bẩn khiến một hội đồng cúi đầu nhục nhã, còn kẻ có tội thì vênh váo diễu oai. Ai “làm chủ” phiên toà này, nhìn vào đã rõ. Công Lý vẫn chỉ là người anh sống cách nhà tôi 4 tầng mà thôi.

Các vị đang chỉnh tề áo trắng, cà vạt từ đây trở về nhà có thấy hổ thẹn khi xưng bố, mẹ, ông, bà, khi ôm con cháu mình trong tay không nhỉ? Bằng bản án này, các vị đã trực tiếp khẳng định các vị đứng về phe nào. PHE CỦA TỘI ÁC. Kẻ có tội bị nguyền rủa suốt đời, còn các vị, xã hội sẽ không tha thứ cho các vị đâu.

Nhìn vào thất bại thảm hại này mà đau nhói. Nó một lần nữa khẳng định rằng, CHỈ CÓ CHÚNG TA mới bảo vệ được đứa con mình dứt ruột sinh ra thôi, các mẹ ạ. Đừng chờ mong sẽ cậy nhờ hay dựa được vào ai, cũng đừng hy vọng hão huyền vào những điều vốn không tồn tại. Kể từ giờ phút này, xin đừng lạc quan … tếu nữa. Khẩu hiệu cứ hô ra rả, những chương trình tuyên truyền vẫn cứ đều đặn diễn ra để rồi tất cả gần như thành công cốc với những bản án đi đêm vô nhân tính thế này.

Chúng ta đã từng ào ạt ký tên cho một bản án được thi hành ở nước Nhật xa xôi. Vụ này được xét xử ngay tại Việt Nam, tên cuồng dâm Khắc Thuỷ vẫn đang nhởn nhơ ở ngay Vũng Tàu. Những ông bố, bà mẹ chúng ta hiệp lực làm gì đi chứ!

——
* Đọc bài đăng trên Facebook chị Thu Thuỷ, mẹ bé TNT để hiểu tường tận về “hành trình đi đêm của một bản án phúc thẩm vô nhân đạo chống lại trẻ em”.

Hết bao nhiêu tiền để một đám người quỷ quyệt mưu kế một bản án phúc thẩm bất công chống lại 9 bé gái Lakeside Vũng Tàu? Không ai dám chắc là bao nhiêu, nhưng bất cứ ai sở hữu một bộ não của con người cũng đều phải hình dung tới những đồng tiền nhơ bẩn được sử dụng để mua một bản án từ 3 năm từ giam xuống 18 tháng tù treo cho một kẻ đồi bại bất nhân.

18 tháng tù treo chỉ là một biện pháp xảo ngôn để hóa giải mọi hình phạt dành cho tên tội phạm Nguyễn Khắc Thủy. Tại sao tôi lại sử dụng cụm từ “đi đêm” cho bản án này. Bởi vì cách thức mà người ta ưu ái dành cho hắn một phiên tòa mà đáng lẽ ra sáng nay chỉ có một mình hắn và mấy tên luật sư cãi cùn tham dự đã nói lên tất cả.

Hãy lắng nghe tôi chia sẻ:
Chiều ngày 9 vừa qua, bỗng dưng trong người có cảm giác bất an, tôi gác lại công việc rồi tới văn phòng Viện Kiểm Sát TP Vũng Tàu. Tại đây, tôi hỏi cơ quan này về dự kiến thời gian phiên phúc thẩm vể đơn kháng cáo của tên Nguyễn Khắc Thủy, ngay lúc này tôi nhận được thông tin là ngày 11 tháng 5 năm 2019 (ngày hầu hết học sinh phải tham gia kỳ thi cuối cấp). Chỉ còn vài chục tiếng không kịp trở tay, chỉ đăng vội dòng status để mong nhận được sự đồng cảm và ủng hộ từ cộng đồng.

Ngay chiều hôm đó nhà báo Đinh Thu Hiền hủy chuyến bay công tác ra Hà Nội để sáng hôm sau xuống Vũng Tàu tác nghiệp.

Chỉ còn chưa đầy 24 tiếng để xử lý thông tin phiên tòa mà sau bao nhiêu ngày tháng, vật đổi sao rời, tôi đi xa mà không cập nhật được. Chúng tôi bắt đầu lần tìm từng địa chỉ của những người liên quan tới vụ án. Liên lạc được với họ thì câu trả lời đều có nội dung “không biết gì, không nhận được giấy gì từ Tòa án liên quan tới phiên xử cả”. Vì thế mà chị Đinh Thu Hiền đã trực tiếp gọi cho ông thẩm phán Huỳnh Ngọc Thiện để xác nhận có hay không phiên tòa phúc thẩm sáng nay.

Tới 5h giờ chiều, chúng tôi có mặt tại nhà của một nhân chứng để thảo luận với gia đình tình hình trên, thì bất ngờ nửa tiếng sau một người đàn ông cầm một phong thư vội vã gửi cho người làm công của gia đình rồi lên xe đi mất mà không nói bất cứ điều gì. Khi mở ra mới biết đó là giấy triệu tập nhân chứng. Vậy là họ chỉ cho nhân chứng một đêm chuẩn bị, trong khi sáng nay cháu còn phải đi thi hết năm học. Ngoài một thư triệu tập này ra, không còn bất cứ ai nhận được gì.

Sáng nay phiên tòa bắt đầu lúc 8h, tên Nguyễn Khắc Thủy bước xuống từ một chiếc xe hơi sang trọng, trắng muốt, trang bị thêm gậy chống mới tinh và căn bệnh Parkinson. Còn tôi lúc đó vẫn đứng trước cổng trường đợi cho cháu thi xong. 10h sáng, phiên xử giữa chừng nhân chứng mới có mặt tại Tòa.

Bởi vì có chúng tôi hay không, chắc là không còn quan trọng với họ. Nếu không tình cờ biết được phiên xử, chắc chắn hôm nay chỉ có đám người kia đi nhận cái án như không trong im lặng, thế thì phải dễ dàng biết mấy.

Cách đây 2 năm, tôi từng nói rằng, dù có hay không công lý trong vụ án này, tôi vẫn theo đuổi để thực hiện trọn vẹn trách nhiệm làm mẹ, và trách nhiệm với những nạn nhân khác. Hôm nay công lý đã bị cướp mất rồi, tôi không khóc được nhưng trong lòng vỡ vụn. Phải đi tiếp thôi, cho dù phải gặp bao nhiêu bọn bất nhân, rác rưởi thì cũng phải nhổ vào mặt mà cho chúng biết bản chất thật của chúng thế nào. Chứ nhất định không để chúng dựa vào vài cái danh phận chỗ này, chỗ kia mà cho mình là hơn người. Trong khi bọn chúng chỉ là những con quỷ kiếm ăn trên linh hồn và danh dự của những bé gái.

Gian nan phía trước!

ĐIỀU GÌ CŨNG CÓ THỂ XẢY RA

Đỗ Ngà

Trong cuộc đấu đá của nội bộ chính quyền này là những cuộc dùng công cụ của nhà nước chơi nhau. Bộ máy nhà nước được dân đóng thuế nuôi sống nó chỉ để làm dao kiếm cho những băng đảng nhỏ trong một băng đảng lớn.

Như những tổ chức mafia, khi băng đảng chưa chiếm lĩnh vùng kiểm soát, nội bộ nó rất thống nhất. Khi chiến đấu với kẻ thù chung, đám ong ve hạ cấp xung phong sống chết để lấy điểm với ông trùm. Để chi? Để hy vọng khi thắng cuộc nó sẽ được chia lại địa vị. Nhưng khi đã làm một băng đảng bá chủ thì ngay trong lòng đảng mafia đó, nó sẽ tự chia phe thủ tiêu, chém giết để đoạt lấy địa vị cao. Trong đó luôn xảy ra phe muốn lật đổ và phe đang giữ ghế. Rất khốc liệt.

Xem bộ phim Bạch Tuộc của truyền hình Italia thì biết bản chất mafia là như thế nào. Bản chất mafia sinh ra là để chiến, khi có mục tiêu chung nó sẽ chiến đấu vì mục tiêu chung, khi mục tiêu chung đã đạt thì chúng chia phe chiến vì mục tiêu riêng. Bản chất băng đảng mafia là độc chiếm không có chuyện share quyền lợi với băng đảng khác. Hoặc nhóm mầy bị tiêu diệt, hoặc nhóm tao bị tiêu diệt. Đó là bản chất không dung nạp bất kì đảng phái nào khác của ĐCS, bởi đơn giản nó là một dạng đảng mafia.

Nhìn lại thực trạng của Việt Nam thì đảng CSVN nó mang dáng dấp của băng đảng mafia đến 90%. Mafia thật nó là băng đảng trong làm ăn, còn ĐCS là một mafia chính trị lẫn tìm kiếm quyền lợi kinh tế. Mafia kia dùng đàn em chỉ tính trăm tên, ngàn tên cầm mã tấu, cùng lắm là một số ít trong đó có súng. Còn ĐCS dùng cả quân đội với 500 tướng, hàng vạn cấp tá, còn cấp úy thì miễn tính, lính lát thì hơn nửa triệu. Lấy thuế của 100 triệu dân để nuôi sống quân đội, và dùng quân đội để bảo vệ cho Đảng. Chưa hết, ngoài quân đội còn có công an với trăm tướng vạn tá và lính lát gần bằng với quân đội. Họ ăn lương của dân mà theo dõi và tìm cách hại dân bảo vệ Đảng.

Khi kẻ thù lớn nhất của đảng là nhân dân yếu xìu như một thân thể bại liệt, thì Đảng lại ngứa ngáy. Vì như mafia, Đảng được sinh ra là để chém giết mà. Kẻ thù nhân dân thì giờ như con cừu non cần gì bận tâm? Kẻ thù chính không cần chiến đã bại, nên rảnh, không việc gì làm Đảng quay ra choảng nhau giành ăn. Công cụ báo chí, công an, toà án được dùng để tiệt tiêu đối thủ. Chiến thuật thuật bẩn thỉu vẫn bén như xưa. Ban đầu cho báo chí mớm cho dư luận phẫn nộ, khi dư luận bùng lên có cớ để chơi đối thủ thì stop đám báo chí nô bộc vì sợ thả mấy con chó sủa quá đà nó cắn bậy thì phản tác dụng. Và như thế là có một kế hoạch vừa diệt trừ phe cánh của đối thủ vừa chèn người mình vào thay thế. Thế là thống lĩnh, và khi thống lĩnh thì làm ăn với bạn hàng lớn mới trôi chảy.

Tôi đoán thế vì điều gì cũng có thể xảy ra cả. Hơn nữa nhân dân là nô lệ, bị gạt ra khỏi cuộc chơi mua bán số phận của mình thì làm gì biết được bọn chủ nô nó kí tá điều gì? Khó nói. Đoán như cảnh báo một khả năng. Tôi đoán nhưng vẫn cầu mong sao mình đoán sai. Mong lắm. Vì tôi sợ trò chém giết của siêu mafia CS, cuộc chém giết nào cũng lồng trong nó thủ đoạn và sự lừa gạt. Quá khứ họ đã lừa toàn dân những cú lừa ngoạn mục, và khả năng đó của CS là vô đối. Nên cảnh báo cũng không thừa.

TÌM VUI CUỐI ĐỜI

TÌM VUI CUỐI ĐỜI

Nguyễn Thị Thanh Dương.

Mẩu đăng tìm bạn bốn phương trên báo làm bà Phượng cảm động và ngưỡng mộ : ” Người đàn ông cô đơn mỗi tuần mang hoa đến mộ phần của vợ, 70 tuổi, nhà cửa ổn định, tài chính vững vàng, tinh thần thảnh thơi, bao dung vị tha. Muốn tìm một phụ nữ 65 tuổi trở xuống để cùng nhau tìm niềm vui cuối đời.”.

Người đàn ông tuổi xế chiều có nhà cửa và tài chính vững vàng đương nhiên là người khá giả lại thêm tấm lòng bao dung vị tha. Bà thú vị hào hứng nhất điều này.

Ông chắc là người chồng tốt luôn thương yêu vợ.

Bà ước gì sau này bà qua đời có một người đàn ông nào sẽ vì bà hàng tuần mang hoa đến viếng mộ vợ như thế. Vừa thắm thiết tình vừa lãng mạn biết bao.
Bà Phượng đang cần tìm một người đàn ông có đủ hai điều kiện tình cảm và tiền bạc.
Bà hài lòng lời rao tìm bạn vì mình đúng tiêu chuẩn ông ta mong muốn và ngược lại ông ta cũng là mẫu người bà đang tìm kiếm.
Hai người đã email qua lại và gọi phone để tìm hiểu về nhau. Ông Năng góa vợ hai năm nay, các con thì ở xa. Ông muốn tìm người phụ nữ khác để bù đắp cho bao lâu nay phải chăm sóc và chiều chuộng người vợ suốt mấy năm trời nằm liệt giường sống đời thực vật sau cơn stroke rồi mới chịu ra đi.
Bà Phượng thì khác hoàn cảnh. Chồng bà mê bồ trẻ, bỏ bê bà.. Hai vợ chồng li dị và không con cái…
Bà muốn tìm người đàn ông tử tế, rộng lượng, cùng nhau vui hưởng hạnh phúc sau mấy năm trời cuộc sống gia đình sóng gió làm bà tiêu điều héo hon và có thêm người cùng bà trả cho hết gánh nợ nhà cửa bà đang cưu mang.
Hai tâm hồn cô đơn khắc khoải bỗng gặp nhau cuối đường.
Sau những hình ảnh gởi trao họ hẹn ngày gặp mặt.
Bà Phượng ở nam California , ông Năng ở tiểu bang khác sẽ bay đến Calif. và ở nhà đứa con trai. California của cộng đồng người Việt không xa lạ gì với ông.
Địa điểm hẹn thơ mộng, là một bờ biển đẹp của thành phố Newport Beach .
Bà Phượng đã chuẩn bị kỹ cho lần đầu hội ngộ, mái tóc nhuộm màu hung tươi trẻ, bộ váy aó gọn xinh, cái áo khoác buông lơi trên bờ vai, dĩ nhiên không thể thiếu mùi nước hoa thơm nhẹ nhàng quyến rũ. Không ai có thể tin người phụ nữ này đã 65 tuổi.
Ông Năng đầu đội chiếc mũ kiểu Scotland cổ điển nhưng không bao giờ lỗi thời, cổ quàng khăn màu xám bên chiếc áo sơ mi màu mận chín, ông trẻ trung thanh lịch và tao nhã như một văn nhân đúng như bà Phượng đã hình dung và mơ ước.

Nàng thơ và chàng văn cùng sánh vai đi bộ dọc theo bãi biển, gió biển lồng lộng, tiếng sóng vỗ vào ghềnh đá rì rào, mùi hương thơm từ hai phía trao nhau theo mỗi cơn gió càng làm hai trái tim thêm mơ màng say sóng dù sóng biển kia chỉ chạm nhẹ theo bước chân họ trên bãi cát mềm.
Chàng đã cầm tay nàng âu yếm hỏi:
– Mình về với nhau nhé?
Nàng dịu dàng ngoan ngoãn như cô gái mới mười bảy tuổi:
– Vâng ạ.
**************.
Ông Năng sẽ thu xếp nhà cửa để dọn về California ở chung với bà Phượng vì bà không muốn rời khỏi nơi đây. Thương yêu vợ cách mấy ông cũng đành để bà ở lại rồi thỉnh thoảng về thăm mộ phần chắc bà ấy cũng thông cảm cho.
Bà Phượng muốn ông Năng về ở chung là có ý đồ riêng, hi vọng ông Năng sẽ giúp bà trả góp tiền nhà hàng tháng hay biết đâu ông hào hoa lịch sự móc tiền túi ra trả hết nợ cho bà thì bà sẽ hoàn toàn làm chủ căn nhà này.
Bà Phượng nôn nao chờ đợi người mới, cuộc sống mới với bao hi vọng tràn trề. Mấy bà bạn thân của bà Phượng bàn tán:
–    Phượng muốn tìm lại hạnh phúc đánh mất từ người chồng phản bội trước kia đấy
Bà khác thì thực tế:
– Nghe đâu ông này giàu có lắm, chắc Phượng vừa tìm người chồng, vừa tìm người phụ trả tiền nhà.
– Ừ nhỉ, sau khi li dị Phượng lấy căn nhà, tiếp tục trả mortgage, một mình làm sao trả cho nổi.
Một bà khác lại thực tế hơn:
– Tôi như Phượng cứ ở một mình, hoa mộng gì, tình yêu gì ở cái tuổi cuối mùa, ai cũng trở tính trở nết rồi thành “hoa cẩm chướng” của đời nhau.
Ông Năng đã dọn đến ở với bà Phượng sau một buổi tiệc ra mắt họ hàng, con cái và bạn bè đôi bên.
Chẳng biết nhà cửa tiền bạc ông đã tính toán và để nơi đâu, bà Phượng chưa tiện hỏi, ông đến với bà cùng chiếc xe hơi cũ mèm, ông giải thích:
– Chiếc xe mua từ lúc mới tinh đến giờ, là kỷ niệm yêu qúy của vợ chồng anh nên dù cũ anh cũng chẳng nỡ rời.
Ông ăn ở thật có tình có nghĩa.
Bà Phượng cũng khéo léo “khoe” căn nhà tình nghĩa của mình:
– Căn nhà của em cũng thế, mua từ lúc hai vợ chồng hạnh phúc ấm êm, nay dù tình duyên gãy đổ nhưng em vẫn muốn giữ làm kỷ niệm trong đời dù hàng tháng trả mortgage cũng vất vả lắm.
Bà nhấn mạnh:
– Nay có anh về căn nhà càng có ý nghĩa đối với em.
Khi về ở với nhau ông Năng không thể cả ngày đội chiếc mũ flat cap điệu đàng. Thì ra đầu ông bị hói nặng, từ phía trước tới đỉnh đầu không còn lấy một sợi tóc để gió có cớ thổi bay.
Bà Phượng thất vọng nhưng nhìn ngày này qua ngày nọ thành quen và bà tự an ủi thì mái tóc mình cũng bạc và xác xơ dần. Vấn đề chính là ông Năng giàu có và bao dung kìa.
Bà vẫn cố giữ gìn hình ảnh đẹp trước mắt ông, mỗi tháng nhuộm tóc một lần khi màu tóc bạc chớm hiện ra nơi chân tóc đường ngôi.
Khi đã được chồng yêu thì nói gì chồng chẳng nghe theo.
Họ xứng đôi vừa lứa, hai người cùng cảm thấy đủ yên vui hạnh phúc trong thời gian đầu cuộc tình còn mới mẻ .
Chiếc xe cũ của ông Năng từ ngày về California nó thường xuyên dở chứng, nay hư cái này mai hỏng cái khác nằm ì một chỗ, lại thấy ông Năng mang ra tiệm sửa.
Bà Phượng thăm dò góp ý:
– Anh bán xe cũ mua xe mới mà đi cho khỏe thân. Anh thấy xe của em từ ngày anh về đây có hư hỏng gì đâu. Đi gần hay đi xa em đều an tâm.
Ông trả lời cho xong:
– ừ.. ừ.. để anh tính ..
Nhưng ông vẫn cố xài cái xe cũ cho bằng được dù mấy lần công sửa chắc cũng bằng giá trị rẻ mạt của chiếc xe đã lỗi thời và cũ kỹ. Có khi ông Năng phải mượn xe bà Phượng.
Bà tò mò và thắc mắc nghĩ thầm, tiền bạc của cải ông để dành làm gì mà không lấy ra xài cho những chuyện hợp lý như mua xe? con cái ông đều khá giả chúng đâu cần ông để của hồi môn. Hay là ông Năng chưa tin cậy bà nên vẫn giữ của phòng thân ?
Sau một năm đời bỗng chẳng bình yên, tai họa ập đến, bà Phượng bị té ngã từ thang lầu xuống đất, vào nằm bệnh viện và về nhà với cái chân bó bột phải nằm trên giường dài hạn..
Ông Năng chăm sóc từ miếng ăn giấc ngủ, từ thay quần áo đến giúp đỡ bà vệ sinh cá nhân.
Trưa nay ông Năng vừa nấu xong nồi cháo thịt, đang lúi húi lục trong rổ bát tìm cái môi để múc ra một bát cháo cho nguội thì bà Phượng nũng nịu nhờ vả:
– Anh ơi trong lúc chờ cháo nguội anh pha cho em ly trà chanh với lại thay cho em cái khăn lau tay khác đi và anh giặt nốt..…..
Chắc lục đục trong bếp nãy giờ mới nấu xong nồi cháo, lại chưa tìm thấy cái môi nên ông Năng bực mình sỗ sàng  ngắt ngang:
– Nấu xong nồi cháo đi tìm gia vị hành ngò tiêu ớt đã mệt cả người, chưa kịp xong  bà lại sai tiếp. Muốn có ly trà chanh thì bà phải nói hộp trà bà cất nơi nào, chanh bà để nơi đâu và đợi tôi nấu nước sôi pha trà. Bà hành tôi vừa vừa chứ.
Bà hờn mát đổi cách xưng hô:
– Thế mà ông đã hứa sẽ yêu tôi, chiều chuộng tôi đến ngàn đời.
Ông Năng chưa hết bực, quát lên:
–  Phải, Nhưng nếu bà không nằm ăn vạ một đống như thế này..
Bà Phượng kinh ngạc và tức tưởi:
– Ối giời ôi, ông ăn nói thô lỗ với tôi thế hả…

Nỗi lòng ông được dịp tuôn ra:
– Tôi thế đấy. Nói thật với bà nhé, suốt năm qua chung sống với bà tôi cố giữ hình ảnh người đàn ông tao nhã, mỗi lần chúng ta sánh đôi ra ngoài đường tôi phải ăn mặc chỉnh tề, quàng khăn lên cổ, đội mũ lên đầu và ăn nói văn hoa cho bà vừa lòng, tôi ngao ngán đến tận cổ rồi.
Bà Phượng bẽ bàng:
– Tôi đang định sau khi khỏi bệnh sẽ thưởng công ông chăm sóc tôi, mua tặng ông mấy cái khăn quàng nữa cho ông tha hồ chưng diện …
– Thôi khỏi…người ta làm diễn viên lên sân khấu chốc lát là xong vai, còn tôi diễn cả năm trời oải lắm rồi.
– Vậy mà tôi cứ tưởng ông mãi là người trong mộng của đời tôi.
– Thực tế đi bà ơi, ban đầu tôi cũng nghĩ bà là nàng thơ mà tôi may mắn bắt gặp giữa đường đời. Nhìn kìa, bà nằm trên giường bệnh hơn tháng nay tóc tai xác xơ bạc thếch chưa nhuộm và khuôn mặt bơ phờ với những vết nhăn nơi khóe môi, khóe mắt…
Bà Phượng giật mình nhớ ra mái tóc đã quá hạn chưa nhuộm. Bà cố bào chữa:
– Thì ai già mặt không có vết nhăn, đừng có thấy mấy bà tuổi từ 50, 60 trở đi mặt không có vết nhăn mà tưởng họ trẻ lâu, thẩm mỹ viện căng da cả đấy. Còn mái tóc này ư, mai mốt khỏi bệnh tôi sẽ nhuộm lại…
– Thôi khỏi. Điều ấy không quan trọng với tôi nữa.
Bà Phượng mai mỉa :
– Ông nhìn lại ông đi, những lần gặp gỡ đầu tiên ông đội mũ tôi nào biết ông cố tình che đi cái đầu hói. Tôi còn có tóc để chải để nhuộm đỡ hơn ông đấy.
Ông Năng thẳng thừng:
– Ván bài lật ngửa rồi, tôi với bà bất phân thắng bại nghe.
Bà Phượng tủi thân ôm mặt khóc, ông Năng đe dọa:
– Bà có thôi khóc đi không, đừng làm tôi điên máu thêm thì khỏi có trà chanh gì nữa, nước lạnh cũng không luôn…
– Này… này…ông đừng có ….khoe thói vũ phu, chồng tôi khi xưa tuy có bồ bịch lăng nhăng nhưng chưa đối xử vô văn hóa với tôi đâu nhé..
– Này.. này.. bà nói ai vô văn hóa, hả ? hả? vợ tôi khi xưa tuy ốm đau nằm liệt giường nhưng chưa hành hạ tôi tàn khốc như bà nhé…
Bà Phượng giảm tốc độ nức nở, không dám trách ông Năng, dù sao ông cũng đã chăm sóc bà cả tháng nay và còn tiếp tục sau mấy lần tái khám nữa. Bà vẫn cần ông, đang chiêu dụ ông một ngày nào đó sẽ cảm thông và giúp đỡ bà trả tiền nhà. Bà dịu giọng nói như an ủi ông:
– Tôi bệnh rồi sẽ khỏi mà. Chỉ còn một tuần nữa là đủ hai tháng để tháo băng.
Ông Năng vẫn hậm hực:
– Người già té ngã gãy xương chưa chết là may. Với lại ai dám bảo đảm là bà sẽ không xớn xác té ngã cầu thang hay trong phòng tắm lần nữa chứ? Tôi lại phải hầu…
– Trời ơi, ông trù ẻo tôi đấy hả? Ông biết chiều chuộng vợ lắm mà, người đàn ông mỗi tuần mang hoa đến mộ phần vợ từng làm tôi cảm động đâu rồi?
Ông Năng cười khan:
– Ai rảnh mà mỗi tuần đi thăm mộ vợ và tốn tiền mua hoa chứ, tiền mua bó hoa tôi  ăn tô phở cho sướng thân. Thoát được cảnh hầu hạ bà vợ nằm liệt giường, ai ngờ nay lại phải hầu hạ bà.. .
Bà Phượng được dịp vỡ òa những ấm ức bấy lâu:
–   Bây giờ tôi mới hiểu vì sao ông vẫn đi cái xe cà tàng cũ rích, chắc chắn không phải vì nhớ thương hình bóng người vợ cũ, mà vì ông hà tiện, tiền bạc để dành cho nó mục nát ra à, để về bên kia thế giới tiêu xài với ma à ?
Bà hăng máu gào thêm:
– Về ở với tôi cái gì ông cũng xài chung xài ké. Hôm nọ mượn tiền tôi mấy trăm đồng sửa xe còn chưa trả đấy nhé
–   Nợ tôi sẽ trả, hàng tháng tôi đều đưa bà mấy trăm đồng chứ có ăn nhờ ở đậu nhà bà đâu
Bà Phượng cười khinh khỉnh:
– Vài trăm đồng một tháng của ông chưa đủ tiền một đứa share phòng trong khi căn nhà này mỗi tháng tôi trả mortgage gần ba ngàn đồng bạc. Thế mà đăng lời rao tìm bạn vừa hoa mỹ vừa oai phong lẫm liệt nào ôm hoa đến mộ vợ, nào nhà cửa ổn định, tài chính vững vàng, tinh thần thảnh thơi, bao dung vị tha.…
Ông Năng giải thích:
– Tôi đăng ôm hoa đến mộ vợ cho thơ mộng với cuộc đời, ý tôi  muốn nói vẫn thương người vợ cũ, những điều còn lại tôi dí dỏm cho vui chứ không có ý lừa dối ai cả. Tôi nghèo mạt rệp, nhà cửa ổn định là ở diện housing đấy, tài chính vững vàng là tiền già lãnh hàng tháng cho đến chết đấy, có bảo hiểm sức khỏe chẳng tốn đồng nào là tinh thần thảnh thơi vô lo đấy. Ở tuổi già không phải lệ thuộc nhờ vả con cái, với tôi thế là quá sung sướng. Tôi chỉ nói lên sự thật tại bà quá giàu tưởng tượng mà thôi..
– Thế sao ông không nói huỵch toẹc ra cho tôi biết sớm.
– Tôi tưởng sẽ gặp người tình tri kỷ, ở với nhau sẽ hiểu nhau, nhưng bà chỉ dòm ngó tìm hiểu “gia tài” của tôi làm tôi càng ngại ngùng khó nói. Thôi thì tôi với bà chắp nối không có gì ràng buộc, bây giờ không hợp nhau thì chia tay.
Bà Phượng lại gào lên:
– À, thì ra thế, đằng nào cũng rút lui nên ông không cần che đậy sự giả dối thêm nữa. Ông thách thức tôi đấy hả? Mời ông ra khỏi nhà tôi. Mời ông ra khỏi cuộc đời tôi…
– Bà khỏi phải đuổi tôi cũng chạy bà luôn, tôi tưởng bà là một phụ nữ đã nếm mùi khổ đau sẽ cùng tôi tìm niềm vui cuối đời, nhưng tôi đã lầm và tiếc lắm. Bà biết tôi tiếc gì không?…
– Cuối cùng ông cũng phải tiếc tôi thôi…..
– Tôi tiếc….. đã từ bỏ diện housing ổn định để dọn về đây ở với bà, trở về thành phố cũ tôi phải làm giấy tờ xin lại từ đầu mất nhiều công sức lắm. Bà rõ chưa…
****************
Ông Năng trở về thành phố cũ của ông. Vài tháng sau bà Phượng đọc thấy lời rao tìm bạn bốn phương của ông lại xuất hiện trên báo, lần này ông kinh nghiệm đăng rất thực tế rõ ràng : “Người đàn ông nghèo và cô đơn luôn mơ ước có tiền để mua hoa mỗi tuần đến thăm mộ vợ, 70 tuổi, nhà ở housing, tiền già, medicaid đầy đủ. Muốn tìm một phụ nữ để tri kỷ, để yêu thương nhau suốt quãng đời còn lại” .
Thôi thì bà cũng cầu mong ông Năng tìm được một người tình tri kỷ, nếu không thì cũng vớ được một bà già handicap hay bà nhà quê chán con chán cháu đang ăn welfare muốn tìm chồng ra ở riêng, may ra sẽ ở với nhau lâu dài.
Còn bà, bà sẽ cho share phòng để có thêm lợi tức trả tiền nhà và yên phận sống một mình. Tìm được một tình yêu đã khó bà không mong gì tìm một lúc được cả tình lẫn tiền ở cái tuổi già này nữa.
Nguyễn Thị Thanh Dương.
( November, 16, 2017 )

 From: Michelle Bui & KimBang Nguyen 

Trường hợp Nhất Linh Nguyễn Tường Tam

Trường hợp Nhất Linh Nguyễn Tường Tam

AuthorPhạm Quang Trình SourceHồn Việt Posted on: 2017-10-14
 
Nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam
       

Có một nhân vật đã gây nhiều thắc mắc là nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, trưởng nhóm Tự Lực Văn Đoàn, người từng đảm nhiệm vai trò Bộ Trưởng Ngoại Giao trong chính phủ Liên hiệp Hồ Chí Minh 1946, nhưng chỉ được ba tháng vì bất đồng chính kiến thì xin từ chức. Thời Quốc Gia Việt Nam (Quốc Trưởng Bảo Đại) và thời Đệ Nhất Cộng Hòa (TT Ngô Đình Diệm), ông Nguyễn Tường Tam hoạt động văn hóa, cho xuất bản các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn và chủ trương tờ Văn Hóa Ngày Nay. Cũng dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn và của Nhất Linh đã được Bộ Quốc Gia Giáo Dục đưa vào chương trình Trung Học. Tưởng chưa có một vinh dự nào lớn lao đối với một nhà văn như Nhất Linh khi còn sinh thời và Tự Lực Văn Đoàn đã được chính quyền xử sự như thế. Điều đó chứng tỏ nền Đệ Nhất Cộng Hòa và riêng cá nhân TT Ngô Đình Diệm rất nể trọng Tự Lực Văn Đoàn và cá nhân nhà văn Nhất Linh. Thật sự thì không ai có thể phủ nhận công trình văn học của Tự Lực Văn Đoàn và nhà văn Nhất Linh. Cho nên, việc chính phủ Ngô Đình Diệm đưa các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn vào chương trình Trung Học là đúng đắn, rất đáng hoan nghênh. Nhưng không hiểu tại sao Nhất Linh lại bị tố cáo có dính líu vào cuộc Binh Biến ngày 11-11-1960 của bè nhóm Vương Văn Đông, Hoàng Cơ Thụy, Nguyễn Chánh Thi để đưa ông đến chỗ uống thuốc độc tự tử ngày 7-7-1963 qua cái gọi là bản di chúc chính trị nguyên văn như sau:

“Đời tôi để lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử cả. Sự bắt bớ và xử tội tất cả các phần tử đối lập quốc gia là một tội nặng sẽ làm cho nước mất vào tay Cộng sản. Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình, cũng như Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, để cảnh cáo những người chà đạp mọi thứ tự do.” Nhất Linh Nguyễn Tường Tam 7-7-63.

Vì dính vào vụ 11-11 nên ông bị Toà Án Quân Sự Đặc Biệt gửi trát tòa gọi ra lấy khẩu cung. Qua khẩu cung thì ông chối không hoạt động chính trị và cũng không dình líu gì đến vụ phản loạn nói trên. Qua tài liệu -Trong Bóng Đêm Lịch Sử- xuất bản năm 2008- của Cựu Luật sư Lê Nguyên Phu nguyên Đại Tá Ủy Viên Chính Phủ trong Toà Án Quân Sự Đặc Biệt từ trang 188-191, nhân vật Nhất Linh được ghi lại nguyên văn như sau:

“Nhóm Hoàng Cơ Thụy là nhóm dân sự duy nhất biết trước vụ Binh Biến. Còn những người khác như Phan Quang Đán, Phan Khắc Sửu, Vũ Hồng Khanh, Phan Bá Cầm, Bùi Lượng, Đinh Xuân Quảng, Nguyễn Thành Phương, Nguyễn Tường Tam cùng đám thuộc hạ em út gồm Trương Bảo Sơn, Nguyễn Thành Vinh, Vĩnh Lợi, Trần Tương v.v… đều là những người lúc nghe tiếng súng nổ mới chạy đến hiện trường, hoan hô đả đảo cho rậm đám. Đây là những người không được mời ăn cỗ, nhưng nghe có đình đám chạy đến để ăn có. Nhóm Caravelle không dự vào vụ Binh Biến này, không có mặt tại chỗ, và không hề bị truy tố ra Tòa Án Quân Sự Đặc Biệt trong vụ này, thế mà sau, tên cầm cờ chạy hiệu Trần Tương viết sách khoa trương láo khoét đã lôi họ vào nội vụ để có chút thơm lây.

Trong số những thực khách không mời mà đến ăn có, tôi chỉ nhắc đến hai trường hợp của Phan Quang Đán và Nguyễn Tường Tam.

Trước tiên là trường hợp Phan Quang Đán, Nguyễn Chánh Thi cảm thấy lẻ loi trong nhóm Vương Văn Đông, nên khi thấy Phan Quang Đán xuất hiện trước Dinh Độc Lập, vội vàng kéo Phan Quang Đán về phe y, cho làm phát ngôn của Thi để cân bằng thế lực với nhóm Vương Văn Đông có Hoàng Cơ Thụy trợ thủ. Phan Quang Đán lên Đài Phát Thanh chửi rủa nhục mạ chính quyền một cách thô lỗ, nhưng lúc bị bắt ra tòa thì mềm nhũn như con chi chi, thái độ ươn hèn khiếp nhược.

Còn trường hợp của Nguyễn Tường Tam lại khác hẳn. Nguyễn Tường Tam có tư cách hơn. Sở dĩ tôi nhắc đến Nguyễn Tường Tam là muốn nói rõ cho hậu thế biết cái chết của ông và nguyên nhân đã đưa ông đến cái chết ấy.

Nguyễn Tường Tam sau khi bị điều tra sơ khởi tại Nha Cảnh sát, Nha An Ninh Quân Đội và thẩm vấn sau cùng tại Tòa Án Quân Sự Đặc Biệt, đã được Đại Tá Lê Văn Khoa ủy viên chính phủ phóng thích ngay, không bị giam giữ một ngày nào. Trong biên bản do chính Đại Tá Lê Văn Khoa thẩm vấn, Nguyễn Tường Tam khai thực sự không biết gì về nội vụ, không có tổ chức căng biểu ngữ, rải truyền đơn chống chính phủ trước Dinh Độc Lập. Nhưng sự việc này hoàn toàn do đám em út của ông (Trương Bảo Sơn, Nguyễn Thành Vinh, Vĩnh Lợi, Trần Tương v.v…) tự động làm ra ông ngăn không nổi. Ông thỉnh cầu Đại Tá Lê Văn Khoa đừng đem đối chất với nhóm thuộc hạ. Sự thỉnh cầu này được ghi rõ ở cuối biên bản thẩm vấn. Đại Tá Lê Văn Khoa chấp nhận lời thỉnh cầu, nên trong hồ sơ không có biên bản đối chất, mặc dầu các thuộc hạ của ông khai ngược lại là đã hành động theo lệnh của ông. Các thuộc hạ của Nguyễn Tường Tam đều bị Đại Tá Lê Văn Khoa tống giam, chỉ một mình Nguyễn Tường Tam được tại ngoại hầu tra. Do dó các thuộc hạ của ông đều tỏ ra bất bình và oán hận, cho rằng chính ông đã đổ hết tội lên đầu của họ. Từ trong khám Chí Hòa, Trương Bảo Sơn viết thư ra cho bà vợ mới chắp nối là bà Nguyễn Thị Vinh chỉ trích Nguyễn Tường Tam đủ điều, nào là phản bội anh em, nào là thiếu tư cách lãnh tụ v.v… Lá thư được giám đốc khám đường Chí Hòa đệ trình Tòa Đặc Biệt và được lưu giữ lại trong hồ sơ. Lúc bấy giờ hồ sơ đã được Đại tá Lê Văn Khoa kết thúc và đã có án lệnh ra tòa từ lâu, trước khi tôi đến thay thế Đại Tá Lê Văn Khoa. Tôi lưu giữ lá thư trong hồ sơ mà không cho chuyển đi chỉ vì thiện ý. Tôi không muốn vì lá thư nầy mà gia đình các bị can bên ngoài phải trách cứ lẫn nhau, gây thêm sự xáo trộn trong cuộc sống. Nguyễn Tường Tam vẫn được sống tự do tại gia dình.

Vụ án đã có án lệnh đưa ra tòa, nên tôi quyết định không để kéo dài thêm nữa và cho đăng đường xét xử vào phiên tòa ngày 5-7-1963. Theo thủ tục pháp lý, một can phạm bị truy tố về một tội đại hình, nếu được tự do tạm như trường hợp của Nguyễn Tường Tam, phải bị câu lưu lại 3 ngày trước phiên tòa xử. Nhưng đối với Nguyễn Tường Tam, tôi không cho thi hành thủ tục này. Tôi viết thư mời Nguyễn Tường Tam (chứ không ra trát đòi) đến gặp tôi tại Tòa Án Quân Sự Đặc Biệt. Nguyễn Tường Tam đến không sai hẹn, và được tôi tiếp đón nồng hậu. Chúng tôi đã đối diện trò chuyện suốt ba giờ đồng hồ, nghĩa là trọn suốt buổi sáng, tại phòng khách riêng của tôi, không có người thứ ba tham dự, và đề tài đàm thoại, khởi đầu bằng chuyện văn chương, thế tình. Tôi đề cập trước tiên, từ những tác phẩm nổi danh của ông trong Tự Lực Văn Đoàn đến tờ Phong Hóa, Ngày Nay do ông chủ trương trước năm 1945 tại Hà Nội và đồng thời cho ông biết tôi rất hâm mộ tài hoa và sự nghiệp văn chương của ông. Mục đích của tôi là để ông yên tâm. Sau cùng tôi mới nói qua về lý do mời ông đén văn phòng tôi. Tôi cho ông biết vụ Binh Biến 11-11-1960 sắp được đăng đường xét xử và yêu cầu ông ngày đó nhớ đi hầu tòa. Đối với ông, tôi không cho tống đạt trát đòi hầu tòa, cũng như không câu lưu thân thể (theo tiếng Pháp là prise de corps) trước ngày xử án. Tôi hứa sẽ tận tình giúp đỡ ông để sau phiên xử ông vẫn được thong thả và tự do trở về nhà. Thật là một sự dễ dãi chưa từng có trong phạm vi thủ tục pháp lý. Trước sự cởi mở của tôi, ông trầm ngâm giây lát, tỏ ý cảm kích, và sau cùng hỏi tôi: “Ông ủy viên có thể giúp tôi thêm một chút nữa được không? Tôi xin ông ủy viên giúp tôi tránh khỏi phải đối chất với bọn đàn em thuộc hạ của tôi.”

Tôi hiểu rõ ý muốn của ông, và lần này tôi cũng trầm ngâm như ông trước khi trả lời: “Điều ông yêu cầu thực sự ngoài quyền hạn của tôi, bởi vì hồ sơ đã được đăng đường, trước tòa chỉ có ông chánh thẩm là người duy nhất điều khiển phiên xử và có quyền quyết định tối hậu mọi thủ tục pháp lý. Tôi vì ông sẽ không xin đối chất, nhưng nếu luật sư biện hộ cho thuộc hạ của ông yêu cầu đối chất, tôi sợ ông chánh thẩm khó lòng từ chối. Vì vậy mà tôi không thể hứa chắc về điểm này. Tôi phải tôn trọng ông chánh thẩm trước tòa”.

Câu nói của tôi là một câu nói thành thật chí tình.

Nhưng nghe xong Nguyễn Tường Tam trở nên ray rứt, băn khoăn vô hạn. Ông cuí đầu suy nghĩ. Và trong câu chuyện tiếp theo, ông luôn luôn trở lại vấn đề đối chất và nhiều lần nhắc nhở tôi cố gắng giúp đỡ ông. Đó là lý do vì sao câu chuyện đàm thoại giữa chúng tôi đã kéo dài ba giờ đồng hồ, suốt một buổi sáng. Lúc tiễn ông ra cửa, tôi thấy ông đi thất thểu, nhưng tôi không nghĩ rằng vì vấn đề đối chất nầy mà ông phải tự tử sau đó. Lúc được tin ông đã qua đời, suy nghĩ kỹ lại, tôi mơí nhận rõ điều ông yêu cầu là một điều tối quan trọng đối với ông. Ông không muốn đối diện với bọn đàn em và đối chất với họ trước Tòa, vì đó là một điều sỉ nhục, mất thể diện trọng đại. Trước Tòa, nếu ông tiếp tục giữ lập trường không liên quan vào nội vụ, trong khi bọn đàn em của ông lại nhất quyết cho ông là người cầm đầu, thì cái danh vị lãnh tụ của ông sẽ tiêu tan, và nhân phẩm của ông cũng bị tổn hại rất nhiều. Cho nên chỉ còn một lối thoát duy hất là để tránh sự đối chất là tự tử. Lối thoát này đã giúp ông bảo tồn danh dự và tư cách lãnh tụ, nâng cao nhân phẩm cá nhân và có thể đưa ông vào lịch sử.

Chết là hết! Chết là vạn sự hư không! Nếu cái chết của Nguyễn Tường Tam đến đây chấm dứt, thì có thể nói đó là một cái chết rất đẹp đẽ, đáng tôn vinh như một điểm son rực rỡ trong cuộc đời chính trị của ông!

Nhưng tiếc thay, điểm son rực rỡ ấy đã bị ông xóa nhòa, bôi đen bằng một mảnh giấy nhỏ được ông để lại khi lâm chung. Trên mảnh giấy ấy ông cho biết ông tự tử vì không muốn bị xét xử trước tòa án của chính quyền Ngô Đình Diệm và xin để lịch sử xét ông về sau. Những dòng chữ này không biết có đánh lạc hướng được lý do tự tử của ông hay không, nhưng chắc chắn đã hạ thấp phẩm giá của ông rất nhiều. Cho đến giờ phút lâm chung ông vẫn còn chưa đạt, vì chưa bỏ được tham vọng lợi danh của mình, chưa giác ngộ được hành vi tốt hay xấu của mình đối với anh em đồng chí, mà vẫn còn huynh hoang tiếp tục dối trá người đời. Ông nói không muốn để tòa án chính quyền Ngô Đình Diệm xét xử ông, nhưng thực sự khi ông ra khai cung tại Phòng Dự Thẩm Tòa Án Quân Sự Đặc Biệt thì ông đã bị tòa án của chính quyền Ngô Đình Diệm xét xử rồi, vì trong cơ chế pháp lý, Dự thẩm được xem như là một cấp xử án riêng biệt (une jurisdiction à part), có quyền định tội danh của can phạm, cải tội danh, ra án lệnh miễn tố hay truy tố ra tòa khi tội danh đã được xác định.

Vụ tự tử của Nguyễn Tường Tam về sau có nhiều người khai thác, dựa vào đó để làm nấc thang danh vọng, kể cả những người từng oán hận ông như Trương Bảo Sơn. Sau vụ đảo chánh 1-11-1963, họ được trả tự do, vội vàng tổ chức lễ truy điệu Nguyễn Tường Tam rất trọng thể tại Vườn Tao Đàn, để rồi sau đó mỗi người được chính quyền quân phiệt tưởng thưởng một số tiền lớn có thể mua nhà cửa, phố xá, mở tiệm buôn, tiệm thuốc tây v.v… Có người còn được gia nhập chính quyền, học ăn học nói ở Thượng Hạ Nghị Viện. Tôi muốn hỏi những đàn em của Nguyễn Tường Tam họ có bao giờ nghĩ rằng Nguyễn Tường Tam chết cũng vì những lời bài xích xa gần của họ.”

Qua những dòng trên đây cho thấy Nhất Linh thật sự có tham dự vào âm mưu đảo chánh 11-11-1960 nhằm lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm. Chính con út ông là Nguyễn Tường Thiết trong hồi ký Nhất Linh Cha Tôi do Văn Mới xuất bản năm 2006 trang 29-30 đã xác nhận điều đó: “Thế rồi ông quyết định giã từ tất cả. Đà Lạt, Fim Nôm, dòng Đa Mê và cả trăm giỏ lan mà ông đã chăm sóc từ hai năm qua, để về luôn Sài Gòn, chấm dứt cái thời kỳ mà ông Lê Hữu Mục đã viết trong đoạn kết cuốn sách của ông là “một Nhất Linh nằm trùm chăn ở trên Đà Lạt”. Đối với tôi, thật bụng tôi chỉ mong ông được nằm trùm chăn lâu hơn vì đây chính là thời gian hạnh phúc nhất trong đời ông mà tôi được biết. Nhất Linh “xuống núi” lăn vào cuộc đời làm báo, tham gia đảo chính, thất bại, đi trốn, bị đưa ra tòa, đưa đến cái tự vẫn của ông mấy năm sau, mở đầu một thời kỳ cuối cùng của đời ông với nhiều não nề, nhiều chán chường hơn”.

Đã tham gia đảo chính nhưng tại sao Nhất Linh lại phủ nhận tất cả hành động của mình trước Tòa Án Quân Sự Đặc Biệt? Đọc đoạn viết của LS Lê Nguyên Phu trên đây cũng như đọc mục “Niềm Vui Chết Yểu” từ trang 31-51 trong Nhất Linh Cha Tôi của Nguyễn Tường Thiết cho thấy tâm trạng lo âu sợ sệt của Nguyễn Tường Tam. Tại sao lại sợ và tại sao phải chọn cái chết? Mỗi người có thể suy luận theo nhận định riêng của mình.

Ông Nguyễn Văn Lục trong cuốn “Một Thời Để Nhớ” do Diễn Đàn Giáo Dân xuất bản năm 2011 nơi các trang 187-188 cho rằng Nhất Linh chọn cái chết vì bịnh tâm thần. Xin trích một đoạn sách của ông Nguyễn Văn Lục: “Trong số những nhân vật bị bắt, có nhân vật quan trọng như một thứ biểu tượng thống lãnh và uy tín hàng đầu. Đó là ông Nhất Linh. Trước đây không lâu, tôi có viết một bài nhan đề “Trường hợp Nhất Linh, một cái chết định trước”. Trong đó tôi cho rằng Nhất Linh mắc bệnh tâm thần, bị ám ảnh thường trực ý muốn tự tử. Và cơ hội đã đến trong dịp bị gọi ra tòa về vụ đảo chánh hụt 11-11-1960. Có rất nhiều ý kiến phản bác. Nay cơ hội cho tôi có dịp khẳng định lại một lần nữa để nhận ra suy diễn của tôi không phải là vô bằng cớ mà có căn cơ đứng đắn, có cơ sở lý luận và có chứng liệu thực tiễn.” Ông Nguyễn Văn Lục còn nêu ra những nhận xét của những người thân thiết với nhà văn Nhất Linh như Bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm, Thế Uyên đều xác nhận Nhất Linh mắc bệnh tâm thần hay suy nhược thần kinh. Bài viết và tác phẩm của ông Nguyễn Văn Lục đã làm dư luận xôn xao trong đó, Nguyễn Tường Thiết là con út của Nhất Linh đã viết ba bài phản bác kịch liệt trên các Diễn Đàn Internet để bênh vực cho cha.

Nguyễn Tường Tam viết rằng đời ông để Lịch sử xét xử. Cái chết của ông đã ngót nửa thế kỷ. Chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa cũng đã bị lật đổ ngót nửa thế kỷ. Bao nhiêu tài liệu đã được giải mật, phơi bầy, chẳng còn gì dấu kín. Những lời của LS Lê Nguyên Phu và của Nguyễn Tường Thiết viết ra về Nhất Linh đã sáng tỏ về con người của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam: “Nhất Linh xuống núi, lăn vào chính trị, tham gia đảo chính hụt, thất bại, sợ sệt, trốn tránh, bị điều tra và ở thế cùng, chọn cái chết”, chứng tỏ Nhất Linh không phải là người có bản lĩnh chính trị, không có viễn kiến chính trị. Nhất Linh thành công về văn học và thất bại ê chề về chính trị.

Người viết tự hỏi: nếu quả thực nhà văn Nhất Linh không dính gì vụ Binh Biến 11-11-1960 thì tại sao lại phải trốn tránh, và tại sao lại nài nỉ xin Ủy viên chính phủ Lê Nguyên Phu tránh cho chuyện đối chất với thuộc hạ đàn em? Còn nếu Nhất Linh đã có gan tham gia Binh Biến thì tại sao không có gan đứng trước Tòa Án Quân Sự Đặc Biệt mạnh dạn phản bác mọi cáo buộc, công khai lên án sự chà đạp tự do của chính quyền Ngô Đình Diệm? Nếu Nhất Linh có can đảm làm như thế thì liệu chính quyền Ngô Đình Diệm có dám kết án nặng nề hay phải nhượng bộ ông? Nếu Nhất Linh có viễn kiến chính trị, nhìn thấy sự thay đổi sẽ xẩy ra trong tương lai gần trong tinh hình xáo trộn tháng 7/1963, thì có lẽ Nhất Linh đã không tự tử. Biết đâu rằng sự gan dạ và mạnh dạn ra Tòa Án sẽ là một bản Cáo Trạng lớn lao hơn với chế độ và là một thành tích lẫy lừng của Nhất Linh để sau khi biến cố 1-11-1963 xẩy ra sẽ đưa Nhất Linh lên hàng lãnh đạo quốc gia, vượt xa những Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Trần Thiện Khiêm? Thật tiếc cho ông đã bỏ lỡ mất cơ hội ngàn năm một thuở.

Theo thiển ý, muốn đấu tranh kết quả, ít nhất phải giữ mạng sống của mình đã. Bị bắt ra Tòa đâu có phải là điều sỉ nhục. Trong lịch sử đấu tranh, có hàng ngàn, hằng vạn, hàng triệu người bị đưa ra Tòa có sao đâu. Chỉ có gian dối hay có điều gì khuất tất sợ sự thật mới trốn tránh. Nhất Linh đã không làm thế? Nhất Linh muốn đời ông để lịch sử xét xử thì nay sự thật lịch sử đã được phơi bầy rồi đó kể cả sự thật về Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Lịch sử cho thấy mọi biến cố chính trị liên hệ đến Việt Nam Cộng Hoà đều có bàn tay của ngoại bang. Bàn tay ấy giống như một con bạch tuộc với trăm ngàn cái vòi đã len lỏi, thọc sâu vào mọi cơ cấu từ thượng tầng đến hạ tầng quốc gia để đạo diễn mọi biến cố rất tinh vi mà người đương thời ít ai biết được. Cái chết của Nhất Linh không chắc đã đem lại ích lợi gì cho đất nước, nhưng rõ ràng là giúp thêm cho chiến dịch tuyên truyền lưu manh của ngoại bang đang muốn khai thác nhằm lật đổ chế độ Cộng Hòa Việt Nam với TT Ngô Đình Diệm, một người mà thù phải sợ, bạn phải nề.

Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ ngày 1-11-1963 thì Việt Nam Cộng Hòa rơi vào tình trạng xáo trộn và khủng hoảng lãnh đạo chưa từng thấy. Cha con bọn đảo chánh từ thầy đến tớ toàn là một lũ ngu xuẩn, lo vơ vét, ăn chơi đàng điếm, không biết làm việc. Hệ thống an ninh bị bỏ ngỏ. Quốc sách Ấp Chiến Lược bị phá vỡ. Việt Cộng gia tăng xâm nhập phá hoại. Tình hình Miền Nam từ nông thôn đến thành thị trở nên nguy ngập. Mỹ phải cấp tốc đổ nửa triệu quân vào cứu vãn. Và như đã nói trên suốt hai năm trời sau đảo chính (1963-1965), Miền Nam đã trở thành vũng lầy đầy những xáo trộn và bất ổn. Bây giờ thì Mỹ và bọn đâm thuê chém mưón mới biết nhân vật lãnh đạo quan trọng như thế nào? Cũng từng ấy nhân sự, cũng từng ấy cơ sở mà tại sao tình hình trước và sau 1-11-1963 thay đổi một cách khác thường như vậy? Bây giờ thì người ta mới biết tài năng, dức độ của TT. Ngô Đình Diệm và những cộng sự viên đắc lực trong việc điều hành guồng máy quốc gia qua hai tổ chức Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng và Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia là quan trọng.

Phạm Quang Trình

Cuộc Trùng Phùng Bi Thảm

Image may contain: one or more people and closeup

Van Pham

THÊM MỘT TRUYỆN NGẮN CỦA PHẠM TÍN AN NINH…

Cuộc Trùng Phùng Bi Thảm

Theo đoàn quân tiếp thu Sài gòn mà lòng ông Hai Chi rối như tơ vò. Ông và hầu hết các đồng chí của ông ngơ ngác tưởng như chuyện mộng mị không thể nào xảy ra. Chính đơn vị của ông bị đánh tan tác gần như phải xóa sổ trong mùa hè 1972, đến nay vẫn chưa bổ sung xong, và đám bộ đội còn sống sót cũng chưa kịp hoàn hồn. Vậy mà Ban Mê Thuột mất, Tây Nguyên, Vùng 2, đến Vùng 1 có lệnh bỏ, để rồi cả miền Nam thất thủ chỉ trong vòng bốn mươi lăm ngày. Có lẽ những người ngồi trong Bộ Chính Trị ngoài Hà Nội cũng còn bất ngờ, huống hồ Hai Chi, chỉ mang quân hàm thiếu tá, làm sĩ quan hậu cần của một sư đoàn nằm tận vùng rừng núi Tây Nguyên heo hút..

Từ ngày vào bộ đội, ông Hai Chi luôn bị điều về những đơn vị chiến đấu. Nhờ phước đức mấy đời nên còn sống cho đến ngày tàn cuộc chiến. Không chết, nhưng trên người, và có thể cả trong lòng ông còn mang nhiều thương tích. Vết thương nặng nhất khi đơn vị ông bị B.52 dội bom trong trận Hạ Lào. Tiểu đoàn do ông làm thủ trưởng chỉ còn lại dưới 50 người. Nhờ thương tích ấy ông được điều về Sư Đoàn 320 làm cán bộ hậu cần. Mùa hè năm 1972, cả sư đoàn từng mang danh là Sư Đoàn Điện Biên hay Sư Đoàn Thép này gần như bị xóa sổ, khi tướng Hoàng Minh Thảo tung vào trận địa Kontum với ý đồ chiếm lấy Tây Nguyên, làm bàn đạp tiến xuống đồng bằng. Nhờ làm việc ở hậu cần nên ông Hai Chi sống sót để cuối tháng 4/75 có mặt trong đoàn quân ngơ ngác về tiếp thu Sài gòn.

Hai Chi chỉ là bí danh. Tên thật của ông là Nguyễn Công Chính, con cả của một gia đình gốc tiểu tư sản. Quê ở Hải Phòng. Trước 54 gia đình làm chủ một tiệm bán xe đạp và sản xuất găm bánh xe. Bố mẹ sinh được năm người con, nhưng cả ba cô con gái mất sớm, chỉ còn hai cậu con trai, Hai Chi và người em út, nhỏ hơn đến mười một tuổi. Khi ông đang học Y khoa ở Đại Học Hà Nội, thì trận chiến Điện Biên Phủ kết thúc với sự thắng lợi của phe Việt Minh để Pháp phải ký Hiệp Định Genève, chia đôi đất nước. Từ vỉ tuyến 17 trở ra cả miền Bắc thuộc về Cộng Sản. Làn sóng di cư đổ xô về Hải Phòng, quê ông, nơi có những chiếc tàu há mồm chở họ vào Nam. Bị lực lượng Việt Minh tìm mọi cách ngăn chặn, nên khi ông về đến được Hải Phòng, thì nhà cửa đã bị tich thu, không tìm được bố mẹ và người em trai của mình. Ông phải bỏ Hải Phòng, bỏ cả con đường trở thành bác sĩ, lên sống với một bà dì trên Ý Yên, Nam Định.

Nhờ có trình độ học vấn và phấn đấu liên tục để giấu đi gốc gác con nhà tiểu tư sản, ông được cho theo học khóa sĩ quan. Nhưng sau này, khi hầu hết bạn bè cùng khóa lên đến cấp đại tá, thiếu tướng, giữ nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội hay công an, có người còn lọt vào Bộ Chính Trị, thì ông Hai Chi cứ vẫn là thiếu tá tiểu đoàn trưởng và cuối cùng, sau khi bị thương, được điều về làm cán bộ hậu cần của một đơn vị bại trận, cần thời gian để “biên chế”, bổ sung.

Giữa tháng 3/75 Ban Mê Thuột mất, rồi Quân Đoàn II và Quân Đoàn I gần như xóa sổ, sau những kế hoạch triệt thoái tồi tệ nhất trong lịch sữ chiến tranh, để cuối cùng ngày 30/4/75 cả miền Nam rơi vào tay Cộng sản.

Sư Đoàn 320 từ Tây Nguyên cũng được tăng cường cho đoàn quân tiến về Sài gòn, khi Cộng quân bị các đơn vị VNCH chặn đánh tại tuyến Long Khánh gần hai tuần lễ gây tổn thất khá nặng nề. Chiến tranh kết thúc, ông Hai Chi được chỉ định bổ sung cho đoàn cán bộ tiếp thu Tổng Kho Long Bình của QLVNCH bỏ lại. Sau thời gian quân quản, ông là một trong số những cán bộ may mắn được “biên chế” ở lại miền Nam. Nhiệm vụ của ông là kiểm kê và tổ chức chuyển hàng trong các kho về miền Bắc. Từng đoàn xe liên tục từ Nam ra Bắc suốt ngày đêm, chở theo các loại chiến lợi phẩm, không những đã tịch thu được của Quân Đội hay Chính Phủ mà của cả dân chúng miền Nam, nhất là sau kế hoạch “Đánh Tư Sản”.

Lúc này trong dân gian truyền miệng một câu nói khá đau lòng mà lý thú: Đất nước thống nhất để miền Nam thì nhận họ, còn miền Bắc thì nhận “hàng”. Như con chuột gầy sa hủ nếp, ông Hai Chi trở nên giàu có. Ngôi biệt thự tại thành phố Biên Hòa tịch thu từ gia đình một tư sản gốc Hoa được cấp cho ông, cũng là nơi để ông cất giấu hàng ngàn cây vàng kiếm được. Một năm sau, vợ và đứa con trai của ông cũng từ ngoài Bắc được chuyển vào ở với ông. Học đòi một chút vương giả, bà vợ muốn có người ở, phụ bà lau nhà rửa bát và để cho bà có người sai vặt. Nhưng ngại nếu thuê mướn một người lớn, chuyện “làm ăn” và cả sinh hoạt trong nhà dễ bị “tai vách mạch rừng” lọt ra ngoài, nên sau khi bàn tán kỹ lưỡng, vợ chồng Hai Chi quyết định đi xin một đứa con nuôi. Vừa có một đứa đầy tớ không mất tiền thuê, vừa được tiếng nhân từ, giữ “truyền thống đạo đức cách mạng”.

Vợ chồng ông Hai Chi tìm đến các viện cô nhi để tuyển lựa “đối tượng”. Ông bà muốn có một đứa con gái khoảng 7-8 tuổi, khỏe mạnh và mặt mày sáng sủa. Cuối cùng vợ chồng cũng được như ước muốn. Khi bà sœur “quản nhiệm” Cô nhi viện Biên Hòa dắt con bé ra giao, bà chỉ cho biết con bé tên Phượng, 8 tuổi. Bố mẹ đã chết trong trận đánh Long Khánh. Có người thấy nó ngồi khóc trên vỉa hè nên mang về nhà nuôi. Một thời gian sau “giải phóng” gia đình này trở nên túng quẩn, không có đủ cơm ăn, đúng lúc con bé lại bệnh hoạn không sai bảo gì được, nên đã mang cháu đến giao cho cô nhi viện. Lúc ấy cô nhi viện cũng lâm vào cảnh khốn khó, nhưng các sœur không nở chối từ, chia bớt phần ăn của mình, lo chữa trị và nuôi dưỡng cháu lành bệnh, ngày một khỏe mạnh, xinh xắn.

Thực ra, thì sœur quản nhiệm biết bố của Phượng là lính Cộng Hòa, qua lời kể dù không rõ ràng lắm của cháu, nhưng trong thời buổi nhá nhem còn đầy không khí hận thù lúc ấy, sœur luôn dặn dò Phượng phải giấu kín điều này không cho ai biết. Ông Hai Chi làm khai sanh cho con bé, đặt tên Nguyễn Thị Hồng Phượng, để nhớ tới thành phố “Hoa Phượng Đỏ” Hải Phòng, quê hương ông.

Những năm 1978 – 1979, bọn cầm quyền cộng sản muốn đuổi những người Viêt gốc Hoa ra khỏi nước nhằm cướp hết tài sản của họ, bày ra chiến dịch quái đản, được người ta đặt tên là “Ra đi bán chính thức”. Nhờ biết tiếng Hoa và có nhiều kinh nghiệm trong các đường giây mua bán, ông Hai Chi lại được “đồng chí” Mười Vân ( tên trên giấy tờ là Nguyễn Hữu Giộc) , Giám đốc công an tỉnh Đồng Nai móc nối vào tổ chức “đen”, vừa đi tìm những người Việt gốc Hoa giàu có (và cả những người không phải gốc Hoa nhưng chịu chi nhiều vàng để nhận hồ sơ Hoa kiều giả), vừa cho đám đàn em lập ra những toán “lâm tặc” chiếm cứ, làm chủ các khu rừng, chặt hết gỗ quý đóng tàu bán với giá rất cao cho các nhóm người Hoa “ra đi bán chính thức”. Bọn họ mở nhiều xưởng cưa, nhiều cơ sở đóng tàu. Chỉ sau một thời gian ngắn, Hai Chi đã trở thành đại gia, một nhà tư bản đỏ đầy quyền lực.

Bé Hồng Phượng lớn lên theo nhịp độ phát đạt của gia đình ông Hai Chi cùng nỗi cơ cực của một ô-sin. Điều may mắn duy nhất, cũng có thể do ông bà Hai Chi muốn tránh tiếng xấu, Phượng được cho đi học lớp đêm, và nhờ vào tính thông minh cần mẫn, Phượng học rất giỏi.

Điều may mắn khác, nhưng lại trở thành tai họa cho Phượng, là càng lớn Phượng càng xinh đẹp. Năm lên 16, nhan sắc của Phượng đã làm si mê bao cậu học trò. Và người say mê nhất lại là Diệp, thằng con trai duy nhất của ông bà Hai Chi. Diệp lớn hơn Hồng Phượng 3 tuổi và khi ấy đang là sinh viên của Trường Đại Học Bách Khoa. Mỗi lần Phượng ra ngoài, Diệp tìm mọi cách đi theo, ngăn chặn bất cứ gã con trai nào muốn tán tỉnh Phượng, lấy cớ là anh trai của Phượng. Ở nhà, Diệp thường bênh vực Phượng, trách cứ mẹ đã bắt cô em nuôi phải làm quá nhiều công việc.

Chưa bao giờ Diệp tỏ ra mình là một ông anh nhân từ tốt bụng như lúc này. Hơn nữa cậu ta cũng nể nang, tôn trọng nết na hiền thục cùng sự khôn ngoan của Phượng. Bà Hai Chi vốn nuông chiều cậu quí tử nên không dám làm Diệp buồn lòng. Điều này làm bà khó chịu, nhưng đó không phải là điều mà bà quan ngại. Điều lo âu nhất của bà chính là ông Hai Chi, mỗi lần bà bất ngờ bắt gặp đôi mắt của ông chồng say đắm nhìn cô con gái nuôi trong tuổi dậy thì xinh đẹp, cũng là con bé ô-sin của nhà bà.

Ngày xưa, sau khi kết thúc chiến tranh, ông cũng nể nang cái tình bao năm chờ đợi và thương cảm cảnh khổ của bà, nhưng kể từ ngày kiếm ra nhiều tiền, ông tỏ ra uy quyền và lơ là chăn gối với bà. Bà tìm mọi cách để giữ chồng. Nhờ người giới thiệu một số bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ tiếng tăm ở Sài gòn, chịu bỏ ra một số tiền khá lớn, bà là một trong những người Hà Nội 75 sửa sắc đẹp sớm nhất. Nhờ tài năng của mấy ông bác sĩ miền Nam còn sót lại, nhan sắc của bà có khá hơn nhiều lắm, nhưng so với những cô gái miền Nam, thì bà vẫn chỉ thuộc loại hàng phế thải được “tân trang” phần bên ngoài. Không đủ hấp dẫn ông chồng đang trên đà “đổi mới tư duy”

Vốn là con gái của một gia đình cộng sản, và sống bao nhiêu năm dưới chế độ tàn ác man rợ này, bà đã học được biết bao mưu chước và thủ đoạn để hại người. Trước mắt chồng con, bà luôn tỏ ra thương yêu nhỏ nhẹ với Phượng, nhưng trong đầu đang bày mưu tính kế để hãm hại cô bé mồ côi tội nghiệp này.

Ban đầu bà tính tạo cơ hội cho Diệp, thằng con trai duy nhất của bà cướp đi đời con gái của Phượng, để cho ông chồng già chứng kiến, bỏ cuộc, rồi lấy cớ đuổi Phượng đi, nhưng ngẫm nghĩ thấy mưu kế này có thể là con dao hai lưởi, không chừng thằng quý tử của bà mê luôn Phượng và quyết lấy Phượng làm vợ thì quả là tai họa, gậy bà lại đập đúng lưng bà! Không thể nào để con trai một của cán bô đại gia đi lấy con ô-sin. Cuối cùng bà nghĩ tới tay đàn em thân tín của ông. Bà để ý mỗi lần đến nhà, thấy Phượng là anh chàng này như kẻ mất hồn, nhìn chăm chăm vào Phượng rồi bất ngờ giật mình, sượng sùng quay đi chỗ khác. Hắn e ngại vì dù gì Phượng cũng là con gái nuôi của ông Hai Chi. Hắn tên Đạt, thượng úy công an, tay chân đắc lực của gã Mười Vân, giám đốc công an tỉnh, được “đặc phái” tới làm việc bên cạnh ông Hai Chi trong tổ chức “đen”, móc nối đưa người Hoa ra đi và phá rừng lấy gỗ.

Đạt có vợ, một con mang từ miền Bắc vào. Nghe nói cô vợ, trước kia là một “bộ đội gái”, từng mấy năm ở trạm giao liên trên miệt Trường Sơn trong thời “chống Mỹ”, phục viên khi chiến tranh kết thúc, nhưng con vi trùng bệnh sốt rét rừng vẫn còn mai phục trong máu, nên trông khá xanh xao vàng vọt.

Bà Hai Chi biết Đạt mê mệt cả nhan sắc lẫn thân hình của cô con gái nuôi đang độ dậy thì, nên đã dễ dàng dụ chàng ta vào kế hoạch. Hắn ta bất ngờ như trúng số độc đắc cặp mười, đưa tay thề xin hứa sau này sẵn sàng làm bất cứ mệnh lệnh nào của bà. Bà đích thân ra chợ trời tìm mua mấy gói thuốc ngủ. Tổ chức buổi cơm cuối tuần, gọi Đạt đến nhậu nhẹt cùng chồng như mọi khi. Trong bữa ăn, ông Hai Chi, Đạt và cả thằng Diệp thi nhau uống rượu ngoại. Chỉ có bà và Phượng uống nước cam vắt do chính tay bà làm. Trong bếp, bà đã lén bỏ vào ly nước của Phượng mấy gói thuốc ngủ mà bà đã tán nhỏ ra bột. Khuya hôm đó sau khi thấy Phượng thắm thuốc, ngủ say, bà mở cửa gọi Đạt vào để hiếp Phượng. Bà giả vờ vào phòng nằm với chồng, chờ tiếng ho, như là một ám hiệu của Đạt, sau khi đã thỏa mãn cơn dục tình thèm khát bấy lâu nay. Bà chuẩn bị lấy giọng để la lên cho cả ông Hai Chi và thằng Diệp chứng kiến cảnh Phượng đang lõa lồ sau khi ân ái với thằng đàn em thân tín của ông. Bỗng dưng bà nghe nhiều tiếng động và sau đó là một tiếng súng nổ chát chúa từ phòng của Phượng. Không cần gọi, tất cả ông Hai Chi, thằng Diệp và bà vội vàng chạy ùa vào. Một cảnh tượng kinh hoàng. Đạt nằm trần truồng trên vũng máu, còn Phượng nép vào góc phòng hai tay còn cầm chặt khẩu súng K54 sẵn sàng nhả đạn tiếp.

Ông Hai Chi năn nỉ dụ dỗ mãi, Phượng mới đưa khẩu súng cho ông. Nhưng thằng Diệp vội vàng giật lấy khẩu súng từ tay cha với ý định xử tội Đạt. Trong lúc giằng co, một phát đạn nổ, may mắn không gây thêm thương tích. Tay thượng úy Đạt bị thương rất nặng ở vùng bụng, được xe cứu thương chở vào bệnh viện Biên Hòa cứu chữa, sau khi ông bà Hai Chị vội vã mặc áo quần vào cho hắn. Thằng Diệp hò hét chạy theo đòi giết hắn ta. Bà Hai Chi thì rất đỗi ngạc nhiên, cứ nghĩ rằng mấy gói thuốc như vậy, nhất định sẽ làm Phượng say ngủ mê man tới sáng, tại sao lại có thể giật súng bắn thằng Đạt. Sau này, bà nhờ bác sĩ thử nghiệm, kết quả: bình thường. Hóa ra thuốc bán ngoài chợ trời chỉ là thuốc giả.

Tuy Đạt thoát chết nhưng bị cắt đi một khúc ruột và mất khá nhiều máu. Phượng bị bắt giam. Thằng Diệp đòi ra công an làm chứng, tố cáo Đạt chủ động hiếp dâm và Phượng chỉ tự vệ. Nhưng ông bà Hai Chi vừa quyết liệt ngăn cản vừa năn nỉ. sợ mang thêm tai họa. Bà Hai Chi lo lắng bị lộ ra cái quỷ kế ác độc của bà. Còn ông Hai Chi thì nghĩ Đạt là đàn em thân tín của tay Mười Vân, giám đốc công an tỉnh, quyền uy như ông vua một cõi. Đến các “đồng chí” phó bí thư, ủy viên thành ủy còn bị hắn ta lập kế bắt giam năm ngoái. Vả lại tay Đạt cũng chưa làm gì được thì đã ăn đạn rồi. Hắn ta chủ quan, cứ tưởng là Phượng đã say thuốc ngủ. Trút bỏ hết áo quần và cả khẩu “súng ngắn” để trên giường, trước khi đưa hai bàn tay sàm sở lên người Phượng. Chưa kịp bàng hoàng khi bất ngờ bị Phượng đạp mạnh xuống giường thì một phát súng đã nổ vào bụng. Cuối cùng Phượng bị tạm giam để đưa ra tòa án nhân dân, với cái tội “phản động”đã định sẵn. Các báo Sài Gòn Giải Phóng, Thanh Niên cho đăng tải tin tức này theo chỉ thị: “tàn dư Mỹ Ngụy dùng mỹ nhân kế ám sát cán bộ cách mạng”
****
Trận chiến Long Khánh, dưới tài chỉ huy của Tướng Lê Minh Đảo, đại quân CS bị các đơn vị VNCH chặn đánh tan tác. Đặc biệt hai quả bom CBU được thả xuống địa điểm “tập kết” của địch, giết cả hai trung đoàn “sinh Bắc tử Nam”. Mang hận thù này, nên sau khi chiếm được Long Khánh, bọn chúng đã bắn giết dã man bao người dân vô tội, trong đó có mẹ của Phượng. Khi xông vào nhà, thấy tấm ảnh của bố Phượng treo trên vách, mang quân phục và cấp bậc VNCH, chúng đã bắt trói mẹ Phượng dẫn đi. Phượng chạy theo khóc kể, rồi lạc vào một nơi xa lạ đầy những xác người, sợ hãi, không còn biết đường về. Bố của Phượng là sĩ quan thuộc một Liên Đoàn Biệt Động Quân từ Vùng 3 tăng phái cho Vùng 2, bị bắt lúc bị thương trên đường di tản theo Tỉnh Lộ 7B từ Pleiku vào giữa tháng 3.75. Ông bị cầm tù qua rất nhiều trại. Nhiều năm sau không hề biết được tin tức vợ con, ông nghĩ là tất cả đã chết vì biết có những trận đánh lớn tại Long Khánh trước ngày mất nước.

Ngày 2/ 9 năm 1984, ông được thả. Ra tù, ông vội vã tìm về Long Khánh. Ngôi nhà của cha mẹ để lại, nơi vợ con ông đã sống từ ngày sinh ra Phượng, đã bị “cách mạng” tịch thu. Người chủ mới là một gã công an. Khi nghe ông hỏi thăm vợ con mình, những người chủ đích thực của căn nhà này, gã công an trợn mắt nhìn chằm chặp vào ông rồi thốt ra mấy tiếng cộc lốc, lạnh lùng: “tôi không biết, hỏi làm gì?”, bằng giọng đặc sệt Nghệ Tĩnh rất khó nghe. Khi đến trình diện công an xã, ông bị chỉ định về trình diện chính quyền trong một Khu Kinh Tế Mới nằm sâu trong núi để được tạm trú và quản chế. Một nơi ông hoàn toàn xa lạ, không có bất cứ một người thân quen nào.

Ông đón xe đi Biên Hòa, nơi có trại gia binh nằm bên cạnh doanh trại của đơn vị ngày xưa. Chắc chắn là trại gia binh đã bị tịch thu, nhưng hy vọng tìm được người tài xế và vài người lính cũ có thể còn ở lại gần đâu đó. Họ là những người thân thiết cuối cùng còn lại trong đời ông. Ông muốn đến thăm và tìm hiểu tình hình hầu tìm một con đường sống.

May mắn, anh tài xế vẫn còn ở căn nhà cũ phía ngoài trại gia binh. Căn nhà tôn mà trước kia vợ chồng anh đã hốt hai đầu hụi và mượn thêm cả một tháng lương của ông để mua với giá rẻ, mở cái quán nước nhỏ, bán cho anh em lính. Bây giờ cái quán không còn, nhưng anh hành nghề xe ôm với chiếc Honda từ đời 70 còn lại, nên cuộc sống cũng đáp đổi qua ngày. Thầy trò gặp nhau bất ngờ như từ cõi chết trở về, vừa vui mừng vừa cảm động. Anh tài xế ôm chầm lấy ông, bảo hết mình lo lắng cho ông Thầy. Anh bảo vợ và thằng con trai lớn chạy đi báo tin, gọi thêm hai anh em cùng đơn vị cũ còn ở lại trong vùng. Mỗi người góp một tay, làm mấy món nhậu uống mừng được gặp lại ông Thầy.

Men rượu ngà ngà, nước mắt ông cũng đầm đìa vì cảm kích cái tình huynh đệ, và nhớ tới những anh em đồng đội đã vĩnh viễn nằm lại trên con đường 7 B oan nghiệt, tất cả đều chết trong tức tưởi. Bỗng tất cả im lặng hướng về chiếc máy truyền hình nhỏ để trên tủ thờ trước mặt, khi nghe giọng nói sắc máu của người nữ xướng ngôn viên thông báo trực tiếp phát sóng: Tòa Án Nhân Dân tỉnh Đồng Nai xét xử một cô gái mang tội “phản động, âm mưu ám sát cán bộ cách mạng”. Ông há hốc miệng, đôi mắt ráo hoảnh, khi nhìn thấy cô con gái đứng trước vành móng ngựa, hai tay bị còng, phía sau là một đám công an cả nam lẫn nữ mặt mày đằng đằng sát khí. Cô bé giống vợ ông như đúc. Khuôn mặt hiền lành xinh đẹp này ông đã gặp bao nhiêu lần trong giấc mộng, suốt hơn chín năm tù. Không kịp giải thích, ông bảo anh tài xế tìm mọi cách giúp chở ông thật nhanh đến tòa án Biên Hòa, nơi phiên xử mới bắt đầu.

Chỉ hơn 10 phút sau anh tài xế và ông đã có mặt. Phiên tòa đang tiếp tục phần “buộc tội” của một bà được gọi là đại diên Viện Kiểm Sát Nhân Dân. Ông giật mình khi nghe tên cô con gái “thủ phạm” là Nguyễn Thị Hồng Phượng. Đứa con gái duy nhất của ông có tên Nguyễn Lê Tuyết Phượng. Chưa kịp hình dung trọn vẹn hình ảnh người vợ và đứa con gái năm tuổi, khi ông được ba ngày phép về nhà đưa cháu vào bệnh viện mỗ tim rồi vội vàng chia tay lần cuối cùng để ra đơn vị, thì một điều bất ngờ khác làm ông bàng hoàng hơn: Người nhân chứng được gọi lên cung khai có tên là Nguyễn Công Chính, trùng tên với ông anh cả, đã thất lạc trên ba mươi năm, sau ngày ông cùng bố mẹ di cư vào Nam. Khi nhìn kỹ Nguyễn Công Chính bước lên vị trí nhân chứng, ông sững sờ nhận ra ngay, đó đúng là người anh ruột của mình. Dù dung mạo có đổi thay, nhưng ông không thể nào nhầm lẫn được. Với con mắt hơi lồi và hàm răng vễnh của bao năm trước. Lúc còn bé, ông anh còn có tên gọi trong nhà là cu Tun. Ông đứng bật dậy, định gọi lớn tên anh mình, nhưng kịp nhớ ra đang ở trong phiên tòa, và bản thân mình cũng là người tù chưa trình diện nơi quản chế. Lòng dạ rối bời, ông chưa kịp trấn tỉnh để nghe nhân chứng vừa nói điều gì, thì bỗng có tiếng la từ hàng ghế phía trước. Một cậu thanh niên đứng bật dậy, hét to:
-Tôi là Nguyễn Công Diệp đã đủ tuổi để xin làm nhân chứng. Tôi chứng kiến tận mắt, ông thượng úy Đạt định hiếp Phượng, cô em nuôi của tôi. Em tôi chỉ phải tự vệ bằng chính khẩu súng của ông Đạt.
Bất chấp tiếng búa gõ và phản đối ra lệnh ngồi xuống của chủ tọa phiên tòa, cậu thanh niên vẫn tiếp tục:
-Khi bị bắn, ông Đạt nằm trần truồng ngay dưới giường ngủ của em tôi, chứ không phải mặc nguyên áo quần công an như bố tôi vừa nói. Tôi phản đối.

Tất cả nhốn nháo. Có lệnh tạm ngưng phiên tòa, buổi chiều sẽ nghị án. Ông Trực vội vàng chạy tới Phượng, nhưng chưa kịp nói điều gì thì mấy gã công an đã đẩy Phượng đi. Ông chạy ra hành lang tìm gặp Hai Chi. Ông ta bỏ đi trước một mình khi vợ và đứa con trai đang còn lớn tiếng cãi nhau

Khi thấy có người đập mạnh trên vai, ông Hai Chi quay lại, nhưng chưa kịp nhận ra ai. Nước mắt ràn rụa, giọng nói dường như nghẽn lại, ông Trực cố gắng lắm mới thốt ra lời:
-Anh Cu Tun ơi! Em là Trực, Nguyễn Công Trực, em út của anh đây. Cháu Phượng là con gái của em!

Ông Hai Chi khựng lại, sững sờ, trố mắt nhìn. Trời đất như quay cuồng trước mặt khi ông vừa nhận ra đứa em thất lạc đã gọi đúng cái tên cúng cơm của mình mà cả vợ con ông cũng chưa hề biết. Ông kéo tay ông Trực ra xa, đến dưới một bóng cây bên kia đường vắng. Trời đang vần vũ một cơn mưa. Cả hai đều chưa biết tung tích của nhau, nhưng riêng ông Trực thì đã đoán ông anh của mình phải là một cán bộ cộng sản cao cấp, với cái vẽ bệ vệ của ông cùng sự sang trọng của bà vợ và đứa con trai. Một cảm giác rờn rợn lẫn một chút xót xa thoáng qua trong đầu ông Trực. Ông Hai Chi căn dặn Trực tạm thời đừng tiết lộ điều gì với vợ và con trai ông. Bởi vợ ông là một người cộng sản thực thụ, có thể gây bất lợi cho em mình. Ông sẽ bảo vợ, Trực là một đàn em thân tín nhưng hoạt động trong bí mật.

Đưa Trực về nhà. Cả một buổi trưa, ông Hai Chi tưởng mình như đang rơi xuống chín tầng địa ngục. Ngoài trời mưa tầm tã, nhưng trong lòng ông nóng còn hơn lửa đốt. Ông nhắm mắt ngữa mặt lên trần nhà khi nghe người em của mình cho biết:
-Bố mẹ đã chết trong Tết Mậu Thân do pháo kích của các anh. Em bị các anh bắt giam cầm hành hạ hơn 9 năm trời, tưởng đã bỏ xác trong tù, vợ em có lẽ cũng bị các anh giết tập thể ở Long Khánh, và cháu Phượng là đứa con duy nhất của em, mới mấy tuổi đầu mà phải bị ức hiếp tù đày.

Là một người Cộng sản “theo thời thế”, ông Chính vẫn còn ít nhiều cái gốc tiểu tư sản. Một chút lương tâm còn sót lại bỗng làm ông bật khóc. Thực ra thì ông cũng đã từng bao lần khóc thầm, khi suýt bỏ mạng ở các chiến trường Hạ Lào, Tây Nguyên, chứng kiến những cái chết kinh hoàng và vô nghĩa của hàng vạn thanh niên nam nữ từ miền Bắc bị cưỡng bách đi B. Vài lần thoáng hiện trong đầu ông hai chữ “hồi chánh”, nhưng phân vân vì khi ấy vợ con ông ở ngoài Bắc, chắc chắn sẽ phải khốn khổ với đám cường quyền. Ý tưởng chưa ngã ngũ thì chiến cuộc kết thúc nhanh chóng đến bất ngờ. Ông tiếp tục “nín thở qua sông”, cố đóng cho thật khéo vai trò “đảng viên trung kiên”, để hưởng cho tròn cái lợi danh của người “bên thắng cuộc”.

Buổi chiều, phiên tòa tái nhóm. Ông Hai Chi xin được phản cung, thay đổi lời khai nhân chứng. Là một đảng viên có chức quyền, lại là bạn thân của “đồng chí” Mười Vân giám đốc ông an tỉnh, ông cũng được mấy ông bà “quan tòa” vị nễ. Nhưng tất cả đều ngỡ ngàng khi nghe ông tuyên bố:
-Lời nói của cậu con trai tôi sáng nay là đúng. Chính đồng chí thượng úy Đỗ Hữu Đạt đang thực hiện ý đồ hiếp dâm cháu Nguyễn Thị Hồng Phượng, là con gái nuôi của chúng tôi, còn đang tuổi vị thành niên. Với tư cách là một đảng viên và cán bộ nhà nước, tôi cam kết những lời xác nhận này là hoàn toàn chính xác. Sáng nay, vì muốn giữ danh dự cho chiến sĩ ngành công an, tôi có ý che giấu cho anh Đạt, nhưng rồi tôi đã kịp nghĩ ra, làm như vậy trước tòa là phạm pháp, có tội với đảng, với nhân dân.

Bà Hai Chi tròn mắt ngạc nhiên, tức giận, trước thái độ thay đổi bất ngờ của ông chồng.Tay thượng úy Đạt được tòa gọi đứng lên đối chất. Hắn ta không phản biện, vì biết tội đã quá rõ ràng, nhưng lại trút tội lên đầu bà Hai Chi. Hắn ta khai ra tất cả kế hoạch bỉ ổi của bà. Nội vụ lại chuyển sang một hướng khác, hoàn toàn ngoài dự trù của Viện Kiểm Sát. Phiên tòa tạm ngưng để tiếp tục điều tra.

Không khí trong nhà ông Hai Chi trở nên ngột ngạt, nhưng ông Trực cố nán lại đây để mong được sớm gặp con gái của mình và cũng tránh bị xét hỏi giấy tờ. Ông Hai Chi đích thân làm đơn bảo lãnh Phượng được tại ngoại. Cha con gặp nhau trong ngỡ ngàng. Phượng không nhận ra cha mình. Nhưng huyết thống phụ tử rất nhiệm màu, hơn nữa khi nghe ông Trực bảo “phía dưới ngực bên trái của con có một vết sẹo dài khi con mỗ tim”, Phượng òa khóc và ôm chặt lấy cha. Trong lòng Phượng như vừa mới nở ra một đóa hoa tươi thắm nhất.

Giữa tháng 10/ 1984, khi phiên tòa chưa tái nhóm thì tại tỉnh Đồng Nai xảy ra một biến cố lớn, làm xôn xao cả nước, đặc biệt đối với dân chúng miền Nam, sau hơn chín năm vẫn chưa kịp nhận ra hết bộ mặt thật của những người cộng sản:

Mười Vân Nguyễn Hữu Giộc, đảng viên cao cấp, con hùm xám Nam Bộ một thời, đang là Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai bị bắt. Đích thân “đồng chí” bộ trưởng công an, âm thầm đưa cả một lực lượng công an chuyên nghiệp và tin cẩn từ Hà nội vào Sài gòn lập kế bắt Mười Vân ngay trong phòng họp. Lục soát tư dinh và nhiều nơi khác, công an tịch thu hơn hai ngàn cây vàng và cả trên 500 kg vàng cùng hột xoàn các loại.

Ngày 1.11.1984, một phiên tòa đặc biệt được khẩn cấp triệu tập tại thành phố Biên Hòa, dưới sự “chủ trì” và xét xử của Viện Kiểm Sát Nhân Dân và Tòa Án Nhân Dân Tối Cao. Phiên tòa đặt dưới sự chỉ đạo nghiệp vụ của “đồng chí” Trần Quyết, Bí Thư Trung Ương Đảng, Viện Trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao.

Mười Vân bị xử tử hình. Bản án sơ thẩm cũng là chung thẩm, được thi hành cấp kỳ sau một tuần tại trường bắn Long Bình.

Lần đầu tiên báo chí tại Sài gòn được đăng tải tin tức phiên tòa mà thủ phạm là một ông lớn, đảng viên cao cấp. Người ta cũng biết được có những chiếc tàu chở người Hoa đã bị bỏ đói, nhận chìm, ngoài bờ biển Cát Lái, Rạch Giá ,Phú Quốc và vài nơi khác ở miền Trung, làm chết rất nhiều người. Và khắp cả nước bàn tán về chuyện cướp bóc, tham nhũng, ăn chia không đều giữa những người cộng sản!

Sau đó nhiều phiên tòa đặc biệt khác được tiếp tục, xử những người đồng lõa, trong đó có cả mấy ông bà trong Tòa án nhân dân Đồng Nai. Nhờ đó, vụ án của Phượng bị bỏ quên, không còn ai nhắc tới. Nhưng ông Hai Chi và cả tay thượng úy công an Đỗ Hữu Đạt lại dính vào vụ án lớn. Bởi cả hai đều là cánh tay đắc lực của gã Mười Vân.

Biết không thể nào vượt qua số phận, ông Hai Chi tự động đến trình diện trưởng ban điều tra của “ban chuyên án”, và xin giao nộp 800 cây vàng, ông khai là Mười Vân nhờ giữ hộ. Và cũng nhờ ông khai thêm những đường giây làm ăn của Mười Vân, nên ủy ban bắt thêm một số đàn em, trong đó có thượng úy công an Đỗ Hữu Đạt, tịch thu thêm cả ba ngàn cây vàng, gồm cả 800 cây được giấu kỹ dưới hồ nước sau nhà một đàn em thân tín của Mười Vân, phải điều xe cần trục câu lên.

Tất nhiên với dạn dày kinh nghiệm, ông Hai Chi kịp thời tẩu tán một số vàng. Ông vội vàng móc nối một đường giây quen biết cũ, tung vàng ra để gởi cha con ông Trực, dắt theo Diệp, thằng con trai duy nhất của ông vượt biển khẩn cấp ra khỏi nước.

Nhờ tàu Cap Anamur cứu vớt trên biển, bố con ông Trực và Diệp được đến định cư tại Tây Đức.
***********

Mùa Hè năm 1990, trong một dịp sang thăm người bạn thân cùng tù Hoàng Liên Sơn lúc trước, tôi được gặp anh Nguyễn Công Trực, một cựu sĩ quan Biệt Động Quân, là bạn láng giềng thân thiết với người bạn tù của tôi. Anh đã kể cho tôi nghe về những ngày cuối cùng của đơn vị anh trên Tỉnh Lộ 7B – từ Pleiku di tản xuống Tuy Hòa, và cả câu chuyện trùng phùng bi thảm này. Tôi cũng được nói chuyện với cháu Phượng, cô con gái hiền thục xinh xắn của anh, vừa mói tốt nghiệp dược sĩ. Chúng tôi cũng đến thăm cậu Diệp, con trai của ông bà Hai Chi, cũng là cháu ruột của anh. Diệp đang sống chung với cô vợ người Đức và đứa con trai hai tuổi.

Tôi cũng được biết ông Hai Chi, nhờ “thành khẩn khai báo”, nên được hưởng khoan hồng với hai mươi năm tù. Vợ ông, bà Hai Chi bị án sáu năm tù về tội đồng lõa và tàng trữ vũ khí, vàng bạc phi pháp. Bà chết trong tù sau hai năm thụ án, do chính tay công an Đỗ Hữu Đạt, người bị giam cùng trại, đánh lén bằng cuốc trong giờ lao động, để trả mối thù xưa. Hắn ta nghĩ rằng chính bà đã lập mưu để hại hắn, chứ Phượng không hề bị bà cho uống thuốc ngủ. Hắn ta cũng nghi ngờ ông Hai Chi đã khai hắn là tay chân đắc lực của Mười Vân, đã từng giết người bịt miệng, nên nhà cửa bị tịch thu cùng với bản án bốn mươi chín năm tù.

Và sở dĩ có phiên tòa và vụ án làm xôn xao cả nước thời ấy, hoàn toàn không phải chống tham nhũng mà chỉ vì bọn chúng không ăn chia đồng đều. Tay Mười Vân đã dành riêng cho mình một số vàng quá lớn, và từng làm mưa làm gió, qua mặt đám đàn anh, không còn xem trung ương ra thể thống gì.

Về sau tôi còn biết thêm: Sau khi ông Hai Chi giảm án ra tù, được con trai bảo lãnh sang Đức. Nhưng ông đã quẫn trí, thường ngồi thẫn thờ nhìn lên trời cao, lúc khóc lúc cười. Ông qua đời năm 2006.

CON ĐƯỜNG DÁT VÀNG SJC Ở THỦ THIÊM!!!

 
 

“Chưa bao giờ đất nước được như hôm nay?
Người dân việt chưa bao giờ hạnh phúc được đi trên con đường dát vàng?!!!”
*************

CON ĐƯỜNG DÁT VÀNG SJC Ở THỦ THIÊM!!!

12km ngốn hết 12 nghìn tỷ đồng = 530 triệu US đô la.

Có nghĩa dân Việt được đi trên con đường trị gía đến 44 triệu Mỹ kim cho 1 cây số, mà trên thế giới chưa có dân tộc nào được hưởng!!!

Image may contain: mountain, cloud, sky, outdoor and nature
Image may contain: sky and outdoor
 
Comments
Thi Ty Nghiem Dân VN được hưởng phúc lợi mà dân trên toàn thế giới đều nghiêng mình xách dép chạy càng nhanh càng tốt

HongDiep Tran   Đường đi đến thiên đàng