20 VIỆC ĐƠN GIẢN TÍCH PHÚC LÀNH MỖI NGÀY

Gieo Mầm Ơn Gọi

20 VIỆC ĐƠN GIẢN TÍCH PHÚC LÀNH MỖI NGÀY (Càng âm thầm, càng chân thành phúc càng lớn)

  1. Mỉm cười với người khác – gieo năng lượng tích cực.
  2. Nói lời tử tế, chân thật – lời lành chữa lành tâm hồn.
  3. Giúp đỡ người gặp khó khăn – dù là việc nhỏ.
  4. Đừng vứt rác bừa bãi – bảo vệ môi trường là giữ phúc cho đời sau.
  5. Chăm sóc cha mẹ, người thân – hiếu đạo là gốc phúc đức.
  6. Không sân si, nói xấu người khác – giữ miệng là giữ phúc.
  7. Đọc sách thiện lành, truyền cảm hứng – nuôi dưỡng tâm hồn trong sạch.
  8. Chia sẻ thức ăn cho người thiếu thốn – bố thí là một hình thức bác ái.
  9. Tha thứ cho người làm mình tổn thương – buông bỏ là một cách nhẹ lòng.
  10. Thành tâm cầu nguyện, hướng thiện – tâm sáng thì đường đi cũng sáng.
  11. Tôn trọng mọi người, không phân biệt giàu nghèo.
  12. Không sát sinh, ăn chay khi có thể – gieo lòng từ, nhận bình an.
  13. Tình nguyện, giúp đỡ cộng đồng – góp sức nhỏ, mang ý nghĩa lớn.
  14. Giữ lời hứa, sống có uy tín – một chữ “tín” giữ ngàn phúc lành.
  15. Chăm sóc động vật, không hành hạ chúng.
  16. Biết ơn những gì mình đang có – người biết đủ là người hạnh phúc.
  17. Không tham lam, không chiếm đoạt của người khác.
  18. Khuyên người khác sống thiện, sống đúng – truyền phúc cho người lành.
  19. Tránh tranh cãi vô ích, giữ tâm an tịnh.
  20. Làm việc bằng cả cái tâm, không gian dối – mỗi việc làm đều ghi dấu phúc lành.

Phúc lành không đến từ việc lớn, mà đến từ cái tâm khi làm việc nhỏ. Bạn có thể chọn 1–2 việc mỗi ngày, lặp lại với tâm chân thành, thời gian sẽ chứng minh mọi điều. Chúc bạn một đời an vui – trong tâm có phúc, ngoài đời có may

ST


 

Vụ án Hồ Duy Hải, chứng cứ vô tội đã có ở trong hồ sơ

Ba’o Đàn Chim Việt

Tác Giả: Đàn Chim Việt

25/09/2025

Hồ Duy Hải trong một phiên tòa. Ảnh: CTV.

 Trại tạm giam công an tỉnh Long An được đặt ở xã Mỹ Phú, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An, cách không xa sông Vàm Cỏ Tây, quanh năm uốn lượn ôm ấp vỗ về.

 Tháng tư năm 2023 tôi đã đến đây với mong muốn được vào gặp tử tù Hồ Duy Hải. Sau khi liên hệ thủ tục ở cổng trại và xuất trình giấy tờ, nhân viên trực ban gọi điện thoại đi đâu đó rồi quay ra trả lời từ chối luật sư.

 Mặc dù đã dự liệu về việc bị từ chối nhưng tôi không khỏi ngậm ngùi xót xa khi nghĩ về người tử tội đang bị giam cầm nơi này. Không có việc gì khác để làm tôi đứng ngồi loanh quanh một lúc rồi ra về.

Chứng cứ bỏ sót

 Khi nhận lời bà Nguyễn Thị Loan nhờ kêu oan, bản thân tôi nhiều lần đã tự hỏi liệu mình có thể làm được gì khi mà vụ án đã được đông đảo dư luận xã hội biết đến.

 Vụ án đã quá nổi tiếng với những tình tiết chứng cứ trong hồ sơ đều đã được các luật sư, nhà báo, và những người am hiểu trên mạng xã hội, đưa ra phân tích công khai với những nhận định đánh giá rất có sức thuyết phục.

 Bối cảnh của vụ án là như vậy khi mà cũng đã xảy ra được 15 năm, bản thân tôi nghĩ rằng mình sẽ khó thể tìm ra được chứng cứ nào mới, điều có thể làm là đưa ra những nhận định phân tích từ góc độ kinh nghiệm kiến thức bản thân, để làm rõ thêm bản chất của vụ án.

 Sau quá trình nghiên cứu về vụ án tới thời điểm này tôi cho rằng cơ sở chứng cứ chứng minh Hồ Duy Hải bị oan đã có ngay trong hồ sơ vụ án. Nhưng để mọi người hiểu ra được vấn đề thì trước tiên xin dẫn lại câu chuyện về một vụ án xảy ra ở nước Anh.

 Tôi biết đến vụ án này qua một bộ phim có tựa đề Nhân danh Cha (In the Name of the Father), nội dung phim dựa theo một vụ án oan có thật ở nước Anh, một số người bị bắt với cáo buộc đã tiến hành một vụ đánh bom một quán rượu ở Luân Đôn khiến nhiều người chết.

 Trong số những người bị bắt có hai người đàn ông là cha con, dù đã bị kết án có tội họ vẫn không ngừng kêu oan. Sau nhiều năm sự vụ của họ được một nữ luật sư chú ý đến, bà đã nhận lời theo đuổi vụ việc của họ.

 Nữ luật sư đã đi tìm kiếm lại những manh mối chứng cứ, cô tìm đến nơi lưu trữ hồ sơ vụ án, đó là một khu lưu giữ tài liệu rộng lớn được quản lý chặt chẽ, sau khi làm thủ tục theo quy định, nhân viên cơ sở lưu giữ đưa cho cô tập tài liệu vụ án.

 Một lần khi xem nữ luật sư đã phát hiện ra một tập tài liệu đã không được trưng ra trước tòa tại những phiên xét xử trước đó, trong đó có lời khai nhân chứng có thể cho thấy sự ngoại phạm của các bị cáo.

Từ cơ sở này, nữ luật sư đã đấu tranh để yêu cầu tòa án xét xử lại vụ án, vì những chứng cứ mới chưa được thẩm tra khi xét xử trước đó. Với cơ sở bằng chứng hợp lý mới, cộng với việc bấy lâu bị cáo kêu oan, tòa án Anh đã cho rằng cảnh sát trước đó đã cố tình giấu đi những thông tin có lợi cho nghi phạm, làm sai lệch sự thật khiến cho bồi thẩm đoàn khi ấy kết tội oan.

 Bởi vậy phán quyết mới được đưa ra bởi một bồi thẩm đoàn mới, tuyên án tha bổng cho nhóm người bị kết án, nhưng lúc này người cha đã chết vì bạo bệnh trong chốn lao tù.

 Vụ Hàn Đức Long

 Việc cảnh sát điều tra bỏ ra ngoài hồ sơ vụ án những chứng cứ có lợi cho bị cáo là điều đã từng xảy ra ở Việt Nam, cụ thể là trong vụ án của tử tù Hàn Đức Long tôi đã minh oan trước kia.

 Mặc cho bị cáo kêu oan đến khi ra tòa xét xử, cả hai phiên sơ thẩm và phúc thẩm, tòa án vẫn tuyên là có tội với án tử hình. Sau đó Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao đã ra quyết định giám đốc thẩm hủy bỏ các bản án để điều tra lại từ đầu.

 Quá trình điều tra lại xảy ra sự việc là một điều tra viên thụ lý chính của vụ án bị chết, khi mở tủ hồ sơ của người này thì phát hiện ra một số tài liệu liên quan đến vụ án Hàn Đức Long nhưng bị bỏ ra ngoài hồ sơ vụ án, khi ấy liên ngành tư pháp đã ngồi họp lại với nhau và thống nhất đưa lại các tài liệu này vào hồ sơ khi đó đang được giải quyết.

 Trong tập tài liệu được đánh số từ 1 đến 49 này có một số tài liệu cho thấy giữa ông Hàn Đức Long và hai mẹ con bà cụ hàng xóm là những người đã tố cáo ông Long hiếp dâm đã xảy ra mâu thuẫn đánh nhau.

Do tranh chấp lối đi chung liền kề giữa hai nhà, ông Long đã có hành vi bạo lực tấn công hai mẹ con bà cụ, vụ việc đã được công an xã giải quyết buộc ông Long phải bồi thường cho mẹ con nhà kia.

Thời điểm khi ấy vụ án giết người hiếp dâm cháu bé 5 tuổi mới xảy ra trước đó chừng đôi ba tháng, cảnh sát đang truy tìm thủ phạm, sau thời điểm xảy ra mâu thuẫn đánh nhau chừng một tháng thì hai mẹ con bà cụ có đơn gửi cơ quan điều tra tố cáo từng bị ông Long hiếp dâm.

 Từ lời tố cáo ấy ông Long bị triệu tập điều tra bắt giam đã khai nhận hành vi hiếp dâm hai mẹ con bà cụ, ngoài ra còn thừa nhận là thủ phạm giết hại cháu bé 5 tuổi.

 Những tài liệu này đã được thu thập ngay từ quá trình điều tra ban đầu nhưng lại không được đưa vào hồ sơ phục vụ quá trình xét xử sơ thẩm và phúc thẩm trước đó.

 Dựa trên cơ sở bằng chứng mới khi ấy tôi đã trình bày ý kiến bào chữa cho rằng việc tố cáo hiếp dâm do mâu thuẫn hằn thù gia đình là không đáng tin cậy, nhưng phiên tòa xét xử lại vụ án vẫn bỏ qua, vẫn tuyên bị cáo có tội với án tử.

 Sau đấy việc kêu oan vẫn tiếp tục cho tới khi Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao có quyết định giám đốc thẩm lần thứ hai tuyên bố hủy bỏ các bản án để điều tra lại từ đầu.

 Quá trình sau đó tôi vẫn kiên trì ý kiến kêu oan cho rằng với chứng cứ mới được đưa lại vào hồ sơ cho thấy lời tố cáo không đáng tin, cộng với việc bị cáo kêu oan trong khi căn cứ buộc tội không có được nhân chứng vật chứng rõ ràng nào ngoài những lời khai báo nhận tội.

 Cuối cùng các cơ quan tư pháp đã có nhận định đánh giá lại, cho rằng không đủ cơ sở căn cứ kết tội nên đã đình chỉ điều tra, trả tự do và minh oan cho tử tù.

 Lời khai đầu tiên của Hồ Duy Hải

 Trở lại với vụ án Bưu điện Cầu Voi, hồ sơ vụ án khi đưa ra xét xử thể hiện lời khai đầu tiên của Hồ Duy Hải là vào 21 tháng 3 năm 2008, biên bản ghi lời khai đó và các lời khai về sau đều có nội dung bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình.

 Chỉ cho đến khi có Quyết định Kháng nghị Giám đốc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, nội dung kháng nghị mới giúp nhiều người biết được là lời khai đầu tiên của Hải là vào ngày 20 tháng 3 năm 2008.

Tại bản khai này Hồ Duy Hải đã khai về diễn biến việc làm vào tối hôm xảy ra vụ án Bưu điện Cầu Voi, Hải khai tối ngày 13 tháng 1 năm 2008 đã đến đám tang nhà ông Tư Lan gần nhà, trong lời khai đã nhắc đến gần chục người đã tiếp xúc tại đám tang để có thể xác nhận về sự có mặt của Hải.

 Lý giải về chứng cứ này, Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao đã lý giải cho biết, lời khai đầu tiên của Hồ Duy Hải trình bày về việc sử dụng thời gian tối hôm xảy ra vụ án, kết quả xác minh Hải khai không đúng sự thật nên cơ quan điều tra không đưa vào hồ sơ xét xử vụ án nhưng được lưu trong hồ sơ nghiệp vụ của cơ quan công an.

 Như thế là suốt mười mấy năm kêu oan nhưng gia đình và luật sư đã không biết tới bản khai ban đầu này, rất nhiều người, trong đó bao gồm cả các cán bộ tư pháp đã tham gia công tác xét xử sơ thẩm, phúc thẩm trước đó, đều đã lầm tưởng rằng mọi lời khai của Hải từ đầu đến cuối chỉ là khai nhận tội.

Về sau mới biết lời khai đầu tiên của Hải không những không nhận tội mà còn khai ra những nội dung mà nếu làm rõ có thể chứng minh được sự ngoại phạm của Hải.

 Quyết định giám đốc thẩm cho biết cơ quan điều tra đã thẩm tra xác minh cho kết quả Hải khai không đúng sự thật nhưng không cho biết là cơ quan điều tra đã thẩm tra xác minh như thế nào.

Sau khi có quyết định giám đốc thẩm, khi thông tin về lời khai đầu tiên được nêu ra, luật sư Trần Hồng Phong là người giúp kêu oan cho tử tù khi ấy đã tìm về địa phương, tìm gặp và lấy lời khai của bảy người tham dự đám tang.

 Mọi người đã xác nhận rằng đúng là Hải đã có mặt tại đám tang nhà ông Tư Lan trong buổi tối hôm xảy ra vụ án.

 Nhưng nội dung xác nhận của các nhân chứng này chỉ có được sau khi quyết định giám đốc thẩm đã ban hành và giá trị pháp lý chưa rõ liệu sẽ được đánh giá ra sao.

 Đến bây giờ sau khi nghiên cứu về vụ án, tôi cho rằng chứng cứ biên bản lời khai đầu tiên không nhận tội đã giúp củng cố niềm tin nhận định về việc oan sai.

 Cộng với việc bằng chứng dấu vân tay của Hải không trùng khớp với dấu vân tay của nghi phạm thu giữ được ở hiện trường vụ án, tổng hợp lại chính là những bằng chứng cho thấy Hồ Duy Hải vô tội.

 Luật sư Ngô Ngọc Trai

 Nguồn Facebook


 

Những điều có thể bạn chưa biết về Giáo hội Công Giáo ở Triều Tiên

Thao Teresa

Bạn đã bao giờ tự hỏi điều gì đã xảy ra với Kitô giáo, đặc biệt là Công giáo, ở một trong những nơi bí mật và cô lập nhất thế giới – Triều Tiên? Một nơi mà tôn giáo bị đặt ngoài vòng pháp luật, các nhà thờ bị phá hủy, đức tin bị cấm, nhưng ánh sáng của Đấng Kitô vẫn nhấp nháy trong bóng tối.

Rất lâu trước khi Triều Tiên trở thành một chế độ độc tài khép kín, bán đảo Triều Tiên đã có một cộng đồng Kitô giáo đang phát triển mạnh. Công giáo đến bán đảo Triều Tiên không phải qua các nhà truyền giáo nước ngoài, mà do chính các nho sĩ thế kỷ 18. Họ tiếp cận các văn bản Kitô giáo tại Trung Quốc và mang đức tin trở lại quê hương.

Đúng vậy, Công giáo được gieo mầm bởi giáo dân trước khi có linh mục ngoại quốc đặt chân lên đất Triều Tiên. Họ đọc Kinh Thánh, tin vào Kinh Thánh và sẵn sàng mạo hiểm tất cả để bước theo Đức Kitô. Đúng như câu: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.” (Tv 119,105)

Đầu thế kỷ 20, Bình Nhưỡng – thủ đô của Triều Tiên hiện nay – từng được mệnh danh là “Jerusalem của phương Đông” nhờ đời sống Kitô giáo sôi động. Nhưng tất cả thay đổi năm 1948, khi Kim Il-sung lên nắm quyền và thành lập Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Từ đây bắt đầu thời kỳ bách hại, và đức tin trở thành bản án tử hình.

Chế độ vô thần xem tôn giáo là mối đe dọa cho quyền lực của mình. Không chỉ đàn áp, họ tìm cách loại bỏ Kitô giáo tận gốc. Các nhà thờ bị đóng cửa hoặc phá hủy, Kinh Thánh bị cấm. Nhiều linh mục và giáo dân bị bắt, tra tấn hoặc xử tử. Các gia đình bị đưa vào trại lao động chỉ vì sở hữu một cây thánh giá hay thì thầm một lời cầu nguyện.

Một ví dụ đau lòng là Đức Giám mục Phanxicô Hong Yong-ho, Giám mục Bình Nhưỡng, bị bắt năm 1949 và không bao giờ xuất hiện nữa. Năm 2013, Tòa Thánh chính thức công bố ngài đã qua đời, và năm 2014, ngài được tuyên nhận là Tôi tớ Chúa trong tiến trình phong thánh.

Ngày nay, Triều Tiên vẫn đứng đầu bảng xếp hạng World Watch List – nơi nguy hiểm nhất cho các Kitô hữu. Vậy, liệu có nhà thờ Công giáo nào tồn tại ở đó không?

Thật bất ngờ, có một nhà thờ ở Bình Nhưỡng mang tên Nhà thờ Changchung, được chính quyền cho phép hoạt động. Tuy nhiên, nơi này không hiệp thông với Tòa Thánh, không có linh mục thường trú được truyền chức hợp pháp từ Rôma. Các cử hành tôn giáo thường mang tính hình thức chính trị, do Hiệp hội Công giáo Triều Tiên – một cơ quan nhà nước được dùng để giới thiệu “tự do tôn giáo” cho du khách nước ngoài – quản lý.

Giới chuyên gia tin rằng, bên dưới bề mặt, vẫn còn hàng ngàn tín hữu Công giáo ngầm thờ phượng bí mật, giống như Giáo hội sơ khai.

Những nhân chứng đào thoát đã kể lại những ký ức vừa đau thương vừa cảm động. Có người thấy cha mẹ thì thầm cầu nguyện trong đêm tối, để rồi hôm sau bị công an bắt đi. Có tín hữu học thuộc cả cuốn Kinh Thánh vì không dám giữ một bản in. Có người chôn thánh giá nhỏ dưới đất, hoặc khắc câu Lời Chúa lên tường. Họ nhóm họp trong hang động, trong chuồng trại vắng lặng, bất chấp hiểm nguy.

Dù trải qua nhiều thập kỷ đàn áp tàn bạo, hạt giống đức tin vẫn âm thầm bén rễ. Nhiều người Bắc Hàn chỉ khi trốn thoát sang Trung Quốc hoặc Hàn Quốc mới lần đầu nghe Tin Mừng và tin nhận Chúa Kitô.

Giáo lý Hội Thánh Công giáo dạy rằng:“Tử đạo là việc làm chứng cao cả nhất cho chân lý đức tin; đó là sự làm chứng cho đến nỗi phải chết” (GLHTCG, #2473). Hàng ngàn Kitô hữu Bắc Hàn đã ngã xuống vì đức tin, như xưa máu các vị tử đạo là hạt giống nảy sinh Hội Thánh tại Rôma, thì nay cũng thế trên bán đảo Triều Tiên.

Các Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Bênêđictô XVI và Đức Phanxicô đều nhiều lần cầu nguyện cho hòa bình và thống nhất trên bán đảo Triều Tiên. Trong khi đó, các linh mục truyền giáo và các hội đoàn Kitô hữu tiếp tục phục vụ người tị nạn Bắc Hàn ở Trung Quốc và Hàn Quốc. Các đài phát thanh Công giáo như FEBC, TWR hay Voice of the Martyrs thường xuyên phát sóng Kinh Thánh, thánh lễ, bài giảng vào Bắc Triều Tiên – thường vào ban đêm để tránh bị phát hiện. Nhiều tín hữu âm thầm chế tạo radio, chôn dưới đất để nghe Lời Chúa.

Dù Triều Tiên vẫn bao trùm bóng tối, nhưng ánh sáng của Đức Kitô không bao giờ bị dập tắt. Hội Thánh có thể bị săn lùng, bị chôn vùi, nhưng cũng như hạt giống gieo trong lòng đất – một ngày sẽ trổ sinh hoa trái. Trong khi các bức tượng của Kim Nhật Thành ở khắp mọi nơi, thân thể vô hình của Chúa Kitô tiếp tục hiện hữu – “ẩn giấu nhưng còn sống.”

https://phailamgi.com/…/nhung-dieu-co-the-ban-chua…/


 

 BÁN TÔI 20 NGÀN NIỀM VUI…

Những Câu chuyện đời ý nghĩa – Lệ Thúy Hoàng

3 ngày nay mệt và ho nhiều nên giờ trưa, tôi dạo bộ ra tiệm thuốc tây gần bệnh viện để mua thuốc ho ngậm cho đỡ rát họng.

Khi đang soạn tiền chuẩn bị trả cho 2 hộp tyrotab, tôi nghe giọng 1 người phụ nữ “Chị ơi, con em nó sốt quá, chị bán cho em 2 ngày thuốc sốt”. Tôi giật mình và hy vọng chị bán thuốc sẽ từ chối bán thuốc mà khuyên vào BV để khám. Nhưng …

“Có ho không?” – “Dạ có”

“Có sổ mũi không?” – “Dạ có”

“Có tiêu chảy không?” – “Hôm nay đi ra bọt 4 lần rồi”

“Còn gì nữa không?” – “Dạ bé mệt nhiều nên chị cho thuốc gì mạnh mạnh chút nha chị”.

Cứ mỗi câu trả lời của người mẹ bán vé số là một loại thuốc được lấy ra bỏ vào bịch. Tôi ngó sang toàn là kháng sinh, kháng viêm và có cả Smecta cầm tiêu chảy… Thực sự tôi kinh hãi quá. Không một động tác khám, cũng không vạch khăn ra xem đứa bé thế nào. Chỉ hỏi, hỏi và lấy thuốc. Mấy chuyện này nó làm mình khó chịu, ráng đứng lại vờ như đang nhắn tin điện thoại, tôi thấy đứa bé đừ nhiều, vẻ mặt mệt mỏi lắm.

Tổng cộng gói thuốc cho bé là 117 ngàn đồng. Tôi đợi chị xách bịch thuốc ra 1 góc vỉa hè đang ngồi soạn thuốc cho bé uống. Mình lại gần. Chị thấy mình, dơ cọc vé số lên “Mua giúp chị tờ vé số đi em trai”. Tôi cười và nói “Em sẽ mua cho chị. Em có ông anh là bác sĩ ở bên kia. Giờ chị qua đó đi, em nói anh em chụp cho bé 1 tấm phim phổi rồi chị trả em 1 tờ vé số chịu không?”. Chị thoáng lúng túng. Tôi biết rõ chị lúng túng không phải vì tôi xa lạ, từ sâu trong mắt chị, tôi thấy chị lúng túng như kiểu lần đầu tiên gặp việc như vậy.

“Ở đâu em?”

“Bên kia đường, chị thấy chữ Khu Khám Bệnh không? Qua đó chụp 1 phát cho chắc chứ em sợ bé chị nó bệnh đó. Đừng cho uống gói thuốc này vội. Lát anh em xem phim rồi kê toa cho”

Quay lại, tôi vốn quen thân với ông anh cử nhân chụp phim phổi, 2 anh em hay cà phê sáng nên anh rất cởi mở giúp tôi chụp cho bé 3 phim ngực thẳng – ngực nghiêng và cột sống. Sau đó nhờ anh điều dưỡng lấy 1 ống máu xét nghiệm dịch vụ trả kết quả ngay.

Xong tôi dẫn chị qua nơi tôi khám. Khi tôi mặc áo blouse vào, tôi thấy chị lúng túng thật sự, trưng trưng mắt nhìn tôi, còn cô bé cứ ngủ ngon trên đôi vai chị. Tôi chẳng biết vì sao mình lại nói dối chị, nhưng lúc đó, tôi nói tôi là bác sĩ sợ chị không tin. Bác sĩ gì lại đi mua thuốc tây?

Khám hết toàn diện cho bé. Kết hợp với xét nghiệm máu, phim XQ, bé hoàn toàn bình thường. May mắn chỉ là sốt + tiêu chảy do siêu vi. Tôi giải thích và đề nghị chị đổi bịch thuốc chị đang giữ cho bé bằng thuốc của tôi. Và chị đồng ý. Tất cả kháng sinh tôi bỏ ra vì tôi nghĩ nó chưa cần thiết. Thêm 1 ít thuốc bổ dạng siro cho con.

Xong xuôi. Chị đứng dậy cảm ơn tôi rối rít mà mặt thì chăm chăm xuống sàn nhà, không ngẩng lên. Tôi nói “Giờ trả tôi 1 tờ vé số tiền công”

Chị nói “Em đưa bác 2 tờ luôn”. Chưa kịp từ chối chị đã bỏ đi. Để lại 2 tờ vé số trên bàn.

Anh cử nhân X quang nhìn tôi cười

Anh điều dưỡng cũng nhìn tôi cười

Còn tôi nhìn 2 mẹ con chị đi tất tả mà tôi cười

Cảm ơn chị đã bán tôi 20 ngàn niềm vui…

NGUYỄN THANH SANG


 

BỔN PHẬN NHƯỜNG CƠM XẺ ÁO -Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

(Suy niệm Tin mừng Lu-ca (Lc 16, 19-31) Chúa nhật 26 thường niên)

Sứ điệp: Nhường cơm sẻ áo cho nhau là bổn phận của mọi người.

Trích đoạn Tin mừng hôm nay cho thấy hai cảnh đời trái ngược.

Ông nhà giàu, chủ nhân của ngôi biệt thự sang trọng “mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình.” Trong khi đó, ngay trước cổng nhà ông, có anh La-da-rô cùng khốn, ghẻ lở đầy mình, đưa mắt thèm thuồng nhìn ông ăn uống no say và khao khát được hưởng chút bánh vụn từ bàn ăn rớt xuống mà chẳng ai cho, chỉ có mấy con chó đến liếm láp ghẻ chốc cho anh.

Thế rồi, cảnh đời nghiệt ngã nầy lại bị đảo ngược: Người nghèo chết và được thiên thần đem vào lòng Cụ Áp-ra-ham, vui hưởng hạnh phúc thiên đàng; Còn ông nhà giàu cũng chết và bị khổ hình trong hỏa ngục.

Người giàu nầy đã phạm tội gì mà phải vào hỏa ngục? Xem ra, ông chẳng làm gì nên tội: không trộm cắp, cướp giật của ai; cũng chẳng đánh đập hay chửi mắng La-da-rô…

Sở dĩ ông bị luận phạt là vì ông ích kỷ, không thương xót, không giúp đỡ La-da-rô đang lâm cảnh khốn cùng.

Sống ích kỷ mà cũng bị luận tội sao?

Đúng thế. Qua dụ ngôn “Phán xét cuối cùng”, Chúa Giê-su khẳng định rằng khi người ta ích kỷ, vô cảm vô tâm không giúp đỡ người khốn khổ thì sẽ phải chịu án phạt trong chốn cực hình. Bấy giờ, Chúa Giê-su trong vai thẩm phán sẽ buộc tội những người nầy rằng:

“Hỡi quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng” và Chúa kết luận: “Khi các ngươi không thương xót, cứu giúp người khác là các ngươi đã không cứu giúp Ta.” (Mt 25, 41-43).

Có nhận thì phải có trao

Trong cuộc đời nầy, chúng ta đã nhận được rất nhiều thứ do người khác cống hiến cho mình như cơm ăn, áo mặc, nhà ở, xe đi và rất nhiều sản phẩm, dịch vụ khác…

Nếu không nhờ sự trợ giúp, chia sớt của người khác, không ai có thể sống được.

Ngoài ra mỗi người lại còn được đón nhận vô vàn ân huệ Thiên Chúa tuôn ban trong suốt cuộc đời… Vậy thì đến lượt mình, chúng ta cũng phải cống hiến, phải trao ban cho người khác. Có vay phải có trả, có nhận thì phải có trao. Người khác đã phục vụ mình thì mình cũng phải phục vụ người khác.

Không phải chờ đến khi trở thành tỷ phú hay giàu có như lão phú hộ trên đây, ta mới tính đến chuyện chia sớt của cải mình cho người khác; nhưng ngay hôm nay, chúng ta vẫn có trách nhiệm cống hiến cho người khác những ân huệ Chúa ban cho mình, như dùng thời gian, công sức, tài năng Chúa ban để phục vụ những người chung quanh, để góp công xây dựng xóm làng.

Lạy Chúa Thánh Thần,

Xin soi sáng cho chúng con biết rằng tất cả những gì chúng con đang có là những món quà Chúa gửi cho chúng con quản lý và chúng con có bổn phận phải chia sớt lại cho người khác.

Xin cho chúng con đừng khư khư giữ lấy cho riêng mình, kẻo chuốc họa vào thân, như lão phú hộ trong Tin mừng hôm nay. Amen.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Tin mừng Chúa nhật 26 thường niên (Lu-ca 16, 19-31)

19 “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình.20 Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu,21 thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.22 Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.

23 “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ.24 Bấy giờ ông ta kêu lên: “Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!25 Ông Áp-ra-ham đáp: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ.26 Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.

27 “Ông nhà giàu nói: “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con,28 vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!29 Ông Áp-ra-ham đáp: “Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó.30 Ông nhà giàu nói: “Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối.31 Ông Áp-ra-ham đáp: “Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.”.

From: ngocnga_12 & NguyenNThu

ÔNG SCHWEITZER VÀ NGƯỜI NGHÈO – Lm Mark Link, S.J.

Lm Mark Link, S.J.

Vào năm 1950, một ủy ban gồm đại diện của 17 quốc gia đã chọn ông Albert Schweitzer là “người của thế kỷ.”  Hai năm sau, 1952, ông được giải thưởng Nobel Hòa Bình.

Ông Schweitzer được cả thế giới ca tụng là một thiên tài đa dạng.  Ông là một triết gia lỗi lạc, một thần học gia sáng giá, một sử gia đáng kính nể, một nhạc sĩ độc tấu, và là một bác sĩ truyền giáo.

Nhưng điều đáng kể là đức tin Kitô Giáo thật sâu đậm của ông.  Chính đức tin này đã ảnh hưởng đến từng góc cạnh của đời ông.

Khi 21 tuổi, Schweitzer tự nhủ là ông sẽ vui hưởng nghệ thuật và khoa học cho đến năm 30 tuổi.  Sau đó ông sẽ dành cuộc đời còn lại để làm việc cho những người nghèo dưới hình thức phục vụ trực tiếp nào đó.  Và vì thế vào ngày sinh nhật thứ 30, ngày 13-10-1905, ông bỏ vào thùng thư ở Ba Lê một vài lá thư.  Đó là thư gửi cho cha mẹ và các bạn thân, ông báo cho họ biết là ông sẽ theo học về y khoa.  Sau đó ông sẽ sang Phi Châu để làm việc cho các người nghèo với công việc của một bác sĩ.

Ngay lập tức các lá thư ấy đã tạo nên một chấn động.  Ông kể lại trong cuốn Out of My Life and Thought:  “Thân nhân và bạn hữu của tôi tất cả đều thành khẩn đưa ra các nhận định của họ về quyết định điên rồ của tôi.  Họ nói, tôi đang chôn vùi các tài năng thiên phú…  Một bà thật hăng say thuyết phục rằng tôi có thể đạt được nhiều kết quả cho việc giúp đỡ người nghèo qua các bài diễn giảng hơn là hành động trực tiếp mà tôi đang ấp ủ.”

Tuy nhiên, ông Schweitzer không thay đổi ý định.

Vào năm 38 tuổi, ông là một bác sĩ đầy đủ bản lĩnh.  Vào năm 43 tuổi, ông sang Phi Châu để mở một bệnh xá ở cạnh bìa rừng mà sau này được gọi là Equatorial Africa.  Ông từ trần ở đây năm 1965 khi được 90 tuổi.

Động lực nào đã khiến ông Schweitzer dám gạt bỏ danh vọng và tiền tài để làm việc cho người nghèo ở Phi Châu?

Ông cho biết, một trong những ảnh hưởng là khi ông suy niệm về đoạn phúc âm mà chúng ta vừa nghe hôm nay về người giầu và ông Lagiarô.  Ông nói:

“Thật không thể hiểu nổi khi tôi tự cho phép mình sống một cuộc đời sung sướng, trong khi quá nhiều người chung quanh tôi đang vật lộn với sự đau khổ.” 

Và đó là điều đưa chúng ta đến câu chuyện phúc âm hôm nay.

Tội của người nhà giầu trong bài phúc âm hôm nay không phải là ông đã ra lệnh tống cổ Lagiarô ra khỏi khu vực của ông.  Cũng không phải là người nhà giầu đã đánh đập hay chửi rủa ông Lagiarô mỗi khi đi ngang qua.

Tội của người nhà giầu là ông không bao giờ để ý đến Lagiarô.  Ông coi Lagiarô như một phần đương nhiên của khung cảnh cuộc đời.  Tội của người nhà giầu là ông chấp nhận mà không bao giờ thắc mắc về sự kiện, Lagiarô thì nghèo và chính ông thì giầu.  Tội của người nhà giầu không phải là tội về một hành động, là thi hành một điều gì đó mà lẽ ra không nên làm.  Tội của người nhà giầu là một tội quên sót, đó là, không thi hành điều phải làm.  Tội của người nhà giầu là đắm mình trong của cải mà không động đến ngón tay để giúp ông Lagiarô khi cùng cực.  Tội của người nhà giầu cũng chính là tội đang được tái diễn ngày hôm nay.  Và chính tội này khiến chúng ta phải thực sự lưu tâm đến những gì cần phải thi hành không chỉ cho người nghèo nhưng còn cho xã hội.

Ông John F.Kennedy đã đề cập đến mối ưu tư này khi ông nói, “Nếu một xã hội tự do không thể giúp gì cho người nghèo thì nó cũng không thể cứu được một thiểu số giầu có.”  Nói cách khác, sự thiếu lưu tâm đến người nghèo không chỉ tiêu diệt người nghèo mà còn tiêu diệt luân lý của xã hội chúng ta. 

Bài phúc âm hôm nay là một lời mời gọi để thi hành điều mà ông Albert Schweitzer đã làm.

Nó là lời mời để suy tư về câu chuyện của người nhà giầu và ông Lagiarô, và tự vấn lương tâm chúng ta câu hỏi mà chính ông Schweitzer đã thắc mắc: Làm thế nào chúng ta có thể sống sung sướng trong khi có quá nhiều người đau khổ? 

Nó là lời mời chúng ta hãy suy tư lời của Tướng Dwight D. Eisenhower: 

“Mỗi một khẩu súng được chế tạo, mỗi một tầu chiến được hạ thủy, mỗi một tên lửa được phóng đi, trong một ý nghĩa nào đó chúng là sự trộm cắp của người đói không có gì ăn, của người lạnh không có gì mặc.”

Nó là lời mời chúng ta hãy quý trọng lời của Chúa Giêsu trong bài phúc âm hôm nay.

Hãy kết thúc bài giảng bằng những lời của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong chuyến tông du Hoa Kỳ năm 1979, khi người giảng ở vận động trường Yankee Nữu Ước. Đức Giáo Hoàng nói: 

“Chúng ta không thể ngồi đó bất động, vui hưởng sự giầu sang và tự do, nếu ở chỗ nào đó vẫn còn một Lagiarô của thế kỷ 20 đứng trước cửa nhà chúng ta.

“Dưới ánh sáng của bài dụ ngôn của Đức Kitô, giầu sang và tự do có nghĩa một trách nhiệm đặc biệt.  Giầu sang và tự do tạo nên một nhiệm vụ đặc biệt.

“Và vì vậy, nhân danh tình liên đới đã trói buộc chúng ta trong một bản tính nhân loại, tôi muốn nói lên phẩm giá của mỗi một con người.

“Người giầu và Lagiarô đều là con người, cả hai được dựng nên cách bình đẳng trong hình ảnh và giống như Thiên Chúa, cả hai đều được cứu độ bởi Đức Kitô với một giá đắt, là giá máu châu báu của Đức Kitô…

“Người nghèo của Hoa Kỳ và của thế giới là anh chị em của các bạn trong Đức Kitô.  Các bạn không thể lấy làm mãn nguyện khi để họ hưởng các mẩu vụn của bàn tiệc.

“Các bạn phải nhìn đến thực chất của mình chứ không chỉ sự dư dật của các bạn và giúp đỡ họ.  Và các bạn phải đối xử với họ như khách được mời đến dự tiệc trong nhà của mình.”

Lm Mark Link, S.J.

From: Langthangchieutim

Nhạc sĩ Nguyễn Vũ, tác giả ‘Bài Thánh Ca Buồn,’ qua đời ở Sài Gòn

Ba’o Nguoi-Viet

September 24, 2025

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Nhạc sĩ Nguyễn Vũ, tác giả ca khúc nổi tiếng ‘Bài Thánh Ca Buồn,’ vừa qua đời tại nhà riêng ở Sài Gòn vào chiều 24 Tháng Chín, thọ 81 tuổi.

Nhạc sĩ Nguyễn Vũ, tên thật là Nguyễn Tuấn Khanh, sinh năm 1944, tại Hà Nội, di cư vào Nam năm 1954 và sinh sống tại Đà Lạt, sau đó là Sài Gòn cho đến cuối đời.

Nhạc sĩ Nguyễn Vũ. (Hình: Báo Tuổi Trẻ)

Theo báo Tuổi Trẻ, nhạc sĩ Nguyễn Vũ qua đời lúc 5 giờ 20 chiều 24 Tháng Chín vì đột quỵ tại nhà riêng trên đường Nghĩa Hưng, phường Tân Hòa, TP.HCM (trước đây là Phường 6, Quận Tân Bình).

“Bài Thánh Ca Buồn” là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, được sáng tác vào năm 1972. Hơn 50 năm qua, ca khúc này được hàng triệu người hát, mỗi khi dịp Giáng Sinh về.

Ngoài “Bài Thánh Ca Buồn,” nhạc sĩ Nguyễn Vũ còn có nhiều nhạc phẩm nổi tiếng khác được nhiều người biết đến như “Nhìn Nhau Lần Cuối,” “Ga Chiều Phố Nhỏ,” “Lời Cuối Cho Em,” “Bài Cuối Cho Người Tình,” “Huyền Thoại Chiều Mưa,” “Đêm Kỷ Niệm…”

Theo cáo phó của gia đình, được báo Tuổi Trẻ trích đăng, cho biết: “Nghi thức tẩm liệm và phát tang vào lúc 11 giờ tối 24 Tháng Chín. Ngày 25 Tháng Chín là thời gian thân bằng quyến thuộc cầu nguyện. Đến 5 giờ sáng 26 Tháng Chín là nghi thức động quan và di quan. Sau đó, linh cữu nhạc sĩ được hỏa táng tại Trung Tâm Bình Hưng Hòa. Gia đình thông báo miễn phúng điếu kể cả hoa, trái cây và nhang đèn.”

Hàng triệu người Việt Nam, có thể ai đó không nhớ tên nhạc sĩ Nguyễn Vũ, nhưng không ai không biết nhạc phẩm nổi tiếng của ông khi vang lên: “Bài thánh ca đó còn nhớ không em?….” Và, “… Rồi những đêm thế trần đón Noel – Lang thang qua miền giáo đường dấu yêu – Tiếng thánh ca ngày xưa vang đêm tối – Nhớ quá đi thôi giọng hát ai buồn…” [kn]


 

Có phải vô thần (atheism) luôn là tội chống lại Điều răn thứ 1 không? – Cha Vương

 Ngày Thứ 4 thật mạnh mẽ trong đức Tin, bền vững trong đức Cậy, tràn đầy trong đức Mến nhé. 

Cha Vương

Thứ 4: 24/9/2025

GIÁO LÝ: Có phải vô thần (atheism) luôn là tội chống lại Điều răn thứ 1 không? Vô thần không phải là tội, nếu người ta không được học biết gì về Thiên Chúa, hoặc không được kiểm tra xem xét (examine) vấn đề về Thiên Chúa hiện hữu cách có ý thức (conscientiously) và không thể tin. (YouCat, số 357)

SUY NIỆM: Trong Hiến chế Giáo hội trong thế giới thời nay (Gaudium et Spes) số 20 & 21 có viết:

1/ Nguyên nhân phát sinh vô thần (số 20):

❦  Nhiều người chủ trương giải thích mọi sự chỉ bằng khoa học. Họ không nhận một chân lý nào là tuyệt đối.

❦  Có người lại quá đề cao con người, đến nỗi sự tin tưởng vào Thiên Chúa trở nên vô nghĩa.

❦  Có người hình dung một Thiên Chúa theo kiểu họ nghĩ, không phải là Thiên Chúa của Tin mừng Phúc âm.

❦  Chủ trương vô thần nhiều khi phát sinh do việc chống lại sự dữ trong thế giới.

❦ Ngay cả nền văn minh hiện đại, cũng làm cho con người khó đến với Thiên Chúa , vì nó quá bám vào thực tại trần gian.

2/ Giáo hội đối với chủ nghĩa vô thần: (số 21)

“Giáo hội Công giáo cho rằng nhìn nhận Thiên Chúa không có gì nghịch lại với phẩm giá con người, vì phẩm giá ấy đặt nền tảng, và nên hoàn hảo trong chính Thiên Chúa: bởi vì con người có trí tuệ và có tự do, được Thiên Chúa đặt để trong xã hội, nhưng nhất là vì con người được gọi đến để thông hiệp với chính Thiên Chúa, và tham dự vào hạnh phúc của Ngài như con cái.

Ngoài ra giáo hội còn dạy rằng: Hy vọng chung cục không làm giảm những bổn phận ở trần gian này, trái lại còn tạo thêm những động lực mới giúp hoàn thành những bổn phận ấy.

Vả lại, nếu thiếu căn bản và Thiên Chúa là thiếu hi vọng vào sự sống đời sau, phẩm giá con người sẽ bị tổn thương cách trầm trọng như thường thấy ngày nay, và những bí ẩn về sự sống, sự chết, về tội lỗi và đau khổ vẫn không giải đáp được. Như thế con người nhiều khi rơi vào tuyệt vọng. (Bản dịch Việt ngữ của Học viện Giáo hoàng Piô 10, Đà lạt).

Nhìn vào hai khía cạnh này có lẽ nhiều người Kitô hữu vẫn đang bị ảnh hưởng, không ít thì nhiều, bởi chủ nghĩa vô thần. Họ đọc thuộc lòng Kinh Tin Kính nhưng những lựa chọn hàng ngày lại không tương xứng với đức tin của họ.

LẮNG NGHE: Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? (Gc 2:14)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin gia tăng niềm tin cho con để con sống tình huynh đệ chan hòa yêu thương với những người con gặp gỡ trên đường đời hôm nay.

THỰC HÀNH: Xem xét lại những nguyên nhân phát ra vô thần để tránh đừng vấp phạm.

From: Do Dzung

**************************

Con Đi Tìm Chúa | Angelo Band  

ĐỀN TÂM HỒN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Hãy lên núi, đưa gỗ về tái thiết Đền Thờ cho Ta!”.

Đền Taj Mahal, Ấn Độ, một kiệt tác được UNESCO công nhận; tuy nhiên, khá ‘mỉa mai’ với khởi đầu của nó. Năm 1629, người vợ yêu quý của Shah Jahan qua đời, vua xây một ngôi đền tráng lệ để tưởng nhớ nàng. Vua đặt quan tài bà ở giữa và việc xây dựng ngôi đền bắt đầu chung quanh nó. Ngày nọ, đi khảo sát, vua tình cờ gặp một ‘thùng gỗ’ – người ta đã ném nó ra từ lâu – đó là chiếc quan tài! “Tưởng nhớ nhường chỗ cho nghệ thuật!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay cũng nói đến một đền thờ mà Thiên Chúa hằng mong toạ lạc giữa dân; để nhờ nó, Ngài có thể thiết lập những ‘đền tâm hồn’. Qua Khacgai, Ngài nói với dân, “Hãy lên núi, đưa gỗ về tái thiết Đền Thờ cho Ta!”.

Thánh Vịnh đáp ca tiết lộ, “Chúa mến chuộng dân Người”. Vì mến chuộng dân, Thiên Chúa không ngần ngại tỏ lộ ước muốn ở giữa họ, đền thờ sẽ nhắc nhở họ về sự hiện diện của Ngài; nhờ đó, Ngài có thể chiếm cứ các tâm hồn. “Đền thánh chí thánh nhất là tâm hồn để Thiên Chúa làm Vua!” – Henri Nouwen. Cũng thế, trên bước đường rao giảng, Chúa Giêsu không xây một nhà thờ hay một đền thờ nào; điều Ngài trăn trở là những ‘đền tâm hồn’. Và một điều chắc chắn, Ngài khát khao cả tâm hồn Hêrôđê, nhân vật mà Tin Mừng hôm nay gợi lại.

Hêrôđê phân vân về Chúa Giêsu, Ngài là ai? “Vua tìm cách gặp Ngài”. Hêrôđê có thể đến với Chúa Giêsu bất cứ lúc nào; nhưng điều đó đã không xảy ra. Gặp Ngài, thực sự lắng nghe Ngài, hẳn Hêrôđê đã nhận được một quà tặng lớn, quà tặng đức tin, quà tặng hoán cải; bấy giờ, tâm hồn ông hẳn đã được Chúa Giêsu chiếm ngự. “Một trái tim xao động có thể đứng trước Sự Thật mà vẫn quay lưng!” – C.S. Lewis. Cũng thế, với chúng ta, nói rằng, tôi tin nhận Chúa Kitô là Chúa, là Đấng Cứu Rỗi và tôi đã được “sinh lại” trong Ngài là chưa đủ! Chúng ta phải bắt đầu sống cuộc sống “sinh lại” đó, đổi mới những lựa chọn của mình mỗi ngày hầu trái tim, cung lòng chúng ta trở nên một ‘đền tâm hồn’ cho Chúa Kitô ngự trị. Hãy nói với Ngài, “Hôm nay, con muốn hoán cải từ những yếu đuối, lầm lỗi. Con muốn đến gần Ngài hơn!”.

Anh Chị em,

“Con muốn đến gần Ngài hơn!”. Việc lặp đi lặp lại lời nguyện tắt này sẽ nhen lên trong chúng ta một khát khao mãnh liệt muốn được gần Chúa Giêsu. Nhưng như Hêrôđê, bạn và tôi dễ dàng gạt bỏ những lời mời lúc này lúc khác của Ngài; bởi lẽ, tự thâm tâm, chúng ta không muốn thay đổi, chúng ta sợ thay đổi! Vậy mà Chúa Giêsu vẫn đang kiên trì ngỏ lời mỗi ngày; Ngài không ngừng gõ cửa, gửi đến những thông điệp rõ ràng rằng, Ngài muốn xây bên trong mỗi người một ‘đền tâm hồn’ dành riêng cho Ngài. Vậy, để có thể nghe được điều Ngài muốn, hôm nay, chúng ta hãy mở cửa cho Ngài, chào đón Ngài, lắng nghe Ngài và thay đổi hoàn toàn theo cách Ngài muốn chúng ta trở thành! “Mỗi lời thì thầm khát khao gần Ngài đã là một bước tiến về phía Ngài rồi!” – Ann Voskamp.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa Giêsu, xin biến trái tim con thành một “Taj Mahal” sống động, không vì nghệ thuật, nhưng vì tình yêu con dành cho Chúa!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

 *******************************************

Lời Chúa Thứ Năm Tuần XXV Thường Niên, Năm lẻ

Ông Gio-an, chính ta đã chém đầu rồi ! Vậy thì ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế ?

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.      Lc 9,7-9

7 Khi ấy, tiểu vương Hê-rô-đê nghe biết tất cả những gì đã xảy ra, thì phân vân lắm. Thật vậy, có kẻ nói : “Đó là ông Gio-an từ cõi chết trỗi dậy.” 8 Kẻ khác nói : “Ông Ê-li-a xuất hiện đấy !” Kẻ khác nữa lại nói : “Đó là một ngôn sứ thời xưa sống lại.” 9 Còn vua Hê-rô-đê thì nói : “Ông Gio-an, chính ta đã chém đầu rồi ! Vậy thì ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế ?” Rồi vua tìm cách gặp Đức Giê-su. 


 

Một chút để suy gẫm – Nhà báo Hoàng Nguyên Vũ

Nhà báo Hoàng Nguyên Vũ

Tôi từng ngồi ở hành lang bệnh viện vào một chiều oi ả, khi nghe thấy một câu nói mà đến giờ, mỗi lần nhớ lại, lòng tôi vẫn thắt lại một nhịp.

Một cô hộ lý trẻ nói với giọng bực dọc:

– Bác ơi, bác lại tè ra giường nữa rồi đó nha!

Cụ ông nằm trên giường, ánh mắt ngơ ngác như đứa trẻ bị bắt quả tang làm điều sai.

Ông quay mặt vào tường. Không nói. Chỉ lặng lẽ.

Ở giường bên, một người nuôi bệnh khẽ nói với con gái:

– Con nít tè dầm thì người ta thương. Người già tè dầm… lại bị mắng.

Cô gái gật đầu, rồi hỏi nhỏ:

– Sao lại vậy má?

Bà đáp, chậm rãi, như thể chạm vào một nỗi niềm mà chỉ ai từng già đi, từng lặng lẽ một mình, mới hiểu hết:

– Vì người già… không còn mẹ để thương nữa.

Người ta hay nói: “Già như con nít.” Nhưng không.

Trẻ con có mẹ.

Người già thì không.

Trẻ con lấm lem thì có người lau mặt, dỗ dành, xoa đầu mà bảo:

 “Không sao, mẹ đây rồi.”

 Người già lấm lem thì bị nhíu mày, bị nhắc nhở, bị những cái thở dài kéo dài đến rã rời.

Trẻ con được nâng niu vì còn cả một đời phía trước.

Người già bị bỏ mặc… vì chẳng còn bao nhiêu đời để mà mong chờ.

Tôi nhớ cha mình – một người thợ mộc từng thẳng lưng suốt đời, từng không biết cúi đầu trước ai – đứng run rẩy ở cửa phòng tôi, chỉ để thốt lên một câu:

“Con ơi, giúp ba thay áo với.”

Ông đứng đó, như thể xin một đặc ân.

Tôi bước ra, thấy bàn tay ông đã không còn vững, cúc áo cài lệch, vạt áo lộn trong ra ngoài.

Lòng tôi thắt lại.

Người từng dạy tôi cài khuy áo… giờ không cài nổi áo cho mình.

Ông xấu hổ. Không phải vì chiếc áo.

Mà vì lần đầu trong đời, ông cần con trai… như ngày xưa tôi từng cần ông.

Người già không đáng thương vì họ yếu.

Họ đáng thương… vì họ đã từng mạnh.

Từng đội mưa đạp xe mấy chục cây số chỉ để con kịp đến lớp.

Từng nhường miếng cá cuối cùng trong nồi canh chua cho đứa con thích ăn đầu.

Từng thức cả đêm chỉ để mở cửa khi ta đi chơi về muộn mà không một lời càm ràm.

Giờ đây, họ chỉ mong một bàn tay đủ dịu dàng để không gạt đi, đủ kiên nhẫn để không gắt gỏng.

Họ chỉ mong… một người chịu nắm tay họ đi qua đoạn đời cuối cùng – như chính họ đã từng nắm tay ta qua những tháng năm đầu tiên.

Chúng ta thương con bằng bản năng.

Nhưng lại thương cha mẹ già… bằng sự kiên nhẫn giới hạn.

Vì sao?

Vì ta đã quen thấy họ gồng gánh, mạnh mẽ.

Nên khi họ yếu mềm, ta bối rối.

Khi họ lẩm cẩm, ta khó chịu.

Khi họ phụ thuộc, ta lảng tránh.

Ta quên mất rằng…

Người từng là chỗ dựa, cũng cần được dựa lại.

Người từng thay ta tã, giờ chỉ cần ta lau cho họ một giọt nước tiểu mà không rít lên vì mệt.

Đừng đợi đến khi họ không còn… rồi mới thốt hai chữ “giá như”.

Giá như mình nhẹ giọng hơn một chút.

Giá như mình không gắt lên hôm đó.

Giá như mình chịu dắt mẹ ra ngồi nắng chiều trước cổng, chỉ vài phút thôi…

Người già không còn mẹ.

Và chúng ta – những đứa con – chính là phần dịu dàng cuối cùng họ còn.

Thương một người già, đôi khi không cần phải làm điều gì lớn lao.

Chỉ cần đủ kiên nhẫn để đừng khó chịu.

Đủ mềm lòng để không nhẫn tâm.

Và đủ tử tế… để không rời tay họ, khi họ bắt đầu run rẩy.

 Nhà báo Hoàng Nguyên Vũ

From: taberd & NguyenNThu

ÔNG SƯ NHÀ QUÊ – VŨ VĂN QUÝ

VŨ VĂN QUÝ

( Một tấm gương tốt lành rất đáng tôn vinh.)         

ÔNG SƯ NHÀ QUÊ

   “Tưởng niệm cố Hòa Thượng THÍCH THANH LONG –
một cựu Tù Nhân Chính Trị – nhân giỗ mãn phần 28 năm ( 29/11/1991 – 2019).”

BÀI CA KINH HÒA BÌNH
VŨ VĂN QUÝ

Tôn giáo nào cũng có những vị chân tu – những bậc lành thánh – suốt đời hiến thân cho lý tưởng thiêng liêng cao cả của mình đã chọn. Nhiều vị đã cùng sống chết với tha nhân và chết cho đạo pháp và trở nên hiển thánh được đời sùng bái tôn thờ chẳng hạn như thánh Maximilian Kolbe… (*). Tấm lòng vị tha chan chứa tình người của họ tỏa ra vô biên không vị kỷ, không đóng khung hạn hẹp ở lằn ranh tôn giáo. Biết bao công đức của họ được truyền tụng từ thế hệ này qua thế hệ khác được kể lại bằng những câu chuyện đầy cảm kích. 

Cách nay gần 3 thập niên trên tờ Đất Mẹ số 38 (Đất Mẹ là tờ báo nguyệt san Công Giáo) chúng tôi đã viết dưới đề tựa ” Nén Hương Cho Hòa Thượng THÍCH THANH LONG” ngay sau khi ngài viên tịch tại Sài Gòn. Từ sau ngày ấy đến nay, nhiều báo Việt ngữ tại Hoa Kỳ cũng có những bài viết về ngài, điểm đáng chú ý là những tác giả này đa số là những tù nhân chính trị người Công Giáo trong đó có một số các vị linh mục đang có mặt tại Hoa Kỳ, những người đã một thời sống cùng với cố hòa thượng ở các trại tù từ Nam chí Bắc, tất cả đều tỏ lòng tôn kính, ngưỡng phục. 

Tang lễ cố Hòa Thượng THÍCH THANH LONG  được mô tả như một đám rước hết sức trọng thể. Đoàn người tham dự đã phủ kín con đường dài 5 cây số từ cổng Chùa Giác Ngạn đường Trương Minh Giảng Sài Gòn tới Nghĩa Trang Bà Quẹo không chỉ gồm các đoàn thể Phật tử, các thiện nam tín nữ mà có mặt đủ mọi thành phần tôn giáo cũng như rất đông đảo các cựu Tù nhân Chính trị. 

Trước năm 1973, Hòa Thượng mang cấp bậc Trung Tá làm Phó Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo cho đến khi thượng tọa Thích Tâm Giác đi Nhật bản trị bệnh thì Hòa Thượng mới lên làm Giám Đốc và cũng được thăng cấp Đại Tá tuyên úy từ dạo đó. 

Ngày 13/6/1975 bị việt cộng bắt đi cải tạo và đem ra Bắc. Đến ngày 12/9/1987 được tha trở về lại Chùa Giác Ngạn Sài gòn và mãn phần tại đây. 

Ngược dòng thời gian gần 3 thập kỷ, năm ấy cũng vào mùa thu (1982), trại cải tạo Hà Tây tiếp nhận thêm khoảng 80 tù nhân chính trị (TNCT) từ trại tù Thanh Phong chuyển đến. Đa số thành phần thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị gồm các ngành Tâm Lý Chiến, An Ninh Quân Đội và Tuyên Úy của Quân Lực VNCH. 

Trại Hà Tây có tất cả 12 buồng giam. Số TNCT mới đến bị nhốt trong buồng số 7. Buồng này rất kín cổng cao tường bao quanh chằng chịt kẽm gai vì trước đó được dùng để nhốt các tù hình sự có trọng án nên được canh gác cẩn mật. Việt cộng coi những TNCT này là những đối tượng cực kỳ nguy hiểm. Khoảng một tháng sau khi được thanh lọc kỹ càng  thì việt cộng mới mở cửa cho đội Tuyên Úy ra ngoài lao động; tuy vậy buồng 7 vẫn chưa được ra sân lớn tập họp điểm số như các buồng khác. Đội Tuyên Úy lúc này do linh mục Nguyễn Quốc Túy – cha Túy là cựu Thiếu Tá Biệt Động Quân, một mẫu người trẻ năng nổ, ứng phó thần kỳ đã được các vị tu sĩ cử ra đứng mũi chịu sào để điều động đội này xử trí với những thủ đoạn thâm độc của việt cộng. Công việc chính của đội tuyên úy lúc đó là đào đất đắp đường và kéo xe thay thế trâu bò.

Lần đầu tiên tôi được cha Túy mời dự bữa cơm trưa thân mật tại sân buồng 7. Có khoảng chục người trong đó có linh mục Khổng Tiến Giám bào đệ của linh mục Khổng Tiến Giác tuyên úy Bộ Tổng Tham Mưu, linh mục Nguyễn Văn Thịnh cựu giám đốc nha tuyên úy Công giáo, các mục sư Xuân, Điểu Huynh và các đại đức Tâm, Khuê, Tùng và hòa thượng Long. Ngoài đội tuyên úy chỉ có 2 khách mời là tôi và Đại tá Trần Mộng Chu nha Quân Pháp. Hầu như không phân biệt tôn giáo và cấp bậc, tất cả các vị tuyên úy đều xem hòa thượng Thích Thanh Long như một người anh cả và xưng hô một cách chung chung là thầy Long. Mỗi khi nhắc đến thầy Long thì mọi người đều nói về thầy với niềm kính ái trọng vọng. 

Thoạt đầu khi chưa giới thiệu từng người trong bữa tiệc, tôi ghé vào tai cha Túy hỏi có phải người ngồi trước mặt cha là Thầy Long không thì cha lắc đầu. Cung cách bề ngoài và bộ quần áo mới màu đà còn tươi của vị này làm cho tôi lầm ông với hòa thượng Long. Rồi cha chỉ cho tôi người ngồi đối diện với tôi. 

Vóc gầy gò, dong dỏng cao, da ngăm ngăm, hàm răng nhỏ và đen huyền, tóc cạo đúng tiêu chuẩn sư tăng nhà Phật, mặc bộ đồ cũ đơn sơ, khuôn mặt hiền hậu nhưng khắc khổ, toát ra vẻ chân tu như thánh Găng Đi nhất là cặp mắt sáng, sâu, đen láy, rất ít nói nhưng quan tâm lắng nghe mọi người xung quanh. Đó là người ngồi đối diện với tôi. Người đó chính là Thầy Long. Tôi nhìn ông khẽ cúi đầu và ông nhìn tôi với đôi mắt hiền từ trìu mến. Ông đã trao cho tôi một nụ cười thật kín đáo.

Tháng 3/1983, trại Hà Tây sắp giải thể và chuyển hết các TNCT về Nam Hà. Các vị Tin Lành và Phật Giáo được phân tán về các đội lao động. Riêng các tuyên úy Công Giáo chờ phương tiện chuyển ngược về trại tù Thanh Phong. 

Năm 1985, tôi và thầy Long bị giam chung  tại Nam Hà và chính thời gian này tôi được biết thầy nhiều hơn. Có những người đã biết và nói rằng trước ngày di cư từ Bắc vào Nam năm 1954, thầy đã trụ trì tại một ngôi chùa ở một làng tại tỉnh Nam Định và được đông đảo tín hữu mến mộ. Nhiều đêm tâm sự với thầy trong buồng giam, tôi cố gợi chuyện để biết thêm nhưng thầy là người điềm đạm khiêm tốn chỉ kể với tôi là thầy xuất gia đầu Phật từ lúc 12 tuổi. Quyết tâm tu hành, không muốn vương vấn nợ trần, thầy đổi tên là Nguyễn Văn Long và hầu như hoàn toàn không ai biết được tên thật và quê quán của thầy. Thầy thuộc nhiều địa danh ở Nam Định, khi tôi kể chuyện liên quan đến những vùng Cổ Lễ, Cổ Ra, Văn Tràng, Trực Ninh, Nam Trực, Quần Phương, Lạc Quần v.v. thì bỗng nhiên đôi mắt thầy rực sáng lên và có vẻ thích thú. Tôi đoán có lẽ thầy đã trải qua thời thơ ấu tại một trong những địa danh này chăng? 

Thầy nói năm 16 tuổi, thầy chỉ lén về nhà nhìn mặt thân phụ của mình từ trần rồi lại lặng lẽ ra đi. Lý tưởng của thầy là Phật pháp, tình yêu của thầy là tha nhân, thân bằng quyến thuộc của thầy là Phật tử. Thầy có một cuộc sống vô cùng mộc mạc, đơn sơ, đức độ, lúc đi tu cũng như lúc ở tù. Thầy thường nói với tôi : “Tù cũng là tu”. Vốn có một tâm hồn thanh tịnh như đóa sen nở trên mặt hồ không gợn sóng lúc nào cũng toát vẻ chân tu khiến người bàng quan thấy thầy là cõi phúc. Lúc nào thầy cũng tự nhận mình là một “Ông Sư Nhà Quê”.  Đúng như vậy. 

Trong thời kỳ đói khát, tù nhân chưa được gia đình tiếp tế thăm nuôi đã có kẻ lấy chiếc lon ghi gô đựng nước uống của thầy nhét đầy thịt heo đánh cắp của trại, lúc bị phát giác không ai dám nhận. Cuối cùng để tránh phiền lụy cho một số người, thầy không ngần ngại đứng ra nhận chiếc lon đó là của thầy mặc dù ai cũng biết thầy ăn chay trường và kẻ nào là tên ăn trộm lúc bấy giờ. Khi nào trại cho tù nhân chút ít thịt để “bồi dưỡng”, thầy thường nhường cho các anh em đau ốm bệnh hoạn.

Đến khi được thăm nuôi tiếp tế, Phật tử khắp nơi đến thăm thầy hầu như hàng tuần. Những quà tiếp tế, thầy đem chia cho các bạn tù. Quần áo chỉ giữ 2 bộ. còn bao nhiêu cũng đem cho hết. Thầy thường xuống bệnh xá thăm viếng những người đau ốm và đem quà bánh thuốc men  xuống cho họ. Thầy rất quan tâm đến những “con bà phước” (**) bị bỏ quên trong trại. 

 Một vài trường hợp điển hình:

– Anh Khương, Phó Quản Đốc Trung Tâm Cải Huấn Côn Sơn – một người Công Giáo – bị địch bắt ngay trong lúc còn đang mặc sắc phục và bị việt cộng đánh nhừ tử. Hậu quả của những trận đòn thù khiến anh Khương trở thành bại liệt, á khẩu, tay chân co rút. Anh bị mất liên lạc với gia đình từ ngày bị bắt. Gần 13 năm, anh mới bập bẹ nói được một tiếng “dôi, dôi” như đứa trẻ mới tập nói. Thầy Long đã đích thân chăm sóc đút cơm, tắm rửa cho anh Khương như một người thân, đặc biệt là khi trại đọc lệnh tha nhưng anh không biết về đâu và không thể đi được một mình. Chính thầy Long đã giúp anh một số tiền và nhờ đại đức Tâm được tha cùng một lượt với anh Khương về trước tìm kiếm thân nhân của anh ở tận miền Tây để ra đón anh. 

– Anh Nguyễn viết Tân, Đại tá hải quân QLVNCH bị bán thân bất toại và bệnh nặng trong lúc mọi người ai nấy đều lo cho bản thân mình và tình thương giữa con người đã trở nên mệt mỏi thì thầy Long cũng chính là người tình nguyện chăm sóc anh Tân cho đến khi anh được người nhà ra đón kịp  về rồi chết. 

Một trường hợp khôi hài khác là ở trong trại có một anh tên Nguyễn Huệ, “vô tông tích” tự xưng là trung tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 23B (?). Có một thời gian anh ta bị giam chung với các tướng lãnh QLVNCH nhưng sau việt cộng phát giác “tướng Nguyễn Huệ”  chỉ là một tên điên khùng  và bị loại ra khỏi đội. Thấy thầy thương người và dễ dãi, “tướng Nguyễn Huệ” thường hay chạy theo quấy quả xin xỏ cơm và thuốc lào. Hễ trông thấy anh ta là thầy tủm tỉm cười, thầy không hề tỏ vẻ khó chịu và còn đi kiếm thuốc lào cho anh ta, tuy thầy chẳng bao giờ hút thuốc. 

Tù nhân được tha dần nhưng vẫn còn tồn đọng một số khá lớn trong đó có các đại đức Tâm, Khuê, Xuân, Tùng, Trí, Bình, Ngự, Học, Diệu v.v. Mỗi lần thầy Long được thông báo có thăm nuôi thì các vị này đã sắm sẵn bao bị và tận tình giúp đỡ thầy. Thầy thường nói : ” Hôm nay tôi lại có thánh Veronica đến thăm nuôi “. Đây cũng là dịp thầy tập họp các tu sĩ Phật giáo ở trong trại tù để phân công đi thăm viếng bệnh nhân hoặc cắt cử họ đến tụng kinh và cầu siêu mỗi khi có người tạ thế.

Vào các dịp lễ Noel hay Tết âm lịch, thầy cũng dành dụm chút gạo, đậu xanh, đường tán và khởi xướng việc nấu chè ăn chung cả buồng mang niềm vui nhỏ bé đến cho mọi người và còn dốc hết “hầu bao” giúp các anh em nghèo đói nhất trong trại. 

Thầy rất thích nghe tôi đánh đàn và kể chuyện cuộc đời thánh Phanxicô Khó Khăn (Francis 0f Assisi) nhất là những câu hát ý nghĩa thâm thúy trong Kinh Hòa Bình. Cứ vào mỗi sáng sớm Chủ Nhật được nghỉ lao động, trong khi tất cả mọi người còn nằm trong mùng thì thầy đã đánh thức tôi và khẽ nói : “Ông Quý ơi ! Dậy cho anh em nghe đàn đi !” Thế rồi âm thanh của chiếc đàn gỗ tự tạo ở trong tù của tôi nhè nhẹ vẳng ra tiếng thay lời trong âm giai cung Mi buồn ” Lạy Chúa từ nhân, xin cho con…..” hầu như không làm cho ai khó chịu cả. 

Tấm lòng cao quý của thầy sáng như ngọn đuốc trong trại tù tăm tối, không những đối với các bạn tù chính trị mà còn lan tỏa  đến cả những tù hình sự giam chung cùng trại. 

Như một tấm huy chương vô giá mà trên cõi đời này không thể đem ra so sánh được, thầy đã đối diện với bọn cai tù khát máu, trước họng súng AKA mà không hề nao núng và không sợ chết. Thầy đã được các vị tuyên úy Công Giáo ca ngợi vì đức bác ái và lòng hỷ xả, quên mình và chấp nhận những gì bất hạnh xảy đến. Trong cuốn AKA và Thập Giá của linh mục Phan Phát Huồn, Dòng Chúa Cứu Thế trang 107-108 kể chuyện đám tang của Cha Nguyễn Văn Bản, Dòng Đa Minh, tuyên úy Tổng Y Viện Cộng Hòa chết tại trại giam Yên Bái. Sau khi chôn cất, việt cộng bắt các tù nhân cải tạo lên lớp hội thảo để lên án và làm nhục người đã chết. Chúng vu cáo cho Cha Bản là một tên ác ôn côn đồ, chạy theo Mỹ Ngụy giết hại đồng bào, một tên có nợ máu đối với nhân dân, một tên lường gạt vv.. Nghe tên Nha, công an việt cộng lải nhải nhục mạ một người đã khuất mà người đó vốn là một người đạo đức gương mẫu, không dằn nổi sự bất bình, thầy Long đã đứng lên bênh vực bằng một giọng ôn tồn nhưng cương quyết : 

” Tôi được biết Linh Mục Bản ngoài xã hội cũng như ở trong trại cải tạo là một con người đạo đức, được mọi người kính nể…” Tên việt cộng hống hách nạt nộ:

” Anh im mồm ngay. Anh Bản đã bị nhà nước cách chức linh mục của anh ta từ ngày anh bước chân vào trại cải tạo, còn anh, anh đừng có hòng đem cái bọn cha cố vào đây mà hù dọa cách mạng…”  nhưng thầy Long đâu có chịu im. Đợi cho tên việt cộng vừa dứt lời thì thầy nói tiếp:

” Nếu linh mục đều như cán bộ nói thì làm sao dân chúng tin tưởng và kính mến họ. Mặc dù  cán bộ đã cấm các trại viên gọi các linh mục là Cha và tự xưng mình là con, trại viên nào không tuân thì sẽ phải xử lý, nhưng thưa cán bộ, có ai chấp hành lệnh đó không? Trái lại, đối với công chức nhà nước, trước mặt họ gọi là cán bộ nhưng sau lưng họ gọi bằng thằng việt cộng thì cán bộ nghĩ sao?” 

Như một con hổ bị trúng đạn, hai mắt hắn đỏ ngầu giận dữ, nhảy chồm tới nhìn trừng trừng vào thầy Long, quát thật lớn văng cả nước miếng vào mặt người đối diện và hắn ra lệnh:

“À anh này hỗn thật, yêu cầu các đồng chí đem cùm tên này cho tôi, biên bản sẽ làm sau.” 

Thầy Long vẫn tiếp tục nói một cách hùng hồn cho đến lúc lính cảnh vệ việt cộng mang AK xông tới còng hai tay ông, ông không tự bênh vực cho mình, ông vẫn bình thản đưa hai tay cho chúng còng để chúng đem đi. Đây thật là hình ảnh một con chiên hiền lành đứng trước kẻ xắn lông mình mà không nói lời than trách như đã được diễn tả trong Kinh Thánh. (Cv.8.32-33). 

Cuối năm 1987, thầy Long được tha về. Cởi bỏ chiếc áo chàm cải tạo, thầy lại khoác chiếc áo màu đà. Từ khi trở về Chùa Giác Ngạn, thầy không giữ chức trụ trì như trước, thầy sống trên căn gác xép tại góc vườn nhưng hàng ngày rất đông người đến thăm viếng và ngôi chùa được trùng tu lại, trở nên đẹp đẽ khang trang hơn cũng nhờ uy tín và sự quan tâm của thầy. Hầu như ai cũng cảm mến gương hy sinh, lòng can đảm, tánh cương trực của thầy Long. Có những vị Linh Mục không đi cải tạo mà chỉ nghe tiếng thôi cũng muốn đến thăm thầy Long tại Chùa Giác Ngạn. Tôi hỏi Cha Vũ Ngọc Trân, Chánh Xứ Chu Hải tỉnh Phước Tuy, cha nghĩ thế nào khi đến thăm Hòa Thượng Thích Thanh Long tại Chùa Giác Ngạn? Cha đã trả lời một cách không dè dặt: ” Tôi nghĩ Chúa sẽ thưởng công cho bất cứ ai biết khao khát trọn lành, thương người và giúp đỡ bênh vực người. Chúa nói kẻ nào giúp đỡ người đều có công trước mặt Ta. Tôi nghe các cha tuyên úy đi cải tạo về có nói nhiều về ông. Tôi cũng mến mộ ông và việc tôi đến thăm cơ sở một tôn giáo khác đâu có gì làm suy giảm đi lòng kính mến Chúa nơi tôi đâu. Nếu nói đó là một hình thức trao đổi văn hóa thì cũng chẳng sao!” (Cha Đa Minh Vũ Ngọc Trân cũng đã qua đời tại Xứ Chu Hải Bà Rịa ngày 24/2/1992). 

Trong thời gian chưa mắc bệnh ung thư nơi xương tọa, phương tiện chính của thầy trong thành phố là “xe đạp ôm”. Thầy thường ngồi trên “poóc ba ga” phía sau để cho một chú tiểu chở đi. Người ta thấy thầy xuất hiện ở nhiều nơi và tình thương của thầy dường như vẫn đặc biệt dành cho bạn tù cải tạo còn trong trại giam hoặc đã được tha về. Khi biết có ai đi xuống trại Z30D thì thầy cũng nhắn lời thăm hỏi, có đôi lúc  thầy gửi một cần xé chôm chôm hoặc vài thùng mì gói xuống phân phát cho anh em chưa may mắn được về sum họp với gia đình. Khi nghe tin có người vừa mất, bất luận ở đâu, không phân biệt tôn giáo, nơi cầu siêu hay chốn làm phép xác, tại chùa hay nhà thờ thánh thất, thầy cũng đều có mặt để phân ưu với gia đình người quá cố, thầy không ngần ngại đến vì “nghĩa tử là nghĩa tận”. Tôi đã gặp thầy và cùng đứng chung với thầy dưới gốc cây xoài trước tượng đài Đức Mẹ trong khuôn viên Nhà Thờ Ba Chuông để chờ tiễn đưa linh cữu của cố Trung Tá Nguyễn Thủy Chung và cố Trung Tá Nguyễn Anh Ly mất vào những năm 1989-1990. 

Rất nhiều cựu TNCT nay đang có mặt tại Hoa Kỳ hoặc định cư rải rác trên khắp thế giới vẫn nhắc đến thầy Long. Ký giả Lô Răng tức cố Trung Tá Phan Lạc Phúc và Trung Tá nhà văn Hoàng Ngọc Liên, Ký giả Vũ Ánh… cũng có những bài viết rất sâu sắc về thầy.                                                                    

                                                    *    *     *

Tôi chẳng có tư cách gì và cũng chẳng dám đưa ra nhận xét nào để “phong thánh” cho một con người mà tôi quen biết trong một thời gian hạn hẹp. Dưới nhãn quan của một tín đồ Công Giáo, dù sao tôi cũng chỉ là một chứng nhân với biểu kiến riêng, tôi xem Hòa Thượng Thích Thanh Long là một tấm gương rất tốt lành, đáng kính và đáng tôn vinh mà thời đại ngày nay thắp đuốc giữa ban ngày đi tìm cũng khó kiếm. Một người đã hy sinh tất cả để trọn đời đi theo con đường giống như của thánh Phanxicô Khó Khăn tác giả bài ca KINH HÒA BÌNH đã đi. 

Thầy Long luôn đề cập KINH LỤC HÒA trong Diệu Pháp Liên Hoa cho các đệ tử. Chính vì thế mà thầy rất thích KINH HÒA BÌNH của thánh Phanxicô lúc ở trong tù thì sau này tôi mới nghiệm ra vì nó ẩn chứa những điều uyên thâm sâu xa nói về đức bác ái và lòng từ bi cũng giống như KINH LỤC HÒA. Tôi không ngờ thầy Long lại là một người bạn tri âm của tôi và ngày nay mỗi khi dạo nhạc hát lên bài ca KINH HÒA BÌNH tôi lại nhớ đến thầy. 

Từ cõi bên kia, tôi tin rằng thầy đang mỉm cười và chăm chú lắng nghe tôi hát:

“Lạy Chúa từ nhân! Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm…”  

Tôi sẽ nhớ thầy mãi mãi cùng với bài ca KINH HÒA BÌNH trong tiếng tơ đồng của cung Mi buồn. 

VŨ VĂN QUÝ

(*) Cha Nguyễn Quốc Túy hiện nay làm cha xứ Tân Thái Sơn tại Sài Gòn.

(*) Con bà phước: tù nhân mồ côi, không người thăm viếngthiếu thốn.


 

Hồi xưa chợ Thủ Đức không có ngập…

Nguyễn Gia Việt

 Chợ Thủ Đức là một khu chợ cổ gắn liền với sự hình thành và phát triển của vùng đất Thủ Đức từ thuở lập ấp, lập làng đến hôm nay.

Hồi xưa chợ Thủ Đức không có ngập, ngập lút là của hôm nay khi quy hoạch chung quanh đã bít đường nước, hướng dòng nước mưa tập trung vào chợ Thủ Đức như cái ao.