Bí quyết sống hạnh phúc của người Bắc Âu: Đơn giản, chậm một chút và yêu gia đình

Bí quyết sống hạnh phúc của người Bắc Âu: Đơn giản, chậm một chút và yêu gia đình

Người Bắc Âu có thể nói là những người “biết sống” bậc nhất trên thế giới này. Họ sống tự nhiên, đơn giản, hạnh phúc – chính là những điều mà con người hiện đại mong muốn hướng tới.

Nếu để ý một chút, chúng ta sẽ nhận thấy, các quốc gia ở Bắc Âu không có nhà cao tầng, người dân ăn mặc rất mộc mạc, đi những chiếc xe cũ kỹ và ăn những món ăn đơn giản.

Sau 7 giờ tối, gần như trên đường đều rất yên ắng, không có cuộc sống “xa hoa trụy lạc” vào ban đêm, cũng không có những dịch vụ cao cấp lãng phí kích thích thần kinh con người. Vậy, hạnh phúc của những người dân Bắc Âu đến từ đâu?

Người Bắc Âu thường nhắc đến cụm từ “Chất lượng cuộc sống”. Đất nước Thụy điển có câu châm ngôn: “Tiền là thứ có thể để dành được còn thời gian thì không để dành được. Bạn sử dụng thời gian như thế nào thì nó sẽ quyết định chất lượng cuộc sống của bạn”.

Giữa 2 vế: cuộc sống đầy đủ nhà cao cửa rộng, tiền bạc và xe hơi sang trọng, so với cuộc sống có đầy đủ vợ chồng, con cái, sân vườn, người Bắc Âu lựa chọn vế thứ hai bởi vì thứ mà họ muốn là “phẩm chất” chứ không phải là “vật chất”.

“Nhanh một chút” rồi lại “nhanh một chút!”, sống như vậy, bạn có nghĩ rằng linh hồn của mình sẽ không theo kịp thể xác không? Người Bắc Âu lựa chọn cách sống “chậm một chút!” nhưng bạn có thể tìm được hạnh phúc thực sự từ đây.

Một ngôi làng tại Đan Mạch, đẹp như tranh vẽ

Đơn giản – Giảm ham muốn vật chất, trở về với tâm linh yên bình, thư thái

Môi trường thiên nhiên hà khắc khiến cho thói quen tiết kiệm đã trở thành điều tất nhiên ở đây: Cơm không thể không ăn, nhưng không nhất thiết phải ăn quá ngon. Tiền không thể không có, nhưng không nhất thiết phải có quá nhiều.

Cuộc sống đơn giản của người Bắc Âu rất dễ để nhận ra, ví dụ trong cách ăn mặc, bất luận giá cả như thế nào cũng cần phải phù hợp. Những phụ nữ 70-80 tuổi thường mặc áo khoác vàng nhạt kết hợp chân váy, đi giày nữ tính, khăn trùm đầu phong cách nữ hoàng Anh. Nhìn họ vừa nữ tính vừa trang nghiêm nhưng cũng không mất đi vẻ cuốn hút.

Trang phục truyền thống Bắc Âu

Ngoài ra, nếu nhà ai đó mới sinh em bé thì những nhà hàng xóm hay bạn bè đều sẽ mang những bộ quần áo cũ đã được giặt rũ thơm tho đến cho em bé sử dụng. Điều này là rất bình thường ở đây, có vẻ như nó cũng trở thành một thói quen lâu đời.

Nếu một anh chàng thanh niên, một ông lão hay một cô gái đang đi trên đường mà bất chợt gặp bạn bè, thì quán cà phê ở đầu đường hay cuối ngõ sẽ là lựa chọn đầu tiên của họ. Một cốc cà phê Cappuccino nồng nàn trong không gian tĩnh lặng sẽ khiến họ ấm áp và thân thiết hơn.

Những con đường ở các quốc gia Bắc Âu thường hẹp hơn đường ở nước Đức, phần lớn nó không phải những con đường thẳng mà là những ngõ, hẻm.

Người dân nơi đây chủ yếu sử dụng những loại xe ô tô cá nhân cỡ nhỏ. Rất nhiều người đạp xe đạp đi làm. Bảo vệ môi trường đối với họ không phải là một loại “mốt” mà là một sự “cao thượng”.

“Giờ cao điểm” ở thủ đô Copenhagen, Đan Mạch 

Hiệu suất cao – Làm việc để cuộc sống chất lượng hơn

Công việc của họ khá nhẹ nhàng, thời gian rảnh đủ để làm thêm một công việc khác. Nhưng họ lại không làm như thế mà là lựa chọn tới quán cà phê thưởng thức cùng bạn bè hoặc ngồi đọc sách.

Một quán cà phê ở Copenhagen, Đan Mạch 

Nhưng mà bạn đừng nghĩ rằng, người Bắc Âu suốt ngày chỉ biết uống cà phê nhé! Điều kiện tiên quyết để họ được hưởng cuộc sống hạnh phúc là từ một thể chế phúc lợi do chính thái độ và hiệu suất làm việc của họ đem lại. “Đừng suy xét đến thu nhập, trước tiên hãy hỏi mình thích gì, công việc mình phải thích thì mới làm tốt được nó”, đây là quan niệm của người Bắc Âu, cho nên công việc đối với họ mà nói cũng không phải là một loại “đau khổ, giày vò”.

Vì đề cao hiệu suất, nên người Bắc Âu nghĩ mọi cách để sáng tạo, như vậy để họ có nhiều thời gian hơn cho việc nghỉ ngơi và cho gia đình. Chỉ cần nhìn vào số lượng giải Nobel hay những giải thưởng danh giá khác trên thế giới bạn sẽ thấy rõ điều này thôi!

Người Bắc Âu nổi tiếng là những người yêu du lịch. Họ thường xuyên đi để hưởng thụ, ngắm cảnh đẹp trong nước cũng như trên toàn thế giới.

Yêu gia đình – Vui chơi cùng con cái

Trong cuộc sống của người Bắc Âu, chỉ cần vừa có kỳ nghỉ là họ sẽ cùng gia đình tận hưởng những ngày vui đùa bên nhau, cùng tắm biển, tắm nắng, trượt tuyết, cưỡi ngựa…

Người Bắc Âu rất đề cao giá trị gia đình, người chồng trong gia đình sẵn sàng hủy bỏ những buổi gặp gỡ ăn uống với bạn bè sau giờ làm để dành thời gian cho vợ con.

(Nguồn: investindk.com)

Điều đầu tiên sau khi tan ca trở về nhà chính là mọi người dành thời gian cho gia đình. Họ cùng nhau nấu ăn, vui đùa, kể chuyện, có rất ít người ở lại bên ngoài. Cho dù là có muốn làm thêm thì họ cũng phải chọn thời gian để tránh ảnh hưởng đến gia đình.

Ví dụ, người chồng sẽ chọn đi làm tăng ca vào lúc 3 giờ sáng bởi vì họ cho rằng buổi sáng ít nhất còn có người vợ ở nhà dùng bữa sáng cùng các con. Như vậy, người chồng sẽ chỉ bị mất đi khoảng 1 tiếng đồng hồ là thời gian gia đình gặp gỡ nhau ăn sáng. Làm thêm giờ vào buổi sáng sớm, nghe thì có vẻ khó tin, nhưng điều này lại cho các ông bố có thêm thời gian vào buổi tối để gia đình được ăn tối cùng nhau.

Một người đàn ông tên là Fredrik nói: “Nếu như một ngày, tôi không nhìn thấy bọn em của tôi, không kể cho chúng một câu chuyện, không hôn lên đầu chúng thì tôi không thể làm được bất cứ điều gì!”.

Họ cho rằng, khoảnh khắc hạnh phúc nhất chính là những đứa trẻ leo lên đầu gối và ôm lấy cổ bố chúng, hôn một cái trước khi đi ngủ. Họ cảm thấy đây chính là một loại thành tựu, một loại hạnh phúc.

Đối với người đàn ông Bắc Âu mà nói, gia đình và con cái không phải là nền tảng giúp người đàn công tìm kiếm sự thành công, mà là một phần quan trọng nhất trong chất lượng cuộc sống của họ.

Mai Trà

 From: Kristie Phan & KimBang Nguyen

‘Đạo đức Cộng sản’ trước mãnh lực đồng tiền qua vụ hai cựu bộ trưởng Son-Tuấn

Đài Á Châu Tự Do
“Sức mạnh đồng tiền chiếm toàn bộ lý tưởng của người Cộng sản Việt Nam hiện nay. Nói cho cùng thì cũng toàn là những cách làm việc, những cách mà họ kiếm tiền từ ngân sách nhà nước mà thôi. Hiện nay phải nói rằng lý tưởng của người Cộng sản không có gì ngoài đồng tiền. Đồng tiền giúp cho họ giàu có, đồng tiền giúp cho họ đưa con đi học nước ngoài và đồng tiền giúp cho họ nhiều việc khác…”

 

‘Đạo đức Cộng sản’ trước mãnh lực đồng tiền qua vụ hai cựu bộ trưởng Son-Tuấn

RFA

Bị cáo-cựu Bộ trưởng Bộ Thông tin-Truyền thông Trương Minh Tuấn được áp giải tới phiên tòa sơ thẩm ngày 16/12/19.

 Courtesy: vov.vn

‘Đạo đức Cộng sản’ trước mãnh lực đồng tiền qua vụ hai cựu bộ trưởng Son-Tuấn

00:00/00:00

Hai cựu Bộ trưởng Bộ Thông tin-Truyền thông Nguyễn Bắc Son và Trương Minh Tuấn đang phải hầu tòa với cáo buộc nhận hối lộ 3,2 triệu đô la Mỹ (USD) trong Mobifone mua 95% cổ phần AVG.

Để đảm đương vai trò lãnh đạo ngành thông tin- truyền thông, cả hai ông Nguyễn Bắc Son và Trương Minh Tuấn đều phải trải qua một quá trình phấn đấu trong đảng, chứng minh ‘bản lĩnh và đạo đức cách mạng’  Cộng sản.

Thế nhưng sao họ lại bị ‘ngã ngựa’? Và ngay trong ngày đầu của phiên xử, một số bị cáo cho rằng việc họ làm là theo lệnh của cấp trên.

‘Biện bạch’ của ông cựu bộ trưởng

Trong phiên tòa ngày 16/12, ông Trương Minh Tuấn thừa nhận với cương vị là Thứ trưởng Bộ Thông tin-Truyền thông (TT-TT), ông đã ký 5 trong tổng số 53 văn bản của Dự án Mobifone mua 95% cổ phần của AVG; đồng thời khai báo rằng ông được ông Nguyễn Bắc Son, thời điểm đó là Bộ trưởng Bộ TT-TT có bút phê yêu cầu ký, trong đó có Quyết định 236.

Quyết định số 236/QĐ-BTTTT ngày 21/12/2015 phê duyệt Dự án đầu tư dịch vụ truyền hình của Mobifone được xác định là vi phạm quy định điều 31 Luật số 67/2014/QH13. Bị cáo Trương Minh Tuấn nói trước tòa rằng bản thân nhận thức ký Quyết định 236 là sai vì chưa có sự phê duyệt chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ, dẫn đến hậu quả là “vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng”.

Vào tối ngày 16/12, Nhà báo độc lập Chu Vĩnh Hải lên tiếng với RFA rằng ông cựu Bộ trưởng Trương Minh Tuấn chỉ là ngụy biện qua lời khai tại tòa:

Sức mạnh đồng tiền chiếm toàn bộ lý tưởng của người Cộng sản Việt Nam hiện nay. Nói cho cùng thì cũng toàn là những cách làm việc, những cách mà họ kiếm tiền từ ngân sách nhà nước mà thôi. Hiện nay phải nói rằng lý tưởng của người Cộng sản không có gì ngoài đồng tiền. Đồng tiền giúp cho họ giàu có, đồng tiền giúp cho họ đưa con đi học nước ngoài và đồng tiền giúp cho họ nhiều việc khác
-Blogger Đỗ Ngà

“Về mặt công vụ, ông Trương Minh Tuấn không thể thấy sai mà ký bừa được. Về mặt nguyên tắc luật pháp như thế. Lẽ ra cựu Bộ trưởng Trương Minh Tuấn thấy sai thì không ký và phản đối ông Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son. Bản thân một người công chức thấy sai là không làm. Nhưng nếu ông Tuấn bảo trước tòa rằng Bộ trưởng Son nói ký nên ký thì chẳng qua là cách nói ngụy biện thôi.”

Giáo sư Nguyễn Đình Cống cho RFA biết qua theo dõi phiên tòa diễn ra trong ngày 16/12, ông khẳng định rằng cựu Bộ trưởng Trương Minh Tuấn đã đồng tình, ủng hộ cựu Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son trong thương vụ Mobifone mua AVG nên mới ký. Giáo sư Nguyễn Đình Cống nhấn mạnh:

“Nếu như ông Tuấn là một người trung thực, là một người tử tế thì phải chống lại chuyện ấy chứ. Thành ra họ là một giuộc cả.”

Bị cáo Trương Minh Tuấn bào chữa cho tội thứ hai bị cáo buộc đã nhận hối lộ số tiền 200 ngàn USD (tương đương 4,45 tỷ đồng) từ bị cáo Phạm Nhật Vũ, cựu Chủ tịch AVG rằng ông nghĩ số tiền đó là “quà mừng” khi ông nhận chức Bộ trưởng Bộ TT-TT vào dịp Tết năm 2016.

Sức mạnh đồng tiền!

Blogger Đỗ Ngà, người có nhiều bài viết về tình hình chính trị-xã hội Việt Nam và cũng theo dõi sát sao vụ án liên quan thương vụ Mobifone mua AVG, nêu lên nhận định của ông với RFA rằng qua vụ án liên quan hai ông cựu Bộ trưởng Bộ TT-TT Nguyễn Bắc Son và Trương Minh Tuấn nhận hối lộ lên đến 3,2 triệu USD cho thấy:

“Sức mạnh đồng tiền chiếm toàn bộ lý tưởng của người Cộng sản Việt Nam hiện nay. Nói cho cùng thì cũng toàn là những cách làm việc, những cách mà họ kiếm tiền từ ngân sách nhà nước mà thôi. Hiện nay phải nói rằng lý tưởng của người Cộng sản không có gì ngoài đồng tiền. Đồng tiền giúp cho họ giàu có, đồng tiền giúp cho họ đưa con đi học nước ngoài và đồng tiền giúp cho họ nhiều việc khác…”

Quyển sách do cựu Bộ trưởng Trương Minh Tuấn chủ biên. RFA Edited

Nhà báo Chu Vĩnh Hải cũng đăng tải trên trang Facebook cá nhân rằng mô hình “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” của Việt Nam gây nên hậu quả là “tư bản thân hữu, nhóm lợi ích mà một trong những biểu hiện là dùng tiền của nhân dân, đất nước để mua đắt tài sản bèo bọt của tư nhân. Vụ Mobifone mua AVG mà hai cựu bộ trưởng ra tòa ngày hôm nay là minh chứng rõ ràng nhất”.

Nhà quan sát tình hình Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Đình Cống lý giải rằng các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN), bao gồm cả hai ông cựu Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son và Trương Minh Tuấn là hệ quả của Đảng Cộng sản Việt Nam càng ngày càng thoái hóa do bởi chủ trương toàn trị của Đảng và gây ra tình trạng mang lại quyền lợi cho người đảng viên. Giáo sư Nguyễn Đình Cống nói:

“Ngay từ lâu đảng viên Đảng CSVN đã phạm phải tham nhũng quyền lực rồi sau này khi vật chất tăng lên thì người ta tham nhũng cả quyền lực, cả tiền tài. Và vì đảng viên tham nhũng có điều kiện như thế thành thử ra những bọn cơ hội chủ nghĩa, những bọn đểu cáng ở bên ngoài tìm cách để chui vào Đảng CSVN. Khi chui được vào Đảng thì bọn họ tìm cách leo cao và chiếm được nhiều quyền. Bọn người đấy chẳng phải tài giỏi gì cả. Bọn họ chỉ là bọn cơ hội có nhiều mưu ma chước quỷ và đến khi leo lên được chức bộ trưởng, thứ trưởng như ông Nguyễn Bắc Son, ông Trương Minh Tuấn thì tha hồ tham nhũng thôi.”

Tham nhũng mà lại rao giảng đạo đức: Vì sao?

Mặc dù bị cáo Trương Minh Tuấn bị cáo buộc nhận hối lộ số tiền 200 ngàn USD không đáng kể so với số tiền 3 triệu USD mà bị cáo Nguyễn Bắc Son bị cáo buộc nhận hối lộ qua thương vụ Mobifone mua 95% cổ phần của AVG, tuy nhiên ông cựu Bộ trưởng Trương Minh Tuấn được dư luận đặc biệt nhắc tên vì ông là tác giả của quyển sách chuyên khảo có tựa đề “Phòng, chống ‘tự diễn biến’, ‘tự chuyển hóa’ về tư tưởng trong cán bộ, đảng viên hiện nay”.

Chúng tôi trích dẫn một ý kiến điển hình của thính giả Nguyễn Quốc Chính chia sẻ trên trang Facebook RFA Việt ngữ rằng “Cuốn sách và ông Trương Minh Tuấn làm lộ ra bằng chứng về sự gian xảo chính trị của CSVN. Vấn đề ở đây là ‘cái máy hệ thống Cộng sản’ đã sản xuất ra 100% sản phẩm đạo đức giả với hành vi tham nhũng từ cấp xã, phường đến đỉnh chóp của hệ thống Cộng sản cầm quyền.”

Trước sự chỉ trích của công luận về “tư tưởng và việc làm” của ông cựu Bộ trưởng Trương Minh Tuấn, Giáo sư Nguyễn Đình Cống cho rằng:

Đấy là một cái bệnh cố hữu của Cộng sản, là dối trá. Đạo đức, tính cách chẳng ra gì nhưng lại muốn ra vẻ ta đây là đạo đức, là cách mạng, là giỏi giang rồi giảng dạy cho mọi người. Thành ra quyển sách của ông Trương Minh Tuấn đã gây nên sự phản ứng mạnh mẽ trong nhân dân, đặc biệt trong giới có hiểu biết nhận thấy rằng ông Tuấn là người đại diện rõ ràng nhất cho sự tha hóa, cho sự đểu cáng, cho sự dối trá của các quan chức Cộng sản
-Giáo sư Nguyễn Đình Cống

“Đấy là một cái bệnh cố hữu của Cộng sản, là dối trá. Đạo đức, tính cách chẳng ra gì nhưng lại muốn ra vẻ ta đây là đạo đức, là cách mạng, là giỏi giang rồi giảng dạy cho mọi người. Thành ra quyển sách của ông Trương Minh Tuấn đã gây nên sự phản ứng mạnh mẽ trong nhân dân, đặc biệt trong giới có hiểu biết nhận thấy rằng ông Tuấn là người đại diện rõ ràng nhất cho sự tha hóa, cho sự đểu cáng, cho sự dối trá của các quan chức Cộng sản.”

Nhà báo Chu Vĩnh Hải lại cho rằng việc rao giảng đạo đức như thế còn mang về thêm lợi ích cho chính những người rao giảng:

“Càng có chức có quyền thì họ càng rao giảng về mặt đạo đức, tức là họ ra giảng để càng nâng cao vị thế của mình và để họ mị dân thế thôi. Họ càng coi như dạy dỗ nhân dân thì biết rằng việc rao giảng đó càng đưa lại cho họ quyền lợi và các mục đích khác. Ai cũng rao giảng hết, chứ không phải mỗi ông Trương Minh Tuấn. Đó là đặc điểm của chế độ độc tài toàn trị.”

Đài RFA ghi nhận trong năm 2019, hàng trăm đảng viên Đảng CSVN bị kỷ luật do liên quan đến tham nhũng, trong đó có đến 70 cán bộ, đảng viên thuộc diện Trung ương quản lý bị kỷ luật và xử lý hình sự tính đến cuối tháng 7. Mới đây nhất, Chính quyền thành phố Hồ Chí Minh, thành phố kinh tế-tài chính lớn nhất Việt Nam công bố tội phạm về tham nhũng và lợi dụng chức vụ ở thành phố này tăng 240% về số vụ và tăng 250% về số bị can.

Với những số liệu vừa nêu, các nhà quan sát tình hình Việt Nam như Giáo sư Nguyễn Đình Cống, Nhà báo Chu Vĩnh Hải hay Blogger Đỗ Ngà đều cho là “bề nổi của tảng băng” vì mục đích cuối cùng của người Cộng sản Việt Nam chỉ nhắm vào “tư lợi và tiền”.

Bộ phim vạch trần nạn mổ cắp nội tạng tại Trung Quốc được công chiếu tại Anh

 

TINNHANH.DKN.TV
Hoa hậu Thế giới Canada Anastasia Lin đóng vai chính trong bộ phim ‘Lưỡi dao rỉ máu’. Nữ diễn viên người Canada gốc Hoa Anastasia Lin nằm trong danh sách truy nã gắt gao của Trung Quốc. Sau khi giành vương miện Hoa Hậu Thế giới Canada năm 2015, th…

Những nhà khoa học lỗi lạc nhất tin vào thuyết vô thần hay hữu thần?

Những nhà khoa học lỗi lạc nhất tin vào thuyết vô thần hay hữu thần?

Trên tuyến xe lửa đi về Paris, có một thanh niên trẻ ngồi cạnh một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ rút trong túi áo ra một chuỗi mân côi và chìm đắm trong cầu nguyện. Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội.

Sau một hồi lâu, xem chừng không thể chịu nổi, anh ta mạnh dạn lên tiếng:

“Thưa Ông, Ông vẫn còn tin vào những chuyện nhảm nhí thế à?”

Cụ già thản nhiên trả lời: “Đúng vậy, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?”

Người thanh niên xấc xược trả lời:

“Lúc nhỏ tôi có tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin vào những chuyện nhảm nhí ấy được, bởi vì khoa học đã mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi và hãy học hỏi những khám phá mới của khoa học, rồi ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đến nay đều là những chuyện nhảm nhí hết.”

Cụ già nhỏ nhẹ hỏi người sinh viên:

“Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học, liệu cậu có thể giúp tôi hiểu được chúng không?”

Người sinh viên nhanh nhảu trả lời:

“Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi sách vở đến cho ông, rồi ông sẽ say mê đi vào thế giới phong phú của khoa học cho mà xem.”

Cụ già từ từ rút ra trong túi ra một tấm danh thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi:

Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris.

Louis Pasteur (Ảnh: biography.com)

Đọc xong câu chuyện trên, bạn cảm thấy thú vị hay băn khoăn nhiều hơn? Khoa học liệu có mâu thuẫn với tín ngưỡng vào Thần? Louis Pasteur là một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất trong lịch sử, với những khám phá về vi trùng, tẩy trùng, về tiêm chủng, miễn dịch… Người đặt nền tảng cho ngành vi sinh vật học này từng phát biểu:

Một ít khoa học làm ta xa rời Chúa; nhiều khoa học làm ta quay về với Chúa

Lấy cảm hứng từ câu nói của Pasteur, bài viết này sẽ cố gắng tìm lại mối liên kết giữa khoa học và tín ngưỡng qua những dẫn chứng giản dị và dễ hiểu nhất.

Khoa học là gì?

Khoa học hiện đại đã thẩm thấu vào hầu như mọi lĩnh vực có liên quan tới cuộc sống con người, đến nỗi rất nhiều người đã coi khoa học hiện đại cũng giống như chân lý một cách không tự biết, còn “phi khoa học” lại trở thành một danh từ đồng nghĩa với sai lầm. Trên thực tế từ khoa học (Science) bắt nguồn từ trong chữ La tinh, nghĩa nguyên gốc là “học vấn”, căn bản là chuyện khác với chân lý.

Nói rộng ra, khoa học chính là không ngừng tìm kiếm những phương pháp để tiếp cận với quy luật của vũ trụ và thể hệ kiến thức được hình thành từ đó. Khoa học hiện đại là một bộ những hệ thống và thể hệ tri thức, dùng hình thức logic và phương pháp chứng thực làm cơ sở để nhận thức và tìm kiếm quy luật của thế giới vật chất, ở đây chúng ta gọi nó là khoa học thực chứng.

Từ nghĩa này, khoa học chứng thực hoàn toàn không đồng nghĩa với chân lý cuối cùng, và khoa học cần luôn sẵn sàng kiểm nghiệm lại sự vật và cập nhật theo sự phát triển nhận thức của con người. Đồng thời chúng ta cũng không thể đảm bảo rằng phương pháp tìm kiếm của khoa học thực chứng hiện đại là duy nhất để tìm kiếm chân lý của vũ trụ.

Tính hạn chế của khoa học

Cùng với sự phát triển chóng mặt, khoa học hiện đại cũng đã dần dần mang tới cho nhân loại nhiều vấn đề đau đầu. Một lớp những nhà khoa học có tầm nhìn xa đã bắt đầu nhận thức được giới hạn của khoa học hiện đại.

Cơ sở triết học của khoa học chứng thực đến từ phương Tây, đã phân chia thế giới hoàn chỉnh thành hai phạm trù độc lập: vật chất và tinh thần, do đó quan niệm về tự nhiên được thiết lập đã phân tách con người và tự nhiên, con người và thế giới, tâm và vật. Hậu quả của nó chính là không thể chứng minh được bản chất của hoạt động tinh thần, mối quan hệ giữa tinh thần và vật chất, tác dụng của tinh thần với vật chất, mà sinh mệnh của con người lại là một thể hợp nhất giữa tinh thần và vật chất.

Như vậy, hoạt động tinh thần nằm ngoài tầm mắt của khoa học thực chứng hiện đại, đạo đức lại chỉ là thuyết giáo thuần túy không có cơ sở vật chất, con người và tự nhiên cũng không còn là một thể hoàn chỉnh. Một trong những hậu quả của nó chính là sự đối lập giữa con người và tự nhiên. Sự phát triển của khoa học do con người đóng vai trò chủ đạo lại có những thiếu sót rất lớn:

  • James Watt phát minh ra động cơ hơi nước, từ đó đã mang lại cho Cách mạng Công nghiệp một thời đại mới sử dụng nguồn năng lượng nhiên liệu hóa dầu với quy mô lớn. Ai cũng không thể nghĩ được rằng nhân loại 200 năm sau sẽ vì vậy mà rơi vào khó khăn do hiệu ứng nhà kính.
  • Người ta cho rằng phát minh về chất làm lạnh mang tới cho nhân loại vô số tiện ích, không ai nghĩ tới vài chục năm sau, nó đã phá hoại tầng ô-zôn, gần như đã trở thành sát thủ hủy diệt nhân loại.
  • Cô-ca-in là loại thuốc công hiệu dùng gây mê trong ngành y, nhờ nó mà có nhiều sinh mạng đã được cứu. Nhưng ngày nay những người hút cô-ca-in đã dùng trăm phương nghìn kế để kiếm được nó. Không quá thổi phồng khi nói: Cô-ca-in hủy diệt mạng sống còn nhiều hơn số người nó cứu được.
  • Khi Einstein phát hiện ra phương trình chuyển hóa giữa năng lượng và khối lượng (E=MC^2), ông không thể ngờ vài chục năm sau, vũ khí hạt nhân lại trở thành thanh gươm treo lơ lửng trên đầu nhân loại.

(ảnh: bìa tạp chí Times)

Einstein từng nói“Khoa học là một công cụ có sức mạnh. Dùng nó như thế nào, rốt cuộc là nó mang lại hạnh phúc hay mang lại tai nạn cho con người, hoàn toàn quyết định ở bản thân mình, chứ không quyết định bởi công cụ.”

Theo Einstein, khoa học đối với nhân loại là phúc hay là họa, không thể giải quyết từ bản thân khoa học, chỉ con người tự mình mới có thể giải quyết. Về điểm này thì ông cho rằng, ngoài tôn giáo truyền thống (để phân biệt với tôn giáo bị pha tạp và biến chất) thì không giải pháp nào có thể so sánh được. Ông nói: “Nếu chúng ta cắt bỏ hết thảy tất cả những thứ sau này phụ thêm vào, đặc biệt là những thứ mà các giáo sĩ truyền giáo đã thêm thắt vào trong Đạo Ki-tô của Chúa Giê-su và đạo Do Thái của những nhà tiên tri kiến lập, vậy thì sẽ lưu lại những giáo nghĩa có thể chữa trị mọi bệnh tật của xã hội nhân loại.” Tại đây Einstein đã nhận thức được cục diện tương lai của khoa học hiện đại do tinh thần và vật chất bị tách rời nhau.

Một nhà máy đốt rác thải và quang cảnh khu vực xung quanh ở Bangladesh (ảnh: Foundation for Deep Ecology)

Rất nhiều những nhà khoa học tỉnh táo đã nhận thức được vấn đề này. Năm 1992, Liên Hợp Quốc đã tổ chức Hội nghị Môi trường và Phát triển thế giới tại Rio de Janeiro thuộc Brazil, với sự tham dự của các nguyên thủ quốc gia. Một bức thư có chữ ký của hơn 120 người đoạt giải Nobel đã được đưa tới hội nghị, khiến mọi người bừng tỉnh. Trong bức thư viết: “Nhân loại và tự nhiên đã ở vào thế xung đột mãnh liệt. Những hoạt động của nhân loại đã phá hoại nghiêm trọng môi trường và những tài nguyên trọng yếu, mà kiểu phá hoại này thường là không thể khôi phục lại. Nếu không kiểm điểm lại thì rất nhiều hoạt động của chúng ta sẽ đặt xã hội nhân loại và các loài động thực vật vào tình thế cực kỳ nguy hiểm. Hơn nữa có thể còn khiến cả thế giới đầy sự sống này trở thành một thế giới không thể duy trì bất kỳ phương thức sự sống nào mà chúng ta biết. Nhằm tránh những xung đột sắp tới, việc cải biến về bản chất (những hoạt động của con người) đã vô cùng cấp bách.”

Khoa học chân chính không phủ nhận thuyết hữu thần

Theo từ điển Oxford, trong một số tín ngưỡng như Cơ Đốc, Thần là từ dùng để chỉ đấng sáng tạo và cai quản vũ trụ, và nguồn gốc của tất cả quy phạm đạo đức, một sinh mệnh cao cấp. Trong một số tín ngưỡng khác, Thần còn là sinh mệnh siêu phàm hay một trí tuệ siêu thường, được con người thờ phụng. Như vậy, khái niệm “Thần” bao gồm cả Phật, Đạo, Thần bởi vì họ đều có trí huệ phi thường và năng lực vượt xa con người.

Nếu chỉ nói về bản thân sự phát triển khoa học, nó hoàn toàn không chứng minh Thuyết vô Thần.

Theo quan điểm tôn giáo chính thống, con người là do Thần tạo ra, con người phủ định sự tồn tại của Thần cũng giống như vi khuẩn được nuôi cấy trong phòng thí nghiệm mưu đồ phủ nhận sự tồn tại của con người, là điều vô ích. Bởi vì từ phương pháp thực nghiệm của khoa học hiện đại, đối với việc chứng thực Thuyết vô Thần, cần phải yêu cầu phủ định sự tồn tại của Thần tại tất cả phạm vi thời gian và không gian trong toàn vũ trụ, điều này đương nhiên cũng bao gồm cả phạm vi không gian và thời gian mà con người vĩnh viễn còn chưa nhận thức được.

Vũ trụ cự đại, đa dạng, phức tạp như vậy, ai có thể bảo đảm được từ vĩ quan bao la tới vi quan vô hạn chỉ có con người là sinh mệnh cao cấp? Thậm chí ai có thể đảm bảo rằng hình thức tồn tại của sinh mệnh chỉ có thể dựa vào hình thức axit amin mà chúng ta biết?

Xem thêm: Video: Phạm vi vũ trụ mà con người đã biết

Nói sâu thêm một bước nữa, vũ trụ học hiện đại cho rằng vật chất tối (dark matter) chiếm 2/3 vũ trụ mà con người không thể quan sát, đo lường; tức là cho dù dùng hết kỹ thuật đo lường của nhân loại thì vẫn còn 2/3 vũ trụ chúng ta không hề biết. Vật lý lý luận hiện đại đưa ra lý luận thế giới phẳng, cho rằng vũ trụ của chúng ta không chỉ là không gian ba chiều như những gì chúng ta có thể cảm nhận được. Vậy thì ai có thể đảm bảo rằng không gian khác không có sinh mệnh cao cấp?

Nếu không gian khác tồn tại sinh mệnh cao cấp, nếu họ có sự từ bi vượt rất xa so với con người, có đại trí huệ, ngộ được những chân lý của vũ trụ và có năng lực siêu phàm, vậy thì với con người mà nói, họ chẳng phải là Phật, Đạo, Thần sao? Do đó, dù về logic, kỹ thuật, hay từ góc độ khoa học, thì đều chứng minh rằng Thuyết vô Thần không thể thao túng được.

Điều cần chỉ ra là chúng ta không phản đối bất kỳ một người nào tin thờ “Thuyết vô Thần”. Là một con người mà nói, tin Thần và không tin Thần lẽ ra nên là sự lựa chọn tự do không cần bàn cãi.

Trong xã hội thông thường sẽ có người tín ngưỡng hữu Thần và vô Thần hoàn toàn có thể cùng chung sống hòa bình. Nhưng khi chính phủ dùng thủ đoạn cưỡng chế nhồi nhét Vô Thần luận trong toàn xã hội, đàn áp tín ngưỡng vào Thần khiến mất đi tín ngưỡng của cả một xã hội, tất nhiên sẽ khiến hệ thống giá trị xã hội truyền thống vốn có mất đi chỗ dựa, từ đó dẫn tới toàn xã hội trượt xuống vũng bùn của chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa túng dục.

Giáo dục nhồi nhét làm méo mó khoa học, kìm kẹp tư tưởng

Lấy Trung Quốc làm ví dụ, khi Giang Trạch Dân viếng thăm nước Mỹ đã hỏi tổng thống Bill Clinton: Vì sao khoa học nước Mỹ lại phát triển như vậy mà vẫn có nhiều người tín ngưỡng tôn giáo? Đây chính là một trong những ví dụ điển hình cho kiểu tư duy “một ít khoa học.”

Kỳ thực, chính quyền Trung Quốc dốc toàn lực để nhồi nhét khoa học hiện đại, tuyên truyền cái gọi là “Thuyết vô Thần khoa học” mấy chục năm nay, vì sao đường đường một nước lớn với 1,3 tỷ dân lại chẳng có lấy một người đạt giải Nobel? (trừ Tu You You, mãi đến năm 2015). Còn những người hoa tại hải ngoại đạt giải Nobel ngược lại đều chưa từng bị nền giáo dục nhồi nhét?

Kỳ thực chính quyền nhồi nhét khoa học hiện đại, hoàn toàn không phải là vì phát triển khoa học kỹ thuật, mà thực chất là để đàn áp tín ngưỡng, kìm kẹp tự do tư tưởng. Nhưng điều cần cho sáng tạo khoa học chính là một môi trường tư tưởng tự do. Giáo dục nhồi nhét là cực lực đối lập với khoa học và tín ngưỡng, hình thành một xu hướng tư duy cứng nhắc trong đầu óc nhân dân, cho rằng tín ngưỡng vào Thần nhất định sẽ dẫn đến sự ngu dốt, dẫn đến “phản khoa học”, miêu tả những tín đồ tôn giáo là một nhóm người bị lừa gạt văn hóa thấp và tìm kiếm sự an ủi tâm linh.

Việc nhà khoa học tin vào Thần không hề ngăn cản thành tựu khoa học

Trên thực tế, lần giở lịch sử chúng ta sẽ thấy, những nhà khoa học vĩ đại trong thời kỳ khoa học phát triển đỉnh cao, gồm Copernicus, Descartes, Galileo và Newton đều tự xưng mình tuyệt đối tin vào Sáng thế chủ, cho rằng thế giới này, kiệt tác của Thần là có quy luật, đang đợi các nhà khoa học đi phát hiện chứng thực.

Nghiên cứu khoa học và tín ngưỡng vào Thần của cá nhân không phải là mối quan hệ như nước với lửa. Có một sự thực không thể phủ nhận, một lượng lớn những nhà khoa học lưu danh sử sách đều có tín ngưỡng tôn giáo, như:

  • Kepler – người đặt nền móng cho thiên văn học hiện đại,
  • Boyle- nhà tiên phong của hóa học hiện đại,
  • Faraday – người phát hiện ra nguyên lý điện giải,
  • Morse – nhà phát minh ra điện báo,
  • Maxwell – người phát hiện ra sự tương đương giữa cơ và nhiệt,
  • Master – nhà phát minh ra lý luận điện từ,
  • Dalton – người được vinh danh là cha đẻ của lý luận nguyên tử,
  • Mendel – người đặt nền móng cho di truyền học hiện đại,
  • Fleming – người phát minh ra thuốc kháng sinh Penicillin,
  • Pasteur – người sáng lập ra vi sinh vật học, đều là những tín đồ tôn giáo thành kính.

Một điều đáng nhắc tới là Newton – nhà vật lý học lỗi lạc, là một tín đồ Cơ Đốc thành kính. Trong nền giáo dục nhồi nhét, một số sách giáo khoa cố ý nói rằng những năm cuối đời Newton đã dấn thân vào tôn giáo và do vậy không có thêm sáng tạo gì, khiến con người hiểu lầm rằng rất nhiều phát hiện khoa học những năm đầu được dẫn dắt bởi thế giới quan của “Thuyết vô Thần”, còn những năm cuối đời, tín ngưỡng tôn giáo đã gây trở ngại cho việc sáng tạo khoa học. Nhưng sự thực là Newton đã sớm là một tín đồ Cơ Đốc trước khi theo đuổi nghiên cứu khoa học, mà cả đời ông tín ngưỡng vào Thần không hề thay đổi.

Khi Newton còn học tại trường Cambridge, ông đã sớm là một tín đồ Cơ Đốc thành kính. Ông thường hay viết những lời cầu nguyện của mình vào những chỗ trống trong sổ tay hay sách vở, thậm chí đến nay vẫn còn lưu giữ rất nhiều trong viện bảo tàng Anh. Ông cũng thường cùng với người bạn cùng phòng tên là Andrew Wiggins ra ngoài phân phát Thánh kinh cho người nghèo, gửi phúc âm tới cho họ.

Thậm chí những suy xét về khoa học của Newton cũng có mối quan hệ không thể tách rời với những lời cầu nguyện trong cuộc sống của ông. Ông thường nghĩ tới khoa học trong dòng suy nghĩ về tín ngưỡng, trong dòng suy nghĩ về khoa học ông cũng nhớ tới tín ngưỡng. Đến nỗi sau này giáo sư Manuel khoa lịch sử trường đại học New York trong cuốn “Newton truyện” của mình đã nói: “Khoa học cận đại khởi nguồn từ những mặc niệm của Newton về Thượng đế.”

Theo tiến sĩ Harriet Chad Zuckerman của trường Đại học Columbia nước Mỹ, năm 1977 trong tài liệu thống kê nổi tiếng “Anh tài khoa học – những người đoạt giải Nobel nước Mỹ”, từ năm 1901 khi thiết lập giải Nobel đến nay, trong 286 nhà khoa học đã đạt giải khoa học của nước Mỹ, 73% là tín đồ Cơ Đốc, 19% là tín đồ Do Thái.

Richard Feynman – nhà vật lý học nổi tiếng từng đoạt giải Nobel đã nói: “Rất nhiều nhà khoa học quả thực vừa tin tưởng khoa học vừa tin vào Thượng đế,” mà hai điều này lại có thể thống nhất một cách hoàn mỹ.

Von Braun – nhà khoa học hàng không hiện đại đã từng viết một đoạn như sau, có thể coi là lời giải thích cho Feynman: “Sự thần kỳ vô biên của vũ trụ chỉ có thể chứng thực đức tin của chúng ra rằng, chắn chắn có Đấng sáng thế. Tôi phát hiện ra rằng, việc lý giải một nhà khoa học không thừa nhận tính siêu thường của vũ trụ và một nhà thần học phủ nhận sự tiến bộ của khoa học đều khó như nhau.”

Phong Trần (T/H)

M.TRITHUCVN.NET
Louis Pasteur từng nói: “Một ít khoa học làm ta xa rời Chúa; nhiều khoa học làm ta quay về với Chúa”; bài viết về thuyết vô thần và hữu thần sẽ lý giải câu nói này

Chia sẻ của một người Trung Quốc về nước Mỹ: “Quốc gia của sự tin tưởng”

Trí thức Việt Nam
“Tôi gặp tiến sĩ Cao vào một ngày cuối tuần tại một quán cà phê ở thành phố Irvine ven biển phía tây nước Mỹ. Tiến sĩ Cao là một luật sư, đã sống ở Mỹ 26 năm, và cũng thường xuyên đi về giữa hai bờ Thái Bình Dương. Tôi hỏi ông: “Ông nghĩ rằng khác biệt lớn nhất giữa hai nước Trung Quốc và Mỹ là gì?”

Thật ra trong lòng tôi đã có câu trả lời rồi: tự do, mở cửa, pháp trị. Không ngờ câu trả lời của ông ấy không như tôi nghĩ: “Điều khác biệt lớn nhất giữa hai nước Trung Quốc và Mỹ đó là sự tin tưởng””

 

M.TRITHUCVN.NET

Tôi gặp tiến sĩ Cao vào một ngày cuối tuần tại một quán cà phê ở thành phố Irvine ven biển phía tây nước Mỹ. Tiến sĩ Cao là một luật sư, đã sống ở Mỹ 26 năm, và cũng thường xuyên đi về giữa hai bờ Thái Bình Dương. Tôi hỏi ông: “Ông nghĩ rằng khác biệt lớn nhất giữa hai nước Trung Quốc và Mỹ là gì?”

Thật ra trong lòng tôi đã có câu trả lời rồi: tự do, mở cửa, pháp trị. Không ngờ câu trả lời của ông ấy không như tôi nghĩ: “Điều khác biệt lớn nhất giữa hai nước Trung Quốc và Mỹ đó là sự tin tưởng”.

Dường như đọc được suy nghĩ của tôi nên ông lại nói thêm: “Không phải là tự do, bởi vì tự do không phải là điều mà chỉ một mình nước Mỹ có, 180 quốc gia trên thế giới đều có. Hơn nữa, Trung Quốc cũng không phải là không có tự do, chỉ là thiếu nếu xét về tính kết cấu…”

Tôi nhờ tiến sĩ Cao giải thích chi tiết hơn, ông nói: “Sở dĩ tôi cho rằng sự tin tưởng là điều khác biệt lớn nhất giữa hai nước Trung Quốc và Mỹ là bởi vì không tin tưởng lẫn nhau đã trở thành điều thông thường ở Trung Quốc. Ngược lại, sự tin tưởng giữa người với người là việc bình thường ở Mỹ. Ví dụ như khi mua hàng, dù cho là ở cửa hàng lớn hay nhỏ thì bạn cũng không phải lo lắng về việc bị lừa gạt giá cả, càng không cần phải nghĩ xem mình có mua phải hàng giả hay không, điều mà bạn cần suy nghĩ đó là món hàng này bạn có cần hay không, giá có thể chấp nhận được hay không mà thôi. Ngoài thức ăn ra thì những vật dụng sinh hoạt khác bạn đều có thể trả hàng vô điều kiện, không cần phải chứng minh lý do gì cả”.

Ông cho tôi một ví dụ: “Khi ăn nhà hàng ở Mỹ, tôi không cần phải lo về việc bị ăn dầu thải hay thịt heo, bò, gà có quá nhiều dư lượng chất kháng sinh, chất tăng trưởng, hoặc rau củ có quá nhiều chất bảo quản. Tôi chỉ cần phải xem món ăn có hợp khẩu vị hay không”.

Tôi hoàn toàn đồng ý khi ông ấy nói những điều này. Tại khách sạn ở Mỹ, dù cho là khách sạn lớn hay nhỏ, khi trả phòng đều chỉ cần giao thẻ phòng là đủ, không cần đợi nhân viên phục vụ vào kiểm tra phòng rồi mới kết sổ. Nhiều nhất thì nhân viên cũng chỉ hỏi một câu: Xin hỏi ông/bà có dùng đồ trong tủ lạnh hay không? Nếu trả lời không thì có thể đi ngay. Thủ tục cũng rất đơn giản: chỉ cần cho biết số đặt phòng trước trên website (nếu không có cũng không sao, nhưng không bảo đảm là có phòng trống) và trả tiền theo số tiền hiển thị trên trang web là được. Nếu dùng thẻ tín dụng thì có thể tôi còn nghĩ đến khoản thế chấp tín dụng, khách sạn không cần lo lắng gì cả, nhưng tôi thường trả bằng tiền mặt, có nơi cần tiền cọc, nhưng đa số thì không cần. Điều khiến tôi không hiểu đó là trong trường hợp không đặt cọc, vậy tại sao khách sạn lại không kiểm tra phòng trước khi kết toán?

Có lẽ đây chính là sự tin tưởng. Trong thời gian tôi đi du lịch Mỹ, gần như bất cứ nơi nào cũng đều thấy được sự tin tưởng.

>> Bữa sáng cầu nguyện toàn quốc: Đức tin của người Mỹ

Buổi tối đó khi gặp tiến sĩ Cao cũng là ngày tôi làm thủ tục nhận phòng, nghỉ ngơi một lát rồi đến quán cà phê gặp mặt trò chuyện. Khi tôi lấy tiền trong túi thì giật mình không thấy ví tiền đâu cả. Nếu như mất thật thì có nghĩa là chuyến đi Mỹ của tôi phải chấm dứt. Tiến sĩ Cao bảo tôi đừng gấp gáp, suy nghĩ cẩn thận xem lần cuối dùng tiền ở đâu. Lập tức tôi nhớ ra lần cuối dùng tiền ở quầy tiếp tân, thế nên tôi vội vàng chạy về khách sạn hỏi thử. May là ví tiền vẫn còn ở quầy. Nhân viên nói rằng cô ấy nhìn thấy một cái ví tiền trên bàn ở sảnh, không biết là của ai nên giữ hộ. Sau này tôi mới nhớ lại, sau khi trả tiền, tôi kéo hành lý ra sảnh ngồi nghỉ, rồi quên không cất ví tiền đi mà để trên bàn.

Sau khi xảy ra sự cố này, tôi trở nên rất cẩn thận, còn bạn tôi thì không hề lấy tôi làm gương gì cả, nhiều lần quên trước quên sau. Một buổi tối khác khi về đến khách sạn, đang định lên mạng thì phát hiện không thấy máy tính đâu cả. Suy nghĩ kỹ càng một lúc sau mới nghĩ ra rằng rất có thể đã để ở khách sạn trước đó rồi, nhưng vấn đề là dù cho ở khách sạn đó thì trong mấy ngày này không thể quay trở lại để lấy được, bởi vì là du lịch tự do nên lái xe không có mục đích, cứ mỗi ngày đi hơn 1000 cây số. Chúng tôi liên lạc với khách sạn thì họ nói máy tính để ở trên giường, và gói trong túi ngủ. Có vẻ như lượng khách của khách sạn này không quá nhiều, phòng vẫn còn để trống.

Cuối cùng chúng tôi bàn bạc với khách sạn, đến khi quay lại Los Angeles thì sẽ đến lấy máy tính, phía khách sạn nói rằng không thành vấn đề. Chín ngày sau chúng tôi quay lại lấy máy tính và trả xe, sau đó bay đi San Antonio. Do không biết có chuyến bay thẳng hay không nên chúng tôi tính luôn cả thời gian quá cảnh tổng cộng là khoảng 5 giờ đồng hồ. Sau khi xuống máy bay, bạn tôi nhận ra kính mát của anh ấy còn để ở trên chiếc xe trước đó. Giá trị của cặp kính mát còn đắt hơn cả máy tính, nếu mất thì rất tiếc. Chúng tôi gọi điện thoại đến công ty cho thuê xe, hỏi cả buổi trời nhưng họ nói không có trên xe, xem ra lần này không may mắn nữa rồi.

Chúng tôi bay từ San Antonio về San Diego rồi lái xe đến Los Angeles. Đến sân bay quốc tế Los Angeles, chúng tôi hỏi một nhân viên nhận lại xe xem thử có nhìn thấy một cặp kính mát hay không. Cô ấy mở tủ lấy ra một cặp kính mát và hỏi có phải hay không? Bạn tôi trả lời là phải, cô nhân viên lập tức đưa cặp kính mà không làm bất cứ thủ tục giao nhận nào cả, còn chúng tôi thì nhớ rõ lần trước khi trả xe, người nhận lại là nam chứ không phải cô gái này.

Thế nhưng nếu bạn cho rằng sự tin tưởng giữa người Mỹ với nhau chỉ bởi vì pháp luật nghiêm ngặt thì bạn xem thường họ quá rồi. Tiến sĩ Cao cho một ví dụ: “Ví tiền của bạn dù sao cũng là mất ở sảnh khách sạn, nhưng đó là không gian công cộng, rất khó xác định trách nhiệm pháp luật. Hơn nữa, nhân viên có thể không quan tâm đến”. “Vì thế cho nên khó mà dùng pháp trị để giải thích hành vi nói trên của người Mỹ. Họ làm như vậy không phải là bị tác động bởi bên ngoài, mà là xuất phát từ chính tấm lòng của họ. Đây là nền tảng thứ hai”. Thật vậy, người nhân viên chủ động cất giữ ví tiền chắc chắn không phải là do lo sợ gì cả mà xuất phát từ chính thiện ý của họ.

nước Mỹ
Theo một cuộc khảo sát, 76% tổng số người dân Hoa Kỳ nhận họ theo Ki-tô giáo. (Ảnh: Shutterstock)

>> Lời thề của tổng thống Mỹ

Có câu “làm việc tốt không khó, cái khó là cả đời làm việc tốt”, tức là: nếu như chỉ lần một lần hai, một năm hai năm làm việc tốt thì cũng có thể, nhưng luôn làm việc tốt thì lại không thể giải thích bằng lòng tốt nữa, bởi vì lòng tốt khó có thể duy trì. Vậy thì, động lực căn bản nhất cho việc không lừa dối, không gây hại cho người khác là gì? Tiến sĩ Cao cho rằng đó là sự “chân thật” trong tinh thần của đạo Ki-tô, đây chính là nền tảng thứ ba xây dựng nên lòng tin tưởng, và cũng là nền tảng quan trọng nhất. Thử nghĩ mà xem, một người Mỹ được sự ảnh hưởng từ tư tưởng của đạo Ki-tô, nếu như lừa dối người khác thì trong lòng họ sẽ cảm thấy dằn vặt, lo lắng bị Thượng Đế nhìn thấy. Để tâm hồn được bình lặng, không được nói dối, không làm việc lừa lọc. Để lòng yên tĩnh, tốt nhất là cả đời làm người chân thật. Từ ý nghĩa này, “chân thật” mới là nhân tố quan trọng nhất trong xã hội tin tưởng lẫn nhau của Mỹ.

Trong 22 ngày ở Mỹ, ngoài được bạn bè địa phương giới thiệu đến Universal Studio Hollywood chơi ra thì thời gian còn lại tôi cả ngày chỉ lái xe đi ngang qua. Dù rằng rất mệt nhưng lại khá vui, không chỉ bởi vì các yếu tố tự nhiên như phong cảnh đẹp, không khí trong lành v.v… mà hơn hết là do đi đến đâu cũng cảm nhận được sự tin tưởng giữa con người với nhau.

Sự tin tưởng là chất xúc tác giữa người với người, là chìa khóa mở ra một xã hội tốt đẹp. Sự tin tưởng tạo nên cái đẹp, có thể khiến tâm hồn được vỗ về và thăng hoa. Tuy rằng tin tưởng không phải là vạn năng, nhưng nếu có sự tin tưởng, tối thiểu có thể đảm bảo xã hội là nhân gian chứ không phải địa ngục.

Theo Yangcheng Evening News
Thanh Trúc

Tôi gặp tiến sĩ Cao vào một ngày cuối tuần tại một quán cà phê ở thành phố Irvine ven biển phía tây nước Mỹ. Tiến sĩ Cao là một luật sư, đã sống ở Mỹ 26 năm

Ông Trương Minh Tuấn cứ tưởng 200 ngàn USD là “quà mừng lên Bộ trưởng”

Đài Á Châu Tự Do
Ông Trương Minh Tuấn cứ tưởng 200 ngàn USD là “quà mừng lên Bộ trưởng”

Cựu Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông Trương Minh Tuấn chiều 16-12-2019 khai trước tòa rằng, số tiền 200 ngàn Mỹ kim được Phạm Nhật Vũ đưa cho ông vào thời điểm được bổ nhiệm làm Bộ Trưởng năm 2016.

“Trước tết năm 2016, Phạm Nhật Vũ đến phòng làm việc của tôi để tặng hoa và một gói quà chúc mừng trúng cử Bộ trưởng Bộ Thông tin – Truyền thông. Chiều tối về nhà, mở gói quà thì thấy có 200.000 USD.

Lúc đầu tôi nghĩ là quà chúc mừng của Phạm Nhật Vũ khi mình lên Bộ trưởng.

Sau này mới nhận thức đó là tiền cảm ơn của Vũ khi tôi đã ký Quyết định 236 phê duyệt MobiFone mua AVG.

Tiền này là tiền thu lợi bất chính nên tôi đã khai và gia đình đã nộp trả lại trong quá trình điều tra”, mạng báo Thanh niên Online dẫn lời ông Trương Minh Tuấn nói tại tòa án.

Sáng 16/12/2019, hai cựu Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông Trương Minh Tuấn và Nguyễn Bắc Son bị đem ra xét xử với cáo buộc nhận hối lộ 3.2 triệu đô la Mỹ từ Phạm Nhật Vũ trong thương vụ Mobifone mua AVG.

Nếu bị tòa tuyên là có tội, hai cựu Bộ trưởng có thể lãnh nhận mức án tử hình vì số tiền nhận hối lộ vượt mức 1 tỷ đồng.

Tuy nhiên, theo kết luận điều tra đại án MobiFone mua 90% cổ phần AVG, có 11 bị can được Cơ quan cảnh sát điều tra đề nghị cho áp dụng “chính sách hình sự đặc biệt”.

Trong đó có chủ tịch AVG Phạm Nhật Vũ (em trai ông Phạm Nhật Vượng), cựu Bộ trưởng Bộ Thông tin và truyền thông Trương Minh Tuấn… nhưng không có tên cựu Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son.

Image may contain: 1 person, text

 Vì sao chúng ta phải tử tế? 3 câu chuyện suy ngẫm.

 Vì sao chúng ta phải tử tế? 3 câu chuyện suy ngẫm.

Câu chuyện 1

Vào buổi tối, tôi trò chuyện cùng một cậu bạn làm ở ngân hàng.

Anh ấy nói tuần trước có mua một quả dưa hấu ở cổng khu nhà, về nhà cắt ra thì thấy dưa có màu hồng nên nghĩ là chưa chín, bèn mang ra đòi chủ sạp đổi quả khác, dù sao thì mùa này dưa cũng không rẻ, không giống như mùa hè chỉ có mấy đồng thôi, nếu có bỏ đi thì cũng không tiếc.

Chủ sạp chẳng nói chẳng rằng, đổi ngay cho anh một quả khác. Anh này về nhà cắt ra, vẫn là màu hồng nên rất tức giận, sao lại chẳng có quả nào chín thế này và lại mang ra đòi hoàn tiền.

Chủ sạp giải thích vài câu, rồi cũng không chèo kéo nữa, cứ thế hoàn tiền. Anh ấy lại mua một quả dưa khác ở trong một siêu thị nhỏ ở khu dân cư và bảo cắt ngay tại chỗ, kết quả chẳng khác là bao, vẫn là màu hồng.

Anh ấy cảm thấy khó hiểu và hỏi, dưa hấu các người bán đều không chín thế à? Chủ siêu thị giải thích: đây là giống đặc biệt, thịt dưa có màu hồng, nhưng vẫn rất ngọt. Ông chủ vừa nói vừa lấy điện thoại ra cho anh ấy xem hình ảnh và giới thiệu về loại dưa này.

Thì ra là như vậy…

Anh ấy mang quả dưa về nhà ăn thử, quả thật là khá ngon, lúc này anh ấy mới biết là mình đã trách lầm ông chủ sạp kia rồi.

Anh ấy nhớ lại ông chủ sạp không giỏi nói chuyện, ngay cả một câu giải thích cũng không nói được, khi đó ngón tay của ông ấy đỏ ửng vì gió lạnh, anh cảm thấy rất khó chịu trong lòng, muốn trả lại tiền cho ông chủ sạp, nhưng lại cảm thấy ngại.

Anh ấy đấu tranh tâm lý một lúc rồi quyết định vẫn nên trả lại tiền cho chủ sạp, nếu không thì lòng mình sẽ cứ mãi bất an.

Sau khi tìm được ông chủ sạp và giải thích rõ tình hình để trả lại tiền cho ông ấy, ông chủ nói rằng không cần. Nhân lúc ông đang cân đồ cho khách, anh ấy trả lại thêm vài đồng cho ông ấy rồi quay người chạy đi.

Anh ấy nói mình vừa chạy vừa hát, giây phút ấy trong lòng vô cùng vui vẻ, thoải mái

Câu chuyện 2

Tôi đến trung tâm thương mại mua quần áo, có một thương hiệu thường không tổ chức các hoạt động giảm giá mà hôm đó lại giảm 10%, tôi bèn mua một chiếc áo len mà mình rất thích.

Người bán hàng đón tiếp tôi là một cô gái trẻ, trước ngực có đeo bảng tên thực tập sinh, cô bé nói chuyện rất ngại ngùng, tôi thử xong thì nhờ cô ấy in hóa đơn, sau đó tôi đến quầy thanh toán, rồi cũng không xem kỹ mà về nhà luôn.

Tối hôm đó, con gái xem quần áo mới của tôi và hỏi bao nhiêu tiền, tôi nói giảm 10% thì con gái cầm tờ hóa đơn rồi nói, không đúng đâu mẹ, người ta thu thiếu tiền của mẹ rồi.

Tôi xem thử thì đúng thật vậy, hẳn là cô bé ấy chưa có kinh nghiệm, trong lúc bối rối đã tính nhầm rồi. Con gái tôi hỏi phải làm sao bây giờ?

Tôi nói, ngày mai mẹ sẽ đi trả cho họ. Hôm nay cô bé bán hàng ấy hẳn là thu thiếu tiền, mà còn bị cấp trên mắng nữa.

Cả buổi tối hôm đó, trong lòng tôi cứ có cảm giác áy náy vì đã gây thiệt hại cho người khác.

Ngày hôm sau đi làm, tôi đến trung tâm thương mại để trả lại tiền, người trực quầy cảm thấy rất bất ngờ, họ không nghĩ rằng tôi sẽ chủ động đến bù thêm tiền, đây cũng không phải là lỗi của tôi.

Cô bé bán hàng đưa tôi đến quầy thu ngân để nộp đủ tiền rồi nói cảm ơn tôi rất nhiều lần và đưa tôi đến cửa thang máy.

Khi bước ra khỏi trung tâm thương mại, tôi cứ có cảm giác thoải mái khó tả, tôi lên xe mà cứ như thể nhảy tung tăng vậy, chồng tôi cảm thấy kỳ lạ rồi cười nói: “Dáng vẻ của em giống như một học sinh tiểu học vừa làm được việc tốt vậy, rất thú vị.”

Chồng nói thế thì tôi mới nhận ra, tâm trạng của mình rất sảng khoái, giống như đã trút được gánh nặng vậy.

Đôi lúc, sự thiện thương hoàn toàn không phải là ân nghĩa dành cho người khác, mà là tự làm cho chính mình hạnh phúc.

Câu chuyện 3

Vài ngày trước, một tài xế taxi chở cô bé khoảng 17 tuổi, anh hỏi đi đâu thì cô bé trả lời rất mơ hồ không rõ ràng, hơn nữa tâm trạng rất xúc động, nước mắt rơi lã chã.

Tài xế an ủi cô bé thì cô không nói gì cả. Sau khi đến nơi, cô bé trả tiền cho anh tài xế rồi xuống xe. Đến khi người tài xế lấy đủ tiền để thối thì đã không thấy bóng dáng của cô bé đâu nữa.

Nhưng trong lòng anh tài xế càng lúc càng cảm thấy bất an, lo cô bé gặp phải chuyện không hay, anh bèn quay lại con đường lúc nãy để tìm, cuối cùng thì anh nhìn thấy cô bé đang đứng ngây người nhìn xuống sông.

Anh vội vàng bước đến khuyên giải thì đột nhiên cô bé nhảy xuống sông, anh lập tức nhảy theo để cứu.

Những người đứng trên bờ nghe thấy tiếng kêu cứu nên đã giúp báo cảnh sát, sau đó cùng nhau đưa cô bé lên xe cấp cứu đến bệnh viện. Có người thắc mắc rằng vì sao anh tài xế lại làm như vậy?

Thì ra là cô bé ấy cãi nhau với gia đình nên nghĩ quẩn, nếu không nhờ gặp được anh tài xế thì hậu quả sẽ rất khó lường. Khi đó anh hoàn toàn không suy nghĩ gì nhiều, chỉ cảm thấy rằng tâm trạng của cô bé này không ổn, sợ cô bé làm chuyện dại dột nên mới đi tìm. Anh nghĩ rằng nếu không đi tìm cô bé thì trong lòng anh sẽ luôn rất khó chịu, ngộ nhỡ cô bé xảy ra chuyện không may thì anh sẽ vô cùng hối tiếc.

Sự tử tế là gì? Có rất nhiều khái niệm. Khái quát thì đó là đối xử tốt với tất cả mọi người, biết đồng cảm với nỗi khổ, bao dung tha thứ cho sai lầm của người khác, có thể hiểu được sự khó khăn của một ai đó và dang rộng vòng tay đầy tình yêu thương cho họ.

Tử tế không phải là cố ý làm một điều gì đó cho người khác xem, mà là làm những việc tốt một cách hết sức tự nhiên, cũng không truy cầu được báo đáp, là để cho tâm hồn được thanh thản.

Thanh Tâm

From: TU-PHUNG