Những người không chịu lùi bước trước nghịch cảnh
Bút ký của Đoàn Thanh Liêm
* * *
Hồi đầu tháng 8 năm 2013 mới đây, tôi được nhà báo Thanh Thương Hoàng
dẫn đi tham dự một buổi trình diễn văn nghệ thật là đặc sắc diễn ra tại Trung
tâm Hội Nghị của thành phố Santa Clara gần với San Jose. Các nghệ sĩ trình
diễn đều là những người khuyết tật, người thì cụt hết cả cánh tay mặt như
nhạc sĩ Thế Vinh, người thì bị mù lòa như nhạc sĩ Hà Chương, người thì bị
câm ngọng từ hồi còn nhỏ tuổi như ca sĩ Thủy Tiên v.v… Cử tọa hôm đó gồm
đến 600 người ngồi chật kín cả cái sảnh đường được trang trí như là một rạp
hát và mọi người đều nhiều lần đứng lên vỗ tay tán thưởng các mục trình
diễn thật điêu luyện xuất sắc cùa những nghệ sĩ khuyết tật này – mà có người
mới từ trong nước qua, lại có người đã định cư lâu năm tại nước ngoài.
I – Từ chương trình văn nghệ “Ngọc Trong Tim” của Việt Nam đến các cuộc
thi đua thể thao “Special Olympics” của Mỹ.
Buổi trình diễn văn nghệ nói trên là một trong những tiết mục sinh họat được
tổ chức lưu động tại nhiều địa điểm trên thế giới, nơi có đông bà con người
Việt sinh sống. Chương trình này nhằm giới thiệu tài năng và cố gắng luyện
tập hết sức công phu bền bỉ của những người khuyết tật hầu đạt tới trình độ
cao về nghệ thuật sáng tác và trình diễn âm nhạc cũng như trong một số bộ
môn khác. Chương trình có tên gọi là “Ngọc Trong Tim” ngụ ý diễn tả cái
kho tàng quý báu vẫn còn chứa chất trong trái tim con người – cụ thể như
tấm lòng trắc ẩn cảm thông trước nỗi khổ đau của người khác – mà đặc biệt là
sự quan tâm chăm sóc đến sự phát triển tài năng của lớp người bị thua thiệt
do số phận ngặt nghèo của tật nguyền gây ra. Điển hình là Trung tâm Hướng
Dương do nhạc sĩ Thế Vinh thiết lập ở Bình Dương để giúp nơi ăn chốn ở và
hướng dẫn việc học tập cho các em khuyết tật.
Chương trình “Ngọc Trong Tim” này làm chúng ta nhớ đến tổ chức “Special
Olympics” (Thế vận hội Đặc biệt) dành riêng cho người khuyết tật tham gia
thi đua tranh tài về thể thao tại nhiều thành phố trên đất Mỹ. Chương trình
này xuất phát là nhờ ở sáng kiến vận động và tổ chức khôn khéo của bà
Eunice Kennedy Shriver (1921 – 2009) là người em gái của Tổng Thồng
Kennedy – mà cũng là phu nhân của ông Sargent Shriver (19 15 – 2011)
người lãnh đạo tài ba tiên khởi của chương trình Peace Corps nổi tiếng của
chính phủ Mỹ bắt đầu từ năm 1961.
Khỡi sự từ năm 1968 – các cuộc tranh tài Special Olympics này đã được nâng
lên tầm mức quốc gia không những tại nước Mỹ, mà còn được nhiều nơi trên
thế giới mô phỏng theo nữa. Và hiện nay thì các người con của ông bà
Shriver cũng đang tiếp nối góp phần vào việc điều hành chương trình này.
Cố gắng vượt qua sự hạn chế của tật nguyền do các nghệ sĩ cũng như các
vận động viên thể thao nói trên mà thực hiện được – thì rõ rệt đã làm cho
chúng ta nhớ lại nhận xét thật sâu sắc của cụ Nguyễn Du qua câu thơ trong
Truyện Kiều, đó là :
Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều.
II – Chuyện về một số người “bất chấp bệnh tật”.
Trên đây là một số chương trình có tầm vóc lớn dành riêng cho số đông
người khuyết tật có thể tham gia trong lãnh vực văn nghệ cũng như thể thao.
Nhưng trong đời sống thường ngày của các cá nhân, ta vẫn thấy có rất nhiều
người đã có những cố gắng bền bỉ phi thường để vượt qua được những
nghịch cảnh trớ trêu của số phận – mà tôi xin ghi lại dưới đây một số trường
hợp của những người trong số thân quen gần gũi với mình.
Trong số những bạn hữu tôi quen biết, thì cũng có khá nhiều người có ý chí
vươn lên để vượt qua được nghịch cảnh do tuổi già hay do tật bệnh gây ra.
Bài viết này xin được ghi lại một số chuyện “người thật, việc thật” của vài ba
người mà tôi được biết từ bấy lâu nay. Và để công chúng được biết thêm về
các chuyện đáng chú ý này, tôi xin các bạn được nói đến trong bài cho phép
tôi được tiết lộ đôi chút trong cuộc sống riêng tư của mỗi người. Xin được
ghi trước ở đây lời cảm ơn chân thành đến các bạn.
1 – Tác giả Nguyễn Công Luận vẫn không ngừng công việc nghiên cứu biên
khảo, dù đã đau bệnh từ 25 năm nay.
Sau khi đi tù “cải tạo” về nhà ít lâu, thì Thiếu tá Nguyễn Công Luận mắc
chứng bệnh Parkinson run rảy chân tay, đi đứng khó khăn. Nhưng anh vẫn
kiên trì nhẫn nại theo đuổi công việc nghiên cứu sáng tác của mình – nhất là
từ khi qua định cư ở bên Mỹ anh được tự do viết lách và phổ biến công trình
biên sọan của mình. Anh được mời làm Phụ tá Chủ biên (Associate Editor)
cho bộ sách dày 1,200 trang có tên là “The Encyclopedia of the Vietnam
War” (Bách khoa Tòan thư về cuộc chiến tranh Việt nam) xuất bản năm 1998
– trong đó anh đã tham gia viết đến cả chục bài.
Và đặc biệt là cuốn Hồi ký do anh Luận viết trực tiếp bằng Anh ngữ trên 600
trang do nhà xuất bản Đại học Indiana ấn hành năm 2012. Cuốn sách này đã
được nhiều người Mỹ vốn am hiểu tình hình Việt nam và nhất là các sĩ quan
cao cấp trong Quận đội Mỹ ca ngợi nhiệt tình. Về phía người Việt, thì đã có
nhà văn Mặc Giao ở Canada và cả tôi cũng đã viết bài giới thiệu cuốn Hồi ký
này với độc giả trước đây nữa. Tác giả Nguyễn Công Luận sẽ giới thiệu cuốn
Hồi ký nhan đề “ Nationalist in the Vietnam Wars ” này với công chúng tại
San Jose vào đầu tháng 10 năm 2013 sắp tới.
2 – Nhà báo Trương Gia Vy vẫn lo điều hành tuần báo Viet Tribune và còn
tham gia công tác từ thiện nhân đạo, dù bị bệnh tật ngặt nghèo.
Từ nhiều năm nay, dù bị bệnh phải thay lọc máu mỗi ngày, mà nhà báo
Trương Gia Vy vẫn sát cánh cùng với phu quân là nhà văn Nguyễn Xuân
Hòang trong việc điều hành tờ báo Viet Tribune ở San Jose. Vào đầu tháng 8
mới đây, khi được tin anh Hòang bị đau nặng, tôi đã tìm cách đến thăm anh
chị tại nhà riêng ở thành phố Milpitas – thì tôi thấy anh Hòang tuy đau yếu
gày còm, nhưng vẫn còn bình tĩnh tỉnh táo và chuyện trò vui vẻ với bạn hữu
đến thăm. Thế nhưng anh cho biết hiện lúc đó là vào 10 giờ sáng ngày thứ
Bảy mà bà xã Gia Vy vẫn còn đang phải lo việc lọc máu mỗi ngày.
Ấy thế mà vào chiều ngày Chủ nhật hôm sau, tôi lại thấy Gia Vy có mặt tham
gia với Ban Tổ chức chương trình “Ngọc Trong Tim” tại Santa Clara
Convention Center như đã ghi ở trên. Nhà báo Thanh Thương Hòang – là
người đã từng sinh sống nhiều năm ở San Jose – cho tôi biết : “Trương Gia
Vy là người phụ nữ rất năng nổ tích cực trong công tác từ thiện nhân đạo –
mặc dầu chị bị bệnh tật lâu ngày và lại rất bận rộn trong việc điều hành tờ
báo. Mà nay lại còn phải lo chăm sóc cho ông xã cũng đang bị chứng bệnh
nan y nữa. Đó quả thật là một con người có ý chí nhẫn nại và tấm lòng nhân
ái – đáng ca ngợi trong cộng đồng người Việt tại khu vực miền Bắc
California này…”
3 – Họa sĩ Trần Bản Anh đến khi về hưu ở tuổi 70 mới ghi tên đi học vẽ.
Chị Bản Anh theo học ban Trung học tại trường Quốc Học ở Huế từ cuối thập
niên 1940 qua đầu những năm 1950. Sau khi lập gia đình, chị đi làm nhiều
năm tại Bộ Kinh tế ở Saigon. Qua Mỹ đầu năm 1990 với diện HO theo ông
xã là anh Dương Công Liêm trước 1975 là Đại tá ở Cục Công Binh. Anh chị
vẫn tiếp tục đi làm ở thành phố Los Angeles và sau năm 2000 mới về nghỉ
hưu và hiện định cư ở San Jose.
Chừng 7 – 8 năm nay, chị Bản Anh mới đi theo học về hội họa theo lối Tàu
với một giáo sư người Trung quốc. Nhận thấy chị có năng khiếu đặc biệt, nên
ông thày ra sức khuyến khích và tận tâm chỉ dẫn cho chị. Và từ vài ba năm
gần đây một số bức tranh của chị đã được ông thày tuyển chọn để gửi đi triển
lãm ở bên Đài Loan. Kết quả là họa sĩ Bản Anh của chúng tôi đã mấy lần
nhận được bằng khen của Ban Tổ chức cuộc triển lãm cũng như của chánh
quyền của một thành phố bên đó.
Vốn tính khiêm tốn, chị không để cho giới nhà báo phỏng vấn để viết bài ca
ngợi thành công của một họa sĩ nghiệp dư ở lứa tuổi đã cao. Mà chị chỉ để
cho các bạn hữu thân thiết đến thưởng thức tác phẩm hội họa của mình tại
nhà trong chỗ riêng tư, âm thầm kín đáo mà thôi. Vì thế, mặc dầu là chỗ quen
biết gần gũi với anh chị đã lâu, tôi cũng chưa được chị gửi cho ảnh chụp bức
tranh nào của chị để mà giới thiệu với công chúng bạn đọc được.
III – Chính khí ngất trời của Tổng Đốc Hoàng Diệu (1828 – 1882).
Lịch sử nước ta đã ghi lại rất nhiều tấm gương đẹp đẽ tuyệt vời của những vị
anh hùng lẫm liệt đã hy sinh xả thân mình trong cuộc tranh đấu bảo vệ đất
nước trước sự xâm lăng của ngọai bang. Một trong những vị anh hùng đó là
Tổng Đốc Hòang Diệu – ông đã tự kết liễu đời mình khi quân Pháp xâm lược
đánh chiếm được thành Hanoi do ông trấn giữ vào năm 1882. Ông đã tuẫn
tiết bằng cách tự treo cổ mình trên một cành cây – để tránh không cho quân
giặc bắt được vị chỉ huy pháo đài thành lũy.
Vì thế mà sau này trong dân gian nhiều nơi bà con ta vẫn truyền tụng bài thơ
“Hà Thành Chính Khí Ca”- để ca ngợi tấm gương tiết tháo anh hùng của ông.
Chuyện của ông có chi tiết này mà chỉ gần đây tôi mới được biết đến – đó là
do một hậu duệ của cụ Phạm Phú Thứ thuật lại. Xin lược ghi lại như sau :
Khi được triều Huế cử ra nhậm chức Tổng Đốc Hà Thành ngòai miền Bắc, cụ
Hoàng Diệu đã đến thăm và vấn kế bậc đàn anh và cũng là người đồng hương
từ đất Quảng Nam với mình : đó là cụ Phạm Phú Thứ người đã cùng với cụ
Phan Thanh Giản đi sứ qua Pháp vào năm 1864 để bàn thảo chuyện thương
thảo ngọai giao giữa hai nước Việt và Pháp sau khi quân Pháp đánh chiếm đất
Nam Kỳ vào năm 1860 – 61. Cụ Phạm lúc đó đã nghỉ hưu, nhưng cũng giúp
cụ Hoàng bằng cách phân tích chi tiết về tương quan thế lực giữa bên Việt
nam và bên phía quân Pháp. Cụ Phạm kết luận là nhiệm vụ của vị Tổng Đốc
Hà Thành thật là nặng nề khó khăn lắm đấy.
Cuộc hội kiến giữa hai cụ Hòang và Phạm chấm dứt. Trước khi vị khách ra
về, hai vị chủ và khách đều “LạyTạ nhau” lúc từ biệt. Xin ghi rõ là hai cụ
Lạy Tạ nhau, chứ không phải là vái, là xá nhau theo như lối chào hỏi xã giao
thường lệ. Vì lý do là cả hai cụ đều biết rõ là vị Tổng Đốc Hà Thành sẽ phải
đi vào chỗ chết, vì không có cách nào mà chống trả nổi thế lực quá ư hùng
hậu mạnh mẽ của quân Pháp. Và đó là cử chỉ bày tỏ sự Vĩnh biệt giữa hai
người bạn thân thiết quý trọng lẫn nhau. Mà cũng đúng như lịch sử đã ghi lại
rành rành là : “Tổng Đốc Hòang Diệu đã phải tuẫn tiết sau khi Hà Thành thất
thủ về tay quân xâm lược – lúc ông mới có ngoài 50 tuổi.”
Thành ra cụ Hoàng Diệu, dù biết trước nỗi hiểm nguy của chức vụ trấn thủ
thành Hanoi, thì cụ cũng không hề nhát gan khiếp nhược để mà thóai thác cái
nhiệm vụ này. Mà trái lại cụ vẫn lên đường và sẵn sàng đi vào cõi chết để giữ
vững tiết tháo trung trinh của bản thân mình đối với đất nước – cũng như để
bảo tồn được danh dự cho giống nòi.
Vào năm 1928, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Tổng Đốc Hoàng Diệu
(1828 – 1928), nhà báo Phan Khôi là người cháu ngọai của cụ đã cho phổ
biến rộng rãi trên báo chí nguyên văn bài hùng sử ca “Hà Thành Chính Khí
Ca” – mà trước đó chỉ mới được phổ hạn chế trong dân gian theo lối truyền
khẩu mà thôi.
Nhân tiện cũng xin ghi là khí phách rạng ngời của nhà báo kỳ cựu Phan Khôi
trong vụ đòi tự do dân chủ thời phong trào Nhân Văn Giai Phẩm hồi năm
1955 – 1957 ở miền Bắc – thì chắc chắn là phải bắt nguồn từ cái truyền thống
anh hùng bất khuất của Vị Tổng Đốc Hà Thành vốn là ông ngọai của nhà
báo. Quả thật Phan Khôi là một hậu duệ rất xứng đáng của Tổng Đốc Hòang
Diệu vậy/
Costa Mesa California, Mùa Vu Lan Quý Tỵ 2013
Đoàn Thanh Liêm