Dân Vũ Hán ào ào rời bỏ thành phố sau khi lệnh phong tỏa được dỡ bỏ.

Dân Vũ Hán ào ào rời bỏ thành phố sau khi lệnh phong tỏa được dỡ bỏ.

Nhân Tommy Lê

Hơn 65.000 vé tàu hỏa, tàu cao tốc, vé máy bay đã bán hết sạch sau 0h ngày 8-4-2020 tại thành phố Vũ Hán, khi chính quyền quyết định dỡ bỏ lệnh phong tỏa thành phố, khi truyền thông nhà nước Trung Quốc cho rằng đã khống chế hoàn toàn dịch bệnh virus corona tại tỉnh này.

Tại sao họ lại ra đi trong khi TQ đã tuyên bố khống chế được dịch ?

Vì nhiệm vụ chính trị hay vì không tin vào những tuyên bố dối trá kia ?

Cũng như trước đây hơn 5 triệu người đã thoát khỏi Vũ Hán trước khi thành phố này bị phong tỏa và gây kinh hoàng tang tóc cho cả thế giới.

Giờ nhiều quốc gia trên toàn cầu họ đã đóng cửa biên giới và ngừng những chuyến bay từ Trung quốc.

Việt Nam thì sao ?

Cửa biên giới vẫn rộng mở đối với Trung quốc và những con người từ Vũ Hán kia sẽ nhanh chân tiến vào và sắp tới sẽ không biết chuyện gì xảy ra cho Việt Nam !!!

Đau đớn thay phận tôi đòi !
Lời rằng bạc phận cũng là lời chung …!!!

Nguồn: Fb Nhân Tommy Lê
https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=1313545898841694&id=100005588894985

Image may contain: 3 people, people standing

Mất tình người trong Covid-19

Mất tình người trong Covid-19
========
Tháng 1 năm 2020, Trung Quốc oằn mình trong đại dịch Covid-19, số người chết tăng vọt mỗi ngày, thành phố đóng cửa, không khí tang tóc bao trùm khắp nơi. Mỹ và châu Âu lập tức gửi hàng trăm ngàn khẩu trang, hàng trăm triệu USD và trang thiết bị cho Trung Quốc.

Cuối tháng 3 năm 2020, Mỹ và châu Âu là trung tâm đại dịch. Nhà hàng trung Quốc lập tức trương bảng chúc “Đại dịch Covid-19 đã đến Mỹ và ở lại lâu”. Trung Quốc hăm dọa cắt cung cấp thuốc cho Mỹ trong cơn nguy khốn (90% thuốc trụ sinh tại Mỹ cần các thành phần sơ chế từ Trung Quốc). Sau đó Trung Quốc “gửi” viện trợ cho châu Âu hàng trăm ngàn test thử nghiệm sai lỗi và hơn nửa triệu khẩu trang hư.

Tưởng là sự mất tình người này chỉ đến từ một số ít người Trung Quốc nào ngờ cũng có từ một số rất ít người Việt.

Gần đây, vài bài viết online và trên Facebook hả hê khi thấy nhiều người Mỹ – Âu chết, chê sự “bảo thủ của người Mỹ – Âu” trong đại dịch, không chịu nghe theo lời khuyên đeo khẩu trang, không bắt chước theo kiểu “chống dịch toàn dân” cho nên giờ chết nhiều là phải” và nước Mỹ “lo gom xác thôi”. Nguy hiểm hơn, đây là comment từ những người tự nhận mình là bác sĩ tốt nghiệp từ Việt nam và học thêm ở nước ngoài.

Câu chuyện khẩu trang vốn là chủ đề nhạy cảm vì liên quan đến văn hóa chính trị vùng miền và cách tuân thủ ở người dân. Nhưng có một điểm rõ ràng là một mạng người, dù là ở đâu, ở nước nào, cũng đều vô giá.

Nước Mỹ không phải là hoàn hảo, hệ thống Y tế Mỹ chưa phải là tốt nhất, nhưng tình người nước Mỹ luôn luôn có. Thống kê từ Marketwatch cho thấy nước Mỹ là nước cho tiền từ thiện nhiều nhất trên thế giới. Người dân Mỹ đóng góp 428 tỉ đô la cho từ thiện trong năm 2018. Năm nay, Mỹ hỗ trợ Việt Nam 3 triệu USD để chống dịch Covid-19, chưa kể khoản tiền hàng triệu USD từ tổ chức USAID hằng năm cho Việt nam để chữa trị 180,000 người đang mắc lao phổi do hơn 17,000 chết mỗi năm do bệnh này tại Việt Nam.

Covid-19 xảy ra, là phép thử lớn nhất cho sự tử tế, tình thương, và cũng là cơ hội cho những người không tử tế lên tiếng chê trách. Trong khi hàng triệu người Mỹ ở nhà giúp đỡ bác sĩ, hàng trăm ngàn người Mỹ đăng ký thiện nguyện giúp đỡ bệnh viện và các cơ sở y tế, hàng ngàn công nhân nhà máy xe hơi làm việc ngày đêm để chế tạo máy thở, hàng trăm công ty chuyển đổi kinh doanh sang sản xuất hậu cần hỗ trợ y tế, thì có những người ngồi bàn phím cười chê.

Đại dịch rồi sẽ qua.

Chúng ta có thể mất việc. Chúng ta có thể mất nhà. Chúng ta có thể mất mạng. Nhưng chúng ta đừng mất tình người, đừng mất đi sự tử tế, nhất là khi chúng ta tự nhận mình là bác sĩ.

Bài học đầu tiên cho sinh viên Y khoa tại Mỹ là sự tử tế và lòng thương người, vì đấy chính là vũ khí hiệu quả nhất của một BS có được khi đối diện với các bệnh nan y hay cơn đại dịch. Không có hai đức tính quan trọng này, bạn sẽ không được nhận vào trường Y, và dĩ nhiên không bao giờ là bác sĩ.

Dr Wynn Tran , Los Angeles, USA

Nhìn lại bức tranh toàn cảnh Vũ Hán những ngày đầu và…

Kể từ khi dịch COVID-19 bùng phát hồi tháng Một tại Vũ Hán, đến nay đã hơn 3 tháng trôi qua. Hãy cùng nhìn lại bức tranh toàn cảnh Vũ Hán những ngày đầu và điểm qua các cột mốc chính trong quá trình phát triển lây lan của dịch bệnh. COVID-19 tại Trung Quốc đã đi lại vết xe đổ của dịch SARS năm 2003 như thế nào?

https://www.facebook.com/TriThucVietNamForum/videos/313831039591062/?t=120

Liệu ‘bệnh nhân số 0’ có phải nhân viên Phòng thí nghiệm virus Vũ Hán?

Trung tuần tháng 2/2020, có một “cơn bão” xuất hiện trên mạng internet Trung Quốc: người ta thảo luận về “bệnh nhân số 0” (người nhiễm đầu tiên) của dịch bệnh viêm phổi Vũ Hán và đổ xô đi tìm cái tên một nhân viên của Viện nghiên cứu virus Vũ Hán. Tuy tin đồn này chưa được xác nhận, nhưng có rất nhiều diễn biến xung quanh đáng quan tâm.

Vào khoảng ngày 14, 15/2, một số kênh truyền thông hải ngoại tiếng Hoa đăng tải tin tức rằng: virus corona mới ở Vũ Hán (COVID-19 hay còn gọi là virus Trung cộng) xuất phát từ một sự cố rò rỉ virus tại Viện Nghiên cứu Virus Vũ Hán, dẫn đến cái chết của một nhà nghiên cứu nữ. Cơ thể của nhà nghiên cứu nữ này đã lây nhiễm virus sang cho một nhân viên tang lễ trong nhà hỏa táng, dẫn đến sự lây lan của căn bệnh.

Tin tức này lập tức gây sự chú ý trên internet. Nhiều cư dân mạng đã đào sâu tìm hiểu thêm thông tin về nhà nghiên cứu nữ này, người có tên là Hoàng Yến Linh (黃燕玲), một sinh viên cao học được nhận vào Viện nghiên cứu virus Vũ Hán năm 2012.

Bệnh nhân số 0 - Phòng thí nghiệm virus Vũ Hán
Ảnh của Hoàng Yến Linh trên mạng, cô gái hàng trên cùng, thứ 2 từ trái sang (Ảnh: Twitter)

Theo thông tin trên trang web của Viện nghiên cứu virus Vũ Hán (Viện virus học Vũ Hán, hay còn gọi là Phòng thí nghiệm sinh học P4), Hoàng Yến Linh từng theo học tại Đại học Giao thông Tây Nam, chuyên ngành vi sinh.

Trang web của Nhóm Chẩn đoán Vi sinh của Viện Nghiên cứu Virus Vũ Hán cho thấy Hoàng Yến Linh là một thành viên trong nhóm này. Trang web này hiển thị một số hình ảnh của nhóm sinh viên cao học. Nhấp vào tên bên dưới ảnh, người ta cũng có thể xem phần giới thiệu tiếng Trung và tiếng Anh cho sinh viên. Kỳ lạ thay, chỉ có khối của Hoàng Yến Linh không có ảnh, và không có giới thiệu tiểu sử trong tên.

Bệnh nhân số 0 - Phòng thí nghiệm virus Vũ Hán
Thông tin liên quan đến Hoàng Yến Linh trên trang web của Viện nghiên cứu virus Vũ Hán (Ảnh chụp màn hình trang web)

Trang thông tin của Hoàng Yến Linh trên trên trang web của Viện nghiên cứu virus Vũ Hán, trống không.

Nhưng chỉ cần xem mã code của webpage một chút, tên của cô vẫn lưu lại trên đó:

 

Trên trang web của Nhóm Chẩn đoán Vi sinh của Viện nghiên cứu Virus Vũ Hán, chỉ có khối của Hoàng Yến Linh không có ảnh và không có giới thiệu về cô trong tên:

Bệnh nhân số 0 - Phòng thí nghiệm virus Vũ Hán
(Ảnh chụp màn hình trang web)

Phản ứng của chính quyền

Trả lời phỏng vấn vào tối ngày 15/2 về tin đồn này trên internet, bà Thạch Chính Lệ, nhà nghiên cứu hàng đầu về virus corona tại Viện virus học Vũ Hán và ông Trần Toàn Giao, nhà nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm Virus Cúm, đã nói rằng không biết có một nữ sinh viên cao học tên là Hoàng Yến Linh hay không. Tuy nhiên 2 người nhấn mạnh rằng không có nhân viên nào của Viện Nghiên cứu Virus Vũ Hán bị nhiễm loại virus corona mới.

Trước đó, trên mạng internet đại lục từng có thông tin rằng hơn 1.000 nhân viên và sinh viên của Viện nghiên cứu virus Vũ Hán đều không bị nhiễm loại virus mới. Một số người nghĩ rằng điều này là do nhân viên của viện biết cách ngăn chặn virus, nhưng một số người nghi ngờ rằng điều đó chỉ có nghĩa là virus xuất phát từ viện (nên nhân viên đã biết cảnh giác từ sớm).

Một chi tiết lạ khác là, khi phóng viên của tờ Tin tức Bắc Kinh hỏi Viện virus học Vũ Hán về tin đồn “bệnh nhân số 0”, viện đã phủ nhận rằng ở đó không có nhà nghiên cứu nào tên Hoàng Yến Linh. Nhưng sau khi biết một ít thông tin về cô Hoàng vẫn lưu lại trên mạng, viện lại trả lời rằng cô Hoàng từng làm việc tại đó nhưng đã nghỉ và không còn chịu trách nhiệm gì.

Chính quyền đã đăng một thông báo trên trang web của phòng thí nghiệm, cho biết có tin đồn là cô đã mất tích, nhưng cô vẫn còn sống và khỏe mạnh. Thông báo này không đưa ra bằng chứng gì kèm theo.

Câu chuyện này đã kéo theo tranh cãi lớn trên mạng ở Trung Quốc, nhưng đa số các bài viết đã bị xóa đi nhanh chóng. Nếu cô Hoàng còn sống và không có vấn đề gì thì tại sao thông tin và ảnh của cô trên trang web của Viện virus học Vũ Hán bị xóa, như thể họ không muốn cho ai biết các thông tin về cô?

Trong bối cảnh việc chống dịch đang rất áp lực vào trung tuần tháng 2/2020, chính quyền ĐCSTQ sẽ không muốn có bất kỳ tin đồn nào trong dân chúng. Nếu chính quyền không muốn các tin đồn này lan ra thì rất đơn giản, đó là cho cô Hoàng xuất hiện trên truyền hình, người ta sẽ thôi suy đoán.

Tuy nhiên, có lẽ lựa chọn này đã nằm ngoài tầm với của ĐCSTQ? Khi họ không thể thanh minh, cách làm thường thấy của chính quyền Trung Quốc sẽ là nói dối, che giấu và bưng bít thông tin.

>> Đại dịch Corona và lịch sử dối trá của ĐCSTQ

Ông Tập Cận Bình đột nhiên đề cập đến luật an toàn sinh học

Hiện tại, không có nguồn thông tin nào xác minh câu chuyện về Hoàng Yến Linh. Tuy nhiên, vào ngày 14 và 15/2, ông Tập Cận Bình và Bộ Khoa học và Công nghệ Trung Quốc đã liên tiếp đề cập đến tin tức về việc tăng cường luật an toàn sinh học. Điều này làm dư luận bàn tán.

Khi ông Tập Cận Bình chủ trì cuộc họp của Ủy ban Cải cách Trung ương thuộc Ủy ban Trung ương ĐCSTQ vào ngày 14/2, ông nói: “Để đối phó với những sơ hở và thiếu sót do dịch bệnh này gây ra, chúng ta phải sớm khắc phục những thiếu sót và sơ hở;” “cần đưa vấn đề an ninh sinh học vào hệ thống an ninh quốc gia và thúc đẩy đưa ra luật an toàn sinh học càng sớm càng tốt.”

Vào ngày 15/2, “Mạng Hoàn Cầu” của Trung Quốc đã công bố một thông báo nói rằng Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành “Hướng dẫn về tăng cường quản lý an toàn sinh học của Phòng thí nghiệm vi sinh học cao cấp đối với virus corona mới”, nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường quản lý các phòng thí nghiệm, đặc biệt là đối với virus, để đảm bảo an toàn sinh học.

Sau khi xem những tin tức nêu trên, cư dân mạng đã bày tỏ rằng chúng có ý nghĩa và ngày càng gần với sự thật.

Muốn biết virus corona, hãy hỏi… Viện virus học Vũ Hán

Viện virus học Vũ Hán là nghi vấn số 1 trong câu hỏi về nguồn gốc của virus Trung cộng. Chi tiết về các điểm nghi vấn đã được trình bày trong một số bài viết trước đây:

Trong rất nhiều các mảnh ghép, cái tên “Thạch Chính Lệ” xuất hiện rất nhiều lần. Một cách trùng hợp, bà là chuyên gia đầu ngành về virus corona ở Trung Quốc, làm việc trong Phòng thí nghiệm P4 hàng đầu – chuyên nghiên cứu các mầm bệnh nguy hiểm nhất, và một loại virus corona “khác với tất cả virus corona khác” bỗng xuất hiện ở thành phố Vũ Hán rất gần nơi bà làm việc?

Bệnh nhân số 0 - Phòng thí nghiệm virus Vũ Hán
Hồ sơ của bà Thạch Chính Lệ

Bà Thạch Chính Lệ đã tìm hiểu về virus SARS từ tận những năm 2003 và ngày càng tập trung vào tìm hiểu lây truyền virus corona chéo loài (từ dơi sang người) một cách có hệ thống từ những năm 2010.

Bà Thạch từng nhận được giải thưởng vì đã chứng minh được dơi là “kho chứa” tự nhiên của các loài virus corona. Cho tới năm 2018, bà Thạch đã có 3 bài viết khoa học về việc dơi có thể truyền virus corona sang người như thế nào. Đây đều là các thông tin công khai.

Ví dụ, trong một lần tới tỉnh Vân Nam, nhóm của bà đã lấy mẫu máu của 218 dân làng và kiểm tra. Kết quả cho thấy người dân tiếp xúc gần với dơi (sống trong các hang động gần đó) có khả năng lây nhiễm virus corona rất cao. Trong 218 mẫu máu, có 6 mẫu đã nhiễm virus corona.

Vì thế, Phòng thí nghiệm virus Vũ Hán (P4) vẫn thường đăng tải các thông báo tuyển dụng, tìm nhà nghiên cứu về mối quan hệ giữa virus corona và dơi, đặc biệt là vì sao dơi mang virus corona mà vẫn sống lâu được.

>> TT Nghiên cứu Virus Vũ Hán hai lần tuyển người nghiên cứu “virus corona mới” năm 2019

Đáng chú ý là, trước khi có thông tin công khai về loại viêm phổi lạ xuất hiện ở Vũ Hán, Viện virus học Vũ Hán lại đăng tải một thông báo nữa mang nội dung quan trọng vào ngày 24/12/2019. Nội dung có đoạn:

“Sau khi nghiên cứu dài hạn về sinh học gây bệnh của dơi mang virus nghiêm trọng, đã xác nhận rằng các bệnh truyền nhiễm lây qua người như SARS và virus corona gây hội chứng tiêu chảy cấp tính ở lợn (SADS) có nguồn gốc từ dơi, đồng thời đã phát hiện và xác định được một lượng lớn virus mới từ dơi và động vật gặm nhấm.”

Nội dung thông báo ngụ ý rằng họ đã tìm ra một loại virus mới và rất nguy hiểm, muốn tuyển thêm người để nghiên cứu cho nhóm của bà Thạch Chính Lệ.

Thông báo ngày 24/12 xác nhận rằng Phòng thí nghiệm P4 rất có thể đã phát hiện ra khả năng lây nhiễm giữa người với người và cần thêm nhân lực để xử lý.

Mặt khác, Tiêu Ba Đào (Xiao Botao), giáo sư khoa học sinh học tại Đại học Công nghệ Hoa Nam Trung Quốc, đã công bố một báo cáo có tên “Nguồn gốc có thể của các loại virus corona mới trong năm 2019” (báo cáo này sau đó đã bị gỡ bỏ, nhưng vẫn lưu bản sao ở đây). Báo cáo này của ông Tiêu có thể nói là mạo hiểm, cũng giống như trường hợp bác sĩ Lý Văn Lượng.

Báo cáo chỉ ra rằng “Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Vũ Hán”, nơi có hơn 600 con dơi, vào năm 2017 và 2019 đã từng xảy ra sự cố, trong đó các nhà nghiên cứu bị văng máu và nước tiểu từ dơi, khiến họ phải tự cách ly trong 14 ngày. Hơn nữa trung tâm này chỉ cách chợ hải sản Hoa Nam nơi dịch bùng phát có 300m. Ngay cả lô bác sĩ đầu tiên bị nhiễm virus Vũ Hán cũng thuộc Bệnh viện Union ở gần đó. Điều này đã dấy lên nghi ngờ rằng mầm bệnh có thể đến từ mẫu thí nghiệm và rác thải bị ô nhiễm của trung tâm này.

(Ghi chú của biên tập viên: Virus gây bùng phát viêm phổi Vũ Hán là đến từ Trung Quốc dưới sự cai trị của ĐCSTQ, do chính quyền ĐCSTQ che giấu sự thật dẫn đến dịch bệnh lan ra toàn cầu. Người Vũ Hán, người Hồ Bắc và tất cả người Trung Quốc cùng nhân dân toàn thế giới đều là những người bị hại. ĐCSTQ không phải là Trung Quốc, cũng không đại biểu được cho Trung Quốc, do đó, loại virus xuất hiện dưới sự cai trị của ĐCSTQ này nên được gọi là “virus Trung Cộng.”)

Theo Kan Zhong Guo, Laowhy86,
Phong Trần tổng hợp

Những nghiên cứu khoa học xác nhận: Thiện – ác tất có báo ứng

Khoa học đã chứng minh, những người lương thiện, thích giúp đỡ người khác có đời sống hạnh phúc và tuổi thọ lâu hơn. Những người trong tâm chứa đầy oán hận, làm việc ác thì dễ sinh các bệnh tật và “ra đi” sớm hơn. Điều này đã minh chứng cho câu nói “thiện ác hữu báo” thật sự tồn tại.

M.TRITHUCVN.NET

Những nghiên cứu khoa học xác nhận: Thiện – ác tất có báo ứng – Trí Thức VN

Nhiều nghiên cứu ngày nay cũng đã xác nhận rằng thiện và ác thật sự có ảnh hưởng đến cơ thể và làm những việc tốt có thể kéo dài tuổi thọ của một người.

Vài trường hợp ác giả ác báo trong lịch sử

Cổ nhân giảng: “Không quên việc trước, dùng đó làm tấm gương cho việc sau”, lịch sử không chỉ truyền lại văn hóa mà còn cho hậu thế hiểu thế nào là thiện là ác. “Đường sơ quan tu sử thư” lại ghi: “Trừng trị cái ác khuyến khích cái thiện, ghi lại nhiều chuyện đời xưa, lấy đó làm gương cho hậu thế”. Xưa cũng có câu rằng: “Lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà không lọt”, “thiện ác đều có báo ứng, chỉ là sớm hay muộn mà thôi.” Những câu này đều để răn đe kẻ ác là làm việc ác tất sẽ bị báo ứng. Nhìn vào sử sách với một tâm thuần tịnh, không khó để mặc khải ra đạo lý ác giả ác báo này.

ác báo
(Hình minh họa: Qua ent.sina)

Liên tiếp ba viên quan hại người gặp ác báo

Thời Võ Tắc Thiên nắm quyền, có một vị quan tên là Sách Nguyên Lễ thành danh bằng cách tố cáo vu oan giá họa người khác, hại người nhiều vô kể.

Sau này nhiều người tố cáo Sách Nguyên Lễ âm mưu tạo phản nên ông ta bị tống vào nhà lao. Lúc ấy, quan xét xử Sách Nguyên Lễ lại chính là thuộc hạ của ông ta. Thấy Sách Nguyên Lễ không chịu nhận tội, vị quan xét xử này lạnh lùng nói: “Mang cái lồng sắt của Sách công ra đây!”

Vừa nghe thấy câu này, Sách Nguyên Lễ đã toàn thân run rẩy, lập tức cúi đầu nhận tội. Cuối cùng ông ta đã bị chết thảm trong nhà lao.

Một vị quan khác là Chu Hưng dưới thời Võ Tắc Thiên cũng thành danh nhờ ngụy tạo án oan “mưu phản”. Khi ông ta đương chức cũng dùng cách bức cung nhục hình tàn khốc, gây ra vô số án oan, hàng ngàn người bị ông ta hãm hại. Sau này Chu Hưng cũng lại bị kẻ khác tố cáo “tạo phản”.

Người xét xử Chu Hưng là một vị quan khác, tên là Tuấn Thần. Trước đây trong một dịp Tuấn Thần ngồi ăn cùng Chu Hưng có thỉnh giáo Chu Hưng về phương pháp ép phạm nhân nhận tội.

Chu Hưng hãnh diện nói: “Việc này không khó, chỉ cần đệ bỏ phạm nhân vào cái chum to rồi châm lửa đốt xung quanh thì lo gì hắn không nhận tội!”

Sau này khi đến lượt Tuấn Thần xét xử Chu Hưng, ông ta đã nói: “Đệ phụng theo mật chỉ, nói có người tố cáo huynh mưu phản, mời huynh vào chum đi!”

Chu Hưng vừa nghe bốn chữ “mời huynh vào chum” thì hồn bay phách lạc, toàn thân mềm nhũn, liên tục rập đầu nhận tội.

Về sau, Tuấn Thần cũng không thoát khỏi kết cục bị ác báo bi thảm. Thời gian tại vị ông ta cũng làm quá nhiều việc ác, dùng nhục hình giết hại vô số người.

Khi Tuấn Thần tra khảo thì không kể nặng nhẹ đều đổ nước muối vào lỗ mũi để bắt họ nhận tội. Ông ta còn đào đất làm nhà lao dưới nước để ngâm phạm nhân vào trong nước hành hạ, còn bỏ đói không cho ăn khiến phạm nhân vì đói mà phải nuốt y phục thay lương thực. Nói chung, phương sách của Tuấn Thần là chưa chết thì chưa chịu buông tha.

Đến năm 697, Tuấn Thần 47 tuổi cũng bị người tố cáo phạm vào tội danh “mưu phản”. Sau đó không lâu, ông ta bị đưa lên pháp trường xử trảm. Những người căm hận ông ta nghe tin này đều tới pháp trường chứng kiến và tranh nhau xẻ thịt ông ta, chỉ trong ít phút, xác Tuấn Thần đã tan nát.

Bất kính với Thần linh, bạo quân bị sét đánh

Bậc quân vương thời cổ đại muốn được lòng dân để có thể giữ giang sơn yên bình vững vàng, thì đều chú ý làm lễ tế trời, cầu xin Thần linh che chở. Thế nhưng trong lịch sử cũng có những bạo quân bất kính với Trời Đất. Trong “Sử ký – Ân bản kỷ” ghi lại một sự kiện như sau:

Vua Võ Ất nhà Ân là vị vua bạo ngược vô đạo, kiêu căng ngông cuồng, bất kính với trời đất. Ông ta từng cho thợ làm tượng gỗ rồi gọi đó là “thiên thần”. Võ Ất còn sai người đóng vai “thiên thần” để cùng nhau chơi cờ phân thắng bại với mình, hoặc bắt người và “thiên thần” giả đánh nhau. Nếu “thiên thần” thua, Võ Ất sẽ bắt mọi người tra tấn và làm nhục “thiên thần”. Ngoài ra, Võ Ất còn làm một cái túi da cho đầy máu vào trong, treo lên cao và giương cung bắn rồi nói rằng đây là ta đang “bắn trời”.

Võ Ất tại vị được 5 năm. Trong một lần đi săn đến chỗ sông Vị Thủy, Hoàng Hà, thì bỗng nhiên sấm sét nổi lên, đánh chết ông ta. Sử sách ghi chép rằng, Võ Ất chết vô cùng thê thảm.

Nhiều vị quân chủ đời sau luôn lấy chuyện này làm tấm gương cho mình. Họ cũng rất coi trọng việc tôn kính Trời Đất, không dám làm việc càn quấy vì sợ bị quả báo giống như Võ Ất.

An Hòa

CHUYỆN TÙ “CẢI TẠO” CỦA PHÓ TỔNG THANH TRA NGÂN HÀNG QUỐC GIA VNCH – TRẦN ĐỖ CUNG

CHUYỆN TÙ “CẢI TẠO” CỦA PHÓ TỔNG THANH TRA NGÂN HÀNG 

QUỐC GIA VNCH – TRẦN ĐỖ CUNG

 “…Phí phạm “chất xám” như vậy để cho ba chục năm thống nhất đất nước vẫn lạc hậu. Bây giờ kêu gọi trí thức và “chất xám” trở về xây dựng lại nước thì thật khôi hài và có tin được chăng?…”

Một bạn thân ở Montréal Canada vừa gửi cho tôi cuốn Pháp ngữ Souvenirs et Pensées, viết bởi Bà Bác Sỹ Nguyễn Thị Đảnh và được Bác Sỹ Từ Uyên chuyển qua Việt Ngữ. Bạn lại khuyến khích tôi nếu có thì giờ thì chuyển qua Anh Ngữ theo sự mong muốn của tác giả. Sau khi đọc tôi thấy đặc biệt ở chỗ tù cải tạo này là một chuyên viên tài chính ngân hàng, khác hẳn trường hợp thường thấy của các sỹ quan trong quân lực. Ông Thảo bị đầy đọa sáu năm rưỡi trời để hy vọng moi các hiểu biết của ông về tài sản Ngân Hàng Quốc Gia.

Bà Bác Sỹ Đảnh nay định cư tại Oslo Na Uy là một phụ nữ miền Nam, Tây học. Phu quân Đỗ Văn Thảo cũng là người Nam, sinh ngày 21 tháng 8 năm 1927 tại Gò Công. Sau khi tốt nghiệp Đại Học tại Pháp ông Thảo đã về làm việc tại Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam từ tháng Tư năm 1955. Ông đã giữ chức Giám Đốc Nha Ngoại Viện rồi Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng  Quốc Gia cho đến ngày 30 tháng Tư năm 1975. Ông bị đi tù cải tạo tháng 6 năm 1975 rồi bị lưu đầy ra Bắc cho đến tháng 9 năm 1980. Đến tỵ nạn chính trị tại Bergen, Na Uy tháng 12 năm 1981, ông tạ thế tháng Giêng năm 2001 tại Oslo, Na Uy vì trụy tim.

Câu chuyện Bà Bác Sỹ Đảnh kể lại về sự tù tội Việt Cộng của đức lang quân cho thấy đặc biệt có ba khía cạnh. Là người Nam thuần túy, là chuyên viên được huấn luyện công phu và chưa bao giờ liên quan đến quân đội. Nhưng Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam đã hành xử như quân xâm lăng, cầm tù những chuyên viên rồi vơ vét của cải đem về như Phát Xít Đức Quốc Xã khi tiến vào Paris. Sự thiển cận của họ đã đưa đến sự kiệt quệ tột cùng cho đến bây giờ vẫn chưa ngóc đầu lên ngang hàng với các nước lân bang. Nay mở miệng mời chào người Việt nước ngoài trở về đem chất xám giúp nước thì thử hỏi có nghe được không?

Câu chuyện do bà Đảnh kể lại trong thời kỳ gia đình bị kẹt vì lỡ chuyến ra đi của tầu Việt Nam Thương Tín. Những ôn tưởng chỉ được ông Thảo thỉnh thoảng nhắc đến vì ông không muốn trải qua một lần nữa những hình ảnh dã man mà ông đã trải qua. Bà hết sức căm nước Pháp đã hùa theo Việt Cộng chỉ vì thù Mỹ đã không giúp họ xâm chiếm lại xứ Việt Nam trù phú sau khi Thế Chiến II chấm dứt. Bất hạnh cho Việt Nam, trong khi cộng sản Nga Hoa chỉ ngầm giúp Hà Nội thì Mỹ ồn ào đổ quân vào làm mất chính nghĩa của chúng ta đã bị nhóm thiên tả và CS cơ hội bóp méo thành chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Bà viết để vinh danh những ai đã trải qua địa ngục trần gian tù cải tạo Việt Cộng. Và cũng để nói lên lời an ủi tới những ai đã bị phân tán ra bốn phương trời, làm cho không những mất gốc  mà còn mất cả cá tính nữa.

Bà cùng gia đình bị kẹt lại trong cư xá sang trọng của Ngân Hàng nằm trên đường nhỏ hướng ra cầu xa lộ mới. Bà thấy rõ sự chiến đấu dũng cảm của một Trung Đội Nhẩy Dù với 20 binh sĩ chỉ huy bởi một Thiếu Úy trẻ măng có vẻ mới ra trường. Nhìn các quân nhân rắn chắc, nét mặt kiêu hùng và người chỉ huy Thiếu Úy trẻ nhưng chững chạc, bà đã chia xẻ đồ ăn với họ và có cảm tưởng đã cùng họ chiến đấu. Cuối cùng tất cả quân sỹ đã bị hy sinh một cách tức tưởi.

Bà nói: “Ai dám bảo là quân ta không chịu chiến đấu”? Trong khi ấy những phát súng lẻ tẻ của du kích Mặt Trận Giải Phóng quấy rối giữa những tiếng nổ đại pháo. Ngoài đường một sự hỗn loạn không tưởng tượng được khi bọn hôi của nhào vào các nhà vắng chủ và du kích Việt Cộng ngày càng hung hăng tàn ác.

Rồi ông Thảo phải ra trình diện theo lệnh của quân quản Sài Gòn. Ông  thật thà nghĩ rằng vì vợ chồng ông là các chuyên gia thuần túy nên chính thể mới sẽ cần đến những bàn tay xây dựng lại quốc gia. Ông nói với vợ rằng: “Nếu họ không ưa chúng ta thì họ cũng không thể xử tệ với chúng ta. Họ không thể giết hết tất cả”. Một Pol Pot đã làm như vậy, nhưng họ đã thấy là không có lợi gì hết. Tuy nhiên Việt Cộng đã làm những việc tệ hại hơn nhiều. “Chúng tôi không hiểu rõ cái thực tế của cộng sản.

Chúng tôi đã nuôi ảo tưởng rằng cộng sản là một xác tín cao đẹp. Song  đem cái xác tín ấy vào đời sống con người bằng võ lực đã làm mất hào quang lý tưởng và thơ mộng. Và như vậy nó trở nên tầm thường, bẩn thỉu, ích kỷ và man rợ”.

Ngày 15 tháng Sáu năm 1975 bà Đảnh đã chở ông Thảo và các con trên chiếc xe VW Variant đến một ngôi trường bỏ không gần Sở Thú. Ông gập một bạn cũ cùng đi trình diện nên thấy đỡ cô đơn hơn. “Khi chia tay tôi nhìn thấy trong ánh mắt anh ấy sự tiếc nuối, lo âu và tình yêu đằm thắm. Anh chưa biết rằng sự chia tay này kéo giài cả hơn sáu năm rưỡi trời. Ánh mắt sâu thẳm ấy theo tôi mãi mãi ngày đêm và không bao giờ tôi quên được. Hầu hết các gia đình đều chịu hoàn cảnh như vậy, không cha, không chồng. Tôi may mắn thuộc thành phần không làm điều gì sai quấy và được đồng sự mến, không phải loại có nợ máu lớn với nhân dân, nên được gọi đi cải tạo trong một tuần lễ”.

Rồi xảy ra việc vơ vét toàn diện. Tại Bộ Giáo Dục cũ không một cái gì là bị bỏ sót, cục tẩy, cái bút BIC, giấy, tập vở đều bị thu gom chở về Bắc trên các xe vận tải nhà binh đầy ắp. Những cán bộ miền Nam thấy bất bình, “Chúng ta bây giờ thống nhất vậy của cải miền Nam phải được để lại miền Nam vì ở đây cũng cần các phương tiện để xây dựng lại chớ”? Bà nói: “Khi tôi nghĩ dến những đứa con miền Nam đã gia nhập MTGPMN tôi không khỏi khinh bỉ và tội nghiệp. Một số ít có thể là những người yêu nước thật sự tuy nuôi một lý tưởng ngu đần để bị VC xập bẫy. Họ đã làm gì để giúp đỡ quê cha đất tổ? Hay là giúp tay xa lìa sự trù phú, sự phồn thịnh và cả tự do nữa”?

Các cán bộ cộng sản thường vào tư gia mượn những thứ cần dùng. Họ được đối xử tử tế nhã nhặn. Nhưng một hôm một cấp chỉ huy vào nhà. Bà lịch sự rót một cốc nước mát mời thì ông ta túm lấy vai đứa con trai nhỏ bắt húp một ngụm trước. “Tôi đâu có ngu gì mà đầu độc họ ngay tại nhà tôi? Họ ra vào nhiều lần và tôi cảm thấy họ muốn cái gì, có lẽ muốn cái nhà của tôi? Ý tưởng đào thoát manh nha trong đầu tôi. Với sự hiện diện của báo chí và những quan sát viên, nên VC còn tỏ ra dè dặt, không dám ra mặt tham lam áp chế dân chúng. Cũng may là chẳng bao lâu sau cả đoàn quân CS bị chuyển qua Cao Mên”.

Một tháng sau khi trình diện học tập cải tạo không thấy một ai được về nhà. Cậu con trai lớn luôn luôn đạp xe quanh ngôi trường mà cha cậu trình diện thì thấy vắng tanh. Khi đem người trưởng gia đình đi thì tạo ra một không khí bất an và đạt được hai mục đích, vô hiệu hóa người chồng người cha và cùng một lúc kiểm soát được mọi người trong gia đình. Nhiều gia đình chỉ trông cậy vào đồng lương cha chồng đem về hàng tháng thì bây giờ túng quẫn. Và sau hai lần đổi tiền, những người giầu có nay thành nghèo và những ai đã nghèo nay lại càng xơ xác. Sau một tháng quy định chẳng ai được trở về. Thỉnh thoảng có một vài người có lẽ thuộc loại có móc nối hay không nợ máu thấy lẻ tẻ trở về. Một người quen cho biết là chồng bà bị chuyển tới trại Long Thành.

Một loạt xe vận tải nhà binh đến chở các tù nhân đi. Họ không biết là đi tới đâu. Trong đêm tối đến một khu rừng mà họ không biết là Long Thành và bị lùa vào mấy gian trại bằng tre lá và lèn chặt như cá hộp. Ngay sáng hôm sau tù phải bắt tay xây cất các trại giam khác cho những người tới sau. Có cảm tưởng là Việt Cộng không có kế hoạch gì cả, chỉ thực hiện theo nhu cầu xẩy đến và tù nhân phải dựng lấy trại giam cho mình. Mục tiêu quan trọng lúc đó là gom lại và vô hiệu hóa các thành viên của chế độ cũ. Mục đích thứ hai là cách ly quân đội với hành chính. Các cấp hành chính do cán bộ canh giữ còn các quân nhân bị đặt dưới bộ đội và các sỹ quan Việt Cộng canh chừng. Chỗ nào cũng là rừng nên không ai biết được bao nhiêu trại tù rải rác ở đâu.

Mỗi nhà giam có thể lèn chừng 50 tù, mỗi người có được chừng 80 phân để nằm ngủ ngay trên mặt đất. Về đêm phải chịu hơi lạnh của núi rừng và khi mưa phải chịu ướt át. Bà hỏi chồng có nhớ đến cái mùng mà anh cẩn thận gói theo.

Anh nói, “Trong hoàn cảnh ấy mùng đâu có ích gì và một anh bạn khéo tay đã giúp cắt ra may thành một áo trấn thủ dầy dặn với nhiều lớp vải mùng khiến cho anh qua được cảnh rét mướt”! Mỗi đêm có điểm danh trước khi cho vào đi ngủ sau khi cán bộ đã khóa chặt nhà tù.

Đồ ăn thật đơn sơ nhưng còn có gạo nên không bị đói. Cơm được nấu trong các chảo to nên có nhiều cháy là một món ngon mà đứa bé con cô cán bộ nhà bếp luôn luôn chầu chực. “Nhà tôi sực nhớ đến đứa con nhỏ ở nhà mà lòng bồi hồi xúc động”! Vấn đề nước khó khăn hơn vì chỉ có mỗi một cái giếng và khi lao động về phải sắp hàng tắm rửa. Những người lớn tuổi chậm chân nên đến lượt mình thì đã tới giờ điểm danh trở về phòng nên không bao giờ được dùng nước.

Tù phải viết bản báo cáo mỗi ngày, nói rõ những gì bản thân họ đã phạm trước kia và những gì cha hay thân nhân họ đã làm. Nay mới thấy sự ích lợi của các cây bút BIC. Các bản báo cáo trở thành ác mộng của tù nhân. Viết ít chừng nào tốt chừng ấy và phải nhớ những gì đã viết để có thể viết lại những báo cáo sau. Ý đồ của quản trại là bắt tù từ bỏ niềm tin, chối bỏ lý tưởng và gia đình, khinh rẻ chế độ cũ và chửi rủa các cấp lãnh đạo cũ. Thật là khó khăn cho những ai thẳng thắn với những nguyên tắc có sẵn hay những người bản chất hiền hòa không biết chửi bậy. Song viết ngắn quá cũng bị nghi ngờ là thiếu thành thật và tù bị gọi lên hạch hỏi đủ điều, chữa đi chữa lại. Kết quả là tù phạm tội nặng hơn để rơi vào bẫy sửa sai không ra thoát.

Có lệnh cho đi thăm tù. Những người như bà Đảnh là công nhân viên phải có giấy phép của cơ quan ghi rõ lý do nghỉ phép. Và chỉ được đem theo tối đa 5 kí thực phẩm và mỗi gia đình chỉ có ba người được đi thăm. Với bốn đứa con, đem đứa nào đi, để đứa nào lại? Trong khi thăm chồng phải ngồi hai bên bàn dài cùng những người khác, có cán bộ đứng đàu bàn lắng nghe. Phải nói to, không được dùng ngoại ngữ. Vợ chồng trao đổi những vấn đề sức khỏe và kinh tế gia đình, bán chác quần áo cho các bà miền Bắc bây giờ ham chưng diện lắm. Khi hết giờ thăm, tù đứng giậy nhặt gói quà trở về nhà giam. Có người còn bị mắng vì ôm hôn người thân hay căn dặn thêm vài điều. Trong phòng những tiếng òa khóc nổi lên như sóng gió trong cơn mưa bão. “Tôi cố nhịn khóc nhưng khi về đến nhà vào phòng tôi bật khóc lệ tràn như suối”.

Từ tháng 10/11, 1976 bà Đảnh không nhận được thư nào của chồng nữa và biết là chồng không còn ở Long Thành. Từ nay gửi thư cho anh phải qua một địa chỉ mới tại hòm thư A-40 khám Chí Hòa. Thư từ quà bánh tối đa 3-5 kí phải gửi qua một địa điểm ở một ngôi trường không xử dụng nữa. Hai đứa con lớn phải đi thi hành các nghĩa vụ công ích không lương, tối phải tạm trú tại những chỗ nào tạm che mưa nắng. Đã có dấu hiệu chống đối ngầm trong giới trẻ. Nhưng chúng bị răn đe, phải cố gắng theo chỉ thị thì cha anh mới được mau chóng tha về. Thật là xảo trá, lợi dụng lòng thương xót cha anh để ép chúng phục vụ.

Một ngày đen tối nhất của tháng 10 năm 1976, các tù được lệnh đổi trại giam. Đây là lúc cán bộ lục lọi khám xét thủ tiêu mọi chuyện. “Chồng tôi ghi chép nhật ký trong một cuốn sổ tay nhỏ hầu mong kể lại cho con những điều đã trải qua. Anh đã vội vã thủ tiêu cuốn sổ”. Tù đươc chất trên các xe vận tải, tay xích người nọ với người kia. Sau hàng giờ đi vòng vo họ bi lùa xuống hầm tầu thủy và chân bắt đầu bị khóa.Tầu đi ngang qua một khu mà nhìn qua lỗ hổng hầm tầu anh nhận ra cây cầu gần nhà, nơi đây vợ con đang ở, rất gần anh nhưng xa, xa lắm. Nước mắt anh dâng trào, không biết đang đi về đâu, xa Sài Gòn vì đây là Tân Cảng.

Chừng 7 tháng sau cái địa chỉ kỳ quái Chí Hòa, có một người tới gập bà Đảnh nhưng không dám vào nhà. Ngó trước ngó sau, phải trái, rồi anh vội nói, “Chồng chị đang bị giam tại miền cực Bắc. Tôi cũng bị giam ở đó nhưng vì vợ tôi là người Đức nên đã nhờ tòa Đại Sứ Tây Đức can thiệp”. Mắt tràn lệ, anh nói tiếp, “Chị biết chúng bắt tôi và anh làm gì không? Ngày ngày gánh phân bón rau và đó là việc nhẹ dành cho người yếu sức”! Bà bật khóc thảm thiết, ngồi bệt xuống vệ đường rồi anh bạn bỏ đi thật nhanh để khỏi bị nhòm ngó.

“Chồng tôi chẳng phải là một ông lớn tại miền Nam mà cũng không phải là các Tướng Lãnh uy quyền. Nhưng anh thuộc loại có thể khai thác được. Họ muốn biết vàng, đô la hay các kho tàng của miền Nam chôn dấu ở đâu. Họ hạch hỏi khai thác bắt làm việc đều đều, nhưng cho là không thành khẩn khai báo nên đầy ra miền Bắc cộng sản”.

Hầm tầu chật chội với các chất thải vệ sinh của tù nên tạo ra một mùi hôi hám khủng khiếp không tả nổi. Hành trình rất dài không ai nhớ rõ. Sau cùng cũng tới hình như Hải Phòng và chuyển lên các xe tải, chân vẫn xiềng xích. Xe chạy qua một số làng xóm, dân làng đua nhau la ó chửi bới và mọi người biết đây là đất địch. Có các bà chửi, “Đồ Tàu Phù khốn kiếp”! Thì ra họ tưởng là tù binh Trung Quốc.

Cán bộ la to, “Đây không phải là tù binh Trung Quốc”. Nhưng họ cũng không dám bảo là tù miến Nam vì họ sợ phản ứng của dân quê thật thà, thương hại hay cùng chia xẻ nỗi đau buồn. Đêm tới thì đến một ven rừng bát ngát. Tù được tháo cùm và lùa sâu vào rừng rậm, đi bộ dăm bẩy cây số và đến một hàng rào bao quanh một số trại. Các cán bộ vào trại, để mặc tù lo liệu chỗ ngủ qua đêm. Sáng hôm sau tù bỏ tay vào xây cất lấy trại tù cho chính mình.

Đúng 31 tháng Chạp Dương Lịch các gia đình tù nhận được một món quà chính thức cuối năm, một lá thư của thân nhân đang bị giam tại trại Bắc Thái. Ông Thảo không gập lại những bạn tù Long Thành và phải bắt đầu làm quen với các bạn tù mới. Tù được lệnh trao cho một cán bộ gái tất cả tài sản, đồng hồ, bút máy, nhẫn vòng tay, dây chuyền và tiền mặt để được liệt vào một cuốn sổ ghi tên sở hữu. Ông Thảo nhất định không đưa chiếc nhẫn cưới với lý do vì lâu ngày không kéo ra được. Sau khi dùng xà bông mà cũng không xong thì họ văng tục và thôi không thử tháo nữa. Ông nói dù họ có cố rút ra nhưng nếu ông cố ý giữ thì cũng vô hiệu vì ông nhất định không rời cái nhẫn cưới mà ông coi là tượng trưng quý báu.

Ban quản trại đều là người Bắc khắc nghiệt và khó tính. Tù thấy luôn luôn bị theo rõi sát nút. Báo cáo hằng ngày bị phân tách kỹ lưỡng, thảo luận và bị phê bình. Các cán bộ hung dữ và lộng quyền, không ngớt tỏ ra là người chiến thắng. Nhưng đừng lầm tưởng họ thèm muốn những gì chúng ta có, họ thấy chúng ta giỏi hơn họ trên mọi phương diện. Họ luôn khiêu khích, nói xiên nói xỏ, đả kích chê bai và phê bình. Và đây là tình trạng khủng bố tinh thần kinh khủng.

Về phương diện vật chất vì quá đông người nên trong phòng một tiếng động nhỏ cũng vang âm. Một tiếng ho, một cái hắt xì cũng khiến một số tù nhân thức giấc. Nhiều bạn tù trong cơn ác mộng đã rên la, gào khóc. Không ai quên được một bạn già cỡ sáu chục, góa vợ với đứa con thơ dại nên đêm đêm nức nở khi đi ngủ thương xót đứa con bỏ lại miền Nam không ai săn sóc. Giếng nước duy nhất rất gần trại nên phải nấu sôi để uống. “Chồng tôi làm công tác hôi thối gánh phân nên cần tắm rửa mỗi chiều tối. Nhưng nước lạnh cóng khi xối lên người thi da đỏ ửng. Anh còn đùa rằng, “thật may là da và phổi còn tốt”.

Nhưng cái đói thật là kinh khủng. Khi còn ở miền Nam thì nắm cơm còn thực là nắm cơm đầy đủ gạo. Ở đây, cơm phải trộn những hạt bo bo vỏ thật cứng thường phải xay ra để cho súc vật ăn. Một số lớn không muốn hy sinh bộ răng cấm nên phải ngồi nhặt các hột bo bo ra để chỉ còn lại được một muỗng cơm trong bát cơm độn. Nhiều người bị lủng củng tiêu hóa và bị tháo dạ. Cái đói thật khủng khiếp ngày đêm làm cho con người bớt sáng suốt, dảm ý chí và mất óc phán đoán.

“May mắn là cả bốn đội trưởng đều là bạn thân của em tôi. Nếu không nhờ các bạn đó và các y sĩ đồng nghiệp của tôi giúp đỡ thì chắc gì anh đã sống đến ngày được thả”!

“Tôi cố tìm hiểu vì sao mà anh bị giam giữ lâu thế? Phải chăng anh được nhiều bạn tù cảm mến nên anh bị giữ lâu? Anh luôn luôn được gọi lên yêu cầu hợp tác để giúp trại sinh hoạt tốt. Nếu nhận lời thì sẽ được cấp phần ăn như cán bộ, được miễn lao động và hưởng nhiều ưu đãi. Nhưng anh đã từ chối và bị giam giữ lâu hơn”.

Đầu tháng 9 năm 1978 ông Thảo gửi thư về cho biết quản trại đã phổ biến tin cho thân nhân đi thăm và tù được nhận thực phẩm. Ông cũng dặn nếu muốn ra Bắc thì liên lạc với một bà gốc Bắc có chồng cùng bị giam giữ với ông. Bà này biết rành Ha Nội và biết rõ manh mối chạy chọt giấy tờ di chuyển và cũng biết cách xoay xở vé xe lửa khứ hồi. Và từ nay bà Thảo biết các mánh khóe luồn lọt thật mất thì giờ, khó khăn và tế nhị. Tất cả các sự việc đều có thể mua bằng tiền, chạy đúng chỗ và không để lộ ra vì hối lộ là một trọng tội. Đối với bà lại còn khó khăn hơn vì trước kia đã phục vụ ngụy quyền và chồng đang bị tù cải tạo.

Mãi mới xin được giấy phép nghỉ nhưng chưa biết cách nào đi. May thay có một ông bạn có cô em trước làm tiếp viên phi hành cho Air Vietnam cũ và nay còn được lưu dụng bởi hãng Vietnam Airlines mới chưa có ai đủ khả năng thay thế. Cô này rất tháo vát và đã kiếm cho bà một vé máy bay vào tháng 11. Khi ra máy bay với xách đồ ăn khô cô ta đã giới thiệu là dì ruột và đưa bà lên máy bay, căn dặn là đừng tỏ ra sợ sệt quá. “Khi đã lên máy bay, không ai biết được là mình không có quyền xử dụng máy bay và khi về thì đã có người cho phép đi nên không có ai dám cản trở về”.

Khi đến phi trường Gia Lâm nhỏ xíu bà lên xe quân sự chờ đón khách. Bà gọi một xe xích lô đạp về nhà cán bộ giáo dục trẻ Sơn mà bà được bà thủ trưởng Sâm giới thiệu. Cha mẹ Sơn đều là giáo sư Đại Học tiếp bà ân cần và thông cảm. Họ được ở ngôi biệt thự cũ gần hồ Hoàn Kiếm tuy chỉ dược xử dụng có một căn phòng với một cầu tiêu lối cổ. Ông đã cơi lên một gác xép làm chỗ ngủ cho ông và con trai. “Tối đến họ dẹp bàn ghế vào tường và trải một chiếc chiếu rộng dưới sàn cho bà mẹ, cô chị dâu, cháu gái nhỏ và tôi nằm. Trong khi tôi thao thức vì sắp gập chồng sau hơn hai năm xa cách thì ai cũng ngủ ngon lành”.

Khi đợi người hướng dẫn đến bằng xe lửa phải mất ba tuần lễ, bà Đảnh ra phố quan sát thấy các nhóm người bán đồ lậu. Cái gì họ cũng có, phần nhiều là các gói nhỏ đường, trà, cà phê, bao thuốc lá và các thỏi chocolat nhỏ đựng trong các túi xách. Bà mua các gói kẹo chocolat vì mang từ Sài Gòn ra không tiện. Họ nói mua gì cũng có trữ tại nhà vả trả tiền xong là hôm sau họ sẽ giao. Người hướng dẫn cho bà đến nhập bọn ngủ dêm để sáng hôm sau ra ga lúc 5 giờ cho kịp chuyến xe lửa Đông Bắc.

Người đông như kiến, chen lấn lộn xộn và “tôi cùng bà chiếm được hai chỗ trên bực ngoài toa cho đến sau khi qua nhiều ga xép mới mò vào được bên trong để ngồi xệp xuống sàn tầu đầy rác, đỡ nạn bụi khói và mưa phùn giá lạnh”.

Từ trạm xe lửa đi đến vùng Bắc Thái phải dùng xe bò. May thay bà hướng dẫn đã nhanh nhẩu quá giang được một xe chở dầu nhà binh với tiền thù lao nhỏ 20 đồng. Đến ven rừng phải thuê một xe bò tới trại giam qua một con đường gập ghềnh với giá 15 đ một người. Tới cổng trại, một căn nhà lợp tranh thì cán bộ xét giấy và cho hai người một vào ngồi đợi ở một cái bàn nhỏ chữ nhật. Hai mưoi phút sau thân nhân được dẫn ra, yếu ớt, thân hình tiều tụy xác xơ trông thật đau lòng. Cán bộ đứng ở đầu bàn và phải nói to cũng như không được dùng ngoại ngữ. “Tôi không biết được gập anh bao lâu nhưng mục đích tôi là xin phép anh đưa các con trốn khỏi nước. Tôi có bổn phận báo cho anh biết là phải liều lĩnh như tự sát vì chừng 50% đến được bến tự do”. Nhưng làm sao để không cho cán bộ biết?

“Tôi nghĩ cách nói là mẹ con muốn đi vùng kinh tế mới”, thi anh xúc động hỏi lại, “Bộ chúng không đủ ăn sao”? Bà chậm rãi trả lời, “Chúng muốn làm lại cuộc đời mới và gập lại hai bà gì đã đến đó trước rồi”. Ông Thảo suy nghĩ rồi chợt hiểu là chị và em tôi đã định cư ở Âu Châu từ lâu và dặn dò, “Đừng để cho các con bơ vơ, em phải đi với các con còn quá nhỏ”! “Chúng tôi chuyện trò đủ chuyện Sài Gòn trước đây, nhà cửa, tình trạng gia đình thân nhân nội ngoại và anh không thổ lộ gì về hoàn cảnh của anh và số phận hiện tại”.

Sau một giờ thì cán bộ thổi còi chấm dứt thăm nuôi. Các tù nhân đứng lên lượm gói quà và sắp hàng về phòng giam. “Chồng tôi ôm tôi và thì thầm, em phải đi với các con và như vậy trong tương lai có thể dễ tìm lại nhau”. Lần thăm nuôi chỉ có bốn người đi thăm khốn khổ. Không một lời phản kháng hay thất vọng. Nước mắt có chảy cũng trong thầm lặng. Nơi đây hy vọng còn ít hơn ở Long Thành. “Rã rời tôi có cảm tưởng như sống những giây phút cuối cùng và tôi không còn biết tôi là ai nữa. Nếu tôi ra đi cùng các con thì rồi đây ai săn sóc anh, và biết có gặp lại nữa không”?

Chiều về tới Hà Nội, tôi e họ sẽ không cho tôi ghi vé trở về. Cha anh Sơn chở tôi bằng xe đạp ra trạm hàng không. Họ hỏi tôi đủ điều, lý do đi thăm, trú ngụ ở đâu, thấy thủ đô ra sao và đã đi thăm lăng Hồ Chủ Tịch chưa? “Tôi phải vui vẻ tỏ ra mãn nguyện và phải chấp nhận bất cứ cách giả dối nào để về với các con tôi. Tôi đã thành công và được về trên chuyến bay hai ngày sau”. Còn hơn một ngày tôi mướn một xe xích lô đi một vòng quanh Hồ Gươm. Hồ quá nhỏ, nước đen ngòm mà mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Không thấy dấu hiệu hư hại vì oanh tạc chỉ có cây cầu Doumer và đôi chút ở một bệnh viện mặc dầu họ tuyên truyền ầm ĩ là bị phi cơ hủy hoại. Tôi đã nói dối ở trạm hàng không. Tôi đã không đi thăm lăng chủ tịch mà chỉ đi xích lô phớt qua. Không có gì đặc sắc, chỉ là một kiến trúc lạc loài bê tông cốt sắt với các cột lạnh lẽo như trong thời cổ. Nhưng nếu tôi vào trong để nhìn thấy con người mà họ cho là thần thánh thì tôi đã ớn lạnh về sự lọc lừa phản bội của ông ta đã đưa nước nhà vào một cuộc chiến tàn khốc, tạo nên mối chia rẽ toàn dân và cả nước”!

Hà Nội một thành phố cổ kính thì nay đã tiều tụy, không được coi như một bà già mà là một đứa con nít thiếu dinh dưỡng lâu ngày, bụng ỏng, đít eo, chân tay khẳng khiu mang chứng bệnh còm cõi và già nua sớm không phương cứu chữa. “Tôi không muốn những ai đã rời Hà Nội năm 1954 trở lại để thấy sự điêu tàn khắc nghiệt vì tiền của nhân lực đều xung vào chiến tranh. Cha mẹ Sơn cũng như người hướng dẫn tôi đều hình như thổ lộ là họ đã sống qua ngày hướng về miền Nam. Nhưng nay miền Nam đã xụp đổ, thế là hết cả. Cuôc viếng thăm rất có kết quả vì tôi đã nói được với nhà tôi một điều cần thiết. Và tinh thần nhà tôi hình như đã vững hơn, bắt đầu yêu đời hơn và thấy hy vọng”.

Bà Đảnh đã đưa bốn đứa con vượt biển ngày 1 tháng 5 năm 1979 lợi dụng sơ hở vì mải liên hoan ngày lễ. Cả gia đình lênh đênh trên biển cả thì gặp một chiếc tầu chờ dầu Na Uy vớt. Vì vậy khi ông Thảo được thả về thì nhà đã mất và phải tạm trú nhà bà chị. Ông bị các đè ép từ các cơ quan công an phường, quận. Không có hộ khẩu nghĩa là không được phiếu mua thực phẩm và các đồ lặt vặt như thuốc đánh răng. Phải luôn luôn trình diện và đẩy  đi vùng kinh tế mới. Nhưng nếu xa Sài Gòn thì làm sao có được tin tức nên ông đã chán nản nghĩ liều đi trốn. Bà Đảnh phải nhắn về xin yên tâm đừng liều mạng vì đã có chương trình bảo lãnh và Cao Ủy tị nạn đã đặt thêm một văn phòng ở Sài Gòn.

Bà gửi về các giấy tờ cho nhiều nơi để khỏi thất lạc.

Cuối cùng, sau nhiều lần chạy chọt khó khăn và nhiêu khê, ông Thảo đã được giấy phép xuất cảnh. Bà Đảnh nói, “Không chối cãi việc Việt Cộng đã trả lại người thân cho chúng tôi. Nhưng họ đã ra sao khi được thả? Một số đông đã chết như anh đội trưởng giúp đỡ  tận tình bạn tù. Anh chết tức tưởi trong tuổi hoa niên của cuộc đời. Qua hành hạ thể xác độc địa nhằm triệt tiêu nhân phẩm, Việt Cộng không tàn phá nổi thể xác nhưng đã để lại trong tâm hồn tù nhân nhiều rạn nứt in hằn. Lập trường chính trị, tín ngưỡng, lòng yêu nước không bao giờ xóa tẩy được”. Bà Đảnh kết luận, “Tôi chấm dứt bằng một câu xúc tích của chồng tôi khi anh đặt chân xuống đất Na Uy”: “Chúng tôi vẫn sống, hy vọng của chúng tôi đã đạt được. Tôi đã có vợ con quanh tôi, hạnh phúc tôi tràn đầy. Từ nay các con tôi được bảo đảm tương lai trên một đất nước cao đẹp, tự do như Na Uy mà chúng tôi coi là miền đất hứa”.

tu_caitao3

 

Vài cảm nghĩ.- Cộng sản Việt Nam sùng bái Hồ Chí Minh như thánh sống. Ai cũng biết là họ Hồ mạo danh nhóm ái quốc ở Paris khi viết báo Le Paria đã dùng tên chung Nguyễn Ái Quốc (Nguyen le Patriot). Hồ đã từng nộp đơn xin làm việc với Bộ Thuộc Địa rồi đi theo cộng sản Nga để được huấn luyện thành cán bộ Đông Dương Cộng Sản. Khi qua Tầu lại lấy danh tính một người chết để thành Hồ Chí Minh. Không có lấy cái bằng sơ học,  chỉ lặp lại những danh từ Xô Viết rồi Tầu Mao, lợi dụng khí thế ái quốc chống Pháp để đổi Việt Minh thành đảng Lao Động Cộng Sản và hãm hại các người yêu nước cũng như nhiều người trong vụ đấu tố.

Ông ta đã học thuộc lòng câu “Hồng hơn Chuyên” của Mao nên cũng nói “Trí Thức là Cục Phân” cho nên khi chiếm Sài Gòn chính trị bộ Hà Nội đã bỏ tù các chuyên viên của miền Nam mà huấn luyện mất bao nhiêu thời gian và công của. Hệt như “bước nhẩy vọt” của Tầu Mao trong kế hoạch sản xuất thép tiểu công trong các làng xã phí phạm bao nhiêu nhân lực đưa đến phá sản kinh tế và môi trường. Cho nên ta thấy các Y Khoa Bác Sỹ phải đi quét chợ và chuyên viên kinh tài như ông Đỗ Văn Thảo bị giam cầm trong nhiều năm. Phí phạm “chất xám” như vậy để cho ba chục năm thống nhất đất nước vẫn lạc hậu. Bây giờ kêu gọi trí thức và “chất xám” trở về xây dựng lại nước thì thật khôi hài và có tin được chăng?

Trần Đỗ Cung
Nguồn: hon-viet.co.uk/TranDoCung

Bắt cựu Tổng Giám đốc và cựu Kế toán trưởng Tổng Công ty Dầu Việt Nam

Hai người này bị bắt, khởi tố về tội Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.

Tổng Công ty Dầu Việt Nam, PVOil, OceanBank
Bị can Nguyễn Xuân Sơn (trái) và Vũ Trọng Hải. (Ảnh: bocongan.gov.vn)

 

Căn cứ tài liệu, kết quả điều tra, ngày 7/4, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã ra quyết định khởi tố vụ án “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản” xảy ra tại Tổng Công ty Dầu Việt Nam (PVOil) và Ngân hàng OceanBank.

Đồng thời, C03 đã ra quyết định khởi tố bị can, lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh khám xét về tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản” theo Điều 355 Bộ luật Hình sự đối với 2 bị can, gồm:

  • Nguyễn Xuân Sơn, SN 1959 – nguyên Tổng Giám đốc Tổng Công ty Dầu Việt Nam (PVOil);
  • Vũ Trọng Hải, SN 1968, nguyên Kế toán trưởng Tổng Công ty Dầu Việt Nam (PVOil).

Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đang làm rõ vụ việc.

Phạm Toàn

Tại sao có Sự Dữ và Đau Khổ trong đời sống? LM Mathêu Nguyễn Khắc Hy PSS

Tại sao có Sự Dữ và Đau Khổ trong đời sống?

 LM Mathêu Nguyễn Khắc Hy PSS

 06/Apr/2020

I.Giới Thiệu                                                                                                       

   Nạn đại dịch covid-19, bắt nguồn từ Vũ Hán, Trung Quốc, đã lan tràn ra khắp thế giới, và đe dọa mạng sống con người khiến cuộc sống thường ngày của hầu hết mọi người bị đảo lộn. Riêng với người Công Giáo, Tuần Thánh năm nay có lẽ là lần đầu tiên trong lịch sử mà giáo dân phải tham dự thánh lễ “từ xa” qua hệ thống kỹ thuật truyền thông hiện đại. Trong bối cảnh đối diện với đai dịch, và người Kitô hữu đồng hành với Đức Giêsu Kitô trong tuần thánh để cảm nghiệm Cuộc Thương Khó, Sự Chết và Sự Sống Lại của Ngài, tôi muốn dùng cơ hội này để ôn lại giáo lý Công Giáo dạy gì về những sự dữ và đau khổ xảy ra trong đời sống con người, và làm thế nào để qua những hiểu biết này, chúng ta tăng thêm đức tin vào Thiên Chúa toàn năng và nhân từ.Câu hỏi: Tại sao Thiên Chúa để có đại dịch covid-19 khiến hơn 1.2 triệu người nhiễm, và hơn 67 ngàn người tử vong? [1] Tại sao ông A bị ung thư? Tại sao bà B bị chết khi đang đi hành hương hay đang cầu nguyện? Tại sao anh C đang làm việc cho cộng đoàn lại bị xe tông và thành bất toại? Hay trên bình diện lớn hơn: Tại sao có chiến tranh gây thiệt mạng hàng triệu người? Khi Hitler giết sáu triệu người Do thái trong các lò hơi ngạt, Thiên Chúa ở đâu? Và hằng ngày, những người bị tù tội oan ức, Thiên Chúa ở đâu? Công bằng ở đâu?

Giáo Lý Công Giáo số 309 dạy “Nếu Thiên Chúa là Cha Toàn Năng, Ðấng Sáng Tạo nên thế giới có trật tự và tốt lành, chăm sóc hết mọi thụ tạo, tại sao có sự dữ?… Không thể có một câu trả lời ngắn gọn mà đầy đủ được.”

Sự hiện diện của sự dữ trong cuộc sống đã quá rõ ràng. Vì thế, đối diện với đau khổ là vấn nạn căn bản và cũng là mầu nhiệm phức tạp đầu tiên con người tiếp cận khi tìm hiểu đức tin họ đặt vào Thiên Chúa.

Những bất công, bệnh tật, chết chóc, đau khổ v.v… là một phần hiện thực của sự dữ (sự ác) được triết học và thần học quan tâm và tìm cách giải thích cho hợp lý. Câu hỏi ‘tại sao và làm cách nào sự dữ xâm nhập vào thế giới được Thiên Chúa tạo dựng’ vẫn chứa đựng bí ẩn thắc mắc nhiều hơn là câu trả lời.

Với đức tin Công Giáo, chúng ta hiểu gì mầu nhiệm này? Trước khi tìm hiểu thêm sâu rộng thêm về đề tài này, chúng ta cần phân biệt hai hình thức sự dữ được nói đến: một là sự dữ luân lý, hai là sự dữ tự nhiên. Sự dữ luân lý thường là hệ quả của việc con người sử dụng tự do (ví dụ như trộm cắp, giết người, cướp của, hãm hại nhau…). Sự dữ tự nhiên (như động đất, lụt lội, núi lửa, bệnh tật…) không là lựa chọn của con người nhưng họ lãnh hậu quả.

Dĩ nhiên không phải mọi kết quả sự dữ đều dễ nhận dạng theo hai hình thức trên, vì tính phức tạp của thực tế. Ví dụ như sập chiếc cầu Cần Thơ năm 2007 làm chết hơn 50 người, liệu đây là do sự dữ tự nhiên (cầu sập đè chết người) hay sự dữ luân lý khi con người làm lỗi (vì thiết kế cẩu thả, ăn cắp vật liệu, gian dối trong thi công…) gây sập cầu. Dịch Covid-19 là do sự dữ tự nhiên (con người vô tình lây lan từ một virus đang có trong động vật???…) hay sự dữ luân lý (vì con người muốn chế tạo để hại nhau, nhưng sai lầm trong kiềm chế kiểm soát khiến virus bị lọt ra ngoài??). Ngay cả với yếu tố sự dữ tự nhiên, việc lây lan nhanh chóng và quá rộng rãi trên thế giới có thể một phần do sự dữ luân lý khi con người che giấu sự thật về tình trạng nguy hiểm của virus này không?

Điều quan trọng là cho dù sự dữ luân lý hay tự nhiên, chúng ta cũng không dễ dàng tìm ra câu trả lời tại sao lại xảy ra như vậy.

Và tất cả những gì tôi chia sẻ dưới đây là tập hợp của những lý thuyết trong lịch sử tìm cách giải đáp thắc mắc này, nhưng không một giải đáp nào thỏa mãn được mọi thắc mắc của chúng ta. Dù sao, những tổng hợp vắn tắt này cho chúng ta một cái nhìn khái quát phức tạp về vấn nạn sự dữ và đau khổ trong cuộc sống, và giúp chúng ta cẩn thận hơn khi giảng dạy, thay vì cung cấp những câu trả lời đơn giản nhưng chứa đựng nhiều sai lầm.

II. Lịch sử tranh luận về sự dữ

Triết lý và thần học có cùng một câu hỏi, nhưng cách giải thích có nhiều khác nhau. Với triết lý, lý luận logic là nguyên tắc chính. Với thần học Kitô giáo, làm sao để bảo vệ được Một Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, Toàn Thiện mà không thể bỏ qua sự hiện diện của sự dữ trong đời.

Thế kỷ thứ 4 trước công nguyên, triết gia Epicurus (341-270 BC) đã đặt câu hỏi tương quan giữa Triết học và Thần học khi ông hỏi về nguyên nhân của sự dữ, và được David Hume (1711-1776) lặp lại trong một lý luận ngắn gọn: “Có phải Thiên Chúa muốn ngăn ngừa sự dữ nhưng Ngài không có thể? Vậy, Ngài không Toàn Năng. Nếu Ngài có thể, nhưng Ngài không ước muốn ngăn ngừa? Vậy Ngài không Toàn Thiện. Nếu Ngài vừa có khả năng và vừa ước muốn làm việc đó, vậy tại sao sự dữ lại có mặt trong đời sống?”

1. Triết lý và các thuyết giải thích

Triết lý tìm cách giải thích sự hiện diện của sự dữ mà không nhất thiết phải tin là có Một Thiên Chúa, Đấng Tạo Dựng vũ trụ. Vì thế, một vài lý luận được ghi lại như sau:

Thứ nhất, chủ nghĩa Nhị Nguyên Thuyết (dualism) cắt nghĩa đơn giản rằng trong vũ trụ tồn tại hai thần lực, Tốt và Xấu. Sự đấu tranh này có thể là tạm thời (nghĩa là đến một lúc nào đó, một trong hai Thần sẽ thắng đối tượng kia), hay có tính cách vĩnh viễn (nghĩa là hai thế lực Tốt-Xấu này tồn tại muôn đời). Như thế, sự dữ trong thế gian là điều tất yếu, vì đó là một phần của thụ tạo trong vũ trụ. [2]

Thứ hai, không hề có hiện thực Tốt hay Xấu mà chỉ là những danh từ con người đặt tên cho những sự kiện xảy ra trong đời. Nói cách khác, “hên” hay “xui” không tùy thuộc vào sự kiện cho bằng tùy thuộc vào người đón nhận. Vì thế, không thể coi sự dữ như là một thực thể, mà tốt hơn là coi nó như một tình trạng tâm lý, hay một tình huống được con người diễn dịch theo ý mình. [3]

Thứ ba, thuyết Bất Khả Tri Luận (agnosticism) cho rằng khả năng con người không thể biết được. Thuyết Bất Khả Tri Luận được nhiều người chấp nhận vì mọi lý lẽ giải thích bí nhiệm sự dữ không thoả mãn được óc tò mò của con người, ngay cả vô thần như Voltaire, trong tác phẩm Candide,Ou L’Optimisme, cũng ủng hộ thuyết này. [4]

Thứ tư, thuyết Nhân Quả cho rằng “gieo gió thì gặp bão.” [5] Xuất phát từ tính dễ hiểu, triết thuyết này rất phổ biến trong đời sống con người, và là nền tảng niềm tin Ấn Độ giáo, Phật giáo, Khổng giáo, Nho giáo…. Điều khó cắt nghĩa được kể lại trong Tin Mừng Gioan 9:1-12 là tại sao người mù từ khi mới sinh? Tội của anh ta hay của cha mẹ anh ta? Vì mù từ khi mới sinh nên chắc chắn anh ta chưa làm gì nên tội; còn nếu là tội cha mẹ anh thì câu hỏi: tại sao một người làm mà người khác phải chịu? Bên cạnh đó, ta lại còn chứng kiến nhiều người ác sống thảnh thơi trong khi người lành thánh gặp nhiều hoạn nạn. Thuyết Nhân Quả bị sách ông Gióp loại bỏ và cũng bị Chúa Giêsu lên án (John 9:2-3)

2. Triết lý và lý luận logic

Giáo lý Kitô giáo dạy chỉ có Một Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, Toàn Thiện. Vậy sự có mặt của sự dữ không thể dung hoà với những yếu tố trên của đức tin. Lý luận này được tóm gọn như sau:

a. Nếu Thiên Chúa là Đấng Toàn Thiện, Ngài phải tiêu diệt hết mọi sự dữ.
b. Nếu Thiên Chúa Toàn Năng, Ngài có thể tiêu diệt hết mọi sự dữ.
c. Vì thế, sự dữ trên thế gian chứng tỏ không có một Thiên Chúa vừa Toàn Năng – Toàn Thiện như Kitô giáo dạy.

Trước khi đi sâu vào tư tưởng thần học của lý luận này, chúng ta cùng nhau nhìn lại lý luận này theo phương thức logic của triết lý. Khi thách đố trên dựa vào lý luận để kết luận là không có Một Thiên Chúa như đức tin Kitô giáo dạy, thì chìa khóa giải đáp cũng dựa vào lý luận mà thôi.

Khi ta nói: “Thiên Chúa là Đấng toàn năng, làm được mọi sự” , câu này có nghĩa là gì? Có phải Ngài làm gì cũng được hay sao? Thưa không, vì có nhiều điều Thiên Chúa không làm được. Kinh thánh nói “với Thiên Chúa mọi sự đều có thể” (Mt. 19:26), nhưng Kinh thánh cũng dạy là có nhiều điều Thiên Chúa không làm được, như Ngài không thể lừa dối (Titus. 1:2), không thể phạm tội, hay cám dỗ người khác phạm tội (James 1:13). Nghĩa là Thiên Chúa không thể làm điều nghịch lại bản tính Ngài. Và cũng không thể làm điều gì ngoài định luật Ngài đã đặt ra, như không thể tạo ra một hình tam giác có bốn góc, hay làm sai thành đúng, hay người cao lại “ngắn” hơn người lùn…[6] Với con người, Thiên Chúa không thể cho họ vừa tự do, vừa mất tự do.

Vì thế, lý luận logictrên không thật sự cho chúng ta một thực thể nhưng cho ta một logic lập luận về từ ngữ mà thôi.

Nên trong thần học, chúng ta vẫn tuyên xưng Thiên Chúa Toàn Năng và Toàn Thiện, và dĩ nhiên Ngài có khả năng loại bỏ sự dữ, nhưng Ngài không thể làm mà không huỷ hoại tự do con người.

Còn với sự dữ tự nhiên (như động đất, lụt, bệnh tật…) thì sao? Lý luận trên cũng giúp ta hiểu rằng chúng ta không thể sống theo ý định Thiên Chúa muốn ta sống, nếu ta không có môi trường như ta đang có hiện tại. Nói cách khác, điều kiện sống hiện tại, dù có nhiều sự dữ, nhưng bảo đảm cho ta được tự do, và là điều kiện tốt nhất Thiên Chúa dành cho con người.

3. Sự dữ trong thần học truyền thống

Trong truyền thống thần học Kitô giáo, có vài hình thức giải thích được xem là phổ biến.

Trước hết là không thể hiểu được. Chúng ta không hiểu tại sao có sự dữ trên thế gian, nhưng chúng ta vẫn tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng đời mình, và con người cần kiên nhẫn trong đời sống đức tin. Cách hiểu này được kể lại trong sách ông Gióp khi cắt nghĩa rằng con người không thể hiếu được chương trình bí nhiệm của Thiên Chúa Toàn Năng (xem Job 38-41). Nên nhớ rằng chỉ vì ta không hiểu được lý do nào Thiên Chúa để cho sự dữ xảy ra, không có nghĩa là Thiên Chúa không có lý do để làm chuyện đó. Một em bé không luôn luôn hiểu hết những lý do đằng sau những việc bố mẹ làm cho mình, nhưng không phải vì thế mà bố mẹ không có lý do để cấm đoán hay khuyến khích em làm những gì bố mẹ muốn cho em. Vì thế, là con người mà đòi hỏi hiểu hết mọi mầu nhiệm của Thiên Chúa là điều không thể được, vì ngay cả biết bao điều chung quanh chúng ta mà ta còn chưa hiểu như sức ly tâm, sức hút trái đất, nguyên tử v.v…

Thứ hailà thanh luyện. Cách giải thích này là Thiên Chúa dùng đau khổ, sự dữ để thanh luyện con người ngày càng lớn mạnh hơn.[7] Tư tưởng này khá phổ biến trong thần học các giáo phụ, và ta có thể tìm thấy trong thần học thánh Phaolô, như trong thư gửi tín hữu Roma: “Thật vậy, tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta.” (Rom 8:18). Dĩ nhiên tư tưởng thánh Phaolô nhắc ở đây là những đau khổ con người chịu vì danh Đức Giêsu Kitô, chứ không là những đau khổ đến từ những điều kiện mà con người có thể loại bỏ hay thay đổi. Nghĩa là, đừng hiểu lầm rằng thánh Phaolô muốn con người sống thụ động trước đau khổ, nhưng Ngài muốn dạy rằng Thiên Chúa sẽ không để những đau khổ con người chịu đựng vì danh Ngài trở nên vô ích. Với những người chống lại lối giải thích này, họ hỏi rằng: liệu Thiên Chúa còn phải tôi luyện con người đến mức nào? Bao nhiêu thử thách đau khổ xảy ra mới đủ?

Thánh Irenaeus (thế kỷ 2) cho rằng sự dữ đơn giản là một phần của thụ tạo được dựng nên, và là điều kiện cần thiết để con người có thể sử dụng tự do chọn điều Tốt. Chỉ khi có sự dữ như một lựa chọn, con người mới thật sự hiểu tự do là gì khi chọn điều tốt – xấu cho mình. Và khi chọn điều tốt để làm và loại bỏ điều xấu, con người trưởng thành. Như vậy, sự dữ là điều kiện cần thiết để con người được tôi luyện và trưởng thành.[8]

Thứ ba là phó thác theo ý Chúa. Lối giải thích này cho rằng không việc gì xảy ra mà không theo ý Thiên Chúa, nghĩa là, mọi việc xảy ra dù Thiên Chúa cho phép xảy ra hay Thiên Chúa muốn nó xảy ra đều do Thiên Chúa định đoạt. Lối giải thích này cũng không quên nhấn mạnh rằng ý định cuối cùng của Thiên Chúa luôn luôn muốn sự tốt đẹp cho con người, vì những gì không tốt đẹp đều không hợp với bản tính tốt lành, yêu thương và khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì thế, Thiên Chúa chắc chắn phải có lý do chính đáng khi để những sự dữ xảy ra. Nói cách khác, Thiên Chúa sẽ đem về những kết quả tốt đẹp đến từ đau khổ, và dùng sự dữ như phương tiện để thực hiện mục đích Ngài. Vậy, Thiên Chúa muốn có sự dữ, vì nếu Ngài không muốn thì nó không thể hiện hữu được. Điều đáng chú ý (về thần học) là liệu ước muốn có sự dữ trên thế gian có thuộc về bản tính Thiên Chúa không? Vì theo giáo lý Công Giáo, Thiên Chúa luôn luôn ước muốn điều thiện hảo? Tóm lại, lối giải thích này từ chối công nhận rằng sự dữ là một vấn nạn, và khuyên Kitô hữu chỉ cần phó thác theo ý Thiên Chúa là đủ.

Thứ tư là vũ trụ đang tiến hóa. Một quan điểm khác cho là những sự dữ trong đời như bệnh tật, già nua, thất bại… là một phần của tiến trình tiến hoá trong vũ trụ (như đau khi mọc răng là một phần của sự lớn mạnh của con người). Tựu trung, vũ trụ đang tiến hoá. Và bão tố, động đất… là một phần của tiến trình này. Cha Pierre Teilhard de Chardin, thần học gia người Pháp, là người cổ võ cho tư tưởng này. Hiểu cách này, tất cả những gì xảy ra trên thế giới được coi là chức năng của đời sống vũ trụ. Đây là nghĩa sâu nhất của danh từ “tiến hoá”. Thuyết này có ưu điểm là giải thích những sự dữ tự nhiên (động đất, lụt lội, núi lửa…) là bản năng tiến hoá. Vì thế, sự dữ không là một sản phẩm có mặt ngay từ khi tạo dựng vũ trụ, và vì thế, không là một sản phẩm Thiên Chúa dựng nên. Do dó, sự dữ trong thuyết này không có từ đầu, và sau này cũng biến mất khi vũ trụ hoàn hảo, hết tiến hoá.[9]

4. Thánh Augustine và sự dữ

Thánh Augustine (354-430) được coi là thần học gia tiên phong có những giải đáp khá thỏa đáng liên quan đến câu hỏi này.[10] Lời giải thích của thánh nhân dựa trên đức tin căn bản: Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng (Ngài làm được mọi sự) và Toàn Thiện (Ngài luôn yêu điều thiện, không làm điều ác).[11] Lối giải thích của Ngài thực tế, đáng tin, giải đáp được những hi vọng của Kitô hữu, và giúp những gì ta đang làm có ý nghĩa.

Trước hết, Thiên Chúa tạo dựng nên mọi sự từ hư không, và mọi sự đều tốt đẹp. Vì thế, sự dữ không thể là một sản phẩm (thụ tạo) của Thiên Chúa toàn thiện được, vì Ngài không dựng nên sự dữ.[12] Vậy nếu không là một thụ tạo, sự dữ từ đâu đến? Thánh Augustine giải thích rằng sự dữ tự nó không hiện hữu được, vì Thiên Chúa không dựng nên nó, nhưng sự dữ là do vắng bóng sự thiện mà thôi.[13] Thánh Augustine cũng giải thích thêm rằng vì sự dữ tự nó không tồn tại như một thụ tạo, vì thế con người không chọn sự dữ như một đối tượng (vì không có thực để con người chọn). Nhưng khi con người từ chối và quay mặt lại với sự thiện, hay khi chọn lựa cái kém hơn sự thiện, con người đến với sự dữ. Và thánh Augustine kết luận rằng nguồn gốc của sự dữ nằm ở tự do của con người khi họ lựa chọn điều kém hơn sự thiện.[14]

5. Thần học hiện đại và cái nhìn mới về sự dữ

Từ sau Thế Chiến Thứ Hai, với hơn sáu triệu người Do Thái bị Đức Quốc Xã giết chỉ vì họ là người Do Thái, thần học nhìn về sự dữ thay đổi rất nhiều. Nhiều thần học gia phê bình lối giải thích của thánh Augustine hay lối hiểu trong thần học cũ vì tính không thực tế, xa vời, và không giải thích được vai trò Thiên Chúa trong đời sống con người. Họ đề nghị cần phải có một cái nhìn mới trong vấn đề này. Lối giải thích của những thần học mới này cũng mang theo những yếu tố sau:

Thứ nhất là chất vấn tính toàn thiện của Thiên Chúa. Sự dữ ngày càng nhiều trên thế gian khiến con người mất tin tưởng vào Một Thiên Chúa Là Tình Yêu, như Thánh Kinh dạy. Như vậy không có nghĩa là họ từ chối Thiên Chúa toàn thiện, nhưng họ đặt câu hỏi để “xét xử” Thiên Chúa hơn là luôn bênh vực Thiên Chúa như trong thần học truyền thống.

Thứ hai là quy trách nhiệm gián tiếp cho Thiên Chúa khi để sự dữ hiện diện trong thế gian. Vì Thiên Chúa cho con người tự do, và họ đã làm điều xấu (cướp của, giết người…) mà Thiên Chúa không ngăn cản được, nên Thiên Chúa chịu trách nhiệm gián tiếp cho hành động con người gây ra sự dữ. Dù Thiên Chúa luôn ước mong những gì tốt đẹp nhất cho con người, và không muốn họ đau khổ, nhưng Ngài phải chịu một phần trách nhiệm trong thế giới Tốt-Xấu lẫn lộn này.

Thứ ba là con người trưởng thành và hoàn hảo qua chính những lựa chọn của mình. Lối giải thích này cho rằng mỗi con người sinh ra đều có một mục đích mong đạt được. Không như Augustine cho rằng sự dữ là kết quả của tội lỗi, hay như thánh Irenaeus cho rằng sự dữ tôi luyện đời sống đức tin, John Hick (người đại diện cho lối hiểu này) cho rằng chính sự dữ giúp con người có kinh nghiệm khi có những quyết định đúng đắn để xây dựng tư cách của mình. Chính những quyết định đúng đắn hằng ngày giúp ta sống trọn vẹn, đúng nghĩa Thiên Chúa đã ước định cho ta.

Cuối cùng là thần học giải phóng nhắm đến giải thoát con người khỏi những bất công hiện tại. Chính bất công gây ra nghèo đói, tội ác… và những đàn áp, bóc lột là hiện thân của sự dữ. Lối giải thích này không cắt nghĩa nguyên nhân sự dữ, nhưng mời gọi con người thông phần với Đức Kitô là nạn nhân của xã hội bất công, và luôn nhớ rằng Sự Sống Lại là chiến thắng của Thiên Chúa trên sự dữ.

III. Giáo lý Công Giáo và thần học về sự dữ

Trong sách giáo lý Công Giáo, Giáo Hội luôn khẳng định rằng sự dữ (kết quả dẫn đến đau khổ) trong đời sống con người luôn luôn là một mầu nhiệm. Vì thế, Giáo Hội không cho ta một câu trả lời rõ ràng, rành mạch theo lý luận bình thường cho câu hỏi “Tại sao Một Thiên Chúa toàn năng, toàn thiện lại để cho sự dữ hoành hành trong đời sống con người”. Dù công nhận là một mầu nhiệm, Giáo Hội cũng đưa ra nhiều giải thích để chúng ta có thể hiểu và sống có ý nghĩa khi đương đầu với sự dữ. Một vài tư tưởng hiện tại:

Trước hếtvũ trụ và con người đang trong qúa trình tiến hoá. Giáo lý số 310 dạy: “Tại sao Thiên Chúa không tạo dựng một thế giới thật hoàn hảo để không có một sự dữ nào xuất hiện?” Giáo hội trả lời là cho dù Thiên Chúa quyền năng vô biên có thể làm được việc này, nhưng Ngài đã không làm, mà tạo dựng một thế giới “trong tình trạng lên đường” hướng về sự hoàn hảo sau cùng. Nghĩa là cả vũ trụ đang tiến triển, lớn mạnh để đi đến hoàn hảo. Vì thế, sự lớn mạnh khi “cái này xuất hiện, cái kia biến đi” (như núi lửa xuất hiện tạo nên núi mới trong khi núi già biến đi) là quá trình tiến hoá của mọi loài. Giáo hội kết luận: “Vì vậy bao lâu mà công trình tạo dựng chưa đạt được mức trọn hảo của nó, thì cùng với điều tốt thể lý, cũng có sự dữ thể lý.” Nói cách khác, lớn mạnh để đi đến hoàn hảo đòi hỏi thay đổi, thay đổi đòi hỏi nhiều đau khổ mà ta gọi là sự dữ[15].

Thứ haitự do là nguyên nhân gây sự dữ. Và dù Thiên Chúa không tạo dựng sự dữ, Ngài cho phép sự dữ xâm nhập thế gian. Giáo lý số 311: “Thiên thần và con người có tự do…trong thực tế, họ đã phạm tội… Tuy nhiên, vì tôn trọng tự do của thụ tạo, Người để nó xảy ra, và một cách mầu nhiệm, Người biết cách rút lấy điều lành từ sự dữ.” [16] Giáo hội khẳng định “Thiên Chúa không bao giờ, bằng bất cứ cách nào, trực tiếp hay gián tiếp, là nguyên nhân của sự dữ luân lý.” Nhưng trong và qua sự dữ, Thiên Chúa biến nó thành những gì lợi ích cho con người. Giáo lý 313 dạy: “Mọi sự đều sinh lợi ích cho ai yêu mến Thiên Chúa” (Rm 8, 28). Và giáo lý 312 khẳng định: “Thiên Chúa dẫn đưa ta tới điều thiện hảo từ những hậu quả của sự dữ.”

Thứ baThiên Chúa sẽ toàn thắng. Sách giáo lý số 314 dạy rằng hiện tại chúng ta không hiểu được mầu nhiệm đau khổ, nhưng ta tin rằng Thiên Chúa sẽ toàn thắng mọi sự trong ngày sau hết. Trong ngày “mặt đối mặt” đó (1 Cor 13:12), chúng ta hiểu trọn vẹn đường lối Thiên Chúa dẫn con người qua những thảm kịch của sự dữ và tội lỗi. Nói cách khác, cuối cùng ta sẽ hiểu trọn vẹn. Vì thế hãy cứ vững lòng tin.

IV. Kết Luận

Đau khổ mà thế giới đang gánh chịu vì nạn đại dịch Covid-19 khiến mọi người đặt câu hỏi về sự hiện diện của sự dữ, và câu hỏi này chắc chắn vẫn còn là vấn nạn ngàn đời cho mọi người. Là những Kitô hữu, dù chúng ta không biết tại sao mình bị đau khổ hay tại sao sự dữ khống chế cuộc sống, nhưng chúng ta tin những đau khổ mình chịu không vô nghĩa, vì chính Đức Giêsu Kitô đã chịu đau khổ cách bất công. Điều chúng ta TIN chắc chắn là Thiên Chúa luôn yêu thương con người, và Ngài đã tạo dựng một thế giới tốt nhất có thể được, để con người sinh hoạt.

Tôi mượn lời dạy của giáo lý Công Giáo số 324 để tóm kết: “Việc Thiên Chúa cho phép có sự dữ thể lý và sự dữ luân lý là một huyền nhiệm mà Thiên Chúa làm sáng tỏ nhờ Con của Ngài là Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã chết và sống lại để chiến thắng sự dữ. Ðức tin giúp chúng ta xác tín rằng, Thiên Chúa đã không cho phép sự dữ xuất hiện, nếu Ngài không làm phát sinh điều thiện hảo từ chính sự dữ đó, bằng những đường lối mà chúng ta chỉ biết được trọn vẹn trong đời sống vĩnh cửu.”

——————-

Chú thích:
[1] Con số tính đến ngày 5-4-2020.
[2] Nhiều Kitô hữu nhầm lẫn cho rằng Nhị Nguyên Thuyết đến từ Kinh thánh, nhưng thực ra thuyết này đến từ Gnosticism (Vô Ngộ Thuyết) và Manichaeism (Thuyết Mani). Thuyết Nhị Nguyên được tìm thấy sớm nhất được tìm thấy trong lời dạy của Zarathustra (thể kỷ 6 trước công nguyên) và được Mani (chết 276) khai thác thêm. Thuyết này chủ trương vũ trụ tồn tại có Bóng Tối – Ánh Sáng, Trắng-Đen, Nóng-Lạnh…
[3] Lý luận này được triết gia Baruch Spinoza (1632-1677) cổ động và được gọi là Duy Danh Luận Chủ Nghĩa (nominalisticism).
[4] Triết gia Gottfried W. Leibnitz lý luận rằng thế giới hiện tại là chọn lựa tốt nhất mà Thiên Chúa đã dựng nên cho dù có sự hiện diện của Sự Dữ. Lý luận này nhằm đáp lại logic của triết lý mà nhiều người nói là câu trả lời của Leibnitz cho Descartes. Nhưng Voltaire, trong tác phẩm Candide,Ou L’Optimisme, đã bắt đầu với lời lẽ ủng hộ quan niệm của Leibniz về cách giải thích hiện hữu của sự dữ cho rằng vũ trụ này là chọn lựa tốt nhất mà Thiên Chúa có thể làm ra. Nhưng cuối tác phẩm, ông kết thúc bằng lời lẽ cổ võ cho thuyết Bất Khả Tri Luận, cho rằng bí nhiệm này vượt trên khả năng con người.
[5] Thuyết Nhân Qủa được người Do Thái chấp nhận vì tính dễ hiểu của nó. Gioan 9:1-2 kể chuyện khi gặp người mù từ khi mới sinh, một số môn đệ Chúa Giêsu cho là do tội của anh ta hay của cha mẹ anh ta. Chúa Giêsu dùng cơ hội này để sửa sai niềm tin của họ. Kitô giáo chưa bao giờ chính thức dùng thuyết Nhân Qủa để cắt nghĩa nguồn gốc sự dữ, nhưng nhiều người hiểu lầm lời dạy cho rằng sự trừng phạt Thiên Chúa áp đặt trên Adam và Eva vì bất tuân là hình thức Nhân Quả (xem Gen 3:16-18). Dù giáo lý Giáo Hội dạy rằng đau khổ là kết quả của tội lỗi, nhưng luôn nhắc nhở đây là một mầu nhiệm hơn là một sự kiện được cắt nghĩa cách đơn giản theo thuyết Nhân Quả.
[6] Đừng lầm tưởng lý luận “toàn năng” này với phép lạ. Dĩ nhiên Thiên Chúa có thể làm cho đá nổi trên mặt nước, hay cho trâu bò bay nhanh hơn chim, nhưng khi đã là phép lạ, thì thực chất của hiện vật thay đổi, nghĩa là, đá được phép “nhẹ” hơn nước, hay trâu bò được phép “bay” nhanh hơn chim. Điều Thiên Chúa không thể làm được là khi tốc độ bay 50 km/giờ lại nhanh hơn 100 km/giờ, hay 10 kg lại nhẹ hơn 5 kg. Tất cả những định luật tự nhiên này được chính Thiên Chúa định đoạt.
[7] Giáo phụ Origen, thế kỷ 3, giải thích rằng những thử thách là để ta được tôi luyện và lớn lên (xem De principiis, sách I, V,1). Thể xác con người như phương tiện qua đó ta được “huấn luyện và hướng dẫn” để được ơn cứu chuộc (xem De principiis, sách I, V,3). Sự Dữ bài học Thiên Chúa dạy con người.
[8] John Hick, một học giả nổi tiếng hiện đại của thế kỷ 20, khai thác tư tưởng này của thánh Ireneaus trong cuốn Evil and the God of Love (San Francisco: Harper San Francisco, 1978).
[9] Xem Pierre Teilhard de Chardin, The Future of Man, New York: Harper & Row Publisher, 1964, p. 261.
[10] Cho đến cuối đời thánh Augustine vẫn còn tranh luận vấn đề này với Julian. Xem John M. Rist, Augustine (New York: Cambridge University press, 1994) p. 261.
[11] Khi còn trẻ, Augustine theo nhóm Manichean chủ trương Nhị Nguyên Thuyết, cho là vũ trụ có Tốt-Xấu cùng tồn tại. Sau khi đã trở nên Kitô hữu, Augustine chống lại lạc thuyết này trong những bài viết của Ngài.
[12] Xem De Civitate Dei, ch. xII.
[13] Xem Augustine, De Civitate Dei, XI, CHAP. 9, và Confessiones, VII: [XII] 18. Thánh Augustine sửa đổi một phần tư tưởng của Hậu Plato (Neo-Platonism) khi trường phái này nhấn mạnh rằng sự dữ không là hữu thể tự hữu nhưng là vắng bóng của Sự Thiện.
[14] Xem Augustine, De Civitate Dei, XII, CHAP. 6, và Confessiones, VII: [III] 5.
[15] Giáo lý Công Giáo 310 – Tại sao Thiên Chúa không tạo dựng một thế giới thật hoàn hảo để không có một sự dữ nào xuất hiện? Xét theo quyền năng vô biên Thiên Chúa vẫn có thể tạo dựng được điều tốt hơn (x. T. Tôma Aquinô tổng luận 1, 25, 6). Nhưng trong sự khôn ngoan và nhân hậu vô biên của Ngừơi, Thiên Chúa đã tự ý sáng tạo một thế giới trong “tiến trình” hướng về sự trọn hảo tối hậu. Theo ý định của Thiên Chúa, sự tiến hóa này gồm có việc vật này xuất hiện và vật khác biến đi, có cái hoàn hảo hơn và có cái kém hơn, có xây đắp và cũng có tàn phá trong thiên nhiên. Vì vậy bao lâu mà cuộc sáng tạo chưa đạt được sự trọn hảo của nó, thì cùng với điều tốt thể lý, cũng có sự dữ thể lý (x. T. Tôma Aquinô, s. gent 3. 71).
[16] Giáo lý Công Giáo 311 – Thiên thần và con người là những thụ tạo thông minh và tự do, nên phải tiến về cùng đích bằng một sự lựa chọn tự do và yêu chọn cái tốt hơn. Do đó họ có thể lầm lạc. Trong thực tế, họ đã phạm tội. Như vậy, sự dữ luân lý, vô cùng nghiêm trọng hơn so với sự dữ thể lý, đã xâm nhập vào thế giới. Thiên Chúa không bao giờ là nguyên nhân của sự dữ luân lý, cho dù trực tiếp hay gián tiếp (x. T. Âu-tinh, lib 1, 1, 1; Th. Tôma Aqu, s. th, 1-2, 79, 1). Tuy nhiên, vì tôn trọng tự do của thụ tạo, Người để nó xảy ra, và một cách mầu nhiệm, Người biết cách rút lấy điều lành từ sự dữ.

LM Mathêu Nguyễn Khắc Hy PSS

Cô giáo Mỹ chia sẻ quá trình gần một tháng điều trị Covid-19

Cô giáo Mỹ chia sẻ quá trình gần một tháng điều trị Covid-19

By  Tạp Chí Hoa Kỳ

6 April, 2020

Đang bình phục sau khi nhiễm nCoV, Maureen Boland, 52 tuổi, giáo viên tiếng Anh trường trung học Abington, không thể quên cơn ác mộng khi nằm viện.

Cô Maureen Boland chia sẻ quá trình điều trị nCoV trong gần một tháng. 

Tuần trước, khi nằm trên giường bệnh trong tình trạng khó thở, tôi vô tình thấy mình xuất hiện trong một bài báo của tờ ABC6 ngày 23/3 với tiêu đề: “Xác nhận ca nhiễm Covid-19 tại bang Pennsylvania là bác sĩ gây mê và giáo viên”. Nếu có thể, tôi muốn đổi tiêu đề thành: “Tôi là một trong những bệnh nhân may mắn”.

Tôi có kết quả dương tính với nCoV, chỉ số men gan tăng cao, phải đặt ống thở vì không thể tự thở nhưng tôi đã chiến thắng tử thần. Hiện tại, tôi dần bình phục nhưng cơn ác mộng về những ngày nằm viện khiến tôi không thể yên giấc. Tôi vẫn đang chiến đấu để hồi phục cả thể chất lẫn tinh thần sau Covid-19.

Ngày 13/3, sau khi trường trung học đóng cửa theo lệnh của chính quyền địa phương, tôi bắt đầu xuất hiện triệu chứng bệnh. Khi đang cùng con gái Julia dắt chó đi dạo, tôi cảm thấy mệt mỏi, hụt hơi. Tôi quay sang nói với con rằng không chắc có thể tự quay về nhà, nhưng tôi đã cố gắng bước từng bước trở về.

Chiều hôm đó, tôi lên cơn sốt với những tràng ho không dứt, những cơn ớn lạnh khắp thân thể còn mình mẩy thì đau nhức. Vì đã tìm hiểu triệu chứng của Covid-19 trên Internet, tôi tin chắc mình đã nhiễm bệnh.

Ngày hôm sau, tôi gọi điện cho bác sĩ riêng nhưng ông ấy nói tôi sẽ không được xét nghiệm nếu chỉ với những triệu chứng kể trên. Thân nhiệt không vượt quá 37,8 độ C, tôi có thể tự thở dù phải chịu đựng sốt và ho.

Tôi đã liên lạc lại với bác sĩ vào ngày 16/3 nhưng vẫn câu trả lời ấy. Tôi sẽ không được xét nghiệm, thậm chí không được nằm viện trừ khi có kết quả dương tính với nCoV. Hôm sau, cơn sốt vẫn không có dấu hiệu suy giảm. May mắn thay, bác sĩ đã gọi điện lại thông báo tôi có thể được xét nghiệm. Mọi vấn đề thay đổi chỉ trong một đêm vì tôi đã 52 tuổi và có tiền sử hen suyễn.

Cô Maureen Boland, 52 tuổi, giáo viên tiếng Anh, đã trải qua một tháng điều trị nCoV. Ảnh: Tyger Williams.

Sáng 18/3, tôi lái xe đến khu vực xét nghiệm Covid-19 tại địa phương. Một nhân viên y tế mặc đầy đủ đồ bảo hộ đã lấy mẫu xét nghiệm dịch mũi và nghe phổi của tôi. Sau khi khám, anh nhìn thẳng vào mắt tôi, bảo đừng quá lo lắng và kê thuốc kháng viêm Prednisone. Kết quả xét nghiệm dự tính có sau bốn ngày.

Tôi đã nghe theo lời khuyên của nhân viên y tế nhưng ngày hôm sau hơi thở trở nên nặng nề, mọi thứ dần tồi tệ. Tôi buồn nôn, mất vị giác và khứu giác. Điều đáng chú ý nhất trong thời gian này là triệu chứng bệnh liên tục biến đổi.

Mỗi buổi tối, tôi thấy tin tức phát trực tiếp về số người nhập viện và số người qua đời tăng cao. Julia gợi ý tôi nên nhập viện. Tôi có thể thấy nỗi hoang mang trong ánh mắt con gái, nó làm tôi sợ hãi tột độ. Bất chấp những lời khẩn nài của người thân, tôi kiên quyết không đến bệnh viện vì sợ những điều đã thấy trên tin tức sẽ ứng nghiệm.

Sáng 21/3, một tuần sau khi bị bệnh, tôi liên lạc cho bác sĩ riêng. Tình hình trở nên nghiêm trọng, tôi gần như không thể nói và thở. Lúc này, bác sĩ nói rằng tôi phải nhập viện cấp cứu.

Chồng tôi, Scott, chở tôi vào một bệnh viện địa phương và tôi phải cách ly ngay. Tôi được dẫn vào căn phòng nhỏ. Nhân viên y tế dùng kim tiêm chọc vào người tôi hết lần này đến lần khác để làm các xét nghiệm và kiểm tra huyết áp. Họ đeo cho tôi máy khí dung và chụp X-quang phổi. Khi bác sĩ hỏi thăm tình trạng, tôi nói mình sợ và không thể thở được. Dù nhân viên y tế làm việc thuần thục bên cạnh, tôi vẫn cảm nhận rằng loại virus mới này chưa được y học khám phá.

Cắm đủ loại dây trên người, tôi nằm đợi kết quả xét nghiệm trong phòng kín trước khi chuyển vào phòng bệnh chính thức. Khi muốn đi vệ sinh, tôi phải nghiên cứu kỹ càng cách cắm các loại dây để có thể cắm chúng trở lại. Tôi xin một chiếc gối nhưng nhân viên y tế bảo không có. Không TV, không đồ ăn, nước uống, cánh cửa thì luôn đóng khiến tôi cảm thấy rất ngột ngạt.

Khi bác sĩ quay lại đem theo kết quả xét nghiệm, anh ấy bảo tôi chính thức được nhập viện. Với tôi, đây không phải tín hiệu tốt. Tôi tưởng suốt thời gian qua đã chống lại nCoV nhưng rồi nhận ra cuộc chiến thực sự mới bắt đầu.

Tất cả năm tháng kiên trì tập thể dục, không hút thuốc, ăn chay, uống vitamin cũng không thể ngăn chặn sự tấn công của loại virus mới. Nghĩ về gia đình, tôi cảm thấy ghét bỏ cơ thể mình vì đã chịu thất bại trước dịch bệnh.

Sau 10 tiếng chờ đợi, tôi được chuyển đến khoa tim mạch, nơi tôi được kiểm tra nhiều hơn. Chỉ số men gan không ngừng tăng cao. Ảnh chụp X-quang cho thấy phổi trái của tôi bị tổn thương nặng. 4h ngày 22/3, tôi có kết quả xét nghiệm dương tính với nCoV. Vì là giáo viên, tiếp xúc với nhiều học sinh, tôi đã gửi email báo cáo cho trường học để phụ huynh chú ý đến sức khỏe của con.

Bác sĩ khoa Hô hấp và khoa Truyền nhiễm cho biết đang theo dõi chặt chẽ tình hình bệnh và cân nhắc chuyển tôi đến khoa hồi sức tích cực (ICU), nơi tôi có thể được đặt máy thở. Là người mắc bệnh hen suyễn, một trong những nỗi sợ lớn nhất của tôi là không thể tự thở. Khi nghe bác sĩ thông báo, tôi cảm thấy sợ hãi, chỉ muốn tháo tung các dây dợ trên tay để bỏ trốn.

Maureen Boland chụp ảnh cùng chồng, Scott và hai con gái Julia và Caitlin. Ảnh: Maureen Boland.

Gia đình tôi rơi vào trạng thái căng thẳng. Mọi người muốn chuyển tôi đến bệnh viện thuộc Đại học Pennsylvania vì có khu vực riêng điều trị Covid-19. Tuy nhiên, hai bệnh viện đều từ chối do tình trạng của tôi sẽ nguy hiểm hơn nếu di chuyển.

Chồng vẫn bình tĩnh động viên tôi. Con gái, anh rể, cháu gái của tôi về nhà chuẩn bị đồ dùng cần thiết để mang vào viện. Mặc dù tôi biết nhân viên y tế và gia đình đang cố gắng hết sức, tôi vẫn cảm thấy đơn độc trong cuộc chiến chống lại Covid-19.

Nằm trong phòng bệnh, tôi tưởng như đang ở trong bể cá. Tôi có thể thấy bác sĩ và nhân viên y tế thảo luận về bệnh tình của mình qua lớp kính. Chúng tôi liên lạc bằng chiếc điện thoại đặt cạnh giường. Khi vào phòng, bác sĩ đeo khẩu trang, kính và quần áo bảo hộ.

Phần đáng sợ nhất là phương pháp điều trị liên tục phải thay đổi vì không ai hiểu rõ về Covid-19. Ban đầu, tôi được cho sử dụng steroid để ngừa viêm nhiễm, rồi bị loại bỏ vì Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh Mỹ (CDC) cảnh báo steroid không thể ngăn Covid-19. Tôi được cho dùng máy khí dung để thở tốt hơn nhưng rồi lại bị loại bỏ vì nó không phù hợp.

Gia đình tranh luận với bác sĩ việc có nên cho tôi dùng thuốc hydroxychloroquine, loại thuốc được cho có tiềm năng điều trị Covid-19. Một ngày sau khi phối hợp dùng với kháng sinh, tình hình của tôi đã chuyển biến tích cực. Tôi có thể thở tốt hơn, chỉ số chức năng gan trở lại bình thường. Tôi đã thoát khỏi cửa tử trong gang tấc.

Tối 2/4, tôi được về nhà tự điều trị. Cơ thể tím bầm, bốc mùi sau nhiều ngày không tắm. Tôi đang từ từ hồi phục trong khi ngoài kia số ca qua đời không ngừng tăng. Giờ đây, tôi tự hỏi các bệnh nhân khác trên thế giới liệu có được tiếp cận với y tế và may mắn như mình hay không. Những vết thâm tím trên tay và bụng do kim và tiêm tĩnh mạch IV gây nên nhắc nhở tôi rằng việc được chăm sóc y tế là rất quan trọng và chúng ta thật mong manh tại thời điểm này.

Tú Anh (Theo The Philadelphia Inquirer)

Thánh ca:Thập Giá Đẫm Nước Mắt Trời Cao (khóc vì đại dịch corona)

httpv://www.youtube.com/watch?v=Il7SazWdmK0

Thánh ca:Thập Giá Đẫm Nước Mắt Trời Cao (khóc vì đại dịch corona)

Bước vào tuần Thương Khó của Chúa Giêsu (tuần thánh).

Xin chia sẻ với quí vị video ca khúc: Thập Giá Đẫm Nước Mắt Trời Cao

 – Khóc vì bệnh nhân trong giờ hấp hối mà không có người thân bên cạnh.

– Khóc vì những nhân y tế vì lây nhiễm mà chết vì phục vụ.

– Khóc vì thương nhân loại đang đau khổ vì đại dịch.

 Kính chúc quí vị tuần thánh bằng an và thánh thiện.

Phạm Trung