CHÚA VÀ TÔI – Lm. Minh Anh (Tgp. Huế)

Lm. Minh Anh (Tgp. Huế)

“Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi?”.

Một cụ già có thói quen ngồi bất động hàng giờ cuối nhà thờ. Ngày kia, cha xứ đến hỏi Chúa nói gì với ông. Ông trả lời, “Không nói gì cả, Ngài chỉ nghe!”. “Vậy ông nói gì với Chúa?”. “Con chẳng nói gì cả, con cũng chỉ nghe!”. Cầu nguyện là nơi gặp gỡ của hai linh hồn trong thinh lặng và yêu mến.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta kiên trì cầu nguyện – không mệt mỏi, không ngã lòng – như bà goá kia lì ra trước nhà ông thẩm phán; hay tuyệt vời hơn – như cụ già nọ ngồi lặng ngắm Chúa. Cầu nguyện là sống mối tương quan thân tình giữa Cha với con, giữa bạn với bạn -giữa ‘Chúa và tôi!’.

Bài đọc Xuất Hành cho thấy Môsê, Aharon, Khua và Giosuê đang sống mối tương quan ấy. Môsê đưa tay lên, Giosuê chiến thắng; ông hạ tay xuống, Israel bại trận. Giản dị nhưng sống động; mộc mạc nhưng trìu mến. Thánh Kinh nói, Thiên Chúa coi Môsê như bạn – diện đối diện! Thế nhưng, trong thực tế, nhiều khi chúng ta cầu nguyện mà thấy Chúa xa cách, khấn xin mà Ngài như nín thinh. Tại sao? Vì tương quan giữa chúng ta với Chúa lỏng lẻo; chúng ta chưa thật sự sống mối tương giao Cha con, bạn hữu. Cầu nguyện là đi vào chiều sâu tương quan, để Chúa ở lại trong lòng mình. “Trong cầu nguyện, có một con tim không lời vẫn tốt hơn ngàn lời không có con tim!” – John Bunyan.

Từ câu chuyện cụ già, chúng ta có thể rút ra bốn cấp độ của cầu nguyện: “Tôi nói, Chúa nghe; Chúa nói, tôi nghe; không ai nói, cả hai đều nghe; và chẳng ai nói, không ai nghe” – Cầu nguyện chính là thinh lặng và yêu mến, đỉnh cao của tương quan giữa ‘Chúa và tôi’- nơi thinh lặng trở thành ngôn ngữ yêu thương. Thinh lặng ấy không phải là khoảng trống, nhưng là viên mãn của tình yêu, nơi không cần lời để hiểu, không cần âm thanh để hấp dẫn nhau. Ở đó, Thiên Chúa và con người gặp nhau trong hơi thở, trong nhịp tim, trong một tương giao vượt khỏi ngôn từ. “Cầu nguyện là cuộc gặp gỡ của hai thinh lặng!” – Thomas Merton.

Anh Chị em,

“Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi?”. Không! Thiên Chúa không bắt ai chờ đợi mãi, nhưng cầu nguyện là sự chờ đợi của linh hồn; không chỉ tôi tìm đến Chúa, nhưng là Ngài đánh thức tôi. Ở đó, mọi lời thưa hoá nên thừa, chỉ còn lại ánh nhìn, hơi thở, và sự hiện diện. Dần dần, tôi hiểu: cầu nguyện không nhằm để Chúa nghe tôi, nhưng để tôi nghe Ngài, để linh hồn tôi và linh hồn Ngài được tự do yêu mến. Và lúc ấy, mọi khoảng cách tan biến – chỉ còn ‘Chúa và tôi’, hai trái tim chung một nhịp đập, hai linh hồn chung một sự sống. Cầu nguyện không thay đổi Thiên Chúa, mà thay đổi cõi lòng chúng ta – Mẹ Têrêxa nói, “Hoa trái của cầu nguyện là đức tin. Hoa trái của đức tin là tình yêu. Hoa trái của tình yêu là phục vụ. Hoa trái của phục vụ là bình an!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, khi tay con buông, xin tay Ngài đỡ; khi lòng con nguội, xin lửa Ngài cháy; khi con không còn lời nào, xin nói trong con bằng sự im ắng của Thánh Thần!”, Amen.

Lm. Minh Anh (Tgp. Huế)

 ************************************************

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN, NĂM C

Thiên Chúa minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 18,1-8

1 Khi ấy, Đức Giê-su kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí. 2 Người nói : “Trong thành kia, có một ông quan toà. Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì. 3 Trong thành đó, cũng có một bà goá. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông : ‘Đối phương tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho.’ 4 Một thời gian khá lâu, ông không chịu. Nhưng cuối cùng, ông ta nghĩ bụng : ‘Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, 5 nhưng mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc’.”

6 Rồi Chúa nói : “Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó ! 7 Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao ? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi ? 8 Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ. Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng ?”


 

Những tiêu cực trong tang chế của người Công giáo- Lm. Giuse Nguyễn Đức Thịnh

Hà Trung Kiên

 Lm. Giuse Nguyễn Đức Thịnh

Nhiều tang gia người Công giáo dường như quên mất điều cốt lõi mà người quá cố thật sự cần là lời cầu nguyện và thánh lễ. Ngày nay, nhiều đám tang Công giáo đang dần bị thế tục hóa: tiếng hát karaoke át lời kinh, chiếu bạc thay chỗ cho giờ chầu, và những nghi thức tín ngưỡng bị pha trộn, méo mó, làm lu mờ đức tin và đánh mất ý nghĩa đích thực của tang chế Kitô giáo – nơi con người hướng về sự sống đời sau trong niềm hy vọng phục sinh.​

Mời cộng đoàn cùng đọc bài viết dưới đây của Lm. Giuse Nguyễn Đức Thịnh – Gp. Long Xuyên về những tiêu cực trong tang chế của người Công Giáo.​

1. Thức khuya canh thức để nhậu, ca hát và đánh bài.​

Khi mẹ Monica sắp tạ thế, hai người con của mẹ là thánh Augustino và em của ngài ngỏ ý sẽ lo hậu sự chôn cất mẹ thế này thế kia. Mẹ Monica chỉ trăn trối một điều: “Con hãy nhớ đến mẹ mỗi khi dâng thánh lễ”.

Điều người qua đời cần là gì? Thưa là lời kinh, thánh lễ… chứ không phải qui tụ cho đông, thức cho khuya để “giao lưu”. Càng ngày càng ít con cháu và thân nhân lo kinh sách, dự lễ khi xác còn quàn tại nhà. Có những đám tang quàn xác ba bốn ngày mà không thấy ai trong gia đình đi lễ cầu cho người thân của mình. Đáng buồn thay cho người đã khuất.

2. Chọn giờ lễ tang không theo giờ cộng đoàn. ​

– Thứ nhất, đó là sự hiệp thông lần cuối cùng với cộng đoàn đức tin mà người chết đã gắn bó cả đời mình.

– Thứ hai, sẽ có nhiều người tham dự cho người thân được hưởng thánh lễ cuối cùng trong dạt dào tâm tình và lời cầu nguyện.

Trường hợp bất khả kháng là người qua đời có nhiều con cháu ở xa nên phải tổ chức giờ khác cho phù hợp. Đừng vì thức khuya đánh bài, ăn nhậu, ca hát… mà tự ý sắp xếp giờ thuận lợi cho bản thân chứ không phải ưu tiên trên hết cho người chết.

  1. Tang gia ồn ào, nhốn nháo.​

Tang chế là mất mát, đau buồn… Là lúc để tưởng niệm, tri ân người đã khuất. Biến tang chế thành “sân khấu ca nhạc”, thành “sòng bạc giải trí”, thành “bàn tiệc giao lưu”… thì hết sức tệ hại, mất hết nhân văn và đạo hiếu của con người.

  1. Cử hành nghi lễ tâm linh theo kiểu “đông tây y kết hợp”.​

Có trường hợp người chết theo đạo Công giáo, nhưng con cháu trong nhà người theo đạo này người đạo kia. Thế là mạnh ai nấy tổ chức, vừa kinh vừa tụng, vừa lễ vừa cúng…

Xin tôn trọng đức tin của người chết, đừng lấy đức tin của người sống áp đặt. Người chết đạo Phật thì bên chùa lo, còn theo Chúa thì để nhà thờ lo. Không đặt niềm tin của người qua đời lên trên hết trong tổ chức tang lễ đó là bất hiếu.

  1. Xem ngày giờ chôn cất.​

Đó là hành vi trái ngược niềm tin Công giáo, vừa không tin Chúa, lại còn lợi dụng người chết với ý muốn “độ” lại cho mình. Khi sống đã ăn bám, đến chết vẫn không tha… thử hỏi còn ân với phúc, đạo với hiếu gì nữa?

Người Công giáo ngày càng bị ảnh hưởng thói đời và các kiểu tâm linh khác niềm tin Ki-tô giáo trong tang chế. Điều này dễ dẫn đến mê tín dị đoan, suy giảm niềm tin vào sự sống đời sau nơi Thiên Chúa, và nhất là trái ngược với ý muốn và lòng khát khao của người đã chết – khi họ đang trực tiếp đối diện với sự chết, đời sau, thiên đàng và hỏa ngục…

Lm. Giuse Nguyễn Đức Thịnh


 

*BÍ ẨN VỀ NGÔI MỘ CỦA ÔNG TỔNG BÍ THƯ TRẦN PHÚ TRONG NGHĨA TRANG ĐÔ THÀNH – SÀI GÒN

Xen Pham

 *BÍ ẨN VỀ NGÔI MỘ CỦA ÔNG TỔNG BÍ THƯ TRẦN PHÚ TRONG NGHĨA TRANG ĐÔ THÀNH – SÀI GÒN

Trước năm 1975, ngoại ô Sài Gòn có một nghĩa trang rộng lớn, được đặt tên là “Nghĩa trang Đô Thành”, nằm trên đường Lê Văn Duyệt (nối dài Sài Gòn) – đối diện là trại lính Nhảy dù Nguyễn Trung Hiếu, và sau lưng là Cư xá Sĩ Quan Chí Hòa (Bắc Hải).

Nghĩa trang này bị giải tỏa vào năm 1998, một phần đất phía sau bị chia chác biến thành nhà ở, còn một phần mặt tiền trở thành Công viên Lê Thị Riêng.

Khi làm việc đào phá tại nghĩa trang này vào ngày 4.1.1999, lao công bất ngờ tìm thấy mộ của ông Trần Phú (Tổng bí thư đầu tiên của đảng CSVN).

Qua đó, sau 68 năm ngày ông Trần Phú chết, nhà cầm quyền ở thành Hồ mới “phát giác” ra một “chứng tích lịch sử” vô cùng quan trọng – để rồi ngày 12.1.1999 vội vã đưa số xương cốt này về tái an táng tại quê nhà của ông ở tỉnh Hà Tĩnh.

Câu chuyện “bí ẩn’ là ở chỗ, tại sao mộ của một Tổng bí thư đảng CSVN lại nằm trong khu Nghĩa trang Công Giáo, ở phía sau Nghĩa trang Đô Thành (sát với con rạch của Cư xá Sĩ quan Chí Hòa).

Nơi  dành riêng cho những người có đạo (có tên Thánh) mới được chôn cất.

Và tại sao tư liệu và lịch sử Đảng CSVN chỉ viết ông bị bắt và mất vào cuối năm 1931, ngoài ra “không ai biết ông mất trong hoàn cảnh nào và chôn cất ở đâu”.

Theo lịch sử hình thành Đảng Cộng Sản ở VN, thì ông Trần Phú là “học trò xuất sắc của Chủ tịch HCM”, được ông Hồ đưa về từ Quảng Châu vào tháng 4 năm 1930.

Cuộc đời làm “Kách Mệnh” của Trần Phú thật ngắn ngủi.

Vào ngày 18.4.1931 ông Phú bị Pháp bắt giam, nhưng đến ngày 6.9.1931 (tức chỉ sau 5 tháng) đã qua đời tại bệnh viện Chợ Quán vì bệnh lao, lúc mới 27 tuổi

(như vậy khó mà có thể tạo hào quang cho ông Phú là đã bị Thực dân hành hạ dã man đến chết trong tù).

Mới đây trên facebook của ông Trần Đăng Phiệt có nói đến việc mộ của ông Trần Phú được tìm thấy ở Đất Thánh họ đạo Chợ Quán nằm sau Nghĩa trang Đô Thành, với mộ bia và tên tuổi đầy đủ.

Nhà cầm quyền CSVN cũng bán tín bán nghi, nhưng sau khi thử DNA thì xác nhận đây chính là hài cốt của ông Trần Phú nên mới cho đem về Bắc, để lập khu tưởng niệm.

Câu chuyện ly kỳ ở chỗ:

“Một cụ già lão thành Cách mạng (bị giam chung với ông Trần Phú)

ở Trà Vinh khi tình cờ biết tin “tìm được mộ TBT Trần Phú” trên báo SGGP đã viết một lá thư dài tường thuật đầy đủ quá trình bị giam giữ, theo đạo, rửa tội, chết  và an táng của ông Trần Phú tại nhà thương Chợ Quán rồi gởi cho Cha sở xứ đạo Chợ Quán vào ngày 03.7.2018″.

Cha sở họ đạo Chợ Quán lúc đó là Linh mục FX Lê Văn Nhạc; Ngài đã kiểm tra lại tài liệu lưu trữ của Giáo xứ giai đoạn 1930-1940 thì phát giác sổ rửa tội năm 1931 có ghi tân tòng Phê-rô Trần Phú.

Sau đó ngài cho sao chụp hồ sơ lưu sổ rửa tội, và bức thư của cụ lão thành Cách mạng Trà Vinh ra làm ba bản. Một gởi cho Chính quyền TP, một gửi lên tòa Tổng Giám mục SG, một lưu tại giáo xứ.

Hiện nay tại bệnh viện Nhiệt Đới (nhà thương Chợ Quán cũ) số 764 Võ Văn Kiệt, P.1, Q.5; bước vào cổng phía tay trái có một công viên nhỏ và tượng đài Đức Mẹ nay vẫn còn lưu giữ, là nơi các dì phước thời xưa mỗi buổi chiều đến thăm nom, chăm sóc bệnh nhân và đưa Mình Thánh cho các bệnh nhân có đạo được rước Chúa.

Vào các chiều thứ bảy, các dì tổ chức dạy Giáo lý và có các Cha đến giải tội.

Ông Trần Phú là một trong những bệnh nhân được cảm hóa, tin Chúa và cảm mến Chúa để được rửa tội tại đây.

Đi vào hành lang bên tay phải, nhà cầm quyền cho dựng lại “một chuồng cọp”

nói là nơi giam giữ ông Trần Phú lúc được đem đến đây chữa bệnh.

Người ta cũng dựng lên một bức tượng của ông tại đó.

Một nữ y tá làm việc lâu năm tại nơi này cho biết:

“Cái nhà đá nói là nơi giam giữ ông Trần Phú là chuyện tưởng tượng.

Bởi thời đó Bệnh viện là bệnh viện, và nếu là phạm nhân thì họ chỉ cần còng tay vào giường và có người canh gác là đủ”.

Riêng Cha sở Lê Văn Nhạc nay đã 80 tuổi. Ngài đang nghỉ hưu tại GX Hạnh Thông Tây, Gò Vấp”.

(Hết trích).

Cần biết, một người trưởng thành xin rửa tội vào đạo Công Giáo thủ tục còn khó hơn đứa trẻ sơ sinh.

Giáo hội đòi hỏi người tân tòng phải học đạo, có người “đỡ đầu”,

và trí óc còn minh mẫn (nếu là bệnh nhân).

Câu chuyện trên, chắc chắn không được nhà cầm quyền CSVN công nhận, bởi Lm Lê Văn Nhạc cho biết, ngài từng được Cán bộ CS đến hỏi thăm khi nhận được “hồ sơ” về việc rửa tội xin vào đạo Công Giáo của ông Trần Phú, và yêu cầu ngài không phổ biến tin tức này.

Và nếu phải nói về việc “ngoài dự kiến” không hay ấy, các văn nô viết lịch sử Đảng cũng sẽ nói “bọn thực dân và tay sai” đã ép buộc Đ/c Trần Phú vào đạo,

để phá bỏ hình ảnh “vô thần” của Tổng Bí Thư.

Cho đến nay CSVN đã có 12 người làm TBT, nhưng rất nhiều ông khi chết đã bị hé lộ chuyện vẫn tin tưởng có thế giới bên kia, chứ không “vô thần” như lúc tuyên thệ vào Đảng.

Ông HCM cũng nói khi chết sẽ đi gặp Các Mác và Lê Nin.

Ông Lê Khả Phiêu trong nhà có bàn thờ Phật to tướng, và khi hạ huyệt có nhiều sư tụng kinh gõ mõ..v.v.

Hiện nay, khi đi vào Công viên Lê Thị Riêng, người ta sẽ thấy phía bên trái có một tượng đài được xây dựng vào tháng 9.2005 dành cho ông Trần Phú với phù điêu mang hình cờ Đảng, cùng câu nói “nổi tiếng” của ông: 

“Hãy giữ vững chí khí chiến đấu”.

Cần biết, trước 1975 đây là nơi đầy “oan khiên, chướng khí”.

Vào năm 1963, gần trăm xác của các binh lính trung thành với TT Ngô Đình Diệm bị quân đảo chính bắn chết, và được đưa về đây.

Đến năm 1968 hơn 2 ngàn xác của Cộng quân bị hạ sát trong trận Tổng tấn công Tết Mậu Thân cũng được “tập kết” thành một lỗ.

Thê thảm hơn, vào ngày 30.4.1975 trên 3 ngàn xác chết của binh lính hai bên, và thường dân cũng được kéo về bỏ chất đống ở nghĩa địa, khiến dân chúng quanh vùng Ngã Ba Ông Tạ phải “ngộp thở” vì mùi tử khí trong nhiều ngày.

Và tất cả những người xấu số chết vào giờ thứ 25 này, đều đã được vùi chung trong một hố chôn tập thể.

Chưa hết, sau Tháng Tư Đen 1975, nhiều chuyến vượt biên không thành với vài chục xác chết của dân vượt biển (ở ấp Hàng Dầu) cũng được chở về đây, chờ người thân đến nhận.

Bên trong Công viên Lê Thị Riêng hiện nay còn có một hồ nước,  nhưng không ai dám cho con em đến gần, bởi “các hồn ma nghĩa địa” đã kéo nhiều em chết chìm khi chơi dưới hồ, dù nước không sâu!

*Nguyễn Vy Túy

(posted by Người Viễn Tây )


 

Người Việt đi nước ngoài – Người Buôn Gió

Người Việt (dưới chế độ Cộng Sản) đi nước ngoài .

Chuyện người Việt Nam ra nước ngoài định cư ngày càng nhiều… đủ mọi hình thức lách luật để được chính thức ở lại như những trường hợp mà tác giả “Người Buôn Gió” đã viết lên.

Cũng có trường hợp xảy ra ở Bruxelles, nơi này hiện tại nhiều người Việt sang đây với nhiều hình thức khác nhau. Chuyện lấy vợ, gả chồng là chuyện bình thường và cũng nhiều người đã làm… lại còn chuyện hắn biết giống như trường hợp được hợp pháp hoá giấy tờ như tác giả viết “Một phụ nữ Việt Nam vào Đức lậu, có bầu và được một người có giấy tờ Đức nhận là bố đưa trẻ, cô và đứa bé được ở lại Đức và nhà nước chu cấp đầy đủ cho hai mẹ con. Kiểu hợp thức hóa giấy tờ như thế này đã có xảy ra ở Bruxelles, được hợp lệ ở lại như là được cấp thẻ xanh còn đến khi nào được quốc tịch thì tính sau vì điều kiện vào quốc tịch ở Bỉ khó khăn hơn lúc hắn xin vào có nghĩa là phải đi làm full time có khai báo đầy đủ trong vòng 5 năm liên tục mới được nộp đơn xin.

Ngày càng nhiều những người ra đi như “dạng hái khế” (không phải người nghèo đi trốn lậu), đi theo dạng hái khế là một cách nói ám chỉ việc chết một cách bất ngờ, đột ngột hoặc không lường trước, giống như một quả khế chín rụng xuống đất mà không báo trước. Thành ngữ này xuất phát từ đặc điểm của quả khế là một loại trái cây chín và rụng bất cứ lúc nào hoàn toàn thể hiện sự ra đi đột ngột, bất ngờ, không báo trước, tương tự như cách quả khế tự rụng xuống .

Đọc bài viết để có một cái nhìn về đất nước và con người Việt Nam ngày hôm nay.

Ara

*****

Người Việt đi nước ngoài

Đất nào sinh ra tôi

Mẹ hiền nào nuôi thân tôi

Miền nào nuôi thân tôi

Mà giờ này tôi xa rồi 

Quê Hương Bỏ Lại là nhạc phẩm mà các ca sĩ hải ngoại di tản theo dạng thuyền nhân sau năm 1975 thường trình bày gây xúc động kiều bào vào thập kỷ 80 của thế kỷ trước.

Nội dung nhạc phẩm trải nỗi lòng của những người tị nạn rời xa quê hương, họ bỏ lại nhà cửa, ruộng vườn và không hẹn ngày trở lại.

Hơn 30 năm sau, nhiều người trong số họ đã trở về từ Khánh Ly, Chế Linh đến các ca sĩ trẻ hơn như Mạnh Quỳnh, Phi Nhung.

Nhưng làn sóng người Việt rời xứ sở ra đi ngày một nhiều hơn, sự ra đi của họ không bi tráng như những thuyền nhân trước kia, họ ra đi trên những chiếc máy bay với một lịch trình cho cuộc sống trước mắt ở xứ người đã được sắp xếp chu đáo bởi các công ty tư vấn, dịch vụ định cư.

Ngày nay trên đường phố quanh khu Bolsa của Nam Cali, thủ phủ của cộng đồng người Việt tị nạn nhan nhản những tấm biển quảng cáo cho dịch vụ định cư, du học, việc làm. Có rất nhiều gia đình quan chức cộng sản đã tìm đến Hoa Kỳ định cư theo diện đầu tư như gia đình Nguyễn Công Khế. Một nữ tổng biên tập một tờ báo ở Việt Nam là Hồ Thu Hồng với cái tên gọi là Beo Hồng cũng đã có mặt trên đất Mỹ từ lâu, tổng biên tập tờ báo Vietnamnet đình đám một thời là Nguyễn Anh Tuấn cũng như Beo Hồng, gia đình Tuấn hiện đã sinh sống tại Mỹ.

Trước mắt các bạn đã thấy ba tổng biên tập của ba tờ báo lớn Việt Nam, những tờ báo hàng ngày vẫn ca ngợi đảng và chính phủ Việt Nam đem lại tăng trưởng, đem lại hạnh phúc, tự do cho nhân dân, họ đã đưa gia đình đến nơi mà tờ báo của họ từng miệt thị, chửi bới thậm tệ để sinh sống. Những người kế cận họ lại điệp khúc khen chế độ Việt Nam (việt cộng), chửi Mỹ và đánh đấm kiếm tiền đưa gia đình sang Mỹ.

Vô vàn các nghệ sĩ, ca sĩ Việt Nam bằng cách nào đó như kết hôn, hợp đồng lao động đã kiếm cho mình được tấm thẻ xanh trên đất Mỹ.

Bây giờ tôi thường xuyên nhận được tin nhắn hỏi về việc định cư tại châu Âu. Một chủ nhà hàng lớn trong chuyến du lịch đến châu Âu, vốn là người quen cũ, ông ta hẹn tôi uống cà phê và bày tỏ ý định tìm cách định cư tại châu Âu. Dự định của ông là mua nhà bên Hy Lạp với giá khoảng 250 ngàn Euro, chính phủ Hy Lạp đang khủng hoảng về tài chính, họ có chính sách bán nhà và cấp giấy định cư cho những người nước ngoài đến mua nhà. Người mua nhà ở Hy Lạp có giấy tờ đi lại trong khối Schengen tức đi lại trong 27 nước Tây Âu, với giấy tờ này người ta có thể sống và làm việc tại bất kỳ nước nào, miễn có việc làm và nuôi được bản thân không xin trợ cấp.

Rẻ hơn nữa là Latvia, với khoảng 150 nghìn Euro mua nhà bạn có thể sở hữu được tấm giấy phép như vậy.

Còn ở Đức thì giá đắt hơn, một gia đình có thể phải mất đến vài trăm ngàn để làm một dự án kinh doanh, nhà hàng, công ty tạo việc làm để đưa cả một gia đình đi.

Đỗ Liên, đại sứ danh dự Việt Nam ở Châu Phi, chủ hãng bảo hiểm AAA khi xưa nay đang cùng chồng sau sở hữu một nhà hàng lớn ở ngay trung tâm Berlin. Liên cùng chồng sau là Toàn và các con cái đã sống ở đây vài năm, họ vẫn đi đi về về Việt Nam điều hành việc làm ăn ở nhà. Quán của vợ chồng Toàn Liên sau vài năm mở để đưa cả gia đình sang, hiện đã sang bớt cổ phần cho Quán Ngon. Số tiền vợ chồng Toàn Liên chuyển sang đầu tư đến hàng triệu Euro, riêng phần bếp đã vài trăm nghìn. Có đến hàng trăm, đó là con số tôi có thể biết về những người Việt Nam đầu tư sang Châu Âu để kiếm giấy tờ hợp pháp sinh sống ở châu Âu như vậy.

Ở Hung ngày càng nhiều người Việt hơn, với 60 nghìn euro cho gia đình 4 người và thêm khoảng 100 ngàn euro mua nhà, cả gia đình 4 người đã có giấy tờ. Trước đây Hung còn có chính sách nếu ai mua trái phiếu chính phủ khoảng 3-400 trăm ngàn euro gì đó sẽ được cấp thẻ xanh vĩnh viễn, chương trình này chấm dứt rất nhanh bởi người Trung Quốc nhanh chóng ùa đến. Sau ba năm trở lại Hung, trên con phố đi bộ đắt nhất của thủ đô Hung, bên dòng Đa Nuyp thơ mộng. Những con người từ xứ Tô Châu đã tìm đến đây để sống với một môi trường trong sạch, an toàn không ô nhiễm và đầy bạo lực như quê hương họ.

Đại sứ quán Hung ở Việt Nam không đủ người để giải quyết hàng đống hồ sơ xin mua nhà, xin tạm cư của người Việt.

Ở Hung mua nhà không bị hỏi tiền ở đâu ra, miễn là bạn mua nhà hay bất động sản ở Hung thì bạn có cầm vali tiền mặt đều được chấp nhận. Hình như sau bao nhiên năm gì đó bạn mới được bán đi.

Đấy là những người có tiền, những người ít tiền hơn họ chọn cách ra đi bằng đường du lịch sang Nga và trốn đường rừng vào Ba Lan, Lát Vi A rồi sang đến Đức, nơi có cộng đồng đông đảo người Việt đang sinh sống, những đồng bào cùng miền quê với họ sẽ giúp họ tìm việc làm và đợi thời gian tích luỹ số tiền sẽ hợp pháp hoá giấy tờ trên cơ sở điều luật nhân đạo của Đức như kết hôn, nhận bố, nhận con. Rất nhiều cô gái trẻ người Việt mặt non choẹt đẩy xe nôi trên đường phố Berlin. Một phụ nữ Việt Nam vào Đức lậu, có bầu và được một người có giấy tờ Đức nhận là bố đưa trẻ, cô và đứa bé được ở lại Đức và nhà nước chu cấp đầy đủ cho hai mẹ con. Năm sau cô sinh đứa thứ hai, một người đàn ông Việt chưa có giấy tờ nhận là bố đứa trẻ, anh ta sẽ được giấy tờ và trợ cấp. Với cách thức như thế, càng ngày càng nhiều nam nữ thanh niên Việt Nam tìm đến nước Đức qua con đường trốn từ Nga sang. 

Từ năm ngoái ở Ba Lan có kiểu những người Việt đi du lịch sang Châu Âu, khi đến Ba Lan sẽ tìm một công ty dịch vụ làm giấy tờ chứng nhận họ có hợp đồng lao động ở Ba Lan, giá chỉ 2 ngàn euro là có một giấy tạm cư 2 năm tại Ba Lan. Đây là những người nghèo khổ, ở quê hương họ không có việc làm, không có tương lai. Họ phải vay mượn, cầm cố đất đai cho những đường dây đưa người lậu để mong đến được nước Đức đổi đời.

Canada và Úc là những nước dễ nhập cư nếu như bạn có hợp đồng lao động. Một phụ nữ có hai đứa con nhỏ, chị kiếm được hợp đồng làm chăm sóc người già ở Canada, thế là chị và hai đứa con giờ ở Canada đã 5 năm. Một thằng em tôi quen trên Facebook, mới ngày nào còn la oai oái việc thanh toán tiền thi công của đối tác chậm ở Việt Nam, nay thấy ung dung đưa ảnh đang ăn hải sản bên Úc với con cua to đùng và gật gù khen ngon và rẻ hơn quê hương có mấy ngàn cây số ven biển của mình.

Những người ra đi sau này họ vẫn đi đi về Việt Nam để kiếm tiền bởi những quan hệ quan chức và các mối quan hệ làm ăn của họ vẫn đang hái ra tiền ở Việt Nam.

Một dự án hàng trăm triệu, hàng tỷ USD ở Việt Nam được thực hiện, tiền vốn chính phủ vay của nước ngoài, nhà thầu nước ngoài được phép thi công, các quan chức Việt Nam được nhà thầu lại quả trung bình 15%. Hãy hình dung chỉ cần dự án 100 triệu là có 15 triệu đủ để cả chục gia đình quan chức Việt Nam có tiền mua đất đai và giấy tờ định cư ở nước ngoài.

Những dự án đó phá hoại môi trường, gây ô nhiễm không khí, đẩy người dân vào cảnh mất đất và giao thông chật chội, hỗn loạn, khiến người dân Việt Nam luôn chất chứa sự uất ức mà chính họ không hiểu nguyên nhân. Sự uất ức đấy tích tụ và thành những hành động tiêu cực khi gặp việc, có thể họ trộn chất độc hại vào thức ăn để bán kiếm lời để lại mối hoạ ung thư tràn lan, hoặc họ rút dao ra đâm nhau khi có chuyện xích mích, hay đường xá và phương tiện với tỉ thứ trong đầu người dân khiến mạng sống con người có thể chấm dứt trong tích tắc trên đường.

Nhưng những người hái khế ưu tú đã có phương án của họ, ra đi để tránh cho gia đình mình phải chịu chung những mối lo như thế ở Việt Nam, quê hương chỉ là nơi họ hái khế phục vụ gia đình mình.

Và càng nhiều những người ra đi như dạng hái khế (không phải người nghèo đi trốn lậu) theo dạng đầu tư như trên, họ để lại đàng sau càng nhiều ô nhiễm môi trường, xã hội loan lạc, bệnh tật ở quê hương Việt Nam.

Người Buôn Gió

From: My Tran

THÁNH LUCA THÁNH SỬ – Lm. Phaolô Phạm Quốc Túy

 Lm. Phaolô Phạm Quốc Túy

 Thánh Luca, tác giả Phúc âm thứ ba và sách Công vụ sứ đồ, là người đóng góp đơn độc và rộng rãi nhất cho Tân ước.  Như các tác phẩm cho thấy, ngài là một trong những Kitô hữu có học nhất thời Giáo Hội ly khai

Dầu vậy, ngài rất mực khiêm tốn và ẩn mình đi đến nỗi dù một chút gì chúng ta biết về ngài cũng phải đọc trong những dòng chữ của ngài bằng kính phóng đại.  Chúng ta chú mục vào những chỗ “nhóm chúng tôi” thay vì “họ,” nghĩa là ngài nhận sự có mặt của mình trong khung cảnh chuyển nó vào những dẫn chứng rời rạc trong thánh Phaolô, tìm những khuôn mặt xem ra rõ rệt nhất, phân tích việc chọn lựa và xử dụng từ ngữ của ngài.  Dần dần hình ảnh của thánh Luca nổi lên.

 Ngài tự bẩm sinh là người Hy Lạp, chứ không phải Do thái, nhưng theo ngôn ngữ và văn minh xem ra ngài đã không sinh ra tại những thành phố Hy Lạp lớn miền cận đông.  Một tác giả thứ hai nói ngài sinh ra tại Antiôkia, Syria và khi những biến cố xảy ra dường như ngài đang sống ở đó trong thập niên bốn mươi của thế kỷ đầu và đã là một trong những lương dân trở lại đầu tiên. 

Theo nghề nghiệp, ngài là y sĩ và rất có thể đã theo học Đại học tại Tarsê.  Bởi đó có thể ngài đã có vài tiếp xúc trước với thánh Phaolô khoảng năm 49 hay 50, ngài đã liên kết với thánh Phaolô trong sứ vụ qua Tiểu Á tới Âu Châu.  Dầu vậy khi tới Philipphê, thánh Luca đã dừng lại đó, không phải là Giám mục của Giáo hội tân lập vì dường như thánh nhân đã không hề lãnh nhận chức thánh, nhưng đúng hơn ta có thể gọi là “thủ lãnh giáo dân.”

 Hơn nữa, ngài dường như dấn thân vào thành phần sử gia, một vai trò mà sự giáo dục và cố gắng rất phù hợp với ngài.  Sự quan sát kỹ lưỡng và diễn tả chính xác là những từ ngữ của các trường thuốc Hy Lạp và các văn phẩm của thánh Luca chứng tỏ để ngài đã biết áp dụng chúng vào lãnh vực lịch sử.  

Dầu vậy, vào khoảng năm 57, thánh Phaolô đã từ Corintô trở lại qua Macedonia trên đường đi Giêrusalem, để thu thập các đại diện từ nhiều Giáo Hội khác nhau và thánh Luca đã nhập bọn, từ đó trở đi ngài đã không hề rời xa thầy mình.  Ngài đã chứng kiến việc người Do Thái tìm cách hại Phaolô và việc người Rôma giải cứu thánh nhân.  Khi Phaolô đáp tàu đi Rôma sau hai năm bị tù ở Cêsarêa, thánh Luca ở với ngài.  Họ bị đắm tàu ở Malta và cùng tới Rôma.  Nhưng ở Rôma, thánh Luca đã thấy một trách vụ khác đang chờ đón ngài.  Rôma là con mắt của Phêrô và người phát ngôn của thánh Phêrô là Marcô đã xuất bản Phúc âm viết tay của ngài. 

 Nhưng còn những ký ức khác đã được viết ra hay truyền tụng rời rạc hoặc toàn bộ về cuộc đời của Chúa chúng ta trên trần gian.  Thánh Luca đã quyết định rằng : sứ vụ cho lương dân cần một Phúc âm mới, được viết ra bằng Hy ngữ văn chương hơn là Phúc âm của Marcô cho hợp với lương dân có học và không dành riêng cho người Do Thái như là Phúc âm của thánh Matthêo: việc trước tác sách này là phần tiếp theo sách Công vụ sứ đồ xem như hoàn thành tại Rôma giữa năm 61 tới 70, nhưng thánh Luca đã trốn cuộc bách hại của Nêrô và đã trải qua quãng đời còn lại tại Hy Lạp. 

 Tài liệu thế kỷ thứ hai viết : 

– “Trung thành phục vụ Chúa, không lập gia đình và không có con; ngài được qua đời hưởng thọ 84 tuổi ở Boctica, đầy tràn Thánh Thần.”
 

Thánh Luca là một vị thánh luôn luôn bình dân.  Một phần có lẽ vì chúng ta hiểu rõ ngài là một giáo dân, thừa hưởng văn hóa Hy lạp cổ.  Hơn nữa, ngài bình dân vì đặc tính lương dân và dấn thân của mình.  Tất cả văn phẩm của ngài đầy quan tâm đến con người, thương cảm con người, liên hệ tới người nghèo, hào hiệp với phụ nữ.  Ngài cũng rất hấp dẫn bởi đã thu thập và kể lại vô số những công cuộc đầy nhân hậu của Chúa Kitô. 

Thật ra người ta sẽ lầm lẫn khi dìm mất tính chất và giáo huấn nghiêm khắc của Chúa.  Nhưng các y sĩ có thể hãnh diện về ngài vì chắc hắn không có y sĩ nào sẽ qua mặt được ngài về “tình yêu dành cho nhân loại.”  Và những người còn lại trong chúng ta có thể biết ơn ngài vì nhờ ngài chúng ta có được dụ ngôn cây vả khô chồi (13:6), đứa con hoang đàng (15:11), và người Samaria nhân hậu (10:29).  Chúng ta cũng biết ơn ngài vì câu chuyện người kẻ trộm thống hối và cả năm mầu nhiệm Mân Côi mùa Vui. 

Nhưng trên tất cả, chúng ta mắc ơn ngài Kinh Ave “Ngợi khen” (Magnificat), Chúc tụng (Benedictus), Phó dâng (Nuncdimittis) với quá phân nửa câu truyện ngày lễ Giáng sinh.  Rồi đây là chỗ mà sự khiêm tốn ẩn mình của thánh nhân xa rời chúng ta. 

Thánh Luca đã nghe truyện từ miệng Chúa không?  Thánh nhân không nói điều này cho chúng ta nhưng rất có thể lắm.  Chúng ta biết sau cuộc đóng đinh, Mẹ đã được thánh Gioan săn sóc và chắc chắn đã có sự giao tiếp giữa hai thánh sử này . Nhưng trùng hợp của hai Phúc âm (như về việc biến hình) hay những trùng hợp về ngôn ngữ trong phần đầu sách Công vụ mạnh mẽ minh chứng điều này.
 

Hơn nữa, nếu thánh Luca được rửa tội ở Antiôkia khoảng năm 40 thì tự nhiên là có thể tìm gặp được thánh Gioan ở Giêrusalem…  Lúc ấy Đức Mẹ trên dưới 70 tuổi.  Như vậy không có lý gì thánh Luca lại không thể nghe chính môi miệng Mẹ kể chuyện.  Mà dầu chuyện nầy có đến với ngài cách gián tiếp đi nữa, chúng ta vẫn biết ơn ngài đã lưu lại cho chúng ta những giai thoại đặc biệt ấy.
 

Trích: Theo Vết Chân Người, Lm. Phaolô Phạm Quốc Túy

From: Langthangchieutim

CHỦ NGHĨA ” MA-KÊ-NÔ” TRONG ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG – Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

(Suy niệm Chúa Nhật truyền giáo)

Sứ điệp : Diệt trừ bệnh vô cảm thiêng liêng để hăng hái lên đường dẫn đưa anh chị em lưu lạc về đoàn tụ trong Gia đình Thiên Chúa.

***

Ma-kê-nô, một cách nói khôi hài và mỉa mai, rút ra từ cụm từ “mặc kệ nó”, ám chỉ thái độ sống vô cảm, vô tâm, không hề quan tâm đến phúc lợi của những người chung quanh.

Bệnh vô cảm hay chủ nghĩa ma-kê-nô tràn lan trong xã hội

Vô cảm là một đề tài được đề cập khá nhiều trên các trang báo Việt Nam hiện nay và được xem như một thứ bệnh dịch đáng sợ gây ra những tác hại to lớn cho đồng bào, cho quê hương, đất nước. Một số người chỉ quan tâm đến lợi ích và an toàn của mình mà thờ ơ với phúc lợi của  những người chung quanh. Họ chủ trương: “đèn nhà ai nấy rạng”, “cháy nhà hàng xóm bình chân như vại”, “sống chết mặc bây” vv…

Báo chí gọi đó là bệnh vô cảm, là chủ nghĩa “ma-kê-nô” đang tràn lan trong xã hội chúng ta.

Điều đau lòng là vô cảm không chỉ là một căn bệnh xã hội mà còn là một thứ bệnh tinh thần của nhiều người con cái Chúa. Người đời thì vô cảm với nỗi đau buồn của đồng bào trong nước, còn một số Ki-tô hữu thì vô cảm trước những bất hạnh tinh thần của đông đảo anh chị em chung quanh mình.

Vô cảm với nỗi đau của Thiên Chúa Cha

Thiên Chúa là Người Cha rất mực tốt lành, ngày đêm ưu phiền khắc khoải vì đông đảo con cái yêu dấu của Ngài không nhận biết Ngài là Cha rất tốt lành và giàu lòng yêu thương; vì thế, họ ngoảnh mặt quay lưng lại với Cha, không nhìn nhận sự hiện hữu của Ngài. Trước tình trạng nầy, Thiên Chúa đau khổ xiết bao!

Dầu vậy, nhiều người con trong nhà Cha vẫn thờ ơ vô cảm trước nỗi lòng thổn thức đau khổ của Cha, miễn là hiện nay mình được an vui hạnh phúc trong Nhà Cha là được rồi.

Vô cảm với cảnh bơ vơ lạc lối của anh chị em mình

Là những người con trong nhà Cha, chúng ta được diễm phúc sống kề cận bên Cha, được Cha ấp ủ bằng tình phụ tử ngọt ngào, được Cha dưỡng nuôi bằng những lời khôn ngoan do Chúa Giê-su mang từ trời xuống, được Chúa Thánh Thần là Thầy khôn ngoan soi đường dẫn lối, được Đức Maria là Mẹ hiền bao bọc chở che bằng tình mẫu tử thiêng liêng trìu mến, được đón nhận vô vàn ân sủng qua các Bí Tích… Chúng ta cũng giống như những phú hộ sung túc trong đời sống thiêng liêng. Thế nhưng chúng ta lại tỏ ra dửng dưng vô cảm với những anh chị em ruột thịt con cùng một Cha trên Trời, không được diễm phúc như mình.

Vì vô cảm, chúng ta không nói cho anh chị em ngoại đạo biết họ có một Người Cha giàu lòng yêu thương. Vì vô cảm, chúng ta không ra tay dẫn đưa những anh chị em lưu lạc về với Cha để cùng chung hưởng hạnh phúc với mình. Vì vô cảm, chúng ta cứ vui hưởng hạnh phúc của người con trong nhà, còn những anh chị em bất hạnh vì chưa được đoàn tụ trong Nhà Cha thì… “ma-kê-nô”, “sống chết mặc bây”, ta khỏi cần bận tâm!

Vô cảm trước lời thôi thúc mời gọi của Cha

Rất nhiều lần, Lời Cha qua miệng Chúa Giê-su vang dội trong tâm hồn chúng ta: “Hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá (Lc 5,4)”; “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần… Mt 28,19)”; “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. Anh em hãy ra đi.” (Lc 10,2)… Nhưng những lời thôi thúc mời gọi đó không gây được âm vang để lay động con tim vô cảm của chúng ta, không đủ mạnh để nhen lửa truyền giáo trong tâm hồn, mà chỉ như làn gió nhẹ thoảng qua mặt hồ rồi im bặt.

Chủ nghĩa “ma-kê-nô”

Hôm xưa, sau khi Ca-in thanh toán đứa em vô tội của mình, có tiếng Chúa từ trời vọng xuống hạch tội Ca-in. Ngài hỏi: “Ca-in, em ngươi đâu?”

Ca-in vô cảm trả lời: “Tôi đâu phải là người canh giữ em tôi!” (St 4,9), Ma-kê-nô!

Và hôm nay, nếu Chúa hỏi mỗi người chúng ta:

– “Con có biết lòng Cha ray rứt đau khổ ngày đêm vì có hơn 2 phần 3 nhân loại chưa hề biết Ta là Cha thật sự của họ không?” Trong trường hợp nầy, câu đáp đổi lại thành: “Ma-kê-you!” (Mặc-kệ-Cha)

– “Con có biết hiện nay có hơn 90 triệu đồng bào Việt Nam, là anh chị em ruột thịt của con, đang cần con nói cho họ biết mình có Cha trên trời hết lòng yêu thương họ và họ đang cần được con dẫn về đoàn tụ trong nhà Cha không?” Câu đáp cũng sẽ là: “Ma-kê-nô!”

Lạy Chúa Giê-su,

Trong hàng trăm thứ bệnh con người mắc phải thì bệnh vô cảm tinh thần là bệnh đáng sợ và làm cho Chúa đau buồn nhất. Xin giúp chúng con thoát khỏi căn bệnh tai hại nầy để hăng hái lên đường dìu dắt những anh chị em lạc xa nhà được sớm trở về đoàn tụ trong Đại Gia đình của Cha. Amen.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

From: ngocnga_1& NguyenNThu


 

Việc lần chuỗi làm cho toàn bộ ngày sống của tôi bình an hơn- Cha Vương

Hôm nay Houston trời đẹp , chúc Bạn và gia quyến ngày ấm áp được Chúa và Mẹ ấp ủ. Đừng quên cầu nguyện cho nhau nhé!

Cha Vương

Thứ 6: 17/10/2025.  (t3-23)

Thánh Jose Maria Escriva chia sẻ tâm tư của ngài về Kinh Mân Côi như sau: Ngày nay cũng như những thời đại khác, Kinh Mân Côi hẳn là một vũ khí đầy sức mạnh giúp chúng ta chiến thắng trong cuộc chiến nội tâm của chúng ta, và giúp ích cho tất cả mọi linh hồn. Mời bạn tiếp tục suy niệm điều bất ngờ thứ 5 khi bạn chạy đến Mẹ Maria qua Kinh Mân Côi nhé.

Điều Bất Ngờ Thứ 5 khi bạn cầu nguyện thường xuyên với chuỗi Mân Côi là ngày sống của bạn trở nên êm đềm hơn—Đây là những gì mà một trong số các tác giả của chúng ta nói về việc cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi hằng ngày: “Việc lần chuỗi làm cho toàn bộ ngày sống của tôi bình an hơn, như Đức Mẹ đang cùng tôi chiến đấu với những điều tồi tệ.” Mọi thứ trở nên dễ dàng hơn. Tôi ý thức hơn sự hiện diện của Thiên Chúa.” Cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi không xóa đi nỗi đau trong đời sống của bạn, nhưng nó thực sự đưa tới cho bạn vũ khí mạnh mẽ hơn nhiều để chiến đấu với những khó khăn ấy.

Xin hãy đọc 10 Kinh Kính Mừng với ý chỉ cầu nguyện cho nỗi khó khăn của chính mình.

From Do Dzung

***************************

Hạt Ngọc Mân Côi Dâng Mẹ || Sáng tác: Thừa Sai – Sóng Tình || Hoàng Hà

Bệnh viện Bà Rịa bị tố không cấp cứu, bỏ mặc nạn nhân đến chết

Ba’o Nguoi-Viet

October 17, 2025

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Gia đình một nam thanh niên 19 tuổi, tố bệnh viện Đa Khoa Bà Rịa không cấp cứu, khiến con họ chết oan sau khi bị tông xe trong lúc nhà thương này bác bỏ cáo buộc.

Trong bài đăng trên mạng xã hội, Facebooker Thanh Xuân kể, hôm 12 Tháng Mười, anh Điểu Đặng Quan Tâm, 19 tuổi, sinh viên trường Đại Học Văn Lang, Sài Gòn, về thăm nhà tại xã Châu Đức, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu trước đây, nay thuộc TP.HCM.

Anh Điểu Đặng Quan Tâm và bài đăng của gia đình tố bệnh viện Đa Khoa Bà Rịa tắc trách. (Hình: Chụp qua màn hình)

Khi từ nhà quay lại Sài Gòn, nam thanh niên bị đụng xe, nằm co giật trên đường và được đưa vào bệnh viện Đa Khoa Bà Rịa.

Theo bài đăng, nhà thương này chờ thân nhân anh Tâm đến thì mới tiến hành cấp cứu cho nạn nhân trong lúc gia đình anh này không hề hay biết sự việc.

Một bác sĩ sau đó kể lại giây phút cuối, anh Tâm thều thào gọi “Chúa, Chúa” rồi qua đời vào sáng hôm sau.

Đến trưa hôm 13 Tháng Mười, cha mẹ anh Tâm thấy tin con trên Facebook nên đến nhà xác của bệnh viện đón về lo hậu sự.

Nhiều Facebooker sau đó chia sẻ bài đăng, kêu gọi công lý cho nạn nhân.

Tờ Người Lao Động hôm 17 Tháng Mười dẫn phản hồi của Bác Sĩ Dương Thanh, giám đốc bệnh viện Đa Khoa Bà Rịa rằng bài đăng của người nhà anh Tâm là “chưa chính xác, gây ảnh hưởng đến uy tín và hoạt động chuyên môn của bệnh viện.”

Nhà thương này đề nghị Công An TP.HCM điều tra và xử lý các thông tin sai sự thật được đăng tải trên mạng xã hội.

Thông cáo báo chí của bệnh viện Bà Rịa cho biết vào chiều ngày 12 Tháng Mười, Khoa Cấp Cứu tiếp nhận một nam thanh niên chưa rõ họ tên, được xe cứu thương đưa vào trong tình trạng “bệnh kích thích, không tiếp xúc được, không có thân nhân đi cùng.”

Bệnh viện này cho rằng nam thanh niên, tức anh Điểu Đặng Quan Tâm “đã được khám bệnh, chỉ định thực hiện cận lâm sàng và chữa trị” trước khi rơi vào hôn mê sâu và thiệt mạng.

Bệnh viện Đa Khoa Bà Rịa. (Hình: Người Lao Động)

Bệnh viện sau đó làm thủ tục chuyển thi thể vào nhà xác do chưa xác định được thân nhân của anh Tâm.

Facebooker Diễm Đặng, chị của anh Điểu Đặng Quan Tâm, viết trên trang cá nhân: “…Tại sao bệnh viện [Bà Rịa] lại không cứu người khi chưa có người nhà?  ‘Lương y như từ mẫu’ để làm gì? Bệnh viện lập ra để cứu người hay để chỉ cứu những ai có người nhà, có tiền? Một mạng người ra đi, không ai báo tin cho gia đình, không ai đứng ra giúp đỡ. Công lý ở đâu? Lương tâm ở đâu?” (N.H.K) [kn]


 

CÙNG CÕI ĐỊA CẦU – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Chúa Giêsu chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Dù chỉ là một tân tòng – Luca được mừng kính hôm nay là một nhà truyền giáo, một sử gia, một tác giả lớn của hơn 1/4 sách Tân Ước. Như một công cụ sắc bén, Luca mang thông điệp cứu độ của Thiên Chúa đến mọi dân nước, mọi thế hệ ở ‘cùng cõi địa cầu’.

Tại Troa, thầy thuốc Luca xin trở lại, làm đồ đệ của Phaolô, “Chỉ một mình Luca ở với tôi!” – bài đọc một. Đồ đệ này đã cống hiến hai công trình nền tảng là Tin Mừng thứ ba và Công Vụ Tông Đồ – ‘nhật ký đầu đời’ của Giáo Hội. Không thể hiện sự am tường về niềm tin và tập tục, Luca chú tâm vào những gì cần cho lương dân: một Thiên Chúa xót thương, chữa lành. Chỉ Luca đề cập con số “72”; các Phúc Âm khác chỉ nói “Nhóm 12”. Vì thế, “Nhóm 72” là biểu tượng cho sự chuẩn bị mọi lương dân ở ‘cùng cõi địa cầu’. “Người thầy thuốc đích thực chữa lành linh hồn trước khi chữa lành thân xác!” – Hippocrates.

Chỉ với Luca, chúng ta nợ ngài về những kiến thức của mầu nhiệm Nhập Thể; các khoản rõ ràng như Magnificat, Benedictus và Nunc dimittis. Với biến cố Truyền Tin – Luca như thể thấp thỏm sau khuê phòng Maria trinh bạch – nơi Gabriel cho biết, cô sẽ là Mẹ Cứu Chúa. Và cũng chỉ với Luca, chúng ta nợ ngài về những gì xảy ra ở Lễ Ngũ Tuần; và sau đó, các hoạt động của Thánh Thần trong buổi lâm bồn của Hội Thánh. “Mầu nhiệm Nhập Thể khởi đầu trong tiếng thì thầm, và kết thúc trong cơn gió mạnh của Thần Khí!” – Fulton Sheen.

Các học giả khảo cổ đánh giá cao Luca. William Ramsay gọi “Luca là nhà sử học hạng nhất với những tuyên bố thực tế đáng tin cậy… được xếp với những sử gia vĩ đại nhất!”; E. M. Blaiklock, “Một sử gia xuất sắc, ngang hàng với các văn sĩ vĩ đại Hy Lạp!”; N. L. Geisler, “Luca kể tên 32 miền, 54 thành và 9 hòn đảo mà không một sai sót!”. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là trong sự nghiệp cầm bút, Luca không viết với tư cách sử gia mà là một nhà truyền giáo công bố sứ điệp lòng thương xót của Thiên Chúa và sự chữa lành của Ngài. Có truyền thống cho Luca là một hoạ sĩ; một tác phẩm nổi tiếng về Đức Maria được gán cho Luca. Vì thế, Luca được coi là thánh bảo trợ các nghệ sĩ và các bác sĩ.

Anh Chị em,

“Bảy mươi hai môn đệ khác!”. Chúng ta là những “môn đệ khác” được chỉ định và sai đi như “Kẻ hiếu trung với Chúa được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang” – Thánh Vịnh đáp ca. Hãy là “kẻ hiếu trung” giúp người khác nhận biết vinh quang Nước Chúa! Hãy cầu nguyện cho một ai đó, một số người nào đó; đừng ngần ngại trở thành một nhà truyền giáo với những phương tiện tuyệt vời ‘sẵn trên tay!’. Khi làm vậy, chúng ta có thể tạo nên ‘một sự khác biệt vĩnh viễn’ trong cuộc sống của một ai đó, ở một góc trời nào đó. Với Luca, bạn và tôi tiếp tục ra đi loan Tin Mừng cứu độ cho đến ‘cùng cõi địa cầu!’. “Được sai đi không phải là đi xa, nhưng là hiện diện thật gần!” – Henri Nouwen.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con biết rằng, có thể con chỉ là một trong bảy mươi hai môn đệ, nhưng với ai đó, con có thể là người duy nhất!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)  

********************************

Lời Chúa Kính Thánh LUCA, TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG, Thứ Bảy Tuần XXVIII Thường Niên

Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 10,1-9

1 Khi ấy, Chúa Giê-su chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. 2 Người bảo các ông : “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. 3 Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. 4 Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường. 5 Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói : ‘Bình an cho nhà này !’ 6 Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy ; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em. 7 Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. 8 Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. 9 Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ : ‘Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông’.”


 

TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT, NHÀ CAI TRỊ LỖI LẠC CỦA ĐẤT GIA ĐỊNH THÀNH

Kimtrong Lam                                                   

TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT, NHÀ CAI TRỊ LỖI LẠC CỦA ĐẤT GIA ĐỊNH THÀNH.

       Trong ký ức của người Sài Gòn-Gia Định sinh trưởng vào những thập niên 1940 -1950 trở về trước, hình ảnh “Lăng Ông Bà Chiểu” là một trong những biểu tượng đậm nét, nhất là vào những ngày lễ Tết, việc đi viếng Lăng Ông trở thành một tập quán thiêng liêng mà mỗi gia đình đều không bao giờ sơ suất. Trong nghi ngút khói hương thành kính, lòng mỗi người nhớ về Tả Quân Lê Văn Duyệt, Tổng trấn Gia Định Thành, như một nhân vật lỗi lạc đã góp công lớn trong việc gầy dựng vương triều Nguyễn, mang lại thái bình thịnh trị cho một dải đất trải dài từ Bình Thuận đến Hà Tiên và tạo được thế mạnh trong quan hệ với các nước láng giềng.

* LÊ VĂN DUYỆT – HỔ TƯỚNG THỜI NGUYỄN ÁNH – GIA LONG.

      Năm 1763, khi cư dân Lê Văn Toại, người gốc Quảng Ngãi, chứng kiến sự ra đời của cậu bé Lê Văn Duyệt tại vàm Trà Lọt – Định Tường (nay thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang), nhìn thấy tình trạng bất túc (về cơ quan sinh dục) của con trai, ông chẳng bao giờ nghĩ rằng có một ngày nào đó, con mình trở thành một nhân vật hiển hách bậc nhất triều đình.

     Trong thời thơ ấu, cậu bé Duyệt chỉ có một đam mê lớn nhất là … đá gà. Thế rồi năm 1780, một bước ngoặt xảy ra khi ông tình cờ gặp được chúa Nguyễn Ánh đang trên đường ẩn lánh trước sự truy đuổi của quân Tây Sơn. Với thể trạng bất túc bẩm sinh, Duyệt chỉ có thể làm một Thái giám tầm thường chuyên phục vụ nội cung. Thế nhưng, ông đã không cam lòng với thân phận đó, vì sau những bước gian truân cùng chúa Nguyễn nơi đất khách, ông đã chứng tỏ cho mọi người một nhãn quan nhạy bén về quân sự, một khả năng cầm quân đầy hứa hẹn.

      Nhờ đó, vào năm 1793, từ một Thuộc nội Cai đội (chánh ngũ phẩm), Lê Văn Duyệt được thăng Thuộc nội Vệ úy (chánh tam phẩm), một biệt lệ chưa từng thấy trong giới hoạn quan lúc bấy giờ.

      Những năm cuối thập niên 1790, khi nhà Tây Sơn, sau cái chết của nhà lãnh đạo kiệt xuất Quang Trung-Nguyễn Huệ (1792), đã để lộ những khiếm khuyết trầm trọng, từ sự lộng quyền của Thái sư Bùi Đắc Tuyên đến những mâu thuẫn nội bộ hoàng gia, Lê Văn Duyệt tỏ rõ là một dũng tướng dưới trướng chúa Nguyễn Ánh, không một trận đánh nào do ông cầm quân mà thất bại. Hiển hách nhất là trận Thị Nại vào tháng giêng âm lịch năm 1801, trận đánh quyết định cho cả một cuộc chiến.

     Lúc này, ông đã là Đô Thống chế Tả dinh quân thần sách, hàm Tòng nhất phẩm. Trong trận thủy chiến sống mái với hổ tướng Tây Sơn Võ Văn Dũng, bộ tướng của ông là Võ Di Nguy bị trúng đạn tử thương, chúa Nguyễn Ánh muốn lui binh, nhưng ông thân hành cầm quân xốc tới, dùng hỏa công thiêu cháy hầu hết thuyền chiến Tây Sơn. Sử xác định đây là võ công lớn nhất trong cuộc nội chiến giữa nhà Nguyễn với nhà Tây Sơn.

      Sau khi vua Gia Long lên ngôi (1802), kết thúc một thời kỳ biến động dài trên đất nước, võ nghiệp của Lê Văn Duyệt không vì thế mà kém hào hùng. Ở Quảng Ngãi, có người Man Thạch Bích thường gọi là “Mọi Đá vách”, rất nhiều lần nổi lên đánh phá, quan quân địa phương không trừ nỗi, cứ mỗi lần như thế, dù ở triều đình hay ở Gia Định Thành, Lê Văn Duyệt đều được điều ra đó để dẹp yên. Đặc biệt năm 1819, ông được cử đi kinh lược đất Thanh Hóa, Nghệ An, nghe oai danh ông, bọn giặc cướp tại địa phương vừa ra hàng, vừa giải tán, chỉ sau một thời gian ngắn, tình hình rối ren chấm dứt; ông dâng sớ xin chấn chỉnh bộ máy cai trị ở địa phương, tha thuế cho dân, từ đấy hai trấn này yên hẳn (Quốc triều sử toát yếu – NXB Văn học, Hà Nội 2002, trang 138).

* LÊ VĂN DUYỆT – NHÀ CAI TRỊ LỖI LẠC.

     Cùng với Bắc Thành, Gia Định Thành là tổ chức hành chánh đặc biệt thời Gia Long, gồm 5 trấn (Biên Hòa, Phiên An, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên), trải dài từ Bình Thuận đến Hà Tiên, phần lớn là đất mới thu phục, dân cư ô hợp từ khắp nơi tụ hội về sinh sống. Năm 1812, Lê Văn Duyệt được cử làm Tổng trấn Gia Định Thành, quyền hạn cao hơn cả cấp Thượng thư. Ông không chỉ là một hổ tướng, mà còn là một nhà cai trị lỗi lạc. Tính chung, thời gian ông đảm trách chức chưởng Tổng trấn là hơn 15 năm, gồm 3 năm thời Gia Long (1812-1815) và 12 năm thời Minh Mạng (1820-1832), đủ để ông làm được nhiều điều, cả ở cương vị một quan cai trị lẫn người đại diện triều đình trong giao dịch, ứng xử với lân bang.

        Nhận thấy đất Gia Định phần nhiều là dân tứ chiếng giang hồ, đời sống phức tạp, dễ gây ra tình trạng rối loạn về trật tự trị an, ông cho thành lập các đồn điền, dồn những kẻ du thủ vào đó, vừa tiện giúp đỡ họ mưu sinh, vừa dễ kiểm soát. Chẳng bao lâu, số dân đinh tại những nơi này tăng lên rõ rệt. Có lần, vua Minh Mạng đã ban dụ khen ngợi Tả Quân về việc này, vì sự gia tăng số cư dân kiểm tra được chứng tỏ chính sách an dân thực hiện có hiệu quả. Riêng đối với giặc cướp tại địa phương, “Duyệt đặt ra những điều luật ngăn cấm minh bạch, ra lệnh cho các quan chức sở tại mật báo quan biết những tên giặc cướp đó để bắt ngay chúng về trừng trị, lại ra thông cáo cho giặc cướp biết nếu chúng tự mình ra thú, thời sẽ được thu dụng. Từ đó trở đi, giặc cướp mới hết, dân cư nhờ thế mà được yên …”. (Giá Sơn Kiều Oánh Mậu – Bản triều bạn nghịch liệt truyện – Bộ Quốc gia Giáo dục Sài Gòn – 1963 – trang 23).

      Về bản thân nhà cai trị, cho dù là quan đại thần nhất phẩm triều đình, ông luôn tỏ ra khắt khe, nghiêm cẩn với chính mình. Năm 1825, một viên chức thuộc tào Binh tại Gia Định là Bùi Phụ Đạo lỡ tay đóng triện ngược trong sổ binh dâng về triều, vua Minh Mạng giao cho đình thần nghị xử, cho dù sơ suất đó không có gì là lớn lao. Được tin này, Tả quân cho rằng đó là lỗi mình không trông nom nên dâng biểu xin nhận tội. Vua Minh Mạng đã miễn trách và ban dụ rằng: ”Duyệt là bậc đại thần ở nơi bờ cõi, phàm trong hạt việc lợi thì làm, việc hại thì bỏ, người có tài thì tiến lên, người không tài thì bãi đi, khiến quan lại được xứng chức, nhân dân được yên nghiệp, như thế thì quan to sợ phép, quan nhỏ giữ liêm, ai là không biết khuyên răn, phép làm cho quan lại trong sạch như thế chẳng là đẹp tốt sao? Điều mà trẫm đòi ở Duyệt là ở đó, mà Duyệt làm được xứng chức cũng là ở đó …”. (Đại Nam thực lục – tập 2 – NXB Giáo Dục – 2004 – trang 464).

     Nhận xét về ông, những lời lẽ trên của vua Minh Mạng tưởng là đã quá đủ. Tinh thần trách nhiệm mà ông thể hiện đến nay vẫn còn có giá trị thực tiễn cho hậu thế. Bản tính ông thẳng thắn và trung thực nên có những việc làm không chính đáng của triều đình là ông phản ứng ngay.

    Những năm 1826 -1827, triều đình lấy cớ hai viên chức người Pháp là Chaigneau (Nguyễn Văn Thắng) và Vannier (Nguyễn Văn Chấn) đã xin về Pháp, không còn ai làm thông ngôn, yêu cầu các địa phương vận động giáo sĩ Pháp về Huế đảm trách giúp việc này. Trong chức trách của mình, Lê Văn Duyệt vận động hai giáo sĩ Gagelin và Odorico ra Huế; nhưng không lâu sau, ông được biết việc tìm thông ngôn chỉ là cái cớ, mục đích chính của triều đình Huế là giam lỏng hầu hết các giáo sĩ tại kinh thành, trong đó có cả Giám mục Taberd.

     Cảm thấy có trách nhiệm trong chuyện này, ông vội vàng cho sao một số trong 14 bức thư mà chúa Nguyễn Ánh đã viết gửi cho Giám mục Bá Đa Lộc cùng một số giáo sĩ và viên chức Pháp (để yêu cầu hỗ trợ đánh nhà Tây Sơn) vào những thập niên cuối thế kỷ 18, rồi xin ra Huế bệ kiến nhà vua. Sau một thời gian chờ đợi, ông được vua Minh Mạng cho về triều để dự lễ lục tuần khánh tiết (mừng thọ 60 tuổi) của Thuận Thiên Hoàng Thái hậu. Mấy tháng sau chuyến đi đó của ông, Giám mục Taberd và các giáo sĩ được thả về địa phương.

Trong bức thư đề ngày 8.2.1828 đăng trên Tập san Truyền bá Đức tin (tập IV), Giám mục Taberd đã viết về ông như sau: ”… Ông xứng đáng được người Pháp nhớ ơn …Ông được gọi là Thượng công, là người đầu tiên và cũng là người duy nhất trong số các quan lại được nhà vua nễ sợ … Những quan lại khác cũng rất yêu mến ông, bởi vì họ biết rằng ông là người chính trực; bọn trộm cướp rất sợ ông vì chúng biết là rơi vào tay ông sẽ bị chém đầu, mà không có hi vọng gì dùng tiền bạc để mua chuộc ông, như đã mua chuộc nhiều người khác …”. (Bulletin des Amis du Vieux Hue số 1 năm 1926, trang 2-3).

* Về mặt giao dịch với lân bang.

Ông là người đã mang lại cho triều đình Huế một uy tín lớn lao nhất trong con mắt các láng giềng. Năm 1813, trong lúc nội tình Chân Lạp (Campuchia ngày nay) rối ren, nước Xiêm (Thái Lan) có ý mang quân sang thực hiện những ý đồ định sẵn, ông thân hành dẫn hơn 13.000 quân đưa quốc vương Chân Lạp là Nặc Chân về nước. Đến nơi, ông ban ngay quân lệnh nghiêm cấm cướp phá dân lành, vỗ về trăm họ, quân Xiêm thấy thế vội rút về nước.

      Từ đó, vua Chân Lạp xem triều đình Huế là chỗ dựa vững chắc trước sự đe dọa của những lân quốc khác. Hàng năm, cứ vào chiều 30 Tết, quốc vương Chân Lạp thân hành đến Sài Gòn để sáng mùng một Tết, cùng Tả Quân Lê Văn Duyệt tới Hành cung trong thành Gia Định vọng bái hoàng đế Việt Nam và sau đó ra Đồng Tập Trận (sau Pháp gọi là Plaine des Tombeaux: Đồng mả mồ) xem binh sĩ thao diễn. Đó cũng là dịp để Tả quân cho người lân quốc tỏ rõ sức mạnh quân sự của Việt Nam.

     Tuy nhiên, không chỉ giao dịch với lân quốc trên thế mạnh, ông còn biết hành xử hợp với lẽ phải ở đời. Có lần Chân Lạp mang tặng nước ta 80 con voi, ông thấy nước bạn còn nghèo, lại không thể không nhận voi, nên tâu xin và được vua Gia Long cho xuất kho tặng lại họ một khoản tiền tương xứng với số voi nhận về … Vào thời ấy, các sứ bộ Việt Nam đi sang Diến Điện (Miến Điện, nay là Myanmar) trở về kể rằng khi tiếp sứ, quốc vương nước này vẫn thường bắt đầu cuộc nói chuyện bằng câu hỏi: ”Lê công có khỏe không?”. Điều này cho thấy oai danh ông khiến cả vùng Đông Nam Á nễ phục.

* LÊ VĂN DUYỆT – ĐÔI NÉT VỀ ĐỜI SỐNG RIÊNG.

    Sử chép rằng Tả quân Lê Văn Duyệt là người tính tình bộc trực đến độ ngang tàng. Năm 1800, trong một trận đánh, ông là Phó tướng của Nguyễn Văn Thành, trước khi xung trận, Thành rót rượu mời ông: ”Uống rượu để thêm sức mạnh”, ông từ chối thẳng thừng: “Ai tánh hay sợ mới uống rượu để cho thêm sức mạnh, còn như tôi thời trước mắt coi không trận dữ, cần chi phải uống rượu …”. (Quốc triều chánh biên – Nhóm nghiên cứu Sử Địa Sài Gòn – 1972 – trang 37). Ông Thành cả thẹn, từ đấy hai người ít gần gủi nhau như trước.

     Trong thời gian ông tại chức Tổng trấn Gia Định Thành, dinh cơ của ông trải dài từ đường Thái Văn Lung ngày nay đến sau dinh Thống Nhất. Tư thất phu nhân Tả quân, bà Đỗ Thị Phẫn (vốn là một cung nữ, được vua Gia Long thưởng cho ông để làm bầu bạn), nằm trong khuôn viên dinh Thống Nhất ngày nay. Vườn hoa nơi ông đến để ngắm hoa, người đương thời gọi là Vườn Ông Thượng (thời Pháp thuộc là vườn Bồ-Rô, sau là vườn Tao Đàn, nay là Công viên văn hóa thành phố) vì danh nghĩa Thượng công là tiếng xưng hô phổ biến nhất trong dân gian.

    Cuộc sống thanh đạm, bình dị của Tả quân được George Finlayson, một thành viên trong phái bộ Crawfurd của Anh đến Sài Gòn năm 1822, miêu tả trong một bút ký kể lại lần được diện kiến ông và được ông cho xem trận voi hổ quyết đấu: …”Tư thất của ông to lớn nhưng giản dị, cả bên trong lẫn bên ngoài đều không có trang trí gì … Quan Tổng trấn ngồi ở cuối phòng, trên một cái sập rất đơn giản, rộng khoảng 4 m2, có trải chiếu và đặt một, hai chiếc gối tựa. Trên một cái sập thấp hơn, kê ở phía trái, là chỗ ngồi của ông Phó Tổng trấn, một cụ già dung mạo tao nhã, có lẽ tuổi đã quá thất tuần … Quan Tổng trấn, như lời thiên hạ kể, là một hoạn quan, vẻ mặt của ông xác định điều đó. Ông vào khoảng 50 tuổi (năm 1822, ông Duyệt 59 tuổi – LN), có cái nhìn thông minh và một vẻ năng động mạnh mẽ về thể chất lẫn tinh thần. Gương mặt ông tròn trịa và hiền lành, không râu và có những nếp nhăn. Trang phục của ông chẳng những giản dị mà còn có vẻ thiếu chăm chút, như áo quần của những kẻ nghèo khổ nhất …”.

* CHÚT HUYỀN SỬ VỀ TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT

      Sau khi Tả quân Lê Văn Duyệt qua đời vào tháng 7 âm lịch năm 1832, trong con mắt người dân Sài Gòn – Gia Định xưa, ông là hiện thân của sự oai linh và hiển hách. Năm 1835, cuộc nổi dậy do người con nuôi của ông là Lê Văn Khôi và các tướng sĩ tại thành Phiên An khởi xướng bị triều đình Huế đánh tan, dù mất đã lâu, ông vẫn bị triều đình khép vào 7 tội trảm (xử chém), 2 tội giảo (treo cổ), ngôi mộ ở lăng Ông ngày nay bị xiềng lại và dựng tấm bia khắc tám chữ “Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ”. (Nơi chịu tội của tên hoạn quan lộng quyền Lê Văn Duyệt).

     Sách Bản triều bạn nghịch liệt truyện kể rằng: ”Mộ của Duyệt ở bên thành Gia Định từ Minh Mạng năm 16 (1835) trở đi, những lúc trời âm u, đêm yên tĩnh, có tiếng ma quỷ khóc than, hoặc tiếng ồn ào người ngựa; dân cư nơi đó không dám lại gần, người đi đường đều dời lối khác để tránh đi. Đến lúc ấy, vua sai quan địa phương đem giấu bỏ tấm bia và cho con cháu tự ý sửa chữa ngôi mộ, thì tiếng ma quỷ trong ban đêm mới dứt …”. (Sđd – trang 67, 69).

     Những câu chuyện truyền tụng đó không có thật về mặt khoa học, nhưng về mặt tâm linh, nó phản ảnh sự đồng cảm của cư dân đất Gia Định trước nỗi oan khuất của một lão thần từng vào sinh ra tử, góp công lớn trong việc xây dựng vương triều Nguyễn, nhưng chỉ vì sự u mê, hẹp hòi của đấng quân vương mà sau khi mất rồi, vẫn còn bị đối xử như một kẻ tội đồ …

****

VÌ SAO ĐÃ CÓ MỘT THỜI TẢ QUÂN LÊ VĂN DUYỆT ĐƯỢC COI LÀ NHÂN VẬT “CÓ VẤN ĐỀ”?

     Năm 2009, trong một cuộc trả lời phỏng vấn của tạp chí Đương Thời số 4 (28), tháng 4.2009, trước yêu cầu trình bày quan điểm về các “nhân vật phức tạp” Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký, tôi đã trình bày ý kiến về nhân vật Lê Văn Duyệt như sau:

   “… – Những gì xảy ra trong quá khứ cho chúng ta thấy rằng các sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử, thường được nhìn dưới nhiều lăng kính khác nhau, song có một thứ lăng kính không bao giờ méo mó hay sai lạc, đó là “lăng kính nhân dân”. Sự tồn tại của lăng Tả quân Lê Văn Duyệt (Lăng Ông Bà Chiểu), đền thờ Kinh lược sứ Phan Thanh Giản, sau nhiều biến chuyển của thời cuộc, đã nói lên điều đó.

    Có một thời, chúng ta quá “rạch ròi” trước cái tốt và cái xấu, cái gì chúng ta cho là tốt thì tốt toàn diện, cái gì chúng ta cho là xấu thì xấu triệt để. Nhưng lịch sử không có cái gì tuyệt đối cả. Chúng ta đánh giá nhà Tây Sơn là “toàn diện” nên cái gì đi ngược lại, chống lại quan điểm, sự tồn tại của nhà Tây Sơn thì đều là “phi nghĩa” hết. Nếu bình tâm mà xét, bên cạnh chiến công hiển hách mà người anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ đã lập được trong công cuộc chống ngoại xâm năm 1789, nhà Tây Sơn sau năm 1792 chỉ còn là một bóng mờ của quá khứ, vua Cảnh Thịnh còn quá nhỏ, không tạo được một dấu ấn nào, đại thần lộng quyền làm điều xằng bậy, anh em trong nhà chống lại nhau …

Trong tình cảnh đó, sự sụp đổ của nhà Tây Sơn trước lực lượng quân sự hùng mạnh của chúa Nguyễn Ánh là điều dễ hiểu. Cứ nhìn cách cư xử của người dân Bắc hà đối với vua tôi Cảnh Thịnh trong bước khốn cùng (năm 1802) cũng thấy được điều này. Tôi cho rằng chính quan điểm coi nhà Tây Sơn là “toàn diện” đã gián tiếp đưa những người từng góp công lớn trong việc kết thúc triều đại này vào hàng ngũ “phản diện”.

    Lê Văn Duyệt là một ví dụ tiêu biểu. Khi cư xử với ông như vậy, người ta quên rằng ông không dính dáng gì đến cuộc xâm lược của thực dân Pháp, vì khi đó, ông đã mất gần 30 năm rồi; mảnh đất miền Nam trải dài từ Bình Thuận vào đến Hà Tiên giặc cướp không dám nổi dậy, người dân an cư lạc nghiệp, các lân bang hết sức tôn trọng triều đình Huế, là nhờ có ông. Khi còn nhỏ, đi học gần lăng ông, tôi thường nhìn thấy rất nhiều người Hoa đến đó thắp hương với tất cả niềm thành kính, và tôi ngộ ra rằng lòng biết ơn của con người thật kỳ diệu, nó không phân biệt quốc tịch, giai cấp hay những giá trị phù phiếm nào khác.

Tôi nghĩ rằng có lẽ cũng do quan điểm “toàn diện” trên, mà có một thời, các chúa Nguyễn cũng được xếp vào hàng ngũ những kẻ “phản động nhất trong lịch sử” và không ít người nhất định cho rằng triều Nguyễn để mất nước là do đã bế quan toả cảng (đến nay vấn đề này vẫn còn tranh cãi) và cấm đạo, cứ làm như thể nếu không có hai chính sách đó thì thực dân Pháp sẽ khoanh tay ngồi yên để chúng ta duy trì sự độc lập dài dài vậy. Sự chú tâm vào một quan điểm bảo thủ duy nhất khiến đôi lúc chúng ta quên đi một yếu tố quá rõ ràng là hành động của thực dân Pháp nằm trong khuôn khổ một kế hoạch tranh giành thuộc địa gay gắt với thực dân Anh tại châu Á lúc bấy giờ; và vào giữa thế kỷ XVIII, nghĩa là khoảng 100 năm trước ngày Pháp chiếm Việt Nam, theo đề xuất của một lái buôn Pháp là Pierre Poivre, Chính phủ Pháp từng cử người (Bá tước d’Estaing) mang quân đánh úp Phú Xuân của ta (cuộc hành trình bị bỏ dở nửa chừng tại eo biển Malacca vì những nguyên nhân khách quan).

    Cuối cùng, chỉ xin nhớ một điều là năm 1558, khi Đoan Quận công Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hoá thì giang sơn của ta chỉ mới đến Bình Định ngày nay, nếu các chúa Nguyễn không có những chính sách nội trị và ngoại giao sáng suốt, nếu đất nước không có những con người tài năng và tâm huyết như Nguyễn Hữu Cảnh, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thoại, … thì chúng ta không thể có được dải giang sơn kéo dài đến tận mũi Cà Mau như bây giờ. Chỉ cần quên đi điều này, chúng ta đã biến mình thành những kẻ vô ơn đối với người đi trước rồi …”. (hết trích).

     Đã hơn 16 năm qua rồi, song hẳn là những quan điểm ấy vẫn chưa phải là thừa!

Sài Gòn 17.10.2025

    Lê Nguyễn

—– 

Nguồn: FB Lê Nguyễn.


 

TÔ LÂM ĐANG BỊ MẮC KẸT TRÊN CHÍNH CÁI NGAI VÀNG MÀ MÌNH C.Ư.Ớ.P ĐƯỢC

Việt Tân 

TÔ LÂM ĐANG BỊ MẮC KẸT TRÊN CHÍNH CÁI NGAI VÀNG MÀ MÌNH C.Ư.Ớ.P ĐƯỢC

Tô Lâm đã c.ư.ớp được ngai vàng. Nhưng rồi ông ta nhận ra c.ư.ớp thì dễ, giữ mới khó.

Bởi cái ngai ấy không hề có tính chính danh, nó được dựng lên không phải bằng niềm tin, sự ủng hộ mà bằng sợ hãi, nghi kỵ, và những bộ hồ sơ tham nhũng mà chính ông từng dùng để leo lên tranh ghế.

Giờ đây, mỗi khi ông ngồi xuống, chiếc ngai lại kêu răng rắc như tiếng xương của cả hệ thống đang nứt dần.

Triều đại Tô Lâm mở màn bằng Nghị định 168, cây roi thép quất thẳng vào dân, tăng mức phạt giao thông, siết tự do, và chính thức khai sinh thời kỳ công an trị đậm đặc.

Rồi đến việc bỏ thuế khoán, khiến hàng vạn tiểu thương lao đao, chợ truyền thống vắng như sau bão.

Người ta nói đùa: “Thời Tô Lâm là thời đánh tư sản phiên bản 2.0” , từ tiệm vàng, doanh nghiệp… ai sơ sẩy là thành tội phạm, ai muốn yên thân thì phải biết “nộp lễ” cho yên cửa yên nhà.

Siết dân bằng kinh tế vẫn chưa đủ, Tô Lâm còn muốn bịt miệng dân bằng công nghệ.

Bộ Công an dưới thời ông nắm trọn Luật An ninh mạng, quản lý viễn thông, kiểm soát dữ liệu người dùng, mạng xã hội, và cả thông tin thuê bao điện thoại.

Hàng trăm người bất đồng chính kiến bị bắt, hàng ngàn tài khoản bị chặn, và hàng triệu người dân học cách im lặng để tồn tại.

Đó không còn là bảo vệ an ninh quốc gia mà là bóp nghẹt tiếng nói của nhân dân, để duy trì sự sợ hãi làm công cụ cai trị.

Nhưng Tô Lâm không chỉ đánh dân, ông ta còn đánh cả đồng chí.

Bằng cách dồn mọi quyền lực, dự án, ngân sách về Bộ Công an, ông khiến các Bộ khác chỉ còn là phông nền trên sân khấu quyền lực.

Bằng cách đưa người nhà, đồng hương Hưng Yên vào những vị trí trọng yếu, ông biến guồng máy thành “Hưng Yên trị”, ” gia đình trị”.

Và bằng việc công khai bắt tay với những cái tên từng bị xem là “thế lực cũ” như Nguyễn Tấn Dũng, Nông Đức Mạnh, ông đã đâm thẳng vào cấm kỵ mà Nguyễn Phú Trọng để lại.

Ông ta mượn danh “chống tham nhũng” nhưng thực chất là triệt hạ và khống chế phe đối thủ.

Ông nói “tinh gọn bộ máy” nhưng lại chỉ tinh gọn phần của thiên hạ, còn Bộ Công an thì phình to như cái bóng bao trùm cả chính quyền.

Chỉ trong chưa đầy một năm, Tô Lâm chọc giận dân, chạm nọc Đảng, và làm rạn cả quân đội.

Bộ Công an giờ quyền lực đến mức Bộ Quốc phòng cũng phải dè chừng.

Những tin đồn rằng Phan Văn Giang được nhiều phiếu tín nhiệm hơn Tô Lâm, và sự cố đọc nhầm chức danh trên sóng truyền hình, không phải ngẫu nhiên mà có. Đó là phép thử dư luận, và kết quả rõ ràng: dân nghiêng về quân đội, chứ không tin vào một kẻ khoác áo công an trị.

Tô Lâm giờ đây sống trong lo sợ. Ngai vàng của ông được dựng bằng quyền lực và nỗi sợ hãi, nên chỉ cần một vết nứt niềm tin, tất cả sẽ sụp đổ.

Người ta tưởng ông thắng. Nhưng thật ra, ông chỉ đang bị kẹt trên chính đỉnh quyền lực do mình dựng lên. Leo càng cao, càng cô độc. Mà càng cô độc, càng dễ ngã.

Tô Lâm đã đánh mất niềm tin của dân, mất lòng đồng đảng, và cả chỗ dựa từ những người từng giúp ông leo lên. Lịch sử cho thấy, không một triều đại nào có thể tồn tại lâu dài nếu chỉ biết cai trị, đàn áp và bóc lột nhân dân.

Ngai vàng của Tô Lâm không cần ai lật đổ, nó đang tự cháy từ bên trong.

Cô Ba


 

Cái Chết Oan Ức Của Nữ Phóng Viên Đặng Tuyền (Hải Đường)

Tri Nguyen Ông Tám 

Cái Chết Oan Ức Của Nữ Phóng Viên Đặng Tuyền (Hải Đường)

Đặng Thị Tuyền, bút danh Hải Đường, sinh năm 1983 tại huyện Thường Tín, Hà Nội, là một nữ phóng viên tài năng, đầy nhiệt huyết của Văn phòng đại diện Báo Pháp luật TP.HCM tại Hà Nội. Với cây bút sắc bén, chị đã có nhiều bài viết điều tra sâu sắc về các vấn đề xã hội, pháp luật, từ những vụ việc oan sai đến các bất cập trong quản lý đất đai và tham nhũng địa phương. Không ít lần, Hải Đường phải đối mặt với đe dọa, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng khi lật tẩy những góc khuất đen tối của xã hội.

Là một người mẹ đơn thân, chị một mình nuôi dạy cậu con trai 6 tuổi – Trần Đặng Trường Giang – bằng nghề viết báo kết hợp mở quán bún đậu mầm và làm gia sư tiếng Pháp. Cuộc sống của chị giản dị nhưng đầy nghị lực, luôn tràn đầy tình yêu thương dành cho gia đình và niềm đam mê với nghề báo. Thế nhưng, vào ngày 11/6/2018, mọi thứ đột ngột dừng lại khi chị mất tích sau một buổi tác nghiệp tại huyện Thanh Trì. Thi thể chị được tìm thấy vào chiều hôm sau, trôi dạt trên sông Hồng, cách bến đò thôn 1, xã Vạn Phúc khoảng 2km, trong tình trạng không một dấu vết rõ ràng về nguyên nhân tử vong.

Cái chết của Hải Đường không chỉ là nỗi đau mất mát mà còn là một bí ẩn đầy oan ức, khiến dư luận và gia đình không khỏi xót xa và phẫn nộ. Gia đình chị, đặc biệt là ông Đặng Văn Tĩnh – người cha già – kiên quyết bác bỏ mọi giả thuyết về tự tử hay tai nạn chết đuối, bởi Tuyền là một người bơi lội rất giỏi, yêu đời và yêu con đến mức không thể có chuyện quyên sinh. “Tuyền yêu con trai lắm. Nó cũng biết nó quan trọng với gia đình nên không bao giờ có thể có chuyện quyên sinh”, ông Tĩnh từng nghẹn ngào chia sẻ. Thi thể chị không có dấu hiệu chấn thương rõ rệt, nhưng vị trí phát hiện cách xa nơi mất tích, cùng với việc điện thoại và đồ dùng cá nhân biến mất, khiến nhiều người nghi ngờ đây là vụ án mạng được dàn dựng tinh vi.

Công an huyện Thanh Trì đã vào cuộc, tiến hành khám nghiệm tử thi và thực nghiệm hiện trường vào ngày 5/7/2018 tại bến đò Vạn Phúc, với sự chứng kiến của hàng chục người thân khóc ngất, gọi tên con gái trong nỗi đau đớn tột cùng. Dù vậy, đến nay, sau hơn 7 năm, vụ việc vẫn treo lơ lửng mà không có kết luận chính thức, như một vết thương chưa lành trong lòng làng báo chí Việt Nam. Cái chết oan ức của Hải Đường không chỉ cướp đi một tài năng mà còn là lời cảnh tỉnh về những rủi ro mà các nhà báo chân chính phải đối mặt, khi sự thật đôi khi bị che lấp bởi bóng tối của quyền lực và lợi ích nhóm.