ÔM LẤY NÓ! – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
“Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt!”.
“We Are the World”, “Chúng Ta là Thế Giới”, một ca khúc Michael Jackson và Lionel Richie viết. Một đĩa đơn “thu hút sự chú ý chưa từng có của quốc tế về châu Phi” ghi âm năm 1985 với sự góp giọng của hơn 45 siêu ca sĩ; đạt doanh số hơn 20 triệu bản, thu hơn 75 triệu dollars quỹ giúp châu Phi. “Chúng ta là thế giới, hãy học biết chia sẻ!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Nói rằng “Chúng ta là thế giới, hãy học biết chia sẻ!”, khác nào nói, hãy ‘Ôm lấy thế giới!’. Vậy mà, Lời Chúa hôm nay cảnh báo, đó là một thế giới ‘đầy cỏ!’; một thực tế vừa xót xa vừa đáng mừng! Tại sao? Cỏ ở khắp mọi nơi, nhưng lòng thương xót của Thiên Chúa còn nhiều hơn cỏ; nó bao phủ cả thế giới! Quan trọng hơn, bạn và tôi được kêu gọi để ‘ôm lấy nó’ và cho phép Thiên Chúa ‘ôm nó’ qua chính mình!
Nếu coi lúa tốt là tất cả những gì Chúa Kitô dạy thì thế giới ngày nay có rất nhiều điều trái nghịch Kitô giáo; nói cách khác, lắm cỏ! Cỏ thậm chí sinh sôi nhiều hơn và dễ thấy hơn lúa. Vậy không lẽ Chủ Mùa cho phép cỏ át lúa? Không đâu! Chúa Giêsu nói, “Cha trên trời cho mặt trời mọc trên kẻ xấu và người tốt!”. Vì thế, khi thấy cỏ hầu như ở khắp mọi nơi, chúng ta không nản chí; trái lại, cứ ‘ôm lấy nó’, để Vương Quốc Đức Kitô hiện diện trong đó, ít nữa là ‘thế giới quanh mình!’.
Cần nhớ, cỏ luôn luôn có và nó sẽ có cho đến tận thế! Tập trung vào lúa, đừng tập trung vào cỏ! Tập trung vào cỏ, chúng ta có thể rơi vào phê phán hoặc rút lui khỏi những tương tác với ai không nhìn mọi thứ như chúng ta nhìn; và như thế, trở nên tiêu cực, đánh mất hy vọng và niềm vui. Không! Tình yêu kêu gọi chúng ta không chỉ thấy ‘những gì đang có’ nhưng còn mời gọi chúng ta thấy ‘những gì có thể!’. Mẹ Têrêsa nói, “Tôi tin rằng, Thiên Chúa yêu thương thế giới qua chúng ta!”. Vậy tôi có cho phép Thiên Chúa yêu nó qua tôi, và tôi có cùng Ngài ‘ôm lấy nó’, một thế giới đáng thương?
Thật trùng hợp, điều chúng ta được mời gọi cũng là điều Giêrêmia đã sống! – bài đọc một. Giêrêmia không nguyền rủa dân, một Israel phản nghịch; trái lại, ông ôm lấy dân! Đúng hơn, Giêrêmia cho phép Thiên Chúa qua ông, ôm lấy Israel, “Hãy cải thiện lối sống và hành động của các ngươi, Ta sẽ cho các ngươi lưu lại nơi này!”. “Nơi” của Chúa là ‘đất Hứa’, là đền thờ, là “Cung điện khả ái” như Thánh Vịnh đáp ca hoài niệm.
Anh Chị em,
“Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt!”. “Mùa gặt” là ‘mùa xót thương!’. Với Chủ Mùa, ‘cỏ thành lúa’ vẫn là điều có thể. Lòng thương xót là nguồn gốc và động lực của mọi cuộc hoán cải. “Lòng thương xót là gì nếu không phải là tình yêu vô bờ của Thiên Chúa, Đấng đã đương đầu với tội lỗi của con người, kiềm chế xung năng của công lý nghiêm khắc, và để cho mình ‘bị lay động’ bởi sự khốn khổ của các tạo vật vốn thúc đẩy đến toàn bộ, đến nỗi trao cả món quà của bản thân, Con Một, trên thập giá!” – Gioan Phaolô II. Cả chúng ta, hãy ước ao thật nhiều về một kinh nghiệm tái tạo của lòng thương xót, để có thể cùng Chúa ‘ôm lấy nó’, một thế giới đáng thương hơn là đáng ghét!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, để có thể ôm lấy một thế giới ‘ít lúa, lắm cỏ’, tiên vàn, xin ân sủng Chúa hoán cải tâm hồn con; nhờ đó, nó ‘đầy Chúa’ và ‘sạch cỏ!’”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
From: KimBang Nguyen
*******************
Thứ Bảy Tuần XVI, Mùa Thường Niên, Năm Chẵn
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.
Khi ấy, Đức Giê-su trình bày cho dân chúng nghe dụ ngôn sau đây : “Nước Trời ví như chuyện người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. 25 Khi mọi người đang ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng vào giữa lúa, rồi đi mất. 26 Khi lúa mọc lên và trổ bông, thì cỏ lùng cũng xuất hiện. 27 Đầy tớ mới đến thưa chủ nhà rằng : ‘Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao ? Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy ?’ 28 Ông đáp : ‘Kẻ thù đã làm đó !’ Đầy tớ nói : ‘Vậy ông có muốn chúng tôi ra đi gom lại không ?’ 29 Ông đáp : ‘Đừng, sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. 30 Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt : Hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi’.”
MỘT MÌNH – Lang Thang Chiều Tím
Lang Thang Chiều Tím
“Một Mình” là một trong những ít nhạc phẩm của người nhạc sĩ tài ba Lam Phương viết riêng cho mình. Lúc sáng tác, ông chỉ đơn giản trút nỗi niềm u uẩn qua những vần thơ nốt nhạc, có điều ông không ngờ bài hát “Một Mình” được nhiều người ưa thích và trở thành một lời tiên tri buồn cho chính bản thân mình. “Sớm mai thức giấc, nhìn quanh một mình, ngoài hiên nắng lóe, đàn
chim giật mình…” đây có thể là nỗi sợ không chỉ một mình Lam Phương. Ai cũng sợ một mình, dù giàu hay nghèo, già hay trẻ, đàn ông hay đàn bà, khỏe mạnh hay bịnh tật… Dù là bất chợt một khoảng khắc một mình, một quãng đời tạm một mình, hay cả đời một mình…. thì cái một mình nào cũng đáng sợ. Với người Á Đông, từ nhỏ đã quen sống chung đụng với anh chị em, cha mẹ, ông bà… thì cái một mình cô đơn mới đáng sợ hơn. Vậy một mình có thật sự đáng sợ không?
Từ thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã mời gọi con người một mình đi vào sa mạc để trong cõi hoang tịch cô liêu đó con người có thể nghe được tiếng tỏ tình từ trời cao “Này ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình.” (Hs 2,16). Trong cõi một mình của Lam Phương phủ đầy những nỗi niềm u uất, những trằn trọc giãy giụa muốn thoát ra khỏi cái một mình cô đơn đang bủa vây xung quanh, đang một mình nhưng không muốn một mình, muốn bay vút ra khỏi “ngoài hiên nắng lóe” rực rỡ ngoài kia, muốn có ai đó ở bên kia hàng hiên nghe được tiếng lòng của mình“biết lời tỏ tình, đã có người nghe….?” Còn trong sa mạc của Kinh Thánh là một sa mạc tĩnh lặng, ngọt ngào, ngập tràn những tiếng lòng thổn thức lãng mạn mà chỉ khi một mình bước chân vào đó mới nghe được “Vào ngày đó…. ngươi sẽ gọi Ta: “Mình ơi,” chứ không còn gọi “Ông chủ ơi” nữa.” (Hs 2,18). Một sa mạc mở rộng vòng tay mời gọi con người một mình tự do tự tại bước vào để sống chậm lại, để cảm nhận “lời Ngài đã hứa, ngọt ngào hơn mật ong trong miệng” (TV 119, 103), để “nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy, hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người!” (TV 34, 9). Hàn Mạc Tử khi một mình cô đơn đau đớn vì bịnh tật thay vì oán hận số phận hẩm hiu lại tha thiết mời gọi thế nhân “Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều, để nghe dưới đáy nước hồ reo; để nghe tơ liễu run trong gió, và để xem trời giải nghĩa yêu… (Đà Lạt trăng mờ). Vì chỉ khi một mình trong thanh vắng tôi mới nghe, mới xem, mới cảm và mới nếm được những điều kỳ diệu mà Thiên Chúa đang muốn mạc khải cho.
“Nắng xuyên qua lá, hạt sương lìa cành, đời mong manh quá, kể chi chuyện mình, nắng buồn cuộc tình, bỗng tắt bình minh…” Cõi một mình của Lam Phương giăng đầy những nỗi buồn da diết kể về cuộc đời mong manh, là những giọt nước mắt khóc cho tình yêu dễ tan, là những tiếc nuối con người dễ quên, là cái nhìn ảm đạm cho một tương lai tăm tối sầu lo. Lam Phương không hận, chỉ là những lời trách nhẹ nhàng bâng quơ “đường xưa quen lối, tình dối người mang,” buồn cho phận mình long đong lận đận “tình duyên trăm mối, một kiếp đa đoan,” những nỗi buồn kế tiếp nỗi buồn. Một nỗi buồn không chia sẻ được với ai, buồn lại càng thêm buồn, may mà có những nốt nhạc vần thơ nói lên được cõi lòng đơn côi của ông. Ngược lại, cõi một mình trong sa mạc với Thiên Chúa là những hoan ca rộn ràng của hai tâm hồn có dịp gặp gỡ trò chuyện hàn huyên, là những nức nở buồn vui, cũng có những giọt nước mắt nuối tiếc cho những lầm lỡ sa ngã đã qua, sau đó là những vỗ về ủi an tha thứ, là những khích lệ nâng đỡ, là những lời tỏ tình mật ngọt… “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương” (Gr 31,3). Và đoạn kết của một chuyện tình đẹp là một kết thúc có hậu với “một hôn ước vĩnh cửu. Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh và chính trực, trong ân tình và xót thương.” (Hs 2,21).
Nghe rồi mới hiểu tại sao phải đi vào sa mạc cô tịch, tại sao phải là một mình, phải lắng đọng, phải thinh lặng mới nghe được những lời tỏ tình mật ngọt rất nhỏ kia. Nếu Lam Phương không buồn, không một mình, không cô đơn thì chắc chắn sẽ không có nhạc phẩm bất hủ “Một Mình.” Nếu tôi không chọn một mình, không đi vào sa mạc, không rũ áo với những tiếng ồn tất bật xung quanh, biết tôi có nghe được gì chăng cho dù Chúa vẫn nói? Một mình không phải để viết nhạc như Lam Phương, làm thơ như Hàn Mạc Tử, nhưng một mình để mở lòng hướng về trời cao, trao ban cho Thiên Chúa cái tự do để Ngài muốn viết nên những vần thơ, điệu nhạc gì lên linh hồn tôi thì túy ý Ngài. Khi một mình là lúc trở về với chính mình, tôi mới nhận ra có một niềm khắc khoải trong hồn muốn tìm về cội nguồn Chân Thiện Mỹ, mới nghe được những khao khát sâu kín trong trái tim mình.
Trong Tân Ước, Chúa Giêsu trước khi bắt đầu cuộc đời công khai, Ngài đã lui vào sa mạc để ở một mình 40 ngày. Trước khi chọn 12 tông đồ, Ngài cũng đi vào cõi một mình và “Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (Lc 6,12). Sau những phép lạ, những lúc rao giảng mệt mỏi, Ngài lánh riêng ra một mình, khi thì “sáng sớm, lúc trời còn tối mịt,” hoặc “chiều đến.” Trước khi bước vào cuộc tử nạn, Giêsu cũng đi vào cõi một mình trong vườn Cây Dầu cầu nguyện suốt đêm cho tới khi binh lính đến bắt Ngài. Trong ba năm rao giảng và huấn luyện các tông đồ, Giêsu cũng buộc các ông sau những ngày bận rộn với đám đông, rao giảng, chữa lành… thì lánh riêng ra một chỗ nghỉ ngơi, cầu nguyện, tránh xa thế gian ồn ào… Đôi khi, Thầy Giêsu cũng phải dùng tới biện pháp mạnh là “đem các ông đi riêng với mình…” (Lc 9,10).
Như vậy một điều dễ nhận thấy là Giêsu thích ở một mình! Khi tôi một mình ở với Giêsu Một Mình thì không còn là một mình nữa. Hai cái một mình thì là hai rồi, không còn là một nữa. Một mình ở với Giêsu không phải là cái một mình của cô đơn, lo lắng, tiếc nuối như cái một mình của Lam Phương, mà đó là cái một mình đáng yêu của Hàn Mạc Tử, trong đau đớn thể xác vẫn rung động với cảnh vật, vẫn nghe được Trời giải nghĩa yêu…
Một chiều thứ Sáu trên đồi Canvê năm xưa, có ba người tử tội bị hành hình trên ba cây thập tự giữa một đám đông ồn ào huyên náo, la hét, người cười kẻ khóc, người đau khổ tiếc thương, kẻ hả hê đắc chí….
Tử tội thứ nhất, tên cướp không ăn năn, khi sống hắn đã chọn con đường gian ác cô độc lẻ loi, ai ai cũng sợ hãi kinh khiếp tránh xa. Đến gần với sự chết, hắn vẫn tiếp tục ngoan cố một mình giãy giụa trong sự dữ luôn miệng nguyền rủa và một mình đi vào cõi chết trong giận dữ, oán hận… Cái một mình kinh hoàng của bóng đêm sự dữ, thiếu vắng bóng dáng tình yêu mặc dù Thiên Chúa Tình Yêu đang ở ngay cạnh bên.
Tử tội thứ hai, tên trộm lành, cũng như bạn mình đã sống cuộc đời của một tên cướp ác ôn. Nhưng khi đối diện với thần chết, hắn lại mở lòng để nhìn ra những lầm lỡ sai trái của mình, mở mắt để nhìn thấy người tử tội bên cạnh là người vô tội bị án oan, dám mở miệng để mắng tên đồng bọn ngu ngốc, và khiêm nhường để xin sự tha thứ… Và hắn đã được mãn nguyện! Hắn không cô đơn một mình đi vào cõi chết! Người bạn mới tử tù Giêsu đã nắm tay cùng đồng hành với hắn đi về một nơi mà hắn chỉ biết lơ mơ “Nước của ông,” với một lời hứa bao người mơ ước: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 23, 43b).
Tử tội cuối cùng, Giêsu thành Nazaret, trong ba năm rao giảng làm bao nhiêu phép lạ cả thể, xung quanh lúc nào cũng có đám đông lớn nhỏ tung hô vạn tuế, với 12 tông đồ, 72 môn đệ, đến khi hấp hối chỉ còn một mẹ, một trò và vài người đàn bà khác dưới cây thập giá. Lúc này đây có lẽ tử tội Giêsu mới thấm thía hai chữ một mình. Một mình không nhất thiết là khi chỉ có một mình. Một mình giữa đám đông với những tiếng la hét, nguyền rủa… Một mình đang bị nhấn chìm từ từ với những cánh tay giơ lên “Đóng đinh nó vào thập giá!” Một mình mới thấm thía cảm giác bị đệ tử thân tín phản bội, bị trò yêu chối bỏ, bị cả thế gian lên án. Và cái đáng sợ nhất là cảm giác bị Người Cha yêu dấu bỏ rơi, để rồi trong hơi tàn sức kiệt trước khi chết, Giêsu đã phải thốt lên “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15:34b). Cái một mình này mới thật đáng sợ! Chúa Giêsu trên cây thập giá đã đi đến tận cùng của một mình cô đơn, bị kết án, bỏ rơi, nguyền rủa… Có ai hiểu cảm giác một mình lẻ loi bị bỏ rơi cho bằng Giêsu?
Sống là chuẩn bị cho chuyến đi cuối cùng! Trong chuyến đi đó dù muốn hay không ai rồi cũng phải một mình ra đi. Cho dù có vạn người khóc, triệu người thương, nhà nhà tiễn đưa… nhưng không ai có thể cùng đồng hành với tôi trong chuyến đi đó. Chỉ một mình tôi sẽ độc hành trong chuyến đi cuối cùng này. Chỉ một mình tôi sẽ ra trước tòa phán xét của Đấng Tối Cao. Chỉ một mình tôi thôi! Một mình lúc đó mới thật đáng sợ! Vậy sao ngay bây giờ tôi không tập sống một mình với Giêsu để Ngài sẽ cùng đồng hành với tôi trong chuyến đi cuối cùng như Ngài đã từng đồng hành với tên trộm lành trong chuyến đi cuối cùng của hắn. Và tôi sẽ không bơ vơ một mình trước tòa phán xét vì đã có Giêsu bênh đỡ cho tôi.
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã yêu thích một mình, xin cho con biết sắp xếp thời gian bận rộn của mình để bước vào cõi tĩnh lặng với Chúa mỗi ngày, để làm bạn với Ngài ngay từ bây giờ để rồi con không phải một mình cô đơn trong cuộc sống này, không một mình trong chuyến đi cuối cùng, và chắc chắn sẽ không một mình lạc lõng trước tòa phán xét Chúa trong ngày sau hết. Amen!
Lang Thang Chiều Tím
Chúa đặt niềm tin vào yếu đuối của chúng ta – Lm GB Phương Đình Toại
Thánh Giacôbê (James)Tông Đồ.
CƠN KHÁT LƯƠNG THỰC – TGM Giu-se Vũ Văn Thiên
TGM Giu-se Vũ Văn Thiên
Trong bối cảnh xã hội hiện tại, khi có những cuộc xung đột căng thẳng ở nhiều cấp độ, thậm chí chiến tranh đã và đang xảy ra ở một vài quốc gia châu Âu, một thuật ngữ được lặp đi lặp lại thường xuyên, đó là “an ninh lương thực.” Đây là một nhận định và cũng là cảnh báo của các nhà chuyên môn, khi thấy các cuộc cấm vận và những mâu thuẫn chính trị tại một số quốc gia vẫn đứng hàng đầu trong việc cung cấp lương thực cho thế giới. Nỗi lo cơm bánh vẫn luôn ám ảnh con người, kể cả trong xã hội được gọi là “hiện đại và phát triển” của chúng ta. Cơn khát lương thực luôn hiện hữu trong cuộc sống, cá nhân cũng như tập thể.
Lời Chúa của Chúa nhật hôm nay xoay quanh đề tài bánh ăn, hay lương thực, ở những khía cạnh khác nhau:
Trước hết, đức tin Do Thái giáo và Ki-tô giáo đều khẳng định: Thiên Chúa là nguyên lý của mọi phúc lành. Ngài ban cho mưa thuận gió hòa và những điều kiện thuận lợi để cung cấp bánh ăn cho con người. Tác giả thánh vịnh đã diễn tả: “Lạy Chúa, muôn loài ngước mắt trông lên Chúa, và chính Ngài đúng bữa cho ăn. Khi Ngài rộng mở tay ban, là bao sinh vật muôn vàn thoả thuê” (Đáp ca). Đức tin nói với chúng ta: những gì chúng ta đón nhận hằng ngày, những nhu cầu căn bản cho cuộc sống vật chất cũng như tinh thần đều là ân huệ Chúa ban. Chúa Giê-su đã quả quyết: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Lc 6,33). Ý niệm cầu nguyện với Ông Trời và các thần linh để được mưa thuận gió hòa luôn luôn có trong tiềm thức và niềm tin bình dân của người Việt chúng ta. Bài đọc I kể lại một phép lạ Thiên Chúa đã thực hiện qua trung gian ngôn sứ Ê-li-sa. Với hai mươi chiếc bánh lúa mạch và chút cốm, vị ngôn sứ đã truyền cho tiểu đồng phân phát cho cả trăm người, mà vẫn còn dư. Lòng tín thác cậy trông vào Chúa là điều kiện để phép lạ xảy ra.
Đức tin Ki-tô giáo cũng dạy chúng ta: sống trên đời, nếu chúng ta may mắn có được một cuộc sống ổn định hay dư dả về vật chất, đó là của Chúa ban, và chúng ta chỉ là người quản lý. Thiên Chúa mới là sở hữu chủ chính thức của tài sản trên thế gian. Vì vậy, mọi người tùy theo khả năng của mình, đều được mời gọi chia sẻ cho anh chị em. Bác ái chia sẻ là một điểm nhấn nổi bật trong giáo huấn của Chúa Giê-su và của Giáo hội. Ngôn sứ Ê-li-sa đã lấy hai mươi chiếc bánh người ta tặng cho ông vào thời điểm nạn đói đang hoành hành. Ông không giữ cho riêng mình, nhưng chia sẻ cho mọi người, và phép lạ đã xảy đến qua nghĩa cử chia sẻ rộng rãi đó. Thánh Gio-an kể lại trong Tin Mừng: trong đoàn người đến nghe Chúa Giê-su giảng dạy, có một em bé mang theo năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá. Em bé ấy đã vui vẻ chia sẻ những gì mình có cho mọi người, và phép lạ đã diễn ra. Đương nhiên, phép lạ đến từ quyền năng Thiên Chúa, nhưng lại dựa trên sự chia sẻ và cộng tác của con người. Nếu hiểu mỗi người chỉ là người quản lý tài sản Chúa trao, và sau này chết chẳng mang theo được, thì người ta sẽ dễ dàng chia sẻ cho anh chị em. Nếu các nước giàu chia sẻ cho các nước nghèo, thì lương thực trên thế giới sẽ đủ nuôi mọi người và nạn đói sẽ không còn hoành hành ở một số quốc gia châu Á và châu Phi nữa.
Cùng với những giáo huấn về chia sẻ, Lời Chúa hôm nay hướng chúng ta về lương thực thiêng liêng Chúa ban cho các tín hữu. Câu chuyện ngôn sứ Ê-li-sa và sự kiện Chúa Giê-su làm phép lạ nhân bánh ra nhiều đều là hình ảnh của Bí tích Thánh Thể. Trong đêm tiệc ly, Chúa Giê-su đã thiết lập Bí tích Thánh Thể. Người đã biến bánh thành Mình và rượu thành Máu Người. Đây không phải là biểu tượng, cũng không phải là nghĩa bóng, mà là một thực tại. Bí tích Thánh Thể, hay sự hiện diện của Chúa Giê-su trong Hình Bánh Rượu là tín điều, tức là điều phải tin đối với các Ki-tô hữu.
Sau cùng, Phụng vụ hôm nay dạy chúng ta sống mầu nhiệm Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là mầu nhiệm của sự hiệp thông, hiệp thông với Chúa và với anh chị em mình. Thánh Phao-lô trong Bài đọc II đã nói đến sự liên kết gắn bó giữa các Ki-tô hữu. Vị Tông đồ dân ngoại đã dùng hình ảnh của một thân thể, để diễn tả cộng đoàn Ki-tô hữu. Để có sự hiệp thông đích thực, thánh nhân khuyên các tín hữu Ê-phê-sô: “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại: hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng nhau…” Vâng, bác ái, hiệp thông, chia sẻ… đó là những thông điệp mà Đức Giê-su đang hiện diện trong Bí tích Thánh Thể muốn nói với chúng ta.
Thánh Tê-rê-sa Can-cút-ta là một mẫu gương của thời đại chúng ta về lòng yêu mến Thánh Thể. Trong đời sống cũng như trong sứ mạng, Mẹ đã khơi nguồn sức mạnh từ Nhà Tạm, nơi Chúa Giê-su hiện diện. Đối với Mẹ Tê-rê-sa, Thánh Thể chính là tình yêu hy tế mà Thiên Chúa dành cho chúng ta, để được ăn vào và tiêu hóa, và trở thành một phần trong con người chúng ta. Khi chúng ta đón rước Thánh Thể, thì chúng ta được Thiên Chúa ban sức mạnh để yêu mến những người khác, với cùng tình yêu mà Đức Ki-tô đã bày tỏ cho chúng ta. Bằng cách này, Bí tích Thánh Thể giúp chúng ta mang tình yêu của Đức Ki-tô đến với người nghèo, và cảm nhận được sự hiện diện của Người nơi những người ấy.
Thánh nữ đưa ra một lời khuyên rõ ràng: “Tôi xin bạn hãy đến gần hơn với Thánh Thể và Đức Giê-su … Hỡi các linh mục giáo xứ, xin các cha yêu cầu các giáo dân chầu Thánh Thể trong các nhà thờ của mình bất cứ ở đâu có thể được. Hãy chầu Thánh Thể ít nhất mỗi tuần một lần, sao cho sự dịu hiền của tình yêu có thể phát triển trong tâm hồn các cha, hầu chia sẻ tình yêu ấy cho những người khác.”
TGM Giu-se Vũ Văn Thiên
From: Langthangchieutim
CHUNG CHÉN – Lm. Minh Anh, Tgp Huế
Lm. Minh Anh, Tgp Huế
“Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?”.
“Cám dỗ của Kitô giáo không có thập giá – một Giáo Hội nửa vời không muốn đến nơi Chúa Cha muốn – là cám dỗ của chủ nghĩa chiến thắng. Ngày nay, chúng ta muốn chiến thắng mà không đi qua thập giá. Nhưng đó là một chiến thắng hoàn toàn thế tục, mà với nhiều người, nó là một chiến thắng hợp lý!” – Phanxicô.
Kính thưa Anh Chị em,
Tin Mừng lễ kính thánh Giacôbê tông đồ đặt chúng ta trước một tình huống; đúng hơn, một cám dỗ ‘không có gì lạ’ trong các cộng đồng Kitô giáo khác nhau, “Cám dỗ chiến thắng mà không đi qua thập giá!”; đang khi Chúa Giêsu lại muốn chúng ta ‘chung chén’ với Ngài, “Các con có uống nổi chén Thầy sắp uống không?”.
Thật vậy, Giacôbê và Gioan đã rất rộng lượng khi bỏ lại gia đình và chài lưới để đi theo Chúa Giêsu. Họ đã nghe Ngài công bố một Vương Quốc với lời hứa ban sự sống đời đời; thế nhưng, họ vẫn không hiểu được chiều hướng mới mẻ Ngài đặt ra. Chính vì điều này mà mẹ của họ đã yêu cầu Ngài một điều gì đó ‘đủ tốt’ nhưng ‘không vượt quá một tham vọng đơn giản’ của con người – chiến thắng – “Xin Thầy truyền cho hai con tôi đây được ngồi, một người bên hữu, một người bên tả Thầy trong Nước Thầy!”. Chúa Giêsu trả lời, “Các người không biết các người xin gì! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?”, Ngài thách thức họ cùng Ngài ‘chung chén!’.
Tương tự như vậy, bạn và tôi lắng nghe Chúa Giêsu, bước theo Ngài như các môn đệ đầu tiên, nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng hiểu hết sứ điệp của Ngài. Bởi lẽ, một đôi khi, dẫu ở đấng bậc nào, chúng ta vẫn thường làm theo sở thích và tham vọng cá nhân của mình. Chúng ta quên rằng, khi đón nhận Chúa, chúng ta phải phó mình hoàn toàn cho Chúa, tuyệt đối tin tưởng vào Ngài; và rằng, chúng ta không thể nghĩ đến việc đạt được vinh quang nếu không chấp nhận thập giá.
Câu trả lời Chúa Giêsu đưa ra cho họ nhấn mạnh chính xác khía cạnh này: để được tham dự vào Vương Quốc, điều quan trọng là phải uống ‘chung chén’ của Ngài, tức là sẵn sàng cống hiến sức lực của mình, sống vì tình yêu Thiên Chúa và hiến thân đến cùng để phục vụ tha nhân với một thái độ thương xót như Ngài đã thể hiện.
Trong bài giảng đầu tiên ở triều đại mình, Đức Phanxicô nhấn mạnh rằng, để theo Chúa Giêsu, chúng ta phải vác thập giá, bởi vì “Khi chúng ta bước đi mà không có thập giá, khi chúng ta tuyên xưng một Đức Kitô mà không có thập giá, khi chúng ta xây dựng mà không có thập giá… chúng ta là những người trần tục; chúng ta là Giám mục, Linh mục, Hồng y, Giáo hoàng nhưng không phải là môn đệ Chúa Kitô!”.
Anh Chị em,
“Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?”. Gẫm suy những lời này, thánh Gioan Kim Khẩu viết, “Chúa bảo, ‘Hãy nói cho Ta về những vinh quang và những chiếc vương miện!’; tôi nói với Ngài, ‘Lạy Chúa, không đâu! Chỉ toàn xung đột và lao nhọc. Vì đây không phải là mùa khen thưởng!’”. Quả thế, cuộc sống theo Chúa Giêsu là một cuộc sống uống ‘chung chén’ của Ngài, là đi con đường hiến thân phục vụ và hiến dâng mạng sống như Ngài. Bởi lẽ, đây không phải là mùa khen thưởng!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, để con được biến đổi, xin giúp con biết tận dụng ân sủng Chúa ban; nhờ đó, con trở nên một môn đệ đích thực chứ không là một con người trần tục!”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp Huế)
From: KimBang Nguyen
********************
Ngày 25 tháng 7
Kính Thánh Giacôbê Tông Đồ,
Thứ Năm Tuần XVI, Mùa Thường Niên
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.
20 Khi ấy, bà mẹ của các con ông Dê-bê-đê đến gặp Đức Giê-su, có các con bà đi theo; bà bái lạy và kêu xin Người một điều. 21 Người hỏi bà: “Bà muốn gì ?” Bà thưa: “Xin Thầy truyền cho hai con tôi đây được ngồi, một người bên hữu, một người bên tả Thầy trong Nước Thầy.” 22 Đức Giê-su bảo: “Các người không biết các người xin gì ! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không ?” Họ đáp: “Thưa uống nổi.” 23 Đức Giê-su bảo: “Chén của Thầy, các người sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được.”
24 Nghe vậy, mười môn đệ kia tức tối với hai anh em đó. 25 Nhưng Đức Giê-su gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. 26 Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. 27 Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. 28 Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.”
HÀNH TRÌNH TỐI MỊT – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
“Maria!”.
“Đẹp biết bao khi nghĩ rằng lần hiện ra đầu tiên của Chúa Phục Sinh – theo Tin Mừng – đã diễn ra một cách cá nhân như vậy! Rằng có ai đó biết chúng ta, thấy nỗi đau khổ và thất vọng của chúng ta, người ấy xúc động vì chúng ta và gọi tên chúng ta!” – Phanxicô.
Kính thưa Anh Chị em,
Đó là tất cả những gì đã xảy ra với Maria Mađalêna, chứng nhân đầu tiên của Đấng Phục Sinh mà hôm nay Hội Thánh mừng kính. Maria – người được trừ bảy quỷ – đã đi ra mộ Chúa từ sáng sớm khi trời còn tối mịt; nhưng trước khi nhận ra Thầy, Maria đã phải trải qua một ‘hành trình tối mịt’ khác cho đến khi nghe ai đó gọi tên mình, “Maria!”.
Trước khi nhận ra Chúa Giêsu, Maria vẫn ở trong bóng đêm tối mịt của chiều thứ Sáu; không chỉ một Giêsu đã chết mà thi hài của Ngài dường như cũng bị đánh cắp! May thay, Maria được dẫn dắt dần dần để bước ra khỏi sự u minh tâm linh này khi ‘Ai đó’ gọi tên cô, mở mắt cô, cho cô nhận ra Thầy mình. Vậy mà, ngay khi khoảnh khắc tuyệt vời đó xảy ra, Maria vẫn phải vượt qua một sự thật khác: Thầy không còn như trước! Quan hệ với Chúa Giêsu của Maria đã đổi thay! Vậy là phải bắt đầu một hành trình mới – một ‘hành trình tối mịt’ khác – có tên là ‘hành trình của Thánh Thần!’.
‘Hành trình tối mịt’ của Maria là một chứng tá sẽ truyền cảm hứng cho tất cả chúng ta. Dù ít người bị bảy quỷ ám như cô, nhưng tất cả chúng ta đều bị dày vò cách này cách khác. Tất cả chúng ta đều phạm tội; tất cả chúng ta đều có một quá khứ khiến chúng ta hối tiếc. Và tất cả chúng ta đều được mời gọi trở nên tốt hơn. Cuộc sống “tốt hơn” của Maria là một cuộc sống được trao ban cho Chúa Giêsu cách trung thành nhất. Cô không quan tâm liệu binh lính có nhìn thấy cô dưới chân thập giá. Cô không quan tâm liệu lính tráng có quấy nhiễu cô khi cô đến mộ để xức dầu cho xác Thầy – cô chỉ nghĩ đến hành động yêu thương cuối cùng mà cô có thể dâng lên Ngài. Và khi nhìn thấy Chúa Giêsu sống lại và nghĩ rằng Ngài là người làm vườn, cô không quan tâm liệu Ngài có thấy trái tim đau khổ và nước mắt ứa tràn của cô – cô chỉ muốn nhìn thấy thi thể của Chúa cô.
Vì lòng trung thành không lay chuyển của cô – dẫu cô đang cất bước trong một ‘hành trình tối mịt’ – Chúa Giêsu đã ban cho cô một món quà ngoài sức tưởng tượng. Ngài hiện ra với cô và sai cô đi làm tông đồ cho các tông đồ.
Anh Chị em,
“Maria!”. Tiếng gọi đích danh với âm vực quen thuộc của “Người Làm Vườn” đã khiến cho trái tim của Maria giật thót, vì “Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi”. Nếu thuở địa đàng, sự chết đã đến với loài người trong một khu vườn; thì nay, sự sống đã trở lại với nhân loại cũng trong một khu vườn! Vui biết bao, ‘lần hiện ra đầu tiên’ của Chúa Phục Sinh đã diễn ra theo ‘cách cá nhân’ đến thế! Một ‘Ai đó’ biết tôi, nhìn thấy những khổ đau, thất vọng của tôi đến nỗi Ngài xúc động và gọi tên tôi! Không phải tôi đi tìm Chúa, nhưng thật phi thường, Chúa đi tìm tôi ngay trong ‘hành trình tối mịt’ của tôi! Ngài quan tâm đến cuộc sống của tôi, Ngài nuôi dưỡng nó; Ngài chết đi và sống lại để cứu nó.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, để có thể gặp Chúa và loan truyền Ngài, cho con biết hoán cải và ra đi từ ‘cái tôi’ của con, dẫu đó là một sự khởi đi khá khó khăn và khá tăm tối, nhưng nó nhất định cần thiết!”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
From: KimBang Nguyen
***************
Ngày 22 tháng 7
Lễ kính Thánh Nữ Maria Mađalêna,
Thứ Hai Tuần XVI, Mùa Thường Niên
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
1 Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. 2 Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói : “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.”
11 Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ, 12 thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giê-su, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. 13 Thiên thần hỏi bà : “Này bà, sao bà khóc ?” Bà thưa : “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu !” 14 Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giê-su đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giê-su. 15 Đức Giê-su nói với bà : “Này bà, sao bà khóc ? Bà tìm ai ?” Bà Ma-ri-a tưởng là người làm vườn, liền nói : “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.” 16 Đức Giê-su gọi bà : “Ma-ri-a !” Bà quay lại và nói bằng tiếng Híp-ri : “Ráp-bu-ni !” (nghĩa là ‘Lạy Thầy’). 17 Đức Giê-su bảo : “Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ : ‘Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em’.” 18 Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi báo cho các môn đệ : “Tôi đã thấy Chúa”, và bà kể lại những điều Người đã nói với bà.
Nhờ thập giá… Người đã tiêu diệt sự thù ghét. (Ep 2:16)- Cha Vương
THẢ TÔI NẰM NGHỈ – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
“Trong đồng cỏ xanh tươi, Người thả tôi nằm nghỉ!”.
“Mọi vấn đề của nhân loại đều bắt nguồn từ việc con người không biết nghỉ ngơi!” – Blaise Pascal.
Kính thưa Anh Chị em,
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta khám phá tầm quan trọng của việc nghỉ ngơi. Sau khi thi hành sứ vụ, các tông đồ thấm mệt, trở về; Chúa Giêsu bảo, “Các con hãy lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút!”. Tâm tình của Thánh Vịnh đáp ca thật phù hợp, “Trong đồng cỏ xanh tươi, Người thả tôi nằm nghỉ!”.
‘Nghỉ ngơi trong Chúa’ có nghĩa là ‘cầu nguyện!’. Một trong những cám dỗ mà bất cứ Kitô hữu nào cũng có thể không chống nổi là muốn làm quá nhiều việc; và do đó – mỗi ngày một chút – xa Chúa dần! Về việc cầu nguyện – thời khắc Chúa ‘thả tôi nằm nghỉ’ – một trong những mối nguy lớn nhất là bạn có thể dễ dàng nghĩ rằng, có những việc lớn lao hơn, quan trọng hơn và cấp bách hơn cần làm, dẫn tới chỗ thiếu quan tâm đến ‘việc ở lại với Chúa’; và cho dẫu đó là việc của Chúa thì “Chúa vẫn luôn quan trọng hơn việc của Ngài!”. Vì lý do đó, Chúa Giêsu nói với các tông đồ – dù đã kiệt sức nhưng vẫn phấn khởi vì mọi việc đã diễn ra quá tốt đẹp – rằng, họ phải nghỉ ngơi!
Để có thể ‘nghỉ ngơi trong Chúa’ đúng cách, bạn phải ‘ở lại với Chúa Giêsu’, người mà bạn sẽ trò chuyện. Hãy xác tín bạn đang ở với Ngài! Vì lý do này, mọi giờ cầu nguyện phải luôn luôn bắt đầu bằng việc ý thức sự hiện diện của Chúa, đây thường là phần khó khăn nhất. Thứ đến, bạn phải ‘ở một mình’ với Ngài, vì nếu thực sự muốn nói chuyện thân mật và sâu sắc với ai, chúng ta chọn ở một mình với họ.
Thánh Pierre Julian Eymard cảnh báo chúng ta về mối nguy ‘lấp đầy lời tạ ơn’ sau rước lễ bằng nhiều lời thuộc lòng. Ngài nói, “Sau khi rước Mình Thánh Chúa, điều tốt nhất nên làm là thinh lặng để Chúa Giêsu nói với chúng ta thay vì nói với Ngài về những kế hoạch và những dự án. Tốt hơn, hãy để Chúa Giêsu hướng dẫn và khích lệ bạn!”.
Ngài là hiện thân của Thiên Chúa Mục Tử – bài đọc một – Ngài rao giảng và làm các công việc Chúa Cha trao. Ngài không bỏ mặc những nhu cầu của đám đông, nhưng mỗi ngày, trước hết, Ngài rút lui để cầu nguyện trong thinh lặng, trong sự thân mật với Cha. Lời mời dịu dàng của Ngài – hãy nghỉ ngơi đôi chút – sẽ đồng hành với chúng ta mỗi ngày và mọi ngày.
Anh Chị em,
“Người thả tôi nằm nghỉ!”. Cầu nguyện, chiêm ngắm, sẽ là nơi mà lòng từ bi phát sinh. Nếu chúng ta biết cách nghỉ ngơi thực sự, chúng ta sẽ có khả năng từ bi thực sự; nếu chúng ta biết trau dồi một đời sống chiêm niệm, cầu nguyện, chúng ta sẽ thực hiện các hoạt động của mình mà không có thái độ tham lam của những kẻ muốn sở hữu và tiêu thụ mọi thứ. Nếu chúng ta giữ liên lạc với Chúa và không gây mê phần sâu thẳm nhất của mình, thì những việc phải làm sẽ không có khả năng gây kiệt sức hoặc nuốt chửng chúng ta. Hãy lắng nghe điều này, chúng ta cần một “bầu sinh thái của trái tim”, bao gồm sự nghỉ ngơi trong Chúa, chiêm ngắm Ngài, vì Chúa Giêsu đang muốn ‘thả tôi nằm nghỉ!’.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để sự hấp tấp chiếm lĩnh trái tim con; nhờ đó, con mới có thể lay động được các tâm hồn, để ý đến những vết thương và cả những nhu cầu của họ!”, Amen.
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
From: KimBang Nguyen
**************
CHÚA NHẬT XVI THƯỜNG NIÊN, NĂM B
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.
30 Khi ấy, các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giê-su, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. 31 Người bảo các ông : “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. 32 Vậy, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. 33 Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài. 34 Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.
CHỮA LÀNH THẦM LẶNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
“Nhóm Pharisêu bàn bạc để tìm cách giết Chúa Giêsu. Biết vậy, Ngài lánh khỏi nơi đó!”.
“Sẽ đến một lúc, không ai biết khi nào; sẽ có một nơi, không ai biết ở đâu. Nó đánh dấu số phận vinh quang hay tuyệt vọng của mỗi người! Và sẽ có một lằn ranh ẩn khuất giữa sự kiên nhẫn của Thiên Chúa và cơn thịnh nộ của Ngài. Nhưng với những ai tin vào một Đấng đời đời yêu thương, thì toàn bộ cuộc sống chỉ là một cuộc chữa lành thầm lặng!”.
Kính thưa Anh Chị em,
“Toàn bộ cuộc sống chỉ là một ‘cuộc chữa lành thầm lặng!’”. Ý tưởng của A. Alexander được gặp lại trong Tin Mừng hôm nay qua cách ứng xử tuyệt vời của Chúa Giêsu; “Ngài lánh khỏi nơi đó!” khi biết người ta đang tìm giết Ngài.
“Lánh khỏi nơi đó”, không phải vì Chúa Giêsu sợ, cũng không phải vì Ngài chưa chuẩn bị đủ; nhưng vì lòng người chưa sẵn sàng để đón nhận sứ điệp cứu độ. “Lánh khỏi nơi đó” nhưng Ngài vẫn tiếp tục chữa lành họ! Vậy “lánh khỏi nơi đó”, Chúa Giêsu đi đâu? Trước ác tâm của con người, có thể Ngài ra ngồi đâu đó, đùa vui với lũ sẻ! Bởi Ngài không thích báng bổ, cũng không muốn kích động một cuộc đối đầu. Mỗi khi thách thức ai, Chúa Giêsu muốn dẫn người đó đến chỗ suy gẫm sâu sắc hơn về bản thân họ và cuối cùng, là sự hoán cải. Đây không phải là lúc để thu hút, thuyết phục, Ngài “lánh khỏi nơi đó” chỉ để chờ đợi! Đó là một giai đoạn trong tiến trình chữa lành các linh hồn, ‘chữa lành thầm lặng!’.
Cả chúng ta, đôi khi bạn và tôi thấy mình có những bất đồng, thậm chí với những người thân. Khi những cảm xúc này dấy lên, rõ ràng là vì một hoặc cả hai bên chưa sẵn sàng cho sự thật… thì điều cần làm là hãy “lánh khỏi nơi đó” và đợi cho đến thời điểm mà trái tim chúng ta rộng mở hơn; cũng như chờ đợi người anh em không còn đóng chặt cánh cửa trái tim họ. Và điều này thật cần thiết trong chuỗi tiến trình chữa lành!
Bài đọc Mikha hôm nay cũng không nằm ngoài kế hoạch Thiên Chúa chữa lành dân Ngài; đúng hơn, ‘chữa lành thầm lặng’ những người giàu. Mikha lên tiếng cảnh báo những ai trục lợi trên người nghèo. Này rồi đây, kẻ thù sẽ tàn phá tất cả và “Đó sẽ là thời tai hoạ”, thời mà “Chúa không quên những người nghèo khổ!” – Thánh Vịnh đáp ca.
Trở lại với Tin Mừng, một chi tiết quan trọng cần lưu ý, “Dân chúng đông đảo theo Chúa Giêsu và Ngài chữa lành hết!”. Đừng nghĩ tất cả các cuộc chữa lành đều là vật lý! Không chỉ thế, Ngài chữa trị cả trí tri và linh hồn! Đó là những ai bị cuộc sống, thử thách và tội lỗi vùi dập… và ngày nay, Ngài vẫn tiếp tục chữa lành. Chúa Giêsu là thầy thuốc vĩ đại muốn cứu tất cả, dù là chữa lành công khai hay ‘chữa lành thầm lặng’.
Anh Chị em,
“Ngài lánh khỏi nơi đó!”. Chúa Giêsu, Đấng mà gió lẫn biển phải tuân lệnh và ma quỷ cũng phải khuất phục; thế mà trước con người, đôi khi, Ngài như thể chịu thua. Ngài nhân hậu, nhẫn nhịn, hiền lành; và thậm chí, chấp nhận trả một giá đắt – thập giá – để không chỉ trở nên Đấng chữa lành những con người mà còn là Đấng Cứu Độ Thế Giới. Cũng thế, nếu có thể “lánh khỏi nơi đó” như Chúa Giêsu mỗi khi cần thiết, các cuộc ‘chữa lành thầm lặng’ của bạn và tôi vẫn mang tính cứu độ thế giới!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, Đấng kiên nhẫn với con hơn ai hết! Cho con một đôi khi, cũng biết rời đi nơi khác, chờ đợi trái tim mở cửa, không chỉ tim anh chị em con mà cả trái tim con!”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
From: KimBang Nguyen
***********
Thứ Bảy Tuần XV, Mùa Thường Niên, Năm Chẵn
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.
14 Khi ấy, nhóm Pha-ri-sêu ra khỏi hội đường, bàn bạc để tìm cách giết Đức Giê-su.
15 Biết vậy, Đức Giê-su lánh khỏi nơi đó. Dân chúng theo Người đông đảo và Người chữa lành hết. 16 Người cấm họ không được tiết lộ Người là ai. 17 Như thế là để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a đã nói : 18 Đây là người Tôi Trung Ta đã tuyển chọn, đây là người Ta yêu dấu : Ta hài lòng về Người. Ta sẽ cho Thần Khí Ta ngự trên Người. Người sẽ loan báo công lý trước muôn dân. 19 Người sẽ không cãi vã, không kêu to, chẳng ai nghe thấy Người lên tiếng giữa phố phường. 20 Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi, cho đến khi Người đưa công lý đến toàn thắng, 21 và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Người.