CHÚA VÀ TÔI – Lm. Minh Anh (Tgp. Huế)
Lm. Minh Anh (Tgp. Huế)
“Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi?”.
Một cụ già có thói quen ngồi bất động hàng giờ cuối nhà thờ. Ngày kia, cha xứ đến hỏi Chúa nói gì với ông. Ông trả lời, “Không nói gì cả, Ngài chỉ nghe!”. “Vậy ông nói gì với Chúa?”. “Con chẳng nói gì cả, con cũng chỉ nghe!”. Cầu nguyện là nơi gặp gỡ của hai linh hồn trong thinh lặng và yêu mến.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta kiên trì cầu nguyện – không mệt mỏi, không ngã lòng – như bà goá kia lì ra trước nhà ông thẩm phán; hay tuyệt vời hơn – như cụ già nọ ngồi lặng ngắm Chúa. Cầu nguyện là sống mối tương quan thân tình giữa Cha với con, giữa bạn với bạn -giữa ‘Chúa và tôi!’.
Bài đọc Xuất Hành cho thấy Môsê, Aharon, Khua và Giosuê đang sống mối tương quan ấy. Môsê đưa tay lên, Giosuê chiến thắng; ông hạ tay xuống, Israel bại trận. Giản dị nhưng sống động; mộc mạc nhưng trìu mến. Thánh Kinh nói, Thiên Chúa coi Môsê như bạn – diện đối diện! Thế nhưng, trong thực tế, nhiều khi chúng ta cầu nguyện mà thấy Chúa xa cách, khấn xin mà Ngài như nín thinh. Tại sao? Vì tương quan giữa chúng ta với Chúa lỏng lẻo; chúng ta chưa thật sự sống mối tương giao Cha con, bạn hữu. Cầu nguyện là đi vào chiều sâu tương quan, để Chúa ở lại trong lòng mình. “Trong cầu nguyện, có một con tim không lời vẫn tốt hơn ngàn lời không có con tim!” – John Bunyan.
Từ câu chuyện cụ già, chúng ta có thể rút ra bốn cấp độ của cầu nguyện: “Tôi nói, Chúa nghe; Chúa nói, tôi nghe; không ai nói, cả hai đều nghe; và chẳng ai nói, không ai nghe” – Cầu nguyện chính là thinh lặng và yêu mến, đỉnh cao của tương quan giữa ‘Chúa và tôi’- nơi thinh lặng trở thành ngôn ngữ yêu thương. Thinh lặng ấy không phải là khoảng trống, nhưng là viên mãn của tình yêu, nơi không cần lời để hiểu, không cần âm thanh để hấp dẫn nhau. Ở đó, Thiên Chúa và con người gặp nhau trong hơi thở, trong nhịp tim, trong một tương giao vượt khỏi ngôn từ. “Cầu nguyện là cuộc gặp gỡ của hai thinh lặng!” – Thomas Merton.
Anh Chị em,
“Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi?”. Không! Thiên Chúa không bắt ai chờ đợi mãi, nhưng cầu nguyện là sự chờ đợi của linh hồn; không chỉ tôi tìm đến Chúa, nhưng là Ngài đánh thức tôi. Ở đó, mọi lời thưa hoá nên thừa, chỉ còn lại ánh nhìn, hơi thở, và sự hiện diện. Dần dần, tôi hiểu: cầu nguyện không nhằm để Chúa nghe tôi, nhưng để tôi nghe Ngài, để linh hồn tôi và linh hồn Ngài được tự do yêu mến. Và lúc ấy, mọi khoảng cách tan biến – chỉ còn ‘Chúa và tôi’, hai trái tim chung một nhịp đập, hai linh hồn chung một sự sống. Cầu nguyện không thay đổi Thiên Chúa, mà thay đổi cõi lòng chúng ta – Mẹ Têrêxa nói, “Hoa trái của cầu nguyện là đức tin. Hoa trái của đức tin là tình yêu. Hoa trái của tình yêu là phục vụ. Hoa trái của phục vụ là bình an!”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, khi tay con buông, xin tay Ngài đỡ; khi lòng con nguội, xin lửa Ngài cháy; khi con không còn lời nào, xin nói trong con bằng sự im ắng của Thánh Thần!”, Amen.
Lm. Minh Anh (Tgp. Huế)
************************************************
LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN, NĂM C
Thiên Chúa minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 18,1-8
1 Khi ấy, Đức Giê-su kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí. 2 Người nói : “Trong thành kia, có một ông quan toà. Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì. 3 Trong thành đó, cũng có một bà goá. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông : ‘Đối phương tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho.’ 4 Một thời gian khá lâu, ông không chịu. Nhưng cuối cùng, ông ta nghĩ bụng : ‘Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, 5 nhưng mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc’.”
6 Rồi Chúa nói : “Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó ! 7 Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao ? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi ? 8 Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ. Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng ?”
CHỦ NGHĨA ” MA-KÊ-NÔ” TRONG ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG – Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
(Suy niệm Chúa Nhật truyền giáo)
Sứ điệp : Diệt trừ bệnh vô cảm thiêng liêng để hăng hái lên đường dẫn đưa anh chị em lưu lạc về đoàn tụ trong Gia đình Thiên Chúa.
***
Ma-kê-nô, một cách nói khôi hài và mỉa mai, rút ra từ cụm từ “mặc kệ nó”, ám chỉ thái độ sống vô cảm, vô tâm, không hề quan tâm đến phúc lợi của những người chung quanh.
Bệnh vô cảm hay chủ nghĩa ma-kê-nô tràn lan trong xã hội
Vô cảm là một đề tài được đề cập khá nhiều trên các trang báo Việt Nam hiện nay và được xem như một thứ bệnh dịch đáng sợ gây ra những tác hại to lớn cho đồng bào, cho quê hương, đất nước. Một số người chỉ quan tâm đến lợi ích và an toàn của mình mà thờ ơ với phúc lợi của những người chung quanh. Họ chủ trương: “đèn nhà ai nấy rạng”, “cháy nhà hàng xóm bình chân như vại”, “sống chết mặc bây” vv…
Báo chí gọi đó là bệnh vô cảm, là chủ nghĩa “ma-kê-nô” đang tràn lan trong xã hội chúng ta.
Điều đau lòng là vô cảm không chỉ là một căn bệnh xã hội mà còn là một thứ bệnh tinh thần của nhiều người con cái Chúa. Người đời thì vô cảm với nỗi đau buồn của đồng bào trong nước, còn một số Ki-tô hữu thì vô cảm trước những bất hạnh tinh thần của đông đảo anh chị em chung quanh mình.
Vô cảm với nỗi đau của Thiên Chúa Cha
Thiên Chúa là Người Cha rất mực tốt lành, ngày đêm ưu phiền khắc khoải vì đông đảo con cái yêu dấu của Ngài không nhận biết Ngài là Cha rất tốt lành và giàu lòng yêu thương; vì thế, họ ngoảnh mặt quay lưng lại với Cha, không nhìn nhận sự hiện hữu của Ngài. Trước tình trạng nầy, Thiên Chúa đau khổ xiết bao!
Dầu vậy, nhiều người con trong nhà Cha vẫn thờ ơ vô cảm trước nỗi lòng thổn thức đau khổ của Cha, miễn là hiện nay mình được an vui hạnh phúc trong Nhà Cha là được rồi.
Vô cảm với cảnh bơ vơ lạc lối của anh chị em mình
Là những người con trong nhà Cha, chúng ta được diễm phúc sống kề cận bên Cha, được Cha ấp ủ bằng tình phụ tử ngọt ngào, được Cha dưỡng nuôi bằng những lời khôn ngoan do Chúa Giê-su mang từ trời xuống, được Chúa Thánh Thần là Thầy khôn ngoan soi đường dẫn lối, được Đức Maria là Mẹ hiền bao bọc chở che bằng tình mẫu tử thiêng liêng trìu mến, được đón nhận vô vàn ân sủng qua các Bí Tích… Chúng ta cũng giống như những phú hộ sung túc trong đời sống thiêng liêng. Thế nhưng chúng ta lại tỏ ra dửng dưng vô cảm với những anh chị em ruột thịt con cùng một Cha trên Trời, không được diễm phúc như mình.
Vì vô cảm, chúng ta không nói cho anh chị em ngoại đạo biết họ có một Người Cha giàu lòng yêu thương. Vì vô cảm, chúng ta không ra tay dẫn đưa những anh chị em lưu lạc về với Cha để cùng chung hưởng hạnh phúc với mình. Vì vô cảm, chúng ta cứ vui hưởng hạnh phúc của người con trong nhà, còn những anh chị em bất hạnh vì chưa được đoàn tụ trong Nhà Cha thì… “ma-kê-nô”, “sống chết mặc bây”, ta khỏi cần bận tâm!
Vô cảm trước lời thôi thúc mời gọi của Cha
Rất nhiều lần, Lời Cha qua miệng Chúa Giê-su vang dội trong tâm hồn chúng ta: “Hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá (Lc 5,4)”; “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần… Mt 28,19)”; “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. Anh em hãy ra đi.” (Lc 10,2)… Nhưng những lời thôi thúc mời gọi đó không gây được âm vang để lay động con tim vô cảm của chúng ta, không đủ mạnh để nhen lửa truyền giáo trong tâm hồn, mà chỉ như làn gió nhẹ thoảng qua mặt hồ rồi im bặt.
Chủ nghĩa “ma-kê-nô”
Hôm xưa, sau khi Ca-in thanh toán đứa em vô tội của mình, có tiếng Chúa từ trời vọng xuống hạch tội Ca-in. Ngài hỏi: “Ca-in, em ngươi đâu?”
Ca-in vô cảm trả lời: “Tôi đâu phải là người canh giữ em tôi!” (St 4,9), Ma-kê-nô!
Và hôm nay, nếu Chúa hỏi mỗi người chúng ta:
– “Con có biết lòng Cha ray rứt đau khổ ngày đêm vì có hơn 2 phần 3 nhân loại chưa hề biết Ta là Cha thật sự của họ không?” Trong trường hợp nầy, câu đáp đổi lại thành: “Ma-kê-you!” (Mặc-kệ-Cha)
– “Con có biết hiện nay có hơn 90 triệu đồng bào Việt Nam, là anh chị em ruột thịt của con, đang cần con nói cho họ biết mình có Cha trên trời hết lòng yêu thương họ và họ đang cần được con dẫn về đoàn tụ trong nhà Cha không?” Câu đáp cũng sẽ là: “Ma-kê-nô!”
Lạy Chúa Giê-su,
Trong hàng trăm thứ bệnh con người mắc phải thì bệnh vô cảm tinh thần là bệnh đáng sợ và làm cho Chúa đau buồn nhất. Xin giúp chúng con thoát khỏi căn bệnh tai hại nầy để hăng hái lên đường dìu dắt những anh chị em lạc xa nhà được sớm trở về đoàn tụ trong Đại Gia đình của Cha. Amen.
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
From: ngocnga_1& NguyenNThu
Việc lần chuỗi làm cho toàn bộ ngày sống của tôi bình an hơn- Cha Vương
CÙNG CÕI ĐỊA CẦU – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
“Chúa Giêsu chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Dù chỉ là một tân tòng – Luca được mừng kính hôm nay là một nhà truyền giáo, một sử gia, một tác giả lớn của hơn 1/4 sách Tân Ước. Như một công cụ sắc bén, Luca mang thông điệp cứu độ của Thiên Chúa đến mọi dân nước, mọi thế hệ ở ‘cùng cõi địa cầu’.
Tại Troa, thầy thuốc Luca xin trở lại, làm đồ đệ của Phaolô, “Chỉ một mình Luca ở với tôi!” – bài đọc một. Đồ đệ này đã cống hiến hai công trình nền tảng là Tin Mừng thứ ba và Công Vụ Tông Đồ – ‘nhật ký đầu đời’ của Giáo Hội. Không thể hiện sự am tường về niềm tin và tập tục, Luca chú tâm vào những gì cần cho lương dân: một Thiên Chúa xót thương, chữa lành. Chỉ Luca đề cập con số “72”; các Phúc Âm khác chỉ nói “Nhóm 12”. Vì thế, “Nhóm 72” là biểu tượng cho sự chuẩn bị mọi lương dân ở ‘cùng cõi địa cầu’. “Người thầy thuốc đích thực chữa lành linh hồn trước khi chữa lành thân xác!” – Hippocrates.
Chỉ với Luca, chúng ta nợ ngài về những kiến thức của mầu nhiệm Nhập Thể; các khoản rõ ràng như Magnificat, Benedictus và Nunc dimittis. Với biến cố Truyền Tin – Luca như thể thấp thỏm sau khuê phòng Maria trinh bạch – nơi Gabriel cho biết, cô sẽ là Mẹ Cứu Chúa. Và cũng chỉ với Luca, chúng ta nợ ngài về những gì xảy ra ở Lễ Ngũ Tuần; và sau đó, các hoạt động của Thánh Thần trong buổi lâm bồn của Hội Thánh. “Mầu nhiệm Nhập Thể khởi đầu trong tiếng thì thầm, và kết thúc trong cơn gió mạnh của Thần Khí!” – Fulton Sheen.
Các học giả khảo cổ đánh giá cao Luca. William Ramsay gọi “Luca là nhà sử học hạng nhất với những tuyên bố thực tế đáng tin cậy… được xếp với những sử gia vĩ đại nhất!”; E. M. Blaiklock, “Một sử gia xuất sắc, ngang hàng với các văn sĩ vĩ đại Hy Lạp!”; N. L. Geisler, “Luca kể tên 32 miền, 54 thành và 9 hòn đảo mà không một sai sót!”. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là trong sự nghiệp cầm bút, Luca không viết với tư cách sử gia mà là một nhà truyền giáo công bố sứ điệp lòng thương xót của Thiên Chúa và sự chữa lành của Ngài. Có truyền thống cho Luca là một hoạ sĩ; một tác phẩm nổi tiếng về Đức Maria được gán cho Luca. Vì thế, Luca được coi là thánh bảo trợ các nghệ sĩ và các bác sĩ.
Anh Chị em,
“Bảy mươi hai môn đệ khác!”. Chúng ta là những “môn đệ khác” được chỉ định và sai đi như “Kẻ hiếu trung với Chúa được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang” – Thánh Vịnh đáp ca. Hãy là “kẻ hiếu trung” giúp người khác nhận biết vinh quang Nước Chúa! Hãy cầu nguyện cho một ai đó, một số người nào đó; đừng ngần ngại trở thành một nhà truyền giáo với những phương tiện tuyệt vời ‘sẵn trên tay!’. Khi làm vậy, chúng ta có thể tạo nên ‘một sự khác biệt vĩnh viễn’ trong cuộc sống của một ai đó, ở một góc trời nào đó. Với Luca, bạn và tôi tiếp tục ra đi loan Tin Mừng cứu độ cho đến ‘cùng cõi địa cầu!’. “Được sai đi không phải là đi xa, nhưng là hiện diện thật gần!” – Henri Nouwen.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, cho con biết rằng, có thể con chỉ là một trong bảy mươi hai môn đệ, nhưng với ai đó, con có thể là người duy nhất!”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
********************************
Lời Chúa Kính Thánh LUCA, TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG, Thứ Bảy Tuần XXVIII Thường Niên
Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 10,1-9
1 Khi ấy, Chúa Giê-su chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. 2 Người bảo các ông : “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. 3 Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. 4 Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường. 5 Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói : ‘Bình an cho nhà này !’ 6 Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy ; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em. 7 Hãy ở lại nhà ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. 8 Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. 9 Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ : ‘Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông’.”
QUÝ HƠN MUÔN CHIM – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
“Đừng sợ, các con còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ!”.
Hầu hết các loài chim không tích trữ thức ăn, ngoại trừ một vài loài như gõ kiến, quạ Corvids và giẻ cùi. Ngay cả kền kền, chúng cũng không tha thịt rữa về tổ mà ựa ra từ diều để nuôi con. John Underhill nhận xét, “Chúng ta thường tích trữ những gì Chúa ban hôm nay vì không tin cậy Ngài sẽ chu cấp những gì cần vào ngày mai!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tiết lộ, không một tạo vật nào nằm ngoài sự chú ý của Cha trên trời. Vậy nếu Chúa quan tâm đến từng con sẻ nhỏ bé, thì huống chi bạn và tôi. Trong ánh mắt yêu thương của Ngài, chúng ta còn ‘quý hơn muôn chim!’.
Nhận thức điều này, chúng ta sống trong một niềm an ủi sâu sắc giữa những lắng lo, bất an. Vậy tại sao đôi khi chúng ta có cảm giác như Thiên Chúa khá xa cách hay thờ ơ? Hãy nhớ, đó chỉ là cảm giác! Thực tế là Ngài luôn quan tâm đến chúng ta nhiều hơn chúng ta quan tâm đến chính mình. Ngài thấy hết mọi chi tiết trong đời sống chúng ta; thậm chí từng sợi tóc trên đầu. Tuy nhiên, cũng có thể có nhiều lý do khác, có thể Ngài chọn im lặng như một cách để kéo chúng ta gần Ngài hơn; nhưng dù gì đi nữa thì mục đích luôn là dẫn chúng ta sống mối tương quan sâu sắc hơn với Ngài. Hoặc cũng có thể chúng ta đã không lắng nghe Ngài đủ hoặc không cầu nguyện đủ. “Sự im lặng của Chúa không bao giờ là vắng mặt!” – C.S. Lewis.
Thư Rôma hôm nay nhắc đến niềm tin của Abraham. Sau bao thử thách, đợi chờ, “Abraham đã tin Thiên Chúa, và vì thế, được kể là người công chính!”. Thánh Vịnh đáp ca cũng vang lên niềm cậy trông, “Chúa là nơi con ẩn náu, khắp bốn bề trổi vang những khúc ca mừng con được giải thoát!”. Điều này nhắc chúng ta rằng, niềm tin vào Chúa không chỉ là hy vọng, mà còn là sự tựa nương vững chắc. “Niềm tin là bước đi bước đầu dù chưa thấy toàn bộ bậc thang!” – Martin Luther King. Niềm tin không phải là biết tương lai ra sao, mà là biết Ai nắm giữ tương lai!
Anh Chị em,
“Các con còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ!”. Bạn và tôi ‘quý hơn muôn chim’ trước mắt Thiên Chúa. Vậy hễ khi nào cảm thấy tồi tệ về bản thân, thất vọng hay bi quan, hãy lùi lại, nhủ lòng về phẩm giá của mình, và tin rằng Thiên Chúa không bao giờ quên một ai! Hãy nhớ đến những người yêu quý của mình, chúng ta đâu ‘cần cố gắng’ để nhớ họ, nhưng Thiên Chúa nhớ đến mỗi chúng ta, chúng ta là ‘con ngươi’ mắt Ngài. Và điều này, dĩ nhiên, sẽ tạo nên một sự tự tin nhất định nơi những con trai con gái của Chúa! Chính nhận thức này sẽ mang đến cho chúng ta một niềm vui sướng trong bình an và sức mạnh để sống yêu thương, phục vụ khi tín thác tuyệt đối vào Ngài. “Hãy bình an trong sự thật về phẩm giá của mình và để điều đó mang lại cho bạn dũng khí!” – Joyce Meyer.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con thua cả loài kền kền, khi chỉ lo tích trữ và tha về những gì ‘thối rữa!’. Chúa biết con hơn con biết con, biết ‘sâu sắc đến từng chi tiết’ đời con!”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
************************************
Lời Chúa Thứ Sáu Tuần XXVIII Thường Niên, Năm Lẻ
Tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 12,1-7
1 Khi ấy, đám đông tụ họp hàng vạn người, đến nỗi giẫm lên nhau. Bấy giờ Đức Giê-su bắt đầu nói, trước hết là với các môn đệ : “Anh em phải coi chừng men Pha-ri-sêu, tức là thói đạo đức giả. 2 Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết. 3 Vì thế, tất cả những gì anh em nói lúc đêm hôm, sẽ được nghe giữa ban ngày ; và điều anh em rỉ tai trong buồng kín, sẽ được công bố trên mái nhà.
4 “Thầy nói cho anh em là bạn hữu của Thầy được biết : Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác, mà sau đó không làm gì hơn được nữa. 5 Thầy sẽ chỉ cho anh em biết phải sợ ai : hãy sợ Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào hoả ngục. Thật vậy, Thầy nói cho anh em biết : anh em hãy sợ Đấng ấy. 6 Năm con chim sẻ chỉ bán được hai hào, phải không ? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa. 7 Ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi. Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.”
ƠN GỌI THỪA SAI – TGM Giu-se Vũ Văn Thiên
TGM Giu-se Vũ Văn Thiên
Đại hội của Hội đồng Giám mục Việt Nam vừa tổ chức tại Đà Lạt từ ngày 06 đến ngày 10/10/2025 vừa qua. Trong Thư Chung gửi đến mọi thành phần Dân Chúa, các vị chủ chăn của Giáo hội Công giáo Việt Nam đề nghị một lộ trình ba năm (2026-2028) để thực hiện sứ vụ vô cùng quan trọng là loan báo Tin Mừng, hay là ơn gọi thừa sai. Theo thông lệ, Chúa nhật hôm nay là ngày cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo của Giáo hội. Khái niệm “truyền giáo” hay “loan báo Tin Mừng” dường như đã quá quen thuộc với chúng ta và nhiều người coi đó là một công thức khô cứng. Trong khi đó, ơn gọi thừa sai là bản chất của đời sống Giáo hội và của mỗi Ki-tô hữu chúng ta. Hơn nữa, một não trạng phổ biến nơi nhiều tín hữu, đó là việc truyền giáo là của các giám mục, linh mục và tu sĩ, còn người giáo dân chỉ là người lắng nghe và đón nhận. Đó là một quan niệm sai lầm do thiếu hiểu biết. Quan niệm này biến người tín hữu trở nên thụ động và ỷ lại, không nhiệt thành tham gia hoạt động của Giáo hội địa phương, nhất là hoạt động loan báo Tin Mừng.
Thừa sai là gì? “Thừa” là tiếp nhận; “Sai” là phái đi. Ơn gọi thừa sai cũng là ơn gọi truyền giáo. Khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, Ki-tô hữu được Chúa ban ba chức năng: Ngôn sứ, Tư tế và Vương đế. Chức năng Ngôn sứ chính là ơn gọi thừa sai, vì “Ngôn” là lời và “sứ” là được sai đi. Chúa sai chúng ta đi để nói Lời của Người. Đó cũng là lệnh truyền của Đấng Phục sinh: “Anh em hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20).
Tại sao lại gọi thừa sai là một “ơn gọi?” Vì đó là lời mời gọi của Chúa, đồng thời cũng là một vinh dự mà Chúa ban cho người tín hữu. Khi Chúa gọi và chúng ta thiện chí đáp lời, thì Chúa sẽ ban ơn cần thiết để chúng ta chu toàn sứ mệnh cao cả này. Chúng ta thường nghĩ đến khía cạnh “bổn phận” nhiều hơn là “vinh dự.” Loan báo Lời Chúa là một vinh dự lớn lao vì chúng ta làm cho người khác biết Chúa.
Làm sao có thể sống ơn gọi thừa sai hay có thể truyền giáo? Một điều kiện căn bản là chúng ta phải biết Chúa thì mới có thể giới thiệu Người cho người khác. Vì không ai cho người khác cái mình không có. Một Ki-tô hữu không thể nói về Chúa Giê-su, nếu người đó không biết hoặc chỉ biết lơ mơ về Người. Vì thế, để trở thành một nhà truyền giáo hay một thừa sai, cần phải học hỏi giáo lý, chuyên cần cầu nguyện để gặp Chúa Giê-su. Khi cầu nguyện là chúng ta “nói với Chúa,” khi rao giảng là chúng ta “nói về Chúa.” Hai khía cạnh này có mối tương quan mật thiết với nhau. Không thể nói về Chúa nếu trước đó không nói với Người.
Việc giới thiệu Chúa sẽ trở nên vô nghĩa nếu người giới thiệu không sống tương xứng với giáo huấn của Đấng mình rao giảng. Vì vậy, truyền giáo bằng chính cuộc đời là việc truyền giáo hữu hiệu nhất. Có tác giả đã so sánh đời sống người tín hữu với cuốn Kinh Thánh sống động, bằng xương bằng thịt, để người khác có thể đọc thấy Lời Chúa xuyên qua cuộc đời chúng ta. Khi chuyên chăm thực thi Lời Chúa, hình ảnh của Người sẽ trở nên sống động qua chính cuộc đời chúng ta, đến nỗi người khác có thể nhìn thấy Chúa nơi chúng ta.
Mọi tín hữu đều có ơn gọi thừa sai. Tùy theo lứa tuổi, khả năng học vấn và bậc sống, mỗi chúng ta đều có thể nói về Chúa trong hoàn cảnh cụ thể của mình. Đại hội Truyền giáo Á Châu lần thứ nhất tổ chức tại Thái Lan năm 2006. Trong một bài thuyết trình, linh mục Saturnimo Dias, Trưởng ban điều hành Đại hội đã nói như sau:”Đức Ki-tô sinh ra tại Á Châu và đã chết tại Á Châu… nhưng đối với người dân Á Châu, Chúa vẫn còn là một người xa lạ. Họ vẫn nhìn Ki-tô giáo như một tôn giáo Tây phương. Mặc dầu Ki-tô giáo được phát sinh tại Á Châu, nhưng số phận của tôn giáo này tại lục địa Á Châu vẫn chưa được may mắn lắm. Bởi vậy, cùng với đại hội Truyền giáo Á Châu lần này, chúng ta phải đưa Chúa Giê-su trở về với người dân Á Châu, phải kể cho họ những câu chuyện về Chúa Giê-su tại Á Châu, và làm cho họ nhận biết rằng Chúa Giê-su là người Á Châu.” Vâng, quả vậy, truyền giáo là kể câu chuyện về Chúa Giê-su, về đời sống, giáo huấn và cái chết của Người vì yêu thương nhân loại. Điều này ai cũng có thể làm được, nếu ý thức về sứ mạng thừa sai và trau dồi kiến thức để có thể thực hiện được sứ mạng cao cả ấy.
Ước chi mỗi Ki-tô hữu hiểu ơn gọi thừa sai và sống ơn gọi ấy trong mối tương quan với tha nhân, thể hiện qua lời nói, hành động cũng như chính bản thân mình.
TGM Giu-se Vũ Văn Thiên
From Langthangchieutim
LỊCH SỬ HỎNG HÓC – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
“Họ đã giết các vị ấy, còn các người thì xây lăng!”.
“Chưa bao giờ có một gương sáng đạo đức nào đáng kể nơi một người không tin; bởi lẽ, lỗ hổng trong tim họ không được lấp đầy bằng chính Chúa!” – Will & Ariel Durant.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay nói đến lịch sử một dân tộc không tin, một dân tộc dường như không có một gương sáng đạo đức nào đáng kể. Đó là ‘lịch sử hỏng hóc’ của Israel!
Lịch sử của Israel là một lịch sử từ chối Thiên Chúa, giết các tiên tri; đó là lịch sử của một dân không chung thuỷ, lạm dụng và vô ơn. Và nay, đến lượt con cháu các tiền nhân – những kẻ không tin Chúa Giêsu – đang làm điều tương tự; họ đi trên vết xe đổ của cha ông. Thế nhưng, tình yêu luôn lớn hơn sự bội bạc; Thiên Chúa luôn lớn hơn dân Ngài! Lịch sử của Israel là tấm gương phản chiếu ‘lịch sử hỏng hóc’ cuộc đời mỗi người chúng ta, cũng là một lịch sử bất trung, thất bại. Từ đó, chúng ta được thôi thúc để quay về với Chúa bằng việc sám hối. “Lịch sử là một tấm gương; khi nhìn vào đó, ta thấy cả thất bại lẫn lời mời gọi quay về!” – Madeleine L’Engle.
Một thiếu nữ lững thững đi vào thánh đường, ngồi trong góc tối. Một bà nội trợ đi vào, tay xách giỏ rau; bà quỳ gối vài phút, sau đó, bước ra. Cô gái sững sờ! Và ngần ấy đủ cho cô. Bà ấy đã cho cô thấy niềm tin công giáo có cơ sở như thế nào. Cô đứng dậy, hớn hở ra về. Chúa quan phòng đã đổ ân sủng để cứu linh hồn cô, một linh hồn đang hỏng hóc nổi loạn. Chỉ với gương sáng của một bà nội trợ, cô ấy đủ để trở thành một vị thánh của Đức, của châu Âu – một triết gia, một nhà thơ, một văn sĩ – được Gioan Phaolô II tôn phong ngày 11/10/1998. Đó là chị Thérèse Bénédicte Edith Stein dòng kín Carmel.
Qua thư Rôma hôm nay, Phaolô nói đến ‘lịch sử hỏng hóc’ của một nhân loại bất chính, nhưng đó cũng là lịch sử của xót thương, “Mọi người đã phạm tội, bị tước mất vinh quang Thiên Chúa!”; nhưng “Họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa… trong Đức Kitô”. Thánh Vịnh đáp ca thật ý tứ, “Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu độ nơi Người chan chứa!”.
Anh Chị em,
“Họ đã giết các vị ấy, còn các người thì xây lăng!”. Lịch sử Israel, lịch sử Edith Stein – những lịch sử được xót thương! Một dân tộc nhiều lần chối từ Thiên Chúa, giết các tiên tri, vẫn được Ngài thương xót; một thiếu nữ lạc lối, tâm hồn nổi loạn, từng mảnh hư hỏng trong lòng cô được ân sủng chữa lành và biến đổi. Cũng thế, bên trong mỗi người chúng ta luôn tồn tại một sự hỏng hóc. Vậy mà những thất bại, những sai lầm không kết thúc câu chuyện, nhưng mở ra cơ hội để ân sủng toả sáng. Hãy để Chúa viết nên một câu chuyện cứu độ trong đời mình; Ngài sẽ biến hỏng hóc, vết thương và thất vọng thành nguồn sống, hy vọng và lời tạ ơn. “Lịch sử cho thấy những thất bại của chúng ta, nhưng lòng xót thương Chúa luôn tìm cách cứu chuộc và chữa lành!” – Desmond Tutu.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, chớ gì lịch sử đời con, một lịch sử hỏng hóc, đầy những lỗ hổng được Chúa xót thương lấp đầy; và rồi, con cũng nên thánh. Tại sao không?”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
*************************************
Lời Chúa Thứ Năm Tuần XXVIII Thường Niên, Năm Lẻ
Thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu các ngôn sứ, từ máu ông A-ben đến máu ông Da-ca-ri-a.
✠ Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
47 Khi ấy, Đức Giê-su nói với mấy nhà thông luật rằng: “Khốn cho các người! Các người xây lăng cho các ngôn sứ, nhưng cha ông các người đã giết chết các vị ấy! 48 Như vậy, các người vừa chứng thực vừa tán thành việc làm của cha ông các người, vì họ đã giết các vị ấy, còn các người thì xây lăng.
49 “Vì thế mà Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã phán: “Ta sẽ sai Ngôn Sứ và Tông Đồ đến với chúng: chúng sẽ giết người này, lùng bắt người kia. 50 Như vậy, thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu tất cả các ngôn sứ đã đổ ra từ tạo thiên lập địa, 51 từ máu ông A-ben đến máu ông Da-ca-ri-a, người đã bị giết giữa bàn thờ và Thánh Điện. Phải, tôi nói cho các người biết: thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu.
52 “Khốn cho các người, hỡi những nhà thông luật! Các người đã cất giấu chìa khoá của sự hiểu biết: các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản.”
53 Khi Đức Giê-su ra khỏi đó, các kinh sư và các người Pha-ri-sêu bắt đầu căm giận Người ra mặt, và vặn hỏi Người về nhiều chuyện, 54 gài bẫy để xem có bắt được Người nói điều gì sai chăng.
Thiên đàng là gì?
Thiên đàng là gì?
Những ai chết trong ân sủng và ân nghĩa của Thiên Chúa và đã hoàn toàn được thanh tẩy sẽ sống muôn đời với Chúa Kitô. Họ sẽ mãi mãi giống như Thiên Chúa, vì họ thấy Ngài “đúng như Ngài là” (1Ga 3,2), “mặt giáp mặt”. (câu 1023 trang 322, Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo).
“Mắt chưa từng xem thấy, tai chưa từng nghe thấy, lòng trí con người chưa từng nghĩ tới, đó là tất cả những gì Thiên Chúa đã dành sẵn cho những ai yêu mến Ngài (1Cr 2,9) (câu 1027, trang 323, Sách đd)
Xin chỉ ghi lại nguyên văn trong sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo và với đức tin, con người tin có linh hồn, tin có Thiên Chúa toàn năng, và Thiên đàng là niềm hy vọng cuối cùng của con người chúng ta sau khi chết.
MẤT NIỀM VUI – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
“Các người chất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi!”.
Thoạt đầu, Chúa Trời định 30 năm là thời gian lý tưởng cho một số loài. Tuy nhiên, lừa, khuyển và khỉ nghĩ rằng, nhiều quá! Chúng xin giảm còn 18, 12 và 10. Loài người tham lam, xin thêm 40 năm thừa đó, nên sống đến 70. 30 “năm đầu” là của riêng nó; 18 “năm lừa”, nó phải gánh vô vàn nặng nhọc; 12 “năm khuyển”, nó làm ít nhưng lo nhiều; sau cùng, 10 “năm khỉ”, nó phát triển kỳ lạ, làm nhiều điều khiến trẻ em cười!
Kính thưa Anh Chị em,
Nếu Grimms cống hiến một câu chuyện thú vị về những gánh nặng tuổi tác, thì Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay cho thấy một gánh nặng khác – gánh lề luật – một gánh không gánh nổi mà giới thông luật đã chất lên dân Chúa, khiến tôn giáo ‘mất niềm vui’.
Thời Chúa Giêsu, luật sĩ là các chuyên gia giải thích lề luật rút ra từ Thánh Kinh. Chúa Giêsu cáo buộc họ về việc tuỳ tiện cắt nghĩa luật Chúa và ý muốn của Ngài. Với những thêm thắt, cắt xén của họ, lề luật thay vì giải thoát, lại trói buộc; thay vì yêu thương, lại lên án; thay vì cứu sống, lại giết chết. Đó là lúc đức tin làm cho tôn giáo ‘mất niềm vui’, khi con người dùng danh nghĩa đạo đức để chất gánh nặng lên vai người khác. “Càng đặt ra nhiều luật lệ để thay thế cho tình yêu, ta càng xa rời Thiên Chúa!” – A. W. Tozer.
Vậy mà “Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tuỳ theo việc họ làm” – bài đọc một; “Lạy Chúa, Ngài theo tội phúc mà thưởng phạt mỗi người!” – Thánh Vịnh đáp ca. Vì thế, chính Chúa sẽ xét xử những người cầm cân nẩy mực nặng hơn. “Công lý của Thiên Chúa không chậm trễ; Ngài chỉ đang kiên nhẫn!” – Peter Kreeft.
Chúa Giêsu – như một chàng rể – đến loan báo một Tin Mừng ban niềm vui, sự tươi mới và sức sống của Thánh Thần. Ngài loan báo triều đại Thiên Chúa, một triều đại xót thương, tìm kiếm, chữa lành, băng bó và ăn mừng. Ngài đến, công bố năm hồng ân: người nghèo được loan Tin Vui, kẻ bị giam cầm biết họ được tha. Vì thế, nếu niềm tin Kitô trở thành gánh nặng bởi lề luật, thì cách nào đó, nó đã đánh ‘mất niềm vui’, và đánh mất cả bản chất của Phúc Âm. “Kitô giáo không phải là một đám tang, nhưng là điệu vũ của sự phục sinh!” – Karl Barth.
Anh Chị em,
“Các người chất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi!”. Khi Kitô giáo biến thành gánh nặng, nó đã đánh mất Chúa Kitô. Ngài không đến để chất thêm gánh nặng, nhưng để gỡ bỏ xiềng xích sợ hãi và tội lỗi. Tình yêu của Ngài không áp đặt, chỉ mời gọi; không đè nặng, chỉ nâng lên. Những ai “chất gánh không gánh nổi” lên vai người khác, kỳ thực, cũng đang tự trói buộc mình vào những gánh nặng vô hình của kiêu ngạo và định kiến. “Chủ nghĩa duy luật là nghệ thuật biến Tin Mừng thành gánh nặng!” – John Stott. Tin Mừng là hơi thở tự do của Thánh Thần; ai đón nhận Thần Khí thì bước đi nhẹ nhàng, dù đường thập giá có gập ghềnh, lòng vẫn an vui.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, cứu con khỏi thói nhân danh luật lệ mà quên mất thương xót. Đừng để con lạm dụng uy tín, quyền lực để chất thêm những gánh vốn sẽ tỳ đè người khác!”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
******************************************************
Lời Chúa Thứ Tư Tuần XXVIII Thường Niên, Năm Lẻ
Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu ! Khốn cho cả các người nữa, hỡi các nhà thông luật.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 11,42-46
42 Khi ấy, Đức Giê-su nói : “Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu ! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương, và đủ thứ rau cỏ, mà xao lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa. Các điều này phải làm, mà các điều kia cũng không được bỏ. 43 Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu ! Các người thích ngồi ghế đầu trong hội đường, thích được người ta chào hỏi ở nơi công cộng. 44 Khốn cho các người ! Các người như mồ mả không có gì làm dấu, người ta giẫm lên mà không hay.”
45 Một người trong số các nhà thông luật lên tiếng nói : “Thưa Thầy, Thầy nói như vậy là nhục mạ cả chúng tôi nữa !” 46 Đức Giê-su nói : “Khốn cho cả các người nữa, hỡi các nhà thông luật ! Các người chất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn chính các người, thì dù một ngón tay cũng không động vào.”
CÁC TÔNG ĐỒ ĐÃ SỐNG VÀ CHẾT NHƯ THẾ NÀO SAU KHI CHÚA VỀ TRỜI?- Trần Mỹ Duyệt
Trần Mỹ Duyệt
Trong những ngày đầu của biến cố Tin Mừng, Chúa Giêsu đã đích thân tuyển chọn 12 người để cộng tác với Ngài. Thánh Luca ghi lại: “Trong những ngày ấy, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm, Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là Tông đồ: Ðó là Simon, mà Người đặt tên là Phêrô, và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là Nhiệt Thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariot là kẻ phản bội” (Lk 6:12-16). Vậy “các tông đồ đã sống và chết như thế nào sau khi Chúa về trời?”
Thánh Kinh ghi lại, sau khi Chúa Giêsu chịu chết, sống lại và về trời, đặc biệt, sau ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống thì đời sống của các Tông Đồ đã thay đổi hoàn toàn. Các ông không còn rụt rè, nhút nhát, sợ sệt, nhưng đã mạnh dạn, can đảm ra đi để làm chứng nhân cho Tin Mừng. Sách Tông Đồ Công Vụ kể rằng sau khi Chúa Giêsu về trời, các Tông Đồ trở lại Giêrusalem và cầu nguyện 10 ngày như Ngài đã căn dặn (Acts 1: 4), để nhận lãnh Thánh Thần. Và lịch sử của Giáo Hội đã khai mở sau biến cố lễ Ngũ Tuần (Acts 2:1- 4).
Nhưng ngoài những gì được ghi trong các Phúc Âm, trong Tông Đồ Công Vụ, trong các Thánh Thư, đặc biệt là những thư của Thánh Phaolô, chúng ta biết rất ít về số phận các ông, mặc dù chúng ta vẫn tin rằng các ông đã đi rất xa để rao giảng Tin Mừng cho muôn dân (Mk 16:15), và đã sống và đã chết như những chứng nhân cho Tin Mừng mà các ông rao giảng. Sau đây là tóm lược lịch sử truyền giáo và những cái chết của các ông, theo thứ tự danh sách các Tông Đồ đã được Phúc Âm Thánh Luca ghi lại. Thêm vào danh sách đó là Phaolô (Tông Đồ Dân Ngoại) do Chúa Giêsu chọn trên đường đi Damas, và Matthias thay thế Giuđa Iscariot.
1.Simon/Phêrô – Quê ở Bethsaida gần biển Galilee.
Xuất thân ông là một ngư phủ chuyên nghiệp. Cha của ông cũng là ngư phủ chuyên nghiệp tên là Jona. Ông có người em là Andrê cũng là Tông Đồ trong nhóm 12 được Chúa Giêsu tuyển chọn. Căn nhà ông ở tại Capernaum vào thế kỷ thứ 5 người ta đã xây một thánh đường bao trên đó.
Sau 3 năm theo Thầy, và sau khi Chúa về trời, ông khởi đầu sứ vụ bằng bài giảng ngay trong ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống (Acts 2). Một bài giảng gây tiếng vang, và đã thu hút 3000 người xin chịu phép Rửa cùng ngày. Ông chuyên chú vào người Do Thái, khác với Phaolô nhắm tới dân ngoại. Sau nhiều lần bị giam giữ tại Giêrusalem ông đã tới Rôma với Máccô thư ký của ông. Máccô đã biên Phúc Âm thứ nhất theo lời giảng của ông. Phần cá nhân, ông cũng viết 2 thư xuất hiện trong Tân Ước.
Ông được Chúa Giêsu đổi tên là Cephas (Phêrô) do lòng nhiệt thành của ông. Phêrô cũng là tên mà Chúa Giêsu nhắm tới việc xây dựng Giáo Hội của Ngài trên ông. “Con là Cephas nghĩa là đá, trên đá này Thày sẽ xây Giáo Hội Thầy” (Mt 16:18). Irenaeus (c.180A.D) dựa theo truyền thống cho rằng Phêrô và Phaolô đã xây dựng Giáo Hội ở Rôma. Ông là vị Giáo Hoàng tiên khởi của Hội Thánh Công Giáo.
Phêrô, theo Phaolô ghi lại trong thư gửi giáo đoàn Galatians, thì cũng đã một lần viếng thăm Antioch (Gal 2:11) và có thể ở Corinth (1 Cor 1:12). Cũng trong Tông Đồ Công Vụ, ông đã giảng đạo cho Cornelius ở Caesarea. Người đầu tiên được ông hướng dẫn mà không phải Do Thái (Acts 10).
Ông bị hoàng đế Rôma là Nero đã ra lệnh giết năm 66 AD, sau 33 năm Chúa về trời. Ông bị đóng đinh ngược và được an táng dưới hầm vương cung thánh đường Thánh Phêrô hiện nay ở Rôma, nơi ông đã lãnh phúc tử đạo.
- Andrê – Ngư phủ từ Galilee, em của Phêrô.
Nguyên thủy ông là môn đệ của Gioan Tẩy Giả (Mk 1:16-18). Sau khi cùng anh là Phêrô bỏ nghề chài lưới theo Chúa Giêsu, ông thuộc số những tông đồ đầu tiên của Ngài.
Ông giảng đạo cho người Scythians và Thracians. Bị đóng đinh và an táng tại Patrae (Hy Lạp). Theo Hippolytus, Andrê giảng đạo tại Georgia/Bulgaria ngày nay, phần đất nối liền với Hắc Hải gần Thổ Nhĩ Kỳ. Ông bị đóng đinh tại Achaia. Cũng có tài liệu cho rằng ông bị treo trên một cây Olive tại Patrae, thành Achaia, Hy Lạp. Eusebius trong lịch sử của Giáo Hội đã dùng tài liệu của Origen xác định rằng Andrê giảng đạo tại Scythia. Trong Chronicle of Nestor thêm rằng, ông giảng đạo dọc theo Hắc Hải (Black Sea) và sông Dnieper tới mãi tận Kiev, và từ đó di chuyển đến Novgorod. Do đó, ông trở thành Bổn Mạng của nước Ukraine, Romania và Nga. Ông lập tòa ở Byzantium (Constantinople và Istanbul) năm 38 AD, mà sau này biến thành tòa thượng phụ Constantinople, và đã đặt Stachys là Giám Mục. Cả ông và thánh Stachys đều được coi là quan thầy của Tòa Thượng Phụ Constantinople.
Ở những tài liệu khác, cái chết của ông được miêu tả là bị đóng đinh ở Patras (Patrae) thuộc Achaea. Công Vụ của Andrê (Acts of Andrew) như Gregory of Tours lại cho rằng ông bị trói vào một loại thập giá gọi là thập giá Latin có hình chữ X. Nhưng theo Dorman Newman nhà sử học thuộc thế kỷ 15, là thì khi ở Patras thuộc đông Hy Lạp năm 69 AD, vị Tổng Đốc Rôma là Aegeates ở đây đã tranh luận với ông về tôn giáo. Aegeates đã cố gắng thuyết phục Andrê từ bỏ Kitô giáo để tránh bị tra tấn và xử hình. Cuối cùng ông bị đánh đòn và sau đó bị đóng đinh. Ông đã sống thoi thóp trên thập giá 2 ngày, và không ngừng rao giảng Tin Mừng cho những người qua lại. Tại Hy Lạp gần Ethiopia vẫn còn dấu tích ngôi mộ của ông.
Ngoài ra, Scots cũng cho rằng Andrê đã đến giảng đạo tại Picts (vì vậy họ dùng cây thập giá của Thánh Andrê trên quốc kỳ của họ).
- Giacôbê – Con của Zebedee người làng Bethsaida.
Ông và em là Gioan là anh em họ với Chúa Giêsu. Để phân biệt với Giacôbê con ông Alphaeus, ông được gọi là Giacôbê Cả. Tên của ông không rời xa tên em ông là Gioan trong Mk 1:19-20; Mt 4:21, và Lk 5:1-11. Ông là Tông Đồ đầu tiên tử đạo năm 44 AD.
Là ngư phủ sinh sống quanh Bethsaida, Capernaum và Giêrusalem. Ông cùng em đã bỏ chài lưới đi theo Chúa Giêsu khi Ngài gọi hai ông, lúc cả hai đang vá lưới dưới thuyền với cha mình. Ông và em ông được Chúa Giêsu đặt cho biệt danh là con sấm sét.
Rao giảng tại Giuđêa và bị quận vương Herod Agrippa chém đầu và được an táng ở Giuđêa (Acts 12:2). Hippolytus xác nhận cái chết của Ông. Eusebius đã diễn tả chi tiết hơn: Đầu tiên là Stêphanô bị ném đá, rồi tiếp đến là Giacôbê bị chém đầu.
Lý do ông bị chết vì Herod Agrippa, quận vương mới của Judea muốn chứng tỏ mình trung thành với người Rôma bằng cách bắt bớ những thủ lãnh các tôn giáo. Sau khi Giacôbê bị bắt và bị dẫn đi hành hình, người tố cáo ẩn danh ông đã xúc động do lòng can đảm của ông, nên không những đã xin theo đạo, mà còn xin được chết chung cùng với Giacôbê. Đề nghị đã được chấp thuận và cả hai đã bị chém đầu.
- Gioan – Con ông Zebedee, em của Giacôbê.
Ông và anh mình được Chúa Giêsu đặt cho biệt danh “Boanerges”, có nghĩa là con Sấm Sét, khi hai ông xin Chúa cho lửa bởi trời xuống thiêu hủy dân làng Samaritan vì đã không đón tiếp Ngài (Lk 9:51-54), và tham vọng do mẹ của hai ông muốn sắp xếp chỗ ngồi bên phải, bên trái Chúa cho hai ông (Mk 10:35-37). Nhưng ông cũng là người được Chúa Giêsu yêu cho dựa đầu vào ngực trong bữa tiệc ly, và trối Đức Mẹ lại trước khi Ngài tắt thở trên thập giá: “Này là mẹ con” (Jn 19:24-27).
Theo Hippolytus, trong cuộc bách hại của Domitian và giữa năm 90, ông bị lưu đày qua đảo Patmos. Bị lưu đày tại đảo Patmos, nhưng ông qua đời ở tuổi già tại Ephesus khoảng 100 AD. Ông viết Phúc Âm và viết 3 lá thơ. Cũng trong thời gian ở đảo Patmos, ông đã viết sách Khải Huyền là cuốn sau cùng chấm dứt bộ Tân Ước.
Ông là đầu của giáo hội tại Ephesus, và được diễm phúc phụng dưỡng Đức Maria, Mẹ của Chúa Giêsu. Theo truyền thống Latin, trước đó ông được cho là đã thoát khỏi vạc dầu sôi sau khi bị vứt vào đó tại Rôma.
- Philip – Quê làng Bethsaida.
Là một trong số những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Sau này truyền giáo ở Phrygia, Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey). Ông bị đánh đòn, bỏ vào ngục và bị ném đá năm 80 AD tại Hierapolis, Thổ Nhĩ Kỳ.
Philip là người thứ sáu trong số 12 Tông Đồ được Chúa Giêsu tuyển chọn (Jn 1:43). Liền sau khi trở thành môn đệ Chúa, ông đã đi giới thiệu Chúa Giêsu cho Nathanael (Bartholomew). Khi khi thấy Nathanael ngần ngại, nghi ngờ, ông đã bảo bạn mình: “Hãy tới mà xem” (Jn 1:46). Ông đã được Phúc Âm nhắc đến ở biến cố Chúa làm phép lạ bánh hóa nhiều, khi Ngài muốn thử xem ông phải làm gì (Jn 6:5-6). Phúc Âm cũng nói đến việc những người Hy Lạp Do Thái trong dịp lễ Vượt Qua (Passover) tại Giêrusalem nhờ ông giới thiệu họ với Chúa Giêsu (Jn 12:20-22). Nhưng xúc động nhất là câu hỏi của ông trong Bữa Tiệc Ly, khi đó ông xin Chúa Giêsu cho được thấy Chúa Cha (Jn 14:8-11).
Tông Đồ Công Vụ ghi, sau khi Chúa về trời ông đã tới Samaria rao giảng Tin Mừng và thực hiện những phép lạ (Acts 8:4-6). Ông đã cải đạo được cho Simon phù thủy (Acts 8:9-13). Trong khi nhận được lời truyền từ thiên thần, ông đã đi gặp một người Ethiopia tại Gaza, vị hoạn quan quyền thế dưới quyền hoàng hậu Candace, và đã rửa tội cho ông này (Acts 8:26-39). Sau cùng ông sống tại Caesarea (Acts 21:8). Cũng theo Tông Đồ Công Vụ, ông có 4 người con gái sống đời đồng trinh và đã được ơn nói tiên tri (Acts 21:9).
- Bathôlômêô/ Nathanael – Người Cana, Galilee.
Trong Lịch Sử Hội Thánh của Eusebius, sau khi Chúa về trời, Barthôlômêô (Nathanael) sang truyền giáo tại Ấn Độ. Cũng có một truyền thuyết khác nói rằng ông đã truyền rao Tin Mừng tại Ethiopia, Mesopotamia, Parthia, và Lycaonia. Nhưng phần đông vẫn cho rằng ông giảng đạo tại Ấn Độ, và sau này đến Greater Armenia.
Cũng theo truyền tụng đại chúng của người Armenians, Tông Đồ Jude (Thaddaeus) là người đầu tiên đến truyền giảng Tin Mừng trong vùng này từ năm 43-66 AD. Năm 60 AD, Barthôlômêô mới đến cùng truyền đạo với ông. Khi đến đây, ông mang theo Phúc Âm của Mátthêu và đã dịch Phúc Âm này sang tiếng địa phương. Barthôlômêô tử đạo tại Albanopolis, Armenia năm 68 AD.
Có nhiều tài liệu khác nhau nói về cái chết của ông. Một số cho rằng ông bị chém đầu. Một số khác lại cho rằng ông bị lột da sống và chịu đóng đinh ngược đầu do lệnh truyền của Astyages. Lý do vì ông đã cải đạo Polymius em của Astyages, vua xứ Armenia.
- Mátthêu/Lêvi – Con của Alphaeus.
Là con của Alphaeus, vì thế ông bị cho là anh em với Giacôbê Trẻ. Trước khi được Chúa gọi, ông là người thu thuế ở Capernaum. Ông được Thánh sử Máccô gọi là Lêvi (Mk 2:14), trong khi đó, Phúc Âm Thánh Luca gọi ông Mátthêu thu thuế, và ở Phúc Âm của mình tên ông viết là Mátthêu. Theo tiếng Do Thái, Mátthêu có nghĩa là “quà tặng của Jehovah”.
Ông viết Phúc Âm cho người Do Thái. Với mục đích viết Phúc Âm cho người Do Thái, nên Phúc Âm của ông được viết bằng tiếng Do Thái. Ông chết tại Hierees, một thành của Parthia (Iran). Eusebius coi ông là giám mục Papias của Hierapolis, trước năm 110 A.D.
Cũng có truyền thống cho rằng, ông giảng đạo và bị tử đạo tại Ethiopia. Ông bị đâm sau lưng bằng lưỡi đòng do một tên hành quyết được vua Heraclius cử tới bởi vì ông đã phê bình đời sống luân lý của vua.
- Thomas – Ngư phủ, người Galilee.
Ông rao giảng Tin Mừng cho người Parthians/Medes/Hyrcanians (Iran), Bactrians (Afghanistan). Tử đạo bằng 4 mũi đòng đâm vào người. Ông đã bị 4 người lính dùng giáo đâm chết tại Mylapore, Ấn Độ ngày 21 tháng 12 năm 72 AD.
Thomas cũng gọi là Didymus. Có thể là một ngư phủ, thường được nhớ như Thomas đa nghi. Trong lúc Chúa Giêsu nói với các Tông Đồ tại Bữa Tiệc Ly, ông đã thẳng thắn hỏi Chúa: “Lạy Chúa, chúng con không biết Chúa đi đâu, thì làm sao biết được đường” (Jn 14:5). Cũng trong Tin Mừng của Thánh Gioan (20:25), khi nghe các Tông Đồ nói đã nhìn thấy Chúa sống lại, ông đã thẳng thừng từ chối, và cho rằng chỉ khi nào ông nhìn những vết đinh nơi tay Chúa, và thọc tay vào cạnh sườn Ngài, ông mới tin.
Nhưng Chúa đã thỏa mãn sự nghi ngờ của ông và qua đó, chúc lành cho mọi người sau này không được diễm phúc nhìn thấy Ngài như ông nhưng vẫn tin: “Tôma vì con đã thấy thầy và đã tin. Nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin” (Jn 20:29). Cũng do thái độ hoài nghi của ông mà sau này mới được biết về cái chết và việc Đức Mẹ về trời cả hồn lẫn xác.
Theo Hippolytus, Thomas là một nhà rao giảng nhiệt thành. Ông được biết là đã rao giảng Phúc Âm cho người Parthians (Iran), Medes (Iran), Persians (Iran), Hyrcanians (Iran), Bactrians (Afghanistan), và Margians. Ông có lẽ năng động nhất ở đông Syria. Sử sách cũng ghi lại, ông đã giảng dạy mãi xa tận Ấn Độ, đã tử đạo trên ngọn “Đồi Lớn” gần Madras, và đã để lại một cộng đoàn ở đó cho đến khi người Bồ Đào Nha tới.
- Giacôbê – Con của Alphaeus.
Ông không phải là con của Zebedee, và do đó, ông cũng không phải là anh em với Gioan. Tên của ông được xuất hiện trong Mt 10:1-3, Mk 3:14-19, Lk 6:13-16, và Acts 1:13. Mẹ của ông là Maria, một trong những phụ nữ ra viếng mộ Chúa Giêsu và thấy mộ trống vào buổi sáng Phục Sinh. Ông được gọi là Giacôbê Trẻ hay Giacôbê Hậu để phân biệt với Giacôbê Tiền hay Giacôbê Cả là anh của Gioan.
Cũng vì cha ông là Alphaeus, nên ông thường bị cho là anh em với Mátthêu.
Sau khi Chúa về trời, ông truyền rao Tin Mừng trong phạm vy Giêrusalem. Ông là một trong những vị Tông Đồ sống lâu nhất, có lẽ còn hơn cả Gioan. Ông qua đời năm 94 tuổi. Trước hết bị đánh đòn, và bị ném đá, sau đó bị đánh vào đầu bằng một cây gậy. Tuy nhiên, theo Hippolytus, thì ông bị người Do Thái ném đá tại Giêrusalem. Và ông được mai táng bên cạnh đền thờ năm 62 AD.
- Simon Nhiệt Thành – Con của Clopas.
Ông đến từ Cana và vì thế cũng được gọi là Simon người Canaanite, hoặc Simon Nhiệt Thành (nhưng không thuộc những người Do Thái nhiệt thành chống lại người Rôma). Ông là con của Clopas. Theo Hippolytus, ông là Giám Mục thứ hai của Giêrusalem kế vị Giacôbê. Thánh Demetrius thành Rostov đã xác nhận ông là Giám Mục thứ hai của Giêrusalem.
Ông qua đời hưởng thọ 120 tuổi. Ông được an táng tại Giêrusalem. Theo tài liệu thì ông đã bị đóng đinh như vị Giám Mục của Giêrusalem sau khi giảng Phúc Âm tại Samaria. Một tài liệu khác lại cho rằng khi truyền giáo tại Persia, ông đã bị cưa đôi vì từ chối không dâng lễ vật cho thần mặt trời.
Tuy nhiên nơi ông rao giảng Tin Mừng và cái chết của ông không được rõ ràng. Có tài liệu nói là ông đã giảng đạo tại Anh. Tài liệu bằng tiếng Hy Lạp thì cho rằng ông giảng đạo tại Hắc Hải (Black Sea), Ai Cập, và Bắc Phi. Nhưng theo tài liệu Latin “Passio Simonis et Judae”, ông truyền giáo tại Persia, và tử đạo tại Suanir. Nơi an táng của ông không được ghi lại. Sau khi giảng đạo tại Ai Cập, ông và Giuđa (Thaddaeus/Judas) được cho là đã cùng nhau đến giảng đạo tại Persia và Armenia, hoặc Beirut, Lebanon. Cả hai cùng tử đạo năm 65 AD.
Giáo Hội Tây Phương kính ông cùng với Jude (Thaddaeus). Ngược lại, ở Đông Phương hai ngài được kính riêng. Ông là bổn mạng những người thuộc da.
11.Thaddaeus/Judas – Con của Giacôbê.
Rao giảng Tin Mừng tới Edessa gần sông Euphrates và chung quanh khu vực Mesopotamia (Iraq, Syria, Turkey, Iran). Qua đời năm 72 AD. Ông bị bắn bằng tên tại Ararat.
Thánh Giêrônimô gọi Judas là “Trinomious” có nghĩa là người có 3 tên. Trong Máccô 3:18 ông được gọi là Thaddeus. Trong Matthêu 10:3, ông được gọi là Lebbeus. Và tên Thaddeus (Trái tim được sưởi ấm). Còn trong Luca 6:16 và Tông Đồ Công Vụ 1:13, ông được xem như Juda anh em của Giacôbê.
Theo Hippolytus, sau khi Chúa về trời, ông ra đi rao giảng Tin Mừng cho người ở Edessa (bên trên Mesopotamica) và cả vùng Mesopotamia. Qua đời tại Berytus (Lebanon, gần Syria và Thổ Nhĩ Kỳ), và được an táng tại đó.
Trong Tân Ước, ông đã hỏi Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly, “Tại sao Chúa chỉ tỏ mình cho chúng con mà không cho thế giới” (Jn 14:22). Qua câu hỏi này ông muốn cho mọi người được biết Chúa Kitô.
- Matthias – Thay thế Giuđa Iscariot.
Theo tiếng Hy Lạp, Matthias có nghĩa “Ân huệ của Giavê”. Ông là một trong 70 môn đệ theo Chúa Giêsu từ đầu, lúc Ngài chịu phép rửa bởi Gioan Tiền Hô trên sông Jordan cho đến khi Ngài về trời (Acts 1:21-22). Sau khi Chúa về trời, Phêrô đã triệu tập 11 Tông Đồ trên căn thượng lầu và đã bỏ phiếu giữa Matthias và Giuse còn gọi là Joseph Barsabbas, người có tên họ là Justus. Matthias được chọn thay thế cho Giuđa Iscariot để nâng con số các Tông Đồ thành 12, nhưng ông là Tông Đồ không do chính Chúa Giêsu tuyển chọn.
Ông được coi là đã tới Syria cùng với Andrê. Theo Nicephorus (Historia eccl., 2, 40), Matthias đầu tiên giảng Tin Mừng ở Judea, rồi sau đó ở Ethiopia (miền Colchis, thuộc Georgia ngày nay), và bị ném đá chết.
Một truyền thống khác cho rằng ông bị người Do Thái ném đá tại Giêrusalem, sau đó bị chém đầu. (cf. Tillemont, Mémoires pour servir à l’histoire ecclesiastique des six premiers siècles, I, 406-7). Cũng theo Hippolytus, Matthias chết ở Giêrusalem năm 80 AD. Ông là Giám Mục Giêrusalem. Và một truyền thống khác cho rằng ông đã rao truyền Phúc Âm trên bờ biển Caspian và Cappadocia.
Liên quan đến cuộc sống và cái chết của ông, theo Nicephorus (Lịch Sử Giáo Hội II.40), đầu tiên ông rao giảng Phúc Âm ở Judea, rồi tới Ethiopia, và ông bị đóng đinh. Nhưng theo Dorotheus thì Matthias rao giảng Tin Mừng cho những người man khai, mọi rợ ở trong Ethiopia, và hải cảng biển Hyssus tại cửa sông Phasis. Ông qua đời tại Sebastopolis, và được an táng gần Đền Thờ Mặt Trời. Thánh Helena đã đem hài cốt của ông về Rôma.
- Phaolô – Tông Đồ Dân Ngoại.
Được Chúa Giêsu gọi khi ông đang trên đường ông đến Damas bắt các Kitô hữu. Ông có tên là Saul (Saulê). Ông sinh năm c.5 AD. Tại Tarsus, Cilicia thuộc Đế Quốc Rôma, ngày nay là Mersin, Thổ Nhĩ Kỳ. Ông tử đạo năm c. 64/65 AD., tại Roma, Ý, trong Đế Quốc Roma. Vương Cung Thánh Đường Thánh Phaolô Ngoại Thành được xây trên nơi ông đã bị chém đầu.
Phaolô bị chặt đầu bằng gươm, vì ông có quốc tịch Rôma. Ông bị hành hình dưới thời hoàng đế Neron năm 33 AD. Cuộc đời của Phaolô, ơn gọi đặc biệt của ông, việc trở lại diệu kỳ của ông, hành trình truyền giáo của ông, cũng như những tư tưởng phi thường của ông đã được ghi rõ trong Tông Đồ Công Vụ và các thư do ông viết trong Tân Ước.
——————————————
Tài liệu tham khảo
– Ken Curtis, Ph.D.
Church History Timeline
6000-1 BCAD 1-300301-600601-900901-12001201-15001501-16001601-17001701-18001801-19001901-20002001-Now
– Hippolytus of Rome – Birth unknown, died around 236 AD.
– Eusebius – Was the Bishop of Caesarea in Palestine, known as the “Father of Church History” because he wrote about the church history. Lived around 260-341 AD.
– https://en.wikipedia.org/wiki/Paul_the_Apostle
TRÓI BUỘC – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế
“Thật là ngốc!”.
Kính thưa Anh Chị em,
Thật khó để tưởng tượng Chúa Giêsu gọi ai đó là “ngốc”, nhưng thực sự, trong Tin Mừng hôm nay, Ngài đã nói như thế với một biệt phái. Với ông, luật thay vì giải thoát, lại ‘trói buộc’ và làm cho người ta ra ngốc nghếch!
Người biệt phái mời Chúa Giêsu dùng bữa; và ông trách Ngài không rửa tay. Nhân cơ hội này, Ngài cho biết, ông ấy giả hình; ông “theo ‘tôn giáo trang điểm’, giả vờ xuất hiện theo một cách thức ‘vui mắt’ nào đó, đang khi bên trong – như Ngài nói – là ngôi mộ đầy xương người chết và mọi thứ ô uế!” – Phanxicô.
Lời Chúa chất vấn chúng ta về những gì có thể ‘trói buộc’ đời sống mình. Nhiều khi, chúng ta vô tình biến điều sai trái thành ‘giá trị’, chỉ để che giấu tội kiêu ngạo, ích kỷ và tự phụ. Tệ hơn, chúng ta cố ‘phổ quát hoá’ những lệch lạc ấy, biến đạo đức thành một sự điều chỉnh cho phù hợp xu hướng xã hội, miễn sao không bị lạc lõng hay bị loại trừ. Và như thế, dù giá phải trả là sự tăm tối của tâm hồn, chúng ta vẫn tự trấn an, “Ai mà chẳng như thế!”. “Chúng ta đã học cách mài giũa thói xấu của mình cho đến khi chúng sáng lên như nhân đức!” – Søren Kierkegaard.
Phaolô mạnh mẽ tố cáo thái độ biệt phái này. Họ là “Những người lấy sự bất chính mà giam hãm chân lý” – và quyết liệt hơn cả Chúa Giêsu – “Đầu óc họ suy luận viển vông và tâm trí ngu si của họ hoá ra mê muội. Họ khoe mình khôn ngoan, nhưng đã trở nên điên rồ!” – bài đọc một. “Khi đạo đức bị uốn cong cho hợp tiện nghi, thì sự thật là điều đầu tiên bị hy sinh!” – C. S. Lewis.
Thế kỷ XVIII, triết gia người Pháp – Jean-Jacques Rousseau như một hiện tượng. Ông kiêu ngạo đến mức thách thức, “Trước nhan Chúa, ai dám nói, ‘Tôi tốt hơn Rousseau!’”. Trước khi chết, ông tự tôn, “Ôi hạnh phúc! Một người không có lý do gì để hối hận hay tự trách mình!”; “Tôi trả lại linh hồn trong sáng cho Chúa như khi nó xuất phát từ Ngài; hãy để nó hạnh phúc với Ngài!”. Trong các tác phẩm, ông cổ vũ ngoại tình, tán dương tự tử. Hơn hai mươi năm sống xa hoa, ngông cuồng và duy ngã, những đứa con ngoài giá thú của ông đều bị vứt bỏ nơi viện mồ côi. Ông trở thành biểu tượng của một con người phô trương, bội bạc, giả hình và phạm thượng!
Anh Chị em,
“Thật là ngốc!”. Hẳn Chúa Giêsu sẽ nói với Jean-Jacques Rousseau và cũng có thể nói với bạn và tôi như thế. Hãy lắng nghe, đừng cảm thấy xúc phạm! Đó là những lời yêu thương nhất. Chúa Giêsu muốn chúng ta làm sạch chiếc cốc tâm hồn. Hãy để những lời này tiết lộ những gì cần ‘tháo cởi’. Đó có thể là lòng kiêu hãnh vốn đã làm chệch hướng và ‘trói buộc’ các thực hành nội tâm và cách giữ luật Chúa. “Sự thật khó đối diện nhất là sự thật lột mặt nạ những ‘nhân đức’ của ta!” – Thomas Merton. Đừng làm ngơ; hãy mở lòng và khiêm tốn đón nhận! Nhờ đó, bạn và tôi trở nên công chính và có thể cùng “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa” – Thánh Vịnh đáp ca!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, nếu hôm nay con nghe Chúa nói, “Thật là ngốc!”, cho con biết mỉm cười đáp lại, ‘Vâng, con ngốc thật; nhưng ít ra con vẫn còn đủ khôn để nghe Ngài!’”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
***************************************
Lời Chúa Thứ Ba Tuần XXVIII Thường Niên, Năm Lẻ
Hãy bố thí thì mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 11,37-41
37 Khi ấy, Đức Giê-su đang nói, thì có một ông Pha-ri-sêu mời Người đến nhà dùng bữa. Tới nơi, Người liền vào bàn ăn. 38 Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu lấy làm lạ vì Người không rửa tay trước bữa ăn. 39 Nhưng Chúa nói với ông ấy rằng : “Này, nhóm Pha-ri-sêu các người, bên ngoài chén đĩa, thì các người rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà. 40 Thật là ngốc ! Đấng làm ra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao ? 41 Tốt hơn, hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các người.”

