ÔNG SƯ NHÀ QUÊ – VŨ VĂN QUÝ

VŨ VĂN QUÝ

( Một tấm gương tốt lành rất đáng tôn vinh.)         

ÔNG SƯ NHÀ QUÊ

   “Tưởng niệm cố Hòa Thượng THÍCH THANH LONG –
một cựu Tù Nhân Chính Trị – nhân giỗ mãn phần 28 năm ( 29/11/1991 – 2019).”

BÀI CA KINH HÒA BÌNH
VŨ VĂN QUÝ

Tôn giáo nào cũng có những vị chân tu – những bậc lành thánh – suốt đời hiến thân cho lý tưởng thiêng liêng cao cả của mình đã chọn. Nhiều vị đã cùng sống chết với tha nhân và chết cho đạo pháp và trở nên hiển thánh được đời sùng bái tôn thờ chẳng hạn như thánh Maximilian Kolbe… (*). Tấm lòng vị tha chan chứa tình người của họ tỏa ra vô biên không vị kỷ, không đóng khung hạn hẹp ở lằn ranh tôn giáo. Biết bao công đức của họ được truyền tụng từ thế hệ này qua thế hệ khác được kể lại bằng những câu chuyện đầy cảm kích. 

Cách nay gần 3 thập niên trên tờ Đất Mẹ số 38 (Đất Mẹ là tờ báo nguyệt san Công Giáo) chúng tôi đã viết dưới đề tựa ” Nén Hương Cho Hòa Thượng THÍCH THANH LONG” ngay sau khi ngài viên tịch tại Sài Gòn. Từ sau ngày ấy đến nay, nhiều báo Việt ngữ tại Hoa Kỳ cũng có những bài viết về ngài, điểm đáng chú ý là những tác giả này đa số là những tù nhân chính trị người Công Giáo trong đó có một số các vị linh mục đang có mặt tại Hoa Kỳ, những người đã một thời sống cùng với cố hòa thượng ở các trại tù từ Nam chí Bắc, tất cả đều tỏ lòng tôn kính, ngưỡng phục. 

Tang lễ cố Hòa Thượng THÍCH THANH LONG  được mô tả như một đám rước hết sức trọng thể. Đoàn người tham dự đã phủ kín con đường dài 5 cây số từ cổng Chùa Giác Ngạn đường Trương Minh Giảng Sài Gòn tới Nghĩa Trang Bà Quẹo không chỉ gồm các đoàn thể Phật tử, các thiện nam tín nữ mà có mặt đủ mọi thành phần tôn giáo cũng như rất đông đảo các cựu Tù nhân Chính trị. 

Trước năm 1973, Hòa Thượng mang cấp bậc Trung Tá làm Phó Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo cho đến khi thượng tọa Thích Tâm Giác đi Nhật bản trị bệnh thì Hòa Thượng mới lên làm Giám Đốc và cũng được thăng cấp Đại Tá tuyên úy từ dạo đó. 

Ngày 13/6/1975 bị việt cộng bắt đi cải tạo và đem ra Bắc. Đến ngày 12/9/1987 được tha trở về lại Chùa Giác Ngạn Sài gòn và mãn phần tại đây. 

Ngược dòng thời gian gần 3 thập kỷ, năm ấy cũng vào mùa thu (1982), trại cải tạo Hà Tây tiếp nhận thêm khoảng 80 tù nhân chính trị (TNCT) từ trại tù Thanh Phong chuyển đến. Đa số thành phần thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị gồm các ngành Tâm Lý Chiến, An Ninh Quân Đội và Tuyên Úy của Quân Lực VNCH. 

Trại Hà Tây có tất cả 12 buồng giam. Số TNCT mới đến bị nhốt trong buồng số 7. Buồng này rất kín cổng cao tường bao quanh chằng chịt kẽm gai vì trước đó được dùng để nhốt các tù hình sự có trọng án nên được canh gác cẩn mật. Việt cộng coi những TNCT này là những đối tượng cực kỳ nguy hiểm. Khoảng một tháng sau khi được thanh lọc kỹ càng  thì việt cộng mới mở cửa cho đội Tuyên Úy ra ngoài lao động; tuy vậy buồng 7 vẫn chưa được ra sân lớn tập họp điểm số như các buồng khác. Đội Tuyên Úy lúc này do linh mục Nguyễn Quốc Túy – cha Túy là cựu Thiếu Tá Biệt Động Quân, một mẫu người trẻ năng nổ, ứng phó thần kỳ đã được các vị tu sĩ cử ra đứng mũi chịu sào để điều động đội này xử trí với những thủ đoạn thâm độc của việt cộng. Công việc chính của đội tuyên úy lúc đó là đào đất đắp đường và kéo xe thay thế trâu bò.

Lần đầu tiên tôi được cha Túy mời dự bữa cơm trưa thân mật tại sân buồng 7. Có khoảng chục người trong đó có linh mục Khổng Tiến Giám bào đệ của linh mục Khổng Tiến Giác tuyên úy Bộ Tổng Tham Mưu, linh mục Nguyễn Văn Thịnh cựu giám đốc nha tuyên úy Công giáo, các mục sư Xuân, Điểu Huynh và các đại đức Tâm, Khuê, Tùng và hòa thượng Long. Ngoài đội tuyên úy chỉ có 2 khách mời là tôi và Đại tá Trần Mộng Chu nha Quân Pháp. Hầu như không phân biệt tôn giáo và cấp bậc, tất cả các vị tuyên úy đều xem hòa thượng Thích Thanh Long như một người anh cả và xưng hô một cách chung chung là thầy Long. Mỗi khi nhắc đến thầy Long thì mọi người đều nói về thầy với niềm kính ái trọng vọng. 

Thoạt đầu khi chưa giới thiệu từng người trong bữa tiệc, tôi ghé vào tai cha Túy hỏi có phải người ngồi trước mặt cha là Thầy Long không thì cha lắc đầu. Cung cách bề ngoài và bộ quần áo mới màu đà còn tươi của vị này làm cho tôi lầm ông với hòa thượng Long. Rồi cha chỉ cho tôi người ngồi đối diện với tôi. 

Vóc gầy gò, dong dỏng cao, da ngăm ngăm, hàm răng nhỏ và đen huyền, tóc cạo đúng tiêu chuẩn sư tăng nhà Phật, mặc bộ đồ cũ đơn sơ, khuôn mặt hiền hậu nhưng khắc khổ, toát ra vẻ chân tu như thánh Găng Đi nhất là cặp mắt sáng, sâu, đen láy, rất ít nói nhưng quan tâm lắng nghe mọi người xung quanh. Đó là người ngồi đối diện với tôi. Người đó chính là Thầy Long. Tôi nhìn ông khẽ cúi đầu và ông nhìn tôi với đôi mắt hiền từ trìu mến. Ông đã trao cho tôi một nụ cười thật kín đáo.

Tháng 3/1983, trại Hà Tây sắp giải thể và chuyển hết các TNCT về Nam Hà. Các vị Tin Lành và Phật Giáo được phân tán về các đội lao động. Riêng các tuyên úy Công Giáo chờ phương tiện chuyển ngược về trại tù Thanh Phong. 

Năm 1985, tôi và thầy Long bị giam chung  tại Nam Hà và chính thời gian này tôi được biết thầy nhiều hơn. Có những người đã biết và nói rằng trước ngày di cư từ Bắc vào Nam năm 1954, thầy đã trụ trì tại một ngôi chùa ở một làng tại tỉnh Nam Định và được đông đảo tín hữu mến mộ. Nhiều đêm tâm sự với thầy trong buồng giam, tôi cố gợi chuyện để biết thêm nhưng thầy là người điềm đạm khiêm tốn chỉ kể với tôi là thầy xuất gia đầu Phật từ lúc 12 tuổi. Quyết tâm tu hành, không muốn vương vấn nợ trần, thầy đổi tên là Nguyễn Văn Long và hầu như hoàn toàn không ai biết được tên thật và quê quán của thầy. Thầy thuộc nhiều địa danh ở Nam Định, khi tôi kể chuyện liên quan đến những vùng Cổ Lễ, Cổ Ra, Văn Tràng, Trực Ninh, Nam Trực, Quần Phương, Lạc Quần v.v. thì bỗng nhiên đôi mắt thầy rực sáng lên và có vẻ thích thú. Tôi đoán có lẽ thầy đã trải qua thời thơ ấu tại một trong những địa danh này chăng? 

Thầy nói năm 16 tuổi, thầy chỉ lén về nhà nhìn mặt thân phụ của mình từ trần rồi lại lặng lẽ ra đi. Lý tưởng của thầy là Phật pháp, tình yêu của thầy là tha nhân, thân bằng quyến thuộc của thầy là Phật tử. Thầy có một cuộc sống vô cùng mộc mạc, đơn sơ, đức độ, lúc đi tu cũng như lúc ở tù. Thầy thường nói với tôi : “Tù cũng là tu”. Vốn có một tâm hồn thanh tịnh như đóa sen nở trên mặt hồ không gợn sóng lúc nào cũng toát vẻ chân tu khiến người bàng quan thấy thầy là cõi phúc. Lúc nào thầy cũng tự nhận mình là một “Ông Sư Nhà Quê”.  Đúng như vậy. 

Trong thời kỳ đói khát, tù nhân chưa được gia đình tiếp tế thăm nuôi đã có kẻ lấy chiếc lon ghi gô đựng nước uống của thầy nhét đầy thịt heo đánh cắp của trại, lúc bị phát giác không ai dám nhận. Cuối cùng để tránh phiền lụy cho một số người, thầy không ngần ngại đứng ra nhận chiếc lon đó là của thầy mặc dù ai cũng biết thầy ăn chay trường và kẻ nào là tên ăn trộm lúc bấy giờ. Khi nào trại cho tù nhân chút ít thịt để “bồi dưỡng”, thầy thường nhường cho các anh em đau ốm bệnh hoạn.

Đến khi được thăm nuôi tiếp tế, Phật tử khắp nơi đến thăm thầy hầu như hàng tuần. Những quà tiếp tế, thầy đem chia cho các bạn tù. Quần áo chỉ giữ 2 bộ. còn bao nhiêu cũng đem cho hết. Thầy thường xuống bệnh xá thăm viếng những người đau ốm và đem quà bánh thuốc men  xuống cho họ. Thầy rất quan tâm đến những “con bà phước” (**) bị bỏ quên trong trại. 

 Một vài trường hợp điển hình:

– Anh Khương, Phó Quản Đốc Trung Tâm Cải Huấn Côn Sơn – một người Công Giáo – bị địch bắt ngay trong lúc còn đang mặc sắc phục và bị việt cộng đánh nhừ tử. Hậu quả của những trận đòn thù khiến anh Khương trở thành bại liệt, á khẩu, tay chân co rút. Anh bị mất liên lạc với gia đình từ ngày bị bắt. Gần 13 năm, anh mới bập bẹ nói được một tiếng “dôi, dôi” như đứa trẻ mới tập nói. Thầy Long đã đích thân chăm sóc đút cơm, tắm rửa cho anh Khương như một người thân, đặc biệt là khi trại đọc lệnh tha nhưng anh không biết về đâu và không thể đi được một mình. Chính thầy Long đã giúp anh một số tiền và nhờ đại đức Tâm được tha cùng một lượt với anh Khương về trước tìm kiếm thân nhân của anh ở tận miền Tây để ra đón anh. 

– Anh Nguyễn viết Tân, Đại tá hải quân QLVNCH bị bán thân bất toại và bệnh nặng trong lúc mọi người ai nấy đều lo cho bản thân mình và tình thương giữa con người đã trở nên mệt mỏi thì thầy Long cũng chính là người tình nguyện chăm sóc anh Tân cho đến khi anh được người nhà ra đón kịp  về rồi chết. 

Một trường hợp khôi hài khác là ở trong trại có một anh tên Nguyễn Huệ, “vô tông tích” tự xưng là trung tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 23B (?). Có một thời gian anh ta bị giam chung với các tướng lãnh QLVNCH nhưng sau việt cộng phát giác “tướng Nguyễn Huệ”  chỉ là một tên điên khùng  và bị loại ra khỏi đội. Thấy thầy thương người và dễ dãi, “tướng Nguyễn Huệ” thường hay chạy theo quấy quả xin xỏ cơm và thuốc lào. Hễ trông thấy anh ta là thầy tủm tỉm cười, thầy không hề tỏ vẻ khó chịu và còn đi kiếm thuốc lào cho anh ta, tuy thầy chẳng bao giờ hút thuốc. 

Tù nhân được tha dần nhưng vẫn còn tồn đọng một số khá lớn trong đó có các đại đức Tâm, Khuê, Xuân, Tùng, Trí, Bình, Ngự, Học, Diệu v.v. Mỗi lần thầy Long được thông báo có thăm nuôi thì các vị này đã sắm sẵn bao bị và tận tình giúp đỡ thầy. Thầy thường nói : ” Hôm nay tôi lại có thánh Veronica đến thăm nuôi “. Đây cũng là dịp thầy tập họp các tu sĩ Phật giáo ở trong trại tù để phân công đi thăm viếng bệnh nhân hoặc cắt cử họ đến tụng kinh và cầu siêu mỗi khi có người tạ thế.

Vào các dịp lễ Noel hay Tết âm lịch, thầy cũng dành dụm chút gạo, đậu xanh, đường tán và khởi xướng việc nấu chè ăn chung cả buồng mang niềm vui nhỏ bé đến cho mọi người và còn dốc hết “hầu bao” giúp các anh em nghèo đói nhất trong trại. 

Thầy rất thích nghe tôi đánh đàn và kể chuyện cuộc đời thánh Phanxicô Khó Khăn (Francis 0f Assisi) nhất là những câu hát ý nghĩa thâm thúy trong Kinh Hòa Bình. Cứ vào mỗi sáng sớm Chủ Nhật được nghỉ lao động, trong khi tất cả mọi người còn nằm trong mùng thì thầy đã đánh thức tôi và khẽ nói : “Ông Quý ơi ! Dậy cho anh em nghe đàn đi !” Thế rồi âm thanh của chiếc đàn gỗ tự tạo ở trong tù của tôi nhè nhẹ vẳng ra tiếng thay lời trong âm giai cung Mi buồn ” Lạy Chúa từ nhân, xin cho con…..” hầu như không làm cho ai khó chịu cả. 

Tấm lòng cao quý của thầy sáng như ngọn đuốc trong trại tù tăm tối, không những đối với các bạn tù chính trị mà còn lan tỏa  đến cả những tù hình sự giam chung cùng trại. 

Như một tấm huy chương vô giá mà trên cõi đời này không thể đem ra so sánh được, thầy đã đối diện với bọn cai tù khát máu, trước họng súng AKA mà không hề nao núng và không sợ chết. Thầy đã được các vị tuyên úy Công Giáo ca ngợi vì đức bác ái và lòng hỷ xả, quên mình và chấp nhận những gì bất hạnh xảy đến. Trong cuốn AKA và Thập Giá của linh mục Phan Phát Huồn, Dòng Chúa Cứu Thế trang 107-108 kể chuyện đám tang của Cha Nguyễn Văn Bản, Dòng Đa Minh, tuyên úy Tổng Y Viện Cộng Hòa chết tại trại giam Yên Bái. Sau khi chôn cất, việt cộng bắt các tù nhân cải tạo lên lớp hội thảo để lên án và làm nhục người đã chết. Chúng vu cáo cho Cha Bản là một tên ác ôn côn đồ, chạy theo Mỹ Ngụy giết hại đồng bào, một tên có nợ máu đối với nhân dân, một tên lường gạt vv.. Nghe tên Nha, công an việt cộng lải nhải nhục mạ một người đã khuất mà người đó vốn là một người đạo đức gương mẫu, không dằn nổi sự bất bình, thầy Long đã đứng lên bênh vực bằng một giọng ôn tồn nhưng cương quyết : 

” Tôi được biết Linh Mục Bản ngoài xã hội cũng như ở trong trại cải tạo là một con người đạo đức, được mọi người kính nể…” Tên việt cộng hống hách nạt nộ:

” Anh im mồm ngay. Anh Bản đã bị nhà nước cách chức linh mục của anh ta từ ngày anh bước chân vào trại cải tạo, còn anh, anh đừng có hòng đem cái bọn cha cố vào đây mà hù dọa cách mạng…”  nhưng thầy Long đâu có chịu im. Đợi cho tên việt cộng vừa dứt lời thì thầy nói tiếp:

” Nếu linh mục đều như cán bộ nói thì làm sao dân chúng tin tưởng và kính mến họ. Mặc dù  cán bộ đã cấm các trại viên gọi các linh mục là Cha và tự xưng mình là con, trại viên nào không tuân thì sẽ phải xử lý, nhưng thưa cán bộ, có ai chấp hành lệnh đó không? Trái lại, đối với công chức nhà nước, trước mặt họ gọi là cán bộ nhưng sau lưng họ gọi bằng thằng việt cộng thì cán bộ nghĩ sao?” 

Như một con hổ bị trúng đạn, hai mắt hắn đỏ ngầu giận dữ, nhảy chồm tới nhìn trừng trừng vào thầy Long, quát thật lớn văng cả nước miếng vào mặt người đối diện và hắn ra lệnh:

“À anh này hỗn thật, yêu cầu các đồng chí đem cùm tên này cho tôi, biên bản sẽ làm sau.” 

Thầy Long vẫn tiếp tục nói một cách hùng hồn cho đến lúc lính cảnh vệ việt cộng mang AK xông tới còng hai tay ông, ông không tự bênh vực cho mình, ông vẫn bình thản đưa hai tay cho chúng còng để chúng đem đi. Đây thật là hình ảnh một con chiên hiền lành đứng trước kẻ xắn lông mình mà không nói lời than trách như đã được diễn tả trong Kinh Thánh. (Cv.8.32-33). 

Cuối năm 1987, thầy Long được tha về. Cởi bỏ chiếc áo chàm cải tạo, thầy lại khoác chiếc áo màu đà. Từ khi trở về Chùa Giác Ngạn, thầy không giữ chức trụ trì như trước, thầy sống trên căn gác xép tại góc vườn nhưng hàng ngày rất đông người đến thăm viếng và ngôi chùa được trùng tu lại, trở nên đẹp đẽ khang trang hơn cũng nhờ uy tín và sự quan tâm của thầy. Hầu như ai cũng cảm mến gương hy sinh, lòng can đảm, tánh cương trực của thầy Long. Có những vị Linh Mục không đi cải tạo mà chỉ nghe tiếng thôi cũng muốn đến thăm thầy Long tại Chùa Giác Ngạn. Tôi hỏi Cha Vũ Ngọc Trân, Chánh Xứ Chu Hải tỉnh Phước Tuy, cha nghĩ thế nào khi đến thăm Hòa Thượng Thích Thanh Long tại Chùa Giác Ngạn? Cha đã trả lời một cách không dè dặt: ” Tôi nghĩ Chúa sẽ thưởng công cho bất cứ ai biết khao khát trọn lành, thương người và giúp đỡ bênh vực người. Chúa nói kẻ nào giúp đỡ người đều có công trước mặt Ta. Tôi nghe các cha tuyên úy đi cải tạo về có nói nhiều về ông. Tôi cũng mến mộ ông và việc tôi đến thăm cơ sở một tôn giáo khác đâu có gì làm suy giảm đi lòng kính mến Chúa nơi tôi đâu. Nếu nói đó là một hình thức trao đổi văn hóa thì cũng chẳng sao!” (Cha Đa Minh Vũ Ngọc Trân cũng đã qua đời tại Xứ Chu Hải Bà Rịa ngày 24/2/1992). 

Trong thời gian chưa mắc bệnh ung thư nơi xương tọa, phương tiện chính của thầy trong thành phố là “xe đạp ôm”. Thầy thường ngồi trên “poóc ba ga” phía sau để cho một chú tiểu chở đi. Người ta thấy thầy xuất hiện ở nhiều nơi và tình thương của thầy dường như vẫn đặc biệt dành cho bạn tù cải tạo còn trong trại giam hoặc đã được tha về. Khi biết có ai đi xuống trại Z30D thì thầy cũng nhắn lời thăm hỏi, có đôi lúc  thầy gửi một cần xé chôm chôm hoặc vài thùng mì gói xuống phân phát cho anh em chưa may mắn được về sum họp với gia đình. Khi nghe tin có người vừa mất, bất luận ở đâu, không phân biệt tôn giáo, nơi cầu siêu hay chốn làm phép xác, tại chùa hay nhà thờ thánh thất, thầy cũng đều có mặt để phân ưu với gia đình người quá cố, thầy không ngần ngại đến vì “nghĩa tử là nghĩa tận”. Tôi đã gặp thầy và cùng đứng chung với thầy dưới gốc cây xoài trước tượng đài Đức Mẹ trong khuôn viên Nhà Thờ Ba Chuông để chờ tiễn đưa linh cữu của cố Trung Tá Nguyễn Thủy Chung và cố Trung Tá Nguyễn Anh Ly mất vào những năm 1989-1990. 

Rất nhiều cựu TNCT nay đang có mặt tại Hoa Kỳ hoặc định cư rải rác trên khắp thế giới vẫn nhắc đến thầy Long. Ký giả Lô Răng tức cố Trung Tá Phan Lạc Phúc và Trung Tá nhà văn Hoàng Ngọc Liên, Ký giả Vũ Ánh… cũng có những bài viết rất sâu sắc về thầy.                                                                    

                                                    *    *     *

Tôi chẳng có tư cách gì và cũng chẳng dám đưa ra nhận xét nào để “phong thánh” cho một con người mà tôi quen biết trong một thời gian hạn hẹp. Dưới nhãn quan của một tín đồ Công Giáo, dù sao tôi cũng chỉ là một chứng nhân với biểu kiến riêng, tôi xem Hòa Thượng Thích Thanh Long là một tấm gương rất tốt lành, đáng kính và đáng tôn vinh mà thời đại ngày nay thắp đuốc giữa ban ngày đi tìm cũng khó kiếm. Một người đã hy sinh tất cả để trọn đời đi theo con đường giống như của thánh Phanxicô Khó Khăn tác giả bài ca KINH HÒA BÌNH đã đi. 

Thầy Long luôn đề cập KINH LỤC HÒA trong Diệu Pháp Liên Hoa cho các đệ tử. Chính vì thế mà thầy rất thích KINH HÒA BÌNH của thánh Phanxicô lúc ở trong tù thì sau này tôi mới nghiệm ra vì nó ẩn chứa những điều uyên thâm sâu xa nói về đức bác ái và lòng từ bi cũng giống như KINH LỤC HÒA. Tôi không ngờ thầy Long lại là một người bạn tri âm của tôi và ngày nay mỗi khi dạo nhạc hát lên bài ca KINH HÒA BÌNH tôi lại nhớ đến thầy. 

Từ cõi bên kia, tôi tin rằng thầy đang mỉm cười và chăm chú lắng nghe tôi hát:

“Lạy Chúa từ nhân! Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm…”  

Tôi sẽ nhớ thầy mãi mãi cùng với bài ca KINH HÒA BÌNH trong tiếng tơ đồng của cung Mi buồn. 

VŨ VĂN QUÝ

(*) Cha Nguyễn Quốc Túy hiện nay làm cha xứ Tân Thái Sơn tại Sài Gòn.

(*) Con bà phước: tù nhân mồ côi, không người thăm viếngthiếu thốn.


 

Hồi xưa chợ Thủ Đức không có ngập…

Nguyễn Gia Việt

 Chợ Thủ Đức là một khu chợ cổ gắn liền với sự hình thành và phát triển của vùng đất Thủ Đức từ thuở lập ấp, lập làng đến hôm nay.

Hồi xưa chợ Thủ Đức không có ngập, ngập lút là của hôm nay khi quy hoạch chung quanh đã bít đường nước, hướng dòng nước mưa tập trung vào chợ Thủ Đức như cái ao.

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài – Tác giả: Phùng Văn Phụng

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Nhân đi tham dự Thánh lễ tạ ơn của anh Dương và chị Trâm mừng 25 năm thành hôn, tôi có cảm nghiệm rằng vợ chồng sống với nhau được 25 năm, 30 năm hay 50 năm hay hơn nữa không phải dễ nhất là thời đại ngày nay thường nghĩ đến cá nhân nhiều hơn, một chút bực mình, dễ gây tự ái, rồi không nhường nhịn nhau được, đành chia tay, chưa kể một trong hai người vợ hay chồng ra đi sớm vì bịnh hoạn, tai nạn v.v. . .

Chia sẻ trong Thánh lễ tạ ơn này đa số người đến tham dự đều công nhận vì “cái tôi” của mình, tự ái quá lớn của mình, làm cho gia đình xào xáo, bất an, tích lũy lâu dần đưa đến tình trạng ly thân, ly dị.

Tôi đã có nghe Đức Cha Khảm nói chuyện, có hai vợ chồng đến thăm Cha than thở rằng “Con nói thật với Cha con giàu lắm chủ 4, 5 tiệm ăn. Không hiểu sao mỗi lần ngồi ăn cơm là vợ chồng con cứ cải nhau.”

Cha hỏi: Con cải nhau vì vấn đề gì?

Dạ, con cải nhau vì vấn đề tiền.”

Linh mục Nguyễn tầm Thường cũng có kể chuyện:

Hai vợ chồng ở Việt Nam nhà nghèo, đi vùng kinh tế mới, có hai con còn nhỏ. Chỉ độc nhất có một chiếc xe đạp, đi đâu cũng đèo nhau, còn chở thêm hai con mà sao họ sống thật hạnh phúc.

Nhưng khi vượt biên đi được qua Mỹ, nhờ hai vợ chồng đều học giỏi, trình độ Đại học ở Việt nam, nên khi đi qua đây hai vợ chồng hội nhập vào xã hôi Mỹ rất nhanh và làm ăn trở nên giàu có. Mỗi người có xe BMW, Mercedes riêng đều là giám đốc, nhưng hai vợ chồng không chịu được nhau vì người nào cũng quá giỏi. Sau đó, họ đành phải thôi nhau. Tại sao?

Có vài người không chịu nổi bà vợ thứ nhất vì hay cằn nhằn thích chỉ huy mọi chuyện. Ông chồng lái xe nhưng bà vợ ngồi bên cạnh lại điều khiển, chỉ huy ông chồng. Không chịu nổi hoàn cảnh  “bị chỉ huy” mọi chuyện lớn nhỏ như vậy, anh bỏ vợ này và kiếm người vợ khác. Nhưng rồi mặc dầu người vợ sau này rất phục tùng chồng, nhưng anh vẫn không hài lòng. Rồi lại thay đổi tìm người mới và anh nêu lý do là “không hợp nhau”.

Mới đây, gặp lại người khách hàng cũ, hai vợ chồng qua đây theo diện HO, mặc dầu trên dưới 70 tuổi rồi, nhưng người vợ cho biết: “ Tôi đã ly thân rồi, sống với con trai chứ không còn sống với ông chồng tôi nữa”. Tôi thắc mắc tại sao vậy? Nếu không qua Mỹ sống ở Việt Nam, dầu nghèo nhưng có bà con thân nhân, gần gũi chia sẻ ngọt bùi, thì tình trạng ly thân, ly dị có bớt chăng? Lúc nghèo khổ cùng nhau chia sẻ, sao khi khá giả dư ăn, dư mặc lai chia tay?

Trong khi tuổi già vợ chồng lại rất cần nhau để săn sóc, lo lắng cho nhau nhất là khi đau ốm. Lời thề lúc thành hôn: “Giữ lòng chung thủy với anh(em), khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi mạnh khoẻ cũng như lúc đau yếu để yêu thương và tôn trọng anh (em) mọi ngày suốt đời anh(em).” hai vợ chồng đã quên hết rồi chăng? Tại sao vậy?

Cha Chu Quang Minh, dòng tên, sáng lập “Chương Trình Thăng Tiến Hôn Nhân Gia đình” có khuyến khích, nên thường xuyên đọc kinh Hôn Nhân Gia Đình, trong đó có câu:

Gia đình chúng con sóng gió ba đào. Xin ban ơn CAN ĐẢM và KIÊN TRÌ của Chúa Thánh Linh.

Gia đình chúng con trẻ già xung khắc, xin ban ơn QUẢNG ĐẠI và THỨ THA để chúng con AN VUI CHẤP NHẬN LẪN NHAU”

Nếu đọc kinh này thường xuyên mỗi tối, nhờ ơn Chúa, chắc chắn gia đình sẽ được bền vững hơn.

Tôi cứ hay suy nghĩ lan man, phải chăng con người đến tuổi già thường có hai khuynh hướng?:

* Hướng thượng : làm việc thiện, đi nhà thờ, giúp cho tha nhân, mưu cầu hạnh phúc cho người khác để lo phần hồn sau này khi mình ra đi, vì trên 60 hay trên 70 tuổi thì đâu biết ngày giờ nào mình ra đi. Nếu tin có đời sau thì thường ráng tu thân, tích đức nhiều hơn, cầu nguyện Chúa nhiều hơn, cố gắng làm nhiều việc thiện hơn nữa.

* Hướng hạ: Biết mình sắp ra đi, quỹ thời gian còn ngắn quá, con người dễ sống vội, sống gấp rút. Ăn chơi cho thỏa mãn, vì sợ già rồi làm sao còn ăn chơi được nữa. Nhiều người thích ăn uống, nhậu nhẹt nhiều hơn vì sợ không còn thì giờ ăn nhậu được nữa hay tìm kiếm người yêu mới trước khi đi về lòng đất.

Thánh Phao lô viết: “ Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả.” 1Cor 13 (4-7)

Làm sao đem thực hành, áp dụng những điều thánh Phao lô hướng dẫn tha thứ tất cả, chịu đựng tất cả vì tương lai con cháu bỏ “cái tôi” của mình đi có lẽ mọi sự đều giải quyết ổn thỏa được chăng?

Tin tức mới nhất từ báo Người-việt, ở Edmonton (Canada), hôm thứ hai (29-12) sáng thứ ba (30-12-2014) vừa qua, tổng cộng 9 người Việt thiệt mạng bao gồm cả hung thủ. Cảnh Sát Trưởng Knecht nói : “có vẻ đây là sự xung đột trong gia đình chứ không liên quan đến băng đảng thanh toán nhau.” Chín người Việt chết trong án mạng ở Canada , vượt qua nửa vòng trái đất, đến một nước văn minh, cuộc sống trở nên sung túc gấp mấy lần còn ở quê nhà, tại sao lại giết người thân kể cả trẻ con rổi tự tử. Tại sao vậy?

Đọc trong trang Web của Dòng Chúa Cứu Thế ngày 28-12 -2014 có hai bài viết:

Điều gì xác định một gia đình?

Lễ Thánh Gia: tôn vinh đời sống gia đình Trong bài này, Lm. Giuse Trương Hoàng Vũ, DCCT viết:

Thể hiện vẻ đẹp gia đình qua đời sống chung thủy để chống lại khuynh hướng coi hôn nhân như hình thức thỏa mãn tình cảm đơn thuần và có thể thay đổi tùy ý; thể hiện vẻ đẹp hôn nhân qua việc đón nhận con cái Chúa ban như là những quà tặng cao quý của sự sống; trân trọng và chăm sóc người già như di sản của đức tin và được thụ hưởng đức tin từ những chứng nhân sống động ấy; đón nhận và thăng hoa đời sống nghèo trong gia đình bằng việc tuân giữ và thi hành thánh ý Chúa. Sống được tất cả điều này chính là chúng ta tôn vinh ngày lễ Thánh Gia hôm nay.”

Đời sống tâm linh rất là quan trọng.

Giữ được bình an, vui tươi trong gia đình là ưu tiên, là mong muốn của mọi người, mọi gia đình để sống được hạnh phúc.

Nguyễn Hiến Lê nhà văn nổi tiếng trước năm 1975 đã viết trong hồi ký của ông như sau: “Đề cao nếp sống giản dị, đừng để hình hài làm hại cái tâm, đời sống vât chất thì nên dưới mức trung bình, đời sống tinh thần thì trên mức ấy”. Đời sống tinh thần là gì? Đó chính là đời sống nghiêng về chữ tâm, nghĩ đến phần linh hồn, đời sống tâm linh, ưu tiên cho linh hồn hướng thượng của mình. Có nghĩa là linh hồn mình luôn luôn dành cho Chúa và vì Chúa, mà kính Chúa thì phải yêu người, giúp đỡ cho tha nhân, nhờ thế đời sống chúng ta sẽ thấy vui hơn, hạnh phúc, bình an hơn vì luôn luôn có Chúa ở cùng, mà sau này, khi chết còn được hưởng hạnh phúc đời đời nữa.

Có phải chữ Tâm là quan trọng, là hàng đầu để chúng ta sống, đối xử với nhau từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội nên Nguyễn Du mới viết:

Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài?

12 giờ Đêm Giao thừa

cuối năm, 31-12-2014

đầu năm 01-01-2015

Phùng Văn Phụng


 

CHỈ MÌNH CHÚA – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Người ban cho các ông năng lực và quyền phép!”.

Một buổi chiều năm 1865, Lincoln vùi mặt vào tay, nói với nội các, “Thưa các ngài, chẳng bao lâu nữa, sẽ có tin quan trọng! Đêm qua, tôi mơ thấy mình đơn độc trên một chiếc thuyền, không chèo, không lái… bất lực trong một đại dương vô tận!”. Im lặng vần vũ! “Nhiều lần, tôi đã mơ như thế; mỗi lần, là một trận chiến lớn. Vâng, có lẽ ngày mai hay vài giờ nữa!”. Năm tiếng sau, ông bị ám sát. Vậy mà vị tổng thống luôn cảm nhận sự bất lực đó lại trở nên một ‘huyền thoại can trường’ nhờ niềm tin vào Chúa của mình!

Kính thưa Anh Chị em,

Như người dân Hoa Kỳ đã nhìn thấy sự bất lực nhưng can trường nơi vị tổng thống huyền thoại, trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta khám phá điều tương tự nơi các môn đệ. Chúa Giêsu sai họ đi trong ‘yếu hèn và mạnh mẽ’, ‘bất lực và quyền năng’; và ‘chỉ mình Chúa’ là hành trang duy nhất của họ.

Sai các môn đệ đi, Chúa Giêsu thông chia cho họ những gì Ngài có, “năng lực và quyền phép”; nhưng cùng lúc, Ngài buộc họ ra đi trong yếu đuối và khó nghèo, “Đừng mang gì đi đường!”. Ngài muốn những gì họ mang theo là chỉ một mình Ngài. Ngài hạn chế tối đa hành trang để họ biết rằng, khiên thuẫn của họ nằm ở tình yêu họ dành cho Ngài. Thiên Chúa thường hoạt động mạnh mẽ qua những trải nghiệm bất lực của con người. Chính trong tình trạng dễ bị tổn thương này, bạn và tôi sẽ chỉ cậy trông vào Đấng Sai Đi thay vì cậy mình hay cậy người! “Thiên Chúa sai kẻ mỏng manh để tỏ cho thế giới thấy sức mạnh của Ngài!” – Henri Nouwen.

Esdra, một con người lấy Thiên Chúa làm lá chắn, “Tôi quỳ gối, giơ tay lên Chúa là Thiên Chúa của tôi” – bài đọc một. Trong bất lực, ông van xin, “Tội chúng con quá nhiều!”; và Esdra nhận biết quyền năng Chúa khi Ngài đổi lòng vua Ba Tư để vua xót thương dân, cho dân định cư và xây đền thờ. Nhờ đó, họ hát mừng “Chúc tụng Thiên Chúa, Đấng muôn đời hằng sống!” – Thánh Vịnh đáp ca. Esdra trải nghiệm thế nào là sự cậy trông vào ‘chỉ mình Chúa’.

Anh Chị em,

‘Yếu hèn và mạnh mẽ’, ‘bất lực và quyền năng’ cũng như ‘chỉ mình Chúa’ là những trải nghiệm Chúa Giêsu đã sống. Ngài sinh ra trong hẩm hiu; chết đi trong tủi nhục; vậy mà chính trong sự bất lực tột cùng đó, sức mạnh và quyền năng của Chúa Cha được tỏ hiện. Như đã sai các môn đệ, Chúa Giêsu đang sai chúng ta đi, thông chia sức mạnh và quyền năng của Ngài cho mỗi người. Bao lâu không còn bám víu vào bất cứ điều gì khác ngoài Ngài, bạn và tôi luôn đủ sức để chiến đấu. Ngài đang nâng đỡ chúng ta ‘từ một khoảng kín đáo’; Ngài đang đợi mỗi người từng giây trong các nhà chầu để bổ sức và tạo niềm cảm hứng hầu bạn và tôi can trường ra khơi, nhất là những khi thuyền đời chúng ta gặp dông tố, khi “không chèo, không lái, bất lực trong một đại dương vô tận!”. “Trong sự phó thác, chúng ta tìm thấy can đảm để ra khơi giữa bão!” – Henri Nouwen.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa, vì con xác tín, ‘chỉ mình Chúa’ luôn bang trợ con ‘từ một khoảng kín đáo!’. Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Ngài!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

***************************************************

Lời Chúa Thứ Tư Tuần XXV Thường Niên, Năm lẻ

Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.  Lc 9,1-6

1 Khi ấy, Đức Giê-su tập họp Nhóm Mười Hai lại, ban cho các ông năng lực và quyền phép để trừ mọi thứ quỷ và chữa các bệnh tật. 2 Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. 3 Người nói : “Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo. 4 Khi anh em vào bất cứ nhà nào, thì ở lại đó và cũng từ đó mà ra đi. 5 Hễ người ta không đón tiếp anh em, thì khi ra khỏi thành, anh em hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.” 6 Các ông ra đi, rảo qua các làng mạc loan báo Tin Mừng và chữa bệnh khắp nơi.


 

Thánh Piô 5 dấu, linh mục dòng Phanxicô – Cha Vương

Chúc bình an! Hôm nay 23/09 Giáo Hội mừng kính Thánh Piô 5 dấu, linh mục dòng Phanxicô. Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

*** CHÚ Ý: Cảm ơn bạn đã cho mình địa chỉ email. Nếu bạn biết những ai muốn nhận bài thì cứ gởi email đến cho mình. Xin hồi âm “Tạ ơn Chúa!” Để mình biết là đúng địa chỉ nhé. Đa tạ!

Cha Vương

Thứ 3: 23/9/2025

Thánh nhân sinh tại làng Pi-ết-ren-si-na gần Bê-nê-ven-tô nước Ý năm 1887. Người vào tu dòng Anh Em Hèn Mọn, ngành Ca-pút-xi-nô, và sau khi thụ phong linh mục đã tận tình lo việc mục vụ nhất là tại tu viện ở thị trấn Xan Gio-van-ni Rô-tôn-đô miền Pu-li-a.

    Cha Pio được mọi người biết đến qua hai việc: 

(1) Lòng tôn sùng Đức Mẹ triệt để. Ngài lần hạt suốt ngày. Có lần ngài nói với một người con thiêng liêng: “Luôn luôn nắm chặt lấy vũ khí của Đức Mẹ trong tay, nó sẽ giúp con chiến thắng kẻ thù”. 

(2) Giải tội cho người muôn phương—Ngài giải tội tùy theo tình trạng mỗi tâm hồn, chỉ cốt sao cho họ thành thực, được ơn tha thứ và cải thiện đời sống, nên nhiều khi ngài có những cư xử khác thường. Việc giải tội của ngài thường kéo dài 10 tiếng một ngày; người muốn xưng tội phải lấy số chờ đợi. Nhiều người nói rằng Cha Piô biết rõ các chi tiết cuộc đời của họ, mà chưa bao giờ họ tiết lộ.

    Sau đây là những lời nhắn nhủ của thánh Piô. Ước mong Bạn hãy dành thời gian để suy gẫm mà sống gần với Chúa hơn mỗi ngày nhé:

(1) CẦU NGUYỆN: “ Người ta tìm Chúa trong sách vở, nhưng gặp Chúa trong suy gẫm “Cầu nguyện là là chìa khóa để mở Trái Tim Chúa . “Hậu quả của cầu nguyện là bỏ cái “tôi”, sau đó Chúa sẽ nói chuyện với ta. “Chúa là tấm gương phản chiếu, ai biết suy gẫm, tâm trí hướng về Chúa, cũng sẽ nhận ra khuyết điểm của mình. “Trí óc không tập trung, thì lòng cũng không có tình mến Chúa “Tinh thần của Chúa là bình an, của quỉ là bực tức, nổi giận, lo lắng, nhưng ma quỉ như bị buộc giây, ta đứng xa thì không bao giờ bị cắn.

(2) KHIÊM TỐN: “ Biết mình không đáng, không tốt đẹp, có thể phạm nhiều tội ác… đó là ánh sáng Chúa chiếu vào linh hồn ta, cũng như vào linh hồn các thánh xưa để giúp tránh mọi tư tưởng kiêu ngạo, hư danh, và thêm lòng khiêm tốn”. “Biết làm cho linh hồn nên trống rỗng, Chúa sẽ làm cho nó nên giầu sang” “Người làm điều ác mà xấu hổ về việc đã làm, thì gần Chúa hơn là người tốt mà không dám làm việc lành”

(3) VÂNG PHỤC: “Không vâng phục thì không có nhân đức, không có nhân đức thì không có tốt lành, không có tốt lành thì không có yêu thương, không có yêu thương thì không có Thiên Chúa “

(4) THÁNH Ý CHÚA : “Mong được sống bình an đời đời  là điều chính đáng, thánh thiện, nhưng phải vâng theo ý Chúa . Vâng theo ý Chúa ở đời này còn quí hơn hưởng vinh phúc trên Thiên đàng. “Trong khi tùng phục, cảm thấy có phản loạn trong tâm hồn, thì đó là thử thách Chúa gửi đến, cần lý trí tùng phục, bản tính tự nhiên nổi dậy, mặc nó…

(5) BÁC ÁI: “Ai thương xót người nghèo là cho Thiên Chúa vay mượn.

“Chạm đến đức ái thì cũng như đâm vào con ngươi trong mắt Chúa”.

Yêu thương: ” Chúa không thể từ chối ban ơn, khi ta thật lòng muốn yêu mến Chúa “. “Chỉ có một hành động yêu thương của con người, chỉ có một hành động đức ái lớn lao trước mặt Thiên Chúa, đến nỗi cả thế giới này không đủ để thưởng công”.

(6) QUỶ CÁM DỖ VÀ Ý MUỐN: “Nhớ rằng quỉ chỉ có một cửa để vào linh hồn con, đó là ý muốn, không còn cửa nào khác. Không phải là tội, nếu không cố ý muốn phạm.

(7) ĐAU KHỔ: “Nhiều người xin tôi lấy đi thập giá của họ, nhưng rất ít người xin tôi cầu nguyện cho họ có sức mạnh để vác thập giá ấy. “Trần gian này là bể khổ, ta phải vác thánh giá. Không có hạnh phúc ở trần gian này. Học thức mà không nhắm vào Thiên Chúa Tự hữu thì có ích gì? Hãy gạt đi mọi hầm hố trần gian, hãy khiêm tốn, cầu nguyện, sẽ được bình an dưới đất và hạnh phúc trên trời. “Xác ta như con lừa, chúng cần roi vọt, nhưng không được quá tay, nếu nó ngã quị thì ai chở ta?

(8) SỐNG ĐẠO: “Hãy trở nên người công giáo tốt lành, nếu không, cuộc đời ta sẽ không có mục đích.

Câu nào đánh động Bạn nhất? Câu thứ 6 đánh động mình nhất.

Thánh Pio, cầu cho chúng con!

From: Do Dzung

**************************

Chúa Đau Cùng Con (Lời Nguyện Trong Cơn Đại Dịch) | Sáng tác: Sr. Quỳnh Thoại – Minh Nguyệt

“GIÁO DỤC LÒNG CĂM THÙ” – MỘT BI KỊCH CỦA NỀN GIÁO DỤC HẬU CHIẾN

Nguyễn Quốc Chính

                              ———-*¥¥. Gã Khờ

CỤM TỪ NGHẸN NGÀO..

Tôi đã từng uất nghẹn khi bắt gặp trong văn kiện, trong sách giáo khoa, thậm chí trong khẩu hiệu, cụm từ: “giáo dục lòng căm thù”.

Nghe qua, tưởng như đó là một mệnh lệnh mang tính “cách mạng”, như một thứ ngọn lửa để khích lệ chiến đấu. Nhưng càng nghiền ngẫm, càng thấy đau: căm thù vốn là phi giáo dục. Giáo dục là gieo hạt, là nuôi dưỡng, là khai mở nhân tính. Lòng căm thù chỉ làm chai sạn tâm hồn, làm con người thu hẹp vào hố sâu chia rẽ.

Đất nước ta từng trải qua hàng ngàn năm chống ngoại xâm. Nhưng chưa bao giờ tổ tiên dạy con cháu “căm thù”. Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo từng viết:

“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo.”

Sau chiến thắng, cha ông còn cấp thuyền, ngựa, lương thực cho quân giặc về nước. Đó là minh triết của kẻ chiến thắng: chiến đấu để giành độc lập, nhưng không gieo thêm hận thù. Vậy mà, thời hậu chiến, chúng ta lại biến “căm thù” thành một nội dung giáo dục. Ấy là một trượt dài – và cần phải nhìn thẳng.

TRUYỀN THỐNG NHÂN BẢN CỦA DÂN TỘC

Không phải ngẫu nhiên mà sử Việt luôn toát lên tinh thần khoan hòa sau chiến tranh.Thời Trần, sau khi đánh tan Nguyên Mông, thay vì tận diệt, triều đình mở hội nghị Diên Hồng, lo chuyện phục hồi đất nước, và còn cấp ngựa, lương thực cho tàn quân rút về.Nguyễn Trãi soạn văn kiện để tuyên bố với thiên hạ rằng người Việt “lấy nhân nghĩa làm gốc”, không lấy hận thù làm kim chỉ nam.Nguyễn Huệ sau khi đại phá quân Thanh ở Đống Đa, không đem xác thù ra phơi thây, mà cho chôn cất tử tế, rồi gửi biểu cầu hòa.

Từ cổ chí kim, dân tộc này đánh giặc không phải để nuôi căm thù, mà để giành lại sự sống cho mình. Đánh giặc xong, việc cấp thiết nhất là hàn gắn vết thương, chứ không phải truyền đời sự hận hằn.

Ấy vậy, truyền thống nhân bản ấy đã bị bóp méo trong một giai đoạn.

KHI GIÁO DỤC TRƯỢT KHỎI BẢN CHẤT

Sau 1975, trong khí thế toàn thắng, đất nước thống nhất, những tưởng giáo dục sẽ lấy yêu nước, yêu người, khoan dung, sáng tạo làm gốc. Nhưng không, một đường ray khác đã được dựng nên: giáo dục lòng căm thù giai cấp, căm thù “kẻ thù dân tộc”.

Trong sách giáo khoa, học sinh phải thuộc lòng những bài văn, bài thơ gieo mầm thù hận. Trong trường học, nhiều phong trào, khẩu hiệu vang lên với âm hưởng: “Nhớ ơn căm thù…”, “Đời đời căm thù đế quốc…”.

Câu hỏi đặt ra: lòng căm thù có nuôi dưỡng nhân cách không?

Không. Nó chỉ nuôi dưỡng sự đối lập và nghi kỵ. Thay vì giúp thế hệ trẻ hiểu quá khứ, để trân trọng hòa bình, nó lại biến quá khứ thành vết thương chưa khép.

Ở mức chính sách, “căm thù” còn được sử dụng như một thứ công cụ chính trị – để duy trì kỷ luật tư tưởng, để buộc người trẻ phải đi theo một “đường thẳng” có sẵn. Nhưng giáo dục mà thành công cụ, thì đã mất đi bản chất.

HỆ LỤY XÃ HỘI

Hãy nhìn những hệ quả:Chia cắt tâm thức dân tộc: “căm thù” khiến thế hệ trẻ nhìn đồng bào miền Nam, kiều bào hải ngoại bằng ánh mắt nghi kỵ. Thay vì hòa hợp, lại đào sâu hố ngăn cách.Nghi kỵ lẫn nhau: hận thù giai cấp khiến xã hội thiếu niềm tin. Người ta dè chừng nhau theo “lý lịch”, thay vì đánh giá bằng năng lực.Kìm hãm sáng tạo: căm thù nuôi dưỡng sự tiêu cực, không giúp con người cởi mở. Trong khi sáng tạo cần khoan dung, cần thấu hiểu.Làm nghèo đi tình người: khi “căm thù” trở thành giáo điều, thì lòng nhân ái, sự bao dung – vốn là phẩm chất cốt lõi của người Việt – bị lu mờ.

Nói một cách cay đắng: chúng ta đã trồng căm thù, và gặt cô đơn, chia rẽ, hoang mang.

SO SÁNH QUỐC TẾ – BÀI HỌC CẦN NHÌN

Thế giới không thiếu những dân tộc từng trải qua chiến tranh. Nhưng cách họ giáo dục thế hệ trẻ sau chiến tranh khác ta rất nhiều.Đức sau Thế chiến II: không dạy học sinh “căm thù” ai cả. Họ đưa trẻ em đến trại Auschwitz để hiểu bi kịch chiến tranh, để từ đó nuôi dưỡng tinh thần hòa bình, nhân bản, trách nhiệm. Họ nói: “Không bao giờ nữa” – chứ không gieo hận thù.Nhật Bản: sau Hiroshima, Nagasaki, trẻ em được dạy về hậu quả của bom nguyên tử, về giá trị hòa bình, chứ không phải “căm thù nước Mỹ”. Kết quả là Nhật trở thành quốc gia sáng tạo, vươn lên bằng tri thức, chứ không bị nhấn chìm trong oán hận.

Nếu Đức và Nhật gieo căm thù, liệu họ có thể hòa giải, có thể trở thành cường quốc kinh tế, có thể là bạn với cả thế giới?

TRÁCH NHIỆM VÀ NGUYÊN NHÂN

Ai phải chịu trách nhiệm về sự trượt dài ấy?Nhà hoạch định chính sách: đã chọn cách dễ nhất để duy trì sự trung thành – gieo hận thù, thay vì nuôi dưỡng trí tuệ.Người làm giáo dục: không dám phản biện, buộc phải “soạn bài giảng căm thù” như một bổn phận.Xã hội: thụ động chấp nhận, coi đó là lẽ thường.

Nguyên nhân sâu xa chính là tư duy chính trị hóa giáo dục. Khi giáo dục bị biến thành công cụ chính trị, thì mục tiêu “trồng người” bị lấn át bởi mục tiêu “củng cố chế độ”.

ĐIỀU CẦN SỬA SAI

Đã đến lúc cần dũng cảm sửa sai.Xóa bỏ khái niệm “giáo dục lòng căm thù” khỏi mọi văn bản, sách giáo khoa.Thay thế bằng “giáo dục lòng nhân ái, khoan dung, yêu nước, yêu hòa bình”.Học theo Đức, Nhật: dạy trẻ em nhìn thẳng vào bi kịch chiến tranh để rút ra bài học nhân bản, chứ không để nuôi hận thù.Trả giáo dục về đúng bản chất: dạy trẻ làm người tử tế, có trách nhiệm, biết tôn trọng sự khác biệt.

Quan trọng hơn: cần một sự thành thật trong chính sách. Đừng dùng giáo dục để duy trì hận thù. Hãy dùng giáo dục để tạo nên những thế hệ công dân biết xây dựng.

VÌ TƯƠNG LAI CON EM CHÚNG TA

Một dân tộc không thể mãi sống trong bóng tối của căm thù. Thế hệ cha ông đã trả giá bằng máu để đất nước được độc lập. Thế hệ hôm nay phải có trách nhiệm trả lại cho con trẻ một nền giáo dục nhân bản – chứ không phải giáo dục căm thù.

Nếu không, chúng ta sẽ tạo ra những con người mang nặng quá khứ nhưng hụt hẫng với tương lai.

Giáo dục là gieo trồng. Xin hãy trả lại cho giáo dục Việt Nam hạt giống yêu thương, nhân ái, sáng tạo và trách nhiệm. Đó mới là con đường để dân tộc đi xa.

Đã đến lúc phải thẳng thắn nói ra: “Giáo dục lòng căm thù” là một sai lầm. Và sai lầm ấy cần được sửa ngay – để chúng ta có thể ngẩng cao đầu trước thế hệ mai sau.

⏤ Gã Khờ


 

Thánh Carlo Acutis được phong thánh ngày chúa nhật 07 tháng 09 năm 2025 vừa qua.

Carlo Acutis sinh ngày 3-5-1991 cha là ông Andrea Acutis và mẹ là bà Antonia Salrano người Ý.

Từ ngày rước lễ lần đầu (16-6-1998) ở nhà thờ Romites de Perego trở đi, Carlo chưa bao giờ bỏ lễ hàng ngày: “ Luôn kết hợp với Chúa Giêsu đó là mục tiêu của cuộc đời tôi”. Với Carlo, hiệp thông là con đường dẫn tới Thiên đàng. Carlo đã chầu thánh thể và xưng tội hàng tuần.

Năm 2006 Carlo qua đời khi mới 15 tuổi vì bịnh bạch cầu. 14 năm sau được lên hàng các Chân phước. Lễ phong Chân phước ở Vương cung thánh đường thánh Phanxicô Assisi ngày 10-10-2020.

Trích: Cuộc đời của Carlo Acutis, chân phươc trẻ nhất thiên đàng vào đầu thiên niên kỹ mới.

(giáo phận Hà Tĩnh)

Các phép lạ của Carlo Acutis

Phép lạ thứ nhất:

Phép lạ chữa lành cho em bé Matheus người Brasil 4 tuổi, sinh ra với dị tật tuyến tụy nên em không thể ăn thức ăn đặc được.

Ngày 12 tháng 10 năm 2013 cha xứ Marcelo Tenorio xin giáo dân làm tuần cửu nhật cho em.  Cha đắp một mãnh áo len của Carlo lên cho em bé. Ngày hôm sau em bắt đầu ăn. Chụp MRI cho thấy tuyến tụy tạng của em trở lại bình thường.

Phép lạ thứ hai:

Valera Valverde phụ nữ gặp tai nạn giao thông ở Italy năm 2022, hồi phục một cách kỳ diệu. Ngày 2/7/2022 Valverde ngã xe đạp ở Florence nơi cô đang học đại học. Cô gái khi đó 21 tuổi phải phẫu thuật, nhưng bác sĩ cho hay khó qua khỏi bịnh.

Ngày hôm sau, bà Liliana, mẹ của Valverde đã đến lăng mộ của Acutis ở Assisi, nguyện cầu Acutis gởi thỉnh cầu tới Chúa để con bà qua cơn nguy kịch.

Cùng ngày, bịnh viện thông báo Valverde bất ngờ hồi phục không cần máy thở.

10 ngày sau,Valverde rời phòng chăm sóc đặc biệt được chuyển về khu phục hồi chức năng.

Hai tháng sau tai nạn, Valverde hoàn toàn bình phục. Hai mẹ con cô đã tới Assisi để cảm tạ sự chuyển cầu của Acutis.

Phùng Văn Phụng (tổng hợp)  

22-09-2025


 

Bà Rịa: Con trai ‘ngáo đá’ sát hại mẹ, chém chị gái bị thương

Ba’o Nguoi-Viet

September 22, 2025

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Ngoài việc sát hại mẹ và chị ruột, một nghi can “ngáo đá” (say ma túy đá) ở phường Long Hương (thành phố Bà Rịa trước đây) thuộc TP.HCM, và còn chém luôn hai con chó nuôi trong nhà.

Hôm 22 Tháng Chín, Công An TP.HCM đã bắt giữ nghi can Vũ Văn Hà, 34 tuổi, để điều tra về tội “giết người.”

Đường dẫn vào hiện trường nơi xảy ra vụ án ở phường Long Hương, Sài Gòn. (Hình: Tuổi Trẻ)

Theo báo Tuổi Trẻ, nghi can Hà đã dùng dao sát hại mẹ ruột là bà NTN, 62 tuổi, và đâm trọng thương chị ruột là cô NTNg, 37 tuổi, vào rạng sáng cùng ngày.

Nghi can Hà từng nghiện ma túy nhưng đã cai nghiện xong, sống cùng cha mẹ và chị gái trong căn nhà cấp bốn ở khu phố Hương Sơn, phường Long Hương.

Khoảng 5 giờ 30 phút cùng ngày, nghi can Hà lấy dao trong nhà bếp bất ngờ tấn công, chém nhiều nhát vào vùng cổ, mặt của mẹ mình khiến nạn nhân thiệt mạng tại chỗ.

Sau đó, nghi can Hà tiếp tục dùng dao chém chị gái ở chung nhà gây thương tích nặng ở cổ. Chưa “đã nư,” anh ta còn dùng dao chém hai con chó của gia đình khiến một con chết, một con bị thương.

Sau khi gây án, nghi can Hà vứt bỏ hung khí trong vườn cây gần nhà.

Nhận tin báo, Công An Phường Long Hương đã đến nhà bắt giữ nghi can Hà khi để còn đang trong trạng thái “ngáo đá.”

Tuy không xảy ra thường xuyên, nhưng thi thoảng tại Việt Nam lại có vụ con nghiện giết người thân khi đang say ma túy.

Trước đó, hôm 30 Tháng Ba, 2023, Công An TP.HCM đã bắt giữ nghi can Lê Văn Vàng, 34 tuổi, ở phường Tân Thới Hiệp, quận 12 trước đây, với cáo buộc giết và cắt đầu mẹ ruột.

Theo báo Thanh Niên, sáng cùng ngày, người dân nghe tiếng la hét phát ra từ một ngôi nhà trong hẻm đường Tân Thới Hiệp ở quận 12. Sau đó, một cô gái tháo chạy ra khỏi căn nhà kêu cứu.

Người dân tụ tập tại hiện trường xem công an bắt giữ nghi can Lê Văn Vàng ở quận 12. (Hình: Kinh Tế Đô Thị)

Khi người dân xung quanh chạy đến gần thì thấy nghi can Lê Văn Vàng cầm dao dính máu, trong lúc thi thể bà N., mẹ ruột của anh ta, được phát giác trong tình trạng đầu bị cắt rời khỏi cổ.

Đến khi Công An Quận 12 xuất hiện tại hiện trường, nghi can Vàng vẫn không chịu buông dao mà còn chống trả. Công an phải bắn ba phát súng chỉ thiên trước khi khống chế, đưa nghi can này về đồn.

Hàng xóm cạnh nhà nạn nhân cho biết, bà N. sống cùng nghi can Vàng và các cháu trong căn nhà này. Trước khi bị con trai giết, bà N. làm nghề may quần áo tại nhà.

Theo hồ sơ của công an, nghi can Lê Văn Vàng có tiền án, tiền sự, thuộc diện “bị công an địa phương theo dõi.” Khi bị bắt sau khi giết người, anh ta “có biểu hiện ngáo đá, bất thường, không tỉnh táo.” (Tr.N) [kn]


 

ĐỪNG VÌ CÁI TÔI QUÁ LỚN MÀ ĐÁNH MẤT GIA ĐÌNH – Pham Nhat Minh

Pham Nhat Minh

Trong cuộc đời này, có những thứ nếu mất đi rồi sẽ chẳng bao giờ lấy lại được, và gia đình chính là một trong những điều quý giá nhất. Thế nhưng, trớ trêu thay, có rất nhiều người đã tự tay đánh mất gia đình của mình, không phải vì thiếu yêu thương, không phải vì cạn tình nghĩa, mà chỉ vì một thứ nhỏ bé nhưng lại vô cùng nguy hiểm: cái tôi và lòng sĩ diện.

Có người nói: “Trong hôn nhân, người thắng chẳng có gì để tự hào, bởi chỉ cần một người thua, cả gia đình đều mất.” Thật vậy, nhiều cặp vợ chồng từng yêu nhau đến quên mình, nhưng khi bước vào cuộc sống chung, lại để những mâu thuẫn nhỏ nhặt biến thành hố sâu chia cách. Không ai chịu nhường ai, không ai muốn cúi đầu trước ai. Mỗi người đều mang trong mình cái tôi quá lớn, sĩ diện quá cao, để rồi biến gia đình thành chiến trường, biến mái ấm thành nơi đầy tiếng thở dài.

Chúng ta quên mất rằng: gia đình không phải nơi để phân định đúng – sai, hơn – thua. Gia đình là nơi để thương nhau, để nương tựa vào nhau giữa giông bão cuộc đời. Một lời nhường nhịn không khiến ta nhỏ bé đi, một cái ôm sau cơn giận không làm ta mất giá trị, mà ngược lại, đó mới chính là sức mạnh để giữ gia đình bền lâu.

Đừng để cái tôi làm chúng ta thắng trong một trận cãi vã, rồi thua trong cả một đời sống chung. Đừng để lòng tự ái khiến ta hả hê trong giây phút, rồi nuối tiếc trong những năm tháng còn lại. Thử nghĩ xem, có đáng không, khi ta giữ được chút sĩ diện, nhưng mất đi tiếng cười con trẻ, ánh mắt yêu thương của người bạn đời, và sự ấm áp của một mái nhà?

Một gia đình hạnh phúc không được xây dựng bằng những cái tôi cao ngất, mà được vun đắp từ những lần biết lắng nghe, biết nhẫn nhịn, biết đặt chữ “chúng ta” cao hơn chữ “tôi”. Hạnh phúc không phải là không có cãi vã, mà là sau cãi vã, vẫn còn đủ bao dung để ngồi lại bên nhau, vẫn còn đủ thương để nắm tay nhau đi tiếp.

Con người ai cũng có lúc sai, ai cũng có lúc nóng giận. Nhưng điều quan trọng là, chúng ta có dám hạ thấp cái tôi để giữ lấy người thân của mình hay không. Một lời xin lỗi đúng lúc có thể cứu vãn một hôn nhân. Một lần nhường nhịn có thể giữ lại cả một mái ấm. Và một cái ôm trong nước mắt có thể xóa đi cả trăm ngày lạnh nhạt.

Đừng để đến khi mái ấm đã vỡ vụn, ta mới hoang hoải nhìn lại và thốt lên: “Giá như ngày ấy mình bớt sĩ diện, giá như mình chịu nhường một bước…” Nhưng giá như thì luôn đến muộn. Và khi đó, những gì còn lại chỉ là sự tiếc nuối trong những căn phòng lạnh lẽo, nơi cái tôi năm xưa chẳng thể sưởi ấm nổi một trái tim cô độc.

Bởi cuối cùng, hạnh phúc gia đình không cần người đúng – người sai, mà chỉ cần có những trái tim biết thương, biết nhường, biết đặt tình yêu trên cả cái tôi nhỏ bé.

Hãy nhớ: thắng một cuộc tranh cãi thì dễ, nhưng giữ được một gia đình mới là bản lĩnh.

Tg Phạm Nhật Minh

ngày 19/09/2025


 

Chủ nghĩa bí truyền (esotericism) có phù hợp với đức tin Kitô giáo không? – Cha Vương

Cha Vương

Thứ 2: 22/9/2025

GIÁO LÝ: Chủ nghĩa bí truyền (esotericism) có phù hợp với đức tin Kitô giáo không? Không. Chủ nghĩa này đi ngược với sự thật về Thiên Chúa, Thiên Chúa là Ngôi vị, là Tình yêu và nguồn gốc Sự Sống, Người không phải là một năng lực lạnh lùng trong vũ trụ. Con người được Thiên Chúa muốn tạo dựng, nhưng con người không phải là thần thánh, đúng hơn, con người là thụ tạo bị tổn thương vì tội lỗi, bị sự chết đe dọa, và cần được cứu độ. Kitô hữu tin rằng chỉ có Chúa Giêsu Kitô và ơn thánh Chúa cứu rỗi họ. Thiên nhiên hay vũ trụ (phiếm thần-pantheism) không thể cứu chúng ta được. Chỉ mình Đấng Tạo Hóa, Đấng cao cả vượt trên tất cả mọi sự mới có thể cứu chúng ta. Những người theo chủ nghĩa bí truyền cho là con người có thể cứu độ chính mình, không cần Thiên Chúa. (YouCat, số 356)

SUY NIỆM: – Nhiều người thời nay, để giúp sức khỏe nên rèn luyện Yoga, hoặc tham gia những lớp học suy niệm siêu đẳng để cảm nghiệm về sự thinh lặng yên tĩnh hoặc tự tập trung nơi bản thân, hoặc để tự cảm thấy mình đổi khác trong thân xác mình. Các thứ kỹ thuật này không phải luôn luôn là vô tội. Đôi khi nó chứa đựng những học thuyết xa lạ với Kitô giáo như học thuyết bí truyền. Một người có lý trí không được để cho mình bị cám dỗ chạy theo lối nhìn phi lý về thế giới, trong đó lúc nhúc những ma quái, thần thánh và thần tiên (do bí truyền), tin vào ma thuật, hoặc có những người cho rằng mình nắm được khoa học bí nhiệm mà quần chúng dốt nát không biết được. Thời Cựu Ước ở Israel người ta để ý đến những tin tưởng vào thần tượng và thần linh được phổ biến nơi các dân tộc chung quanh. Chỉ mình Thiên Chúa là Chúa, không có Chúa nào khác ngoài Thiên Chúa. Cũng không có những ma thuật mà người ta có thể dùng để chiếm giữ được thần linh, để áp đặt những lối nhìn về vũ trụ, và để tự cứu mình. Nhiều thực hành theo học thuyết bí truyền đều thuộc loại mê tín hoặc loại huyền bí, xét theo quan điểm của Kitô giáo. (YouCat, số 356 t.t.)

LẮNG NGHE: Xin Ngài xem con có lạc vào đường gian ác, thì dẫn con theo chính lộ ngàn đời.” (Tv 139:24)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin ban cho con đức tin mạnh mẽ để con luôn tín thác, yêu mến và phụng thờ chỉ một mình Chúa mà thôi. 

THỰC HÀNH: Đọc chậm và suy niệm Kinh Tin Kính. 

From: Do Dzung

****************************

Vì Ngoài Chúa Ra 2 (sáng tác: Phùng Minh Mẫn) | Angelo Band

MONG GẶP – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Mẹ và anh em Chúa Giêsu đến gặp Người, mà không làm sao lại gần được”.

“Địa ngục là lời khen tuyệt vời của Thiên Chúa đối với ‘thực tế tự do’ của con người!”. Có người nói, “Chết tiệt, đó là một lời khen?”. Vâng, bởi lẽ Chúa đang nói, “Bạn thật quan trọng. Tôi coi trọng bạn, mong gặp bạn. Chọn từ chối tôi, bạn hãy chọn địa ngục, nếu muốn. Tôi sẽ để bạn đi!” – G. K. Chesterton.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay cho thấy không chỉ Thiên Chúa ‘mong gặp’ con người; nhưng chính con người mọi thời luôn ‘mong gặp’ Ngài, Đấng nói, “Tôi coi trọng bạn, mong gặp bạn!”.

Trình thuật Maria tìm thăm Chúa Giêsu đều có ở ba Tin Mừng nhất lãm; nhưng chỉ riêng Luca, sự kiện này xảy ra ngay sau dụ ngôn “Chẳng có ai đốt đèn, rồi lấy hũ che đi”; cũng thật khác biệt, chỉ mình Luca không có câu hỏi “Ai là mẹ tôi, ai là anh em tôi?”. Vậy mà thật độc đáo, Luca vẫn có câu trả lời, “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành!”. Cách nào đó, Chúa Giêsu muốn nói, để trở nên ánh sáng chiếu soi trần gian cũng như để trở nên nghĩa thiết với Ngài, người ta phải lắng nghe và sống Lời được gieo. “Nghe mà không sống chính là che đèn dưới hũ!” – Thomas Merton.

Cần xác tín rằng, đức tin thể hiện bằng tình yêu, tình yêu thể hiện bằng hành động, hành động thể hiện bằng chứng tá. Trong một thế giới nhá nhem, vắng bóng Thiên Chúa, ước gì qua chúng ta, ai cũng có thể nhận ra ánh sáng và khuôn mặt yêu thương với vẻ đẹp của tình yêu Ngài. Vẻ đẹp đó còn phản ánh một điều đáng kinh ngạc hơn – rằng, Thiên Chúa ‘mong gặp’ con người, khao khát trái tim, khối óc và tinh thần của con người; bởi lẽ, Ngài là tác giả và cội nguồn của tình yêu. Không gì có thể khiến Ngài rút lại tình yêu; Ngài yêu chúng ta, ‘mong gặp’ chúng ta, dù chúng ta thế nào. “Tình yêu Thiên Chúa không biết mệt mỏi; không gì bạn làm có thể khiến Ngài ngừng khát khao gặp gỡ bạn!” – Brennan Manning.

Anh Chị em,

“Tôi coi trọng bạn, mong gặp bạn!”. Tin Mừng mời gọi chúng ta như những vận động viên chạy về phía ‘Đấng mong gặp bạn’ với đuốc ‘vẫn sáng’ trên tay; mời gọi chúng ta sống Lời Chúa như phương thế tốt nhất phản ánh sự rực rỡ của Ngài; đồng thời, trở nên anh em, chị em và là mẹ của Đấng là Ánh Sáng. Hãy đến trường học Maria, chuyên dạy kỹ năng nghe và sống Lời Chúa. “Maria dạy rằng, sự cao cả thật nằm ở tình yêu chăm chú và sự vâng phục thinh lặng!” – Ann Voskamp. Ước gì chúng ta trở nên thầy dạy đức tin cho con cái và những ai Chúa trao! Chớ gì những hạt Lời gieo vào lòng bạn và tôi không như hạt hời hợt bên đường, nông cạn trên đá sỏi hay ngột ngạt trong một mảnh đất gai gốc! Vì nếu như thế, thật tiếc, chúng ta chỉ còn là những cây đèn hết dầu, tim đèn nát mục hoặc vẫn mãi là người dưng với Chúa Giêsu – những kẻ khờ xây nhà trên cát!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con tình yêu đủ mạnh, vượt qua mọi cản trở, hầu con ‘mong gặp’ Chúa như Chúa ‘mong gặp’ con. Và con sẽ dẫn người khác đến cuộc hẹn với Ngài!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)  

 ***************************************************

Lời Chúa Thứ Ba Tuần XXV Thường Niên, Năm lẻ

Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.     Lc 8,19-21

 19 Khi ấy, mẹ và anh em Đức Giê-su đến gặp Người, mà không làm sao lại gần được, vì dân chúng quá đông. 20 Người ta báo cho Người biết : “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, muốn gặp Thầy.” 21 Người đáp lại : “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành.” 


 

Tiểu Tử – Tác Giả: Nguyễn Thị Cỏ May 

Tác Giả: Nguyễn Thị Cỏ May 

Ba’o Dan Chim Viet

21/09/2025

 Viết về Tiểu Tử không khó nhưng không thật đơn giản. Nếu nói « Tiểu Tử » là kỹ sư điện chuyên ngành Thủy điện, tốt nghiệp năm 1955, ở trường kỷ sư điện Marseille, thì không phải chúng ta nói chuyện về ông Tiểu Tử, nhà văn, mà đó là ông Võ Hoài Nam, năm nay 95 tuổi, an dưỡng tuổi già tại tư gia ở vùng Paris .

 Vừa ở Marseille về, ông dạy nhạc ở Pétrus Ký, qua năm sau, ông  dạy Lý Hóa các lớp Đệ II Cấp . Ông Cụ thân sanh của ông muốn ông theo nghiệp dạy học vì chính Cụ là giáo sư Sử Địa và Pháp văn ở Pétrus ký và một số trường Trung học tư ở Sài gòn như Lê Bá Cang, Lyceum Nguyễn văn Khuê, Đồng Nai, lúc ở Sài gòn còn học theo chương trình Đông dương, Trung học có các lớp từ 1ère Année, …4è Année, thi DEPSI (Diplôme d’Etudes Primaires Supérieures Indigènes – Văn bằng Cao Tiểu hay Thành chung) và/hoặc Brevet du 1er Cycle/Brevet Élémentaire .

Cụ Võ Thành Cứ muốn người con trai duy nhứt của mình, đậu kỹ sư ở Pháp, về xứ đi dạy học vì Cụ vẫn nặng tinh thần khai hóa cho thanh niên . Tham gia các hoạt động chống thực dân với các cụ Nguyễn An Ninh, Phan văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Trần văn Thạch, .. Cụ vừa dạy học để nuôi gia đình, vừa giúp bạn và gia đình bạn khi bạn gặp tù tội . Sau đó, Cụ mở một trường Trung học tư ở đường Dixmude, Sài gòn II (Đề Thám sau này) để làm nơi làm việc và gặp gở cho các bạn tranh đấu và nhứt là các bạn vừa ở tù ra có nơi làm việc tạm một thời gian .

Cuộc đời của Cụ Võ Thành Cứ cũng khá ly kỳ và đẹp lắm .

Vừa thi đậu DEPSI và cả Brevet Élémentaire, Cụ được bổ nhiệm làm thầy giáo cho trường Tiểu học ở Rạch giá . Lúc bấy giờ, người đi làm việc với bằng  Brevet Élémentaire ăn lương 90$ tháng, còn với bằng DEPSI, ăn lương chỉ có 45$ tháng .

Ông Đốc Giản là thầy dạy Cụ hồi lớp nhứt (Cours Supérieur) ở Tây ninh, cũng là thầy của nhiều người sau này có danh phận lớn, như Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Thủ tướng Nguyễn văn Tâm, …) nghe tin học trò củ được bổ nhiệm làm thầy giáo và biết học trò của mình vốn con nhà nghèo, Cụ Đốc bèn kêu học trò củ tới và bảo bà vợ lựa 2 bộ quần áo của Cụ còn mới đem cho học trò mặc đi dạy học tạm thời gian đầu.

Đi dạy học được vài năm, một hôm viên Thanh tra Học chánh Tỉnh tới xét trường. Hắn lấy tay chà cạnh bàn học của học trò, đưa ngón tay dính bụi quẹt vào mặt đứa học trò ngồi ở bàn đó và đưa lên cho thầy giáo coi . Không dằn lòng được, Thầy Cứ tiến tới đánh viên Thanh tra người pháp mấy phát tuy người của thấy cao chỉ hơn 1, 5m nhưng nhờ có tập nghề võ .Dĩ nhiên viên Thanh tra thưa Cụ nhưng chính viên Thanh tra bị xử có lỗi và bị đổi đi nơi khác .Câu chuyện một thầy giáo người an-nam-mít dám đánh Thanh tra người pháp chỉ vì tụ ái dân tộc lan truyền ra khắp Rạch giá.

 Một hôm, Cụ Ngô văn Thính, một nhà điền chủ lớn ở Rạch giá, tới thăm thầy giáo Cứ . Cụ Thinh hỏi thầy Cứ vậy thầy có thấy bằng lòng với địa vị hiện tại hay muốn tiến hơn nữa không?

Thầy Cứ thưa « Tôi nhà nghèo, nay được công ăn việc làm như vầy là quá rồi . Muốn tiến thêm, có muốn cũng không làm được » .

Cụ Thinh liền nói rõ: «Nếu thầy muốn, thiệt tình, thầy có dám bỏ việc làm này không, để đi qua Pháp học thêm vài năm nữa ? Tiền đi và ăn học, tôi lo hết . Nhưng khi về, thầy phải truyền bá chánh trị ở trong xứ, chống Tây» (Chuyện này, Cỏ May tôi tình cờ đọc được 1 báo cáo của an ninh pháp ở Văn khố về Đông dương ở Aix . Tên Thinh hay Thính, viết không có dấu rỏ ràng . Năm 1954, tới nhà thầy Cứ ở Gò Dầu Hạ chơi, có gặp Bà vợ bé của Cụ Thinh, thầy Cứ gọi bằng Dì, nhưng lúc đó, Cỏ May tôi chưa biết câu chuyện ly kỳ và đẹp như vừa kể) .

Cụ Cứ, xong Tú Tài ở vùng Toulouse, lên Paris học Sử Địa ở Sorbonne. Vừa xong Dự bị, thế giới bị kinh tế khủng hoảng, tiền mất giá, giá lúa xuống, điền chủ trắng tay. Thế là Cụ phải xuống tàu về xứ. Lúc đó đi qua Pháp học, học sinh và sinh viên đều đi tàu biển và phải mua vé đi và cả về. Đi hạng cá kèo, nằm võng dưới hầm tàu. Người nằm võng trên, khi say sóng, cho người nằm võng dưới ăn chè. Nhờ vậy mà nhớ mặt nhau, vế sau trở thành bạn thân khi gặp lại.

Cụ về Sài gòn, làm báo và dạy học, tham gia tranh đấu chống thực dân.

 Võ Hoài Nam

Đang học Seconde (Đệ Tam sau này), Võ Hoài Nam được cho qua Pháp học tiếp Trung học. Tới Marseille, ông qua vùng Garonne sur Lot và học Première theo tuổi tác. Lúc đầu, Tây giảng bài, ông thở dài vì theo không kịp nhưng nhờ toán, lý hóa học được nên ông bám trụ rồi cuối năm cũng đậu được Tú Tài I. Qua năm Tú Tài II, không còn thấy quá khó khăn nữa.

Trở lại Marseille, ông vào trường kỹ sư điện. Qua năm thứ hai, ông cùng với bạn bè đóng phim « Vì đâu nên nỗi » (Có chiều ở Sài gòn 1955).  Chủ đề Việt Nam nên phim cảnh phải Việt Nam. Mà ở Pháp làm sao có cảnh Việt Nam như ruộng lúa ngặp nước, có nông dân cấy lúa vừa hò? Cũng may, ở vùng Camargue, cách Marseille về hướng Tây, chừng 70 km, có ruộng ngập nước giống như ruộng lúa vùng Gia định, Long An. Năm 1942, Lính Thợ việt nam trồng lúa ở đây theo cách làm ruộng ở quê nhà. Tới mùa gặt năm đầu tiên thu hoạch được 40 tấn. Và số thu tăng lần, chỉ trong vài năm sau, số gạo Camargue đủ cho thị trường Pháp. Ngày nay vẫn còn gạo Camargue bán, với nhiều thứ như gạo lứt, gạo đỏ, gạo đen, hột dài, hột tròn, …

Sau phim « Vì đâu nên nỗi », Võ Hoài Nam bắt đầu mê văn nghệ, bỏ học. Nhà trường viết thư báo tin về gia đình. Dĩ nhiên ông bị ông Già rày la và ông Cụ viết thư qua nhà trường xin lỗi. Đọc lời lẽ cảm động của một đồng nghiệp xa xôi, nhà trường gọi cậu sinh viên bỏ học tới, la rầy, đưa cho ông coi thư của ông Già . Không thể làm gì khác hơn được, Võ Hoài Nam trở lại học tiếp. Và đậu kỹ sư điện năm 1955.

Về nước, sau 2 năm đầu dạy học ở Pétrus Ký, ông vào làm cho Shell ở Sài gòn. Lúc làm việc, ông học vẽ với vài họa sĩ tên tuổi ở Sài gòn. Cuối tuần, ông vác giá vẽ đi ra ngoại ô tìm đề tài tập vẽ. Ông say mê vẽ. Nhưng chưa kịp triển lãm tác phẩm của mình. Đến khi hưu trí ở Paris, ông vẽ trở lại, và vẽ nhiều về tĩnh vật. Tranh của ông có triển lãm ở Thị xã Paris 13 suốt nhiều ngày và bán được mươi bản.

Vốn mê văn nghệ, ông học đờn ca vọng cổ với nhạc sĩ mù Văn Vĩ, người mà sau 30/04/75, cỡi xe Honda chạy khắp đường phố Sài gòn .

Nhưng học chưa xong, tuy đã tới trình độ lên sân khấu ca 6 câu được rồi, thì bị đuổi vì một lý do rất vô duyên .

Khi tới xin học, ông giới thiệu mình với Văn Vĩ là làm thư ký hãng Shell. Thầy trò đang cơm lành, canh ngọt, bỗng một hôm, có một cô tới xin học ca vọng cổ và giới thiệu đang làm thư ký cho hãng Shell. Văn Vĩ hỏi có biết ông Võ Hoài Nam, đang học ở đây và cũng làm thư ký ở đó. Cô ấy bảo biết nhưng ông ấy làm lớn lắm, làm Giáo đốc, chớ không phải thư ký.

Thế là hôm sau, Võ Hoài Nam tới, Văn Vĩ đuổi ngay. Anh đi về đi. Đi khỏi nhà tui ngay. Anh thấy tui đui, anh khi dễ tui, phải không?

Ông Võ Hoài Nam ngớ người, không hiểu gì hết. Chuyện gì vậy?

Tới khi hiểu chuyện, Võ Hoài Nam giải bày với Văn Vĩ là chuyện ông làm việc đâu có liên hệ gì với việc học ca vọng cổ. Ông nói dối chỉ là cách nói đơn giản về mình mà thôi.

Nhưng Văn Vĩ không chịu bỏ qua.

Thế là bài ca vọng cổ phải xuống hò ở đây .

Tuy học chưa hết nghề của Văn Vĩ nhưng ông ca vông cổ vẫn mùi tận mạng .

Văn Vĩ thường nhắc ông là ít hôm nữa ông sẽ ca ăn khách và sắm liền xe Nash (loại xe tiêu chuẩn ngon của Sài gòn thủơ đó) .

Võ Hoài Nam học ca vọng cổ vì lúc đó ông đang mê cải lương. Ông có một tuồng được gánh Thủ Đô hát ở Sài gòn, khá ăn khách. Tuồng «Tình, Tiền và Sự nghiệp » .

Và cũng là lúc ông muốn nghỉ làm Shell để đi theo Cải lương . Có lẽ bị cú bất ngở của Văn Vĩ mà ông tiếp tục làm Shell cho tới ngày cuối của Sài gòn .

 Tiểu Tử

Tiểu Tử là bút hiệu ký dưới những bài «Trò Đời » (loại film du jour) đăng hằng ngày trên nhựt báo «Tiến» ở Sài gòn trước 75 của Đặng văn Nhâm . Hai người quen biết nhau vì Đặng văn Nhâm là học trò củ của Cụ Võ Thành Cứ ở Pétrus ký .

Ông  chọn tên «Tiểu Tử » hàm ý, rất đơn giản, xác nhận mình vốn không phải là «Đại Nhơn» . Ngày nay là «Đại Gia»!

 Ngày nay, Tiểu Tử là tên được quen biết rộng rải, trong Cộng đồng người Việt ở gần khắp thế giới . Nhưng Tiểu Tử hoàn toàn là nhà văn, có tiếng tăm nhưng vẫn không liên hệ xa gần gì với kỷ sư Võ Hoài Nam . Vì Tiểu Tử không phải là kỷ sư . Hơn nữa, Tiểu Tử cũng không phải người đóng phim ở Camargue năm 1954, cũng không phải họa sĩ, cũng không phải soạn giả cải lương. Vẫn biết đó là một người.

Vì nhiều người hiện nay chỉ biết Tiểu Tử là nhà văn. Truyện ngắn cùa ông rất đôc đáo về nội dung và cả hình thức.

Tiểu Tử là tác giả của  «Tiểu Tử Toàn Tập » 2 quyền, xuất bản năm 2017 ở Pháp. Trước đây, truyện ngắn của ông được in nhiều lần thành tập . Sau cùng, có một độc giả ở Hòa-lan, vì ngưởng mộ ông nên tự ý tập họp lại tất cả truyện của ông làm thành 2 cuốn, mỗi quyền hơn 300 trang, bìa màu xanh tươi, có hình tác giả ở góc mặt phía dưới.

Truyện ngắn của Tiểu Tử ở những lần xuất bản trước có tựa (Titre) khác nhau . Như quyển đầu tiên có tựa sách là «Bài Ca Vọng cổ».

Nay, trong «Tiểu Tử toàn Tập », tác giả cũng lấy «Bài Ca Vọng cổ » làm truyện số 1 ở trang  đầu tiên của « Tiểu Tử Toàn Tập », Quyển Thượng .

 Vì tác giả uu ái truyện « Bài Ca Vọng cổ » hơn những truyện khác?

Riêng Cỏ May tôi vẫn không quên trường hợp ông viết truyện ngắn này mà nhiều người yêu thích . Một câu chuyện đơn giản mà ăn khách mãnh liệt .

Tiểu Tử với Cỏ May tôi vẫn thường nói chuyện qua điện thoại nếu không gặp nhau về đủ thứ chuyện . Hôm ấy, tôi muốn biết chút ít về vộng cổ nên hỏi Tiểu Tử vì biết ông là nhà nghề về môn âm nhạc Nam kỳ này. Ông nói về kỷ thuật ca, cách đờn, … Và, bất ngờ, ông nói sẽ gởi cho tôi coi về vọng cổ .

Vài hôm sau, ông fax cho tôi « Bài Ca Vọng Cổ », một truyện ngắn, chớ không phải một bài lý thuyết về ca, đàn vọng cổ như tôi mong đợi .

Tôi in ra và đọc . Tôi liền liên lạc với một cậu thanh niên ở Stuttgart, gốc sinh viên Miền Bắc du học ở lại, nhờ đánh máy tiếng việt có dấu đầy đủ vì lúc đó chúng tôi chưa biết xài Computer . Đánh máy xong, cậu ấy fax qua cho tôi và tôi gởi cho tác giả để từ đó phổ biến (Nhắc lại chuyện củ, tôi không biết cậu này ngày nay ở đâu, sanh sống như thế nào, sau khi xin ở lại Đức, bị từ chối) .

 Đúng. Bài Ca Vọng cổ là một tuyện ngắn hay viết về một thanh niên da đen, lai Việt Nam, cha người Côte d’Ivoire nơi tác giả làm cho Công ty đường mía ở đó và sau qua làm cho Shell cho tới ngày hưu trí .

Người đọc, ai cũng nhìn nhận giá trị văn chương của nó. Nó đơn giản nhưng từng bước nhè nhẹ, nó len trọn vào tâm hồn người đọc. Nó đánh thức tình cảm về quê hương xứ sở của người Việt nam tỵ nạn đang sống ở xứ người .

Đọc Bài Ca Vọng  cổ, người đọc như bổng chốc sống trên quê hương của mình . Không bằng cảnh vật mà bằng tình cảm . Bằng sự rung động từ một chìu sâu thầm kín nào đó trong người :

 « Có chớ bác . Con có lai chớ bác.

Hắn xòe hai bàn tay đưa ra phía trước, lật qua, lật lại :

Bên nội của con là nằm ở bên ngoài đây nè .

Rồi hắn để một tay lên ngực, vỗ nhè nhẹ về phía trái tim:

Còn bên ngoại của con, nó nằm ở bên trong . Ở đây, ở đây nè bác.

Bổng hắn nghẹn lại:

Con lai Việt nam chớ bác!

Nhớ Sài gòn quá nên con ca vọng cổ cho đở buồn. Hồi nảy, bác lại đây là lúc con đang ca Đường về quê ngoại đó bác ».

 Truyện của Tiểu Tử nặng tình quê hương xứ sở . Vì đó là thứ tình cảm mà ông bị mất cũng như bà con Miền Nam của ông. 

 Có nói về sự thù ghét Việt cộng sau 30/04/75 của dân chúng Sàigòn, ông cũng nói một cách nhè nhẹ, châm biếm nhưng sâu sắc. Ít khi thấy ông bộc lộ sự thù hằn một cách hung hãn.

Thế mà trong truyện Chị Tư Ù, ông cho chị Tư Ù bửa đầu thằng công an việt cộng một cách ngọt xớt, gọn bâng, như cách chị Tư Ù chẻ đầu cá, không để lại những bầy nhầy:

 «Vừa thấy chị Tư bước vào, thím Út òa lên khóc:

 Tụi nó giết anh Út rồi, chị Tư ơi …

 Chị dang tay ôm hết ba mẹ con, ôm hết những gì còn lại của Út Cón .  Không còn nước mắt để khóc, nhưng còn đủ tỉnh táo để nhận thấy rằng từ đây chính mình phải thay Út Cón để bảo vệ gia đình này mặc dầu không ai gởi gắm hết.

 Nửa khuya đêm đó, chị Tư trở dây . Trong bóng tối, chị mò mẫm khoác áo bà ba đen máng sẳn trên cây cột từ đầu hôm, cập nách con dao phay quấn trong cái bao bố nhỏ đặt sẵn cạnh chân bộ ván gõ, bước ra đóng nhẹ cửa lại . Bên ngoài, trời đầy sao . Gió sông nhè nhẹ mát rượi . Chị bước đi tự nhiên, chẳng chậm rải, chẳng gấp rút . Giống như đi công chuyện bình thường . Ngoài đường vắng teo . Mấy con chó hoang ngủ dưới dãy thớt thịt trong nhà lòng chợ ngóc đầu lên nhìn, sủa vu vơ vài tiếng rồi lại nằm xuống . Chẳng có gì phải bận tâm . …

Chị Tư bước vào hàng ba, thấy trong nhà có ánh đèn . Nghĩ « chắc thằng trời đánh đó đang làm báo cáo . Không biết nó đang muốn hại ai nữa đây ? » . Chị đưa tay gỏ cửa . Có tiếng người hỏi :

 -Ai đó?

 Chị Tư trả lời như không trả lời:

 -Tui!

 Nghe giọng đàn bà, tên công an yên chí :

 -Chờ chút!

 Có tiếng khóa lọc cọc rồi cánh cửa mở ra . Ánh đèn dầu từ bên trong hắt lên người chị Tư, tuy không sáng lắm nhưng vẫn thấy rỏ nét trầm tỉnh tự nhiên trên gương mặt tròn trịa . Ở đó vừa hiện lên một nụ cười mà tên công an giàu tưởng tượng cho là đầy « nhiệt tình cách mạng » . Anh ta bước ra đảo mắt nhìn quanh rồi mới mời :

 -Vô đi!

 Tiếng đi vừa dứt là chị Tư đã bổ con dao phay vào ngay giữa đầu, nhanh gọn và chính xác như chị bổ cái đầu cá . Xong, chị bước vào thổi tắt cây đèn dầu rồi ra sàn nước rửa tay chơn, mình mẩy và con dao . Trước khi ra về, chị nhìn lại hàng ba : trong bóng tối, chị vẫn thấy «thằng trời đánh» nằm một đống, không nhúc nhích… ».

 Cũng trong  truyện « Chị Tư Ù», bất ngờ có một chi tiết khá ly kỳ là Tiểu Tử chi ra một hoạt động  « tình báo nhân dân » – thứ mà việt cộng khoe là hơn cả CIA, hơn cả Phòng Nhì Pháp – của tên công an việt cộng vừa bị chị bửa đấu, đem áp dụng khai thác chị để tìm lấy cho sạch tài sản của Út Cón, bạn của chị, mà hắn nghi chủ tiệm vàng còn cất dấu .

 « Rồi sực nhớ ra, chị Tư hỏi :

 -À ! Chút xíu nữa quên mất . Anh muốn gặp tui có chuyện gì không ?

 Tên công an như nắm được cái phao, vội vã đổi giọng ra chìu thân mật :

 -Chuyện này xin chị giữ kín cho . Người ta nói với tôi rằng Út Cón còn dấu vàng, không kê khai hết trong kỳ kiểm kê vừa rồi . Tôi cũng nghĩ như vậy bỡi vỉ thấy anh ta…thế nào ấy .

 Chị Tư nghiêm giọng :

 -Chuyện này …Anh là chánh quyền, anh phải đi hỏi ảnh chớ sao lại hỏi tui ?

 Tên công an thấp giọng :

-Người ta nói với tôi là chị thân với Út Cón lắm . Tôi muốn nhờ chị nói với anh ấy một tiếng để ảnh mang nạp cho Nhà nước số vàng còn cất dấu . Tôi sẽ giữ kín vụ này và không báo cáo lên cấp trên . Tôi muốn giải quyết như trong gia đình thôi . Chị hiểu không ? » .

Tiểu Tử là nhà văn đặc sệt miền nam

Nhận xét về Tiểu Tử, có khá nhiều người . Cỏ May tôi xin mời bạn đọc 2 người quen thuộc, hoàn toàn gốc ở quê hương của văn học và chữ nghĩa Việt nam, đánh giá Tiểu Tử .

-Cụ Từ Thức nhà báo (VN Press, Sài gòn) ở Paris nhận xét Tiểu Tử: 

« Tiểu Tử là một nhà văn miền Nam điển hình, con đường nối dài của những Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam. Văn của ông là lối kể chuyện của người miền Nam, bình dị nhưng duyên dáng, duyên dáng bởi vì bình dị, tự nhiên. Tiểu Tử không “làm văn”. Ông kể chuyện; không có chữ thật kêu, không có những câu chải chuốt. Với cách viết, với ngôn ngữ chỉ có những tác giả miền Nam mới viết được. Không hề có cường điệu, không hề có làm dáng. Người đọc đôi khi có cảm tưởng tác giả không mấy ưu tư về kỹ thuật viết lách. Ông viết với tấm lòng. 

Ngay cả tên những nhân vật cũng đặc miền Nam, không có Lan, Cúc, Hồ Điệp, Giáng Hương như trong tiểu thuyết miền Bắc, không có Nga My, Diễm My, Công Tằng Tôn Nữ như Huế, chỉ có những con Huê, con Nhàn, con Lúa, thằng Rớt, thầy Năm Chén, thằng Lượm, bà Năm Cháo lòng. Các địa danh cũng đặc Nam kỳ, không có Cổ Ngư, Vỹ Dạ, Thăng Long, chỉ có những Nhơn Hoà, Cồn Cỏ, Bò Keo, Bình Quới, những tên, những địa danh rất ”miệt vườn’’, chỉ đọc cũng đã thấy dễ thương, lạ tai, ngồ ngộ. Âm thanh như một câu vọng cổ ai ca bên bờ rạch. » (Từ Thức, « Những giọt nước mắt – Những tiếng thỏ dài ») .

-Cụ Nguyễn văn Lục, Giáo sư Văn chương và phê bình Văn học, viết về Tiểu Tử : Người tiếp lửa và giữ hồn của Miền Nam (DCV Online, 2023) :

« Tôi biết Tiểu Tử khá muộn khi ông đã thành danh và tích lũy một di sản văn học đáng nể như một loại trầm tích lắng đọng từ lâu. Nhưng khi biết rồi thì càng đọc văn của ông càng thấy gần gũi, gắn bó.

Hình như ông không viết truyện dài mà chỉ chuyên viết truyện ngắn. Mỗi truyện ngắn đều như nhắc nhở xa gần đến những cột mốc văn học đàn anh, xa xôi như Hồ Biểu Chánh, hay gaadn hơn như Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Lê Xuyên. Có thể vì cách thức diễn tả, ngôn từ xử dụng, tâm tình và cá tính của ông thì đặc sệt là dân Nam Kỳ.

Nhưng về nội dung cũng như mục đích viết của Tiểu Tử thì tôi xin vài thưa rằng: Nó hoàn toàn không giống các “nhà văn miệt vườn” ‒ không giống Bình Nguyên Lộc, càng xa Sơn Nam ‒ và còn có thể khác biệt với Lê Xuyên. Tôi không dám nói rằng tôi phủ nhận các nhà văn miền Nam tiền bối. Tôi đã từng mê truyện dài đầu tiên Chú Tư Cầu của Lê Xuyên ‒ cuốn truyện dài viết phơi-ơ-tông1 mỗi ngày ‒đã từng làm Lê Xuyên nổi tiếng.

… Bấy nhiêu năm lưu lạc ở xứ người. Vốn chữ nghĩa vẫn không bị han rỉ, xói mòn. Ông vẫn giữ được cá tính miền Nam: bình dân, giản dị, thật thà, dí dỏm. Ông vẫn giữ được cốt cách một lối viết chân chất, kiểu nghĩ sao viết dzậy, không màu mè, không kiểu cách, không uốn éo văn hoa làm dáng. Điều này cho thấy ông khác hẳn nhà văn Mai Thảo. Mai Thảo vẫn nghĩ rằng ông là nhà văn, Những người làm ra chữ.

Nhưng chính lối viết chân chất ấy quyến rũ người đọc. Chính chỗ bình dị làm nên vóc dáng văn học. Chữ của ông là có sẵn, chỉ khác nó nằm trong văn cảnh toàn bộ hỏi đáp trao đổi giữa những người dân bình thường. Đọc là gợi nhớ, đọc là thấy mình trong đó như tìm về như có người nhắc hộ » .

 Nay Tiểu Tử và Võ Hoài Nam, cả hai, đều vừa từ giả chúng ta hôm thứ năm 18 tháng 9/2025 (tại tư gia ở Noisy-le Grand, Pháp) !

 Nguyễn thị Cỏ May